Trót sanh ra trong thời loạn lạc nhơn tâm điên đảo, thời thế quay cuồng, âu ũng là do hạnh hèn
phước mỏng, vắng bóng lời vàng tiếng ngọc, xa ánh đèn thiêng liêng rọi bước. Mọi thứ chi chi cũng phải tự
tu học qua kinh sách để lại.
Sau khi đọc qua
một ít tài liệu về đạo, về Đức Hộ Pháp, tiểu đệ mạo muội bỏ chút công hèn mọn mà tom góp những điều hay
lẽ đẹp lại thành quyển sách nầy. Hầu trước là để chư hiền huynh, chư hiền tỷ giải khuây sau những giờ bon chen mệt mỏi với trường đời. Sau là để chư hiền huynh, chư hiền tỷ có thêm chút kiến thức, thảng như ai chưa biết để thi thố trong trường Đại Đạo. Thiết nghĩ cũng hữu ích đó chút.
lẽ đẹp lại thành quyển sách nầy. Hầu trước là để chư hiền huynh, chư hiền tỷ giải khuây sau những giờ bon chen mệt mỏi với trường đời. Sau là để chư hiền huynh, chư hiền tỷ có thêm chút kiến thức, thảng như ai chưa biết để thi thố trong trường Đại Đạo. Thiết nghĩ cũng hữu ích đó chút.
Tuy là phận hậu
bối hàng vô danh tiểu tốt, mọi thứ chỉ đều học lại từ sách vở của các bậc tiền
bối đi trước, tiểu đệ thật không dám múa rìu qua mắt thợ, tài hèn chế giễu
chuyên gia. Nhưng tiểu đệ cũng tự hiểu được bổn phận của một người giữ đạo chơn
chánh. Tiền nhơn hữu ngữ: " Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ
", tiểu đệ đây xin đóng góp một hạt cát nhỏ nhoi vào cái sa mạc mênh
mông tri thức của nền Đại Đạo. Trước là để tự tạo động lực tìm tòi kinh sách,
góp chút kiến thức cho gia quyến, sau là chia sẻ cùng chư huynh tỷ đệ muội đồng
môn. Thảng như được vậy thì cũng đã phù hạp với sỡ vọng của Đức Chí Tôn từ buổi
ban sơ mở đạo:
" Các
con phải đồng tâm hiệp lực cùng nhau, bỏ hết các điều tệ theo thường tình, thì
mới dễ thành Đạo. Vậy Thầy khuyên các con đứa nào có trí lực bao nhiêu khá đem
ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng cái điểm linh
quang của Thầy ban cho các con lắm." - TNHT, Quyển 1.
Tiểu đệ chỉn
luôn thành tâm khẩn nguyện Đức Chí Tôn, Phật Mẫu, và các Đấng thiêng liêng hằng
ban ơn lành cho nền Đại Đạo, xoay chuyển mối Thiên thi để đạo quyền khởi phục,
tế độ nhơn sanh gầy đời Thánh Đức.
" Bố hóa người đời gây mối đạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng nào Đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần."
Con cái Đức Chí
Tôn toàn quyền sử dụng nội dung trong quyển sách nầy.
Tiểu đệ cẩn bút,
* Duy Hòa.
" Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ,
Pháp luân thường chuyển mối Thiên cơ.
Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi vị,
Quản suất Càn Khôn định cõi bờ.
Nhị kiếp Tây Âu cầm máy tạo,
Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ.
Hình hài Thánh thể chừ nên tướng,
Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ. "
* Giáo Tông Lý Thái Bạch.
Thuở Hổn Độn khi Trời Đất mới phân ngôi thứ, trên quả địa cầu
68 nầy các đẳng chơn hồn tại mặt thế còn ngu muội, kém tiến hóa. Chính vì thế
mà Diêu Trì Kim Mẫu vâng lịnh Đức Chí Tôn tức nhiên là Đấng Tạo Hóa biến sanh vạn
vật, nhóm ngự triều Đại Hội nơi Kim Bồn phòng định 100 ức Nguyên Nhân xuống trần
đặng làm bạn với các đẳng chơn hồn trong Vạn Linh sanh chúng là con cái yêu dấu
của Ngài, thay Ngài giáo hóa, và khai mở trí thức, tinh thần cho họ.
Trước khi ấy,
Kim Mẫu kêu toàn cả Linh căn chơn tánh dự Hội Yến Bàn Đào,
ban cho mỗi vị một cái túi gọi
là Vạn Bửu Nang. Trong đó có 8 món báu là:
1 - Hiếu, 2 - Để,
3 - Trung, 4 -Tín, 5 - Lễ, 6 - Nghĩa, 7 - Liêm, 8 - Sĩ .
Và căn dặn khi
xuống trần thế rủi để mất cho dù 1 món cũng về cùng Mẹ không đặng.
Thời kỳ Thánh Đức
sơ khai Long Hoa Đại Hội, Đức Di Lạc khi ấy còn đang kiếp Tiên vị, mệnh danh là
Hoàng Cực Chủ Nhân lãnh lịnh Kim Mẫu làm chủ thuyền Bát Nhã chở các Nguyên Nhân
xuống thế. Lần đầu 24 chuyến thuyền, 2 lần sau mỗi lần 6 chuyến đúng như theo
quyển kinh thứ nhứt và thứ nhì Ngọc Lộ Kim Bàn.
Nhưng sau khi xuống
trần, các Nguyên Nhân bị nhiễm phàm tánh mà quên lời dặn dò của Kim Mẫu, để
đánh mất những món báu ấy nên không thể qui hồi cựu vị được. Đức Chí Tôn, Phật
Mẫu, và các Đấng thiêng liêng mới mở các kỳ phổ độ, chính là để độ rỗi các
Nguyên Nhân quay về.
Nếu tính từ thời
Thượng Cổ đến nay thì ở mặt thế nầy đã trải qua 2 kỳ phổ độ để độ rỗi các
Nguyên Nhân ấy qui hồi cựu vị.
Thời Nhứt Kỳ Phổ
Độ thì có:
* Nhiên Đăng Cổ
Phật khai sáng Đạo Phật.
* Thái Thượng Đạo
Quân khai sáng Đạo Tiên.
* Văn Tuyên Đế
Quân khai sáng Đạo Thánh.
Mỗi một kỳ phổ độ
đều có mở một Hội Long Hoa để điểm đạo các chơn linh Nguyên Nhân đắc đạo. Chủ hội
thời Nhứt Kỳ tức nhiên là Đấng Nhiên Đăng Cổ Phật nên mới có câu " Sơ Hội
Long Hoa Thanh Vương Đại Hội Nhiên Đăng Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn ",
điểm đạo thì chỉ có 6 ức Nguyên Nhân đắc đạo.
Thời Nhị Kỳ Phổ
Độ thì có:
* Thích Ca làm Giáo Chủ Đạo Phật.
* Lão Tử làm
Giáo Chủ Đạo Tiên.
* Khổng Tử làm
Giáo Chủ Đạo Thánh .
Sau đó 551 năm Đức
Chí Tôn mới cho Đức Chúa Jésus Christ giáng sanh, cũng vào thời Nhị Kỳ. Trong
thời kỳ nầy chủ Hội Long Hoa thì có " Nhị Hội Long Hoa Hồng Vương Đại Hội
Di Đà Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn ". Đức Di Đà làm chủ hội, điểm đạo
được 2 ức Nguyên Nhân đoạt pháp, phần nhiều là môn đồ của Lão Tử đắc đạo. Cộng
cả hai kỳ phổ độ lại chỉ có 8 ức Nguyên Nhân trở về, còn lại 92 ức luống chịu đọa
trần.
Đến thời kỳ Hạ
Ngươn mạt kiếp, Đức Chí Tôn mở Tam Kỳ Phổ Độ tức là thời kỳ qui cổ, chính mình
Đức Chí Tôn giáng trần dùng huyền diệu cơ bút lập đạo vô vi để tận độ 92 ức
Nguyên Nhân qui hồi cựu vị cũng bởi vì khi trước, Chí Tôn sai người xuống trần
mở đạo rồi giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà lập ra
phàm giáo. Nên lần nầy Người nhứt định đến chính mình Người đặng dạy dỗ mà thôi.
Người để Tam Trấn Oai Nghiêm thay mặt về vô vi cho Tam Giáo kể ra thì có:
* Quan Âm Bồ Tát
chưởng quản về Phật Giáo.
* Lý Thái Bạch
Tiên Trưởng chưởng quản về Tiên Giáo.
* Quan Thánh Đế
Quân chưởng quản về Thánh Giáo.
Nhơn thời Hạ
Ngươn nầy cũng có rất nhiều các Nguyên Nhân đã đắc đạo trong 2 kỳ phổ độ trước
cũng đến tình nguyện nơi Ngọc Hư Cung giáng trần, tái kiếp hoặc chiết ngươn
linh chịu mạng lịnh nơi Đức Di Lạc Vương Phật lo cứu rỗi 92 ức Nguyên Nhân còn
say đắm hồng trần. Kể ra sơ lược như sau:
Bát Tiên thì có:
1 . Lý Ngưng Dương
2 . Hớn Chung Ly
3 . Lữ Đồng Tân
4 . Trương Quả Lão
5 . Lam Thể Hòa
6 . Hà Tiên Cô
7 . Hàn Tương Tử
8 . Tào Quốc Cựu
Các vị Thời Quân
thì có:
* Thánh Pièrre
* Đông Phương
Sóc
* Từ Hàng Đạo
Nhơn
* Xích Tinh Tử
* Thánh Juda
* Sa Nặc
Và còn có:
* Ngự Mã Thiên
Quân
* Long Nữ, đệ tử
của Quan Âm Bồ Tát
* Nhị Lang Thần
Dương Tiễn
* Văn Thù Bồ Tát
* Ngô Tôn Quyền
* Quan Vân Trường
* Từ Giáp
* Nhan Hồi
* Francois Hugo
* Khổng Minh
* Mạnh Hoạch
.
Và các chư Thánh
ở Bạch Vân Động, 500 vị La Hán ở Tây Phương Cực Lạc.
Về phần nắm quyền
vô vi, Tam Tông Chơn Giáo thì có:
* Tây Phương
Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn
* Thái Thượng Đạo
Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn
* Khổng Thánh
Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn
Đại diện cho Tam
Giáo thì có:
* Nhứt Trấn Oai
Nghiêm Lý Đại Tiên Trưởng đại diện cho Tiên Giáo
* Nhị Trấn Oai
Nghiêm Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai đại diện cho Phật Giáo
* Tam Trấn Oai
Nghiêm Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân đại diện cho Thánh Giáo
Ngoài ra còn có:
* Gia Tô Giáo Chủ
Cứu Thế Thiên Tôn đại diện cho Thánh Giáo
* Thái Công Tướng
Phụ Quản Pháp Thiên Tôn đại diện cho Thần Giáo
Về phần phổ độ
vô vi thì có hằng hà sa số chư Phật ở các tầng trời:
* Thượng Thiên Hỗn
Ngươn
* Hội Ngươn
Thiên
* Hư Vô Cao
Thiên
* Tạo Hóa Huyền
Thiên
* Phi Tưởng Diệu
Thiên
* Hạo Nhiên Pháp
Thiên .
Thường du ta bà
thế giái tận độ chúng sanh. Bởi vì thời kỳ nầy là Hạ Ngươn mạt kiếp, là thời kỳ
tận diệt để khai Thượng Ngươn nên Chí Tôn đến mở đạo cứu rỗi con cái của Người,
hầu hết các Cung, các Động, các tầng Trời chư Phật, Tiên, Thánh, Thần đều lãnh
lịnh phổ độ trong thời kỳ nầy.
Trong quyển sách
nầy chỉ nói chủ yếu về Phạm Công Tắc, là một chiết ngươn linh của Ngự Mã Thiên
Quân. Ông cũng là một trong những Nguyên Nhân đắc đạo trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ,
sinh ra thời Phong Thần là Vi Hộ, đệ tử của Đạo Hạnh Chân Nhân. Trong thời Tam
Kỳ Phổ Độ nầy ông tình nguyện hạ thế để làm tướng soái cho Chí Tôn mở đạo về
sau đắc phẩm Thiên Phong Hộ Pháp, và là vị Giáo Chủ hữu hình của nền Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ, Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
GIÁNG SANH VÀO TIẾT ĐOAN NGỌ
Phạm Công Tắc
sanh ngày mùng 5 tháng 5 năm Canh Dần (21-9-1890), năm Thành Thái thứ 2, tại
làng Bình Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tân An trong một gia đình theo Đạo Công
Giáo. Thân sinh của ông là ông Phạm Công Thiện và bà La Thị Đường, ở làng An
Hòa, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Ông Phạm Công
Thiện là một công chức dưới thời Pháp thuộc, khi được đổi công tác đến Tân An
làm việc thì mang gia đình cùng theo. Ông Phạm Công Thiện là một người rất
thanh liêm, lòng hâm mộ đạo đức luôn luôn chủ trương dĩ đức vi trọng, thường
tích cực tham gia chống áp bức và bất công. Do đó trong giới đồng liêu không ưa
gì ông, và tìm cách đẩy ông đi xa để rồi cuối cùng là ông phải nghỉ việc, đưa
gia đình trở về quê quán ở Tây Ninh làm ăn sinh sống.
Ông Phạm Công Tắc
có tất cả 8 anh chị em ruột. Ông là con thứ tám áp út, còn một người em gái út
thứ chín nữa. Thuở thiếu thời, ông được biết đến như là một người con hiếu thảo
trong gia đình. Khi đến
tuổi cắp sách đến trường, ông được ba mẹ cho theo học chữ Nho tại trường làng,
tính bẩm sinh năng động, siêng năng học tập nên rất được lòng yêu quí của thầy
cô.
Lớn lên trong hoàn cảnh nước nhà bị lệ thuộc ngoại bang là nước Pháp, ông đã sẵn có ý thức về nỗi thống khổ của một
dân tộc vong quốc. Ông hay bày biện các cuộc chơi đánh đổ một vài nhân vật
trong lịch sử nước Pháp, khiến cho các bạn bè ái ngại và lánh xa. Sau đó ông được
đổi qua chương trình Tây học và học bậc trung học ở trường Chasseloup Laubat,
Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn tự học thêm tư tưởng Nho học và dung hợp với tư tưởng
Tây học cho phù hợp với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Đến năm 12 tuổi
thì thân phụ của ông qua đời, gia đình gặp cảnh khó khăn sa sút nên ông rấp tâm
học tập để thi đậu ra làm việc phụ giúp gia đình. Về sau Đức Chí Tôn tiết lộ
cho biết rằng thân phụ của ông, ông Phạm Công Thiện là chơn linh Ngân Hà Công Bộ
nơi thiêng liêng giáng trần.
Sau đó ông thi đậu
bằng Thành Chung. Trong thời gian đi học ông có tham gia phong trào Đông Du do
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ở Nhựt Bổn lãnh đạo, có 2 nhà cách mạng là Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh giúp sức. Để nâng cao dân trí, họ gởi các thanh niên du học
ngoại quốc, nhất là Nhựt Bổn.
Tại Sài Gòn,
phong trào Đông Du do 2 ông Gilbert Chiếu (Trần Chánh Chiếu) và Dương Khắc Ninh
lãnh đạo. Các ông thành lập các Kinh Thương Hội như Minh Tân Công Nghệ, khách sạn
Nam Trung làm nơi lưu trú hội họp cho đảng viên. Dù đang theo học năm thứ hai tại
trường Chasseloup Laubat, Ngài cũng thường lén bỏ học đến họp với các anh em.
Hai ông Gilbert
Chiếu và Dương Khắc Ninh tập họp các đảng viên chia nhiều nhóm để xuất ngoại.
Trước đó đã có 3 nhóm tới được Nhựt Bổn, tên của ông nằm trong nhóm thứ tư
nhưng sau đó phong trào nầy bị mật thám Pháp khám phá được.
Chúng đến xét
nhà ông Gilbert Chiếu và xét cơ sở Minh Tân Công Nghệ của ông Dương Khắc Ninh để
tìm danh sách và tổ chức phong trào Đông Du, nhưng ông Ninh đã lanh tay thiêu hủy
tất cả hồ sơ phi tang nên bọn chúng không có bằng chứng gì để bắt bớ. Hoàn cảnh
đất nước lúc bấy giờ hết sức sôi động. Ở triều đình Huế, vua Thành Thái bị phế,
vua Duy Tân lên kế vị nhưng rồi từ bỏ ngai vàng để hợp tác với Trần Cao Vân chống
Pháp về sau cũng bị bắt.
Sau đó mật thám
vẫn luôn chú ý theo dõi, dò xét các nhà lãnh đạo, chính ông cũng bị chúng để ý và
nhà trường lưu tâm. Buộc lòng ông phải nghỉ học về làng An Hòa, Tây Ninh tạm
tránh sự dòm ngó của mật thám. Khi tình hình êm dịu, ông lại dấn thân vào trường
tranh đấu. Lần nầy ông hoạt động cẩn thận hơn rồi thường xuyên tham gia cộng
tác viết báo với bút danh là “Tây Sơn Đạo”, như các tờ báo: Công Luật, La
Cloche Fêleé của Nguyễn An Ninh; La voix Libre, Lục Tỉnh Tân Văn của ông Pierre
Jeantet, Gilbert Chiếu làm chủ bút. Đến khi ông Chiếu bị bắt thì tờ báo cũng bị
đình bản. Ông lại về quê quyết định đi làm việc kiếm tiền nuôi mẹ, phụ giúp gia
đình. Vì những ảnh hưởng cách mạng cũng như có mối thâm tình với các tiên
Vương, về sau ông cho lập Báo Quốc Từ thờ phụng Tổ Hùng Vương, ông cũng có bôn
ba sang Nhựt rước tro Cường Để, về Sài Gòn rước linh vị Thành Thái và Duy Tân
đem thờ nơi Báo Quốc Từ.
Năm lên 17 tuổi,
ông thi đậu tốt nghiệp và quyết định ra làm việc để trả hiếu cho mẹ. Lúc đầu
ông xin làm cho hãng buôn ăn lương, nhưng sau nghe theo người anh rễ khuyên lơn
nên xin qua làm việc cho sở nhà nước. Ông xin qua làm việc cho Sở Thương Chánh
Sài Gòn.
Vào một dịp Tết ở
trước cửa đồn cập mé lộ nơi Ngài làm việc, có một nhóm người chơi bài cu di 12
lá tứ sắc, một đồng trúng 10 đồng. Người chủ sòng bài thấy Ngài liền kêu nắm
tay lôi kéo:
" Chơi
bài thầy tám. Tôi xổ thầy đặt."
Ngài mới nói:
" Thiệt chơi? "
Người chủ sòng
nói:
" Thiệt
mà, tôi thầy tám đánh."
Ngài nói:
" Đánh
thì đánh, tết mà phải hôn."
Đoạn người chủ sòng đòi xổ. Ngài đặt ngay con sĩ đỏ, tiền đặt
là 30 đồng. Ông chủ sòng thấy Ngài đặt nhiều tiền có ý lo sợ rồi đổi ý nói:
" Thôi thầy xổ
đi."
Ngài nói:
" Ừ! Cũng được."
Tiền vẫn để y nằm trên lá bài sĩ đỏ. Người đó mới nói:
"Thầy đánh, thầy xổ
cũng sĩ đỏ hả? Thầy chơi thiệt
sao?"
Ngài mới nói:
"Ông xổ tôi đánh, tôi xổ
ông đánh tôi mà, thiệt chứ đâu có chơi."
Ngài cầm 12 lá bài lên, xòe rồi rút ngay con sĩ đỏ trên tay
đưa trước mặt cho người chủ sòng. Ông ta cả kinh, chung tiền tất cả là 300 đồng
rồi không nói một lời dọn đi nơi khác luôn. Rồi Ngài có nói thêm:
" Tao vốn không ưa bài bạc, mà nó rủ rê tao cũng đánh cho nó biết
mặt."
Lúc ấy Ngài bất
mãn với thái độ của người Pháp, họ cho là dân Nam ngu dốt nên Ngài có ý phá bọn Pháp chơi.
Đương lúc làm
trưởng ban phân công công tác các đội đón trạm để kiểm soát đồ buôn lậu mà bắt.
Người dân làm nghề nầy đa số nghèo khổ, cực nhọc, vất vả họ bất chấp nguy hiểm,
liều lĩnh để kiếm sống. Thấy vậy Ngài nẩy lòng trắc ẩn rồi sinh ý nghĩ là tự
mình đến liên lạc với bọn họ và cho biết vị trí các trạm, luôn cả giờ thay đổi
để cho họ tìm lối khác mà đi tránh né hoặc tìm cách che giấu qua mặt. Lúc Ngài
gặp bọn họ để nói chuyện, họ vẫn chưa biết Ngài đương là trưởng ban tuần tra bắt
buôn lậu. Xong Ngài dặn mỗi ngày cho người tới một điểm nào đó do Ngài chỉ định,
lúc mấy giờ sẽ có người cho biết tin tức mới.
Cứ ngày nào cũng
vậy, đúng giờ đã định họ đến ngay điểm mà Ngài cho gặp.
Ngài mặc cái
rông choàng kín bít thùng thình, đầu quấn khăn bịt kín chỉ còn 2 con mắt, tay
thì cầm cây ba ton. Ngài nói:
" Tôi
vâng lịnh Đức Thủy Thủ đến chỉ thị để giúp đỡ anh em buôn bán kiếm sống, dấu hiệu
"bàn tay nắm" là mật hiệu."
Ngài nắm bàn tay làm kiểu để biết nhau và cứ như thế bọn họ nắm được thông tin nên kiếm được
khá nhiều tiền mà không khi nào bị bắt. Có chăng là những chuyến bị bắt nhỏ trá
hình để cho sự việc không làm người Pháp để ý.
Một lần nọ, Ngài
xuất hiện với một hình như cũ để chỉ điểm, những người dân buôn lậu dâng lên
cho Ngài một bọc tiền để gọi là đền ơn đáp nghĩa. Ngài quất cho mỗi người một
cây ba ton rồi nói ra lịnh: " Cấm nhặt không được làm như vậy nữa!
"
Ngài có kể lại:
" Thấy
tiền nhiều, lương ít cũng động lòng tham lắm. Nhưng lương tâm đâu cho làm vậy
được, vì làm vậy là mình lấy của họ rồi, còn gì là ân nghĩa."
Từ đó bọn họ thấy
Ngài như vậy nên rất quí trọng, họ lập bàn thờ Đức Thủy Thủ, trên bàn thờ là hình
ảnh một cái búa làm hiệu.
Một hôm Ngài dẫn
vài người bạn sang bên kia sông chơi vì Ngài biết trong xóm đó có người làm
buôn. Sang sông, đi rảo rảo dạo chơi một lúc, mua 1 con vịt rồi xách vào một
nhà để xin nghỉ trưa. Ngài nhờ người nhà nấu giùm nồi cháo vịt.
Bà chủ nhà thấy
khách vui vẻ tự nhiên, mà mình thì không bận việc gì, hơn nữa khách đã nói lời
xin khi bước vào, mình đã thuận thì khách ăn trưa mình giúp cũng được.
Trong khi chờ đợi,
mọi người đang nói chuyện thì đằng sau nhà, ông chồng người chủ nhà về, kéo xuồng
cột lại rồi vào nhà một cách thận trọng, ông chồng hỏi: " Nhà có khách
là ai vậy? Có quen biết hôn mà lại đến nhà nghỉ một cách tự nhiên vậy? "
Ông chồng tỏ vẻ
bực bội không đồng tình. Lúc ấy các bạn Ngài thấy bầu không khí có hơi ngột ngạt,
sắp nguy rồi. Riêng Ngài thì bình thường, vì ngay lúc đầu Ngài đã thấy trong
nhà có bàn thờ Đức Thủy Thủ nên mới dám tự nhiên dẫn bạn vào xin nghỉ chân. Chờ
ông chồng từ nhà sau bước lên, Ngài liền nắm bàn tay lại đưa ra y như kiểu Ngài
đã làm trong trang phục thùng thình, đầu quấn khăn kín mặt để chỉ điểm ra lịnh
cho họ biết thông tin. Ông chủ nhà thấy vậy cả kinh, đổi giận ra mừng, lại còn
hối hả sai vợ đi mua đồ thêm để đãi, còn phần nồi cháo để ông lo cho.
Buổi tiệc ấy khá
thịnh soạn và vui vẻ lạ thường, các bạn của Ngài không khỏi lấy làm lạ vì cách
đối xử của ông chủ nhà. Ông ta cứ khép nép, kính cẩn đối với Ngài và các bạn.
Các bạn Ngài có hỏi:
" Sao ổng
tôn trọng mình quá vậy? "
Ngài mới trả lời:
" Tôi
cũng không biết nữa. "
Một thời gian
sau, Ngài thấy cũng tạm khá cho cuộc sống của những người làm nghề đó. Ngài viết
thư hẹn ngày sang chơi.
Đúng ngày, Ngài
đi qua một mình. Bọn họ đã chuẩn bị trước nên đón Ngài hết sức chu đáo. Xong tiệc,
bọn họ dùng ghe đưa Ngài sang bờ, khi cặp bờ, Ngài đứng trước mũi ghe thay vì
bước lên, Ngài quay lại quơ giò đá người kế bên một cái rồi xoay người ngang
phóng vụt lên bờ coi gọn lắm. Đoạn Ngài lặng lẽ ra đi. Ngài ngụ ý cho bọn họ thấy
mình là đàn anh thứ thiệt chớ chẳng phải thường.
Để chấm dứt quan
hệ này và không dính líu với họ nữa, một hôm Ngài gởi một lá thư báo tin rằng Đức
Thủy Thủ giờ đây đã đi biệt tích, không biết đi đâu, có lẽ đã chết rồi. Từ đó
không bao giờ gặp họ nữa.
Hồi thời niên
thiếu, do Ngài sanh nhằm vào ngày mùng 5 tháng 5, là ngày Tết Đoan Ngọ nên
trong gia đình ai cũng lo khó nuôi. Ngài khỏe mạnh hồng hào nhưng thỉnh thoảng
tự nhiên ngủ thiếp đi như chết, rồi sau đôi ba giờ mới tỉnh dậy, có khi kéo dài
cả nữa ngày khiến cho huyên đường lo âu, nhất là cụ cố luôn tỏ vẻ buồn rầu sợ
Ngài mệnh bạc, thuốc thang chạy chữa đã nhiều mà không hết.
Cảnh trạng lạ
lùng của Ngài, chết đi sống lại, loan truyền ra ngoài Thiên hạ người ta tìm tới
và có đăng tin trên mặt báo như vầy:
" Một
thiếu niên 19 tuổi sau khi đỗ tú tài thì đôi mắt tự nhiên lòa hẳn đi, kéo dài
trong 1 tháng thì thiếu niên lâm trọng bịnh. Trong lúc mê sảng thiếu niên cho già
biết là anh được Thiên tướng xuống đưa về Thiên Đình chữa bịnh. Anh sẽ chết rồi
15 ngày sau mới sống dậy, miễn đừng đem xác chôn và ngày ngày vẫn cho anh uống
3 lần nước lạnh vào 6 giờ sáng, 12 giờ trưa và 8 giờ tối. "
Vào một đêm Rằm
tháng Giêng năm Đinh Mùi (1907), Ngài nằm trên sập kê trước nhà, nhìn vầng
trăng hư ảo mà khẽ ngâm bài " Thần Đồng Vấn Nguyệt " của một người bạn vong niên đã ngâm cho
Ngài nghe qua một lần mà đã thuộc lòng tưởng chừng như đã in sâu vào trong tâm
trí. Ngài thiếp đi lúc nào không hay.
" Thu thiên dạ thanh quang vân tĩnh,
Chốn lữ đình thức tỉnh canh khuya.
Tai nghe văng vẵng bốn bề,
Gương Nga vằng vặc dựa kề quế lan.
Thấy trăng thêm động lòng vàng,
Ngâm câu vấn nguyệt cho đang mấy lời.
Hỏi dì Nguyệt mấy lời sau trước,
Duyên cớ sao mà được thảnh thơi?
Nguyệt rằng vật đổi sao dời,
Thân nầy trời để cho người soi chung.
Làm cho mỏi mệt anh hùng,
Ngàn thu sương tuyết một lòng thanh quang.
Hỏi dì Nguyệt có đàng lên tới,
Chốn thiềm cung phỏng mấy mươi xa?
Nguyệt rằng ta lại biết ta,
Có cây đơn quế ấy là nhà em.
Anh hùng thử đến mà xem,
Kìa gương Ngọc thỏ nọ rèm thủy tinh.
Hỏi dì Nguyệt có tinh chăng tá?
Chữ xuân thu phỏng đã nhường bao?
Nguyệt rằng yếu liễu thơ đào,
Càng lên càng tỏ, càng cao càng tròn.
Gương Nga vằng vặc chẳng mòn,
Bao
nhiêu tinh đẩu là con cái nhà.
Nguyệt
lại hỏi đến người quân tử,
Buổi
vân lôi ai giữ kinh luân?
Ta
rằng có đấng Thánh quân,
Ra
tay dẹp loạn, nên thân trị bình.
Nguyệt
hỏi ta ngẩn ngơ, ngơ ngẩn,
Ta hỏi Nguyệt thơ thẩn, thẩn thơ.
Liễu qua trước gió phất phơ,
Hương đưa bát ngát, phòng thơ ngạt ngào."
Khi mở mắt ra,
Ngài thấy chan hòa một thứ ánh sáng huyền ảo, chẳng phải là ánh sáng nóng bỏng
của mặt trời, cũng chẳng phải là ánh sáng lạnh lẽo của mặt trăng.
Ánh sáng vừa
trong trẻo, vừa dịu dàng, vừa đầm ấm bao trùm khắp chung quanh.
Còn Ngài đang lửng
thững đi trên đường bằng phẳng sạch sẻ và trắng như tuyết chạy thẳng tắp về
chân trời xa. Ngài vừa đi vừa tiếp tục ngâm bài thơ.
Bỗng thấp thoáng
đằng xa đi lại một bóng người, Ngài im bặt chú ý nhìn.
Bóng người tiến
lại trông rõ dần, khi còn cách Ngài vài chục thước hiển hiện một vị sư già, nét
mặt từ bi mặc áo cà sa vàng, vị sư lên tiếng:
" Em có
nhớ qua không? "
Ngài nhìn vị sư
chợt nhớ ra vội đáp:
" Dạ. "
Chính Ngài đã được
gặp vị sư nầy một lần cách đây hơn 10 năm, hồi Ngài đương theo học một ông đồ
chữ Nho, Ngài thường theo hầu thầy đi làm thuốc. Một hôm, ông thầy sai Ngài cân
thuốc trong hiệu khách Đức Vọng ở chợ ngã tư Tây Ninh.
Bước vào cửa
hàng, Ngài đã thấy ngồi ở cái kỷ dài đối diện với quầy hàng là vị sư già mặc áo
cà sa vàng đây, cùng với một ông già râu tóc bạc phơ trông thật là tiên phong đạo
cốt làm cho ai nhìn cũng kính mến. Ngài đưa toa cân thuốc, người chủ tiệm cầm lấy
toa tính tiền xong đưa tay chỉ về phía trường kỷ mời Ngài ngồi chơi trong khi
chờ đợi.
Ngài đứng yên dựa
vào quầy hàng nhìn kỹ vị sư và ông già. Hai người chỉ chỏ Ngài rồi nói chuyện với
nhau. Ngài lắng tai nghe, biết rằng 2 người đang nói chuyện về tướng số và rõ
ràng đang luận về tướng Ngài. Chính tai Ngài nghe thấy và còn ghi mãi trong ký ức
lời kết luận của nhà sư:
" Cậu bé
nầy vào bậc siêu phàm, sự nghiệp vô cùng cao cả. "
Nhớ đến chuyện
cũ, Ngài đã định hỏi vị sư về quá khứ, hiện tại cũng như về tương lai. Ngài còn
đang suy nghĩ đặt câu hỏi thế nào thì vị sư già như biết ý, mỉm cười rồi kéo
tay Ngài:
" Em suy nghĩ gì đấy. Thôi hãy đi chơi với qua."
Ngài trả lời:
" Dạ.
"
Ngài bước theo, vị sư giục Ngài bước lên ngang
hàng để vừa đi vừa nói chuyện cho dễ. Vị sư thuyết
cho Ngài nghe về tinh thần bác ái và vị tha của Phật Tổ, khuyên Ngài sau nầy
ráng tu để độ chúng sinh thoát khỏi ách khổ ải của trần gian.
Câu chuyện vừa hết
thì cũng thấy vừa hiện ra ở phía trước một tòa lâu đài nguy nga, một màu trắng
tinh như chạm bằng viên bạch ngọc khổng lồ. Đến trước tòa nhà vị sư bảo:
" Em chờ
qua ngoài này, qua vào trong một chút nhé. "
Ngài đứng chờ. Hồi
lâu mà vẫn không thấy vị sư trở lại, Ngài nóng ruột gõ cửa gọi:
" Thầy ơi! "
Không có tiếng
trả lời. Ngài gọi nữa, gọi 2-3 lần nữa nhưng chỉ có tiếng Ngài vọng lại. Sốt ruột,
Ngài đi vòng quanh nhà tìm xem có lối nào vào được chăng. Tòa lâu đài có 8 cửa
giống hệt nhau, cửa nào cũng đóng kín. Gặp mỗi cửa Ngài lại gõ một lần. Vẫn
không có ai trả lời làm Ngài thấy chột dạ, định quay lại tìm lối về.
Nhưng bây giờ
Ngài mới nhận ra trước mỗi cửa đều có một con đường trắng chạy về phía chân trời.
Tám cửa đều giống nhau, 8 con đường chẳng khác gì nhau, hướng ra 8 phương trời.
Ngài chẳng biết chọn con đường nào.
Giữa lúc băng
khoăng, có bóng đèn sáng lập lòe ở phía xa Ngài nghĩ thầm: " Chổ có ánh sáng kia hẳn có nhà. Ta hãy tới
hỏi thăm đây là đâu và nhờ chỉ lối về."
Ngài bèn hướng
theo con đường đi lại phía có ánh đèn. Quả nhiên ở đấy cũng có một tòa nhà mà cửa
cũng lại đóng. Ngài đánh bạo gõ cửa hỏi:
" Có
ai ở trong nhà không? "
Vẫn không
có ai trả lời. Ngài gõ tiếp mấy lần nữa. Đang lúc sắp bấn loạn thì tự nhiên cửa
mở, một tiểu đồng hiện ra, đầu để 3 chỏm tóc phất phơ, mặt hồng hào tròn trĩnh.
Cậu bé bước ra khỏi nhà thì cửa từ từ đóng lại. Cậu ta hỏi:
" Anh
có phải là anh Tắc không? "
Ngài lấy
làm ngạc nhiên hỏi lại:
" Ủa, sao em biết qua? "
Cậu bé tiểu đồng mỉm cười:
" Sao tôi lại không biết. Thầy đợi anh ở trong nhà. "
Ngài càng
ngạc nhiên hỏi:
" Thầy là ai hở em? "
Chú tiểu trả lời:
" Rồi anh sẽ biết. Đi vô thôi "
Nói xong, tiểu đồng quay trở lại vào nhà. Trước khi bước vào trong nhà, cậu bé ngoảnh lại bảo: " Anh
theo tôi nhé. "
Rồi cậu ta vào,
Ngài nhìn theo thấy một cảnh tượng làm hơi ớn mình: phía trong cửa có một con
lông vàng nhìn giống như con chó, chớ thật ra nó là con Kim Mao Hẩu nằm chặn
ngang đường. Chú tiểu đồng thản nhiên leo lên con Kim Mao Hẩu trèo qua lưng bước
xuống nhà. Thấy Ngài ngần ngại nên tiểu đồng cười, giục:
" Có gì
mà sợ, nó không phải là chó nên chẳng cắn đâu. Anh cứ theo tôi đừng sợ gì cả.
"
Nghe lời chú bé
khuyến khích, Ngài đánh bạo bước qua con vật ấy một cách e dè rồi nhảy đại một
cái ra xa. Ngài vừa bước qua cửa từ từ đóng lại. Ngài và chú tiểu đứng trong
hành lang rộng mênh mông. Theo chiều dài hành lang có năm phòng lớn, mỗi phòng
có một cửa đều đóng. Chú tiểu đưa Ngài đến cuối phòng và dặn:
" Anh chờ
ở đây. Lúc nào Thầy kêu tôi sẽ cho anh hay. "
Nói xong chú tiểu
bỏ đi. Ngài chờ lâu quá sốt ruột, phần vì sợ con chó lông vàng lúc nảy nên Ngài
bạo dạn gõ cửa. Chú tiểu nghe bước ra nói:
" Anh
làm gì rồi thế? Anh nhát quá, thôi ở đấy mà chờ Thầy. "
Nói xong không để
Ngài kịp đáp lại thì cậu ta đã bỏ đi. Còn một mình ở lại trong phòng, Ngài ngắm
xung quanh phòng, thấy dài đến 20 thước, rộng 10 thước, 4 mặt tường và nền nhà
là một khối cẩm thạch phẳng liền cực đẹp.
Đoạn từ bên
ngoài một ông già cao lớn, mặc áo xanh, râu tóc bạc trắng bước vào. Ngài chấp
tay xá. Nhìn kỹ, Ngài nhớ ra ông già nầy là người đi với nhà sư mà Ngài đã gặp
trong tiệm Đức Vọng độ nào. Ông đi thẳng lại chiếc ghế bành ung dung ngồi xuống
và bảo:
" Con ngồi xuống đi. "
Đầu tiên ông già
hỏi thăm về gia đình, ông hỏi thăm từng người một nhưng trừ ông thân của Ngài
đã qua đời thì ông không hỏi tới, Ngài cũng lấy làm ngạc nhiên. Sau lúc chỉ điểm
từng cái tốt xấu của từng người trong gia đình, ông già gọi tiểu đồng:
" Con đem bánh cho anh con ăn đi. "
Chú tiểu mang
vào đặt trước mặt Ngài một đĩa bạc lớn, trên đựng đầy bánh bốc hơi thơm phức.
Ông già bảo:
" Con ăn đi. "
Mấy cái bánh
nhìn trong ngần như bột lọc, hình tròn, nữa đỏ nữa trắng, sắp theo hình tròn.
Ngài đưa tay lấy cái trên chóp dĩa bẻ đôi ăn ngon lành. Hàng bánh thứ hai có ba
cái, Ngài lấy ăn thêm một cái nữa bụng đã đở đói. Đương nghĩ không biết có nên
ăn nữa hay không thì như biết ý, ông già bảo:
" Con ăn nữa đi! "
Ngài vâng lời lấy
cái thứ ba bẻ đôi, ăn xong phần nhân thấy bụng no, ngán quá không sao ăn thêm
được nữa. Ngài vò hai miếng vỏ bánh ném xuống gầm bàn.
Biết Ngài đã no,
ông già kêu lấy nước. Tiểu đồng mang lên một tô nước bằng vàng, nước đầy tận miệng.
Ngài uống một hơi hết sạch tô nước. Đợi Ngài uống xong ông già trầm ngâm rồi
nói:
" Hôm
nay con ăn 2 cái bánh rưỡi và uống một tô nước. Những thứ đó sẽ ám hợp vào đời
hành đạo của con sau nầy."
Đến đây, ông già
như có ý không để Ngài có nhiều thì giờ hỏi cặn kẻ liền truyền lịnh cho tiểu đồng:
" Con đưa anh con về. "
Ngài tạ từ ông
già, nhưng nhớ đến con chó lông vàng, Ngài vái xin con đó.
Ông già tỏ vẻ
ưng lòng nói:
" Con cứ
về đi, sau nầy nó sẽ xuống với con. "
Khi trở ra Ngài
bước lên lưng con chó đó, cánh cửa tự mở ra, lúc đến tòa lâu đài đài 8 góc thì
chú tiểu đồng từ tạ:
" Bây giờ
em chưa thể đi cùng với anh được. Sau nầy Thầy sẽ cho em xuống với anh. Thôi
anh về đi. "
Ngài sực nhớ đi
chơi lâu quá, vội chạy nhanh về vô tình vấp phải mô đất té lộn đi một vòng.
Ngài giựt mình tỉnh dậy thoang thoáng bên tai tiếng kêu khóc vang vầy, mở mắt
ra thấy mọi người tấp nập chung quanh mình. Kẻ thì kéo tóc, người thì giật tay
gọi tên ầm ĩ. Ngài chờn vờn ngồi dậy nói như trong mơ:
" Con
chó của tôi đâu rồi? "
Người người ngơ
ngác, đó là Ngài nhớ tới con Kim Mao Hẫu đã gặp trên Thiên cung.
Đến năm 21 tuổi
Ngài vâng lịnh mẫu thân lập gia đình với bà Nguyễn Thị Nhiều. Bà Nhiều là người
phụ nữ theo luật tam tòng, rất hiếu lễ, tần tảo thờ phụng cha mẹ chồng hết
lòng. Hai người sanh đặng 3 người con. Trai đầu lòng tên Phạm Công Huyền, gái
thứ tên Phạm Hồ Cầm, gái út tên Phạm Tần Tranh. Người con trai lớn mất sớm, 2
người nuôi được 2 người con gái. Bà Nhiều cũng thường được mọi người gọi là bà
Tám cũng bởi vì Ngài thứ tám trong gia đình.
Năm 22 tuổi thân
mẫu của Ngài cũng qua đời, để lại bao nỗi tiếc thương. Rồi sau đó em gái út của
Ngài cũng chết, chỉ còn lại ông anh rễ mà Ngài coi như anh ruột thịt.
Sau đó Ngài được
thuyên chuyển công tác đi nhiều nơi. Như năm Nhâm Tý (1912) Ngài được chuyển xuống
làm việc ở Cái Nhum, tỉnh Vĩnh Long. Thời gian nầy Ngày có hay sáng tạo thơ văn
và viết nhiều tác phẩm cổ động khuyến học và kết hợp được một phong trào thanh
niên cấp tiến lục tỉnh miền Nam.
Năm Ất Mão
(1915) Ngài được chuyển ra ngoài Trung Kỳ làm việc tại Hưng Thạnh, Qui Nhơn.
Trong thời gian nầy Ngài lấy bút hiệu là Ái Dân. Ngài thường giao tiếp với các
nhân sĩ từ Bình Thuận cho đến Quảng Trị, Ngài cùng những người bạn mở lớp học
đêm để xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí. Ngài cũng có tham gia nhiều tờ báo và
thành lập Văn Đàn Thi Xã ở miền Trung với mục đích lấy văn học làm đất chiêu hiền
đãi sĩ.
Trong thời gian
làm việc ở đây, vì tánh tình hào phóng nên Ngài hay trả tiền cho một ông lão
hay uống cà phê chung quán với Ngài. Vì chút cảm tình ấy, ông lão đã truyền đạt
võ nghệ của mình cho Ngài. Vốn trong suy nghĩ Ngài đã để tâm đến tiếng đồn về
võ nghệ Bình Định đã lâu, nay mới có dịp lãnh hội thực tế.
Đến năm Canh
Thân (1920) Ngài được thuyên chuyển về lại Sài Gòn. Ở đây Ngài có tham dự vào
các chương trình truyền giáo của học phái Thiền Lâm Phật giáo và chương trình
Thần học Thiên Chúa Giáo. Ngài cũng có tham gia vào các phong trào Cần Vương, sử
dụng ngòi bút để thể hiện tinh thần dân tộc trên các mặt báo yêu nước lúc bấy
giờ. Ngài cùng với những người bạn yêu thích thi văn, như Cao Quỳnh Cư, Cao
Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức,... thành lập hội Thi Xã Miền Nam.
Lúc bấy giờ, một
người bạn tên là Trần Thành Chương cho Ngài biết rằng có một gia đình nghèo khổ,
có hai đứa con gái bị tú bà gạt gẫm bán cho lầu xanh. Nghe vậy Ngài mới rủ người
bạn là Cao Quỳnh Cư cùng nhau góp hết số tiền đã dành dụm được để giúp đỡ cho họ
thoát khỏi cảnh nhơ nhớp. Ông Cư là chiết ngươn linh của Hớn Chung Ly trong
hàng Bát Tiên. Một số để cho họ về quê, một số tác hợp với mấy người trai làm
nghề khuân vác nghèo mà chưa vợ, rồi giúp vốn cho họ làm ăn.
Vì đó mà bà tú bị
mất nhân viên nên lầu xanh cũng ngưng hoạt động. Nhưng rồi sau đó mấy mụ ấy
cũng không chịu bỏ nghề, họ đi kiếm tìm đâu hỏng biết, đem về số mới lại xinh đẹp
hơn nữa. Ngài mới nói:
" Tưởng
đâu mà mình làm vậy là hết, họ biết là xấu, có số vốn rồi thì tìm phương tiện
mà sinh kế. Nào dè bổn cũ soạn lại, mà còn soạn qui mô hơn nữa chớ. "
Ngài có một nỗi
băng khoăng là tầm Đạo để giải thoát. Giải thoát cho bản thân, rồi giải thoát
cho cả dân tộc cũng như là cả nhân loại. Ngài nhận thấy rằng nước Việt Nam ta
không tinh thần đạo giáo nên khó lập thành chánh giới, vì không có căn bản tinh
thần đạo đức mà phải chịu thiệt thòi. Vì cớ đó làm cho Ngài đau thảm, khổ não
tinh thần mà tìm hiểu coi sắc dân ta có đạo hay chăng. Hại thay! Ở trước mắt ta
nào là bóng chàng, đồng cốt, ông tà, ông địa làm cho nhơ nhuốc cái tinh thần đạo
giáo khiến cho Ngài mang một nổi niềm uất ức.
XÂY BÀN, PHẠM CÔNG TẮC GẶP THẤT NƯƠNG DIÊU
TRÌ CUNG
Trong tình hình xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, đất nước đang
chịu dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Theo Hòa ước Giáp Thân (1884) hay còn gọi là Hòa ước Patenôtre thì người Pháp không có quyền can thiệp
vào việc nội trị của nước Việt Nam, nhưng đại diện Pháp luôn tìm cách lấn quyền
triều đình Huế. Dần về sau Vua Việt Nam không còn một chút thực quyền nào ngoài
việc tế tự Trời Đất và lăng miếu, mọi việc trong nước đều do người Pháp quyết định
mà đứng đầu là viên Toàn Quyền.
Về văn hóa cũng
bị ảnh hưởng sâu rộng từ phương Tây, chính quyền Pháp cho mở trường Pháp Việt dạy
chữ quốc ngữ, do dễ học mà cũng lại đủ khả năng diễn đạt tư tưởng một cách dễ
dàng nên số người theo Tây học tăng nhanh, sự ảnh hưởng của nền Hán học cũng vì
đó mà giảm dần. Tuy vậy, những lĩnh vực khác như thi văn, âm nhạc vẫn còn giữ
được tầm ảnh hưởng riêng.
Trong sự du nhập
của nền văn hóa ngoại bang, đặc biệt nhất là phải kể đến phong trào Thần Linh Học,
dùng cách xây bàn để giao tiếp với cõi vô hình. Phong trào Thần Linh Học của
nhân loại khởi xuất từ Hoa Kỳ vào nữa đầu thế kỷ 18 tại thành phố New York, rồi
sau đó lan truyền qua Anh, Pháp, và Đức, tạo nên một phong trào có tầm ảnh hưởng
mạnh mẽ. Khi Pháp xâm lược nước ta vào năm 1858, thì phong trào nầy sau đó cũng
theo du nhập vào Việt Nam.
Lúc bấy giờ, 3
ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, và Cao Hoài Sang có quen biết ông Đại Úy Paul
Monet, là một hội viên của Hội Thần Linh Học Pháp. Ba ông nhờ ông Monet ngồi đồng
để làm sao thông công nói chuyện được với các Đấng Chơn linh vô hình. Việc nầy
làm cho các ông rất lấy làm thú vị. Đặc biệt là ông Cư đã có một lần tận mắt chứng
kiến việc thông công với các Đấng vô hình, nên ông luôn nuôi nấng ước vọng được
liên lạc với thế giới vô hình.
Trong giới
nghiên cứu Thần Linh Học có đủ hạng người, và cũng có rất nhiều người là thi sĩ
lừng danh trong Hội Thi Xã. Ông Cao Quỳnh Cư vốn là người gốc Tây Ninh, xuống
làm việc tại Sở Hỏa Xa, Sài Gòn. Ông Cư mướn phố ở tại số 134 đường Bourdais và
một người cháu là ông Cao Hoài Sang, cũng làm việc tại Sở Thương Chánh cùng với
ông Phạm Công Tắc. Ông Sang là chiết ngươn linh của Lữ Đồng Tân trong hàng Bát
Tiên. Ba người đều là hội viên của Hội Thi Xã, cũng rất thân thiết với nhau,
thường đêm nào cũng hội hiệp, khi đờn lúc ngâm thi tiêu diêu với phú phong lưu
tài tử.
Vào ngày mùng 4
tháng 6 năm Ất Sửu (1925), 3 ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang,
cùng vài người bạn nữa trong Hội Thi Xã đến nhà ông Cao Quỳnh Diêu, là anh ruột
của ông Cư, rủ ông Diêu qua nhà ông Sang chơi ở phố Hàng Dừa, đường Arras gần
chợ Thái Bình, Sài Gòn. Lúc ấy, con ông Diêu là Cao Quỳnh Đức thấy mới hỏi cho
biết mấy ổng đi đâu thì ông Sang trả lời là:
" Đi sai bàn. "
Cao Quỳnh Đức mới hỏi:
" Sai bàn là chi? "
Ông Sang trả lời:
" Là cầu các linh hồn về nói chuyện chơi. "
Nghe vậy, Cao Quỳnh
Đức cũng lấy làm lạ mà đi theo coi làm thế nào cho biết.
Đoạn mấy ông đều
kêu xe kéo vô nhà ông Sang rồi vầy nhau xung quanh một cái bàn tròn 3 chưn để
nơi trước hàng ba, lại có chưng bình bông tươi tốt và đốt nhang, sắp đặt trên một
cái bàn nhỏ để vựa vách kế đó. Chừng mấy ông kêu:
" Lẵng lặng định thần. "
Thì mỗi người đều
để 2 tay úp lên mặt bàn, ngồi im.
Giây lâu, cái
bàn nghiêng qua bên ông Cư, ông Cư cứ tưởng là do ông Tắc phá nên rầy và biểu đừng
xô, cứ ngồi cho tịnh.
Bàn lại ngã qua
phía ông Diêu, ông Diêu cũng cho là nội bọn phá nên lại rầy nữa.
Cách một chập
coi bộ mấy ông mỏi tay nên thảy đều tan ra nghỉ hết, coi trông mấy ông chưa ai
thạo việc ấy cả, cứ cãi nhau hoài. Kẻ nói vầy người luận khác, phân phân bất nhứt.
Khi ấy ông Sang
mới nói với mấy ông rằng:
" Mình cứ
tịnh tâm, ngồi im điềm, chừng nào có vong nhập thì chắc là họ gõ chơn bàn nghe
cắc cắc chớ gì. "
Nghe đến đó ai nấy
cũng làm dùn mình.
Đến khi vầy nhau
lại nữa, ông Cư ngồi xếp bằng trên ghế tỏ ý rằng sợ hồn ma vào gõ bàn mà đụng cẳng,
nên cả thảy đều rút chơn lên. Người thì chồm hỗm, người xếp bằng.
Lúc ấy đã khuya,
coi ông nào cũng mệt. Phần thì muỗi chít chơn, hễ thò tay xuống gảy thì lại động
làm cho cái bàn không yên tịnh, lớp lại buồn ngủ. Ông Cư lại suy nghĩ rồi luận
rằng:
" Thế
khi chúng ta để trong nhà nên các hồn ma không dám vào. Vậy khiêng bàn ra ngoài
trời trống trải họa may họ mới nhập đặng."
Đoạn mấy ông hè
huội áp nhau khiêng bàn ra sân. Ngồi một hồi lâu, bàn cũng cứ dở lên để xuống
làm cho mấy ông rầy nhau rồi cười hoài. Gặp lúc khuya trời tối, muỗi lại cắn
hơn nữa. Mấy ông chịu đà hết nỗi mới đành dẹp nghỉ, nhưng hẹn tối mai sẽ hiệp
nhau làm cho hết ý. Ai nấy đều vui chịu rồi từ giã nhau ra về.
Qua đến đêm mai
gặp nhằm thứ bảy, lối 9 giờ, thảy đều tựu đến đủ mặt, cũng sửa soạn như bữa trước
rồi vầy nhau lại ngồi chung quanh để tay úp trên mặt bàn.
Nhưng nay ông Cư
có dặn mọi người là phải xè bàn tay ra, 2 ngón tay cái của mỗi người đều đâu đầu
lại rồi ngón tay út của người khác làm cho có thế các bàn tay liền nhau trọn
cái vòng bàn. Mấy ông đều
nghe theo.
Tịnh một
chập, bàn dở lên cao ngã vào góc tường, rủi cho ông Tắc ngồi phía trong kẹt, làm cho
ông Tắc tưởng rằng ông Sang đang ngồi đối diện cố ý muốn cợt chơi, nên ông Tắc
la um sùm là:
" Sang! Sang! Đừng phá mầy, chơi giống gì kỳ quá, mắc kẹt tao sao mậy!
Ráng ngồi tử
tế coi mà! "
Ai nấy thấy vậy
đều cười rộ lên. Mặt bàn nghiêng lại như cũ. Ông Cư thấy vậy liền năn nỉ mấy
ông xin đừng giỡn, để ý ráng làm cho tận tâm coi thế nào cho biết.
Khi nghe ông Cư
nói vậy, cả thảy đều ngồi lẳng lặng. Ông Cư thường hay có tánh giả ngộ, hễ nghe
bàn cục kịch lại trợn mắt ngó mấy ông kia, làm ai nấy cũng có vẻ sờ sợ xong rồi
ráp nhau cười rộ lên nữa.
Làm như vậy đã
trót vài giờ mà bàn cũng cứ dở lên để xuống mãi. Mà hễ thấy vậy thì mấy ổng lại
rầy nhau, tưởng rằng tại người xô mà thôi.
Chừng tịnh lần nầy
cả thảy ngồi im điềm, thoạt nhiên bàn dở lên gõ lia gõ lịa.
Mấy ông cũng cho
là nội bọn phá, bèn hỏi thăm nhau. Ai nấy đều tỏ rằng cả thảy đều để thật lòng
mà thử cho hết sức nên không xô đẩy chi, ấy là bàn diêu động tự nhiên. Khi đó,
người thì nói tê tay, kẻ lại nghe rần rần trong người. Trong cơn mấy ông hỏi
nhau thì bàn dứt gõ, nhưng cũng còn linh chinh dường như có sự sống vậy.
Chừng nghi rằng
có vong nhập, thảy đều kinh tâm. Mấy ông lụi đụi không biết phương chi mà thông
đồng với vong đặng.
Lúc ấy ông Cư mới
liền dặn mọi người để như cũ, đừng ai lấy tay ra khỏi bàn mà làm xao động, e vì
vong xuất ngoại. Dứt lời, ông Cư mới nói với vong rằng:
" Xin
khoan đi, để cho hỏi ít lời. Bây giờ chưa kiếm đặng thế nào cho hiểu nhau thì
duy cứ gõ 2, nghĩa là " Ừ, chịu, có " hoặc " phải ", còn gõ
1 là " Không " hay là
" chẳng phải ."
Vong tiếp gõ 2,
tỏ rằng chịu theo lời dặn.
Đoạn ông Cư liền
ngụ ý rồi nói với vong như vầy:
" Ta hiểu
theo đây thì có thể nói chuyện với nhau tiện hơn. Nếu tôi hỏi chi muốn trả lời
lại, cứ tùy theo vần Alphabet quốc ngữ mà gõ, mỗi chữ mỗi gõ, đến chữ nào dùng
thì ngưng lại, nghĩa là lấy chữ chót rồi bắt đầu trở lại mà nối chữ khác.
Xong rồi sẽ
ráp lại mà đọc, giống như điệu dây thép vậy. "
Vong liền gõ 2,
nghĩa là "đồng
ý".
Hiểu nhau rồi,
bàn gõ, ông Cư khởi đọc.
Nhưng sự chi
cũng vậy, lúc đầu sao cũng lộn xộn năm bảy phen, đọc cho đến hết 20 mấy chữ cái
mà bàn cũng còn gõ mãi. Tức mình ông Cư mới cắt nghĩa lại một lần nữa. Thật lấy
làm tội nghiệp cho vong quá, mà lại cũng thương mấy ông vì muốn thấu đáo nên
ráng chịu khó đến cùng.
May sao lối mỏn
hơi rồi, ông Cư đọc từ A, Ă, Â, B, C, D, Đ,… tới chữ L thì dứt gõ. Ông Cư dặn
ông Sang nhớ chữ ấy, đủ rồi sẽ ghép lại. Đoạn bạn gõ tiếp quận thứ nhì. Ông Cư
cũng đọc từ A, Ă, Â, B, C, D, Đ,… cho đến chữ Ư bàn ngừng lại rồi cũng cứ nối
điệu theo như trước, cho đến khi ráp lại đặng mấy chữ nầy:
" LƯƠ NG CAO QUYNH "
Đó là Cao Quỳnh
Lượng, tên người con của ông Diêu đã qua đời cách đây vài năm.
Khi tiếp đặng mấy
chữ ấy rồi thì mấy ông hớn hở vui cười. Dứt tiếng, ông Cư suy nghĩ rồi nói rằng:
" Như phải
là Cao Quỳnh Lượng thì chắc biết mấy người ngồi đây, vậy cứ nói tên mỗi người
coi có trúng chăng? "
Ông Cư vừa dứt lời
thì bàn gõ, chừng ráp nguyên chữ thì thành ra mấy chữ thế nầy:
" DIÊU
"
" CƯ "
" TĂC "
" SANG "
" ĐƯC "
" THÂN "
“NGUYÊN "
Thảy đều rộ cười
lên, còn cái bàn thì hỏng lên một chưng lắc qua lắc lại dường như cũng cười
theo vậy. Khi ấy, ông Diêu mới tiếp hỏi Lượng rằng:
" Con có
ở hầu ông nội chăng?"
Bàn gõ trả lời:
" Có."
Ông Diêu tiếp:
" Mời
ông nội đến đây, tiện không?"
Bàn gõ trả lời:
" Đặng."
Dứt lời thì bàn
dở lên rồi để xuống, không còn diêu động như khi nẩy nữa.
Lúc ấy ông Tắc mới
nói là:
" Bộ khi
nó đi rồi."
Nghe vậy mấy ông
đều dang ra nghỉ hết. Chừng ấy, trông coi mấy ông, ông nào cũng lấy làm lạ, mà
nhứt là ông Diêu và ông Cư. Cũng bởi từ ấu chí trưởng 2 người không tin chi hết,
cho kiếp chết là mất rồi nên chẳng tin là có hồn. Nay lại thấy điều lạ kỳ như vậy
thì 2 người ngồi nhìn nhau, tình hình như cánh cửa của sự bí mật đã dần hé mở
cho mấy ông thấy đặng.
Cách nữa giờ cả
thảy vầy nhau ngồi để tay lên cũng tịnh như trước, kỳ nầy trông mấy ông có màu
kiêng dè không dám cười giỡn nữa.
Đoạn bàn gõ, ông
Cư cũng đọc chữ rồi ráp lại được như vầy:
" CAO QUYNH TUÂN "
Cao Quỳnh Tuân
là tên thân sinh của ông Diêu và ông Cư. Sau đó cả thảy đều đứng dậy xá rồi ngồi
xuống. Ông Diêu hỏi sơ ít điều đã qua rồi, kế ông Cư mới tiếp nói rằng:
" Vì buổi
thầy quá vãng anh em con vẫn còn nhỏ dại, cho đến đỗi anh của con đã trộng còn
không nhớ đặng hình ảnh của thầy, huống chi là con còn nhỏ quá. Duy buổi lớn
khôn nghe người truyền ngôn lại cái hạnh đức của thầy mà thôi. Nếu có thể tiện,
xin thầy dùng dịp nầy cho anh em con một bài thi tự thuật, hầu để rọi truyền ngày
sau cho con cháu làm kỷ niệm."
Bàn gõ tỏ ý khứng
chịu rồi liền tiếp đánh nhịp ráp lại được bài thơ như vầy:
" Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương câu dặn gắng tâm đời.
Bên màng đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời."
Khi làm đến câu
chuyển thì cả thảy đều nao lòng rưng rưng nước mắt, chừng qua câu kế thì ông
Diêu, ông Cư, và ông Tắc đều vùng khóc lớn lên một lượt làm mấy ông kia với ông
Sang cũng mủi lòng khóc theo. Lúc đó đâu cũng gần 2 giờ sáng, lối xóm nghe khóc
rùm lên vài nhà lân cận đến dòm, thấy việc kỳ quái thì họ đứng coi một hồi
nhưng không hiểu chi rồi cũng đều lui về nhà ngủ hết.
Dứt bài rồi thì
ông Cao Quỳnh Tuân tiếp thêm mấy chữ:
" Thầy xin kiếu. "
Ông Cư vội nói:
" Thưa
thầy, ngày mai con nấu mâm cơm cúng thầy, kính thỉnh thầy về chứng lòng thảo của
chúng con."
Ông Tuân
gõ bàn tỏ ý chấp thuận. Đoạn bàn dở lên cao rồi để xuống nhẹ hều không còn hơi động địa như trước nữa. Mấy ông mới
nói:
" Đi rồi, đi rồi. "
Khi ấy mấy ông mới
xúm nhau đem vô đèn chép mỗi người một bản coi đi coi lại rồi trầm trồ khen
mãi.
Ông Cao Quỳnh
Tuân qui vị lúc 53 tuổi. Ông là Chơn linh Xuất Bộ Tinh Quân giáng trần.
Hôm mùng 6 tháng
8 năm Bính Dần (1926), sau khi Chí Tôn giáng cơ dạy việc xong có nói:
" Thầy sẽ
cho Xuất Bộ Tinh Quân đến nhập cơ. "
Kế đó Thầy thăng
rồi mấy ông tái cầu, ông có giáng cơ nói với mấy ông như vầy:
" CAO QUỲNH TUÂN
Mừng mấy con
và mấy cháu.
Diêu! Từ đây
thầy lấy làm vui mà thấy con đặng để bước vào đường Thánh đạo. Vậy hãy ráng tu hạnh
hầu phục hồi cựu vị.
Thầy rất vui
thấy Cư và con đã đem tấm nhiệt thành mà cứu độ nhơn sanh khỏi dòng khổ hải. Ấy
cũng là số phận rất may mắn của lịnh Ngọc Hoàng đã định cho con và Cư, Tắc,
Sang.
Vậy thầy có mấy
lời thiết yếu cùng con sau đây:
" Cựu vị
ngày xưa đã có rồi,
Đường về chớ
bỏ há con ôi.
Công trình chớ
nệ xây nền đạo,
Phước mỏng
đâu hay bởi tứ Trời.
Đức trước hưởng
rồi tua trả đức,
Ngôi
sau gìn ắt đặng an ngôi.
Từ đây
son sắc vì sanh chúng,
Cảnh tịnh
mai sau cũng đặng ngồi. "
Thầy đã
an lòng cho con và Cư,
còn Đức, An,
Thân, thì có lịnh Thượng
Đế định phần cho chúng nó. Lượng từ đây phải ở
nơi Lôi Âm Tự chầu Phật Như Lai và nghe lịnh, chừng có lịnh Thượng Đế đòi sai
trấn thì nó sẽ về cùng con đặng. Thầy kiếu mấy con."
Qua hôm sau mấy
ông cũng hẹn nhau lúc 8 giờ tối tại nhà ông Sang để xây bàn nữa. Kỳ nầy mấy ông
sắp đặt coi bộ chỉnh tề hơn, có một bàn nhỏ kế bên đặt hương, đăng, hoa, trà,
quả.
Đúng 9 giờ tối,
cuộc xây bàn bắt đầu. Bốn ông: Diêu, Cư, Tắc, Sang và 2 người con của ông
Diêu là Đức và
Thân cũng ngồi vào đặt 2 bàn tay úp xuống mặt bàn như đêm xây bàn vừa rồi.
Tịnh thần một
lát thì bàn lay chuyển một cách uyển chuyển nhẹ nhàng, bàn liền gõ, ráp lại
thành mấy chữ:
" THAC
VI TINH "
Nghe " thác
vì tình " thì ai nấy đều rỡn óc hết.
Ông Cư hỏi:
" Đàn
ông hay đàn bà? "
Bàn gõ trả
lời:
" Đoàn
Ngọc Quế, con gái. "
Ông Cư bèn xin một bài thi tự thuật. Vong liền
gõ bàn cho bài thi như vầy:
" Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai? "
Sau khi tiếp được
bài thi Đường luật như vậy thì mấy ông rất phục thi tài của người gõ bàn, nhưng
nghe có điều gì đó bí ẩn. Không lẽ một vong linh bình thường mà làm được bài
thi kiệt tác như vậy sao? Nghĩ vậy nên ông Cư hỏi:
" Cô bị
bịnh gì mà thác? "
Bàn gõ trả lời:
" Sanh
trưởng tại Chợ Lớn, con một, thác vì tình năm 19 tuổi. "
Ông Cư thấy cô
làm thi hay quá nên mời cô thường đến để xướng họa thi văn.
Cô Quế gõ bàn trả
lời bằng lòng và sau đó xuất khỏi bàn. Buổi xây bàn nầy kết quả rất tốt đẹp. Mấy
ông hết nghi ngờ và tin tưởng rõ rệt là có các linh hồn nơi thế giới vô hình.
Bài thi của cô
Quê quá hay, mấy ông cứ trầm trồ mãi rồi mấy ông đem đờn ra, một ông ngâm bài
thi, mấy ông còn lại hòa đờn theo rồi cùng nhau mượn chung rượu đầy vơi trong
lúc tàn canh để gợi niềm hoài cảm. Mấy ông có họa lại bài thi của cô Quế như vầy:
Bài họa của ông Tắc:
" Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai,
Trời xanh vội lấp nữ anh tài.
Tình thâm một gánh còn dương thế,
Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.
Để thảm xuân đường như ác xế,
Gieo thương lữ khách ngóng tin mai.
Hềm gì chưa rõ đầu đuôi thế,
Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai.”
Bài họa của ông Cư:
“Rằng liễu khóc oanh có mấy ai,
Mộ người quốc sắc đấng thiên tài.
Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các,
Xót bạn tri âm cõi dạ đài.
Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm nước,
Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai.
Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng,
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai."
Bài họa vận của ông Sang:
" Nửa chừng xuân gãy tủi phận ai,
Nông nổi nghĩ thôi tiếc bấy tài.
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách Chương đài.
Những ngờ duyên thắm trao phòng Bích,
Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai.
Một dải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa chừng xuân gãy tủi phận ai."
Đây nói sơ lược
về thơ Đường luật và các thể thức họa thi thơ Đường luật.
Thơ Đường luật
hay còn gọi là thơ cận thể xuất hiện từ thời Đường khoảng năm 618-907 bên Trung
Hoa. Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều
sau:
1 . Luật
2 . Vần
3 . Đối
4 . Niêm
5 . Và bố cục
Về hình thức,
thơ Đường luật có các dạng chính như:
* Thất ngôn bát
cú: 8 câu, mỗi câu 7 chữ.
* Thất ngôn tứ
tuyệt: 4 câu, mỗi câu 7 chữ.
Trong đó dạng thứ
nhứt được sử dụng nhiều nhất. Bên cạnh đó còn có các biến thể như:
* Ngũ ngôn tứ
tuyệt: 4 câu, mỗi câu 5 chữ.
* Ngũ ngôn bát
cú: 8 câu, mỗi câu 5 chữ.
Về luật thì có 2
luật: Luật bằng và luật trắc, là cách sắp đặt tiếng bằng và tiếng trắc trong
các câu của bài thơ. Luật nhất định buộc người làm thơ phải theo đúng mà đặt.
Trong tiếng Việt,
luật bằng là bao gồm các chữ có thanh huyền và thanh ngang (không dấu); luật trắc
bao gồm các chữ có thanh sắc, hỏi, ngã, nặng.
Trong 1 câu, chữ
thứ hai và chữ thứ sáu phải giống nhau về thanh điệu, chữ thứ tư phải khác chữ
thứ hai và sáu. Ví dụ nếu chữ thứ hai và sáu là thanh bằng thì chữ thứ tư phải
là thanh trắc, hay ngược lại. Nếu không theo quy luật nầy thì gọi là thất luật.
Ví dụ:
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
1 2 3 4 5 6 7
Nếu chữ thứ hai và thứ sáu của câu đầu tiên trong bài thơ là thanh bằng thì gọi là luật bằng.
Ngược lại, nếu là trắc thì gọi
là luật trắc Ví dụ 1 bài thơ Đường
luật sử dụng luật bằng, dạng thất ngôn bát cú thì quy luật như sau:
Các chữ để trống
là tự do, không bắt buộc là thanh gì, còn lại là bắt buộc:
Về vần thì cách gieo vần như thế nầy, có tất cả 5 vần gieo ở cuối câu 1, 2, 4, 6, 8, và thường dùng vần bằng, rất hiếm
dùng vần trắc. Nếu suốt bài thơ chỉ gieo 1 vần gọi là độc vận.
Về đối thì được
hiểu nôm na là sự tương phản về ý nghĩa cả từ đơn, hay từ kép cũng vậy, hoặc là
sự tương đương lẫn nhau. Có nhiều phép đối, ví dụ như:
Đối chữ: danh từ
đối danh từ, động từ đối động từ,…
Đối cảnh: trên đối
dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh,…
Những câu phải đối
trong 1 bài thơ bát cú là câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6. Nếu không đối
thì bị gọi là thất đối.
Ví dụ:
" Riêng vui nguyệt chiếu sắc trong
ao,
Đền ngọc từng khi để bước vào.
Rảnh hứng trăm hoa khoe đảnh ngự,
Nhàn vầy mấy bạn dự Bàn Đào.
Độ đời rảo gót non sông lướt,
Cứu
thế dìu nhân đạo đức trau.
Chờ
buổi tuần hườn Thiên Địa trở,
Nương
gươm Thần huệ một vừng cao."
*
Lữ Động Tân
Về niêm nghĩa là giữa các cặp câu quy định, chữ thứ hai và
thứ tư của câu dưới phải giống câu trên. Hoặc là cả 2 câu
đều là 2 chữ bằng, hoặc là 2 chữ trắc thì gọi là niêm. Ngược lại không giống
nhau gọi là thất niêm. Các câu quy định đó là 1-8, 2-3, 4-5, 6-7.
Ví dụ:
Về bố cục của
bài thơ thì đối với dạng thất ngôn bát cú người ta ví nó như một bức tranh
trong một cái khung nhứt định, 8 câu 56 chữ, vẽ thế nào để thành một bức tranh
hoàn toàn thì vẽ. Trong đó gồm có:
* Đề thì câu 1 gọi
là phá đề, là câu mở bài, nói lung động cả ý nghĩa trong bài và câu 2 gọi là thừa
đề, là câu nối với câu phá ở trên.
* Câu 3 và 4 gọi
là thực trạng, là giải thích đầu bài cho rõ ràng.
* Câu 5 và 6 gọi
là luận, là bàn bạc về vấn đề đã nêu.
* Câu 7 và 8 gọi
là kết, là tóm ý nghĩa cả bài.
Còn về phép họa,
thì thể thơ Đường luật có đại loại những phép họa như: họa
hạn vận, họa phóng vận. Trong
họa phóng vận lại có nhiều loại như: họa nguyên vận, họa đảo vận, họa hoán vận,
họa tá vận.
Họa hạn vận
nghĩa là phải theo sự định trước, người ta ra một cái đề cho mình vần nào thì
mình phải dùng vần ấy để làm 1 bài thơ. Phép họa nầy khác với họa phóng vận là
họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo đó mà họa, mà họa hạn vận phải diễn
tả ý theo đầu đề đã ra sẵn, và dùng đúng 5 vần hạn định cho 8 câu và phải hạ vần
đúng theo thứ tự đã hạn định.
Ví dụ: Chuyện kể,
năm 1926 ông thi sĩ Đào Sĩ Nhã có đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên, sẵn dịp
ông Nhã thách ông Phan Mạnh Danh làm một bài thơ với đề như sau:
* Đầu đề ra là:
Xuân khuê
* Hạn định 5 vần
là: chờ, hờ, thưa, tơ, thơ * Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy,
tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Ông Danh làm bài
thơ như vầy:
" Một mong hai đợi bốn ba chờ,
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ.
Nửa gối năm canh gà gáy giục,
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa.
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ,
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ.
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó,
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ.”
Còn họa phóng vận
thì có 4 kiểu như sau:
Họa nguyên vận
là họa đúng 5 vần của bài xướng và gieo vần cũng theo thứ tự của bài xướng
luôn.
Họa đảo vận là họa
ngược lại thứ tự 5 vần từ dưới lên thay vì họa nguyên vận từ trên xuống.
Họa hoán vận là
thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy ý.
Họa tá vận là mượn
vần của bài xướng để làm 1 bài thơ khác tùy ý người làm, cách này được nhiều
người sử dụng vì dễ làm hơn.
Ví dụ, họa
nguyên vận:
Bài xướng:
" Ấm ức tâm tư suốt mộng tràng,
Có đâu Tiên Phật giáng phàm gian?
Văn hay chữ giỏi bày thi phú,
Họa đặng thơ đây mới Ngọc Hoàng. "
* Yết Ma Luật
Bài họa:
" Hãy tỉnh cho mau giấc mộng tràng,
Đời cùn Tiên Phật giáng phàm gian.
Chẳng ai hay giỏi bày thi phú,
Chính thật ta đây Đấng Ngọc Hoàng."
*
Cao Đài Thượng Đế
Qua đêm hôm sau
3 ông Diêu, Tắc, Cư cũng hẹn nhau tới nhà ông Sang để tiếp tục xây bàn. Mấy ông vừa ngồi vào chuẩn
bị xây bàn thì có 3 ông khách quen thân vào tới, đó là: Vương Hồng Sễn, Đoàn Ngọc
Quế, Nguyễn Văn Xuân. Ông Sễn và ông Xuân làm thơ ký tập sự chung một sở trường
máy, đường Đỗ Hựu Vị, ông Quế thì lớn tuổi hơn, làm Thông Phán ở Phòng Nhì dinh
Thượng Thơ. Ba ông đi xe kéo tới nơi liền xin vào thí nghiệm xây bàn, nên bắt
ghế ngồi quanh bàn chung với mấy ông, thành ra có tất cả 7 người ngồi giáp
chung quanh bàn, các bàn tay úp xuống bàn đặt khít nhau.
Ngồi tịnh thần hồi
lâu bàn bắt đầu chuyển động, 3 cây nhang rung rung như báo cho biết có vong nhập
bàn. Đồng hồ lúc đó cũng vừa điểm đúng 9 giờ tối. Bàn gõ xưng tên là:
" Đoàn
Ngọc Quế, tiểu thơ. "
Tên cô tiểu thơ
trùng tên với ông Đoàn Ngọc Quế đang ngồi xây bàn, ông Quế liền hỏi:
" Chẳng
hay trong nhóm hôm nay có người nào trùng danh tánh trùng tự với tiểu thơ
chăng? "
Cái bàn liền
nghiêng qua phía ông Quế rồi gõ mạnh một tiếng "cộp".
Ông Sễn liền hỏi:
"Nội trong
bọn có người nào mới lạ chăng?"
Cái bàn liền gõ
trả lời:
"Có."
Rồi gõ tên người
lạ đó là "SỄN".
Bàn gõ khoan
thai yểu điệu quả là tánh nết của một tiểu thơ khuê các. Khi nào không muốn trả
lời câu hỏi của mấy ông thì bàn nghiêng nghiêng qua một bên nhưng không gõ, 3
cây nhang rung rung như không đồng tình. Lần lần hỏi đến gia đạo của cô và cô đau bịnh chi thì được cô gõ bàn cho
bài thi nầy:
" Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một gánh tình.
Mấy bữa nhăn mày làm chước quỉ,
Khiến ôm mối thảm lại Diêm đình. "
Đoạn đến đây
cũng đã khuya, 3 ông khách xin kiếu ra về. Ba ông đã chính mắt thấy tai nghe và
cũng đã trực tiếp tham gia vào xây bàn nên không còn điều gì để nghi ngờ là
chuyện huyễn hoặc nữa. Các ông tin chắc có linh hồn nơi cõi vô hình.
Sau khi 3 vị
khách ra về, 4 ông Diêu, Cư, Tắc, Sang tiếp tục xây bàn để cầu hỏi cô Quế thì
bàn tiếp gõ cho bài thi nầy:
" Người thì ngọc mã với kim đàng,
Quên kẻ dạ đài nỗi thảm mang.
Mình dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang."
Ông Cư hỏi:
“Hồi còn tại thế cô ở đâu?”
Cô Quế gõ bàn trả lời:
"
Ở Chợ Lớn. "
Ông Cư hỏi:
"
Học trường nào? "
Cô Quế trả lời:
" Học trường đầm."
Câu chuyện xây
bàn của mấy ông làm cho các giới văn nhân tài tử nghe đến đều thích thú. Từ bữa
có bài thi của ông Cao Quỳnh Tuân và sự xuất hiện của cô Đoàn Ngọc Quế rất giỏi
thi văn làm cho các ông rất phấn khởi và muốn tìm hiểu thêm những bí mật của thế
giới vô hình.
Kể từ đó, ban
ngày mấy ông đi làm, khi đêm về đều qui tựu nơi nhà ông Sang để tổ chức xây bàn
với mục đích ban đầu chỉ là để tiêu khiển hay làm thỏa mãn tính hiếu kỳ đối với
thế giới vô hình thôi.
Ông Cư nhận thấy
đã xây bàn nơi nhà ông Sang nhiều đêm rồi, cũng làm phiền gia chủ không ít nên
mời quí ông đêm sau qua nhà ông để tiếp tục xây bàn mời cô Quế về làm thi.
Qua đêm sau,
theo lời mời của ông Cư thì đêm nay mấy ông tựu tập ở nhà ông Cư, số 134 đường
Bourdais, Sài Gòn. Tại đây, ông Cư dùng chiếc bàn vuông 4 chân, chiêm 1 chân
cho cao hơn tý để lắc qua lắc lại dễ dàng chỉ cần gõ nhẹ lên gạch là phát ra tiếng.
Ông Diêu bửa nay bận việc nên vắng mặt, chỉ có 3 ông Cư, Tắc, Sang mà thôi.
Cô Quế giáng bàn
để lời chào mừng 3 ông, rồi đàm luận một hồi 3 ông xin kết làm anh em thi hữu với
cô. Cô gõ bàn tỏ ý bằng lòng và nhận:
" Ông Cư
làm trưởng ca,
Ông Tắc làm
nhị ca,
Ông Sang làm
tam ca,
Còn cô
xưng là tứ muội."
Kết nghĩa anh em
như vậy rồi 3 ông mới gạn hỏi:
"Tên thiệt
của tứ muội là chi, mấy anh em qua muốn tứ muội đừng giấu giếm."
Nài nỉ mãi cuối
cùng cô gõ bàn cho 3 chữ cái:
"V T L"
Ba ông hỏi đến mồ
mã của cô ở đâu? Cô cũng chỉ rõ cho 3 ông biết để hết điều ngờ vực, hiện ngôi mộ
của cô ở khu vườn Bà Lớn. Bà Lớn là bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương.
Đến sáng hôm sau
nhằm ngày chủ nhật, nên 3 ông Cư, Tắc, Sang được nghỉ làm, mới sắm sửa nhang
đèn quả phẩm đi tìm viếng mộ của cô Quế trong vườn Bà Lớn, ở Ngã Bảy, gần Phú
Thọ.
Quả nhiên đúng
theo lời chỉ dẫn của cô, 3 ông tìm thấy ngôi mộ của cô xây gạch rất đẹp, nhà mồ
có bia in hình cô hồi còn trẻ trung, dung nhan xinh đẹp, phía dưới đề tên "
Vương Thị Lễ " đúng với 3 chữ cái mà cô cho. Ba ông vừa mừng vừa cảm động,
mới bày biện nhang đèn quả phẩm ra rồi khấn vái vong hồn của cô, và mời về nhà
nhập bàn trò chuyện. Ba ông cũng có ý thử xem ban ngày vong có dám về nhập bàn
không?
Đây nói thêm vài
nét về thân thế của cô Đoàn Ngọc Quế.
Cô Đoàn Ngọc Quế
tên thật là Vương Thị Lễ, sinh ngày mùng 8 tháng 1 năm Canh Tý (1900) tại Chợ Lớn,
mất ngày 25 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1918). Thân phụ là Vương Quang Trân, anh ruột
của ông Vương Quang Kỳ. Cô có nhiều kiếp sanh ở quả địa cầu nầy, mà 2 kiếp gần
nhất là một kiếp cô sanh ở Trung Hoa, là một nàng công chúa. Trong triều lúc bấy
giờ có một vị quan nhỏ để lòng mến mộ cô, nhưng vì tục lệ thời ấy khiến 2 người
không kết duyên giai ngẫu được nên đành hẹn kiếp lai sinh.
Chẳng may cô vắn
số, mới vừa ở tuổi cập kê nhưng bị bịnh qua đời làm cho chàng viên quan nọ ôm
chặc mối tình tuyệt vọng, dần dần bịnh và cũng qua đời. Hồn anh ta bay về cõi
thiêng liêng. Theo luật Thiên điều dù vô tình hay cố tình cô cũng có liên quan
với oan hồn của người này nên cô phải tái kiếp một lần nữa để trả mối oan tình.
Đây cũng là căn duyên của kiếp sanh nầy của cô ở Việt Nam.
Kiếp sanh lần
này cô sinh vào gia đình họ Vương danh gia vọng tộc, bổng nhiên cô mắc phải bệnh
ngặt nghèo, chạy đủ thuốc thang mà không hết. Thân mẫu cô mới truyền rao ai cứu
được cô sẽ gả cho người ấy. Lúc đó có một bác sĩ Tây y học ở Hà Nội mới được bổ
nhiệm về Sài Gòn rồi gia đình có rước đến chữa bịnh cho cô. Khi gặp anh bác sĩ
nầy cô biết vị lương y nầy là chàng viên quan mà kiếp trước đã có duyên nợ với
nhau, vì nợ ba sinh nên hai người cùng đầu kiếp để trả nghĩa vợ chồng. Sau đó
người bác sĩ này chữa hết bịnh cho cô, thân sinh của cô đồng ý gã cô cho người
bác sĩ nầy. Cuộc hôn nhân coi như đã được định. Chính vì vậy nên sau đó cô trở
bịnh nặng rồi qua đời. Mối oan tình giờ đây đã giải xong dù chỉ một lời nói thôi
cũng đủ.
Chơn linh của cô
là Thất Nương Diêu Trì Cung, trong thời Tam Kỳ Phổ Độ này nhiệm vụ của cô là độ
dẫn linh hồn người tín đồ Cao Đài giữ đúng pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ lên từng trời
Hạo Nhiên Thiên, như được nói trong bài Kinh Đệ Thất Cửu:
" Nhẹ phơi phới dồi dào không khí,
Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan.
Đẹp xinh cảnh vật đòi ngàn,
Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng
Thiên.
Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo hóa,
Kiến Chuẩn Đề thạch xá giải thi.
Dà Lam dẫn nẻo Tây Qui,
Kim chung mở lối kịp kỳ kỵ sen.
Động Phổ Hiền Thần Tiên hội hiệp,
Dở Kim Cô đưa tiếp linh quang.
Im lìm kìa cõi Niết Bàn,
Lôi Âm trống thúc lên đàng thượng Thiên.
"
* Thất Nương Diêu Trì Cung.
Bên cạnh đó, cô
còn giúp đỡ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các nữ
hồn thất thệ nơi
cõi Âm Quang như đã nói trong một đàn cơ như vầy:
" Thưa
cùng mấy chị, em xin nhắc nhở điều nầy, ngày hội Ngọc Hư đặng lo phương tiếp
pháp của Tây Phương Cực Lạc qua, em đã đặng nghe thấy những lời của Địa Tạng
Vương Bồ Tát than thở rằng: Ngài là Phật nên khó gần gủi các hồn Nữ phái mà
khuyến giáo cơ giải thoát mê đồ. Bởi cớ nơi Âm Quang nữ hồn còn bị luyện tội
nhiều hơn Nam bội phần. Em lại nghe Người ước rằng, chớ chi có một Đấng Nữ Tiên
dám đảm đương đến phổ tế mới mong tận độ chư vong của phong Đô thoát kiếp, em mới
để dạ lo lường cả lòng lẫn ái đến đó. Em đã chán thấy nhiều tội tình chẳng trọng
hệ, song có hồn chịu sầu thảm lạ thường. Em đã liệu nhiều phương thế cho từ đây
mấy chơn hồn có bề dễ tránh khỏi cửa Âm Quang hãm tội."
Thăm mộ của cô
xong 3 ông trở về, tới nhà cũng vừa lúc 9 giờ, liền đem bàn ra để cầu cô Quế.
Cô giáng bàn, xác nhận đó là ngôi mộ của cô và cảm ơn 3 ông về sự thăm viếng ấy.
Mấy ông đều lấy làm cảm kích và phấn khởi trong việc xây bàn, thấy được cái bí
mật vô hình mà ít ai được biết đến.
Tiếng đồn cô
Vương Thị Lễ giáng cơ được loan truyền đi khắp nơi, khiến cho gia đình thân
nhân của cô tìm đến tận nhà ông Cư để được dự đàn, làm mấy ông không thể từ chối.
Trong buổi xây bàn bửa đó có 2 vị khách lạ tự xưng là người thân của cô Lễ. Khi
cô giáng bàn thì ông Cư hỏi:
" Tứ muội
có biết 2 ông khách lạ nầy là ai không? "
Cô mới gõ bàn trả
lời:
" Đào
Nguyên lạc lối buổi vong Hưng. "
Hai ông khách lạ
nầy tên là Võ Văn Nguyên và Lâm Duy Hưng. Khi nghe đúng tên mình họ liền đốt
nhang khấn nguyện và đáp lại rằng:
"Đốt nén
hương xin tỏ Lễ mừng."
"Lễ" là tên thật của cô. Cô gõ bàn tiếp:
"Tri kỷ còn nhiều ngày gặp gỡ."
Hai ông tiếp:
"Chạnh lòng nhớ đến buổi thanh xuân."
Sau đó ít lâu, ông Vương Quang Trân là thân phụ của cô Quế
cũng đến hầu
đàn, xin mấy ông giúp cho được nói chuyện với con của mình.
Trong buổi xây bàn hôm đó, cô giáng bàn mừng cha và gõ bài
thi như vầy:
" Xin mừng phụ thân, phụ thân đứng dậy.
Cúi lạy thân sinh thứ lỗi con,
Âm dương tuy cách hiếu tâm còn.
Hồn quê nắm níu tình non nước,
Phách quế náo nương dạ sắc son.
Ác lặng Tây đòa, già nhớ trẻ,
Nguyệt
tầm non Thái, dạ thon von.
Thấy
nhau thêm tủi đường ly hiệp,
Đá
nát xương tan nghĩa mặn nồng.
Thân
hiếu đã cam lỗi phận con,
Tình
thương non nước vững bền còn,
Sông
Ngân buồn đượm màu xanh lẽo,
Biển
Bắc thảm pha sắc lợt son.
Diều
lạc một phương trời nhỏ lụy,
Nhạn tầm nẽo thảm đất hao mòn.
Chân mây nhắn tiếng sầu dài dắn,
Thân phụ xin thương thứ lỗi con."
Bửa nọ khi mấy
ông xây bàn thì có cô Quế giáng nói chuyện. Ông Sang mới hỏi là:
"
Tứ muội còn chị em nào biết làm thi xin mời giùm về để họa thi cho vui."
Cô Quế gõ bàn trả lời:
"
Có chị Hớn Liên Bạch làm thi hay lắm, vậy xin chờ em một chút. "
Lát sau bàn chuyển động, cô Quế giới thiệu cô Hớn Liên Bạch.
Ông Sang có
ý hồ nghi cô Quế nói gạt mình nên nói nửa đùa nửa thật:
"
Xin để tôi ra đề cho cô bạn mới làm thơ."
Ông Sang liền ra
đề: " Tiển biệt
tình lang ".
Bàn liền uyển
chuyển gõ mà không ngừng nghỉ gì cả, khi ráp lại thành chữ thì
được một bài thi
như thế nầy:
" Chia gương căn dặn buổi trường
đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Đêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Mờ
mệt non Vu ngơ ngẩn luống,
Dặm đâu cách bức nghĩa đâu khinh."
*
Hớn Liên Bạch
Rồi sau đó cô Bạch
xin đổi 2 câu chót là:
" Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xôi ai thấu nỗi đinh ninh. "
Ông Sang xin cô
làm tiếp một bài nữa lấy nhan đề là: "Hoài lang". Bàn liền gõ
ra bài thi sau đây:
" Động Đình nhớ buổi tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ thần chạnh lúc vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường.
Mượn vận, lương nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương."
*
Hớn Liên Bạch
Trong một buổi
xây bàn, mấy ông kiếm nhớ những bạn tác nào lúc còn sanh tiền biết làm thi mà mời
về đặng thử nữa. Đoạn ông Cư mới nhớ đến ông Huỳnh Thiên Kiều đã mất cách đây
khá lâu mà lúc còn sống ông làm việc tại sở Tuần Thành, bổ vào dinh Đốc lý Sài
Gòn, coi về sở Patentes. Ông Kiều là một nhà thơ nổi tiếng, hiệu là Quí Cao.
Ông Cư vái ông
Quí Cao về xướng họa thi văn. Lát sau, ông Quí Cao gõ bàn, xin họa bài thi "Tiễn
biệt tình lang" của cô Bạch như vầy:
" Ình ình trống giục thảm trường
đình,
Đau nỗi chia phôi một chữ tình.
Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,
Phụng lầu gác quyển đợi hòa thinh.
Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.
Kẻ ở phương trời người góc biển,
Lòng thành nhắn gởi chữ khương ninh."
*
Quí Cao
Sau đó ông Quí
Cao gõ bàn tiếp:
" Nhắn nhủ mấy anh một ít lời,
Làng mây hồn trẻ đã xa chơi.
Mẹ già nỗi hiếu chưa rồi đạo,
Vợ yếu niềm duyên chẳng trọn đời.
Chạnh nhớ quê xưa lòng xót xáy,
Buồn trông cảnh cũ dạ bời bời.
Ai về gởi lại tình sông núi,
Kiếp khác ân sinh sẽ đáp bồi."
*
Quí Cao
Một hôm ông Sang
có tâm sự nên đề một bài thi tự thán có ý than thân trách
phận như vầy:
" Sầu dài ngày vắn dễ chi vui,
Toan tính thâu đêm ruột rối nùi.
Ngược gió thuyền đầy cơn gió dập,
Xuôi dòng nước lớn giạt bèo trôi.
Bước đường danh lợi thêm gay trở,
Ngảnh lối tang thương luống ngậm ngùi.
Lần lựa xuân hè năm tháng lụn,
Thôi thôi đến thế, thế thì thôi."
Ông Sang đem bài
thi nầy cho mấy ông trong nhóm xây bàn cùng coi rồi họa
lại chơi. Sẵn dịp
xây bàn cũng cầu cô Quế họa nữa. Cô Quế giáng bàn họa vận lại:
"Chung tình đoạn gánh khó làm vui,
Lần gỡ chưa xong chỉ rối nùi.
Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt chứng,
Hương thề nay thả giữa dòng trôi.
Kim rời cải rụng lòng ngao ngán,
Đá nát vàng phai dạ ngậm ngùi.
Một khối tuyền đài tình khó dứt,
Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi."
*
Đoàn Ngọc Quế
Sau đó có ông
Cao Hoài Ân là thân phụ của ông Sang giáng bàn nói chuyện.
Ông Diêu có thưa
như vầy:
"Sẵn dịp
anh về đây nhằm lúc Sang làm một bài thi tự thán, cậy mấy anh em tôi họa. Vậy
anh họa chơi luôn thể. Anh cứ việc đề thi dạy nó thế nào thì anh định lấy,
nhưng tùy theo vận của Từ Thứ mà lâu nay làng thi chịu phục là: voi, mòi, còi, roi,
thoi mà làm."
Dứt lời thì mấy
ông được ông Ân gõ bàn cho bài thi họa như sau:
" Thuyền khơi gió ngược khá nương
voi,
Vận thới hầu nên đã thấy mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm rỡ,
Rừng tòng buổi trước một cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruổi đường hòe há nhọc roi.
Nín nẩm chờ qua cơn bĩ cực,
Thìn lòng chúng có lượng đôi thoi."
Cao Hoài Ân.
Sau khi tiếp được
bài thi mấy ông đều trầm trồ khen ngợi. Được biết, ông Cao Hoài Ân là chơn linh
Xuyên Quan Tư Bộ giáng trần.
Vận thơ Từ Thứ
là các vần "voi, mòi, còi, roi, thoi" nằm trong bài thơ "Từ
Thứ Qui Tào" của Tôn Thọ Tường đặt ra. Từ Thứ tự là Nguyên Trực làm
Quân Sư cho Lưu Bị trước khi Lưu Bị gặp Khổng Minh thời Tam Quốc, sau vì mắc kế
của Trình Dục đành vì chữ hiếu mà đầu Tào Tháo rồi giới thiệu Khổng Minh cho
Lưu Bị. Sau nầy, vào ngày 18 tháng 10 năm Quí Dậu (1933), ông có giáng cơ như vầy.
" TỪ THỨ
HUYỀN ĐẠO CHƠN QUÂN
Chào chư vị Đại
Thiên phong.
Bần tăng rất
cảm tình trọng tiếp. Cười…
Hay dở của đời
thường rằng do tài năng. Bần tăng thấy rõ trước sau cũng thế, ấy sự tự nhiên thế
đạo hành tàng.
Bần tăng nhớ
đến cảnh tình lúc hạ sanh gặp đời Tam Quốc, cả tài tình, cả trí thức, cả quảng
kiếp, cả đa văn, đáng lẽ bần tăng đủ phương tế thế, chẳng phải không hiểu mà
quên câu trung hiếu cho đồng, những cuộc trở cách oan gia, vì một ơn báo bổ
sanh thành, đành chôn lấp tấm hùng anh tạo thế.
Bần tăng thử
hỏi, đã hơn mười kiếp tái sanh đoạt đến phẩm Chơn Quân mà cái dở ấy ngày nay
còn để thẹn. Cũng chẳng vì Hớn mà phụ Tào, song tại thất thời không trở vận.
Thưa Hộ Pháp,
cả Hội Thánh Đại Đạo của Chí Tôn ngày nay cũng vậy. Bần tăng tưởng gương trước để gián sau. Thảng
như đạo nhân biết đặng toàn nhơn sanh là trọng mà khinh thế cuộc vô thường, nói
cho cùng, dầu phải phủi sạch đạo nhơn luân, nạp thân vào cửa Thánh cũng đành,
có đâu bước lùi bước sụt, lỡ dở đạo đời thì mong chi xây thế cuộc.
Cười… Chỉn e ngày kia họ sẽ lưu hận y như bần
tăng mà chớ.
Nếu Ngài để hết
dạ thương, cầm ngọn đuốt thiêng liêng dìu dẫn, thì xin quyết định buộc tùng đạo
phế đời, thì là Ngài tạo Thiên đường cho họ đó.
Xin nghe thi:
" Căn quả nhơn luân trả khó cùng,
Đừng vì hiếu nghĩa phế tâm trung.
Ven mây đã thấy đường ngân hải,
Dựa
truyện chớ quen núp bóng mùng.
Ngựa
tứ rảnh chơn chơi cảnh trí,
Hạc đồng khỏe cánh hứng thanh phong.
Trường công quả ấy không thường gặp,
Cửa Võ thiêng liêng gắng vẫy vùng."
Cười… xin Hộ
Pháp và Tiếp Thế truyền lời ước vọng của bần tăng đây cho toàn chức sắc Thiên
phong của Hội Thánh thì có lẽ bổ ích tâm tình đôi chút. Đa tạ!
Đa tạ!
Xin chư hiền
huynh và chư hiền tỷ ráng để ý triêm nghiệm bài Thánh Ngôn nầy, ngõ hầu giúp
thêm tinh thần và chẳng còn sụt sè về mặt phổ tế nhơn sanh nữa."
Vài ngày sau, ông Nguyễn Trung Hậu hiệu là Thuần Đức,
nguyên trước là thi hữu với thi sĩ Quí
Cao, nghe tin ông bạn giáng bàn làm thi nơi nhà ông Cư có ý không tin nên muốn
đến tìm hiểu thực hư ra sao cho biết. Mấy ông thỉnh bàn ra, đốt nhang vái ông
Quí Cao rồi ngồi đặt tay lên bàn. Tịnh tâm một chốc thì bàn bắt đầu chuyển động.
Ông Quí Cao gõ bàn cho 4 câu thi nầy:
"Âm dương tuy cách cũng chung trời,
Sinh tịch đời người có bấy thôi.
Chén rượu đồng tâm nghiêng ngửa đổ,
Thương nhau nhắn nhủ một đôi lời."
* Quí Cao
Ông Hậu thoạt đầu
cũng còn bán tín bán nghi rồi nói:
" Tôi sẵn
có 1 bài thi đem theo đây xin đọc cho anh nghe và xin anh họa lại cho vui.
"
Ông Quí Cao gõ
bàn trả lời tỏ ý ưng chịu.
Bài thi của ông
Hậu như vầy:
" Mấy năm vùng vẫy cũng tay không,
Nào khác chiêm bao một giấc nồng.
Cử nắng tuần mưa dày dạn mặt,
Mồi danh bả lợi ngẩn ngơ lòng.
Ngày qua thỏn mỏn xuân thu dập,
Gương rạng phui pha cát bụi lồng.
Chừ gặp cố nhân lời ướm hỏi,
Hỏi ra cho biết nẻo cùng thông. "
*
Nguyễn Trung Hậu
Ông Quí Cao liền
gõ bàn họa lại một mạch không ngập ngừng chút nào cả.
" Một tiếng u minh gióng cửa không,
Phồn hoa giục tỉnh giấc đương nồng.
Ngồi thuyền bát nhã qua tình biển,
Mượn nước nhành dương rưới lửa lòng.
Cuộc thế lạnh lùng lằn gió lọt,
Đường đời ngán ngẫm bụi trần lồng.
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên đạo,
Oan trái phủi rồi phép Phật thông."
*
Quí Cao
Sau đó ông Hậu mới
tin và không nghi ngờ nữa.
Trong buổi xây
bàn khác, ông Cư có nói với mấy ông Tắc, Sang và các bạn trong nhóm xây bàn rằng:
" Bình sanh
tôi lấy làm phục thi văn Lý Bạch, nay chúng ta xin cầu Ngài hỏi ý thi."
Sau đó mấy ông
khấn cầu Lý Bạch và được giáng bàn gõ cho bài thi nầy:
" Đường trào hạ thế hưởng tam quan,
Chẳng quản công danh chỉ vị nhàn.
Ly rượu trăm thi lời vẫn nhắc,
Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng đảo còn mơ ngày bút múa,
Tả tình thế sự, vẽ giang san."
*
Lý Bạch
Sau đó mấy
ông còn cầu thi hào Đỗ Phủ về trao đổi thi phú. Ông Đỗ Phủ giáng bàn gõ cho bài
thi họa vận lại bài của Lý Bạch như vầy:
" Chẳng nể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng lai riêng thú hưởng thanh nhàn.
Thi Thần vui vịnh ngoài rừng trước,
Rượu Thánh buồn say dưới cội tàn.
Nắng hạ trời thương dương gió quạt,
Nồng thu đất cảm đổ mưa chan.
Vân du thế giới vui màu đạo,
Sớm dạo Kỳ san, tối Cẩm san."
*
Đỗ Phủ
Lý Bạch là một
nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đường, ông được tôn là Thi Tiên. Chơn linh của
ông là Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh, trong thời Tam Kỳ Phổ Độ này ông được
Chí Tôn giao phó cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm, đại diện cho Tiên Giáo và sau
nầy khi ông Ngô Văn Chiêu, vốn được chỉ định làm Giáo Tông, không vượt qua cơn
khảo thì ông kiêm nhiệm thêm chức Giáo Tông.
Còn Đỗ Phủ là một
nhà thơ nổi bật thời nhà Đường cũng cùng thời với ông Lý Bạch. Ông cùng với Lý
Bạch được xem là 2 nhà thơ vĩ đại nhất lịch sử Trung Hoa.
XÂY BÀN GẶP ĐẤNG A.Ă.Â.
PHẠM CÔNG TẮC LẦN ĐẦU PHÒ
CƠ.
Vào đêm Rằm tháng 7 năm Ất Sửu (1925), nhóm xây bàn của mấy
ông cũng tổ chức xây bàn như mọi khi
thì có một người giáng bàn gõ
3 tiếng, hễ gõ 1 là A, gõ 2 là Ă, gõ 3 là Â. Người nầy chỉ gõ 3 tiếng rồi ngưng, mấy ông hỏi nữa thì không trả lời gì hết. Ông Cư mới nói:
"
À chịu tên A-Ă-Â rồi!
"
Xong rồi người
đó có gõ bàn cho bài thi như vầy:
" Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai. "
Đoạn ông Tắc mới
bảo với ông Cư rằng:
" Thôi
đi anh, ai đâu mà nói tiếng gì khó nghe quá, sao lại không có tên xưng là
A-Ă-Â. "
Ông Cư mới nói với
ông Tắc:
" Ậy, em
ngồi lại cho qua hỏi, vị nầy không phải tầm thường đâu em. "
Ông Cư hỏi người
gõ bàn:
" Vậy chớ
ông bao nhiêu tuổi? "
Ông gõ bàn viết
mãi, không biết bao nhiêu trăm, rồi ngàn, rồi muôn mà còn
viết nữa. Ông Cư
thấy vậy mới hỏi:
"Sao ông
cả triệu tuổi vậy?"
Thật ra ông
A-Ă-Â chính là Đức Chí Tôn. Chí Tôn đến gõ bàn 3 cái ý là muốn xưng danh là "Tam",
3 cái tức là số 3, mà số 3 tức là Càn Khôn vũ trụ định thể, số thiêng liêng tạo
vạn vật vậy.
Ông A-Ă-Â gõ cho bài thi như vầy:
" Đời hiếp lẫn nhau nỡ chẳng thương,
Thương đời nên mới đến đem đường.
Đường dài vó ngựa tua bền sức,
Sức yếu lòng người khó để gương.
Gương đạo noi theo đường Thuấn Đế,
Đế dân vẹn giữ lối Văn Vương.
Vương hầu lê thứ ai là chí,
Chí quyết làm cho thế khác thường."
Mấy ông mới hỏi
vậy chớ ông A-Ă-Â ở đâu, thì ông A-Ă-Â gõ bàn trả lời bằng bài thi nầy:
" Tròi trọi mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náu nương thân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ bước nhờ con hạc trắng ngần.
Bố hóa người đời gây mối đạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần. "
Ông A-Ă-Â còn nói:
" Muốn
cho bần đạo đến thường, xin chư vị nạp lấy mấy lời yêu cầu của bần đạo như sau
đây:
* Một
là đừng tìm hiểu và biết bần đạo là ai.
* Hai là đừng hỏi quốc sự.
* Ba là đừng hỏi thiên cơ. "
Từ đó, nhóm của
mấy ông xem ông A-Ă-Â như là một thi hữu cùng nhau trao đổi phê bình văn học nghệ thuật. Hễ ai
giáng gõ cho thi mà chổ nào không hiểu thì mấy ông đều cầu ông A-Ă-Â giải nghĩa
dùm.
Trong một buổi xây
bàn có ông Nguyễn Trung Hậu tham dự, ông A-Ă-Â có gõ bàn cho ông bài thi như vầy:
" Thuần văn chất đức rất tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Đến hồi búa Việt giục cờ Mao. "
Cho đến giờ,
trong buổi xây bàn hôm ấy chưa ai biết ông Hậu có hiệu là Thuần Đức, vậy mà ông
A-Ă-Â lại biết. Nên sau khi nhận được bài thi thì ông Hậu rất phục ông A-Ă-Â.
Nhưng do không hiểu ý nghĩa câu thơ cuối là gì nên mấy ông có cầu ông A-Ă-Â giải
nhĩa dùm. Ông giải nghĩa như vầy:
" Cờ
Mao, búa Việt là vật binh quyền của Hiên Viên Huỳnh Đế ban cho Trấn chư hầu đặng
quyền chinh phạt."
Ngũ Đế Thương Châu còn dùng:
" Đáng
phạt thì phát cờ Mao,
Đáng giết thì
ban búa Việt."
Cờ Mao thì màu hồng,
trên lá cờ có đề 4 chữ "Mao trừ loạn tặc".
Búa Việt trên lưỡi
có khắc 4 chữ "Việt sát phản thần."
Ông Hậu bạch với
ông A-Ă-Â rằng:
" Tôi
còn nhớ 2 câu đối thuở nay chưa ai đối được. Xin đem ra cho Ngài đối chơi.
"
Ông A-Ă-Â
đáp:
" Bần
đạo xin hầu đối, nhưng nếu đối không chững quí vị chớ cười và niệm tình bần đạo
mà chấn chỉnh lại cho. "
Ông Hậu ra
đối:
"Ngồi
yên ngựa đừng bò con nghé. "
Ông A-Ă-Â
đối lại:
"Cỡi
lưng trâu chớ khỉ thằng tê."
Ông Hậu ra
đối:
"Ngựa
chạy mang lạc."
Ông A-Ă-Â
đối:
"Cò
bay le bè."
Tất cả thi
sĩ có mặt trong buổi xây bàn hôm đó đều hết sức hững hờ và phục tài thi phú của
ông A-Ă-Â, đối đáp tuyệt diệu. Ông Trương Hữu Đức và thi sĩ Bồng Dinh mới nói:
"Đây
chỉ có tiên nhân mới đáp nổi chứ chúng tôi thì chịu."
Thi sĩ Bồng
Dinh bạch với ông A-Ă-Â rằng:
Trong Kiều
có câu:
"Sửa sang niếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa."
Chẳng
hay niếp tử xe châu là gì? Xin Ngài chỉ giáo."
Ông A-Ă-Â
đáp rằng:
" Niếp
tử là cái rương của thầy
Khổng Tử. Xe châu là cái xe của Châu Võ Vương ngồi đi phạt Trụ. Cái rương của
thầy Khổng Tử dùng đựng sách vở, tức là văn chương. Người văn sĩ thác rồi thì
bao nhiêu học thức văn chương cũng theo xác thịt mà chôn vào quan cửu. Nên Nguyễn
Du mới dùng 2 chữ ‘niếp tử’ để gọi cái quan tài của bực văn chương tài tử là
nàng Đạm Tiên.
Vua Châu Võ
Vương ngồi long xa đi phạt Trụ tức là gồm thu giang sang nhà Trụ vào đấy. Con
người ở đời làm được bao nhiêu sự nghiệp, khi thác rồi cũng phủi tay không thì
chẳng khác nào bao nhiêu sự nghiệp tự mình gầy dựng ra trong buổi sanh tiền sau
khi nhắm mắt rồi, thảy đều thâu vào trong linh xa vậy. Cho nên, Nguyễn Du mới
dùng cái xe Châu để gọi cái linh xa của bực tài tình bạc mạng."
Tất cả mọi người
đều chịu phục luận ngữ văn học của ông A-Ă-Â. Sau đó mấy ông mới hỏi về ý nghĩa
câu thơ trong bài họa của Quí Cao hôm nọ là:
"Ngồi
thuyền bát nhã qua tình biển."
Ông A-Ă-Â giải
nghĩa cho mấy ông như vầy:
" Bát
nhã Ba la mật là Phật độ vong hồn qua khỏi biển khổ đặng đến Tây Phương, vì trước
khi đến Tây Phương phải qua một cái biển khổ, biển tình là cái biển khổ. Tình
là oan oan, oan oan là khổ, và tiếp theo chữ "phồn hoa" trong thơ của
Quí Cao như sau:
Phồn nghĩa là
trong vòng,
Hoa là sắc dục.
Phồn hoa có
nghĩa là trong vòng sắc dục. Do đó giấc phồn hoa tức là giấc phàm.”
Cách ít lâu nhóm
xây bàn của mấy ông có gặp cô Hớn Liên Bạch, cô có dẫn đến giới thiệu với mấy ông một người xin
ra mắt. Nhân dịp tiết thu nên mấy ông xin cô cho một bài thi. Cô giáng bàn gõ
cho bài thi tựa là "Bi Thu" như vầy:
" Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn đào điểm sắc thu.
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruỗi gió thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dặm vẻ làu.
Non nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn hoa cảnh úa giục cơn sầu.
Lục Nương kỉnh hiến. "
Dứt bài, cô lại
gõ bàn cho bài điệu động đình như sau:
" Đầm ấm cảnh trời mai ác lố,
Thơ thới đưa thuyền khổ khách chèo,
Nhấp nhô lượn sóng khỏe lèo,
Luồng đông gió tạt cánh bèo ngưng sông.
Một chiếc quạnh bóng hồng nháng ngọn,
Mây đoanh non tuyết đóng nhành thung,
Về Nam đổ cánh rừng tòng,
Ngút xem tủa áng cây đông khóa rèm.
Đường xúm xít chị em ruỗi bước,
Dắt dìu nhau kẻ trước người sau,
Tìm nơi hứng giọt mưa dâu,
Để cơn khao khát khoe màu phù dung.
Đờn nhắn khách năm cung nhặt trỗi,
Vẹt mây đen gió thổi chiều hôm.
Quang âm ngày tháng dập dồn,
Ngừa khi trễ bước hoàng hôn trở đường.
Đường muôn dặm khách đơn thân,
Mượn bóng trăng làu bước vẹn chân.
Khóa kín song thu trau hạnh đức,
Chờ khi đạo trọn đến non thần.
Non thần tiếng hạc chầu vang đảnh,
Chờ rước người ngay chánh tìm đường,
Mơ màng chưa tỉnh huỳnh lương,
Sóng xao biển khổ nên thương khách trần.
"
*
Lục Nương
Nghe xong bài
thi động đình nầy mấy ông khen tặng chẳng cùng. Sau đó mấy ông có cầu ông A-Ă-Â
giải nghĩa dùm 2 câu thơ trong bài "Bi thu" của cô Lục Nương.
Hai câu đó là:
" Ngựa vàng ruỗi gió thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dặm vẻ làu."
Ông A-Ă-Â giải
nghĩa cho mấy ông như vầy:
"Trường quang ánh sáng mặt trời."
Kim Mã, Ngọc Thố:
Kim Mã: Ngựa
vàng là mặt trời.
Ngọc Thố: Thỏ ngọc
là mặt trăng.
Thi văn lựa hai
thú ấy mà chỉ mặt trời và mặt trăng, vì hai thú ấy chạy mau, con này rượt con
kia, hết ngày tới đêm, hết đêm tới ngày, chỉ là ngày giờ qua mau rất lẹ. Thi
văn cũng dùng Kim Mã quá song, chỉ ngày giờ qua rất mau lẹ.
Đến lối thượng
tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), có cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn dạy mấy ông về
Diêu Trì Cung là trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có 9 vị Tiên Cô.
Phần cô đứng về Thất Nương, cô Hớn Liên Bạch là Bát Nương và có cho mấy ông biết
tên các vị còn lại nữa.
Khi ấy ông Sang
mới nói:
" Cô là
Tiên, chúng tôi là phàm, vì không biết nên mới nhận cô làm tứ muội,
xin cô tha lỗi.
"
Cô Quế mới trả lời
là:
" Sau nầy
khi ngộ đạo, Thiên Phẩm của ba anh còn cao hơn em nhiều. Chừng đó sợ em không xứng
đáng làm tứ muội của ba anh. "
Ông Cư bèn xin
cô chiếu cố dạy cách nào cầu lịnh Kim Mẫu đến đặng. Khi ấy cô Quế mới nói với mấy
ông:
" Ba anh
muốn cầu thì phải ăn chay trước ba ngày và cầu vào đêm Trung Thu, phải có Ngọc
Cơ cầu mới đặng. "
Mấy ông nghe nói
đến Ngọc Cơ nhưng chẳng hiểu là cái chi, ông Cư mới xin cô chỉ dạy. Khi ấy cô
Quế mới tả hình dáng Ngọc Cơ, dẫn giải rõ căn cội là lấy hình chùm sao Bắc Đẩu
tạo thành, rồi còn dạy cho mấy ông cách phò Ngọc cơ, biểu mấy ông mỗi người làm
sẵn một bài thi mừng trước nữa.
Đang trong lúc mấy
ông còn phân vân không biết chạy tìm Ngọc Cơ nơi nào thì dịp may lúc bấy giờ có
ông Phán Phan Văn Tý quê quán ở Thủ Dầu Một, làm việc ở sở Trường Tiền, là người
theo đàn Minh Thiện Thủ Dầu Một vốn là bạn cũ của ông Cư và ở gần nhà ông Cư tại
đường Bourdais, Sài Gòn. Ông Phán Ty qua lại chơi nhà ông Cư có thấy mấy ông
Cư, Tắc, Sang xây bàn cầu Tiên được một bài văn thì lâu quá, nhưng ông chưa dám
nói. Mãi đến khi ông Cư qua nhà nói có ý muốn cầu bằng Ngọc Cơ nhưng chưa có,
ông Phán Tý liền cho biết ông đang có một cây Ngọc Cơ, để ông lấy cho mượn.
Ông Phán Tý liền
đi đến ông Âu Kích, tức là Âu Kiệt Lâm pháp danh Âu Minh Chánh ở chùa Minh Lý, đường Douamont
để đòi lại Ngọc Cơ mà ông đã cho ông Âu Kích mượn từ lâu để thỉnh kinh. Ông Kích
nói:
" Hiện
giờ tôi chấp bút được rồi, ít khi dùng đến Ngọc Cơ, xin gởi trả lại ông. "
Ông Phán Tý liền
lấy Ngọc Cơ về cho ông Cư mượn.
Vốn dĩ nguồn gốc
của cây Ngọc Cơ ông Phán Tý đang có là do ông thỉnh nơi chùa Hội Khánh ở Thủ Dầu
Một. Ông Trần Hiển Vinh tu ở chùa Hội Khánh thuộc chi Minh Thiện trong ngũ chi Minh Đạo có tạo
ra 12 cây Ngọc Cơ. Ông thân sinh của ông Vinh là một pháp sư rất sành việc cầu
cơ thỉnh Tiên. Ông Phán Tý vốn tánh hiếu kỳ nên xin thỉnh 1 cây về nhà. Âu cũng
là cơ duyên để ngày nay có cho ông Cư mượn dùng.
Cây Ngọc Cơ nầy
gồm có một cái giỏ đan bằng trúc, xuyên qua miệng giỏ là một cái cán dài, ở đầu
cán có gắn một cọng mây xuyên qua cán làm như cái trục đờn gáo, dùng để cơ viết
ra chữ bóng trên mặt bàn. Cái giỏ cơ được bọc vải vàng bên ngoài phủ kín các
nang trúc. Ngọc Cơ phải được đặt nơi tinh khiết khô ráo, trước khi cầu cơ phải
xông hương khử trược.
Khi có Ngọc Cơ rồi
thì ông Phán Tý mới tập cho ông Cư và Tắc làm đồng tử phò Ngọc Cơ đặng viết ra
chữ bóng. Phải tập 2 ngày thì 2 ông mới phò Ngọc Cơ thuần thục.
Đến mấy ngày sau
đó ông A-Ă-Â cũng có giáng bàn dạy mấy ông vào ngày Rằm tới đây thiết tiệc chay
thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và chư vị Tiên Nương.
Ông dạy sắp đặt
cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình, đãi 10 người: Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên
Nương. Phần hữu hình có 3 người: ông Cư, ông Tắc, ông Sang. Việc sắp tiệc ấy do
bà Hiếu là bạn đời của ông Cư thực hiện. Trên là bàn thờ Phật Mẫu, ở dưới sắp 9
cái ghế cũng như có người ngồi vậy. Chén, đũa, muỗng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng
giống như đãi người hữu hình vậy. Lúc ấy ông Tắc mới hỏi ông A-Ă-Â rằng tiệc nầy
là tiệc gì? Ông A-Ă-Â mới trả lời là “Hội Yến Diêu Trì”. Mấy ông nghe vậy
thì biết vậy chớ cũng chưa biết giá
trị Hội Yến là gì cả.
Đúng ngày Rằm
tháng 8, vào chập tối ông Cư đốt hương xông trầm, trang hoàng rất tinh khiết và
không tiếp khách tối hôm đó. Ông Cư lên nhang đèn, cả thảy đều quì lạy, khấn
vái xong 2 ông Cư, Tắc đem Ngọc Cơ ra cầu, đây cũng là lần đầu tiên mấy ông
chính thức sử dụng Ngọc Cơ để cầu các Đấng.
Đức Bà Cửu Thiên
Nương Nương, tức là Đức Phật Mẫu giáng trước và tiếp theo là Cửu vị Tiên Nương
để lời chào mừng mấy ông. Thất Nương, chính là cô Quế hay giáng bàn gõ trò chuyện,
mới kêu mấy ông đờn rồi ngâm bài thi mà mỗi người đã làm trước để hiến lễ Đức
Phật Mẫu.
Chừng nhập tiệc
Thất Nương mời 3 ông ngồi vào bàn cho vui nhưng e thất lễ nên mấy ông không
dám, sau bị ép quá nên mới sắp ghế sau 9 cái ghế của các cô, xá rồi ngồi xuống.
Bà Hiếu sắp đặt đồ chay sẵn, đi vòng quanh bàn dài gắp đồ ăn vào chén, rồi rót
rượu, nước trà đãi giống như đãi người hữu hình vậy Cách nữa giờ sau như là mãn
tiệc, ông Cư và ông Tắc đem Ngọc Cơ ra tái cầu.
Lịnh Nương Nương
và Chín vị Tiên Cô giáng cơ để lời cảm tạ và nói từ đây có Ngọc Cơ thì tiện cho
Diêu Trì Cung đến dạy việc. Xong mỗi vị cho một bài thi làm kỷ niệm:
Cửu Thiên Nương Nương
Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,
Thiên Thiên cửu phẩm đắc cao huyền.
Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ,
Nữ hão thiện căn đoạt Cửu Thiên.
Nhứt Nương
Hoa thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba e tuyết đông về.
Non sông trải cánh Tiên lòe,
Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.
Nhị Nương
Cẩm tú văn chương hà khách đạo?
Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh Tiên còn mến, cõi trần anh thư.
Tam Nương
Tuyến đức năng hành đạo,
Quảng trí đắc cao huyền.
Biển mê lắc lẻo con thuyền,
Chở che khách tục, cửu tuyền ngăn sông.
Tứ Nương
Gấm lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa.
Đợi trông nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.
Ngũ Nương
Liễu yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiu hiu nhẹ gót phong trần,
Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.
Lục Nương
Huệ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.
Nương mây như thả cánh hồng,
Tiêu diêu phất phướn, cõi tòng đưa Tiên.
Thất Nương
Lễ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
Ngày xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.
Bát Nương
Hồ Hớn hoa sen trắng nở ngày,
Càng gần hơi đẹp lại càng say.
Trêu trăng hằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.
Cửu Nương
Khiết sạch duyên trần vẹn giữ,
Bạc Liêu ngôi cũ còn lời.
Chín chuyên buồn chẳng trọn đời,
Thương người noi đạo, Phật Trời cũng
thương.
Cũng trong đêm nầy,
cô Lục Nương có mời mấy ông cùng làm thi liên ngâm.
Cô xướng 2 câu,
còn lại thì 3 ông Cư, Tắc, Sang làm.
Lục Nương:
Trót đã đa mang cái nợ đời,
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.
Cao Quỳnh Cư:
Oằn vai Thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi đời.
Phạm Công Tắc:
Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công danh phú quý nhắm trò chơi.
Cao Hoài Sang:
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.
Lục Nương:
Ở thế sao chê tiếng thế buồn,
Buồn vui hai lẽ lấy cho đong.
Cao Quỳnh Cư:
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lấm bụi hồng.
Phạm Công Tắc:
Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy,
Phồn hoa mờ mịt giấc huỳnh lương.
Cao Hoài Sang:
Bờ dương chờ đặng phong trần rãnh,
Quảy gánh thơ đờn đạo bốn phương.
Đây nói thêm vài
nét về tiểu sử của cô Lục Nương Diêu Trì Cung.
Cô Lục Nương
Diêu Trì Cung từng có kiếp sanh ở nước Pháp, tên là Jeanne D'Arc (1412-1431) tự
là Pucelle d'Orléans, một vị nữ anh thư thời bấy giờ. Cô được sanh ra trong một
gia đình nông dân ở phía đông nước Pháp.
Năm 1428 cô được
13 tuổi, trong lúc đang chăn cừu ngoài đồng vắng thì có nghe tiếng nói thiêng
liêng giục cô phải lo cứu hoàng tử Charles VII, đồng thời cứu nguy cho nước
Pháp đang bị nước Anh xâm lăng. Sau đó vài năm cô trở thành một tướng võ trong
hàng ngũ quân Pháp. Lúc bấy giờ quân Anh đang vây Orléans. Khi thành sắp mất, bỗng
cô xuất hiện cùng với một đội quân tinh nhuệ dũng cảm và đánh bại quân Anh, nhờ
đó quân dân Pháp có hy vọng vùng lên và giành độc lập cho Pháp.
Sau đó cô rước
vua Charles đệ VII về Reims để làm lễ tấn phong năm 1430. Do không chịu được
thái độ tham quan ô lại của triều đình phong kiến, nên cô ly khai và tự đem
quân giải vây thành Campìegne. Cô bị người Anh bắt giữ, bị giám mục theo phe nước
Anh xét xử và bị kết tội là phù thủy. Cô bị hỏa thiêu khi chỉ vừa 19 tuổi. 24
năm sau, Giáo Hoàng cho tra xét lại vụ án và tuyên bố cô vô tội, rồi phong cô
là một người tử vì đạo. Năm 1920 Giáo Hoàng Biển Đức XV chính thức phong Thánh
cho cô. Cô có công giải phóng nô lệ, phong kiến, áp bức, xứng danh là một bậc
anh thư của Pháp cũng như là cả nhân loại.
Đến năm 1790, cô
tái kiếp giáng sanh vào gia đình một vị khâm sai Đại Thần là Hồ Văn Vui tại tỉnh
Biên Hòa, Việt Nam tên là Hồ Thị Huệ. Thời ấy vua Nguyễn Ánh và Quang Trung
đang tranh giành quyền lực. Đến năm Bính Dần (1805), niên hiệu Gia Long thứ 5,
cô được vua Gia Long và hoàng hậu chọn làm phối thất cho thái tử Minh Mạng, đến
năm 1807 sanh được con là Triệu Thị, 13 ngày sau cô qua đời. Lúc đó cô được 17
tuổi.
Nơi cõi thiêng
liêng cô Lục Nương có nhiệm vụ cầm phướn truy hồn, tiếp dẫn các chơn hồn của
tín đồ Cao Đài giữ đúng pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ lên tầng trời Kim Thiên, rồi
đưa chơn hồn vào cung Vạn Pháp để xem lại cựu nghiệp của mình, sau đó tiếp tục
vào cung Lập Khuyết xem lại ngôi xưa vị cũ, rồi được chim Khổng Tước chở lên đài Huệ Hương khử trừ trược khí để
vào cõi Niết Bàn, như được nói trong " Kinh Đệ Lục Cửu ":
" Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
Vào cung Vạn Pháp xem qua,
Cho tường cựu nghiệp mấy tòa thiên nhiên.
Cung Lập Khuyết tìm duyên định ngự,
Lãnh Kim Sa đặng dự Như Lai.
Minh Vương Khổng Tước cao bay,
Đem chơn thần đến tận đài Huệ Hương.
Mùi ngào ngọt thơm luôn Thánh thể,
Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.
Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan,
Đưa linh thẳng đến Niết Bàn mới thôi.
"
Trong bài kinh "Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu" cũng có câu:
" Lục Nương phất phướn truy hồn,
Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh."
Chừng Hội Yến
Diêu Trì rồi, các đấng thiêng liêng và các vị ra từ giã, kế có ông A-Ă-Â đến nhập
cơ. Ông Cư và ông Tắc mới tọc mạch hỏi:
"Khi nảy
Diêu Trì Cung đến có Ngài đến ở đó không?"
Ông A-Ă-Â
trả lời:
"Có
chớ, ta ở đây từ khi ban sơ đến giờ."
Mấy ông hỏi:
"Ngài
có thấy Diêu Trì Cung đến không?"
Ông A-Ă-Â
trả lời:
"Có
chớ, chính mình ta tiếp đãi."
Ông Cư hỏi:
"Diêu
Trì Cung ngó thấy Ngài không?"
Ông A-Ă-Â
trả lời:
"Không
ngó thấy."
Ông Cư hỏi:
"Sao
vậy?"
Ông A-Ă-Â
trả lời:
"Ta dùng phép ẩn thân."
Ông Tắc tọc mạch hỏi tiếp:
"Như đứa em của tôi là Thất Nương Diêu Trì có thể đạt đạo chăng?"
Ông A-Ă-Â
trả lời:
"Đạt
đặng chớ."
Ông Cư hỏi:
"Phải
làm sao?"
Ông A-Ă-Â
trả lời:
"Phải
tu, bằng không tu thì chẳng đạt đặng."
Ông Tắc hỏi:
"Tu
chừng bao lâu mới đạt đặng?"
Cái đó ông
A-Ă-Â làm thinh không trả lời. Ông Tắc hỏi tiếp:
"Một
năm? Năm năm? Một ngàn năm? Mười ngàn năm? Một trăm ngàn năm?"
Ông A-Ă-Â cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, mấy ông cũng không biết chừng nào mới đạt đặng, nghe
vậy thì hay vậy.
Từ khi mấy ông cầu
được các đấng bằng Ngọc Cơ rồi thì thường dùng Ngọc Cơ hơn là xây bàn. Vì phò
Ngọc Cơ tiếp chuyện nhanh hơn nhiều so với xây bàn. Còn bên nhà ông Sang thì
ông và ông Diêu vẫn cầu các đấng bằng xây bàn như trước giờ vẫn vậy.
VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO
Kể từ ngày Rằm
Trung Thu đến nay là đã cả tuần trôi qua mà mấy ông không cầu được ai để nói
chuyện. Đến đêm nay mấy ông nhất quyết ngồi trì chí từ 8 giờ tối tới 12 giờ
khuya. Rốt cuộc cũng có cô Thất Nương đến, mấy ông hỏi cớ sự vì sao thì được Thất
Nương trả lời là vì do không được lệnh nên cả tuần nay không đến thăm được.
Vài bửa sau mấy
ông có gặp ông A-Ă-Â, mấy ông cũng hỏi sao lâu rồi không thấy ông đến, ông
A-Ă-Â mới trả lời:
" Tôi
nói lộ thiên cơ trên Ngọc Hư Cung bắt tội, xin tam vị đạo hữu cầu trên Ngọc Hư
Cung tha tội cho tôi, nếu không lo cầu giùm thì tôi sẽ bị phạt."
Nghe vậy mấy ông
rất lấy làm lo lắng nên qua hôm sau vọng bàn hương án cầu Diêu Trì Cung, ông Cư
còn đặt bài thi đọc trước bàn hương án thế nầy nữa:
"Vái van xin quí Cửu Thiên Nương,
Tâu với Ngọc Hư tỏ ngọn nguồn.
Vì nghĩa A-Ă-Â mang trọng tội,
Nghĩ tình đồng đạo để tình thương."
Sau lễ cầu khấn
xin tội cho ông A-Ă-Â, mấy ông đốt bài thi trình lên thiêng liêng. Đêm đó Bát
Nương giáng cho biết ông A-Ă-Â rất hài lòng về thiện chí và sự kính mến của mấy
ông. Cô còn cho biết thêm chẳng ai dám bắt tội ông A-Ă-Â đâu.
Nghe chuyện lạ,
mấy ông mới chất vấn được Bát Nương trả lời rằng vấn đề nầy sau rồi sẽ rõ. Ý Đức
Chí Tôn muốn thử 3 ông.
Đến hạ tuần
tháng 10 năm Ất Sửu (1925), có Cửu Thiên Huyền Nữ giáng mách bảo mấy ông rằng:
" Mùng 1
nầy tam vị đạo hữu vọng Thiên cầu đạo. "
Bà thăng rồi mấy
ông mới họp nhau bàn giải, không hiểu cầu đạo là gì mà bà dạy. Để cầu hỏi mấy
em.
Ngày sau, mấy
ông cầu Thất Nương hỏi:
" Thất
Nương dạy giùm cầu đạo là gì?"
Thất Nương trả lời:
" Không
phải phận sự của em, xin hỏi ông A-Ă-Â. "
Qua bữa sau nữa
có các Đấng giáng về, mấy ông cũng hỏi thì đều được trả lời
rằng:
" Không
phải phận sự của tôi, xin hỏi ông A-Ă-Â."
Đến ngày 30
tháng 10 năm Ất Sửu (1925) có ông A-Ă-Â giáng dạy là:
" Ngày
mùng 1 tháng 11 nầy tam vị phải vọng Thiên cầu đạo. Tắm gội cho tinh khiết ra
quì giữa trời, cầm 9 cây nhang mà vái rằng: ‘Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công
Tắc, Cao Hoài Sang vọng bái Cao Đài Thượng Đế ban ơn đủ phúc lành cho 3 tôi cải
tà qui chánh."
Đêm hôm sau mấy
ông làm đúng như theo lời dạy, sắp một cái bàn vọng nhỏ ngoài sân, 3 ông cầm
nhang quì giữa trời bên lề đường. Lúc đó vào lối 9 giờ tối, Thiên hạ đi chơi về
tấp nập thấy chuyện ngộ nghĩnh tấp lại coi cho biết. Bị dòm ngó, tuy mấy ông thấy
có hơi nhột nhạt khó chịu cũng bởi vì tấn tuồng dị hợm nhưng vì sợ mạng lịnh đã
được giao nên thi hành. Lúc ấy lại có ông thi sĩ nổi tiếng bậc nhất miền Nam thời
ấy cũng đến rồi ngâm thi, ông nầy rất mê thi phú của Đức Chí Tôn, tới nỗi thuộc
hết và còn họa lại nữa, càng làm cho Thiên hạ thấy lạ mà bu coi nhiều hơn. Ông
Tắc thấy mắc cỡ nên định gát 2 tay lên bàn, vừa để lên thì bàn gõ nói chuyện.
Đêm ấy các Đấng thiêng liêng đến không biết bao nhiêu, đến các vị Giáo Chủ cũng
xuống giảng dạy và làm nhiều kiểu lạ lắm.
Đến khi nhang
tàn hết rồi thì mấy ông mới vào nhà, đúng thời Tý mấy ông lấy Ngọc Cơ ra cầu
Thượng Đế như đã được dạy trước. Đức Thượng Đế giáng nói như vầy:
" Ngọc
Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát giáo đạo Nam Phương."
Muốn được ta
truyền đạo kể từ bây giờ phải gọi ta bằng Thầy cho tiện bề đối đãi, và ta gọi lại
các con.
Vọng niệm phân thùy sự sự phi,
Cá lý thiên tâm thường thế nhẫn.
Thiên tâm tu hướng cá trung cầu,
Quân vẫn thiên tâm mạc tri tường.
Thiên đàng nhứt thế biến Lôi Âm,
Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm.
Chánh Giáo phát khai thiên thế mỹ,
Thâu hồi hiệp nhứt Đạo kỳ tam."
Mấy ông không hiểu
nên khi Đức Cao Đài thăng rồi mới thỉnh cái bàn ra cầu ông A-Ă-Â giải nghĩa,
ông nói như vầy:
" Ngọc
Hoàng Thượng Đế là Trời, viết là dạy rằng, Cao Đài chỉ Nho Giáo, Tiên Ông chỉ Đạo
Giáo, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Thích Giáo, giáo Đạo Nam Phương là dạy Đạo ở
phương Nam. Đức Cao Đài Thượng Đế muốn nói tam vị chưa đủ đức tin về Ngài nên hỏi
gạn lại tam vị phải nghĩ cho thấu."
Ông A-Ă-Â cho mấy
ông bài thi dạy đạo nầy:
" Cứ níu theo chân Đức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn cội tua xa lánh,
Vịn lấy cành dương hưởng đạo nhàn."
Cũng vì có nhiều
vị chưa vững đức tin nên ngày mùng 8 tháng 11, cô Lục Nương có giáng giải đáp
các thắc mắc cho mấy ông, là sở dĩ chỉ có Thất Nương, Lục Nương, và Bát Nương
thường giáng đàn vì các Tiên Nương khác đều có nhiệm vụ riêng. Sau đó cũng có
Huệ Mạng Trường Phan vốn là thầy tu trên núi Bà Đen giáng cho thi như vầy:
" Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy,
Nào dè có đặng buổi hôm nay.
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng Đảo ngày mai đặng hiệp vầy.
Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn,
Chẳng quãn mùi trần thiệt với hơn.
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn. "
Xin chư vị gắng
tu, thấp thỏi như tôi nhờ trọn tin Trời Phật còn được ân hưởng Huệ Mạng Kim
Tiên, huống hồ chơn linh cao trọng như quí vị nếu chịu tu ngày sau phẩm vị nơi
Thiên Đình còn đến mức nào."
Qua ngày mùng 9
tháng 11 năm Ất Sửu (1925), nhằm ngày lễ Noel là Chúa giáng sinh bên thái Tây,
khi mấy ông phò cơ thì có Thất Nương giáng truyền phải chỉnh đàn cho nghiêm
trang hầu tiếp giá. Nghe vậy mấy ông Cư, Tắc, Sang nữa mừng nữa sợ, lật đật sắm
hương đăng hoa trà tửu quả, chỉnh đàn có nghi tiết, rồi 2 ông Cư và Tắc ngồi chấp
cơ. Đấng A-Ă-Â giáng nói:
" NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
giáo đạo Nam
Phương.
Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên. "
Đêm nay phải
vui mừng vì là ngày Ta đã xuống trần dạy đạo bên Thái Tây (Europe). Ta rất vui
lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy (nhà của ông Cư) sẽ đầy ơn
Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.
Bấy lâu Thầy
vẫn tá danh A.Ă.Â. là cốt để dìu dắt các con vào đường đạo đức, hầu chẳng bao
lâu đây các con phải ra giúp Thầy mà khai đạo. Các con có thấy Thầy khiêm nhượng
là dườn nào chưa?
Các con nên bắt
chước Thầy trong mảy mún thì mới xứng đáng là người đạo đức."
Mấy ngày sau ông
A-Ă-Â giáng nói:
" Ba con thương Thầy lắm há?
Con thấy đặng
sự hạ mình của A-Ă-Â như thế nào chưa? Con có thấy thấu đáo cái quyền năng của
Thầy chưa? Người quyền thế nhứt như vậy có thể hạ mình bằng A-Ă-Â chăng?
A-Ă-Â
là Thầy
Thầy đến
con thế ấy, con thương Thầy không? "
Ông Cư mới
bạch:
" Thấy
nhơn sanh chưa rõ sự huyền diệu của Thầy, họ nói phạm thượng, 3 con binh vực Thầy, 3 con
cải vã với họ."
" Thầy
biết… cười… Sự nhỏ nhẹ của Thất Nương đó, con bằng mảy mún gì chưa? Học hỏi sự
nhỏ nhẹ ấy.
Sự cao kỳ của
Lục Nương, con có đặng mảy mún gì chưa? Học sự cao kỳ ấy.
Sự nhân đức của
Nhất Nương, con có chút đỉnh gì chưa? Phải học nhân đức của Nhất Nương.
Tình nghĩa
yêu mến của con có bằng Bát Nương không? Phải học.
Phải học tình
thân ái, trung tín, cứu giúp của ba con có đặng như Cửu Thiên Nương Nương
chăng? Phải học gương.
Sự kính nhường
ba con có bằng Cửu Nương chăng? Phải học.
Hạ ngươn tận
diệt, Thầy sai Thần, Thánh, Tiên, Phật và chính mình Thầy, vì thương chúng sanh
cũng hạ mình đến với các con, mượn việc xây bàn đùa giỡn với các con để các con
vui mà học đạo, hầu khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt chúng sanh."
Do mấy ông lúc bấy
giờ chưa rõ mối đạo lớn là thế nào và giáo lý ra sao, nên ngày 18 tháng 11 năm Ất Sửu (1926) Đấng
Cao Đài Thượng Đế có giáng dạy:
" Cư, Tắc
hai con đừng lấy làm việc chơi nhé. Thầy dặn hai con một điều nhứt nhứt phải đợi
lịnh Thầy, chẳng nên lấy ý tứ riêng mà phán đoán nghe.
Phận sự hai
con, trách nhiệm hai con Thầy đã định trước, song ngày giờ chưa đến phải tuân lời
Thầy nghe. Từ đây Thầy khởi sự dạy đạo. "
Đây là mốc thời
gian lịch sử trong cuộc đời của mấy ông cũng như đối với nền Đại Đạo, vì từ đây Đức Chí Tôn mới thật
sự dạy đạo cho mấy ông. Nhưng hễ gặp điều gì khó khăn do quen với khoảng thời
gian trước, mấy ông đều triệu hỏi các Đấng Thiêng Liêng nên Đức Chí Tôn có
giáng quở rằng:
" Thầy
đã nói A-Ă-Â là Thầy, Diêu Trì Cung là cung Diêu Trì, các Thánh đều có quả đó
là những Đấng Thầy lựa sai đến dạy dỗ mấy con, đừng triệu thường vì mỗi vị đều có phận sự riêng. Chư Tiên và chư
Thánh đều có quả song đừng triệu về mà chơi, kỳ dư có điều gì học hỏi."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét