" TUỔI ĐÃ BẢY MƯƠI CŨNG ĐỦ RỒI "
Vào những năm 1953-1954, chiến sự Điện Biên Phủ đang hồi
quyết liệt. Tòa Thánh trở thành cái nôi bảo sanh cho trí thức, thanh niên khỏi
bị Pháp bắt đem nướng vào chiến trường
miền Bắc. Các chánh khách lũ lượt kéo về Thánh Địa như Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường,
Phan Khắc Sửu, Vũ Tam Anh,…
Đạo phải lập nhà Quốc Sự Vụ cho họ tá túc. Các khoa
bảng như Trần Văn Tuyên, Nhị Lang, Phạm Xuân Thái, Hồ Hán Sơn,…Các trí thức khác làm trong các cơ quan đạo hoặc dạy học như Chu Văn Bình (tức Chu Tử), Trương Bảo Sơn (sau chủ nhiệm tạp chí Tân Phong), Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Văn Quyết,… nhứt là các thanh niên trong tuổi lính. Họ về Thánh Địa núp dưới bóng cờ Đạo Kỳ kéo theo sự di cư của gia đình về Tòa Thánh. Do đó mà số tín đồ tăng lên đột ngột. Thống kê của Lại Viện năm 1953 có khoảng 1.500.000 tín đồ không kể chi phái. Đến năm 1954 tăng lên gần 2.500.000.
Đó là những người
đạo từ 18 tuổi trở lên phải nhập môn lập thệ, có Sớ Cầu Đạo hẳn hoi, chưa kể vị
thành niên. Đền Thánh bất cứ thời nào, nhứt là thời Tý chật ních người, phải ngồi
cả ngoài sân để cúng và nghe Đức Hộ Pháp thuyết đạo.
Với số lượng tín
đồ đông đảo như thế, Đạo Cao Đài trở thành mối nguy hại cho những tên có dã tâm
muốn thâu tóm quyền lực. Nên chúng phải nghĩ ra nhiều cách để cản trở không cho
Đạo Cao Đài phát triển hơn nữa, và từng bước thực hiện kế hoạch tiêu diệt đạo.
Nhờ viện trợ của
Mỹ, Ngô Đình Diệm vận động phá vỡ “Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia” bằng
cách mua chuộc và chia rẽ các lực lượng giáo phái. Phòng Nhì của Diệm đã bỏ ra
100 triệu để mua chuộc Nguyễn Thành Phương (người nầy chưa nhập môn theo đạo),
và Năm Lửa. Cố vấn Ngô Đình Nhu ra lịnh cho Nguyễn Thành Phương kéo quân lên
Tòa Thánh để thanh trừng những phần tử Cao Đài chống đối chế độ độc tài gia
đình trị. Trong khi Phương bao vây Hộ Pháp Đường không cho Đức Hộ Pháp trốn
thoát, một số cựu quân nhơn do Đại Tá Huỳnh Thanh Mừng (sau trận nầy ông đi
theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) chỉ huy binh sĩ chống lại hành động của
Phương chiếm đóng vùng chợ Long Hoa đến cửa số 6. Đại Tá Mừng cho đóng quân từ
Núi Bà đến cửa Hòa Viện, nhứt quyết một còn một mất với Phương. Nhưng chẳng may
Đại Tá Mừng bị bộ hạ của Phương phục kích bắn gãy một cánh tay, khiến cuộc
tranh chấp đôi bên quyết liệt hơn nữa.
Nhóm thứ ba do
Thiếu Tá Nguyễn Văn Đờn và Nguyễn Văn Mạnh chỉ huy, kéo quân vào đóng trong nội
ô Tòa Thánh, tuyên bố là sẽ ngăn chặn 2 nhóm kia hầu tránh cảnh lưu huyết vô lối.
Trong tình hình
đó, để tránh viễn cảnh máu đổ giữa đồng đạo và làm cớ cho cường quyền Ngô Đình
Diệm chiếm Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp ra “Bản Tuyên Ngôn” vào ngày 23 tháng 8 năm Ất
Mùi (1955) có nói như sau:
“Cơ Đạo trải qua
hồi biến chuyển ấy là lẽ hằng, bần đạo khuyên cả con cái Đức Chí Tôn bình tỉnh,
sáng suốt, chờ Hội Thánh giải quyết. Nhất là mấy em, nam cũng như nữ, ráng gìn
giữ gia đình và đạo tâm của mình và chi chi cũng chờ lịnh Hội Thánh.”
Một số thiếu nữ
trong đạo cũng bị câu lưu mấy tháng, bị ép buộc phải khai nhiều điều khiếm nhã
cho Đức Hộ Pháp.
Ngài bị cầm lỏng
tại Hộ Pháp Đường, xung quanh có quân đội võ trang canh phòng từ ngày 20 tháng
8 năm Ất Mùi (1955) đến ngày mùng 5 tháng Giêng năm Bính Thân (1956). Rồi sau
đó vì quá buồn tủi cho cảnh đồng đạo tương tàn, Ngài buộc lòng cùng nhiều chức
sắc tùy tùng rời Thánh Địa lúc 3 giờ sáng ngày ấy, đến thủ đô Miên Quốc.
Sự kiện nầy cũng
không mấy làm lạ, vì Ngài đã từng khuyến cáo cấp chỉ huy quân đội Cao Đài:
“Các con là lửa
Tam Muội. Lửa dữ trừ được Ma Vương mà cũng có thể đốt thiêu luôn Tòa Thánh, nên
Thầy không cho các con ở trong Thánh Địa, hãy ra ngoại vi đồn trú.”
Đức Hộ Pháp ra
đi để làm cho các phe phái đối lập không còn lý do gì tranh chấp với nhau. Dự
kiến nầy được giữ kín, ít ai biết. Thế mà nhóm Mừng, Đờn, Mạnh cũng đoán được,
nên họ đề nghị dọn đường rừng đưa Đức Ngài đi để tránh sự săn đuổi của tướng
Phương. Đức Ngài lặng lẽ và làm theo kế hoạch của riêng mình.
Trong quyển “Một
Chuyến Đi Lịch Sử”, ông Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa có kể lại như sau:
“Trong ngày mùng
4 tháng Giêng năm Bính Thân, Đức Ngài cho sắp xếp mọi hành trang vào xe
Chevrolet, nhưng khi hỏi lại giấy xe thì kiếm không ra, khiến cho tài xế xe Hồ
Tấn Lực bị quở. Chừng lên tới Nam Vang mới hay là cô Tư (1-Phạm Hương Tranh) lấy
đem đi Nam Vang trước.
Đến 5 giờ chiều,
Đức Hộ Pháp mới cho tôi hay việc nầy. Tôi mới lật đật chạy ra Tây Ninh kiếm thế
làm tờ cớ mất giấy xe để tạm dùng đi đường, nhưng vô hiệu quả, vì đã hết giờ
làm việc. Lúc về trời đã tối, Đức Hộ Pháp dạy dọn đồ vật qua xe của bà Tám (2-
Phối Sư Hương Nhiều) để đi vì xe nầy có giấy tờ đầy đủ.
Đồng thời nhóm
Huỳnh Thanh Mừng từ trong núi đi xe jeep ra, định rước Đức Hộ Pháp đi ngã đường
rừng vì họ đã dọn đường và cho phục kích rồi. Nhưng xe của họ chạy đến cầu Kỷ
Nghệ thì chết máy mà sửa hoài không chạy được, buộc lòng cho người ra xin tôi gởi
xe vô rước họ. Trời khiến lúc đó không có chiếc xe nào ở nhà, nên họ đành chờ
sáng mới ra đặng thì Đức Hộ Pháp đã đi hồi khuya rồi…
Bên chiếc xe của
Đức Hộ Pháp có 7 người. Ở ghế trước có Giáo Hữu Của làm tài xế, kế bên là cô
Hai Đạm, em Ba Hiệu theo để hầu Đức Hộ Pháp. Ở phía sau, Đức Hộ Pháp ngồi giữa,
bên trái là tôi, bên mặt là Trung Tá Lê Văn Thoại và con cả của tôi là Bạch ngồi
trên gói đồ. Đức Hộ Pháp và tôi thì mặc đạo phục, ông Thoại mặc áo dài trắng,
em Bạch mặc đồ Hướng Đạo, còn Giáo Hữu Của, cô Đạm, em Hiệu thì mặc thường phục.
Theo sau xe có
chiếc xe của chức sắc Phước Thiện, trong đó có ông Trưởng Tộc Phạm Văn Út và
vài vị khác tôi không nhớ. Họ đưa Đức Hộ Pháp lên đường, bà Tám ở lại một mình
rất bùi ngùi.
Trước khi ra đi,
tôi có bạch với Đức Hộ Pháp có cần để lịnh gì dạy Hội Thánh hay không? Đức Ngài
nói không và dạy tôi viết vắn tắt vài hàng báo tin rằng Đức Hộ Pháp đã đi Nam
Vang rồi…
Vào lối 2 giờ
khuya, xe ra cửa hông bên tay trái Hộ Pháp Đường. Xe Đức Hộ Pháp ra trước, xe
chức sắc Phước Thiện ra sau, vẫn mở đèn sáng, nhưng không hiểu sao tốp lính của
Nguyễn Thành Phương đứng gác nơi bót trước Hộ Pháp Đường ngủ say không hay gì hết.
Xe đi đường
Bình Dương ra cửa Hòa Viện. Khi xe đến cửa Hòa Viện có
2 em Bảo Thể gác đêm ra mở cửa cho xe đi rồi đóng cửa lại. Xe ra cửa thì rẻ tay
trái đến ngã ba quẹo qua đường Nhàn Du Khách sạn tới cửa số 4 thì quẹo tay mặt
ra cửa số 7 rồi đi luôn tới Mít Một. Khi đi ngang cửa số 7, bót gác nơi đó gạn
hỏi, Trung Tá Thoại trả lời là xe của ông Hồ Bảo Đạo đi Sài Gòn rồi chạy luôn.
Khi xe chạy
qua Tổng Hành Dinh thấy có lính đứng gác cửa, nhưng xe vẫn mở đèn pha chạy
luôn. Xe của ông Trưởng Tộc
Út chạy theo sau cũng qua êm ái.
Qua khỏi Tổng
Hành Dinh rồi không khí trong xe có vẻ nhẹ nhàng. Từ đó xuống Gò Dầu thì đường
yên tịnh, nhưng vẫn còn e ngại người theo dõi.
Đến Gò Dầu, ban
đêm lính gác cỗng không cho xe qua cầu. Giáo Hữu Của đậu xe lại bên đường rồi
nhảy xuống nhanh nhẹn, đến chào người lính gác, to nhỏ một hồi rồi bắt tay thân
mật. Người lính gác đến gần xe bật đèn piles rọi trong xe để khám xét. Lúc đó Đức
Hộ Pháp giả bộ quay qua phía Trung Tá Thoại nói chuyện, còn tôi ngồi trân trân
đưa bộ râu cho người gác rọi đèn coi.
Qua cầu bên kia
lại gặp cổng đóng nữa, nên Giáo Hữu Của cũng lanh lẹn nhảy xuống bắt tay anh
lính gác, nên anh nầy mở cửa cho đi liền, vì đầu cầu bên kia đã xét rồi.
Xe qua khỏi cầu
Gò Dầu thì mọi người đều nhẹ thở. Xe cứ tiến về phía ranh giới Cao Miên. Một chập
sau thấy đèn xe của ông Trưởng Tộc Út theo sau. Ai nấy đều yên tâm.
Xe đến biên giới
lối 5 giờ khuya. Trời còn tối nhưng cũng có vài người gánh đồ đi bán qua lại cỗng.
Tại biên giới bên quốc gia lúc ấy chưa có đóng bót, chỉ bên Miên có bót gác
khóa cỗng, chưa cho xe qua lại.
Đến đó xe ngừng.
Ai nấy xuống xe xả hơi và được thở nhẹ nhàng như vừa thoát khỏi cảnh ngục trần
gian, mong sẽ đặng sống trong cảnh tự do.
Vì Giáo Hữu Của
lo giấy tờ tạm. Chỉ được cho Đức Hộ Pháp, tôi và cô Hai Đạm mà thôi, còn 3 cậu
thanh niên thì không có. Thừa dịp lính trong bót còn ngủ, Giáo Hữu Của nói với
3 cậu (Thoại, Bạch, Hiệu) qua cổng đi bộ trước rồi xe sẽ theo rước.
Ông sếp bót vì
còn say ngủ không ra xét xe, nên Giáo Hữu Của quen thuộc việc "phải quấy"
vào bót gọi, ông sếp dậy, đưa giấy tờ cho ông ta xét và ghi sổ xong xuôi rồi tự
mình ra mở cỗng cho xe qua. Khi ấy xe ông Trưởng Tộc Út cũng theo tới.
Hai đàng phải tạm
biệt nhau, lòng quyến luyến bùi ngùi, nhưng rồi cũng phải chia tay kẻ đi người ở
lại, nữa vui thoát vòng hắc ám, nữa buồn vì cảnh chia ly.
Xe Đức Hộ Pháp
qua cổng rồi, ông Trưởng Tộc Út quay xe trở về báo tin cho bà Tám và mọi người
hay rằng Đức Hộ Pháp đã qua biên giới bình yên. Đến sáng ngày, xe đến
Soài-Riêng, ghé lại vệ đường đổ xăng, thấy thiên hạ buôn bán tấp nập dập dìu,
thừa dịp ta mua bắp nấu và bánh trái ăn đỡ lòng, rồi lên đường không có ghé
Thánh Thất.
Lối 10 giờ trưa
đến Hố Lương xe đậu lối 15 phút mới qua bắc được. Nơi bến bắc nầy người ở cũng
đông đúc, phố xá cũng nhiều, buôn bán coi mòi sung túc lắm.
Khi xe qua bên
kia sông thì có ông Giám Đạo Huỳnh Hựu Lợi ngồi xe hơi xuống chờ đón rước. Mừng
rỡ nhau, ông Giám Đạo cho xe chạy trước dẫn đường, xe Đức Hộ Pháp theo sau. Lối
11 giờ tới Nam Vang, ghé đền thờ Phật Mẫu có chức sắc, chức việc và đạo hữu
đông đảo đón tiếp chào mừng. Đức Hộ Pháp và đoàn tùy tùng lên đãnh lễ Đức Chí Tôn và Phật Mẫu xong, bà Đạo
Nhơn Võ Hương Nhâm sắp đặt chổ nghỉ ngơi cho Đức Hộ Pháp và mọi người trong
đoàn.
Qua ngày sau, Đức
Hộ Pháp viết thơ cho Quốc Vương Norodom Sihanouk hay tin và xin hưởng chế độ
lánh nạn chánh trị. Tin ấy làm cho chánh quyền Cao Miên xôn xao không ít. Vì họ
không biết Đức Hộ Pháp lên Nam Vang hồi nào và đi đường nào mà cả cơ quan an
ninh, công an, cảnh sát của họ không ai biết. Báo hại khi rõ Đức Hộ Pháp qua
biên giới ngã Soài Riêng thì toàn bót gác ở biên giới đều bị phạt đổi đi hết.
Âu cũng là một chuyến đi lịch sử. Lạ lùng làm sao cho nhiều người bàn tán, như
là chuyện thần thoại ly kỳ.”
Qua Cao Miên lưu
trú được 4 tháng thì Đức Ngài bị chánh quyền Sihanouk phái công an đến tịch
thâu tất cả giấy tờ hồ sơ hoạt động Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống mà Đức Ngài
đã gởi cho quốc tế. Thái tử Sihanouk còn nói rằng:
“Nếu Ngài còn
làm chính trị thì xin ra khỏi nước tôi, vì đất nước tôi nhỏ bé, e rằng không chịu
nổi sự đàn áp của chánh phủ Ngô Đình Diệm ở Việt Nam.”
Trước sự việc nầy
Đức Ngài có tâm sự với đoàn tùy tùng là nếu chánh phủ Sihanouk mãi đàn áp không
cho ở đây thì sẽ qua Ấn Độ.
Ban Thanh Trừng
của tướng Nguyễn Thành Phương bị toàn Đạo lên án nặng nề. Nguyễn Thành Danh vừa
là anh ruột, vừa là cố vấn chánh trị cho Phương đưa ra cái thuyết lý gọi là "
khổ nhục kế " để biểu lộ hành động nông nổi của nhóm họ.
Hậu quả của cuộc
thanh trừng này để lại là rất lớn. Ngày 20 tháng 3 năm Bính Thân, trên đất Cao
Miên, Đức Ngài đã đưa ra “Bản Tuyên Ngôn” xác nhận rõ việc lập quân đội
Cao Đài như sau:
“Sau 5 năm 2
tháng bị đồ lưu nơi hải ngoại, Bần Đạo để hết sức lực và tâm não đặng nghiên cứu
và thi hành các phương pháp bảo vệ phong trào cách mạng và giải ách lệ thuộc giống
nòi, lại tìm phương hay bảo thủ tinh thần dân tộc, hầu đủ phương thống nhứt
hoàn đồ, tránh nạn Nam Bắc phân tranh, nồi da xáo thịt.
Khi Đức Bảo Đại
về nước, chính Bần Đạo giao trọn quyền sử dụng quân đội Cao Đài cho Đức Ngài điều
khiển trong hàng ngũ quân lực quốc gia. Khi Đức Ngài đi Pháp, tạm giao quân lực
ấy lại cho Bần Đạo, trong lúc vắng mặt Đức Ngài, Bần Đạo đã ra lịnh cho 2 Chánh
Phủ Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành hợp pháp quốc gia hóa quân đội Cao Đài.
Nhưng sự thi hành ấy vẫn kéo dài cho tới chánh phủ Ngô Đình Diệm thọ phong toàn
quyền cũng chưa quyết định. Bần Đạo phải nhắc nhở và yêu cầu chánh phủ Ngô Đình Diệm quốc
gia hóa quân đội Cao Đài một cách hợp pháp.
Bần Đạo không
buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước nhà với quân lực, mà chỉ dùng phương
pháp đạo đức, đặng đem hòa bình hạnh phúc cho giống nòi.”
Cái hậu quả
bao vây Tòa Thánh bằng vũ lực của anh em quân đội rất trầm trọng, làm cho quân
đội trong nhà phải đối đầu nhau. Nguyễn Thành Phương chiếm đóng vùng chợ Long
Hoa đến cửa số 6. Đại Tá Huỳnh Thanh Mừng đóng quân từ núi Bà đến cửa Hòa Viện
quyết sống mái với Phương. Còn Thiếu Tá Nguyễn Văn Đờn kéo quân vào đóng trong
nội ô Tòa Thánh, với chiêu bài ngăn chận 2 nhóm kia.
Những hành động
đó cho ta thấy quân đội đã riệu rã phân hóa đến tột cùng. Sau đó bản thân
Phương cũng không được Diệm đền ơn đáp nghĩa gì mà còn phải ra Tòa về tội tàng
trữ vũ khí trái phép. Phương cố thử uy tín của mình lần cuối bằng cách ra ứng cử
Phó Tổng Thống liên danh với Nguyễn Đình Quát. Tại tỉnh Tây Ninh, Phương đã
thua phiếu xa liên danh Trương Đình Du, chủ trương nói chuyện với Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam. Ngày tàn của Phương, linh cửu không được đi qua Hộ Pháp Đường để
chào sư phụ lần cuối và cũng không được đến Đền Thánh để hành lễ Đức Chí Tôn. Đối
với dân đạo, cuộc thành trừng làm xáo trộn nếp sống sinh hoạt hàng ngày và đời
sống kinh tế của nhiều người. Vì Ban Thanh Trừng bắt bớ bất cứ ai chống báng hoặc
họ nghi ngờ trung thành với Đức Ngài, đối với dân đạo trước năm 1945. Còn đối với dân đạo từ 1952 đến 1954
họ hăm dọa răn đe cho hồi cư về quê cũ. Nhóm trí thức đến giúp đạo trong thời kỳ
này bỏ đi. Các cơ sở trường học thiếu thầy giáo trầm trọng, kéo theo học sinh
phải bỏ trường tản lạc khắp nơi, liu chiu lít chít như bầy gà lạc mẹ.
Dù đang
lưu trú tha bang nhưng Đức Ngài vẫn cho tiến hành 2 phương án:
Một nhóm do Sĩ Tải
Bùi Quang Cao, Thiếu Tá Thoại, Cả Bạch lập bản dự thảo Chánh Sách Hòa Bình
Chung Sống.
Nhóm thứ hai do
Giám Đạo Huỳnh Hữu Lợi và các chức sắc thuộc Hội Thánh Ngoại Giáo lo vật liệu
xây cất Báo Ân Đường vì phần đất Báo Ân Đường cũ bị nhà cầm quyền Cao Miên
trung thu vào lợi ích công cộng. Không mấy tháng, nhờ công thợ Tòa Thánh sang,
ngôi đền thờ đã xây xong về cơ bản, chỉ còn đổ la phông và nóc là hoàn tất.
Ngày 26 tháng
3 năm 1956, Đức Ngài ban
hành “Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống”, do dân, phục vụ dân, lập quyền
dân. Cương lĩnh gồm 3 điểm chánh yếu:
1 . Thống nhất lãnh thổ
và khối dân tộc Việt Nam với phương pháp ôn hòa.
2 . Tránh mọi cách xâm
phạm nội quyền Việt Nam.
3 . Xây dựng hòa bình
hạnh phúc và tự do dân chủ cho toàn dân.
Chánh sách nầy
không làm ngăn trở một chánh quyền nào, mà cũng không tranh lấy chánh quyền,
không chống báng chánh quyền nào, cốt chỉ để cứu nhơn loại khỏi vòng tội lỗi giết
hại lẫn nhau. Đúng với tiêu chuẩn nhơn nghĩa của một tôn giáo. Sở dĩ Đức Ngài
tuyên ngôn “Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống” là vì 2 khối cộng sản và tư
bản đấu tranh càng quyết liệt.
Để thực hiện
chính sách này, Ban Túc Trực Bến Hải được thành lập.
Ngày
17 tháng Tư năm Bính Thân (1956), vị Trưởng phái đoàn Lê Văn Thoại đã cắm được cờ Nhan Uyên trên nhịp thứ
hai cầu Hiền Lương thuộc sông Bến Hải. Nhan Uyên Kỳ là lá cờ trắng của thầy
Nhan Hồi dùng để khi nòi giống xô xác thì trương lên giải hỏa. Sau đó ông Thoại
bị mật vụ Ngô Đình Cẩn bắt ngay tại Quảng Trị và 3 người khác: Nguyễn Văn Kỳ,
Nguyễn Văn Lợi, và Nguyễn Quốc Đại cũng bị cảnh sát bắt tại bến xe tỉnh. Tất cả
đều bị giam tại lao xá Thừa Thiên trên 3 năm mới được trả tự do.
Cảnh sát Thừa
Thiên còn bắt Giáo Sư Thượng Cao Thanh (Mã Tăng Cao), Khâm Trấn Đạo Thừa Thiên
vì bị tình nghi chứa chấp và đưa đường Ban Túc Trực tới Bến Hải. Sau đó ông bỏ
xác trong ngục tại Huế.
Ngày 23 tháng 10
năm 1961, Sĩ Tải Phạm Duy Nhung thừa ủy nhiệm của Đức Ngài họp báo tại nhà hàng
Soái Kình Lâm, Chợ Lớn trước báo chí, đài phát thanh trong và ngoài nước. Ông
công bố các bức thư gởi cho các cường quốc Anh, Pháp, Mỹ. Ông bị chánh quyền
Ngô Đình Diệm bắt và tra tấn đến chết. Phong trào Thánh Xa Thơ ngày càng lên mạnh.
Các ông Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương, Thừa Sử Phan Hữu Phước đều bị bắt từ đây
và bỏ mạng trong tù.
Tính hết có khoảng
trên 2000 chức sắc, chức việc, và tín đồ trên toàn quốc bị bắt giam cầm. Đức
Ngài có lập danh sách gởi đến Hội Nhân Quyền nhờ can thiệp mà không kết quả.
Đáp lại, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và các cường quốc nhiệt tình hoan
nghinh chánh sách của Đức Ngài. Điển hình như:
- Ngày
21-4-1956: International Commission for Supervision and Control Cambodia, do ông S.C. ấn ký.
- Ngày 24-4-1956: Président du Conseil Guy Mollet, Thủ Tướng Pháp ấn ký.
- Ngày 26-4-1956: Pierre Mendès France, Quốc Vụ Khanh Pháp ấn
ký.
- Ngày 2-5-1956: United Nations, New York (Chef de Section Département
des Affaires Politiques et du Conseil de Sécurité) ấn ký.
- Ngày 3-5-1956: Haut Commissariat de la République
Francaise du Cambodge, ông Pierre Gorce ấn ký.
- Ngày
14-5-1956: United Nations, New York, ông Pedro L. Yap ấn ký.
- Ngày
16-5-1956: Norodom Sihanouk Upayuvareach, do Quốc Trưởng Norodom Sihanouk ấn ký.
- Ngày
19-5-1956: Office of the President of the Philippines, do ông Fort Unato de
Léon ấn ký.
- Ngày
4-1-1958: Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, ông Tôn Đức Thắng mời Đức Ngài
ghé thăm Hà Nội vào xuân Mậu Tuất.
Trước tình hình đó, Ngô Đình Diệm ra lịnh cho Tỉnh Trưởng Tây Ninh tổ chức lễ chào mừng tiếp nhận “Hiệp Ước Bính Thân” mà Bảo Thế Lê Thiện
Phước đã ký với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ vào ngày 17 tháng Giêng năm Bính
Thân (1956) xác nhận tách rời chánh trị ra khỏi Đạo Cao Đài. Thực chất là để
phô trương thanh thế chánh quyền nhằm thị uy, đàn áp tinh thần tín đồ Cao Đài.
Tín đồ bị bắt buộc
tham gia mít tinh, bất mãn tỏ thái độ bất kính, nên Ngô Đình Diệm bực mình khiển
trách 2 viên Tỉnh Trưởng và Trưởng Ty Cảnh Sát rồi về Sài Gòn. Nhân đó tín đồ
thừa thế tấn công các phóng viên quay phim lấy cớ họ xâm phạm chỗ tôn nghiêm, mà
thật ra là chiếm lấy các cuộn phim quay cuộc lễ.
Vì đó, Ngô Đình
Diệm ra lịnh thẳng tay đàn áp bắt bớ các tín đồ Cao Đài.
Ngày 17 tháng
9 năm 1956, Diệm cho mở
chiến dịch Trương Tấn Bửu gồm 9 bước, kéo dài trong 150 ngày đêm, nói là tố cộng,
nhưng thực chất là diệt Đạo Cao Đài. Đầu tiên làm thì điểm ở xã Phước Vinh, mật
vụ của Diệm bắt 4 người lính Cao Đài cũ nói là Việt Cộng nằm vùng. Các tín đồ
Cao Đài phản đối kịch liệt, đòi phải thả 4 người nầy.
Tại Nhàn Du
Khách Sạn bị mật vụ Diệm chiếm đóng không ngày nào họ không bắt người tra khảo
xem coi có liên lạc gì với Đức Ngài hay không. Chiến dịch kết thúc mà không đạt
được ý muốn vì người tín đồ cam chịu tra tấn tù đày chớ không khai thông tin về
Đức Ngài.
Nhân ngày vía Đức
Chí Tôn năm Đinh Dậu (1957), Ngô Đình Diệm đưa tiền mua chuộc một số người kêu
gọi tín đồ mít tinh, trưng hình Đức Ngài và các biểu ngữ “Yêu cầu Đức Hộ Pháp hồi
loan” và “Đạo không đời không sức, đời không đạo không quyền”. Một số người nhẹ
dạ nghe lời tuyên truyền của cán bộ thông tin “Ngô Tổng Thống đã chấp thuận Đạo
Cao Đài là quốc đạo”. Nhưng nhóm Hòa Bình Chung Sống đã hay tin sự từ khước trở
về Việt Nam của Đức Ngài nên họ phản tuyên truyền, biến cuộc biểu tình “Yêu cầu
Đức Hộ Pháp hồi loan” thành cuộc biểu tình đòi dân sinh chủ, chống bọn phản Thầy
phản đạo theo Diệm. Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Vàng đành đấu dịu rồi giải tán cuộc
biểu tình. Sau đó họ tìm bắt các người chủ trương chống kế hoạch làm cho cuộc
mit tinh bị phá vỡ.
Ngô Đình Diệm
còn cử phái đoàn Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ lên Tòa Thánh áp lực Hội Thánh
lấy tro Đức Cường Để tại Báo Quốc Từ. Một số chức sắc buộc phải làm biên nhận
việc lấy tro cốt, mượn danh nghĩa là đưa về Huế thờ, thật sự là đào tận rễ
không để chút di tích chánh trị nào giữa nhà Nguyễn và Hội Thánh Cao Đài. Đồng
thời Ngô Đình Diệm cho chiếm luôn Nhàn Du Khách Sạn, vốn là của đạo, trước cửa
chánh môn Tòa Thánh, tăng cường thêm mật vụ để dò la các tín đồ thường lui tới
cúng kiếng. Mọi việc diễn biến ở Tòa Thánh đều được báo cáo đầy đủ cho Đức Ngài
hay ở Nam Vang.
Trong thời gian
lưu vong, Đức Ngài có cho ban hành nhiều văn bản như là:
- Thư gởi Chủ Tịch
Liên Hiệp Quốc và Thủ Tướng Chánh Phủ và các cường quốc đề ngày 20-3-1956.
- Gởi cho toàn đạo,
chức sắc Thiên phong, Hội Thánh nam nữ Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Phước Thiện,
Phạm Môn cùng cả con cái Đức Chí Tôn lưỡng phái, đề Kiêm Biên ngày 23-3-1956.
- Chánh Sách Hòa
Bình Chung Sống, đề ngày 26-3-1956.
- Bản Tuyên Ngôn
ngày 30-4-1956, trong đó nói rõ lý do lập quân đội Cao Đài và từ đấy bất kỳ
quân lực nào mượn danh Đức Ngài đều là giả dối.
- Thư gởi chư Đại
Đức toàn thể các tôn giáo, đề ngày 3-11-1956.
- Thư gởi cho cụ
Hồ Chí Minh, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và cụ Ngô Đình Diệm, Tổng
Thống Việt Nam Cộng Hòa, ngày 28-3-1956 và một bức thư khác đề ngày 26-4-1956.
Để phúc đáp, cụ
Hồ Chí Minh từ Hà Nội, gởi điện văn cho Đức Ngài nội dung xin được trích ra như
sau:
“Tôi trân trọng
cám ơn bức điện cụ gửi tôi ngày 26-4-1956 và thành thật hoan nghênh cụ đã tỏ ý
mong muốn nước Việt Nam ta được hòa bình thống nhứt. Chánh phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, toàn dân ta từ Bắc chí Nam, trong nước và ngoài nước đều đang cương
quyết và bền bỉ đấu tranh để thực hiện nguyện vọng tha thiết của dân tộc, là
làm cho Việt Nam ta được hòa bình, thống nhứt, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Cuộc đấu
tranh của nhân dân ta phải khó khăn và phức tạp song toàn dân đoàn kết một
lòng, cương quyết phấn đấu, cho nên nhứt định sẽ thắng lợi.”
Cư ngụ nơi Báo
Ân Đường được một năm thì vào thượng tuần tháng 8 năm Đinh Dậu (1957) thì có lịnh
của chánh phủ Miên bảo rằng Kinh Đô Nam Vang cần phải ở rộng hơn, nên phần đất
của Hội Thánh Ngoại Giáo đã tạo lập Thánh Thất từ buổi mới phôi thai cũng bị
chánh phủ Miên ra lịnh đuổi, buộc phải dời ra khỏi cách trung tâm thủ đô Nam
Vang 3000 mét. Do đó mới
có sự thỏa thuận giữa nhà cầm quyền và ông Khâm Trấn Đạo Huỳnh Hữu Lợi, đổi miếng
đất cũ 13 lô nầy và Đức Ngài còn phải mua thêm 7 lô nữa. Miếng đất ấy bề dài
200 thước, bền ngang 60 thước hiện nằm noi đường Tung-Chay để tạo tác Báo Ân Đường sau này.
Việc kiến tạo
Báo Ân Đường mới là do Thánh Ý của Đức Ngài, chánh phủ Miên chỉ cho phép cất bằng
cây và lợp ngói có tính cách tạm thời, cho rằng đây là một ân huệ để Ngài có
nơi tạm trú trong một thời gian mà thôi. Mặc dầu bị chính quyền Sihanouk ngăn cấm
nhưng Đức Ngài ra lịnh bổn đạo phải xây bằng bê tông cốt sắt cho vững vàng kiên
cố để sau nầy họ không thể đuổi hoặc đàn áp chúng ta được.
Đến ngày 4 tháng
1 năm 1958, Chủ Tịch Đoàn Tôn Đức Thắng gởi thơ mời Đức Ngài ra thăm Hà Nội có
nội dung như sau:
“Chúng tôi
vui mừng được biết ý định của Ngài muốn đến Hà Nội thăm đồngbào và tín đồ Cao
Đài ở miền Bắc.
Vậy chúng
tôi, Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam và cá nhân tôi, trân trọng mời
Ngài đến Hà Nội nhân dịp Tết Nguyên Đán Mậu Tuất.
Xin gởi đến Ngài
lời chào thân ái, đoàn kết.”
Những diễn biến
của thế cuộc liên tiếp làm cho Đức Ngài thất vọng, lao tâm tổn trí khiến cho sức
khỏe của Đức Ngài, vốn đã ở vào lúc xế chiều càng thêm suy giảm. Điển hình như
viêc xây Thánh Thất bị chính Thái Tử Norodom Sihanouk ngăn chận vì Ngô Trọng Hiếu,
đại diện chánh phủ miền Nam Việt Nam bên cạnh chính phủ Cao Miên, sau khi thương thảo sự trở về của
Đức Ngài không thành, họ cho rằng việc xây đền thờ chỉ là bình phong che đậy âm
mưu giục loạn ở Cao Miên.
Để giữ tình giao
hảo với chánh phủ miền Nam, Sihanouk ra lịnh trục xuất tất cả các công thợ về
miền Nam. Những người nầy về nước đều bị cảnh sát Ngô Đình Diệm bỏ tù. Thêm vào
đó, phong trào Hòa Bình Chung Sống bị đàn áp và bị bắt giam vô số kể. Mặc dầu Đức
Ngài có lập danh sách những người bị bắt gởi qua Hội Nhân Quyền và Liên Hiệp Quốc
mà không thấy kết quả gì.
Lúc Đức Ngài lâm
trọng bịnh, tuy đang nằm trên giường bịnh ở bệnh viện Calmette, Đức Ngài vẫn
còn lo cho đại cuộc. Ngài cho gọi các chức sắc, căn dặn từng người từng phần
trách nhiệm riêng biệt. Đức Ngài có nói với một ít tông đồ:
“Bần Đạo đã lớn
tuổi, không thể lột da sống đời đặng. Tương lai của đạo đều do ở các con, là
đoàn hậu tấn nối tiếp. Bần Đạo chỉ là người tiền phong khai sáng mối đạo. Đó là
bước đầu hy sinh lót đường mà thôi. Mối đạo sau nầy thuộc về quyền của đoàn hậu
tấn tô điểm cho thiên hạ. Sứ mạng của đoàn hậu tấn là vậy.”
Trong tình thế ấy,
ông Hồ Bảo Đạo được lịnh xin một lá xâm. Lá xâm đó có nội dung là:
“Bao năm chìm
đắm biển công danh,
Chí muốn bay
cao dạ chẳng thành.
Đêm thấy Thần
Nhơn về báo mộng,
Ban lời Ngọc
chỉ của Thiên Đình.”
Vào một sáng nọ,
lối khoảng tháng 8 năm Bính Thân (1956), Đức Ngài cho gọi ông Bảo Đạo Hồ Tấn
Khoa, cho biết Ngài đã thấy chữ APOTHÉOSE hồi đêm qua. Chữ nầy có 2 nghĩa:
- Vua chúa, đại
thần chết được đăng Tiên.
- Thành công rực
rỡ theo chí hướng của mình.
Nếu so với lá
xâm và cuộc đời hoạt động đạo đời không ngừng nghỉ của Ngài thì hoàn toàn phù hợp.
Bữa nọ thức dậy,
Đức Ngài định bước xuống giường nhưng bị choáng váng ngã ngữa trên giường nửa
trên nửa dưới. Đồng đạo lo thuốc thang chạy chửa cho Đức Ngài khỏe lại.
Ngày 20 tháng 2
năm Đinh Dậu (1957), Đức Thượng Phẩm có về cơ khuyên Ngài đi bịnh viện, vì lúc ấy
Ngài đã đi đứng khó khăn lắm rồi.
Đầu tháng Tư năm
Kỷ Hợi (1959), viên cò cảnh sát Cao Miên thay vì báo tin cho ông Khâm Trấn Đạo,
lại đem giấy báo triệt hạ đền thờ mới xây vào thẳng bịnh viện Générale cho Đức
Ngài. Nhận được hung tin càng góp phần cho sự khổ tâm cùng cực của Đức Ngài.
Sau đó Đức Ngài
đòi về Báo Ân Đường nhưng đồng đạo và cô Ba, cô Tư nhất trí đưa thẳng Ngài đến
bịnh viện Calmette, là bịnh viện lớn nhất của Pháp tại Nam Vang. Rồi sau đó
Ngài dạy lập bản di ngôn và gởi lên Quốc Trưởng Sihanouk theo hệ thống hành
chánh. Đức Ngài gọi Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh, Khâm Trấn Đạo Tần Quốc dạy
rằng:
“Ngày thứ bảy
là ngày Hoàng Thượng Norodom Suramarit tiếp kiến thần dân Cao Miên theo lệ thường.
Vậy hiền đệ và Giáo Hữu Thái Đổng Thanh hãy vào hoàng cung bái kiến Hoàng Thượng
dâng bức di ngôn của Bần Đạo.”
Khi Hoàng Thượng
Suramarit đến sân chầu, thấy trong đám quần thần có 2 vị mặc sắc phục trắng, biết
rằng là chức sắc của Cao Đài, Hoàng Thượng đến gặp 2 vị và nhận bức di ngôn và
có nói:
“Về thưa lại
với Đức Hộ Pháp, Hoàng Thượng đã nhận bức di ngôn và chấp thuận những lời yêu cầu.”
Nguyên văn bản
di ngôn được viết bằng tiếng Pháp, xin được trích phần nội dung được dịch lại
như sau:
“Thưa Điện Hạ,
Bần Đạo gởi
những dòng chữ nầy đến Điện Hạ trên giường bệnh của Bần Đạo (bệnh viện
Calmette), sức khỏe của Bần Đạo nghĩ không còn sống được bao lâu nữa.
Vậy Bần Đạo gởi
lần cuối cùng đến Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên, tất cả lời cảm tạ
chân thành về sự đối đãi rộng rãi của Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia dành cho Bần
Đạo với đoàn tùy tùng và cho cả tín đồ của Bần Đạo.
Bần Đạo thành
tâm cầu nguyện Thượng Đế Cao Đài và Phật Tổ ban hồng ân che chở Vương Quốc Cao
Miên và cho Điện Hạ để chóng thực hiện và thành công vẻ vang chánh sách hòa
bình trung lập và chung sống hòa bình, là chánh sách đặc biệt ưu ái của Bần Đạo,
vì nó Bần Đạo chịu hao mòn sức khỏe của cả cuộc đời mà Bần Đạo không thể thực
hiện được.
Bần Đạo thành
tâm ước mong rằng: Tổ Quốc thân yêu của chúng tôi, nước Việt Nam có thể đeo đuổi
theo chánh sách ấy trong một ngày gần đây, tay bắt tay đi với nước Cao Miên
trong đường lối thương yêu và hòa hợp giữa các sắc dân và nhất là giữa 2 dân tộc
Việt Miên.
Bần Đạo sẽ lấy
làm hân hạnh được yết kiến lần cuối cùng với Điện Hạ, để tỏ bày tất cả những lời
cảm tạ của Bần Đạo. Không biết sức khỏe Bần Đạo còn chờ được hay không ngày về
của Điện Hạ.
Dầu sao tình
thân hữu thâm niên của chúng ta, nhơn danh tình thương yêu và tình huynh đệ giữa
2 dân tộc Cao Miên và Việt Nam, nhất là nhân danh tương lai bất khả phân ly của
2 nước chúng ta: Cao Miên và Việt Nam. Bần Đạo cung kính xin Điện Hạ như một ân
huệ đặc biệt và cuối cùng cho Thánh Thất chúng tôi khỏi chịu dưới lịnh phá hủy,
để giữ kỷ niệm độc nhất của Bần Đạo trên đất Miên.
Để giúp Điện
Hạ có một ý niệm đúng đắn về tình hình, Bần Đạo trân trọng gởi đến Điện Hạ một
bản sao thơ khẩn cầu của Bần Đạo vừa chuyển đến Hoàng Thượng. Bần Đạo giải
thoát kiếp sống nơi đây. Bần Đạo xin thỉnh cầu Điện Hạ cho phép Bần Đạo tạm gởi
thi hài ở nơi đất Miên, dưới sự bảo vệ tối cao của Hoàng Gia Cao Miên. Ngày nào
tổ quốc thân yêu của Bần Đạo là nước Việt Nam đã thống nhất sẽ theo chánh sách
hòa bình trung lập, mục tiêu đời sống của Bần Đạo, tín đồ của Bần Đạo sẽ di thi
hài về Tòa Thánh Tây Ninh.
Bần Đạo khẩn
cầu Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia sau khi Bần Đạo thoát xác, dành cho đoàn tùy
tùng và cả thiện nam tín nữ của Bần Đạo sự khoản đãi rộng rãi và các sự dễ dãi
như trước để tu hành theo tôn giáo.
Biết rằng Điện
Hạ sẽ chiếu cố đến đơn thỉnh cầu nầy, Bần Đạo sẽ thanh thản nhắm mắt đem theo
cái kỷ niệm dịu dàng nhất trong đời của Bần Đạo.
Cung kính xin
Điện Hạ chấp thuận lòng tri ơn vĩnh viễn của Bần Đạo.”
Đức Ngài trút
hơi thở cuối cùng sau một cơn mệt vào khoảng 12 giờ ngày chủ nhật, mùng 10
tháng 4 năm Kỷ Hợi (1959), hưởng thọ 70 tuổi. Thánh thể được đưa về Thánh Thất
Toul-Sway-Prey.
Đêm hôm đó, ông
Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa và Sĩ Tải Cao phò loan Đức Ngài có về cơ sắp xếp mọi việc
và chỉ dẫn cách tẩn liệm. Ngài cũng có cho bài thài hiến lễ, nhưng do lúc Ngài
vừa ra đi mọi người vì quá thương tiếc nên các vị phò loan Thần bị yếu, khó lòng
viết thi. Sau đó Ngài mới giáng cơ cho lại bài khác thay thế cho bài đầu và được
dùng cho tới ngày nay.
“Trót đã ba năm ở xứ người,
Đem
thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm chơn pháp,
Tô điểm non sông đạo lẫn đời.”
SAU NGÀY ĐĂNG TIÊN
Tối ngày Đức Ngài đăng Tiên thì có Bát Nương giáng cơ an ủi mọi người:
“Chị chia buồn
cùng các em cả thảy.
Chị hôm rồi sở
dĩ phải tạm gợi chuyện cho các em qua buổi vì các em nhứt là Bảo Đạo rối óc phải
dùng phương trấn an, nhưng không quên dặn rằng hữu vi là phụ thuộc của vô hình.
Giờ đây Đức Hộ
Pháp đã yên phận, nhẹ tách bến trần với lòng man mác, buồn vì đại nghiệp chưa
hoàn thành trọn vẹn, vì nợ áo cơm chưa vẹn trả cho non sông, vì cơ đồ đang nguy
cấp, nên mặc dầu rảnh rang sự thế, về ngôi xưa quê cũ, nhưng lòng hoài vọng vẫn
vấn vương theo Tổ nghiệp và đại gia đình Thiêng Liêng, nơi chen chúc con cái của
Đại Từ Phụ.
Vậy chị cũng
nhường cơ cho Người đến dạy bảo đôi điều, rồi chị sẽ dạy tiếp.”
Tái Cầu:
" PHẠM HỘ PHÁP
Chú Bảo Đạo
và mấy con.
Đứng dậy đi,
Thầy không vui thấy các con quá bi lụy, nhứt là con Cầm và Tranh(1-con của Đức
Ngài), Thầy dặn 2 con rằng ráng bình tĩnh mà lo cho Thuận, Hòa, Út và Châu cho
chúng nó nên người hữu dụng là lo cho Thầy đó. Còn Đạo thì có Hội Thánh và các
con khác nơi đây toan tính, 2 con yên lòng.
Thầy dặn lại
một lần nữa là đừng bi lụy quá đỗi mà Thầy khó yên tâm nơi vô vi đó.
Các con đứng
dậy và nghe dạy:
Chú Bảo Đạo,
tôi đi về đột ngột không giã từ chú và mấy con cũng hơi bồn chồn tất dạ, song sự
thế biết đâu ngờ Thiêng Liêng chỉ định. Tôi phải rời thi thể một cách bất ngờ để
cho quyền Thiêng Liêng xây chuyển. Bây giờ chú ráng lo hữu tướng nầy cho ra vẻ
đạo là được rồi.
Việc tống
táng thì tôi đã đồng ý với chú là tùy theo phong tục và tập quán vừa theo, chớ
câu nệ rồi không thành, chuyện thêm rắc rối cho đoàn em của chú là chức sắc.
Chú cứ từ từ lo theo đây:
- Di hài tẩn
liệm theo đại liệm như đã làm cho Khai Pháp và Thượng Phẩm.
- Phải tìm
phương nào dung hòa tâm lý Đời Đạo nơi đây để di hài nằm yên một thời gian nơi
đất Tần, rồi ngày kia sẽ di về Tổ Đình không muộn. Dù rằng sẽ có sự kéo níu của
thế tục, song di ngôn tôi đã ký thì phải giữ, kẻo thế thường xem rẻ mà tội nghiệp
cho đoàn em của chú.
- Sự tế tự phải
hoàn toàn đơn giản và trật tự trang nghiêm, chớ se sua làm tốn kém mà bổn đạo
phải mang thêm nợ lo cho tôi. Tôi ái ngại lắm.
- Sự định xây
tháp thì tùy sự rộng hẹp của chánh phủ cho cùng không,
việc đó không
quan hệ lắm. Ngày mai chú cần liệu định với chức sắc.
- Buổi di
Liên Đài ra tháp phải tuyệt đối yên tịnh, chớ se sua và làm náo nhiệt mà tôi hằng
ngày ít muốn.
- Liên Đài
nên cò chì kỹ lưỡng kẻo lâu ngày hư hoại mà thêm không hay.
- Chớ chia tâm
trong thời gian tôi còn tại ngoại.
- Phải
nhứt tâm nhứt đức lo cho cuộc lễ đầm ấm là trọn quí.
- 2 con
Cầm và Tranh nên tùy theo Hội Thánh trong mọi việc chớ nghịch ý mà Thầy không
vui.”
Ông Hồ
Bảo Đạo xin bài thài “Được. Chú ráng tịnh thần và các con đừng suy nghĩ gì hết,
tư tưởng mới toàn vẹn.
THI
Ba năm xa cách để chờ may,
Vạn sự do Thiên đã sắp bày.
Chỉ muốn cao bay trong một kiếp,
Giờ đây nhờ cậy các anh tài.
Đã đành danh phận còn xa thẳm,
Nhưng đứng mày râu chẳng mảy may.
Một kiếp vì đời tua gắng trả,
Cho rồi nợ thế khỏi ai hoài.
Tạm dụng đỡ rồi
khi nào chú Bảo Đạo khỏe thần sẽ tiếp cho bài khác. Thi khó viết mà gặp điển yếu
lại càng thêm khó. Bây giờ tiếp:
- Việc tế lễ
thì tùy theo sự rảnh rang của toàn đạo mà sắp đặt, đừng làm thất công nhiều con
cái chí hiếu của Đức Chí Tôn mà tôi không vui. Nơi đây sống ngày qua ngày, đừng
làm cho bổn đạo bỏ công ăn việc làm vì tôi nghe.
- Khi tang tế
xong, chú phải vào ở trong nầy dòm ngó chức sắc Cửu Trùng Đài giùm tôi, kẻo họ
vì tư ý ganh tỵ mà làm cho manh mún Thánh Thể nơi đây.
- Có Phướn
Thượng Phẩm đi dẫn đường như Cao nó muốn hỏi. Có hành lễ độ thăng, song cả chức
sắc phải thành tâm cầu nguyện nhờ Đức Đại Từ Phụ giải oan cho kiếp sống và phải
thanh tịnh tuyệt đối. Ngài Bảo Đạo bạch…
- Khỏi cần
hình thức chi hết, chí tâm cầu nguyện là đủ. Việc độ thăng là do quyền của Hộ
Pháp làm cho cả chức sắc, còn tôi thì không thể tự tôi mở cho tôi được. Chú hiểu.
- Xong lễ, 2
con Cầm và Tranh phải hòa thuận sống chung với nhau, lo bảo trợ con nhỏ, đừng để
chúng lêu lỏng mà tội nghiệp tương lai của chúng nó.
- 4 con Sĩ Tải,
Thầy cho phép để mấy con tự sống đến ngày giờ nào các con được trở về Tổ Đình sẽ
hành đạo với sở vọng của các con.
- Bạch, phải
rán lo học ngoại ngữ sẽ hữu dụng sau nầy.
- Cả phái
đoàn lưu vong phải vừa trợ lấy nhau, đừng vì tư tâm mà buồn phiền với nhau.
- Chót hết là
tôi chỉ muốn tuyệt đối yên tịnh để nhẹ nhàng Chơn Thần mà lo cứu rỗi cơ đồ, đừng
vì tư tâm mà ganh tỵ quyền lợi. Tôi không vui đó.
Bây giờ đã đến
giờ cúng, tôi phải tạm gác lại, khi nào có cần hỏi, Cao sẽ ráng tiếp cơ với chú
để tôi dạy việc.
Thôi tôi đi
đây.
Thăng”
Lúc 10 giờ
đêm ngày 13 tháng Tư; Sĩ
Tải Trân và Sĩ Tải Cao phò loan thì có Bát Nương giáng:
“ Chị chào tất cả
các nam nữ,
Thật là vô cùng
đột ngột mà các em không tưởng tượng được, Hộ Pháp qui hồi khiến ai cũng đau
lòng trước sự việc đang nửa chừng bỏ dở, nhưng trí phàm xét đoán thì ngày mai vốn
u tối. Các em đâu rõ, nhờ sự bất ngờ nầy mà các em mới có phương tiện thi thố
nguyện vọng của mình trọn vẹn.
Đã thấy rõ tình
đời họ nhút nhát vì đai cân quyền thế, nên không bỏ một cử chỉ nào dầu rằng đê
hèn nhỏ mọn để cố bám víu thủ lợi cho mình, song Hoàng Thiên hữu nhãn, hễ vay tức
nhiên phải trả, các em cứ tươi vui mà chờ xem cơ tạo hóa công bình.
Chị cũng biết
các em lo lắng tương lai của đạo, ngày mai của đời và số kiếp người Việt ở tha
bang, nhưng sự lo lắng của các em chưa thắm vào đâu so với sự lo lắng của Hộ
Pháp, dầu về Thiêng Liêng cảnh nhưng Người mãi hướng về Tổ Đình, về nơi chôn
nhau cắt rún, về nơi quê nhà để đợi lấy cơ hội thuận tiện xoay chiều đổi hướng
cho kịp với trào lưu. Ngày giờ nào các em thấy biển động gió to sóng lớn là giờ
vui tươi của đạo và của các em đã đến.
Chị vui miệng
nói nhiều, các em bình tĩnh mà chờ đón, đừng nôn nóng mà hư việc.
Thôi, các em để
chút thì giờ Cao Thượng Phẩm muốn đến.
Thăng”
Lúc 10 giờ 40
đêm, ông Bảo Đạo và Sỉ Tải Cao tái cầu thì có Đức Ngài giáng:
“Chào chú Bảo
Đạo, các em nam nữ và 2 con,
THI
Trót đã ba năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm chơn pháp,
Tô điểm non sông đạo lẫn đời.
Tạm được, khá
hơn bài vừa qua, nhưng cũng chưa xuay, chờ chú Bảo Đạo thuần điển sẽ cho bài
khác.
Nơi Kim Biên
vốn mồ côi từ bấy lâu. Qua đến muốn qui tụ lại để cùng nhau chung sống dưới
bóng Từ Bi, hầu làm vơi được phần nào nỗi khổ của người Việt nơi xứ lạ, nhưng rốt
cuộc Qua chẳng đặng hài lòng lắm vì mọi việc bị dở dang, Qua buồn lắm. Giờ đây
các em phải cố gắng lo chỉnh đốn lại cho đúng theo Luật Pháp Chơn Truyền, kẻo để
mãi tình trạng nầy thì cơ đạo nơi đây khó tồn tại đó các em.
Qua thương
các em bao nhiêu thì nơi Ngọc Hư Cung lại buộc tội các em bấy nhiêu. Qua rất
đau khổ vì sự ly tán phân tâm chia rẽ của các em mà ra nông nỗi. Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn rất đỗi đắn đo không chịu tái thủ nhiệm vụ cũ, vì thấy các em không
thể thay thế hình ảnh của Người để chỉnh sửa cơ truyền giáo tha bang đó.
Qua khuyên
các em dẹp nỗi tỵ hiềm để chút tình thương nhen nhúm lại làm khối chơn thành
thương yêu mà bảo trợ đàn em đang bị côi cúc, hình như các em không quan tâm đến
tương lai của Trấn Đạo. Tần Quốc nó thật là ải địa đầu trước khi phổ thông ra
các nước khác. Qua đã có lần nói nhiều về vấn đề nầy. Hôm nay Qua nhắc lại để
các em đừng xem thường nền đạo nơi đây đó thôi.
Vậy các em
hãy cố gắng kể từ nay chung trí cộng thương và nhịn nhục lẫn nhau mà hành đạo,
kẻo trễ rồi mấy em ăn năn không kịp. Qua chỉ mong các em giác ngộ thêm chút nữa
và hành đạo khác hơn khi Qua còn ở với các em.
Chú Bảo Đạo đừng
để tâm buồn phiền, chư chức sắc họ vẫn hiểu lầm tình cảm của chú, song như vậy
chú mới rõ rằng chẳng dễ gì thâu phục nhơn tâm nếu mình không ra công nâng đỡ,
dìu dắt họ, rồi đây họ cũng giác ngộ thương chú nhiều hơn.
Ba đứa Sĩ Tải,
Thầy không gì buồn hơn là việc làm lở dở của các con mà giờ đây các con phải
tha phương cầu thực. Đã biết rằng ngày mai phải có phút tươi vui, sống mãi cho
đời mà các con khô héo tuổi thanh xuân uổng phí, Thầy chi mong cho các con thi
thố phải đạo với đời rồi nhờ tình thương đó mà an ủi phần nào kiếp sống ăn gởi
nằm nhờ nơi xứ người.
Hiệu, con nên
vui vẻ và lo lập thân, Thầy bao giờ cũng không quên ơn săn sóc và chịu cực của
con, nhưng dầu rằng con chịu thiệt thòi trong mọi việc, song ngày mai con cũng
có thể lập nên thân danh với người, đừng lêu lổng như đã nhiều lần có ý định ấy,
nghề nghiệp phải trau giồi kẻo ngày mai vợ con kéo níu mà thân làm trối chết
cũng không no đủ, rồi tự tủi lấy thân, đã trải qua bao ngày ăn không ngồi rồi,
không chuyên luyện. Thôi ít lời dặn bảo.
Thầy lại dặn
con Hai Đạo Nhơn nên lo chỉnh sửa Báo Ân Đường lại, nhứt là nội dung của cơ
quan hiện nay, ráng lo lắng cho ra vẻ Phước Thiện thì địa vị ngày mai không nhỏ.
Thôi, thăm hết
chức sắc không thấy mặt nơi đây, và cầu nguyện Chí Tôn ban ơn lành cho họ.
Xin kiếu.
Thăng”
Lúc 11 giờ 15
khuya. Ông Bảo Đạo và Sĩ Tải
Cao tái cầu thì có Đức Thượng Phẩm giáng:
“CAO THƯỢNG
PHẨM
Bần Đạo chào
các em lớn nhỏ.
Hiền đệ Bảo Đạo,
Bần Đạo dạy em điều nầy: Hành pháp độ thăng thì sắp một cái bàn, xông hương cho
kỹ, lấy đủ dụng cụ hành pháp bày trên bửu điện trước liên đài, rồi cả chức sắc
để trọn tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn. Đừng bày điều gì khác hơn mà thất pháp, quyền
Chí Tôn sẽ hành pháp độ thăng giùm cho Hộ Pháp.”
Ngài Bảo Đạo
bạch: “Nếu dọn bàn hành pháp trước liên đài thì khi chức sắc quì cầu nguyện Đức
Chí Tôn thì phải xây lưng lại bàn ấy hay sao?”
“Đúng vậy chớ
sao, ngó vô Bửu Điện cầu nguyện. Còn việc tống táng thì phải tuyệt đối yên tịnh,
đừng se sua và làm náo nhiệt, để các đấng hộ vệ liên đài hành sự cho dễ dàng,
chớ sức phàm các em đạo tỳ khó bề di chuyển dễ dàng liên đài. Em đã đủ hiểu. Từ
đây đến ngày an táng, em dặn chức sắc phải cẩn ngôn cẩn hạnh cho lắm, đừng dễ
duôi mà các đấng vô hình không tha thứ cho đâu. Nhớ nghe.
Còn việc nầy
nữa, là liên đài em nên biểu chức sắc lấy hàng màu vàng mà bao bọc trọn vẹn
liên đài, cũng như đã làm cho Quyền Giáo Tông màu xanh, còn Hộ Pháp thì màu
vàng. Gấm đã bao có điều không tiện vì là quá lòe loẹt, nên để màu vàng hơi lợt,
vì màu vàng của Hộ Pháp là đúng theo Chơn Pháp. Làm liền nghe. Còn cây cờ phủ
lên tượng ảnh là đủ.
Ba ngày liền,
chức sắc phải luân phiên đến cầu nguyện tại liên đài cho Hộ Pháp ban điển lành,
vì phút lâm chung, chức sắc khiếm diện.
Em nhớ làm liền
kể từ ngày mai, kẻo không kịp giờ.
Bần Đạo xin
kiếu.
Thăng”
LỜI PHÊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
* Do đơn xin nghỉ 1 năm đặng lo trả nợ trần ai, tờ đề ngày
4 tháng 9 năm Tân Mão của Lễ Sanh Thượng Đẩu Thanh.
“Hễ càng chạy
theo danh lợi thì càng chìm đắm trong vòng khổ của danh lợi, cái sống đơn sơ
thì ai lại không sống đặng. Gương của các người chức sắc khi vào cửa đạo họ
nghèo xơ nghèo xác mà họ trọn đạo cho tới khi về cùng Đức Chí Tôn, nghĩa là
ngày chết của họ, chết mà họ không phải chết đó đa, mà họ lại đặng mồ là khác nữa.
Còn Đẩu đây không biết tương lai ra sao, để cho sắp hậu tấn là sắp nhỏ của đạo
nó xem một kiểu dở, hay cho đặng thấy một người đã đến tận bờ Bỉ Ngạn mà còn chết
đắm.
Tư cho Quyền
Ngọc Chánh Phối Sư lập Thánh Lịnh thâu chức Lễ Sanh của Đẩu và ngày nào xin phục
chức là do đặc ân Hội Thánh sở định khi nợ nần của Đẩu đã trả xong.”
* Do tờ thỉnh
giáo của Thượng Chánh Phối Sư về việc chánh phủ tổng động viên thanh niên.
“Dẫu mình là
người Đạo Cao Đài là một nền đạo tương lai của toàn quốc đi nữa mà mình là người
Việt Nam ở trong nước Việt Nam tức là con dân Việt Nam.
Ta phải làm
tròn phận sự con dân của đất nước cũng như ai kia vậy. Nếu bần đạo bị quốc luật,
quốc pháp buộc làm tròn phận sự công dân ấy bần đạo cũng cúi đầu phục lịnh. Nếu
nói thanh niên ấy là quân đội Cao Đài trừ bị thì phải nạp danh sách cho chánh
phủ biết rõ, nếu ta lãnh làm quân đội quốc gia, với lý lẽ vô bằng cớ thì chúng
ta muốn làm mưu mẹo dơi không dơi, chuột không chuột đặng gạt qua quốc pháp. Phải
thi hành triệt để quốc luật.”
* Chí Thiện Lê
Văn Trường xin nghỉ cúng thời Tý vì già cả, bệnh hoạn.
“Hễ càng già
lại càng cúng nhiều đặng dâng mạng căn số kiếp của mình cho Đức Chí Tôn định, ấy
là bí mật giải thoát của Chí Tôn để nơi Cơ Tận Độ. Dầu đương giờ mình cúng mà
chết trước mặt Người lại càng hay. Phải tuyên truyền cho ai ai cũng đều thấu
đáo nghĩa lý bí phát này. Khi đau ốm nằm dưỡng bịnh hễ nghe thời cúng là ngồi dậy
dâng tam bửu cho Chí Tôn.”
* Về việc bổn đạo
nơi Mỹ Tho nuôi cá tra, cá vồ làm cho đời dị nghị, Đức Ngài có để lời phê như vầy:
“Tư cho Quyền
Ngọc Chánh Phối Sư viết thư hỏi kín coi có quả vậy chăng?
Thật là khổ
cho sự sanh sống của người đạo, nuôi cá kiếm sống cũng bị chỉ trích!”
* Tờ Thanh Minh
số 2 ngày 8-12-1954 của phái Thiêng Liêng, đang do ông Bạch Pháp xưng rằng vâng
mạng lịnh thiêng liêng để qui nhứt Cao Đài 12 phái, Đức Ngài có để lời phê:
“(Tư cho các
cơ quan xem) Cả mọi sự chánh, tà thì bần đạo đã thấu đáo mọi điều, song vì
thương nên để cho ai cũng đủ phương pháp tự tu, chớ thử hỏi các Đấng thiêng
liêng nào đã lập đó, đáng nên công hay đã gây nên tội chia rẻ loạn đọa. Lấy trí
phàm suy nghĩ cũng đủ hiểu, các con cái Đức Chí Tôn ráng đề phòng cho lắm.”
* Tờ số 330 của
văn phòng Cố Vấn Hành Chánh Đạo thỉnh giáo 3 khoản:
Truy phong Thánh
Tử Đạo thờ Bát Quái Đài, truy phong chức sắc lên nhứt cấp, truy điệu và thờ nơi
Báo Ân Từ, Đức Ngài có để lời phê:
" 1 . Chức sắc bị bắt và bị kết án vì lẽ đạo, gọi là báo thù phần tử Hội Thánh và
bị kẻ nghịch đạo tàn sát, các quân sĩ vì ngọn cờ bảo sanh nhơn nghĩa đại đồng của
Hội Thánh ban cho đặng cứu quốc mà bị sát hại hay là tử trận.
2 . Các chức sắc
đủ công nghiệp qui liễu trước khi quyền Vạn Linh định vị, nên quyền Chí Tôn đặng
trọn quyền đặc biệt phong thưởng truy phẩm.
3 . Cả thảy đều
đặng làm lễ truy điệu rồi đọc Thánh Lịnh trước Linh vị. Các Thánh Tử Đạo thì thờ
nơi Bát Quái Đài, công nghiệp đặc biệt cho đạo khi minh tra đủ lẽ thì thờ nơi
Báo Ân Từ, mai hậu thì do nơi Quyền Vạn Linh công nhận và ân tứ mới đặng đem
vào đó mà thờ. Báo Ân Từ là PAN THÉEN của đạo, Đức Chí Tôn gọi nó là Văn Đài cả
mọi sự quyết định đều xong và đều chấp thuận.”
* Lời phê của Đức
Hộ Pháp về việc từ hàng phẩm Giáo Hữu đổ lên không có hàm phong như sau:
“Nghĩ vì chức
sắc Cửu Trùng Đài từ phẩm Giáo Hữu đổ lên thì đã vào hàng Thánh Thể nên không
có hàm phong, kỳ dư vị nào quá già yếu không đủ sức lực và trí não hành đạo nữa và có lời chấp thuận của
Quyền Chí Tôn mới được hưởng: hồi hưu dưỡng lão.”
* Lời phê của Đức
Hộ Pháp:
" Phần thứ nhứt:
Chỉ vải sau
lưng: Chí Tôn muốn định phận mình là Tam Thừa.
Phó Trị Sự
hành quyền về hạ thừa chớ chưa vào Thánh Thể nên mang một thẻ nơi lưng."
Còn Phối Sư là bậc
Thượng Thừa nên có 3 thẻ. Trung thừa Chí Tôn không cần định để cho mỗi người cố
gắng lập vị mình mau chóng tới bậc thượng thừa. Nếu qua khỏi 3 thẻ lên 9 tức là
vào hàng phẩm Cửu Thiên Khai Hóa. Cách nhau có một mức Phối Sư với Chánh Phối
Sư mà xa nhau như Trời một vực. Hễ đủ tài đức cầm quyền đạo có quyền Vạn Linh
và quyền Chí Tôn ủy nhiệm ân tứ quyền hành thì là vào ngay Cửu Thiên Khai Hóa
qua khỏi Tam Thừa.
Phần thứ hai:
Ai cho Luật Sự
mang giày vào điện?
Điều ấy là quá
phép, đặng mang giày vào điện là Chánh Phối Sư thì hàng Tiếp Dẫn Đạo Nhơn mới đặng
mang giày vào điện.
Phần thứ ba:
Khi nào đã có
mang sắc lịnh của Hộ Pháp nơi mình và hành lễ thay hình thay xác cho Hộ Pháp mới
đặng đứng ngay giữa thế cho hình ảnh Hộ Pháp, còn ngoài ra thì đứng một bên
phía Thế Đạo tức phía Thượng Sanh.
Khi thay hình ảnh
là khi có lịnh đặc biệt của Hộ Pháp phú cho và có mang sắc lịnh nơi mình.
Phần thứ tư:
Chỉ kêu là vị Luật
Sự. Đối với Lễ Sanh thì gọi là ông Luật Sự Pháp Chánh.
Tới bậc Chưởng Ấn
trở lên mới gọi là Ngài.”
* Lịnh của Đức Hộ
Pháp ở Nam Vang gởi về hôm tháng 8 năm Đinh Dậu:
“Lịnh của Đức
Hộ Pháp Qua hay tin Hội Thánh ngày nay làm lễ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu đều hiu
quạnh hơn khi qua còn ở nhà.
Thoảng như
hai mươi mấy cái cộ có thể cũng còn biến chế được còn riêng Cộ Hội Yến phải có."
Nếu chức sắc Hiệp
Thiên Đài đã cầm quyền đạo ngày nay mà Cộ Hội Yến không có thì mặt Thiên điều sẽ
đem họ về sớm không thể tránh khỏi.”
* Đức Hộ Pháp căn
dặn một điều là:
“Nên để ý là
làm sao ngày qui liễu gởi Thánh cốt tại đất Thánh Địa, vì trái địa cầu 68 nầy
không còn có chổ đất nào quí hóa bằng đất Thánh Địa nếu để được cốt hài nơi đây
rồi thì rất hạnh phúc cho tương lai con cháu. Dù nơi Cực Lạc cũ hay đất mới
cùng là nghĩa địa đất 50 mẫu ở Long Thành cũng vậy. Bần đạo đã biết bên nước
Tàu hễ cha mẹ họ có qui, họ hoàn lại để chọn ngày hoặc chọn chổ đất tốt có hàm
rồng dầu phải 5-3 năm họ cũng đợi kiếm được mới làm lễ an táng, vì bên nước Tàu
có nhiều nhà biết Thiên văn hay khoa coi bói họ giỏi.
Phần nhiều là
các nhà giàu có hay chọn lựa, ngày nay dân tộc Việt Nam có phước Chí Tôn đã tiền
định cho giòng giống Lạc Hồng hưởng điều phúc hậu tương lai, ai có duyên mà về
đây gởi cốt hài là có phước lắm vậy.”
Phước Thiện xin
mở rộng đất Cực Lạc mới, Đức Hộ Pháp có để lời phê:
“Đất Thánh là
nơi tạm gởi Thánh Cốt con cái Đức Chí Tôn cho đến ngày mãn một đời Giáo Tông,
là thiêu cốt lấy tro làm nên một khối lớn đem vô để nơi hầm Bát Quái Đài, tro đầu
tiên hạ Đơn Điền tay chơn là đem vô khối ấy, có dư bao nhiêu thì có lễ long trọng
đem xuống sông Cẩm Giang đổ. Cẩm Giang tức là Thánh Giang như sông Cange vậy.”
* Hội Thánh Phước
Thiện xin thuyên bổ chức sắc đi Châu, Tộc để thay thế cho mấy vị bị rút về, Đức
Ngài phê:
“Y phê và cho
lập Thánh lịnh thuyên bổ, phải căn dặn lại nữa rằng: cơ quan Phước Thiện lập để
nuôi người, chớ chẳng phải để nêu danh đặng lường gạt lấy của người, và ăn bám của người, thoảng từ đây có
nhiều phàm tâm lãnh chức tước đặng gạt gẫm người thì buộc lòng bần đạo phải giải
tán cơ quan Phước Thiện vì nghịch hẳn danh từ của nó.”
Đức Ngài còn để
lời phê:
“Gấm có tật
hay độc tài, từ trước bần đạo quãng đại để rộng quyền cho mỗi đứa tự do tự chủ
lấy mình dầu cho Chưởng Quản gia nghiệp chung. Họ cũng đủ quyền hành làm chủ
riêng của họ mấy em đều biết, còn nay thì Hội Thánh Phước Thiện đã thành lập, Đạo
Cao Đài thành Quốc Đạo, thì khuôn luật buộc rằng không còn như trước đặng.
Cả chức sắc dầu
Cửu Trùng Đài hay Phước Thiện cũng là một vị quan lại của Chánh Trị Đạo, hễ phạm
tội thì án luật định hình không ai khỏi đặng. Như thế mới trừ đặng cái hại: mượn
danh đạo tạo danh mình, nương bóng đạo đức lợi cho mình qua đã biết trước thế
nào trong mấy em cũng có đứa ngồi ngục, Gấm bị trước, vì Phối Thánh Thoại muốn cho
nó trả quả đối với Phối Thánh còn ở phàm. Đáng kiếp Gấm đã đụng đầu xe lửa cũng
như mẹ con Út Giáp đụng đầu xe lửa Màng buổi trước vậy. Mấy em ráng cẩn thận
coi chừng ăn hiếp mấy ông Thánh ẩn thân bất ngờ mà phải ngồi cửa Phong Đô mà
khóc đa nghe.”
* Lời thỉnh
giáo:
Chức việc và Bàn
Trị Sự đương quyền Hành Chánh tham gia trong cơ quan Phước Thiện không?
Lời phê:
“Có quyền,
nhưng khi Phước Thiện cầu nài mượn cậy.”
Phước Thiện đi
phổ độ đạo hữu và chức việc hành chánh qua Phước Thiện được không?
Lời phê:
“Có quyền phổ
độ vào đạo và các cơ quan Phước Thiện những người có tâm từ thiện.”
Những vị chức việc
như Chánh, Phó, Thông Sự đã thọ lãnh trách nhiệm và hiến thân vào Phước Thiện rồi
được ra tranh chức Chánh, Phó, Thông hành chánh không?
Lời phê:
“Đặng trọn
quyền dầu ở nơi cửa Phước Thiện, nếu Hội Thánh hành chánh, Phước Thiện không cần
chi đến sự từ chức của họ.
Về việc thâu
góp tiền bạc của những vị đạo hữu hảo tâm giúp lương thực hoặc công quả về Tòa
Thánh hay các thứ tiền, bên Phước Thiện có quyền thâu của đạo hữu, chức việc
bên hành chánh không?"
Lời phê:
“Đặng trọn
quyền hơn bên hành chánh, vì là cơ quan Phước Thiện. Còn hành chánh mà thâu thì
lại ra lẽ là tìm phương hối lộ trị người mà ăn của người thì cơ hồ hối lộ.”
Hội Thánh Phước
Thiện trình dâng về việc ông Giáo Thọ Nguyễn Văn Tường, pháp danh Thiện Trí đại
diện của ông Đạo Nằm Phật Giáo Thiền Lâm chùa Phước Thiên Tự Tấn Đức Long
Xuyên, tó ý xin về hiệp nhứt đạo vào cơ quan Phước Thiện.
Lời Phê:
“Cửa từ bi
Phước Thiện vẫn mở rộng, nhứt là Phạm Môn là nơi hội ngộ của cả cửu nhị ức
Nguyên Nhân thì có chi ngăn trở sự hiệp nhứt của các đạo các chi, các phái của
Đại Đạo mà xin xỏ làm gì. Cứ thong dong vào cửa đặng lập vị mình, ngôi thiêng
liêng không dễ gì kẻ phàm mà cho đặng. Bần đạo lấy làm vui đẹp và hân hạnh mà
tiếp dón họ, chỉ khuyên họ đừng quá mê tín mà thôi.”
* Lời thỉnh giáo
của Tiếp Lễ Nhạc Quân:
Ba vị Chưởng
Pháp:
- Phái Ngọc mặc
sắc phục đỏ
- Phái Thái mặc
sắc phục vàng
- Còn phái Thượng
theo lẽ phải mặc sắc phục xanh.
Nhưng không hiểu
sao lại mặc sắc phục toàn trắng?
Lời phê:
“Mạng lịnh của
Đức Chí Tôn bần đạo cũng không hiểu.”
Tiểu đệ nghe nói
có Thập nhị Bảo Quân, nhưng không hiểu là ai và có phải mỗi vị Bảo Quân sau nầy
Chưởng Quản một Hàn Lâm Viện không?
Lời phê:
“Toàn thể Bảo
Quân là Hàn Lâm Viện, mỗi vị có sở thức, sở năng ấy là điều khác nhau đặc biệt,
tỷ như Huyền Linh Quân nghĩa là Thần Linh Hồn khác với Bảo Học Quân thuộc về
khoa học hay là thực tế học.
1 . Bảo Huyền
Linh Quân
2 . Bảo Thiên
Văn Quân
3 . Bảo Địa Lý
Quân
4 . Bảo Học Quân
5 . Bảo Cô Quân
6 . Bảo Sanh
Quân
7 . Bảo Phong
Hóa Quân
8 . Bảo Văn
Pháp Quân
9 . Bảo Y Quân
10 . Bảo Nông
Quân
11 . Bảo Công
Quân
12 . Bảo Thương
Quân”
Thập nhị Bảo
Quân dưới quyền nào của Đạo?
Lời phê:
“Riêng cho quyền
Thượng Hội, dưới quyền chỉ huy của Giáo Tông và Hộ Pháp.”
Cửu Trùng Đài là
xác, Bát Quái Đài là hồn, Hiệp Thiên Đài là chơn thần đứng trung gian để cho
xác hồn hiệp một, nhưng sao Đền Thánh Hiệp Thiên Đài ở trước, Cửu Trùng Đài ở
trung gian rồi mới đến Bát Quái Đài?
Lời phê:
“Phải phân phẩm
đặng khai Thiên Môn, rộng quyền phổ độ, đặng tận độ các chơn linh và các phẩm
chơn hồn vào Cửu Thiên Khai Hóa, phải đến Thiên Môn trước rồi mới vào đặng Cửu
Thiên, hồn nó không ở xác mà ở ngoài xác, còn chơn thần là dắt dìu đồng sống với
xác đặng độ xác, tương sanh thì cần chi phân sau hay trước chỉ là khinh cùng trọng
mà thôi chớ.”
Nếu nói Hiệp
Thiên Đài là chơn thần trung gian của xác và hồn thì chức sắc Hiệp Thiên Đài đứng
ở giữa, nhưng sao lại đứng ở ngoài mà ngó vào Cửu Trùng Đài rồi đến Bát Quái
Đài?
Lời phê:
“Đứng giữa rồi
ngoài họ đuổi Thiên hạ ra thì ai thấy dùm cho, nếu chơn thần vắng mặt thì chắc
xác không biết đường đi mà chớ.”
Chức sắc Hiệp
Thiên Đài phải đứng chầu lễ Đức Chí Tôn hay có ý nhiệm về bí pháp thế nào, tại
sao lại không ngồi?
Lời phê:
“Chơn thần phải
thường tại tức là phải hằng sống, nếu để nó ngồi không buộc nó đứng thì nó sẽ
ngủ gục hay là chết.”
* Tờ thỉnh giáo
của Hộ Đàn Pháp Quân, ngày 1-4-Quí Tỵ 1953 về việc bái lễ Chí Tôn tại Bát Quái
Đài, cả chức sắc, chức việc đạo hữu xoay lưng lại xá bàn Hộ Pháp, khi mản đàn rồi
cả chức sắc Hiệp Thiên Đài xá đáp lễ lại, Đức Ngài phê:
“Cái xá ấy chẳng
phải làm lễ trọng chức sắc Hiệp Thiên Đài từ lớn đến nhỏ mà là xá chữ KHÍ. Chữ
KHÍ là nguồn cội của Pháp đã biến sanh ra vạn vật, Phật là trước tới Pháp là thứ kế Tăng là tiếp, cái
xá ấy là kính đệ tam qui, trong Pháp ấy xuất hiện Phật Mẫu kế tới Vạn Linh, vì cớ
cho nên Diêu Trì Cung cùng Hiệp Thiên Đài có tình mật thiết cùng nhau về một
căn cội Pháp, để vận hành Ngươn Khí tạo Vạn Linh thì vị Hộ Pháp do Di Đà xuất
hiện rồi kế vị Hộ Pháp và kế tiếp Long Thần Hộ Pháp cùng toàn bộ pháp giới
đương điều khiển Càn Khôn vũ trụ cũng đều do nơi chữ KHÍ mà sanh sanh hóa hóa.
Chào chữ KHÍ tức là chào cả tam qui thường bộ pháp giới tức là chào mạng sanh của
chúng ta, chớ chẳng phải chỉ chào Hộ Pháp, Thập nhị Thời Quân. Thập nhị Địa Chi
đã xuất hiện mà đang thi hành sứ mạng nơi Hiệp Thiên Đài, mà chào toàn thể Vạn
Linh đã sanh hóa từ tạo Thiên lập Địa.
Xin nhớ và
truyền bá lời giáo huấn nầy, chính mình lầm hiểu là thất đức chớ chẳng phải người
đảnh lễ là thất đức.”
* Thỉnh giáo của
Hội Thánh về việc chức sắc hành sự đủ 5 năm mà không đi hành quyền hành chánh
các Châu, Tộc nhưng có công nghiệp xứng đáng có được thăng một lượt với chức sắc
đi hành đạo địa phương không?
Lời phê:
“Những vị đủ
hạnh đức, đủ công nghiệp mà chỉ hành đạo nơi Tòa Thánh thì chỉ kể như người giữ
nhà vì không giáo hóa và phổ độ chúng sanh, là phận sự thiêng liêng của một phần
tử của Thánh Thể là Hội Thánh. Chí Tôn đến phổ hóa và cứu độchớ không phải đến
giữ nhà, hay cày ruộng, nấu ăn, dầu đủ công nghiệp mà vì hạnh kiểm hay bất lực,
Hội Thánh không đủ tín nhiệm cho cầm quyền giáo hóa chúng sanh thì công nghiệp ấy
bao nhiêu cũng kể cho rằng không xứng đáng.
Đủ hạnh đức,
đủ tài tình lãnh sứ mạng ta bà giáo hóa là nguy hiểm và khó khăn hơn ngồi nhà,
giữ nhà cùng nồi cơm hủ gạo phận sự ấy của phái nữ mới phải, là nữ phái còn cho
là vô giá trị huống lựa là nam, nếu có công nghiệp phi thường hạnh đức đầy đủ đặng
thăng đi nữa cũng phải đứng sau người cầm quyền hành đạo và giáo hóa tha
phương.”
* Tờ yêu cầu của
Giám Đạo Hợi xin cho chức sắc nữ phái khi sanh đẻ được nghỉ trong vòng 6 tháng.
Lời phê:
“Khai
Pháp nên nhớ rằng theo luật định của Đức Lý Giáo Tông và của bần đạo lúc trước
thì chức sắc Thiên phong phải trọn giữ tiết trinh hành đạo mới đáng vị Thiên
phong. Vì cớ đã có luật định, sau lại Chí Tôn có sửa luật và dạy bần đạo phải
thi hành luật sửa của Đại Từ Phụ là Thiên phong đặng phép có vợ chồng song khi
có con thì phải trọn gìn đạo làm cha mẹ, nghĩa là khi có con thì không còn phép
gọi Thiên phong nữa.
Nếu thi
hành y lịnh ấy, một vị Thiên phong bất kỳ nam hay nữ hễ còn có con nhỏ dưới 12 tuổi thì Hội Thánh buộc cha mẹ chúng từ chức
đặng nuôi dưỡng.
Luật định
như thế hễ phái nữ có vợ chồng và sanh đẻ thì không còn đặng ở trong hàng Thánh
thể nữa, hoặc họ phải từ chức hay là Hội Thánh trục ngoại ra khỏi Thánh thể, đặng
họ nuôi con là đúng luật. Phải lập luật về điều ấy.”
* Đám xác
và làm tuần không đem vào Khách Đình hay Báo Ân Từ không được xin Lễ, Nhạc.
Lời phê:
“Đám
ngoài châu vi Thánh Địa kể là tư gia, nếu làm phước đặng thì đi đám, bằng chẳng đi đặng không ai đặng phép
lấy quyền ép buộc Bộ Nhạc, Lễ phải đi, nếu nói rằng thi ân bố đức của Hội Thánh
là khi Hội Thánh ban ân riêng cho đem đám vào Tòa Thánh là phước của họ. Còn như không đặng phước ân
riêng của Hội Thánh thì tùy nơi họ muốn ai làm đám cho họ thì muốn.”
* Tờ số 315 của
Thánh Vệ Trưởng nói về 2 Phận Đạo Thập Nhị và Thập Tam đất còn nguyên vẹn xin
cho khai lập đường sá, và ban cho những vị đạo hữu chưa có phần đất ở, chớ
không nên ở trong một phần đất mà hai gia đình.
Lời phê:
" Tư cho Quyền Ngọc Chánh Phối Sư xem điều của
Thánh Vệ Trưởng xin là điều của bần đạo
đã ra lịnh cho các tư gia phải thi hành.
Hễ cho đất
nhà quá nhiều hơn 25 thước ngang, 30 thước xuôi thì họ sẽ bỏ hoang không săn
sóc hết vườn tượt nhà cửa nổi, mà với số đất đã cho chỉ đủ một gia đình cất nhà
trồng cây trái đủ ăn cho sấp nhỏ và đủ khoảng khoát cho chúng nó, còn để cho 2
chủ ở một phần đất như thế thì chật hẹp.
Hại thay! Các
chủ đất đặng hạnh phúc chiếm trước đã đủ ăn đủ ở lại còn ham tiền chia ra bán bớt
phần đất của họ ở ủm thủm chật chội làm cho sấp nhỏ bịnh hoạn. Bần đạo đã ra lịnh
cấm rồi. Vậy 3 vị Chánh Phối Sư ra Huấn Lịnh cho các chủ đất ai đã lở bán phải
chuộc lại, còn đất quốc gia mà các nhà rẩy đã ăn đủ hai mùa thì Sở Kinh Lý phải
chia cho người chưa có tu nghiệp, trừ ra họ có lảnh đất mà bán rồi thì không đặng
xin nữa, các quân nhân thì chia đất để dành cho chúng tại Bến Kéo, còn trong
Thánh Địa thì không cho một quân nhân nào nữa hết.”
* Tờ số
362/VP. HP gởi Qu. Ngọc Chánh Phối Sư Cửu Trùng Đài “Hiền hữu ra lịnh đòi các vị
chức sắc làm biếng đi cúng theo tờ phúc của bản thông qui ghim theo đây cho biết
vì lẽ gì? Cho hiểu lý do từ xử định tự nhiên của họ là sao cho bần đạo biết.
Các Bàn Trị Sự
của mỗi Phận Đạo cùng Hương Đạo từ đây nếu các ngày Đại Đàn mà thiếu mặt sẽ bị
một hình phạt gắt gao là bị cách chức hay là thêm vào hạnh kiểm nương bóng đạo
chớ không phải thật đạo, sẽ bị trục ngoại ra khỏi Thánh Địa.”
* Tờ số 1269
ngày 13 tháng 8 Nhâm Thìn của Qu. Ngọc Chánh Phối Sư dâng lên Đức Hộ Pháp tờ
kêu oan của Bàn Trị Sự Bình An, Cần Thơ bị Pháp Chánh Trị An phạt ngưng quyền.
Lời phê:
" Tội
nghiệp, hành đạo gặp buổi khó khăn, nhơn tâm điên đảo mà bị đạo trị
cũng tội nghiệp.
Tiên Nho ta và cũng là lời Tổ Phụ ta nói: "Tội qui ư trưởng", ai biểu
đem kẻ bất lương vào cửa đạo mà không biết thì cũng như câu nói của Đại Từ Phụ:
" Cũng
như ấp rắn không nên phận đó vậy". Bàn Trị Sự là Hội Thánh em cốt đủ quyền
đem lương sanh về Thánh Thể, nghĩa là có quyền chọn người đạo đức hiền lương vào
cầm quyền mà nhè lầm phải tay trộm cướp thì biểu sao Hội Thánh không nghiêm phạt.
Luật phổ tế là vì lẽ có công thưởng, đắc tội thì trừng là lẽ dĩ nhiên còn kêu
oan chi đặng nữa. Phải lấy huệ nhãn xem người mới phải con mắt tu, còn lầm là
con mắt phàm, phàm là bị phạt là đáng kiếp."
* Do tờ 40, ngày Rằm tháng 6 Nhâm Thìn của Bàn Trị Sự Thới
Thuận, An Hóa, Mỹ Tho đệ trình tình hình nơi đó rất sợ sệt VM chém người đạo:
“Qu. Ngọc
Chánh Phối Sư viết thơ hỏi lại toàn đạo nơi An Hóa có phải sợ VM mà bỏ Chí Tôn
và bỏ đạo hay chăng? Nếu VM có quyền giết ta thì chỉ giết xác thịt ta, còn ta nếu
sợ người mà có quyền giết ta còn có quyền đọa linh hồn ta nữa kia mà. Biểu cứ
làm đạo vì bổn phận phải giúp đở an ủi những nỗi đau khổ của đời thì dầu ai giết
chết mà vì lẩn truất thương sanh thi hành phước thiện thì sợ gì cái chết ấy.”
Phụ Ghi:
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC
CHUYỆN ÔNG ĐỢI
Vào một kỳ họp đại hội, Đức Hộ Pháp chủ tọa bên Hiệp Thiên
Đài, còn ông Khai Pháp chủ tọa bên Cơ Quan Phước Thiện. Giữa cuộc họp bên Phước Thiện đột nhiên ông Giáo Thiện
Võ Văn Đợi đứng dậy, đem áo mão Lễ Sanh, Giáo Thiện đã sắp xếp sẵn lên đặt ngay
bàn chủ tọa rồi xá Ngài Khai Pháp, quì xuống lạy xin được trả áo mão. Ngài Khai
Pháp và mọi người trong cuộc họp đều ngạc nhiên quá đổi.
Trước việc bất
thình lình này, mọi anh em chưng hửng. Ngài Khai Pháp nói:
“Anh Đợi, anh
làm gì vậy? Việc này tôi phải mời Đức Hộ Pháp qua giải quyết.
Vì chỉ có
Ngài mới có quyền thôi.”
Đức Hộ Pháp được
mời đến. Đức Ngài hỏi vì sao ông Đợi làm vậy? Ông Đợi thưa rằng:
“Bạch Thầy, vì lúc trước Thầy có nói mượn áo mão đi hành đạo 3
năm rồi sẽ
về tu chơn. Hôm nay con xét lại thấy đã đủ 3 năm nên xin
trả lại để tu chơn.”
Đức Ngài nói:
“Phải, điều này hồi trước qua có nói với Đức Quyền Giáo Tông. Nhưng hôm nay qua còn đầy công việc
chưa thành thì làm sao Thầy trò ta trở về tu chơn cho đặng. Qua còn làm sao em
lại bỏ qua. Công việc của mấy em giống như là đưa người ta đã đến một cù lao,
mình còn phải ráng giúp thêm tiếp tục đưa đến bờ đến bến, có đâu lại bỏ họ giữa
chừng. Như vậy còn gì là ân nghĩa với họ đây?
Đức Ngài nói vậy
mà thấy ông Đợi vẫn nhất quyết một lòng như thế, Ngài mới nói:
“Nếu em không
nghe lời qua mà em chỉ muốn làm theo ý muốn vậy em cứ đi.
Vào núi đó, nếu
độ được mấy ông thầy chùa trên núi thì qua tính công nghiệp cho.”
Ông Đợi nghe vậy
mừng lắm, nhận lời. Sau đó ông Đợi cùng với một số anh em cùng ý với nhau hợp
thành một nhóm vào chân núi Bà lập sở nơi mà Đức Ngài đã chọn để lập Vạn Pháp
Cung. Họ bàn kế hoạch độ người là muốn độ họ thì phải làm cho giống họ, mới gần
gũi họ mà độ, tất cả đồng ý cạo đầu mặc áo nâu.
Ngoài Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp nghe tin, Đức Ngài nói:
“Qua bảo nó vô đó để độ mấy ông thầy chùa chớ có bảo nó
cạo đầu, mặc áo nâu đâu? Nó làm vậy là làm trò của người ta rồi còn mong gì mà độ họ được.”
Được biết thời gian chọn phong Lễ Sanh trong hàng Giáo Thiện
để đi hành đạo do Phối Thánh Màng chọn. Trong số người được chọn
có ông Đợi. Số chưa được chọn do còn thiếu điều kiện gì cần phải rèn luyện thêm
và phải chờ lần khác.
Họ sanh lòng tự
ái, thay vì tu học thêm, học lại bất mãn, ghen ghét, ganh tị. Họ nói với những
người được chọn phong những câu biếm nhẽ như:
“Mấy anh có
mão cao áo rộng rồi đâu còn ngó ai nữa.”
Nghe vậy, ông Đợi
ái náy, mặc cảm, ông nói với mấy anh em đó rằng ông sẽ trả áo mão lại và cùng
làm công quả với anh em, cho đến khi nào anh em đây hết thảy có phẩm thì ông mới
xin áo mão lại và nhận phẩm của mình.
Từ những sự việc
đó mà trong một đàn cơ có Phối Thánh Màng về nói:
“ Con chào Sư
Phụ, nhị vị Sư Thúc, các bạn, mấy em và mẹ thằng Xạnh.
Cười…
Thưa Sư Phụ,
mấy em con đều đủ đây hết, thiệt là một ngày đại hội hiệp. Con mừng quá!
Chào chư hiền
hữu, bình thân.
Thưa Sư Phụ,
con không dám để một lời gì nơi sự cầu phong cho mấy anh em con, nhưng con chỉ
than rằng nếu ai không đủ công Hành Thiện y theo khuôn luật của Phạm Môn thì chẳng
hề biết ái tuất thương sanh mà nên Giáo Thiện. Theo ý con tưởng thì tốt hơn là
để thủng thẳng cho họ tạo tâm đức đặng hoàn toàn. Còn như muốn cho họ trọng
thân danh nên để cho toàn Phạm Môn xúm nhau định cử.
Xin Sư Phụ
nghe theo lời con là hay.
Thăng.”
Đức Ngài đồng ý
và cho thành lập Đại Hội Phước Thiện tổ chức nghị viên, phái viên y như Hội
Nhơn Sanh. Sau khi ông Đợi ở trên núi làm không đúng chơn truyền, trước khi qua
đời ông có làm tờ thú tội với Đức Hộ Pháp và xin tha thứ thì được Đức Ngài để lời
phê như vầy:
“Làm Thầy như
ai thì khác còn qua đây vẫn khác. Với qua, Thầy chỉ biết thương trò, tha thứ là
phận Thầy. Em chẳng vì đời mà phạm, nếu có phạm là vì đạo mà chẳng hiểu rõ mầu
nhiệm của Thầy.
Em về trước, rồi mấy qua lục thục cũng về sau. Chúng ta cũng sẽ hội hiệp vĩnh viển
nơi cõi Hư Linh, là quê hương thiệt, Thầy trò sẽ thiệt, bạn hữu sẽ thiệt, cảnh
nầy chẳng phải của chúng ta vì nó là cảnh dành để cho kiếp trái oan khiên, em an
lòng. Thầy chỉ thầm khen em chớ chưa biết em đã có tội gì hết.”
Sau đó có tờ đề
ngày 3-11-Canh Dần của Nguyễn Văn Thế và 16 vị nữa đồng đứng dâng cả công quả của
mấy vị ấy để chuộc tội cho ông Đợi là sư huynh của họ ở đạo núi được Đức Ngài để
lời phê như vầy:
“Đợi bị phế vị
là nó dám từ chối Thập nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng, ngày nay theo Thiên điều thì
nó phải tái kiếp mà hành đạo lại, nếu nó đặng ở Thanh Tịnh Đại Hải mà tu hành
nơi cõi Hư Linh cũng là may phước cho nó. Còn quyền thiêng liêng thưởng phạt là
do quyền Ngọc Hư Cung có phải của bần đạo đâu mà xin bần đạo.
Còn dâng công
quả cho Đợi chỉ có vợ con của Đợi mới đặng. Còn của mấy em thèm đâu mà dâng.”
Liên quan đến vụ
“đạo núi” nầy cũng có tờ của vị đạo núi Trần Ngọc Dương bịnh nặng làm tờ
yêu cầu Đức Hộ Pháp xá tội cho hết căn bịnh chướng thì được Ngài để lời phê:
" Đức Chí
Tôn là Đại Từ Phụ, khi đến độ bần đạo, bần đạo có hỏi về phương tận độ các vong
linh nhân loại thì có nói quả quyết như vầy:
" Dầu
cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp hối rồi chỉ kêu lấy danh Ta
thì cũng đặng siêu thoát. "
Dương gắng nhớ
và trông cậy nơi Đại Từ Phụ vì Dương đã biết ăn năn sám hối.
Bần đạo ban
ân lành cho Dương."
CHUYỆN VỀ HIẾN TIỀN CÔNG
QUẢ
Ông Khuê Tổng
Giám Ban Kiến Trúc kể rằng, lúc anh em Ban Kiến Trúc lo miệt mài làm công quả nhưng cũng có khi có
chút đỉnh tiền của người nhà cho để chi dùng, anh em đóng góp thành một quỹ
chung. Lúc Đức Hộ Pháp kêu gọi đóng góp vào việc tạo tác Đền Thánh, anh em hăng
hái mỗi người ít nhiều cùng tham gia đóng góp. Lúc đó Ngài Khai Đạo chấp tài
chánh. Không hiểu sao một buổi sáng nọ, anh em Ban Kiến Trúc dẫn nhau đến Hộ
Pháp Đường, làm đầu là cô tư Tranh kiếm Đức Hộ Pháp để nhờ Ngài xử cho một việc.
Anh em Ban Kiến Trúc cho là ông Khai Đạo không minh bạch trong vấn đề tài chánh
của anh em Ban Kiến Trúc.
Thấy anh em đến
đông, Đức Ngài ra gặp và hỏi cho biết hết mọi chuyện đã khiến anh em phiền giận.
Sau đó Đức Ngài hỏi cô
tư Tranh:
“Con có đóng
góp vào quỹ đó bao nhiêu?”
Cô tư nói số tiền
của mình, Đức Ngài đưa tay vào túi lấy đủ số tiền đưa cho cô tư rồi nói:
“Phần con đã
được trả đủ rồi, con đây còn phận sự gì nữa ở đây? Con nên lui đi.”
Cô tư Tranh đành phải lui về. Không còn ai làm đầu nữa, anh
em Ban Kiến Trúc như xuống nước, mất hết nhuệ khí ban đầu, vừa lo vừa sợ. Đức
Ngài nói mà rươm rướm nước mắt:
“Các con nghe
đây, khó khăn lắm, thật là khó khăn lắm Ngự Mã Thiên Quân mới gan được Thập nhị
Thời Quân vào đây. Khó khăn lắm Ngự Mã Thiên Quân mới rủ được họ vào cùng làm với
Ngự Mã Thiên Quân. Chớ mỗi vị một nơi trên quả địa cầu này, thì chắc là quả địa
cầu này tan tành manh mún đi mà chớ. Thầy khuyên các con một điều là bao nhiêu
công quả là bấy nhiêu phần. Các con hiến số tiền ấy cho đạo rồi thì Đức Chí Tôn
và các Đấng đã tính cho các con, các con cho Đức Chí Tôn vay thì Ngài sẽ trả, dứt
khoát không cho thất thoát. Đừng bận tâm, đừng suy nghĩ lo lắng, hãy để cho tâm hồn các con vui hưởng
cái điều thiện mà nó đã làm được, nó phấn chấn và phát triển hơn. Còn người nào phạm thì người đó chịu
trách nhiệm trước mặt Đức Chí Tôn. Các con đừng bao giờ có tư tưởng phạm vào
Thiên vị họ mà tổn đức mình.
Thầy khuyên
các con hãy cầu nguyện cho các vị chức sắc, nhất là Thập nhị Thời Quân cho họ
thể Thiên hành hóa, nên coi trọng vì mỗi người Đức Chí Tôn đã bố trí một nhiệm vụ. Vậy thì có lợi cho các
con lắm đó. Có gì các con nên viết thơ cho qua.”
Anh em Ban Kiến
Trúc nghe Đức Ngài nói xong xin lỗi Ngài rồi giải tán.
CHUYỆN LÀM CÔNG QUẢ SAU NÀY
Ông Hành Thiện Phan Văn Trừ kể rằng lúc còn nhỏ về Tòa
Thánh làm công quả, nhóm của ông được phân công giải quyết đám rừng chồi bên
hông Tòa Thánh, bây giờ là từ Tòa Thánh đến Hạnh Đường. Chỗ đó dây leo chằng chịt,
đủ mọi thứ, nhất là gai mắc cở tây cao khỏi đầu 2-3m, dây to lại dài. Anh em
làm mà coi uể oải ngao ngán lắm.
Thấy Đức Hộ Pháp từ xa đi lại, anh em luống cuống làm lia
làm lịa. Đức Ngài kêu tất cả dừng tay rồi vô bóng mát uống nước hết mệt hãy làm. Đức Ngài nói:
“Mấy con cố gắng làm được bao nhiêu thì làm, chớ đừng có
làm biếng. Hãy làm bằng cái tâm của các con, nó thúc giục để làm, làm theo sự hướng dẫn của nó.
Nó giác ngộ,
nó ý thức, nó hy sinh một để nó nhận mười. Bây giờ các con không làm thì sau hối
tiếc, vì tất cả đã xong rồi thì sau này có kiếm làm cũng có được đâu. Đàn em
đàn con của các con nó sẽ không được như các con. Mấy con nên biết rằng, sau này
máy móc thay thế tay chân, làm gì ngoại quốc nó cũng giành làm vì là làm bằng cơ
khí, làm 1 bằng 10. Các con cầm cái bay nó cũng giựt, cầm cái cuốc nó cũng lấy.
Nó nói là các
con làm rồi, bây giờ tới phiên nó. Chừng đó giành với nó là nó tát.
Lúc đó các
con chỉ có một nước là cận kề theo nó, nói đạo cho nó nghe. Nó hỏi cái gì thì nói
cái đó. Nói không được là các con làm nhục đạo Thầy, các con mang đọa.
Còn nói được
thì chúng nó đem mâm vàng chén bạc đãi đằng. Liệu mà lo lấy.”
Mọi người hiểu
được, khi Đức Ngài đi họ xông xáo tiếp tục.
ĐỨC NGÀI DẠY ĐI CẦU SIÊU
PHẢI ĐỌC KINH THÀNH TIẾNG
Khi Đức Ngài dự đám tang, dự lễ cầu siêu thấy có nhiều người không đọc
kinh. Sau đó Ngài
giảng ý nghĩa Kinh Cầu Siêu, sự mầu nhiệm của Kinh Cầu Siêu,
sự huyền diệu của
việc cầu siêu, và dặn mọi người phải đọc một cách thành tâm khi
dự đám. Đức Ngài
nói:
“Mỗi khi kinh
được đọc thì âm thanh sẽ vang ra, mỗi người một âm thanh, tức là mỗi người phát
ra một điển lực. Nếu chơn linh người chết hạp với điển lực người đó, họ sẽ
nương nhờ vào mà giải trừ oan nghiệt và tội lỗi. Vì người chết và tất cả những
người đang dự đám có mặt tại đây, biết đâu trong vô lượng kiếp trước giữa họ và
ta đã từng là những người chí thân, dẫy đầy oan nghiệt, dẫy đầy những tội tình
mà người chết và ta chưa từng gặp lại để trả với nhau. Vậy mà hôm nay gặp nhau,
nơi đây, nơi cửa Đạo Cao Đài này, ta không biết họ là ai. Ta phải thành tâm cầu
nguyện Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, và các Đấng thiêng liêng ân xá và tha thứ tội
tình cho họ được siêu thăng thoát hóa. Còn đối với riêng ta, thì ta cũng đang
đi cầu siêu tức là ta cũng tha thứ cho họ nữa. Được như thế, lần hồi cái nợ nần
oan nghiệt, trái chủ của ta, của họ, và của cả mọi người sẽ tự tiêu tan và kết
thúc. Cho đến ngày nào đó, đến khi ta thoát xác, các bạn của ta cũng đến cầu
nguyện và xin cho ta, và họ cũng tha thứ cho ta như ta đã tha thứ hôm nay cho
những người mà ta đi dự đám. Cái ý nghĩa này mọi người nên biết để mỗi khi đi dự
lễ cầu siêu là đừng quên đọc kinh với lời cầu nguyện chân thành cho người bạn
thân yêu đang mong đợi.”
Đức Ngài còn cho
biết thêm:
“Người chết,
chơn hồn còn vấn vương, lảng vảng nơi đây. Nếu trong số người dự lễ cầu siêu mà
có được những bậc chơn tu đạo đức đến cầu nguyện, hoặc có được những vị lãnh đạo,
cấp bậc trong tôn giáo đến cầu nguyện càng nhiều càng có lợi cho người chết. Vì
lời cầu nguyện ấy sẽ nâng linh hồn. Còn riêng những người đồng đạo hoặc người đạo
của tôn giáo khác, cũng có những người đức độ lớn giữ đạo tốt, đến cầu nguyện
thì rất ảnh hưởng đến người chết. Vong linh người chết được những tư tưởng, điển
lành của mọi người ắt sẽ được một ân huệ.”
Đức Hộ Pháp
khuyên mọi người nên siêng năng đi đám vừa có lợi cho người, vừa có lợi cho bản
thân.
HÌNH PHẠT CHO NGƯỜI NGOẠI
TÌNH
Trong lúc hăng
hái trong công việc cũng có khi vui vẻ các anh em công quả
nói đùa để quên nỗi nhọc nhằn
mệt mỏi. Có bửa Đức Ngài nghe trong nhóm trộn hồ có người nói:
“Có chồng mà
lại lấy trai
Thác xuống âm
phủ cưa hai nấu dầu.”
Đức Ngài mỉm cười
rồi hỏi chung:
“Thầy hỏi mấy
con vậy chớ âm phủ nấu loại dầu gì vậy? Cưa hai nấu xong rồi nó có hết lấy trai
không? Đây Thầy nói cho mà biết. Việc vợ chồng mà ông hoặc bà ngoại tình thì đó
là luật Thiên điều đa. Luật Thiên điều hễ vay thì phải trả thôi.
Bởi vợ chồng
cư xử với nhau chẳng trọn đạo, khi về cảnh thiêng liêng hằng sống nhìn nhau mà
thẹn thuồng ái ngại vì cái lỗi lầm của mình với bạn. Để rồi sau đó kẻ đứng bờ
bên này, trông về phía bên kia của sông TƯƠNG muốn gặp nhau, muốn nói với nhau
những lời phải quấy nhưng hình luật chẳng cho ai gặp ai. Cho đến khi đầu kiếp
phải tìm nhau mà trả cái nợ tình oan nghiệt ấy. Thật là thảm thương khi trông thấy
dù cả hai đứng trước mặt nhau cũng không thể thành chồng thành vợ đặng. Đó là
hình trạng yêu thương nhau lắm mà chung cuộc lại bất thành vì luôn luôn có một sự
ngăn trở khiến xuôi cho cả hai phải chia lìa nhau, để rồi mang lấy nỗi đau khổ triền
miên dằn vặt trong suốt một kiếp người. Hình ảnh đó là hình phạt cho kẻ ngoại tình.”
CHUYỆN ÔNG ĐÍNH
Ông Hoai kể, ông
Đính bạn gần nhà ông Hoai cũng nhập môn vào đạo, không biết luyện phép gì, pháp môn nào mà ông
say mê rồi biến thiên tánh đức. Người ta nói rằng khi đi ghe, ông Đính thấy con
rồng phụ thể lúc nào cũng ở bên mạn ghe.
Nếu ông bảo nó
sang phải thì nó sang phải, nếu ông bảo nó sang trái thì nó sang trái. Cho đến
một hôm tư tưởng ông vượt quá cao, ông lên ngồi trên Thiên bàn rồi bắt phụ thân
vào quì lạy. Sau đó lần hồi ông Đính càng suy nhược và chết đi. Ông Hoai đem
chuyện của bạn mình trình với Đức Hộ Pháp và hỏi Đức Ngài điều đó là gì, hiện
tượng ấy có thật hay không. Ngài trả lời:
“Có chứ! Vì
đó là quyền hành của Phật CẨN ĐÀ LA NI, nếu tư tưởng của người nào đúng mức thì
vị Phật ấy cho được phép thấy tất cả những huyền diệu. Song đó là những cái giả,
chớ không phải thật. Vậy qua khuyên mấy em cứ lo lập công, rèn trau tâm đức, bền
chí bền lòng nghe lời Hội Thánh giữ luật thi hành. Đừng có thấy cái gì hết là
phước lắm đó.”
CỬU TRÙNG ĐÀI QUA PHƯỚC
THIỆN
PHẢI ĐI TỪ MINH ĐỨC
Lúc Khai Pháp Trần
Duy Nghĩa làm Chưởng Quản Phước Thiện có một vị chức sắc bên Cửu Trùng Đài hàng phẩm Giáo
Sư xin qua lập công bên Phước Thiện, lúc đó ông Khai Pháp không biết giải quyết
nên mới trình lên Đức Hộ Pháp để Ngài quyết định. Đức Hộ Pháp nói:
“Người ta muốn
thì cho chớ không bỏ. Vậy phải từ Minh Đức.”
Khai Pháp thắc mắc:
“Vị ấy là
Giáo Sư, đối với bên Phước Thiện là vào hàng Đạo Nhơn chứ?”
Đức Hộ Pháp giải
thích:
“Nếu vị ấy
làm tờ đối phẩm thì y như vậy về mặt hành chánh, về mặt hữu hình cho có phân biệt
trật tự để làm việc, vì Đạo Nhơn cũng coi phó một Viện cũng như Giáo Sư Cửu
Trùng Đài. Còn nó về làm việc phước thiện phải đi từ Minh Đức. Giả sử một ông
vua mà muốn vào chùa tu thì vào hàng cấp nào? Có làm Hòa Thượng được không?
Kẻ làm quan
thì sự ăn học đã có, đẳng cấp thông thái đã hơn người thường một bậc, nếu vào
nhà chùa tu thì mau thăng tiến hơn vì trí não đã thông minh, tiếp thu giáo luật,
giáo điều mau lẹ, có lẽ một thời gian ngắn dễ dàng thăng cấp Hòa Thượng không
chừng, mà mọi người không thắc mắc vì thấy rõ đạo hạnh của người ấy xứng đáng.
Nhưng mới vào thì cũng làm Sãi, chớ có biết gì đâu mà làm Hòa Thượng được.”
Cửu Trùng Đài là
quan chức của đạo, còn Phước Thiện là cửa Phạm. Ngài Khai Pháp hiểu và phê cho
vị ấy vào hàng Minh Đức. Sau này khi Thượng Sanh nắm Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
cũng có phê cho vị Giáo Hữu Thái Chẩn Thanh vào hàng Minh Đức. Ông Chẩn từ Cửu
Trùng Đài xin qua Phước Thiện làm và được chấp thuận cho vào hàng Minh Đức. Ông
ta thấy một vị Giáo Hữu đứng vào hàng Thánh Thể mà vào Phước Thiện lại là Minh
Đức, ông cho là nhẹ thể nên rút đơn không xin nữa.
CHUYỆN SỐNG CHUNG NGƯỜI
ÂM
Ông Tư Trần Thiện
Niệm làm Nhạc Sư có kể hồi còn ở Nam Vang lúc ông còn là Đốc Nhạc, cai quản ban nhạc nơi
Miên Quốc. Trong ban nhạc của ông có một vị nhân viên không biết bị gì mà đột
nhiên xanh xao, nhợt nhạt, rồi ốm dần, coi tiều tụy lắm. Anh em lo đủ thuốc thang đông tây mà
không thuyên giảm, ngày lại càng kiệt sức hơn. Bác sĩ coi mạch cũng phải lắc đầu không chẩn
đoán ra được bịnh.
Thấy nhân viên
trầm trọng coi chừng như muốn hấp hối, ông Tư trình bày lên Đức Hộ Pháp. Đức
Ngài nghe vậy liền xuống ban nhạc để thăm vị ấy.
Vừa vào tới nơi
Đức Ngài nói liền:
“Rồi, nữa rồi!”
Mọi người nghe vậy
không biết Ngài nói vậy là ý gì. Ngài hỏi:
“Nó đâu?”
Ông Tư chỉ cái
giường nằm cách ngăn giữa nhà trên và nhà dưới, nói:
“Thưa Thầy,
em nó nằm đây.”
Đức Ngài nhìn vị
ấy, anh em liền đỡ vị ấy dậy. Ngài nói:
“Thôi để nó nằm
đi. Mấy con đem nó lên Báo Ân Đường cho qua trị bệnh cho nó.”
Vị nhạc ấy được
Đức Ngài hành pháp giải oan tại Báo Ân Đường. Từ lúc đó trở đi vị nhân viên từ
từ phục nguyên khí sắc, thần sắc.
Sau đó 3 ngày vị
nhạc ấy mạnh khỏe như thường. Anh em ban nhạc và vị ấy cùng dẫn nhau đến Báo Ân
Đường lạy tạ ơn. Đức Ngài hỏi:
“Có còn thấy
gì nữa không?”
Vị nhạc ấy trả lời:
“Dạ không còn
thấy gì nữa.”
Ngài cười rồi bảo
ông Tư ngày mai mời hết anh em ban nhạc đầy đủ tại văn phòng để Đức Ngài dạy việc.
Ngày sau, Đức Hộ
Pháp đến văn phòng ban nhạc, anh em ban nhạc đã có mặt đầy đủ. Đức Ngài hỏi:
“Qua hỏi thiệt mấy em, chớ tại sao mấy em treo
bức ảnh cô gái nầy tại văn phòng?”
Vừa hỏi Ngài vừa
chỉ tay về hướng bức ảnh treo trên tường. Đó là hình của một cô minh tinh màn bạc
nổi tiếng của Miên Quốc đã tử nạn trong một tai nạn giao thông. Đức Ngài hỏi tiếp:
“Các em có
thường hay nói giỡn, nói đùa với bức ảnh đó hay không?”
Mọi người nhìn
nhau rồi nhớ lại. Vị nhạc bị bịnh trả lời:
“Bạch Đức
Ngài, thưa Thầy hôm anh em tụ họp tại văn phòng cũng đông người, ai cũng khen
tranh ấy đẹp, trầm trồ ca ngợi, thích thú. Con có nói đùa rằng:
‘Phải chi mà nàng ấy nhận làm vợ mình thì mình chịu liền."
Đức Ngài nói:
“Cũng bởi câu nói ấy mà mỗi đêm con ngủ với nàng ấy phải
hôn?”
Cả ban nhạc nhìn vị ấy cười. Đức Hộ Pháp rầy:
“Qua nói cho
mà biết. Đừng có nói chơi, người ta là người vô hình. Nó nói là phải nhận
không sai chạy. Người con gái trong tranh là điển hình đó. Thôi cho giải tấm
tranh ấy đốt đi, qua chứng cho, đừng có thấy đẹp mà tiếc không nên đâu.”
Anh em đem bức
tranh xuống đốt liền.
CHUYỆN SỞ BÁ VƯƠNG HẠNG VÕ
Trong một đàn cơ
có ông Phối Thánh về báo trình cùng Đức Hộ Pháp có Phạm Tăng xin ra mắt.
Đức Hộ Pháp cho phép ông ấy nhập cơ. Ông nhận là người cùng Tông Đường với Đức Ngài và xin chúc mừng Đức
Ngài. Đồng thời ông cầu khẩn Đức Ngài từ bi độ rỗi cho vong linh Sở Bá Vương Hạng
Võ.
Nghe qua Đức Ngài hỏi:
“Sở Bá Vương Hạng Võ chết đã lâu rồi, bộ không có các Đấng Tiên Phật nào độ
rỗi sao mà giờ đây hãy còn chưa siêu thoát vậy?”
Ông Phạm Tăng mới
tỏ bày:
“Dạ, tánh người
rất khó khăn, nên ít ai gần mà độ rỗi.”
Ông vừa nói tới
đây, cây cơ bỗng quơ qua quơ lại rất mạnh. Đức Ngài hỏi:
“Đấng nào vậy?”
Cơ viết:
“Hạng Võ đây.
Ta nhờ Phạm Tăng có một chút mà nãy giờ Phạm Tăng cứ nói! Bây giờ tới quỉ! Quỉ!
Quỉ!”
Cơ ngưng. Đức Hộ
Pháp nói:
“Cho đến giờ
này, tánh tình như vậy ai mà ưa!”
CHUYỆN ÔNG HUỲNH HỮU LỢI
Trong khi ở Nam
Vang theo Đức Hộ Pháp, có ông Sĩ Tải Huỳnh Hữu Lợi sau nầy là Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
Huỳnh Hữu Lợi. Lúc ấy mọi người theo Thầy đều miệt mài hành đạo, riêng ông Lợi
thì không. Ông chỉ lo làm ăn để làm giàu có, ông có hai (2) chiếc xe hàng luôn
lên xuống chở đồ giao cho chợ Việt và Miên. Công việc làm ăn bề bộn, khiến ông
không sao hở tay để lo việc đạo.
Một hôm Đức Ngài
gặp ông, Ngài nói:
“Ngày trước
ta chủ trì xây Đế Thiên, Đế Thích nhà ngươi là thợ xây mà biếng nhác lắm, nên
công còn thiếu. Nay may duyên cho người được gặp lại mà không lo tròn thì đừng
trách sao mà ta không nhắc nhở.”
Ông Lợi nghe qua
như sực tỉnh. Cái căn duyên đã khiến ông giác ngộ. Từ đó, ông sắp xếp công việc
bớt lại và lo làm nhiệm vụ hành đạo không hề xao lãng nữa.
CHUYỆN ÔNG CHÁNH TRỊ SỰ
MIÊN
Ông Miên làm
Hương cả ở làng Hưng Thạnh Mỹ, Phú Mỹ, Mỹ Tho sau nhập môn vào đạo được cử làm
Chánh Trị Sự làng Hưng Thạnh Mỹ.
Ông Miên tánh đức
hiền hòa, nhưng sau nầy ông có mắc chứng bệnh không biết là gì. Người đời gọi
là khùng khùng điên điên, gia đình cố tâm chạy chữa thuốc thang nhưng không hết.
Bà vợ ông cuối cùng dẫn ông về Hộ Pháp Đường nhờ Đức Hộ Pháp chữa bệnh giùm
ông. Lúc nầy ông quanh quẩn ở Hộ Pháp Đường mà thôi.
Một hôm bà vợ
ông Miên, cũng làm Chánh Trị Sự, thấy chồng mình được như vậy là đỡ lắm rồi, bà
mừng lắm lại sợ ở lâu làm phiền Đức Hộ Pháp nên xin với Ngài cho về nhà. Đức
Ngài nói:
“Coi vậy chớ ảnh
chưa thật sự mạnh đâu. Chị có về thì về còn ảnh ở lại đây với tôi cho vui.”
Bà Miên lại nài
nỉ cầu xin Ngài cho bà lãnh ông Miên về. Bà cảm thấy ông Miên thật sự mạnh rồi,
bà cố năn nỉ Đức Ngài và nhất quyết cầu xin cho được. Đức Ngài đành chấp thuận
theo ý của bà Miên.
Về nhà một thời
gian, lạ lùng thay, ông Miên lại trở bịnh như cũ, lại trầm trọng thêm. Rồi cuối
cùng ông qua đời tại nhà dầu bà Miên thuốc thang đầy đủ.
Sau khi ông mất,
gia đình có báo tin cho Đức Hộ Pháp hay. Đức Ngài nói với anh em Phạm Môn rằng:
“Anh Miên ảnh
trả nhồi 3 kiếp dồn 1. Lúc bị bịnh anh thường diễn đạt ra ba (3) hình ảnh. Mỗi
hình thức diễn ra là hình ảnh của một kiếp.
Kiếp thứ nhứt,
đang đi đứng lại lấy thế rồi cung vòng tay xoay người từ tay trái qua phải, rồi
buông 2 tay xuống giống như là quăng lưới chài cá.
Kiếp thứ nhì,
lắm lúc tay có nắm lại tượng trung như cầm mõ, một tay khác cầm dùi gõ mõ, miệng
thì nam mô, tay bên này gõ tay bên kia đang co. Ấy là kiếp anh làm người thầy
chùa.
Kiếp thứ ba,
anh hay lượm lá cây, hoặc giấy, rồi ngồi vẽ lên đó như là viết vậy. Ấy là kiếp
anh làm người làm thầy đồ Nho viết liễn.
Nay kiếp này
anh được làm quan, hưởng lộc, tuy là quan nhỏ. May duyên cho anh gặp được Tam Kỳ
Phổ Độ, anh nhập môn làm môn đệ Đức Chí Tôn và được vào hàng Chánh Trị Sự, nên
kiếp sinh của anh được nhồi quả trả liền 3 kiếp. Ba kiếp làm người có tội tình
gì thì giờ đây với 1 căn bịnh anh trả đủ cho 3 kiếp. Nếu không gặp đạo, thì
thêm một kiếp làm quan, thì nghiệp quả chắc phải cao hơn.
Giờ đây gặp đạo,
nên đường đời đứt đoạn, đường đạo được lập có công, anh được đại ân xá cho nhồi
3 kiếp. Ảnh đã trả xong rồi, vậy là ảnh nhẹ nhàng nên mừng cho ảnh.”
ĐỨC HỘ PHÁP KỂ VỀ TIỀN KIẾP
CỦA MÌNH
Một hôm nọ, Đức
Ngài kể cho anh em Phạm Môn nghe về tiền kiếp của mình
như vầy:
“Kiếp trước xa
xưa kia, qua là một vị vua xứ Ấn Độ.”
Nói đến đây,
Ngài ngưng một hồi rồi tiếp:
“Qua nói tên
ra ai cũng biết. Thuở ấy có tất cả là 72 bà vợ. Kế đến một kiếp nữa là một vị
phang vương (vua một phương) bên Trung Quốc. Lúc này có 36 bà vợ.
Đến kiếp này
với xác thân Phạm Công Tắc có một bà vợ. Nhưng trước khi đi tu qua từ giã tất cả
7 bà.
Hồi lúc bà nội
ở Tây Ninh gọi qua từ Sài Gòn về để cưới vợ, lúc đó qua nói với bà là không
thích có vợ ở xứ Tây Ninh để từ chối khéo. Vì qua đã quen một bà ở Sài Gòn và
đã quyết định tiến tới hôn nhân với bà ấy. Bà tám bây giờ đó.
Những kiếp
trước bà tám cũng có làm vợ, nhưng là người vợ nhỏ nhất nên ít khi được gần gủi.
Kiếp nầy bà là vợ duy nhất, là bà lớn nên rất khó khăn và rất ghen tương. Bà tỏ
quyền hành và chỉ muốn một mình bà gần gủi qua mà thôi.
Kiếp này tu
là vừa lắm, thấy đi xuống bậc nhanh ghê chưa. Từ một vị vua quyền hành xuống
thành một thư ký quèn. Nếu không tu kiếp này át phải xuống nữa. May mắn quá chừng
gặp được Đức Chí Tôn ở đạo kỳ này. Bằng chẳng vậy xuống hoài chắc thành ăn mày
hay thằng cùi quá!
Mấy em cũng vậy,
ráng mà lo tu để được hưởng hồng ân của Đại Từ Phụ chớ đừng bơ thờ thì uổng lắm
đó.”
CÒN MỘT ỨC NGUYÊN NHÂN CHƯA VỀ KỊP HỘI LONG HOA
Đức Hộ Pháp thuyết
đạo nói khi Ngài về thiêng liêng nhập vào Bạch Ngọc Kinh, thấy Đại Hội Long Hoa
trên thiêng liêng. Đức Ngài cầm Giáng Ma Xử kiểm lại số nguyên nhân đã trở về
được. Kiểm xong Ngài mới giật mình, vì 92 ức mà chỉ về có 91 ức. Ngài quay lại
định xuống thế tiếp tục độ dẫn nữa. Khi ý định vừa dứt, Ngài nghe Đức Chí Tôn
nói:
“Thôi kệ nó con!
Còn 1 ức nữa nó nằm bên đạo Phật chớ chẳng đâu. Rồi lần lượt nó cũng về sau không thiếu. Nó chê đạo
Thầy không bằng đạo Phật.”
Đức Hộ Pháp nói:
“May quá, nếu
không có Đức Chí Tôn cản kịp lúc là qua tái kiếp nữa rồi.”
Đức Ngài nói tiếp:
“Một ức này
còn kiêu lắm. Họ cho là đạo của họ cao, còn Đạo Cao Đài thì thấp thỏi y như lời
Thầy nói. Họ không chịu vào, bởi vậy Hội Long Hoa còn thiếu 1 ức là vậy.”
ĐỨC HỘ PHÁP KỂ VỀ VIỆC
CHI TIÊU
LÚC CÒN LÀM NGOÀI ĐỜI
Đức Ngài kể lúc
còn làm việc ngoài đời, Ngài tiêu xài rất cơ bản. Chẳng hạn như tết đến Ngài chừa
ra 20 đồng để chơi tết. Ăn xài, đi chơi, đánh bài ăn thua thế nào cũng trong
vòng 20 đồng qui định đó thôi. Vậy mà có khi đánh bài cả tới tháng 5 mà vẫn còn
20 đồng. Tiền còn hoài ngộ lắm, còn cũng bao nhiêu đó.
Thường ngày Ngài
đến uống cà phê và ăn một cái bánh tại quán quen, nổi tiếng đông người, dầu bữa
đó có người khác trả tiền ăn hay cà phê cho Ngài, Ngài cũng đem số tiền qui định
đó cho người nghèo. Hoặc khi gặp người quen Ngài phải chi tiêu hơn số qui định
thì mấy bữa sau phải bớt tiền bánh để bù. Rất chừng mực nên chưa khi nào thiếu
nợ ai bao giờ.
ĐỨC CHÍ TÔN DẠY PHÁP CHO
NGÀI
Trong một lần
vui vẻ, Ngài cùng các vị Phạm Môn trò chuyện. Ngài kể về việc Đức Chí Tôn dạy
pháp cho Ngài như vầy: Vào một buổi tối đêm trước, tự nhiên Ngài bắt muốn đi,
đi miết vào bàn giấy viết, ngồi vào bàn, tay lấy viết, lấy viết xong Đức Chí
Tôn cầm tay Ngài vẽ chữ bùa và dặn Ngài:
“Ngài mai phải
sắm sẵn giấy viết từng tờ riêng biệt, viết chì vót nhọn sẵn cho nhiều, giấy trắng
từng tờ cũng cho nhiều để Thầy dạy pháp. Lúc nãy Thầy đã kéo con vô bàn đó. Nhớ
là chỉ một mình con thôi.”
Qua đêm sau cũng
tại bàn, Đức Chí Tôn giáng cầm tay Ngài viết từng tờ một liên tục, còn viết chì
cứ tà ngọn nào là bỏ lấy cây khác. Cứ thể kéo dài mãi cho đến khi xong mới thôi.
Khi xong, Ngài kiểm lại hết 3 lố viết chì, chỉ còn vài cây, còn giấy trắng thì
đầy đất. Ngài nhặt lên để xem rồi sắp lại thứ tự. Ngài thầm khen Đức Chí Tôn đáo để. Chí
Tôn quá kỹ, chỉ từ nét, từ chữ, từ phần và số thứ tự niêm san sát.
Từ đó, Ngài bắt
đầu học và thực tập, học hoài thôi, học cố để mà nhớ được vì Đức Chí Tôn bảo:
“Bí pháp này
nếu để lộ ra ngoài cho kẻ nào biết được thì đạo Thầy sẽ hoại.
Con cố gắng học
cho xong, nắm cho chắc rồi thì con đốt đi.”
Học kỹ rồi, nắm
được rồi, 3 phen Ngài muốn đốt nhựng sợ lỡ quên thì làm sao? Đốt rồi còn gì coi
lại. Đức Ngài lại xem đi xem lại, xem tới xem lui, nhiều lần nữa và thực tập thật
là hoàn hảo đến lúc Ngài thật sự tự tin, không có trở ngại nữa, không còn lo
gì. Ngài đem đốt.
Ngài có truyền lại
vài pháp chính cần thiết sử dụng trong đạo mà Ngài đã thọ truyền nơi Đức Chí
Tôn như giải oan, tắm thánh, độ thăng, đoạn căn, hôn phối, trấn thần, giải bệnh.
Còn nhiều nữa nhưng chưa phải lúc Ngài truyền. Đức Ngài có nói:
“Thật là hữu
hạnh, vì từ tạo Thiên lập Địa tới giờ, Đức Chí Tôn chỉ mới có giao cho Hộ Pháp
lần đầu tiên mà thôi, chưa giao cho người nào cả. Đức Thích Ca cũng chưa được vậy.
Có lẽ lúc Đức Thích Ca mở đạo chưa phải lúc dùng bí pháp nầy.”
Cái hữu hạnh lớn
nhất là lúc Đức Ngài được Chí Tôn cho vào kho bí pháp.
Đức Chí Tôn giao
cho Ngài một cái chìa khóa, cho phép mở cửa kho bí pháp của Đức Chí Tôn. Ngài
diễn tả:
“Cái kho ấy
hình bát giác có bát cạnh, kín bít. Chỉ có 2 cửa mà thôi, cửa trước
và cửa sau.”
Đức Chí Tôn hỏi:
“Con mở cửa
nào vào?”
Ngài trả lời:
“Con mở cửa
trước vào.”
Đức Chí Tôn bảo:
“Không được,
đây là kho bí pháp để tạo dựng Càn Khôn vũ trụ từ ngàn xưa, không bao giờ mở cửa
trước cửa, chỉ được mở cửa sau mà thôi.”
Thế là Đức Hộ
Pháp vâng lời đi cửa sau. Cửa vừa được mở, cả muôn ánh hào quang sáng rực rở,
chói lọi chiếu ra. Ngài bước vào trong, Ngài chỉ lựa những pháp nào quí hiếm, rất
quan trọng mới lấy, còn loại thường thường không cần."
Kể đến đây, ông
Khai Pháp vội nói:
“Vậy là Thầy
đã thâu hết thập nhị quyền công rồi.”
Đức Hộ Pháp nói
tiếp:
“Ra khỏi cửa,
theo sau lưng Ngài là đám quỉ. Nó chỉ nhận được hào quang của Bí Pháp, nó đem
xuống thế gian nầy mà tạo nên quyền pháp cỡ đó. Nếu nó được vào kho thì không
biết cỡ nào nữa. Bởi vậy, trước mặt là Hộ Pháp, sau lưng Hộ Pháp là đám quỉ vậy.”
CHUYỆN THÁNH PÊRÔ
Trong một đàn cơ
có vị giáng cơ xưng là Thánh Pêrô, cho nên mọi người hầu đàn đều quì lạy. Đến
khi ông Tiếp Thế bước vào lạy thì cơ viết:
“Thưa ba.”
Mọi người chưng
hửng, còn ông Tiếp Thế thì không có quì. Ông Thánh mới viết tiếp:
“Con là Châu
nè.”
Đức Hộ Pháp mới
nói:
“Mình là một
vị Thánh xuống thế sao không cứu thế độ đời lại vắn số làm khổ người ta vậy?”
Ông Thánh mới viết:
“Thưa Ngài,
vì tôi thấy Đức Chí Tôn mở đạo, khai Tân Pháp, trong đó có phép tắm Thánh, giải
oan. Tôi vì ham thích được thọ hưởng pháp ấy nên lén xuống đầu kiếp mặc dầu
không có lịnh để được hưởng pháp ấy trong kỳ đại ân xá nầy. Đến ngày Ngọc Hư
Cung họp tôi lại trở về vì không dám ở lại sợ vắng mặt bị Ngọc Hư Cung bắt tội.”
Được biết ông
Châu mất lúc 6 tuổi.
CÂU CHUYỆN CÔ TÁM NGHI
Cô tám Nghi là
nhân viên Lễ Viện Báo Ân Từ, chuyên phụ trách lo nấu ăn cho quí chức sắc và
nhân viên công quả nơi phòng trù Lễ Viện. Bà kể câu chuyện liên quan đến cuộc đời
làm công quả của mình. Lúc nhỏ khoảng 15-16 tuổi, bà về Tòa Thánh làm công quả
vào ban thợ hồ xây Đền Thánh. Vào năm sau, bà thấy có một số đông anh chị được
thăng phẩm vị, ban thợ hồ cũng có mà các ban bộ khác cũng có. Bà suy nghĩ:
“Người ta có
học, được thăng phẩm vị bổ đi Tộc, đi Châu hành đạo khi qui vị thì đám tiệc
long trọng, con cháu rỡ ràng. Còn mình thì dốt không biết chữ thì làm công quả
hoài làm sao mà bằng các anh chị ấy? Rồi thiếu công khi bỏ xác có được siêu
thoát hay không?”
Cái suy nghĩ ấy
cứ làm cho bà bận tâm mãi mà không dám nói với ai.
Một hôm bà đang
xách xô hồ, thấy Đức Hộ Pháp từ xa đi tới, trong đầu lóe lên một ý nghĩ bạo dạn,
rồi nửa run nửa sợ. Khi Đức Hộ Pháp vừa đến ngay bà, bà quỵ té trước chân Ngài,
tay cầm xô hồ đồ ngang vì mất thăng bằng. Đức Hộ Pháp đỡ dậy rồi hỏi:
“Con có sao
không? Sao vô ý vậy?”
Bà mới rươm rướm
nước mắt nói:
“Bạch Thầy…”
Rồi nghẹn lời vì
sợ. Từ từ bàn mới yên tâm hơn rồi đem ý nghĩ của bà trình bày hết cho Đức Ngài
biết. Bà nói:
“Con ít oi dốt
nát nên không cầu phong, sợ rằng không đi Châu đi Tộc hành đạo, không có phẩm vị
thì sau này khi thoát xác không biết có được bằng các anh, các chị của mình
không? Có được về thiêng liêng hay không?”
Đức Hộ Pháp mới
cười nói:
" Con thật thà quá! Nghe Thầy nói đừng có tuổi thân. Con cố gắng giữ tròn bổn
phận đạo sở của con. Tá lý dạy gì con làm đúng, giữ luật đạo, thương yêu tất cả
rồi ngoài giờ làm con đi cúng. Công quả có, công phu có, rồi con để lòng trung thành
với Hội Thánh, công quả con tròn vẹn không gián đoạn đó là công trình, thì con
cũng được đạt vị không kém các anh các chị đâu. Ấy vậy mà còn chắc hơn nữa, con
có biết đâu mấy anh mấy chị tại vai trò trách nhiệm. Chức phẩm là của thiêng liêng
cho mượn chớ đâu phải thật là của mình. Cho mượn để làm nhiệm vụ, hễ trọng quyền thì trọng phạt, có công thì công nhiều,
mà có tội thì tội gấp đôi. Làm chức sắc là đứng trước làm gương nếu sơ thất là
một trọng tội. Còn nữa, khi đi địa phương hành đạo thì phải chịu phần lo lắng
chăm nom của tín đồ, công chưa biết bao nhiêu mà thấy ra đã chia năm xẻ bảy.
Còn các con là Đạo Sở lúc nào cũng đứng sau, ai hạch hỏi mình điều gì đâu. Có
chăng thì đổ cho chức sắc đàn anh, công quả bao nhiêu là của mình chắc nịch
không chia sớt cho ai, có phải hơn không?
Đám xác của
chức sắc thì long trọng tốn kém, thì chức sắc phải rán làm cho có công nhiều đặng
hưởng phần báo ân mặt thế, chớ nếu ít công thì e không đủ để hưởng mà còn phải
thiếu lại nữa không chừng. Còn Đạo Sở như con đám tiệc không long trọng bằng
nhưng xung quanh con cũng có đủ đầy anh chị em công quả tiễn đưa, cũng ấm cúng
mà không phải mất một phân nào, con thấy có hơn không?
Còn về thiêng
liêng được hay không là do tâm đức của con nữa, nếu con giữ đúng luật pháp chơn
truyền, giữ tròn phần trách nhiệm mà Hội Thánh bổ nhiệm thì lo gì không về được."
Bà Nghi nghe
xong mới nói:
“Thưa Thầy con
hiểu rồi.”
Từ đó bà dốc chí
làm công quả, trau giồi tâm đức mà khkông nạp tờ cầu phong, những người đồng thời
với bà có vị làm Phối Sư, Chơn Nhơn,… còn bà thì vẫn làm Đạo Sở, vị trí chót hết
của Cơ Quan Phước Thiện. Về cuối đời, bà nấu cơm nơi phòng trù Lễ Viện.
ĐỨC HỘ PHÁP PHÂN XỬ
NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐÁNH
NHAU
Trong một sở, cơ
quan anh em làm công quả chung với nhau. Nếu có ai sanh sự bất bồng, hoặc cố
sát đánh nhau, sự việc đến Đức Hộ Pháp thường thì Đức Ngài xử định là đuổi cả
thảy, cho đến khi nào biết tự ý thức, tự giác ngộ, tự biết suy nghĩ mà biết lỗi
nhau thì đến gặp Ngài tạ lỗi, thì Đức Ngài mới nhận và tha thứ. Đức Ngài có dạy:
“Các con có lỗi
với Thầy, thì Thầy tha thứ được. Còn các con có lỗi với bạn, thì bạn khó tha thứ
lắm, vì bạn có người vầy người khác, cái tâm của bạn con còn trong sự hờn giận
phàm tục làm cho mối thiện cảm giảm bớt hay mất đi. Vậy nên trong cuộc sống quá
ư phiền toái hãy cố gắng dẹp mọi đố kỵ mà hòa thuận, thương yêu và tha thứ cho
nhau, độ lượng, khoan dung đón nhận nhau để tâm hồn thoải mái nhẹ nhõm đứng trước
mặt Đức Chí Tôn mà hãnh diện.”
CHUYỆN TÚ TÀI THẠNH
Tú Tài Thạnh là
con ông Hội Đồng quản ở Gò Công, đến hỏi cưới con gái của ông Phủ Hóa ở Cần Giuộc.
Trên đoạn đường về quê hương Gò Công, lúc tàu rời bến mọi người đang loay hoay
không ai để ý Tú Tài Thạnh mới nhảy xuống sông tự tử lúc tàu đang chạy, không
ai cứu chửa được.
Trong lúc ngộp
nước dưới đáy sông, ngặt mình giãy giụa anh ta cảm thấy bức rức, khó chịu lắm.
Cả một màu đen tối bao quanh. Đến khi dứt được hơi hồn mới xuất được khỏi xác,
anh ta cảm thấy nhẹ nhàng quang cảnh ở dưới sông trở nên sáng sủa đẹp đẽ vô
cùng. Khi xác nổi lên hồn anh ta mới bám theo thể xác, tới mặt nước hồn anh ta
vượt lên trên. Anh ta cảm thấy quang cảnh lại đẹp thêm hơn, tưởng chừng đây là
Thiên đường. Anh ta nghĩ chắc là đã đắc đạo nên được về đây. Anh ta mừng quá,
đi đây đó để xem cảnh vật.
Bất thình lình một
lằn đen chụp phủ khắp thân mình, bây giờ lại tối tăm mờ mịt không thấy gì nữa.
Trong cơn sợ sệt anh liền nhớ tới Đức Chí Tôn, anh ta cầu nguyện và niệm danh
Thầy.
Và anh ta nghe
tiếng nói bên tai:
“Sao con tự tử?”
Tiếng nói ấy cứ
nhặt thúc, nhắc đi nhắc lại. Một lần hỏi là một lần anh nghe đau nhứt toàn
thân, chịu không nổi. Anh ta vội trả lời:
“Con tự tử vì
đạo.”
Chỉ một khoảnh
khắc nhanh, một tiếng nổ dường như đại bác nổ, cái đen tối tan ra, một ánh sáng
đẹp đẻ chói vào trong cảnh ấy, có một vị xung là “Thành Phục Thần” đến
trước mặt anh ta, tây cầm một cây phướn nói rằng:
“Anh tử vì đạo
nên được Đức Chí Tôn ân xá cho đi chơi, đến khi nào có lịnh đi đầu kiếp lại nên
nhớ tìm nhà đạo đức mà vào.”
Nói xong vị Thần
biến mất.
Từ chỗ có được
phép đi chơi nên khiến xuôi có dịp về Tây Ninh, may duyên gặp lúc Đức Hộ Pháp
đang cầu cơ, anh ta nhập vào vả hỏi:
“Ủa đây là
đâu?”
Đức Hộ Pháp mới
hỏi:
“Đấng nào đó?
Chẳng biết đây là Tòa Thánh Tây Ninh hay sao?”
Lúc bấy giờ Tú
Tài Thạnh mới biết Đức Hộ Pháp và kể lại sự tình như trên.
Rồi anh ta hỏi Đức
Hộ Pháp:
“Thưa Thầy
con chết bao lâu rồi?”
Đức Hộ Pháp tính
ra rồi nói:
“Chết đã 6
tháng rồi.”
Ngài gặng hỏi:
“Có vô địa ngục
không?”
Tú Tài Thạnh trả
lời:
“Bạch Thầy
không có. Con thấy như con đã kể cho Thầy và chỉ có vậy thôi.
Chớ không có
thấy địa ngục.”
Đức Hộ Pháp hỏi:
“Mấy con có
biết cái đen, cái sáng là gì không?”
Ngài giải thích:
“Trong thân
thể người ta cái sống của người ta là trái tim. Tim có 2 dòng máu, máu đen và
máu đỏ. Máu đỏ từ tim đi nuôi thân, hết chất sống thì biến màu đen thải cặn bã
ra các lỗ chân lông, nước tiểu, mồ hôi, phân,… phần còn lại trở về tim để tiếp
khí của phổi mà nhuận đỏ. Cái đen ấy là giận, hờn, ghen ghét, oán chạ, căm thù,
anh Tú Tài vì giận mà chết nên bị cái đen bao phủ chụp lấy.
Cái đỏ ấy là
thương yêu, vui mừng, hòa hiệp, thân thiết, anh Tú Tài vì đạo mà chết nên trở lại
sáng sủa đẹp đẽ.
Bởi vậy trong
cuộc sống, đừng nên gây oán chuốc hờn và đừng để tâm giận giữ ai, để khi hồn
lìa khỏi xác được sự thương yêu hòa ái, kết mối đồng tâm thân thiết, ưu ái mặn
nồng. Trong sự hòa hợp ấy nó cho ta cái sáng đẹp khi cởi bỏ xác trần.”
Lúc Đức Hộ Pháp
giải thích về việc truyền Thần và truyền pháp cũng có nói đến tác hại của các cảm
xúc tiêu cực như vầy:
“Truyền Thần
là truyền điển lực vào huyệt đạo để trợ thêm lực cho người được truyền. Phép
này dùng để chữa bệnh hoặc giúp cho người có căn duyên mà còn yếu về phần nào đạo
đức, để người ấy tu tập thêm phần đó, và vững mạnh tiến hơn.
Truyền pháp
là người thọ pháp vào quí trước Thiên Nhãn. Hộ Pháp đứng ngay trước mặt. Người
thọ pháp 2 bàn tay ngửa ra. Hộ Pháp dùng 2 bàn tay của mình úp lên 2 bàn tay của
người thọ pháp rồi truyền sang. Người được thọ pháp là người mượn pháp của Ngài
vậy. Nếu không giữ giới, không giữ được những điều cấm kỵ của nó thì pháp ấy sẽ
không linh. Người thọ pháp đã bị thâu pháp mất rồi. Hay do những điều cấm kỵ
làm tan biết mất.
Những điều cấm
kỵ là nóng giận, ghét, nói lời độc ác, sắc dục.”
Hồi còn sống,
khi anh Tú Tài Thạnh đến hỏi cưới con gái của ông Phủ Hóa ở Cần Giuộc do nhà
ông Hóa giàu có hơn bên đàng trai, nên người con gái có lời nói và cử chỉ có ý
khinh rẻ bên chồng. Việc tự tử của anh Tú Tài Thạnh có nhiều duyên cớ uẩn khúc
bức bách khiến cho người phải quyên sinh. Trong đó ảnh hưởng do vợ là việc nhỏ
không phải chính yếu, mà việc tử vì đạo là lớn nên được ân xá. Hơn nữa lúc hốt
hoảng còn biết niệm danh Thầy là điều may phước lớn.
Được biết thêm
ông Phủ Hóa là người Đạo Cao Đài thọ phong phẩm Thượng Phối Sư nhưng không biết
vì sao Đức Quyền Giáo Tông lại gởi xuống cho ông cái mão phái Ngọc. Ông không
có đi hành đạo, mặc dầu Đức Hộ Pháp có ý mời về lãnh nhiệm vụ Thượng Chánh Phối
Sư. Sau khi Đức Hộ Pháp ở đảo về ông có đến thăm, nhưng không hành đạo. Đức Hộ
Pháp thấy một chức sắc như vậy nên hỏi Đức Lý thì được trả lời:
“Phối Sư Hóa
được phẩm thứ ba phái Thượng nhưng không có công hành đạo, vậy thì Hộ Pháp liệu
tính xem. Còn Phối Sư Thành thì có công hành đạo, Hộ Pháp nên sắp xếp cho Phối
Sư Hóa nhượng vị.”
Theo lời dạy của
Đức Lý, Đức Hộ Pháp để cho Phối Sư Thành nắm quyền Thượng Chánh Phối Sư.
ĐỨA TRẺ TRỘM TRÁI CÂY
Một lần Bảo Thể
bắt được một đứa trẻ hái trộm trái cây ở Hộ Pháp Đường đem trình diện với Đức Hộ
Pháp, và kể lại chuyện rình rập khó khăn mới bắt được. Nghe qua sự việc rồi Đức
Ngài nói:
“Sao con
không đem trái cây hái được để cùng mấy anh ăn đi để cho bị bắt thế này. Thôi về
đi. Lần sau có hái thì chia hết cho cả thảy cùng dùng, đừng có ăn một mình nghe
hôn.”
Cũng liên quan đến
trái cây, có lần Ngài xuống trai đường để xem công quả dùng cơm ra sao. Đức
Ngài thấy trên vách phía bên thợ hồ ngồi ăn có một hình vẽ cái cân dĩa, đầu nặng
đầu nhẹ. Bên đầu nặng thấp xuống là trái vú sữa, còn đầu nhẹ là cái bay làm hồ.
Đức Ngài cười rồi nói:
“Thằng Thề nó
trách tao.”
Qua bửa sau anh
em thợ hồ được 1 bửa ăn vú sữa do Ngài thết đãi. Lúc này đang là mùa vú sữa.
ĐỨC CHÍ TÔN CHO BIẾT ĐÃ
CÓ NGƯỜI
ĐẠT PHÁP Ở KHẮP NƠI
Lúc ở Cao Miên Đức
Hộ Pháp cùng quí ông chức sắc đi chơi ở một vùng quê Nam Vang. Trời chiều, Ngài
cùng các ông Công Viện Phước Thiện Phạm Văn Út làm tài xế, Tiếp Lễ Nhạc Quân
Diêu, Thừa Sử Lợi đi trên chiếc xe hơi vào một quãng đường. Xe đang chạy thì Đức
Ngài nói với mấy ông:
“Thôi, ngừng
xe! Coi nhà nào gần vô đó ăn chút gì rồi sẽ đi.”
Ông Út lái xe ngừng
trước một căn nhà. Mấy ông vào nhà, thấy có một ông già ra tiếp. Sau khi chuyện
vãn với Đức Hộ Pháp mấy ông mới biết ông già thật đạo đức. Ngài bảo với mấy ông
lấy bánh mì ra dùng. Ông già vội bảo:
“Thưa không!
Tôi đã biết quí ông đến nhà tôi, tôi biết là nhà tôi có khách nên đã chuẩn bị sẵn.
Mời quí ông dùng bữa với tôi.”
Nói rồi chỉ cái
bàn đã dọn sẵn. Lạ một điều là đoàn bao nhiêu người là có bao nhiêu cái chén
đôi đũa, bao nhiêu ly nước, bao nhiêu ghế không dư không thiếu.
Tiệc xong ra về,
Đức Hộ Pháp nói với mấy ông:
“Đức Chí Tôn
khai đạo, người tu cũng nhiều ở khắp mọi nơi. Chứng tỏ đây cho thấy rằng có người
đã đạt pháp đặng.”
GIẢI BỊNH CHO VUA SÃI
MIÊN
Đúng ngày giờ, Đức
Chí Tôn lịnh cho Ngài đi giải bịnh cho vua Sãi Miên.
Đức Chí Tôn vẽ
đường đi và cách thức khi vào điện từng nơi một cách thật rành rẽ.
“Con phải đi
ngay giữa và các sãi vào chầu vua đầu quay vào vách tường, hai (2) bên chân đối
nhau chỉ còn lối đi giữa, đến khúc rẽ có một ông Lục được Thầy khiến để tiếp
đón con và thông dịch tiếng Việt Miên.”
Đức Hộ Pháp vào
điện y theo lời Chí Tôn chỉ dạy, gặp ông Lục hỏi đi đâu, Ngài nói đi giải bịnh
cho vua. Ông Lục tiến dẫn Ngài đến chỗ vua Sãi ngự. Ông Lục tâu việc. Vua Sãi
đang nằm, nghe nói liền bật ngồi dậy thủ lễ chào. Đức Hộ Pháp cho vua Sãi biết
Ngài vâng lịnh Đức Chí Tôn đến giải bịnh cho vua. Nhà vua đồng ý.
Sau khi hành
pháp giải bịnh xong vua mời Ngài một ly nước và tặng Ngài một dây niệc mà vua
đã tom bùa sẵn. Ngài vừa uống nước vừa nhìn đồng hồ, vì Chí Tôn dặn phải rời khỏi
điện lúc 8 giờ.
Ngài làm theo lời
dặn của Chí Tôn, vừa ra khỏi điện độ 8 mét thì có một tốp sen đầm từ sau lưng
Ngài đi tới. Ngài rùng mình hết hồn, nếu chậm một chút nữa là bị khó dễ rồi. Về
sau lúc nào Ngài cũng mang dây niệc theo mình để hộ thân có ý coi nó có linh
hay không.
Mấy bửa sau,
Ngài cùng một người bạn đang đi trên đường gặp bọn lính xét giấy. Ở Miên lúc bấy
giờ 1 tuần là xét một lần. Lạ thay, họ đến ngay người bạn của Ngài hỏi giấy,
còn phần Ngài thì chúng không để ý tới. Ngài cũng giả bộ lờ đi. Người bạn của Ngài chỉ cho
bọn lính nói:
“Sao mấy ông
không hỏi giấy ông kia mà hỏi tôi kỹ vậy?”
Bọn lính cũng
làm thinh rồi bỏ đi.
Ngộ thiệt, kể ra
cũng linh. Ngài cười thầm còn bạn Ngài thì không biết.
CHUYỆN ÔNG CỜ
Có lần Ngài nghe
đồn về một ông cờ linh lắm, Thiên hạ đua nhau đến để xem về quá khứ vị lai,
chuyện gia đạo. Đức Hộ Pháp cũng có tới thử cho biết. Khi tới nhà Ngài cũng
không thấy gì lạ, chỉ là một cây cờ nhỏ cấm trên bàn, khi ai cần hỏi điều gì
thì đốt nhang rồi khấn vái, người ngồi đồng nhập, cờ phất, và người ngồi đồng bắt
đầu nói.
Tới phiên Đức
Ngài, Ngài cũng đốt nhang, người chủ nhà vái ông cờ lên nhập.
Cầu mãi ông cờ
không lên, chủ nhà đành chịu và hẹn khi khác đến. Trước khi ra về, Ngài nói
cùng mọi người rằng lúc nảy Ngài khấn là:
“Cấm anh cờ
lên.”
Mọi người có vẻ
không tin lời Ngài nói.
Mấy bửa sau Ngài
cùng mấy người bửa trước đến nhà anh cờ. Mấy người bạn có ý muốn thử xem lời
nói của Ngài bửa trước nên cùng nhau nói bây giờ ông kêu ông cờ về đi.
Để chứng minh
quyền năng của Ngài, hơn nữa để tránh sự ngờ vực của chủ nhà cho là người ếm đối.
Ngài nói thành tiếng:
“Anh cờ lên
đi anh cờ.”
Đột nhiên lá cờ
lay động, và phất thẳng y như lúc trước. Khi ông cờ lên rồi, chủ nhà mừng quá
chưa kịp hỏi gì, Ngài nói tiếp:
“Anh đốt cờ
đi anh cờ.”
Cây cờ tự nhiên
nghiêng về phía một cây đèn cầy trên bàn, rồi bốc cháy. Chủ nhà kinh ngạc ngơ
ngác nhìn Ngài.
Từ đó ông cờ
không còn nữa.
CHUYỆN BÀ HOÀNG HẬU
PRASEY
Một lần nọ, Đức
Hộ Pháp đi từ Nam Vàng về Biển Hồ. Khi xe đến gò Sặc gần cầu thì tự nhiên xe bị
tuột dên hư láp. Vì xa chợ lại giữa đường, mà xe phải ngừng lại để chờ người đi
chợ mua đồ về sửa. Do đó phải ngủ ở ngoài trời một đêm. Đức Ngài cùng mọi người
lấy cơm ăn xong thì trời tối. Ngài cầu cơ thì Bát Nương giáng có chế giễu:
“Nếu em làm đạo
hữu vi như mấy anh thì em sẽ đắp một tấm bia đề là: " Đây là chỗ của ông Phật Tắc nằm lại một
đêm để cầu nguyện cho Tần Quốc được an cư lạc nghiệp.”
Đức Ngài hỏi:
“Xe hư là tại
xe hay có gì không?”
Cô Bát Nương tiết
lộ rằng:
“Nếu chư Thần
không chận xe lại, níu lại cho nó tuột dên hư láp đi thì chiếc xe và cả đoàn
người đã nhào xuống ruộng rồi còn gì?
Ông Thừa Sử Lợi
đang đi chung xe với Đức Hộ Pháp kiếp trước là em của bà Hoàng Hậu Miên tên là
Pha-Sey. Bà vì thương em, còn ông thì hay say sưa không chừa bỏ. Vừa thương vừa
giận nên muốn xô cho lật xe để ông bỏ xác đặng bà bắt đem về dạy dỗ. Bà lại
không biết trong xe kia cùng đi với em mình là một vị Phật Thiên mạng. Chư Thần
bảo hộ vì thế mà không cho bà như ý định.”
Sau đó bà có
giáng cơ nói như sau:
"
PRASEY
Thiếp cúi chào chư Thiên mạng.
Thiếp là Hoàng Hậu họ Prasey,
Lập tháp tông môn chứa cốt hài.
Lụn một kỷ dư chưa cứu thế,
Tay chàm khởi tạo chín năm ngoài.
Kho tàng chứa chất bao nhiêu báu,
Xiêm quốc đã đào lấy mấy ngoai.
Hình phạt bây chừ là lợi lễ,
Các tay sãi khó độ ra bài.
Hộ Pháp Thiên
Tôn! Thiếp có một em trai Ananda Sommcrit Prasey đương sanh tiền làm một vị
Thiên phong, nên thiếp cậy Thiên Tôn nghĩ tình điều độ.”
Đức Hộ Pháp nói:
“Xin cho biết
tên.”
Bà Hoàng Hậu:
“Cười… không
dám.”
ĐỨC CHÍ TÔN GIAO CHO ĐỨC
NGÀI 5 GÁNH PHÁP
Một hôm, trong
lúc anh em Phạm Mộn họp mặt Đức Hộ Pháp nói kỳ này Đức Chí Tôn giao cho Hộ Pháp gánh 5 cái gánh
pháp quan trọng là:
1 . Đạo Pháp: Ngài đã
làm được là thuyết đạo, giảng pháp, viết “Phương Luyện Kỷ”, “Thập Điều Giới
Răn”, “Tân Luật”, “Pháp Chánh Truyền Chú Giải”, và Thế Đạo nghi lễ,
Thiên Đạo nghi lễ,…
2 . Gia Pháp: Ngài viết
“Phương Tu Đại Đạo” để cho mọi gia đình theo đó mà xử sự.
3 . Tôn Pháp: Lập
thành nhà Họ, Phủ Từ.
4 . Quốc Pháp: Ngài đề
ra “Cương Lĩnh Hòa Bình Chung Sống” và gởi toàn thế giới để làm phương
châm cho mọi quốc gia.
5 . Thiên Hạ Pháp: Tam
Kỳ Ngũ Đức Phương Châm Đại Đồng Thế Giới. Đức Ngài còn nói:
“Chỉ có gia pháp
và quốc pháp là nhỏ hơn hết. Qua già rồi, cố gắng làm cho xong chớ để chết đi
trách nhiệm chưa tròn.”
Ngài vừa nói vừa
cầm trái bưởi thảy thảy trên tay. Đoạn Ngài nói:
“Qua nâng quả
địa cầu 68 nầy nó nhẹ xìu. Nhẹ như là trái bưởi này vậy.”
CHUYỆN THẤT NƯƠNG XUỐNG
PHONG ĐÔ CỨU ĐỘ THÂN PHỤ
Có một đàn cơ cô
Thất Nương đến tâm sự cùng Đức Hộ Pháp. Cô cho 2 bài thi như vầy:
“Đố ai rõ thấu hiểu ra sao,
Chín chữ cù lao giá thế nào.
Hình vóc cảnh Tiên còn vinh bấy,
Chơn Thần nước Phật rửa thai bào.
Nỗi riêng từ phụ chưa xong phận,
Nghĩa nặng đeo đai phận má đào.
Thà xuống âm cung chia khổ tội,
Cha vầy ai nỡ ngự đài cao.”
Cũng vì nỗi hiếu
mà cô không nỡ ngồi nhìn song thân đang khổ khắc nên mới lén đến phong đô để cứu
rỗi. Sự việc không trình qua thiêng liêng nên Ngọc Hư Cung bắt tội. Cô mới đến
bày tỏ nhờ Đức Ngài che chở.
Nghe qua tự sư Đức
Hộ Pháp nói:
“Người có
lòng hiếu thảo như vậy mà có tội nữa sao?”
Cô Thất Nương mới
nói:
“Em nói nhỏ
cho đại ca nghe một mình, mà đại ca nói lớn coi bộ giận dữ nữa.”
Tiếng nói của
Ngài kèm theo sự bất bình làm vang động đến Bạch Ngọc Kinh, Đức Chí Tôn hay nên
gọi Đức Lý đến nói:
“Hộ Pháp
trách Thầy, con đến để khuyên lơn.”
Sau đó Đức Lý có
giáng cơ cho một bài thi như vầy:
" Phải giữ chơn linh đặng trọn lành,
Ngọc Hư toàn ngự Đấng anh linh
Luật điều Cổ Phật không chưa tội,
Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.
Chánh trực kinh oai loài giả dối,
Công bình vừa sức kẻ chơn thành.
Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,
Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình."
Em còn nhỏ,
chưa rõ Thiên Điều luật pháp nghiêm minh, chính vì vậy mà Đức Chí Tôn sai lão đặng
chỉ thêm.”
Cô Thất Nương được
đặc ân của Ngọc Hư xá tội, cô tình nguyện đến Âm Quang để độ rỗi các chơn linh
nữ phái thất thệ thể theo lời ước của Đức Địa Tạng Vương, vì Người khó gần các
chơn linh nữ phái, để trả nghĩa cho Thầy. Trước khi đi, cô có giáng cơ từ giã với
Đức Hộ Pháp và các vị chức sắc Hiệp Thiên Đài, cô có viết bài thơ như vầy:
“Hai kiếp đeo đai lắm nợ trần,
Có thân vì khổ bận cho thân.
Niềm duyên đổ ngọc loan phòng nguyệt,
Nỗi hiếu rơi châu tưới mộ phần.
Giữ đạo những mong ngồi độc tịch,
Bán mình quyết cứu độ song thân.
Nước non càng ngắm càng thêm chạnh,
Chạnh thảm khi mang mảnh xác trần.”
CHUYỆN ÔNG THẦN CHIẾM
Ông Thần Chiếm
quê quán ở Bến Lức, Long An. Lúc con ở Bến Lức chưa về Tây Ninh, ông bị chánh
quyền Pháp truy bắt vì làm nghề phi pháp. Anh ba Đường người Phạm Môn làm công
quả ở Tòa Thánh có dịp về thăm nhà ở Bến Lức biết được người bạn cùng xứ sở khốn
đốn, âu lo vì đang trốn tránh. Ông bàn với ông Chiếm bỏ Bến Lức về Tây Ninh ở với
ông, ông hứa bảo lãnh.
Thế là ông Chiếm
túng thế nghe lời theo anh ba Đường về Giang Tân nhập sở Bến Kéo làm công quả. Ở
đây ông Chiếm cảm thấy yên thân, và thấy mọi người hăng say làm công quả với một
tinh thần đạo đức. Tâm hồn ông bắt đầu lay chuyển, một tấm lòng phục thiện dâng
cao. Ông ra sức đem hết tinh thần phục vụ ngày đêm không mệt mỏi. Ông tự hứa với
lòng là để chuộc lấy lỗi lầm.
Thường lệ mỗi
tháng ngày 10, 20, 30 Đức Hộ Pháp hay đi thăm các sở, và có khi nghỉ trưa tại sở
đó. Nhân lúc này, anh ba Đường mới vào trình với Đức Hộ Pháp mọi sự và cầu xin
cho ông Chiếm được nhập sở. Đức Ngài đồng ý.
Lần lượt anh ba
Đường cũng sắp xếp cho vợ và con của ông Chiếm về luôn và cũng vào làm chung sở
với ông.
Vài tháng sau
ông Chiếm lâm bệnh qua đời. Do sự việc quá bất ngờ, ông Chiếm còn chưa kịp nhập
môn. Đám tang được cử hành và chôn cất tử tế.
Được ít lâu
trong một đàn cơ, Phối Thánh Màng giáng cơ về:
“Bạch Sư Phụ,
anh Chiếm được vào phẩm Địa Thần được Đức Quyền Giáo Tông làm chứng.”
Cũng trong một đàn
cơ khác, ông Phối Thánh về trình với Đức Ngài:
“Thưa Sư Phụ,
anh Chiếm có về, còn đứng ngoài cửa vì chưa có lịnh của Sư Phụ, ảnh không dám
vô.”
Đức Hộ Pháp gọi:
“Chiếm.”
Cơ viết:
“Dạ! Chiếm
đây nè!”
Đức Hộ Pháp hỏi:
“Sao em không
vào?”
Ông Chiếm thưa:
" Thưa,
vì con sợ Sư Phụ quá! Con viết không được, nhờ anh ba viết giùm.
Hôm con chết,
ôi thôi! Khổ biết chừng nào, một nỗi là mẹ thằng Đường (Đường là tên con của
ông, trùng với anh ba Đường) kêu tới kêu lui, chịu đời không nổi, khi hồn ra khỏi
xác lại có lịnh của Ngọc Hư Cung sai Như Ý Lão Quân bắt con đem ra nơi Thanh Tịnh
Đại Hải Chúng. Ở đây bọn quỉ lồi, cô hồn đủ thứ, mắng nhiếc tối ngày. Nhứt là
nó nói con là đồ làm biếng chớ tu gì, tu gì. Lại có mấy tay phản đạo đứng làm đầu
giục bọn kia chưởi bới con, con chịu hoài như vậy muốn chết đi mà chết không được.
May đâu có một bà thật tử tế. Nghe nói bà ấy là Thất Nương Diêu Trì Cung đến
thăm. Rồi bà biểu con theo bà chơi, vì bà có oai quyền lớn lắm, nơi Thanh Tịnh
Đại Hải Chúng ai cũng đều kiêng, bà đem con đến Đức Quyền Giáo Tông ở. Ở đây chẳng
đặng bao lâu thì ông nói với con rằng Ngọc Hư Cung cho con đi phó lị tỉnh Ninh
Bình, làm ông Thần tại đó. May quá, cũng còn gần nên chạy đi chạy về thăm được.
Xin Sư Phụ
nói lại với mẹ thằng Đường. Thằng Đường chết không phải con bắt, đừng có đổ thừa
mang tội đa. Vì nó là con của quỉ, quỉ dẫn đi đâu con đây còn không biết mà mẹ
nó biết cái gì. Khi cấn chửa nó, hỏi mẹ nó và con làm cái gì thì biết. Để anh
ba nói chuyện con cái của mình cho các bạn nghe hay lắm."
Phối Thánh Màng
tiếp cơ:
" Khi
nãy anh hai Chiếm có hứa để tôi nói chuyện con cái của mình.
Các bạn khi
giao thân với bạn mình phải thật hiền. Buổi ấy sẵn tâm hung ác thì con sẽ nên
hung ác, chẳng khác nào mở cửa nhà kêu ai thì người đó đến."
Đức Hộ Pháp nói:
" Đó,
Thánh Màng dạy bây rõ ràng hổng còn gì nữa."
Được biết thuở
sanh tiền vợ chồng ông Chiếm làm nghề phi pháp rồi bị Pháp
truy nã. Sau khi
về Tây Ninh cả gia đình đều ở sở. Nhưng từ khi ông mất, con của
ông nghe lời phe
của ông Tương hay nhiếc mẹ:
" Bà làm
công quả cái gì, đi riết rồi coi chừng mang chửa."
Bà tự ái, giận
con nói hỗn nên nói:
" Đó,
con ông nó ăn nói với tôi như vậy đó. Ông có linh thì bắt nó đi cho rồi."
Ai dè nó chết
thiệt. Nó bị bịnh đột ngột mà qua đời chớ chẳng phải do ông Chiếm bắt đi. Nhưng
bà vợ lại không biết, tưởng rằng bà giận mà nói lẩy, ông Chiếm lại làm thiệt
nên cứ đổ thừa.
CHUYỆN PHẬT MẪU QUÌ XIN
CHÍ TÔN MỞ ĐẠO
Đức Hộ Pháp có lần
kể cho anh em Phạm Môn nghe:
" - Các
mối đạo ở thế gian đã thất chơn truyền, nên chúng sanh càng ngày càng đắm chìm
trong tội lỗi, không phương cứu vãn. Vì chúng sanh không biết nương tựa vào
đâu. Đức Phật Mẫu nhìn thấy con cái của mình như vậy bà đau thảm. Nên bà quyết
định đến quì trước Đức Chí Tôn cầu xin cho mở Tam Kỳ Phổ Độ. Quì đã 10 ngày mà
Đức Chí Tôn vẫn không chấp thuận. Đức Phật Mẫu vẫn tiếp tục quì mãi.
Cuối cùng Đức
Chí Tôn thấy Đức Phật Mẫu cương quyết cũng đành chìu ý thuận cho. Chí Tôn nói:
" Được,
tôi giao cho Người đó."
Phật Mẫu mừng
khôn xiết, nhưng bà không đành lòng, không thể không đắn đo, vì bà biết quyền
năng của bà làm sao bằng được Chí Tôn, nên nói:
" Con
thì bao giờ cũng mến mẹ, nhưng nó không sợ mẹ bằng cha. Vậy phải có Thầy theo mới
độ dẫn được."
Đức Chí Tôn lại
phải chìu ý Phật Mẫu vì đó là lời cầu xin hợp lý, không gì hay hơn.
Chính vì thế
nền tôn giáo Cao Đài gồm có cả cha lẫn mẹ dìu dẫn. Vậy đứa con nào không nên đạo
thì cam chịu lấy chớ đừng đổ thừa không có me cha dạy dỗ. "
CHUYỆN HỒI MỚI KHAI ĐẠO
Đức Hộ Pháp có lần
kể cho anh em Phạm Môn nghe, hồi mới ban sơ khai đạo Đức Ngài và Thượng Phẩm còn khờ và ngây
ngô lắm. Có lần cô Bát Nương giáng cơ cho một bài thi:
" Mua giấy cho em để phất diều,
Treo văn trước ngõ mới nên kêu.
Cánh, sườn kẹp nẹp cân cho đúng,
Lèo lái so dây gióng đặng đều.
Ngọn gió ồn ào vừa thổi tới,
Mấy anh tỉnh mỉnh phóng lên khêu.
Chín từng lồng lộng bay cho thấy,
Mới rõ Hiệp Thiên nghĩa ít nhiều. "
Sáng hôm sau Đức
Ngài và Thượng Phẩm đi mua đồ dán diều, dán xong Đức Hộ Pháp cầm cầm con diều, Thượng Phẩm thì
cầm lon chỉ chạy cho cánh diều bay lên. Đêm đến cầu cơ, cô Bát Nương về cười 2
ông quá cỡ. Cô nói bài thi ấy là cốt ý để nói về ý nghĩa Hiệp Thiên Đài quan trọng
hơn, lớn hơn Cửu Trùng Đài nhiều lắm.
Chớ đâu có biểu
2 ông làm diều cho cô thả đâu.
Đức Ngài và Thượng
Phẩm cũng tức cười cho mình.
ẢNH HƯỞNG CỦA VẬT THỰC ĐẾN
CHƠN THẦN
Ông bảy, anh của
Đức Hộ Pháp ở Qui Thiện Trường Hòa có đêm nằm mộng thấy một người nữ đến than với ông:
" Bác bảy
ơi, sao chân con yếu quá đi không được."
Nhìn ra thì người
nữ ấy là một người hàng xóm mới vừa chết cách đây vài tháng. Rồi ông giựt mình
dậy. Ông thấy không an trong lòng nên đến Hộ Pháp Đường trình cùng Đức Hộ Pháp.
Nghe xong Ngài nói:
" Rồi,
đứa nào hành pháp bị thất pháp rồi, cắt không được chớ gì. Anh về biểu sắp nhỏ ở
nhà người con gái đó
cúng cơm cho nó một tháng, nhớ là cơm mới nấu.
Hơi cơm coi vậy
chớ nhờ nó mới làm cho chơn thần nó cứng cáp."
Đức Hộ Pháp có lần
nói chuyện với mấy vị được thọ pháp rằng:
" Cây
kéo khi đã được trấn thần trước Thiên Nhãn, mấy em đừng nghĩ nó là cây kéo mà lầm,
nó chính là cây Thư Hùng Kiếm của Đức Thượng Sanh đó. Chỉ có gươm Thư và gươm
Hùng nhập lại mới đoạn được 7 dây oan nghiệt của thể hình mà thôi."
NGƯỜI TU KHÔNG MẮC NỢ
Có lần Đức Hộ
Pháp đang đi bộ với vài vị Phạm Môn, bất ngờ có một chiếc xe du lịch chạy vù tới. Xe bóng loáng, bóp
còi inh ỏi, vụt một cái đã ra xa để lại một đám bụi mù.
Thấy vậy Đức
Ngài mới quay lại hỏi mấy người Phạm Môn:
" Bây
coi đó, xe hơi chạy một cái ro chở họ đi, nghĩ cũng sướng thật. Vậy chớ qua hỏi
mấy em chớ họ chạy đi đâu mà lẹ dữ vậy? "
Không có ai trả
lời được. Ngài mới nói:
" Có gì,
coi ra là họ chạy nợ đó. Nợ nhà, nợ đời nó đòi, mắc nợ nên rán mà chạy đi lo
cho kịp. Còn mình là người tu hành, đâu có mắc nợ ai nên đâu có ai đòi, vậy thì
cứ thủng thẳng đi rồi từ từ cũng tới."
TÒA THÁNH TẠM
"
Kế dâng bông, bắt ấn Thượng Ngươn dưới đạp Ngưu Đẩu, tay đưa Giáng Ma Xử lên hiệp với chữ KHÍ, đem khí ấy đưa ra cả Càn Khôn thế giới.
Ấn Thượng Ngươn làm chủ chữ KHÍ, đem khí ấy hiệp hết cả Ngươn Khí đặng bao trùm
vũ trụ." - Lời Thuyết
Đạo của Đức HỘ PHÁP.
" Đến Trung
Ngươn bắt ấn Hiệp Chưởng biến hóa, Giáng Ma Xử để nằm ngang, đuôi bên Thế, cán
bên Đạo, ý nghĩa Đạo cầm cán đặng trị Đời. Bắt ấn Hiệp Chưởng cầm cả cơ pháp của
vạn vật biến sanh đặng bảo tồn không cho tương tranh, tự diệt nhau." - Lời
Thuyết Đạo của Đức HỘ PHÁP.
" Tới Hạ Ngươn, tay tả thuộc dương để trên, tay hữu thuộc âm để dưới, rồi để Giáng Ma Xử chúi xuống, trụ
thần đem cả Càn Khôn hiệp cả vạn vật. Bắt ba ấn phải trụ thần, làm sao cho ấn ấy đừng thất
pháp." - Lời Thuyết Đạo của Đức HỘ PHÁP.
Lễ Tiểu Đàn
Thỉnh Xá Lợi Phật
Khởi sự từ năm Ất Sửu (1925) mấy ông Cao Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh
Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang xây bàn xướng
họa thi phú cùng các Đấng vô hình rồi được các Đấng dẫn lần hồi vào con đường Đại
Đạo.
Sau bao năm
tháng lèo lái con thuyền đạo, các ông từng người từng người đều trở về bái mạng
Đức Chí Tôn. Trong nhóm xây bàn ngày ấy thì Thượng Sanh Cao Hoài Sang là về sau
hết.
Hồi những năm
1933-1935, lúc khởi công phá rừng xây dựng Tòa Thánh. Có lần Thượng Sanh lái xe về thăm. Khi chạy
xe ngang qua các công trình với nhân viên công quả đông đảo đang làm trong khu
vực Nội Ô mọi người chỉ tay về phía xe nói với nhau:
" Xe đó là xe của Đức Thượng Sanh đó.
"
Mọi người nhìn
theo. Khi xe đã xa rồi, Đức Hộ Pháp nói:
" Bây giờ
chúng ta làm đây là làm giùm mà thôi, chớ khi xong rồi ông ấy sẽ về làm chủ đó
đa! "
Đức Ngài kể hồi
còn ở thiêng liêng Đức Hộ Pháp, Quyền Giáo Tông, Thượng Phẩm rủ Thượng Sanh đi
mở đạo. Thượng Sanh nói:
" Quí
anh rủ thì tôi đi, chớ xuống dưới tôi không làm việc gì hết chỉ coi nhà cho quí
anh thôi. ".
Từ khi mở đạo
năm Bính Dần (1926), ông được Chí Tôn phong Thượng Sanh rồi luôn ở Sài Gòn, lâu
lâu mới về. Mãi đến khi Đức Hộ Pháp lưu vong sang Cao Miên năm Bính Thân (1956)
thì Thượng Sanh mới về Tòa Thánh chấp chính dưới thời chính quyền Diệm do yêu cầu
của Hội Thánh Lưỡng Đài.
Nhớ lại cái hồi
năm Bính Tuất (1946) khi Đức Hộ Pháp mới từ Madagascar trở về, năm ấy ông Thượng
Sanh có lên thăm và ở lại dự Hội Yến. Cô Bát Nương có giáng cơ làm một bài thi
rồi Đức Ngài và Thượng Sanh cũng họa lại giống như những ngày đầu lúc trước.
Bài thi như thế nầy:
Đến năm Tân Hợi
(1971), Thượng Sanh cũng tạm biệt cõi trần, nhóm xây bàn ngày nào giờ đã được hội
ngộ nơi cõi thiêng liêng hằng sống.
"
Đào nguyên lại trổ trái hai lần,
Ai
ngỡ Việt Thường đã thấy
Lân.
Cung
Đẩu ví xa gươm Xích Quỷ,
Thiên
Cung mở rộng cửa Hà Ngân.
Xuân
Thu định vững ngôi lương tể,
Phất
Chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi
khí vĩnh sanh lau Xã Tắc,
Mở
đường quốc thể định Phong Vân."
* Bát Nương Diêu Trì Cung
"
Chông gai đường đạo mãng dò lần,
Từ
bước ta bà trở cố lân.
Biển Bắc vừa nghe hơi súng nổ,
Gành nam kế lóng tiếng chuông ngân.
Buồm thuyền tế độ sang mơ mộng,
Gió hạc chiêu Tiên giục định thần.
Cam Lộ kìa ai dành để sẵn,
Cành Dương rửa sạch nét phù vân."
* Hộ Pháp Phạm Công Tắc .
" Dựng gầy xã tắc bấy nhiêu lần,
Mong mõi vùng Nam đặng thấy Lân.
Đãnh Việt trời che gìn cảnh trí,
Thuyền Nam đạo vững lướt dòng ngân.
Đài hoa tạc để gương anh kiệt,
Thiên khiển dành riêng đám tội thần.
Gặp phải nước nhà cơn loạn lạc,
Làm trai tua vẹn trí thanh vân."
*
Thượng Sanh Cao Hoài Sang.
Đến năm Tân Hợi
(1971), Thượng Sanh cũng tạm biệt cõi trần, nhóm xây bàn ngày nào giờ đã được hội
ngộ nơi cõi thiêng liêng hằng sống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét