Chuyện Kể Về Hộ Pháp Phạm Công Tắc - 2 /5 * Duy Hòa


Việc Đức Cao Đài Thượng Đế giáng cơ lập đạo, qui Tam Giáo làm cho những bậc trí thức và giới tu sĩ bàn tán rất nhiều. Trong đó có cụ Yết Ma Luật quyết đến đàn cơ thử coi thực hư ra sao cho biết. Cụ viết sẵn một bài thơ bỏ trong túi áo và xin cơ bút họa lại, Đức Chí Tôn họa lại như vầy:
" Hãy tĩnh cho mau giấc mộng tràng,
Đời cùn Tiên Phật giáng phàm gian.
Chẳng ai hay giỏi bày thi phú,
Chính thật ta đây Đấng Ngọc Hoàng.
Cao Đài Thượng Đế. "

Nhận được bài thơ họa, ông Yết Ma Luật hết hồn, bái phục và xin theo đạo rồi đưa bài thi mà ông đã viết cho mọi người coi. Bài thi đó như vầy:
" Ấm ức tâm tư suốt mộng tràng,
Có đâu Tiên Phật giáng phàm gian.
Văn hay chữ giỏi bày thi phú,
Họa đặng thơ đây mới Ngọc Hoàng."
                                               * Yết Ma Luật

Tuy có dự trong đàn cầu cơ nhưng ông Phan Khắc Sửu vẫn không tin, ông làm một bài thơ rồi đốt mà không khấn vái gì cả. Cơ đang dạy chư môn đệ thì bổng ngưng lại rồi họa một bài thơ như vầy:
" Cơ trời khó tỏ hỡi con ơi,
Nghiệp quả tiền khiên của giống nòi.
Bởi luyến mồi thơm cam cá chậu,
Vì ganh tiếng gáy chịu chim lồng.
Trời khai Đại Đạo nên yên dạ,
Đất dậy phong ba cứ vững lòng.
Gắng trả cho rồi căn nợ ấy,
Tu mà cứu thế dễ như không."
                                                                      * Cao Đài Thượng Đế

Đến lúc nầy thì ông Phan Khắc Sửu mới tâm phục khẩu phục và chịu làm đệ tử. Ông cũng có đọc lại bài thi của ông cho mọi người nghe, bài thi của ông thế nầy:
" Cao Đài Tiên Trưởng hỡi ông ơi,
Linh hiển sao không cứu giống nòi.
Trăm họ điêu linh thân cá chậu,
Muôn dân đồ thán phận chim lồng.
Coi nòi diệt chủng càng đau dạ,
Thấy cảnh vong bang bắt não lòng.
Ách nước nạn dân như thế đấy,
Ngồi mà đạo đức có yên không? "
* Phan Khắc Sửu

Đức Thượng Đế còn cho thêm ông Sửu 4 câu thơ tỏ ý khuyên ông chớ nên chần chờ, hãy sớm giác ngộ lo tu hành như vầy:
" Đường đạo tìm vào mới rõ cơ,
Cơ mầu giải khổ chớ chần chờ.
Chờ cho trễ bước xa thuyền bến,
Bến tục thoát vòng hết ước mơ."
* Cao Đài Thượng Đế

Nhờ vậy mà ông Sửu hoàn toàn tin tưởng nơi Chí Tôn và sau đó nhập môn cầu đạo, làm môn đệ của Đức Chí Tôn.
Sang đến ngày 25 tháng 11, Đấng Cao Đài Thượng Đế dạy mấy ông Cư, Tắc đến đường Quai Testard ở Chợ Lớn để độ rỗi ông Lê Văn Trung, đương kim Thượng Nghị Viên, Hội Đồng Thượng Nghị Viện lúc bấy giờ. Do biết thân thế của ông Trung là một vị quan lớn trong thời mất nước nên ông Tắc có ý không bằng lòng. Nhưng vì Đức Chí Tôn bảo đâu là phải làm đó nên 2 ông mới ôm cái cơ đến nhà ông Trung.
Khi đến nhà, 2 ông nói với ông Trung là:
" Chúng tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà anh phò loan cho Đức Chí Tôn dạy đạo. "

Thật ra ông Trung đã biết rõ về Đức Chí Tôn rồi, là vì ông Trung cũng có hay đi hầu các đàn cơ cầu Tiên ở Chợ Gạo tại Phú Lâm Chợ Lớn. Chính nơi đàn cơ nầy Đức Lý Thái Bạch vâng lịnh Chí Tôn dạy cho ông Trung giác ngộ.
Ông Trung lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn buổi phò loan rồi bắt ông nhập môn.
Trong nhà có một người con nuôi tên là Thạnh, còn nhỏ độ 12 tuổi. Hai cha con kiếm được cơ đâu không biết, mới vái rồi cầu cơ. Khi phò loan thằng nhỏ ngủ, ông thì thức, cơ thì chạy hoài. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có 2 người biết với nhau mà thôi. Từ đó ông mới tin có Chí Tôn.
Trong đàn cơ hôm đó Chí Tôn đã dùng huyền diệu cho ông Trung thấy được Cực Lạc Niết Bàn nơi Thiêng Liêng để thâu phục ông vào đạo.

Qua ngày 29 tháng 11 năm Ất Sửu cô Thất Nương có giáng cho thi:
" Thất Nương
Người vô tình kẻ bạc tình,
Ba anh chẳng nghĩ nghĩa đồng thinh.
Đặng chim trách kẻ toan quên ná,
Buồn bực cho đây vẫn một mình. "

Mấy ông mới trách Thất Nương như vầy:
" Anh trách em sao không nói thật A-Ă-Â là ông Trời, em thấy ba anh cũng như mù em cứ gạt hoài. "
Thất Nương mới nói:
" Trời là Trời, em là em. Em rõ biết nhưng không dám lậu, nay ba anh đặng vậy em mừng.
Thử lòng tri kỷ đó mà thôi,
Tương ngộ có hơn bảy tháng trời.
Yêu mến một lòng đây rõ biết,
Thỉ chung đâu để hỗ cùng lời."

Sau đó Lục Nương cũng có giáng cho thi mừng 3 ông hiểu đạo:
Lục Nương
" Mừng nay đường đạo đã êm chơn,
Vàng ngọc công khanh chẳng dám hơn.
Rượu cúc Bàn Đào chờ hội ẩm,
Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng vai Thánh khảy đờn.
Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân phân thế tục phẩm chi sờn."

Rồi đến ngày mùng 3 tháng Chạp năm Ất Sửu cũng có ông Quí Cao về nói với mấy ông như vầy:
" Đã từ lâu không dám nói vì em còn phải tu như 2 anh vậy. Không dám nói vì 2 anh còn có Thầy, em không dám lộng quyền.
Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Đạo vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp muối dưa, muôn kiếp hưởng,
Đôi năm mệt nhọc, vạn năm bường.
Có Thần nuôi nấng Thần càng mạnh,
Luyện khí thông thương khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương. "

Nói thì nói vậy nhưng tuy là đã theo học đạo với ông Thầy Trời mà tấm lòng thương dân yêu nước, lo âu cái sự đời của mấy ông vẫn chưa nguôi. Nên khi chính quyền Pháp đàn áp các phần tử ái quốc lại làm cho dòng máu cách mạng của mấy ông lại bừng sôi. Đến đỗi Thất Nương phải giáng để lời khuyên nhủ:
" Em xin quí anh coi lại đời là thế nào? Bông phù dung sớm còn tối mất, còn hơn kiếp con người. Vì nó sống ngắn ngủi nhường ấy nhưng mà lúc sống còn có cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để khổ mà thôi, dù sống trăm tuổi chưa một điều đắc chí, rồi chết. Cái đời đúng là một khổ hải.
Em xin quí anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm cho có, mình có sẵn nỡ bỏ đi. Em tiếc dùm đó thôi. Đã vào đường chánh cứ dò theo đó bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng."

Ông Trung mới hỏi:
" Có duyên luyện đạo cùng chăng? Xin em mách dùm."
Cô Thất Nương mới trả lời:
" Đã gặp đạo đức tức có duyên phần. Rán tu luyện, siêng thì thành, biếng thì đọa. Liệu lấy răn mình."
Rồi Chí Tôn cũng có giáng cho bài thi dạy mấy ông thêm:
" Một ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện đặng tính thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
Cương tỏa đương thời đã giải vây,
Đừng mơ oan nghiệt một đời này.
Hữu duyên độ thấu nguồn chơn đạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay."

Từ lúc ngưng việc xây bàn chuyển qua phò cơ thì đều do ông Tắc và ông Cư làm đồng tử, vì vậy ông Sang thấy mình hơi thừa rồi lần lần ít chịu đi hầu đàn. Mấy ông có xin Chí Tôn để lời dạy bảo thì Chí Tôn nói là:
" Nó thật thà vã lại nó còn mang xác phàm. Ai dưới thế này đặng trọn vẹn các
con chỉ cho Thầy coi? "
Sau đó Chí Tôn dạy mấy ông là: " Đến Chiêu xem cách thức nó thờ Thầy, bảo nó hiệp một với các con. "
Ông Chiêu tên thật là Ngô Văn Chiêu, mấy năm trước hồi ông còn làm ở quận Phú Quốc được Đức Chí Tôn dùng huyền diệu thâu phục và giáo hóa suốt trong  khoảng thời gian đó, nên cũng được xem là môn đệ đầu tiên của Chí Tôn trong thời kỳ tiền khai đạo. Sau đó đến năm Giáp Tý (1924) ông được đổi về Sài Gòn làm, âu cũng là cơ khiến để ông và nhóm của mấy ông Cư, Tắc, Sang hiệp cùng nhau. Ông Chiêu là chiết ngươn linh của Tào Quốc Cựu trong hàng Bát Tiên.
Mấy ông vâng lịnh Chí Tôn đến nhà ông Chiêu ở số 110 đường Bonnard để học cách thờ tự. Ông Chiêu thờ Thầy rất kỹ, họa hình một con mắt y theo Chí Tôn đã dạy bảo, để tận trên cao và ngay chính giữa nhà thật kín đáo gọi đó là Thiên Nhãn.
Có ai đến nhà chơi khó mà biết được vì ông là người dè dặt, không phải bạn tu thì không bao giờ chỉ dẫn. Rồi sau đó Chí Tôn có giáng dạy về việc thờ tự nầy như sau:
" Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, chúa cả Càn Khôn thế giái, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy.
Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng con mắt mà thờ Thầy. Song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
Nhãn thị chủ Tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả ngã giả.

Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày đạo bị bế. Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nầy duy Thầy cho Thần hiệp Tinh, Khí đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh. "

Đến ngày Rằm tháng Chạp năm Ất Sửu (1926) ở nhà ông Lê Văn Trung có tổ chức thượng Thánh Tượng Thiên Nhãn để thờ, có mời mấy ông trong nhóm xây bàn là ông Tắc, Sang, rồi cũng có mời ông Chiêu, Nguyễn Trung Hậu, Vương Quang Kỳ, Đoàn Văn Bản, Nguyễn Văn Hoài, Trương Hữu Đức, Võ Văn Sang, Lê Văn Giảng, Lý Trọng Quí, Lê Thế Vĩnh,… nhân dịp đó Chí Tôn có giáng cơ nói:
" Thầy vui thấy các con thuận hòa cùng nhau. Thầy muốn các con như vậy hoài. Ấy là lễ hiến cho Thầy rất trọng. Trung! Thầy khen con đó. "

Sau đó Chí Tôn dạy Đức Ngài Phạm Công Tắc như vầy:
                       " THẦY
Một Trời một Đất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.
Tắc, có tuân mạng lệnh Thầy chăng? Thầy có cấm con đừng dự việc hội đàm chăng? Con sắp đặt hoàn thành rồi thối chức."

Ông tuân theo lệnh của Chí Tôn làm đơn xin tạm nghỉ việc 6 tháng.
Ngày 30 tháng Chạp năm Ất Sửu (1926) Đức Chí Tôn dạy mấy ông Cư, Tắc, Chiêu ôm cây cơ đến nhà của mỗi vị để mừng xuân. Đến nhà ai thì cặp cơ Cư-Tắc phò loan, trước hết là nhà ông phán Võ Văn Sang, sau cùng là nhà ông Lê Văn Trung.
Mỗi người đều được một bài thơ tứ tuyệt, của ai cũng hay ho đẹp đẽ riêng của ông Tắc như vầy:
" Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.
Nghe con! "

GIÁNG LINH HỘ PHÁP DI ĐÀ

Khuya mùng 1 Tết Bính Dần (1926), Chí Tôn giáng dạy mấy ông:
" Hôm nay là ngày trọng đại, Thầy chính thức khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt 92 ức Nguyên Nhân đang bị đọa trầm luân:
Phụng gáy non Nam Đạo trổ mòi,
Trổ mòi nhân vật bốn phương trời.
Trời Âu, biển Á chờ thay sắc,
Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi. "

Qua ngày mùng 9 là ngày vía của Đức Chí Tôn, ông Quan Phủ Vương Quang Kỳ có thiết đàn tại nhà riêng số 80 đường Lagrandìere. Đêm ấy có mời chư nhu và các vị đạo hữu hầu đàn. Chí Tôn về giáng cơ dạy mấy ông:
" Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắc đến cùng ta."
Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.
Thầy vui muốn cho các con thuận hòa nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh đạo Thầy.
Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho nhau đặng thế lực đừng ganh gỗ nghe. Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy. "

Khi ấy ông Quan Phủ Chiêu mới xin Chí Tôn lấy tên mấy người đệ tử mà cho một bài thi làm kỷ niệm. Đức Chí Tôn cho bài thi nầy:
" Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Hậu Đức Tắc Cư thiên địa cảnh,
Hườn Minh Mân đáo thủ đài danh.
Hườn, Minh, Mân sau sẽ rõ…"

Những vị môn đệ có tên trong bài thi đó là:
1 . Ngô Văn Chiêu
2 . Vương Quang Kỳ
3 . Lê Văn Trung
4 . Nguyễn Văn Hoài
5 . Đoàn Văn Bản
6 . Cao Hoài Sang
7 . Lý Trọng Quí
8 . Lê Văn Giảng
9 . Nguyễn Trung Hậu
10 .Trương Hữu Đức
11 . Phạm Công Tắc
12  . Cao Quỳnh Cư

Thật ra là Chí Tôn có đến 13 vị môn đệ đầu tiên, vì 2 ông Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang cùng tên nên Chí Tôn điểm chung 1 tên. Nếu phân tích theo Kinh Dịch thì 12 là đạo đã thành, chính cái chưa xong số 13 đó mới biến thiên đạo truyền tới thất ức niên, tức là 700.000 năm, giống như quẻ 63 là Ký Tế nghĩa là đã xong, nhưng qua đến quẻ cuối cùng 64 là Vị Tế nghĩa là chưa xong.
Đại khái ý nghĩa của bài thi đó là đạo đã được Đức Chí Tôn lập ra để cứu vớt đời, mấy ông Hườn, Minh, Mân là 3 vị theo hầu đàn thôi, mấy ông chưa vào đạo, nhưng Chí Tôn tiên tri trước là " đáo thủ đài danh ", tức là sẽ theo đạo.
Đến ngày Rằm tháng 3, mấy ông thiết đàn tại nhà ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn Chí Tôn dạy như sau:
" Cư nghe dặn: Con biểu Tắc tắm rửa sạch sẻ, xông hương cho nó, biểu nó lựa một bộ quần áo tây cho sạch sẻ, ăn mặc như thường, đội nón… Cười…
Đáng lẽ nó phải sắm khôi, giáp như hát bội mà mắc nó nghèo Thầy không biểu. Bắt nó lên đứng trên ngó mặt ngay vô ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải đều đắp mặt nó lại.
Lịch, con viết một lá phù Giáng Ma Xử đưa cho nó cầm.
Cả thảy môn đệ phân làm ba ban đều quì xuống, biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến rồi mới tới trước mặt  Tắc đặng Thầy trục xuất chơn thần nó ra, nhớ biểu Đức, Hậu xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.
Hai con mặc đồ thường, chừng nào Thầy triệu Ngũ Lôi và Hộ Pháp về rồi Thầy biểu mặc Thiên phục thề mới đặng. "

Nghi lễ thọ phong Hộ Pháp khác thường, không lời tuyên thệ, không lời nguyện mà là một cuộc hành pháp trục chơn thần Phạm Công Tắc ra khỏi xác phàm để chơn linh Di Đà Hộ Pháp giáng ngự nơi thân thể ông Tắc như trong bài "Kinh Đại Tường" có nói:
" Giáng linh Hộ Pháp Di Đà,
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh."

Từ đây ông Phạm Công Tắc trở thành Hộ Pháp trong nền Đại Đạo. Ngài được Chí Tôn giao trọng trách đứng đầu Hiệp Thiên Đài, thông công với các Đấng Thiêng Liêng.
Cũng trong thời gian nầy có mấy ông được thọ phong là:
- Ông Cao Quỳnh Cư thọ phong Thượng Phẩm.
- Ông Lê Văn Trung thọ phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.
- Ông Lê Văn Lịch thọ phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
- Ông Cao Hoài Sang thọ phong Thượng Sanh .

Mấy ông sau đây được phong vị để phò cơ là:
- Đức, Hậu thọ phong Tiên Đạo phò cơ Đạo Sĩ.
- Cư thọ phong Tá cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ.
- Tắc thọ phong Hộ Giá Tiên đồng Tá cơ Đạo Sĩ.

Đức Chí Tôn nhờ cậy chủ yếu vào cặp cơ do ông Cư và Tắc phò loan như từ buổi ban sơ, 2 ông còn được gọi là cặp cơ phong Thánh để truyền giáo, thành lập nền móng cho Đại Đạo. Ngoài cặp cơ Cư-Tắc còn có các cặp cơ khác như SangDiêu, Hậu Đức, Nghĩa-Tràng, Tươi-Chương, Kim-Đãi, Mai-Nguyên, Mạnh-Phước, Thâu-Vĩnh.

Sở dĩ phò loan cầu cơ phải theo cặp như vậy đó là vì trong mỗi người đều có điển âm và điển dương, nếu hai luồng điển đó được điều hòa thì cơ viết dễ và người tiếp điển thiêng liêng dễ thông công với cảnh vô hình. Hai người lúc nhơn điển xuất ra, hễ bên nầy âm thì bên kia dương, bên nầy đương thì bên kia âm, hai luồng điển ấy xô đẩy hút kéo nhau mà cây cơ được vận chuyển. Lúc điển vô hình chưa giáng  thì 2 luồng điển ấy không ăn với nhau, vì cớ mà cây cơ không chuyển động. Chừng lúc nào người tiếp điển đã xuất chơn thần tiếp rước điển thiêng liêng, thì điển vô hình làm cho 2 luồng nhơn điển dụng chạm nhau mà xây chuyển cây cơ. Còn cây cơ có chuyển mà viết không được, vì một phần do 2 luồng nhơn điển không điều hòa cùng nhau, nó chạm nhau mà không làm 1 âm, hay 1 dương, vì đó mà cây cơ không chỉ theo chỗ, hay không chuyển động được, hoặc do thần không tịnh, hoặc do thần của người tiếp điển lộn xộn bất định, nên điển thiêng liêng bị đứt, chơn thần của kẻ phò loan làm cho loạn điển. Điển vô hình là thứ điển thuần dương mà thôi, do đó mà khi điển thiêng liêng giáng hiệp với 2 luồng điển của cặp phò loan mà thành luồng điển 3 dây. Sự huy động của cây cơ là do luồng điển hợp thành ấy.

Điển của việc phò loan là do đó, còn điển của việc chấp bút cũng do luồng điển 3 dây hợp thành mà làm chuyển động bàn tay chấp bút, nhưng cái khó là người chấp bút một lần phải xuất ra 2 thứ điển âm và dương đặng vận chuyển cây bút.
Nhưng cây bút phải là cây bút chì đặng điển thiêng liêng chạy vòng trong cây bút mà không đụng đến tay người chấp bút thì mới viết dễ dàng được.
Cũng chính vì vậy mà người ta có thể nghi ngờ các Thánh Ngôn là do người phàm phò loan chấp bút viết ra. Thế nên cơ bút có thiệt mà cũng có giả, chỉ có người trong cuộc mới hiểu rõ mà thôi.

Về sau nhằm ngăn chặn sự lợi dụng cơ bút, một hiến pháp gọi là "Hiến Pháp cơ bút" được ra đời, qui định chỉ chấp nhận và thừa nhận cầu cơ nơi Cung Đạo tại Tòa Thánh mà thôi. Khi cơ đạo biến chuyển, Đức Hộ Pháp lên nắm quyền nhị hữu hình đài cũng có ra Thánh Lịnh nói về việc cơ bút như vầy:
" Cơ bút vẫn là hư hư thiệt thiệt, vì bất kỳ sự chi mà có tánh phàm của con người phối hợp vào đó đều giả nhiều mà thiệt ít. Cơ bút đủ quyền tạo đạo đặng, thì nó cũng đủ quyền diệt đạo đặng. Vì cớ mà Đức Chí Tôn đã cấm cơ Phổ Độ. "

Trong thời gian đó, đất nước đang bị đô hộ dưới quyền Pháp, việc tập trung nhiều người mà không có giấy phép hội họp cũng là một nỗi lo lớn của mấy ông.
Các đàn cơ đâu thể nào tránh khỏi sự theo dõi của bọn mật thám Pháp. Nhứt là ông quan phủ Ngô Văn Chiêu, Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang biết rõ luật pháp chính quyền đô hộ hơn ai hết. Thậm chí bọn chúng còn cho mật thám trà trộm theo dõi nơi đáng nghi ngờ, mà điển hình là chúng cho ông thông dịch viên Nguyễn Văn Tường, cảnh sát Trần Văn Tạ, quản Báo,… trà trộm để theo dõi đạo, nhưng rốt cuộc mấy ông nầy lại theo đạo và thọ Thiên phong.

Nhìn thấy trước được những khó khăn đó mấy ông rất lấy làm lo lắng, nhứt là ông Lê Văn Trung, nên ngày 16 tháng 8 năm Bính Dần, Chí Tôn giáng có dạy:
" Các con xin Chánh Phủ Lang Sa đặng khai đạo thì cực chẳng bằng Thầy đã ép lòng mà chịu vậy cho tùng nơi Thiên cơ. Thầy rất đau lòng mà phải chịu vậy chớ biết sao? Con phô lời cho cả chư môn đệ Thầy thâu thập vào phái Thái, rồi cho chúng nó hiểu. "
Chí Tôn còn dạy 2 ông Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt phải nhóm họp các môn đệ mà lo khai đạo.

Gần một tuần sau đó Chí Tôn dạy mấy ông như vầy:
" Trung, con biết Thầy thương yêu nhân loại là dường nào chưa? Những điều ngăn trở đều do nơi tiền khiên của chúng sanh. Đã vào trọn một thân mình nơi ô trược thì Thầy đây cũng khó mà rửa với một gáo nước mà đặng trong sạch. Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên 10 ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.
Rất đỗi Thầy là bực Chí Tôn đây mà còn bị chúng nó mưu lén cho qua Thánh ý Thầy thay, một đàng trì, một đàng kéo, thảm thay các con chịu ở giữa.
Thầy dạy các con một điều là biết tranh đấu cùng Thầy, hễ nó tấn thì mình chống, cân sức cho bằng hay là trổi hơn mới đắc thắng. Các con chịu nổi thì đạo thành, còn các con ngã thì đạo suy. Liệu lấy.
Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay. Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy, ấy cũng là cơ mầu nhiệm cho các con có thể lập công quả.
Trung, Lịch hai con phải hội chư Thánh mà xin khai đạo. Phải làm đơn mà dâng cho Thầy xem xét sửa trước nghe! "

Ngày hôm sau các vị môn đệ họp tại nhà ông Nguyễn Văn Tường ở đường Gallíeni. Buổi chiều hôm đó trời đột nhiên đổ mưa rất lớn, kéo dài khoảng 3 tiếng đồng hồ làm ngập đường xá, giao thông bị bế tắc. Nhờ vậy mà buổi họp không bị lính mật thám quấy rầy, và cũng đồng thời khiến cho những người hiếu kỳ chỉ muốn đến xem cho vui không đến được.
Buổi họp được bắt đầu khoảng 7 giờ 30 tối dưới sự hướng dẫn của ông Trung, Lịch, Cư. Văn bản dự kiến của Tờ Khai Đạo được đọc lên cho toàn thể môn đồ có  mặt được nghe và góp ý. Sau khi tất cả đã thống nhứt nội dung, ông Trung chịu trách nhiệm soạn ra văn bản bằng tiếng Pháp để gởi cho chánh quyền Pháp.

Đại hội kết thúc vào khoảng 9 giờ tối, lúc đó trời cũng bắt đầu tạnh mưa. Đồng đạo lần lượt ra về bình an. Trong buổi hợp hôm đó hiện diện đếm được 247 vị, nhưng ký tên vào danh sách chỉ thấy có 244 vị, vì có một vị ghi lộn số thứ tự và còn 2 vị chưa kịp ký tên.
Sau khi ông Trung viết xong Tờ Khai Đạo bằng tiếng Pháp thì mấy ông lập đàn tại nhà ông Cư để dâng lên cho Chí Tôn xét qua. Chí Tôn giáng cơ bảo ông Diêu đọc tên từng người trong danh sách, khi cơ gõ tên người nào thì đưa tên người ấy vào Tờ Khai Đạo. Tổng cộng Chí Tôn điểm 28 vị được đưa vào Tờ Khai Đạo. Xong Chí Tôn dạy:
"Thầy dặn con, Trung, nội thứ năm tuần tới phải đem đến Le Fol mà khai cho kịp nghe."

Sau đó ông Trung vâng lịnh Thầy chờ đến thứ năm tuần sau, là ngày mùng 1 tháng 9 năm Bính Dần (1926), đích thân ông Trung lên dinh Thống Đốc Nam Kỳ nạp Tờ Khai Đạo cho ông Thống Đốc Le Fol. Nguyên văn tờ khai viết bằng tiếng Lang Sa xin được trích ra như sau:
" Saigon, le 7 Octobre 1926
Monsieur le Gouverneur,
Les Soussignés, ont l’honneur de venir respectueusement vous faire connaitre ce qui suit:
Il existait en Indochine trois Religions (Boudhisme, Taoisme et
Confucianisme). Nos ancêtres pratiquaient religieusement ces trois doctrines et vivaient heureusement en suivant strictement les beaux préceptes dictés par les Créateurs de ces religions. On était, pendant cet ancien temps, tellement insoucieux qu’on pouvait dormir sans fermer les portes et qu’on dédaignait même de ramassser les objets tombés dans la rue (gia vô bế hộ, lộ bất thập di, tel est l’adage inscrit dans nos annales).
Hélas! Ce beau temps n’existe plus pour les raisons suivantes:
1 . Les pratiquants de ces religions ont cherché à se deviser, tandis que le but de toutes les religions est le même: Faire le bien et éviter le mal, adorer pieusement le Créateur.
2 . Ils ont dénaturé complètement la signification de ces saintes et précieuses doctrines.
3 . La course au confort, à l’honneur, l’ambition des gens, sont aussi des causes principales des divergences d’opinions actuelles. Les Annamites de nos jours ont complètement abandonné les bonnes moeurs et traditions de l’ancien temps.
Ecoeurés de cet état de choses, un groupe d’Annamites, fervents traditionalistes et religieux, ont étudié la refonte de toutes ces religions, pour n’en former qu’une seule et unique appelée CAODAISME ou ĐẠI ĐẠO.
Le nom "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ", qui signifie la troisième Amnistie Générale, est donné par l’Esprit Suprême qui est venu aider les soussignés à fonder cette nouvelle religion.
L’Esprit Suprême est venu sous le nom de Ngọc Hoàng Thượng Đế dit Cao Đài ou “Le Très Haut, DIEU TOUT PUISSANT ".
Par l’intermédiare de médiums écrivants, Ngọc Hoàng Thượng Đế transmet aux soussignés des enseignements divins ayant pour but de concentrer et d’enseigner les beaux préceptes de ces trois anciennes Religions.
La Nouvelle Doctrine enseignera aux peuples:
1 . La haute morale de Confucius;
2 . Les vertus dictées dans les religions boudhique et taoique. Ces vertus consistant à faire le bien et éviter le mal, aimer l’humanité, pratiquer la concorde, éviter totalement la dissention et la guerre.
Les sousignés ont l’honneur de vous soumettre:
1 . Quelques extraits du recueil des “Saintes Paroles” de Ngọc Hoàng Thượng Đế, paroles estimées plus précieuses que tout ce qui existe ici-bas.
2 . La tradition de quelques passages du livre de prières que Ngọc Hoàng Thượng Đế nous a enseignées. Le but poursuivi par les soussignés est de ramener les peuples à l’ancien temps de paix et de concorde. On sera ainsi dirigé vers une époque nouvelle tellement heureuse qu’il est difficile de la décrire. Au nom de très nombreux Annamites qui ont entièrement approuvé ces études et don’t la liste est cijointe, les soussignés ont l’honneur de venir respectueusement vous déclarer qu’il vous propager à l’humanité entière cette Sainte Doctrine.
Persuadés d’avance que cette Nouvelle Religion apportera à nous tous la Paix et la Concorde, les soussignés vous prient de recevoir officiellement leur déclaration.
Les soussignés vous prient d’agréer, Monsieur le Gouverneur, l’assurance de leurs sentiments respectueux et dévoués” (PIERRE BERNARDINI, Le Caodaisme au Cambodge, Universite1 de Paris VII, trang 282–284).
Ont signé:
- Mme Lâm Ngọc Thanh,…
- Mr Lê văn Trung,…
"
Nguyên văn Tờ Khai Đạo được Hiền Tài Nguyễn Kim Anh, Giáo Sư Pháp Văn Trung Học Tây Ninh tạm dịch ra như sau:
" Sài Gòn, ngày 7 tháng 10 năm 1926
Kính ông Thống Đốc,
Những người ký tên dưới đây, hân hạnh kính báo đến ông biết những điều sau: Từ trước ở Đông Dương đã có ba Tôn Giáo (Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo). Tổ tiên chúng tôi đã tu theo giáo lý Tam Giáo và sống hạnh phúc nhờ thuận tùng nghiêm khắc những lời dạy tốt đẹp của các vị Chưởng Giáo của các Tôn Giáo ấy. Vào thời xưa, người ta sống vô tư đến độ có thể ngủ mà không cần đóng cửa và ra đường chẳng thèm lượm của rơi (gia vô bế hộ, lộ bất thập di là câu nói đã được sử sách ghi lại).
Buồn thay! Thời kỳ tốt đẹp đó không còn vì những lý do sau đây:
1 . Tín hữu của các Tôn Giáo ấy tìm cách chia rẻ nhau, trong khi mục đích của tất cả các Tôn Giáo đều như nhau: Làm lành lánh dữ, lòng thành thờ kính Đấng Tạo Hóa.
2 . Họ làm lệch lạc hoàn toàn ý nghĩa của các giáo lý thánh thiện và quý giá đó.
3 . Sự chạy theo vinh hoa phú quý, tính tham vọng của con người là những nguyên nhân chính của các bất đồng tư tưởng hiện nay.
Người Việt Nam hôm nay đã từ bỏ hoàn toàn những mỹ tục và truyền thống cổ xưa.
Đau lòng trước tình huống này, một nhóm người Việt Nam nhiệt tâm với truyền thống và đạo hạnh đã nghiên cứu canh tân tất cả các Tôn Giáo này mà hợp nhứt lại với tên gọi là đạo Cao Đài hay Đại Đạo.
Danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nghĩa là đại ân xá kỳ ba đã do Đức Chí Tôn ban bố. Ngài đã giáng trần với danh hiệu Ngọc Hoàng Thượng Đế tức Đức Cao Đài hay là “Đấng Tối Cao, Thượng Đế toàn năng”.
Qua trung gian đồng tử, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cho những người ký tên dưới đây Thánh Giáo có mục đích tập trung giảng dạy những lời giáo huấn tốt lành của Tam Giáo cổ xưa.
Nền tân giáo lý sẽ dạy nhân sanh:
1 . Luân lý cao siêu của Đức Khổng Phu Tử,
2 . Những đức hạnh được dạy trong Phật Giáo và Lão Giáo. Những đức hạnh này bao gồm việc làm lành lánh dữ, yêu thương nhân loại, sống hòa hợp, tránh mọi sự chia rẻ và chiến tranh.
Những người ký tên dưới đây hân hạnh gửi đến ông:
1. Một vài đoạn trích lục trong những "Thánh Ngôn" của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, những lời dạy quí báo hơn tất cả mọi cái hiện hữu trên đời này.
2 . Một vài đoạn trong quyển Kinh cầu nguyện mà Đức Thượng Đế đã dạy chúng tôi.
Mục đích của những người ký tên dưới đây theo đuổi là nhằm đưa nhân sanh trở lại thời cổ xưa hòa bình và hòa hợp. Được vậy, con người sẽ hướng về một kỷ nguyên mới hạnh phúc khôn tả.
Nhân danh rất nhiều người Việt Nam đã đồng ý hoàn toàn những điều nghiên cứu này và đính kèm danh sách dưới đây, những người ký tên hân hạnh tuyên cáo cho ông biết là chúng tôi sẽ truyền bá cho toàn thể loài người nền giáo lý thánh thiện này.
Tin rằng nền tân Tôn Giáo này sẽ đem đến cho tất cả chúng ta sự hòa bình và hòa hợp, những người ký tên thỉnh cầu ông chính thức tiếp nhận tuyên ngôn của chúng tôi.
Kính Thống Đốc, những người ký tên dưới đây xin ông nhận những tình cảm trân trọng và thành kính của chúng tôi.

Ký Tên:
1 . Bà Lâm Ngọc Thanh, Nghiệp Chủ, Vũng Liêm.
2 . Ông Lê Văn Trung, cựu Thượng Nghị Viên, Ngũ đẳng Bắc Đẩu bội tinh, Chợ Lớn.
3 . Ông Lê Văn Lịch, thầy tu làng Long An, Chợ Lớn.
4 . Ông Trần Đạo Quang, thầy tu làng Hạnh Thông Tây, Gia Định.
5 . Ông Nguyễn Ngọc Tương, Tri Phủ, Chủ Quận Cần Giuộc.
6 . Ông Nguyễn Ngọc Thơ, Nghiệp Chủ, Sài Gòn.
7 . Ông Lê Bá Trang, Đốc Phủ Sứ, Chợ Lớn.
8 . Ông Vương Quang Kỳ, Tri Phủ, Sở thuế thân, Sài Gòn.
9 . Ông Nguyễn Văn Kinh, thầy tu Bình Lý thôn, Gia Định.
10 . Ông Ngô Tường Vân, Thông Phán Sở Tạo Tác, Sài Gòn.
11 . Ông Nguyễn Văn Đạt, Nghiệp Chủ, Sài Gòn.
12 . Ông Ngô Văn Kim, Điền Chủ, Đại Hương Cả, Cần Giuộc.
13 . Ông Đoàn Văn Bản, Đốc học trường Cầu Kho, Sài Gòn.
14 . Ông Lê Văn Giảng, Thơ Ký Kế Toán hãng Ippolito, Sài Gòn.
15 . Ông Huỳnh Văn Giỏi, Thông Phán sở Tân Đáo, Sài Gòn.
16 . Ông Nguyễn Văn Tường, Thông Ngôn sở Tuần Cảnh, Sài Gòn.
17 . Ông Cao Quỳnh Cư, Thơ Ký sở Hỏa Xa, Sài Gòn.
18 . Ông Phạm Công Tắc, Thơ Ký sở Thương Chánh, Sài Gòn.
19 . Ông Cao Hoài Sang, Thơ Ký sở Thương Chánh, Sài Gòn.
20 . Ông Nguyễn Trung Hậu, Đốc học trường Tư Thục Đakao, Sài Gòn.
21 . Ông Trương Hữu Đức, Thơ Ký sở Hỏa Xa, Sài Gòn.
22 . Ông Huỳnh Trung Tuất, Nghiệp Chủ, Chợ Đủi, Sài Gòn.
23 . Ông Nguyễn Văn Chức, Cai Tổng, Chợ Lớn.
24 . Ông Lại Văn Hành, Hương Cả, Chợ Lớn.
25 . Ông Nguyễn Văn Trò, Giáo Viên, Sài Gòn.
26 . Ông Nguyễn Văn Hương, Giáo Viên, Đakao.
27 . Ông Võ Văn Kinh, Giáo Tập, Cần Giuộc.
28 . Ông Phạm Văn Tỷ, Giáo Tập, Cần Giuộc."

Nội dung Tờ Khai Đạo như thông báo chính thức cho chính quyền Pháp biết rằng mấy ông sẽ tuân theo lịnh của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mà mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chớ không phải là một tờ xin phép được khai đạo. Thế nên, mấy ông không cần chờ phúc văn của Pháp mà bắt đầu công cuộc truyền giáo phổ độ luôn, vả lại cũng không có bản văn kiện nào trả lời hoặc cho phép về Tờ Khai Tịch Đạo nầy cả. Chính Thống Đốc Nam Kỳ, Le Fol một viên chức dày dặn kinh nghiệm cũng không thể ký giấy phép cho Đạo Cao Đài hoạt động, vì đó chỉ là một Tờ Khai Tịch Đạo quá khôn khéo của Ngài Hộ Pháp và ông Đầu Sư Thượng Trung Nhựt cùng với các môn đồ của Chí Tôn viết nên, chớ chẳng có ai xin phép cả. Đây là bằng chứng hùng hồn để trả lời cho những ai hô hào bảo rằng Pháp là người đã ký giấy cho phép Đạo Cao Đài hoạt động.

Ngay sau khi Tờ Khai Đạo được ông Thống Đốc Nam Kỳ tiếp nhận, ông Trung giao cho ông Cư biên soạn bản "Phổ Cáo Chúng Sanh" để ban hành trong giới chức sắc, tín đồ, và nhơn sanh khắp nơi, thông báo cho biết rằng Đạo Cao Đài đã được công khai trên mặt pháp lý để các tín đồ yên tâm thờ phượng và hành đạo, đồng thời gián tiếp thông báo cho các chính quyền địa phương biết Đạo Cao Đài đã đượcThống Đốc Nam Kỳ hoan nghinh. Nguyên văn nội dung bản "Phổ Cáo Chúng Sanh" đó như vầy:
" Thuở hỗn độn sơ khai, nhứt khí Hư Vô sanh duy có một Đấng Tạo Hóa, người phương Đông gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, người Âu Tây gọi là DIEU, Đức Chúa Trời, người An Nam gọi là Ông Trời, là Đấng dựng nên Trời Đất và muôn vật."
Có Thánh Ngôn, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ ngày 13 tháng 6 năm Bính Dần, rằng:
"…Bậc chơn tu, tỷ như hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, trổ bông rồi sanh trái, mà biến biến sanh sanh càng thêm tăng số, vì vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa Chơn thần, Chơn thần lại biến hóa hằng muôn, thêm tăng lên hoài. Ấy là Đạo.
Bởi vậy, một Chơn thần mà sanh hóa chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới, nên chi, các con là Thầy, Thầy là các con.
Như kẻ bên Phật giáo hay tặng Nhiên Đăng là Chưởng giáo, Nhiên Đăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Đế.
Người gọi Quan Âm là Nữ Phật tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân, Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần, đời nhà Thương.
Người gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ, Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.
Người gọi Lão Tử là Tiên Tổ giáo thì Lão Tử cũng sanh đời nhà Châu.
Người gọi Jésus là Thánh đạo Chưởng giáo, thì Jésus cũng sanh nhằm đời nhà Châu.
Thầy hỏi vậy chớ ai sanh ra các Đấng ấy? Ấy là Đạo, các con nên biết.
Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn khôn Thế giới nầy, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy."

Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mỗi khi giáng cơ đều xưng là Đạo hữu với các chư môn đệ Nam phái Nữ phái của Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn chính mình Ngài lại xưng là Thầy của chúng ta và hằng dạy rằng: Sự khiêm từ nhịn nhục hạ mình là hạnh yêu dấu của Ngài.

Khi chư Thiện nam Tín nữ vừa nghe trong môn đệ gọi Ngọc Hoàng Thượng Đế là Thầy thì ái ngại điều phạm thượng, song đã có Thánh Ngôn chính mình Ngài dạy vậy, xin hãy an lòng.
Có hai Đạo hữu: Tương, Kinh, vẫn trước khi nhập môn thì đã thọ nghĩa thầy trò cùng vị Lão thành pháp danh là Đạo Quang nơi chùa Minh Dường (Hạnh Thông Tây).
Nhằm ngày 21 tháng 8 năm Bính Dần, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ tại chùa ấy dạy việc, luôn dịp Ngài có để lời rằng:
" Tương, Kinh, hai con phải lạy Đạo Quang trước mặt Thầy, rồi từ đây gọi là Anh mà thôi, còn Thầy duy có một Thầy."
Thánh Ngôn ngày mồng 5 tháng 9 năm Bính Dần có dạy rằng:
"Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, giáo đạo Nam phương.
Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên và Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm vị tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là thể nào. Vì vậy mà nhiều kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ.
Hạnh khiêm nhượng là hạnh của mỗi đứa con phải noi gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng…"
Thánh Ngôn dạy tại Vĩnh Nguyên Tự, chùa Minh Đường, Cần Giuộc:
"Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã,
Thích Ca Mâu Ni thị Ngã,
Thái Thượng Ngươn Thỉ thị Ngã,
Gia Tô Giáo Chủ thị Ngã,
Kim viết Cao Đài Bồ Tát Ma Ha Tát."

Thánh Ngôn ngày 25 tháng 2 lang sa năm 1926:
" Trọng Ni (Khổng Phu Tử) là Văn Xương Tiên hạ trần đặng thừa mạng Thầy
làm Chưởng giáo Nhơn Đạo, lo xong phận sự thì Thầy đến độ hồi cựu vị." Trong mấy lần giáng thế hóa thân truyền Đạo, Ngọc Hoàng Thượng Đế đều có để lời tiên tri rằng:
" Ngày kia sẽ có một nước nhỏ nhen trong vạn quốc mà đặng làm chủ nền Chơn đạo Ta. "

Trong Sám truyền và Phật Tông Nguyên Lý đều có ghi lời tiên tri ấy.
Chúng ta nên nghĩ, tiếc cho Phật đạo và Tiên đạo đã khai từ thuở mới tạo Thiên lập Địa, nay càng ngày càng xem tựa hồ như nền Chơn đạo đã biến dời, lần lần xa nguồn Chánh giáo. Ngoái lại coi Thánh Đạo gọi Gia Tô mới lập trong hai ngàn năm nay mà Thánh quyền cao thượng là dường nào.

Song, mọi việc chi cũng hữu chung hữu thỉ, có tạo Thế tức là có Tận Thế. Cái tận tức là cuối cùng, mà hễ cuối cùng chẳng dứt thì phải qui nguyên lại trước nên gọi là Tuần hườn.
Ngày nay là buổi tuần hườn Đại Đạo, Thiên Địa hoằng khai, Ngọc Hoàng Thượng Đế tuy chẳng giáng sanh như mấy kỳ trước, song giáng thế bằng huyền diệu Tiên bút, khai Đạo tại Nam phương, hầu chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn.
Có Thánh Ngôn ngày 13 tháng 3 Bính Dần rằng:
" Vốn từ trước, Thầy lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là:
Nhơn đạo
Thần đạo
Thánh đạo
Tiên đạo
Phật đạo

Tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà làm ra Phàm giáo. Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhơn loại phải bị sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.
Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Thánh giáo cho tay phàm nữa."
"…Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại…"

Tuy vân, mỗi lần giáng thế truyền Đạo thì đổi Thánh danh khác nhau, chớ kỳ trung cũng một Chơn linh Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Còn nay giáng thế bằng huyền diệu đặng chuyển Phật giáo, chuyển Phật pháp, chuyển Phật tăng, lại lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Troisième Amnistie générale) (Đại Ân Xá lần thứ ba) thì Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, giáo đạo Nam phương.
Thánh Ngôn ngày 7 tháng 7 năm Bính Dần:
" Vốn từ ngày Đại Đạo bế lại, chánh quyền đều vào một tay Chúa Quỉ. Khi Ngọc Hư Cung và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ, Chúa Quỉ biết cơ mầu nhiệm ấy và hiểu rõ rằng Tà quyền đã dứt, nên trước khi Thầy chưa đến thì nó đã hiểu rõ rằng: Bề nào Thầy cũng phải chiếu y Thánh ý Tam giáo qui nhứt mà dùng danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, nên đã dùng danh Cao Đài trước Thầy mà lập Tả đạo Bàng môn.
Thầy hỏi các con: Vậy chớ Tà quái nhận tên ấy là chủ ý gì?
…Lại làm cho ra rẻ rúng danh ấy để cho các con nghi ngờ mà lánh xa Chánh giáo, như đàn Cái Khế vậy, nhưng có một điều là nó không dám ngự nơi ngai Thầy, tiện dùng làm một vị Tiên Ông mà thôi.
Vậy các con khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia, đừng vội tin mà lầm mưu Tà mị."

Nội trong Thánh danh: Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, chúng ta đủ hiểu rõ Thánh ý gồm Tam giáo (Nho Thích Đạo) và Ngũ Chi Đại Đạo cũng qui nguyên phục nhứt.
Cao Đài: Nho gọi là Đấng Chí Tôn.
Tiên Ông: là về Tiên đạo.
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát: là về Thích giáo.

Có bài thơ giáng cơ tại Biên Hòa rằng:
" Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền đạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh, Tiên, Phật đạo vốn như nhà."

Ngài đã dạy rõ rằng: Tam Kỳ Phổ Độ tuy khai năm Dần (Nhơn sanh ư Dần) chớ kỳ trung Thiên cơ tiền định đã lâu rồi:
Thánh Ngôn rằng:
‘Vốn từ trước, trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có:
Nhứt Phật,
Tam Tiên,
Tam thập lục Thánh,
Thất thập nhị Hiền,
Tam thiên đồ đệ.

Chưởng quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.
Nơi Bạch Ngọc Kinh, hơn sáu chục năm trước, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ của Thầy, nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời, Thầy coi lại bọn ấy lại làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy vì cớ chi, các con biết chăng?

Bị hàng phẩm Nhơn tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước. Đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con phải chịu số phận bần hàn, mà bởi không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy. Thầy nói thiệt cho các con biết: Dầu một vị Đại La Thiên Đế xuống phàm nầy mà không tu cũng khó trở lại địa vị đặng.

Ngài hằng dạy rằng: Đạo phổ thông trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh.
Vậy thì trong kỳ Phổ độ nầy là lần thứ ba, lại là lần chót, xin chư Hòa Thượng, chư Lão thành, chư sơn cùng chư Chức sắc cả Tam giáo, và chư Thiện nam Tín nữ ráng hiệp sức, cộng trí vùa giúp chung lo chấn hưng Chơn Đạo cho hoàn toàn, hầu cứu vớt chúng sanh thoát khỏi trầm luân khổ hải.

Có Thánh Ngôn giáng cơ ngày 27 tháng 6 năm Bính Dần rằng:
" Thầy hằng nói cùng các con rằng: Thầy đến độ rỗi các con là đến lập tại thế nầy một Trường thi Công quả. Các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi trường nầy mà đoạt thủ địa vị mình, chớ chẳng đi nơi nào khác mà đặng đắc đạo bao giờ. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc đạo, phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh còn phải bị trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.
Nay tuy các con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm mà chính mình Thầy đã đến nói, các con cũng nên tin nơi Thầy mà cho rằng lời dạy của Thầy là chơn thật.
Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác, mới thấy cơ mầu nhiệm đặng, thì chừng ấy đã muộn rồi."

Chúng ta lưu ý rằng: Ngũ Chi: Minh Đường, Minh Sư, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân cũng đều do nơi Phật pháp mà ra, chớ nên lầm tưởng vì chia phái mà riêng Đạo. Hễ cùng nhau một Đạo tức là con một CHA, phải thương yêu nhau, vùa giúp nhau như tình đồng cốt nhục vậy.
Từ buổi bế Đạo, tu nhiều thành ít, gẫm lại coi, từ trước nơi cõi Á Đông nầy đã đặng bao nhiêu Tiên, Phật. Chúng ta duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi.
Thánh Ngôn của Ngọc Đế giáng cơ tại chùa Minh Đường Vĩnh Nguyên Tự ngày 14 tháng 7 năm Bính Dần rằng:
" Đời Mạt kiếp nầy dữ nhiều lành ít, nếu Thầy không chuyển pháp lại thì chưa một ai tu đặng trọn Đạo."
Ngài có giáng cơ tại Chùa Minh Đường ở Hạnh Thông Tây ngày mồng 2 tháng 9 năm Bính Dần, cho bài Tứ Tuyệt nầy:
" Huợt địa bất tri Thánh chí tân,
Minh Thiên nhựt khí tản phong trần.
Huyền vi thế sự vô nhơn thức,
Hiệp khí bất năng hiệp diệu thần. "
Theo tứ bài thi trên đây thì xét đương kim ít ai quen thuộc đường đi nước bước mà gấm ghé chơn vào nguồn Tiên ngọn Phật. Duy thành đạo cùng chẳng thành đều do nơi Thiên ý, công bình chánh trực, đại từ đại bi của Ngọc Đế ban ơn cho chúng ta, tùy theo công quả âm chất và công phu của chúng ta khổ hạnh hành đạo.

Thánh Ngôn hằng dạy rằng: Người đời muốn đặng giàu có thì phải làm ra của, ấy là về phần phàm, xác thịt; còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn đắc đạo phải có công quả.
Nếu lầm tưởng rằng bấy nhiêu Đạo lý trong Cổ pháp Cựu luật thế tình mà đủ chiếm máy Thiên cơ huyền vi mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa và đặng phản nguyên ư nhứt Khí Hư Vô, hay là tưởng rằng người thông thuộc kinh sám, hằng bữa tụng cầu, lâu ngày chầy tháng mà thành Tiên hóa Phật, thì từ cổ cập kim, quê hương chúng ta, Tiên, Phật An Nam biết kể sao cho xiết.

Vậy thì đâu đến đỗi Thượng Đế phải giáng trần mà chuyển Pháp, và e khi cũng khỏi lập Tam Kỳ Phổ Độ mà cứu vớt nhơn sanh.

Có Thánh Ngôn Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài giáng cơ tại Hội Trường Sanh Tự (Cần Giuộc) ngày 19 tháng 4 năm Bính Dần, dạy chư chúng sanh rằng:
" Từ trước, Ta giáng sanh lập Phật giáo gần sáu ngàn năm thì Phật đạo Chánh truyền gần thay đổi. Ta hằng nghe chúng sanh nói: Phật giả vô ngôn. Nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo hóa chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn. Dường nầy, từ đây chư chúng sanh chẳng tu, bị đọa A Tỳ thì hết lời nói rằng: Phật tông vô giáo, mà chối tội nữa.
Ta nói thiệt cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi."
Thánh Ngôn của Thích Ca Như Lai kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát, giáng tại Hội Phước Tự ngày 26 tháng 4 năm Bính Dần, rằng:
" Chư sơn nghe dạy:
Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành. Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật, buộc mối Đạo Thiền.
Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã ra, cho nên cam để vậy, làm cho Phật tông thất chánh có trên 3 ngàn năm nay.
Vì Tam Kỳ Phổ Độ Thiên Địa hoằng khai, nơi Tây phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh.
Trong Phật Tông Nguyên Lý đã có cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu. Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo.
Ôi! Thương thay, công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà Ta rất đau lòng.
Ta đến chẳng phải cứu một mình chư tăng mà thôi, vì trong thế, hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, Ta đương lo cứu vớt.
Chư tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp đặng gặp kỳ Phổ độ nầy là lần chót, phải ráng sức tu hành, đừng mơ tưởng hoài trông giả luật…
Ta đến với huyền diệu nầy thì từ nay Ta cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền.
Chư tăng từ đây chẳng đặng còn nói: Phật giả vô ngôn, nữa."

Trần thế bị những sự vinh hoa phú quí hằng làm chìm đắm biết bao nhiêu người có tiền căn cựu phẩm, vì ham luyến hồng trần mà lạc bước vào đường tội lỗi.
Vậy thì, nay trống Lôi Âm đã giục, chung Bạch Ngọc đã rung, xin chư Thiện Nam Tín Nữ hồi tâm tỉnh ngộ, lo tu tâm dưỡng tánh mà chen bước vào đường đạo đức cho kịp thời Tam Kỳ Phổ Độ nầy. Gẫm xét cho cùng tột rồi, chẳng vinh diệu nào cho bằng chịu khổ hạnh nâu sồng, lập âm chất công quả hầu siêu rỗi cho tiền bối nơi Chín Suối, chưởng đức lưu truyền lại cháu con, ráng công phổ độ, cứu vớt nhơn sanh khỏi nơi trầm luân khổ hải, và chính mình đặng cải tà qui chánh, thoát kiếp luân hồi, ấy là sở hành cao thượng vô cùng.
Có bài thi giáng cơ rằng:
" Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Đạo vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hiển,
Đôi năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có Thần nuôi nấng Thần càng mạnh,
Luyện Khí thông thương Khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương."

Trong nước có nhiều Đạo mà chẳng một Đạo chi đáng chơn chánh đặng làm gương soi cho quốc dân, cho nên nước phải thấp, dân phải hèn, thấp hèn cũng vì dân một nước như con một nhà mà xem tựa hồ như phân chia ra nhiều phe nhiều phái, kẻ đạo nầy người đạo khác, rồi kích bác lẫn nhau.
Trời không hai mặt, Đất chẳng hai vua. Đất có hai vua là đất giặc. Trời già hai mặt, thế ra tro.
Phải trông mong ngày sanh linh đạo đức, an cư lạc nghiệp, cộng hưởng thái bình, trong nhà không đóng cửa, ngoài đường chẳng lượm của rơi.
Nay Cao Đài Thượng Đế hạ trần, dùng huyền diệu Tiên bút, lập nền Chơn Đạo tại Nam phương, nhập Tam Giáo lại làm một, chủ ý qui tụ chúng sanh lại một nhà, Ngài làm CHA chưởng quản, sẽ hội Tam Giáo nơi Thánh Thất là nhà chung (tại Tây Ninh ngày rằm tháng 10 tới đây) xem xét kiểm dượt kinh điển mà tạo thành Tân Luật, sự thờ phượng chế sửa theo Tam Kỳ Phổ Độ cũng nơi ấy mà xuất hiện; nhìn Quốc âm, tiếng An Nam làm Chánh tự mà lập Đạo.
Từ đây, nước Nam duy có một Đạo chơn thật là Đạo của Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài lập ra gọi là QUỐC ĐẠO.

                       Có bài thi giáng cơ rằng:
"Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi ân tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt nhược hư vạn đại an.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế sắc cao ban."

THÁNH TƯỢNG CON MẮT

Có Thánh Ngôn dạy rằng:
" Chưa phải hồi các con rõ tại sao phải vẽ Thánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy cắt nghĩa cho hiểu chút đỉnh:
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả Ngã dã.
Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy Thầy cho Thần hiệp Tinh, Khí đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh."

SỰ THỜ PHƯỢNG CHẾ SỬA THEO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
NƠI THÁNH THẤT TÂY NINH

Thánh Ngôn ngày 12 tháng 8 năm Bính Dần dạy rằng:
" Các con lo một trái Càn khôn, hình tròn quay như trái đất, sơn màu xanh da trời, bề kính tâm 3 thước 3 tấc, lớn quá, mà phải vậy mới đặng vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy.
Cung Bắc đẩu và Tinh tú phải vẽ lên trái Càn khôn ấy. Thầy kể Tam thập lục Thiên và Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Địa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh tú, tính lại là ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao, con phải biểu vẽ lên đó cho đủ. Con dở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước.
Tại ngôi Bắc đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc đẩu cho rõ ràng, trên vì sao Bắc đẩu, vẽ Con Mắt Thầy.

Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới đó, nhưng mà làm chẳng kịp thì con tùy tiện làm thế nào cho kịp Đại hội.
Khi đem trái Càn khôn ấy về, con làm một cái cốt xây, để trái ấy lên Đại Điện, nhớ day Con Mắt ra ngoài, rồi con lại lên tượng Phật Thích Ca, Lão Tử, và Khổng Tử mà để dựa dưới; kế ba vị ấy là Quan Thế Âm, Lý Thái Bạch, Quan Thánh Đế; kế nữa ngay dưới Lý Thái Bạch là Jésus de Nazareth; kế dưới Jésus là Khương Thượng Tử Nha; còn chư Phật, Tiên, Thánh, Thần đã lên cốt thì để dài theo dưới."

Ấy là sắp đặt sự thờ phượng tại Thánh Thất Tây Ninh, còn các nơi Tiểu đàn, lập trang thờ tại nhà riêng thì như vầy:
TIỂU ĐÀN: Trên thì Thánh Tượng Con Mắt, hàng dưới thì lập đủ Ba Trấn
chứng đàn trong Tam Kỳ Phổ Độ và qui Tam Giáo nầy:
Phật thì có Quan Âm (bên mặt, ở trong ngó ra)
Tiên, Lý Thái Bạch (ở giữa, dưới tượng Thầy)
Nho, Quan Thánh Đế Quân (bên trái)

            Mồng 2 tháng 7 năm Bính Dần:
            Lý Thái Bạch giáng cơ:
" Thái Thượng vô ngôn hữu Đạo thành,
Bạch vân hữu nhãn kiến nhơn sanh.
Kim quang đắc kiếp tu tâm thiện,
Tinh đẩu nan tri Ngã độ thành.’

            Quan Âm Bồ Tát giáng cơ:
" Quang minh Nam hải trấn Thiền môn,
Âm cảnh năng du độ dẫn hồn.
Bồ đoàn mạc hám liên huê thất,
Tác thế tâm ưu khởi đạo tông.’
Quan Thánh Đế Quân giáng cơ:
Quan thành tái kiếp Hớn triều phong,
Thánh đức mạc vong hám thế trần,
Đế thất nhứt tâm trung khí dõng,
Thanh y xích diện hảo vinh phong."

TỊCH ĐẠO THI

"Thanh Đạo tam khai thất ức niên,
Thọ như địa quyển thạnh hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên."

KHAI ĐẠO NƠI CHÁNH PHỦ

Ngày 7 Octobre 1926, nhằm mồng 1 tháng 9 năm Bính Dần, có môn đệ Thiên phong của Đức Cao Đài là cựu Hội Đồng Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt, vưng lịnh Thánh Ngôn đến Khai Đạo nơi Chánh phủ.
Trong Tờ Khai Đạo ấy có ký tên 247 chư môn đệ, phần nhiều đều là Chức sắc Viên quan và có Nữ phái nhiều người danh dự.

Quan Nguyên soái Nam Kỳ hoan nghinh và khen rằng vì chữ thiện mà khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao thượng.
Chúng tôi xin phô đôi lời thành thật thô sơ, chư Hòa Thượng, chư Lão thành, chư sơn, chư Chức sắc trong Tam Giáo và chư Thiện nam Tín nữ xin lưu ý.
Chầy kíp đây, chúng tôi sẽ có dịp hiệp mặt mà luận Đạo kỹ thêm nữa.

TÂN TẢ BẠCH NGỌC KINH
(Giáng cơ mồng 1 Tết năm Bính Dần)
" Một tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc đẩu,
Thiên trùng nhiếp khảm hiệp Nam tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm pháp vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao."

Bản “Phổ Cáo Chúng Sanh” nầy của mấy ông viết cũng đã được Chí Tôn chỉnh sửa lại trong đàn cơ ngày mùng 7 tháng 9 năm Bính Dần như vầy:
" THẦY
Các con,
Mấy đứa nhỏ bỏ thói kiêu ngạo nghe!
Vĩnh! Đọc Phổ Cáo Chúng Sanh, đợi Thầy sửa nghe. Hễ Thầy hạ cơ thì ngừng
đọc.
Các con nghe,
Thầy chẳng buổi nào mà đành lòng cho các con hạ mình trước mặt ai hết, song ngày nay buộc phải vậy. Các con tức cấp lo phổ độ.
Kể từ ngày mồng 10 tháng nầy, mấy đứa phò loan phải xin phép nghỉ 29 ngày hết nghe. Thầy dặn các con phải phân nhau mà đi cho khắp.
Đạo Quang, ngày thứ bảy, Thầy sẽ phân việc. Thầy trông cho mau lập Tân Luật.
Con Trung, con phải nói với Le Fol cho con giấy chứng Khai Đạo. Mai con lên nó, có Thầy.
Con phải nhớ viết một cái thơ cho em con là Lâm thị, nó đương sầu thảm, giờ nầy nó đương ngồi nơi phòng mà khóc. Con phải khuyên lơn nó, nhắc nó nhớ lời Thầy dặn.
Trang, con nếu biết thương em con, con cũng nên đi Vũng Liêm, con đi mới hữu ích nghe. Thầy nói ít con hiểu nhiều.
Từ đây, hai con lại để ý gìn giữ hai đứa nó kẻo nó ngã lòng mà tổn bớt công quả của chúng nó, tội nghiệp. Thầy giao cho hai con chăm nom cả em út các con, nghe à!
Thầy còn dạy nhiều việc, nhưng hai đứa nhỏ đã mệt. Thầy dặn các con đừng dùng tiếng “đồng” mà kêu mấy đứa nhỏ, nó giận không muốn phò loan là tại vậy.
Thơ, biểu nó viết chữ tựa lơn lớn một chút, còn Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh và Tờ Khai Đạo con cứ làm, Thầy cho phép. Có vậy mới nhẹ bớt công phổ độ. Còn tờ Nhựt trình, thỉnh thoảng sẽ tính.
Thầy ban ơn cho các con.
Đặng nhiều càng tốt. Chữ quốc âm mà thôi.
Thăng."

Về việc Chí Tôn buộc môn đệ của Người gọi Người là Thầy, Đức Ngài có một lần vấn nạn Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn như thế nầy:
" Hể làm cha thì làm cha, còn làm thầy thì làm thầy. Cớ sao Đại Từ Phụ lại xưng Thầy rất ư khó hiểu? "

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đáp:
" Người cũng vốn Cha Thầy luôn một,
Cả Chơn linh hài cốt nơi Người.
Nuôi mình dùng vật xanh tươi,
Tạo hồn lấy phép tột rồi Chí linh.
Nơi Người vốn quang minh cách trí,
Tấn hóa hồn phép quí không ngưng,
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn Người lại dành phần Phật Tiên.
Luật thương yêu quyền là công chánh,
Gần thiện căn xa lánh phàm tâm.
Làm Cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Thiên."
                                                                      * Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

Sau đó mấy ông chia nhau ra thành 3 nhóm để đi phổ độ lục tỉnh. Ngài Hộ Pháp ở trong nhóm thứ nhứt cùng với ông Lê Văn Trung, Trần Đạo Quang, Nguyễn Ngọc Thơ, Lâm Hương Thanh, Lê Văn Giảng,… đi phổ độ trong các tỉnh:
- Vĩnh Long
- Trà Vinh
- Cần Thơ
- Sóc Trăng
- Bạc Liêu
- Long Xuyên
- Châu Đốc
- Hà Tiên
- Rạch Giá

Phò loan là do ông Cư, Tắc thực hiện.
Nhóm thứ hai gồm có ông Lê Văn Lịch, Nguyễn Ngọc Tương, Yết Ma Luật, Lê Văn Hóa,… lo truyền đạo trong các tỉnh Tiền Giang như:
- Chợ Lớn
- Gò Công
- Tân An
- Mỹ Tho
- Bến Tre

Phò loan là ông Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức thực hiện.
Nhóm thứ ba gồm có ông Lê Bá Trang, Vương Quang Kỳ, Yết Ma Nhung, Trần Văn Liêng,… lo phổ độ các tỉnh miền Đông như:
- Tây Ninh
- Thủ Dầu Một
- Gia Định
- Biên Hòa
- Bà Rịa
- Sa Đéc

Phò loan là ông Sang, Diêu thực hiện.
Hỗ trợ cho 3 nhóm trên còn có một bộ phận giảng đạo do ông Nguyễn Văn Tương và ông Nguyễn Văn Kinh là những vị rõ thông đạo lý từ Minh Sư quy nhập  Cao Đài. Kết quả cuộc phổ độ nầy rất khả quan, tính đến ngày Đại Hội khai đạo thì số người nhập có lên đến 20 ngàn người.
Trong số những người nhập môn ở giai đoạn nầy có nhiều nhân sĩ trí thức tiếng tăm như là:
- Ông Bà Tổng Đốc Phạm Văn Tươi
- Ông Bà Tổng Đốc Huỳnh Thái Thông
- Ông Bà Luật Sư Dương Văn Giáo
- Ông Đốc Phủ Nguyễn Văn Ca (Thanh Ngưu của Đức Lão Tử)
- Ông Tri Huyện Nguyễn Dư Hoài
- Ông Cai Tổng Trương Vinh Qui
- Ông Nghị Viên Nguyễn Phan Long
- Ông Nghị Viên Cao Triều Phát
- Bác sĩ Lê Văn Hoạch
- Bác sĩ Nguyễn Thế Vinh
- Giáo Sư Trần Văn Quế
- Nhà thầu khoán Lê Kim Tỵ
- Ông Nguyễn Văn Phùng ở sở Hỏa Xa
- Ông Latapie ở sở Thương Chánh …

Ngoài ra Chí Tôn còn thâu nhận thêm được 4 vị phò loan đó là: ông Lê Thiện Phước, Lê Thế Vĩnh, Nguyễn Văn Mạnh, và Thái Văn Thâu. Về sau Chí Tôn phong cho 4 vị nầy vào hàng phẩm Thời Quân thuộc Chi Thế của Hiệp Thiên Đài.

Qua ngày mùng 1 tháng 10 năm Bính Dần (1926), tất cả chức sắc được lịnh tạm ngưng việc truyền giáo trở về Thánh Thất Từ Lâm, hay còn gọi là Gò Kén, để chuẩn bị khai minh Đại Đạo. Chấp hành lịnh của Chí Tôn, đồng đạo các nơi lũ lượt kéo về Tây Ninh. Đức Chí Tôn giáng dạy:
" Các con! Thầy đã lập thành Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con. Hiểu à!
Thầy qui Tam Giáo, lập Tân Luật trong rằm tháng 10, có đại hội cả Tam Giáo nơi Thánh Thất. Các con hay à!
Sự tế tự sửa theo Tam Kỳ Phổ Độ cũng do nơi ấy mà xuất hiện ra. Rõ à!
Thầy nhập 3 chi lại làm một, là có ý qui tụ các con trong Đạo Thầy lại một nhà. Thầy là Cha chưởng quản. Hiểu à!

Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phận sự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy các con sanh nạnh nhau, tựa hồ phân phe chia phái là đại tội trước mặt Thầy. Nghe à! Các con phải ngưng mọi việc mà chung lo Đại Hội."

Đêm ngày 14 rạng ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần chính thức khai Đạo Cao Đài tại chùa Gò Kén và làm lễ khánh thành Thánh Thất Từ Lâm đầu tiên của nền Đại Đạo.
Đêm hôm ấy, vì quá đông người nên cuộc lễ bớt phần trang nghiêm. Khi cầu cơ Chí Tôn giáng ký tên khai đạo, để ít lời quở trách rồi thăng. Thừa dịp đó tà quái nhập vào ông Lê Thế Vĩnh xưng là Tề Thiên Đại Thánh, và nhập vào bà Vương Thanh Chi, con gái của ông Vương Quang Kỳ, xưng là Quan Âm Bồ Tát. Lúc đầu bổn đạo tưởng thật, sau 2 người nói năng lung tung, lại nắm tay nhảy múa gây náo loạn khiến mọi người đều nghi ngờ là tà quái. Cuộc biến thiên xảy ra trong lễ tấn phong chức sắc Cửu Trùng Đài chớ không phải trong một đàn cơ, cũng bởi vì lòng tham vọng của một số người mà tâm sanh ra cuồng vọng.

Sở dĩ có chuyện tà quái lộng hành hôm đó một phần là do ông Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt làm phép trấn thần không đúng như Chí Tôn đã dạy trước đó mấy ngày, ngày 12 tháng 10 Chí Tôn có giáng dạy sắp đặt cuộc Đại Hội rất chi tiết như vầy: “Lập lễ Thánh Thất:
Phải làm một Nghi án trước điện day mặt vô 7 Ngai, hình vuông đóng bốn mặt, trên như nóc chùa, kết hàng cho đẹp, nơi ấy phải kín, 4 phía ra vô có màn. Thầy giáng cơ tại án ấy, nghe à!
Lễ Thánh Thất chia ra làm: Lễ, Khách, Xuất, Thâu.
Vậy Thầy nói về Lễ trước.
Về Lễ:
Thầy giao Chánh sự cho Trang, Phó sự cho Nhung, Phụ sự có Ý, nghe à. Như Ý không chịu thì Lịch phải thế. Vậy thì Chánh sự là Trang làm đầu. Thầy lại thêm 3 vị nữa cho các con rộng dùng: Mùi, Vân, Đạt.
Thầy lại hỏi thêm 12 đứa nữa, ai tình nguyện?
Lê Văn Sanh, Dương Văn Hoài, Nghĩa, Nguyễn Xuân Quang, Sơn, Lê Thế Vĩnh, Hườn, Trần Văn Bân, Nguyễn Văn Mùi.
Về Khách:
Khách thì Tương là Chánh sự, Luật là Phó sự, Thầy muốn đem Hoài vô đặng không Lịch? Voi là Phụ sự, Lại, Son, Thành là giúp Thầy.
Hỏi 12 đứa tình nguyện:
Giỏi, Bản, Tuất, Tiếp, Trò, Giảng, Học, Kỳ, Tường, Hơn, Kính, Đơn.
Về Thâu: Thì Thơ, Như Nhãn, Đạo Quang.
Thầy hỏi 2 đứa ký lục: Châu, Tuấn.
Việc Xuất: Xuất thì Lịch, Xài, Hóa.
Thầy hỏi 2 đứa ký lục: Kiều, Vĩnh.

Nghe hành lễ, con Trang:
Chưởng Pháp, Đầu Sư: Thầy định 3 ngôi Chưởng Pháp, 3 ngôi Đầu Sư đều có vị.
Phối Sư: Còn Phối Sư thì là Trang, Tương, Thơ là Chánh, còn 33 vị nữa thì tùy theo ngày phong sau trước đứng nối theo đó.
Giáo Sư: Rồi tới 72 Giáo Sư, cũng tùy theo ngày thọ sắc mà phân sau trước.
Giáo Hữu: Kế nữa là 3000 Giáo Hữu, cũng tùy Thiên Phong mà đứng theo hàng ngũ phái Thượng, phái Thái, phái Ngọc vậy.
Phò loan: Tiếp nối theo sau, ngay chính giữa, nơi bàn Hộ Pháp thì: Đức, Hậu, Tràng, Nghĩa.
Bên mặt thì: Mạnh, Phước, Mai, Nguyên.
Bên trái thì: Đãi, Kim, Tươi, Chương.
Hộ Pháp: Con lại để dựa bên bàn Hộ Pháp 2 cái ghế, rồi làm 2 cây phướn đề: Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
Thượng Phẩm: Bên mặt Hộ Pháp là Thượng Phẩm.
Thượng Sanh: Bên trái Hộ Pháp là Thượng Sanh.
Đưa cây Phướn Thượng Phẩm cho Mùi, cây Phướn Thượng Sanh cho Vĩnh cầm, đứng hầu 2 bên.
Trấn cờ Ngũ phương: Tại Đông phương, Tây phương, Nam phương, Bắc phương lựa 12 đứa đồng nhi cầm cờ, còn ở giữa thì giao cho Hậu, Nghĩa, Đức.
Lịch hiểu à! Khi hành Đại lễ cho Thầy rồi thì Lễ Sanh xướng: “Thiên phong quán tẩy”, cả thảy đều ra rửa mặt mày cho tinh sạch. Chừng xướng: “Chỉnh túc y quan”, thì cả thảy phải thay Thiên phục.
Lễ sanh xướng: “Lập vị” thì đứng theo hàng ngũ cũ như trước.
Hành lễ y như tại chùa Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch.
Còn Nữ phái thì đều mặc đồ trắng trước khi hành lễ.
Thiên phong Nữ phái: Thì Cư, Tắc phải vào nghi án phò loan cho Thầy phong Nữ phái trước và lập Tịch Đạo luôn nữa nghe.
Trấn Thần: Chừng mặc Thiên phục rồi thì Cư, con chấp bút nhang cho Thầy trấn Thần mỗi người và nơi mình của chư Thiên phong rồi mới hành lễ.
Nhớ biểu Nam phái đứng chẳng hết ở giữa thì qua bên tả của Thầy, song phải phân hàng ngũ đẳng cấp chúng nó cho tử tế, chớ không đặng lộn xộn.
Hành lễ: Còn bao nhiêu môn đệ thì đứng tiếp theo sau. Thầy dặn: Hành lễ rồi thì phải biểu Lễ sanh xướng: "Thiên phong phò loan" đặng Thầy lập Phật Truyền Chánh Pháp.
Cư, Tắc phải để Thiên phục vậy mà phò cơ nghe.
Thầy sẽ giao Nhạc cho Mỹ Ngọc và Lễ cho Nhơn."

Lúc chuẩn bị cho Đại Hội ông Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt chỉ trấn Thần ở giữa đàn nội mà thôi, chớ không trấn các góc của Thánh Thất theo lời dạy của Chí Tôn.
Thêm nữa, trong buổi lễ hôm đó đến lúc Đức Thượng Phẩm đang chấp bút bằng nhang để Chí Tôn trấn Thần cho các vị chức sắc thì Ngài Hộ Pháp lúc ấy đang ngự trên ngai ngó vào chánh điện, từ xa thấy cứ tưởng đâu là Thượng Phẩm ngoắc ngoắc kêu mình lại nói gì đó nên Ngài bước xuống ngai đi lại Thượng Phẩm. Vừa đi được 3 bước thì tình trạng tà quái xung nhập xảy ra lộn xộn như kể trên. Từ đó mới thấy được tầm quan trọng của việc làm phép trấn và sự hiện diện của Hộ Pháp ngự trên ngai khi thiết đàn.

Thấy việc như vậy, ông Monet, là một thành viên trong hội Thần Linh học khuyên giải trong bổn đạo như vầy:
" Công việc các ông làm đây là rất phải. Các ông chẳng nên vì một cuộc biến thường tình như vậy mà ngã lòng thối chí. Tôi cho là thường tình, vì bên Pháp trong mấy đàn thỉnh tiên cũng thường xảy ra những điều rối rắm như vậy. Tôi có một lời khuyên các ông là từ đây trở đi, hễ có cầu cơ thì chớ họp nhau đông đảo, vì cần phải thanh tịnh. Mà hễ đông người thì một là mất bề thanh tịnh, hai là tư tưởng bất đồng không tương ứng nhau được thì không linh nghiệm."

Khi tất cả đã ra về, mấy ông mới thiết đàn cầu hỏi về việc tà quái lộng hành như vừa qua thì có Chí Tôn giáng cơ quở trách, Đại úy Monet thấy cơ chuyển liền làm phép cắt điển theo phương pháp Thần Linh học để coi phải đúng điển của Tiên Phật hay không, mà không cắt được. Chí Tôn nói như vầy:
" Cả chư môn đệ ngu, ngu, ngu.
Thầy lập phép để làm chi? Thầy dạy sắp đặt lễ… làm không trúng.
Cả chư môn đệ nam nữ hầu Thầy đặng phân hàng ngũ cho nghiêm trang.
Thái Đầu Sư? Tương đâu?"

Tiếp theo:
" Các con nghe,
Tuy vân Thầy dùng phép thử Thánh mặc dầu, chẳng lẽ một vị Thiên Tước mà rẻ rúng đặng vậy, nhưng các con lại chẳng hiểu rõ tà quái quyền hành là bực nào mà giữ mình hằng buổi.
Thầy lấy làm tức cười mà lại đau thảm cho những kẻ vô phúc bị ngã vì bận thử thất nên vậy."
Tái cầu:
" Khi Trang, Tương, Minh đến nghe à! Nếu các con còn vậy nữa Thầy sẽ phạt một cách nặng nề. Kỳ đem một chén nước lạnh vào đây."

Tái cầu:
" Các con, cười…
Thầy chẳng biết đến chừng nào Thầy dạy cho các con hiểu Thánh ý Thầy đặng… cười…
Thầy dặn… Lịch nghe dạy.
Phải trấn đàn tứ phía góc Thánh Thất chớ chẳng phải nội ở giữa mà thôi, rồi làm Đại Lễ như buổi ở tại chùa Vĩnh Nghiêm.
Nhớ đừng phát cờ lộn nữa nghe à.
Bởi tại con nên ra đến đổi, hiểu à.
Thầy dặn con một điều nầy nữa, từ đây khá làm theo lời Thầy dạy, đừng biến cải nghe à.
Thiên phong lập vị.
Chưởng Pháp tọa vị, Đầu Sư tọa vị… khá hành lễ.
Chư môn đệ nhập nội cho có nghiêm trang. Mỹ Ngọc, con phải biểu nhạc đờn đủ 7 bài.
Thầy buộc tái cầu đặng Thiên Phong nghe.
Thầy ngự.”

Qua mấy ngày hôm sau Chí Tôn giáng cơ có dạy về việc tà quái vừa qua. Chí Tôn nói:
“Các con, Thầy nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra một trường tà quái mà Thầy bắt đau lòng đó các con. Các con thiết nghĩ ra lẽ nào?”
Mỹ Ngọc, tức là ông Cao Quỳnh Diêu mới bạch:
“Bạch Thầy tại vài ông Thiên Phong làm chuyện lôi thôi nên mới có quỉ yêu xung nhập.”
Thầy nói tiếp:
“Phải, bởi cái lếu của chúng nó mà sanh việc ngày hôm nay.”
Mỹ Ngọc:
“Bạch Thầy trong môn đệ có nhiều người ngã lòng.”
Thầy nói:
“Bất bình lắm hả?”
Mỹ Ngọc:
" Nhưng trong Thiên phong có vài ông mà thôi."
Thầy mới nói tiếp:
" Cũng có nhiều chớ sao con nói ít vậy con? Đó là bước đạo, đó là Thiên cơ, các con hiểu sao được, nhưng Thầy buồn vì nỗi có nhiều đứa sàm biện về việc ấy.
Thầy cũng muốn phạt chúng nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút. Môn đệ của Thầy nhiều đứa muốn bỏ đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước đạo gập ghình khó tới nên mới ra cớ đỗi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quí, mê chữ vinh sang mà ngán đạo.
Các con hiểu Thầy buồn, nhưng ấy là máy Trời đã định chạy sao cho khỏi?
Thầy biết bao lần vì các con mà chịu nhọc nhằn.
Từ khai Thiên lập Địa Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao những điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy lúc vang mày nuôi nấng các con hầu lập nên nền Đạo, cũng tưởng các con lấy đó mà làm đuốc soi mình đặng bỏ tà qui chánh. Mấy lần vun đắp nền Đạo Thầy đều cũng bị bây mà hư giềng đạo cả.
Thầy buồn đó các con.
Thầy ban ơn cho các con, Thầy thăng.”
Tái cầu:
" Các con nghe Thầy:
Sự biến xảy ra đến nay đã thành một trường ngôn luận, có khi cũng náo nhiệt đến nền Đạo. Kẻ gọi tà, người nói chánh. Nơi Thiên thơ đã có dấu ràng ràng. Các con có đi tranh luận cũng nhọc công vô ích. Kẻ hữu phần, người vô phước, tin tin, không không cũng chẳng sửa cơ Trời đặng.
Đường còn dài, bước càng nhọc, thì nền Đạo càng cao, công trình càng rỡ. Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước. Thầy cũng phải đau lòng mà nắm máy huyền vi để cơ Trời xây đổi. Các con liệu lấy."

Cuộc biến ấy thành ra một trường công kích rất nên kịch liệt. Kẻ nghịch đạo nhơn đó mà hô lớn lên rằng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là tà giáo, là quái giáo lăng xăng. Tuy nhiên cũng có một ít người bổn đạo vì đó mà ngã, chớ còn kẻ có chút quan tâm về tôn giáo càng nghe lời công kích chừng nào càng để ý quan sát về Đại Đạo chừng nấy, thành ra trường công kích lại trở thành phương tiện giới thiệu cho nền Đại Đạo mà tự người đứng ra công kích cũng phải nhìn nhận là như vậy.

Trong bối cảnh rối ren như vậy, Đức Chí Tôn vẫn dùng huyền diệu cơ bút mà lập thành Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, thành lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
Tiếp theo sau chuyện rối ren tà quái lộng hành đó, là ông Hòa Thượng Như Nhãn đòi chùa Từ Lâm lại không hiến cho Đạo Cao Đài nữa. Vốn ngôi chùa nầy là trong lúc trụ trì tại chùa Giác Hải ở Chợ Lớn, ông Thích Từ Phong tức là ông Như Nhãn, có quyên tiền trong bổn đạo để lập một cảnh chùa tại Gò Kén, Tây Ninh lấy tên là Từ Lâm Tự. Trong số quyên góp đó thì ông bà Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh đóng góp nhiều hơn cả. Sau khi được Chí Tôn thâu làm môn đệ, ông bà nầy mới thuyết phục ông Như Nhãn vào Đạo. Ông Như Nhãn cũng được Chí Tôn thâu làm môn đệ, và sau đó đắc phong Chưởng Pháp phái Thái. Rồi sau đó ông Như Nhãn tự nguyện hiến chùa Từ Lâm cho Đạo Cao Đài làm Thánh Thất để tổ chức Lễ Khai Đạo.

Lúc đó chùa nầy chưa xây cất xong hoàn toàn, chỉ vỏn vẹn có ngôi chánh điện, chưa có các cơ sở phụ thuộc như Đông Lang, Tây Lang, nhà Tăng, nhà khách. Đường sá vào chùa cũng chưa hoàn tất. Ông Trung mới làm đơn xin phép với chánh quyền Pháp. Ngộ nghĩnh thay, giấy phép được cấp ngày 7-11-1926, cách ngày nộp Tờ Khai Đạo đúng 1 tháng, 7-10-1926. Xong rồi Ông bà Nguyễn Ngọc Thơ, Lâm Hương Thanh gấp rút tiến hành công việc xây chùa cho xong. Ông bà cho sơn phết, phát quang chung quanh, đổ đá làm đường cho rộng rãi từ quốc lộ vào tới sân chùa để xe hơi chạy vô được tới sân chùa, cất thêm các dãy nhà xung quanh để có chỗ làm việc, nơi tiếp khách, phòng trù, nhà nghỉ,… Công việc rất nhiều, phải mướn thêm thợ từ Sài Gòn đem lên mới có thể hoàn tất đúng thời hạn. Các phí tổn cho công việc nầy rất lớn, ông bà Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh đều chịu phần công quả.

Thế vậy mà vì cuộc biến nọ, trường công kích kia mà ông Hòa Thượng nầy lại lộng ngôn trở tráo đòi chùa lại. Hồi chuẩn bị khai đạo, Chí Tôn đã tin tưởng ông ta mà giao cho trọng trách là hội chư hòa thượng để thành lập Tân Luật. Chí Tôn nói là:
" Như Nhãn hiền đồ! Thầy không muốn nói với con bằng tiếng Hớn ngôn, vì tiếng An Nam từ đây Thầy cho là Chánh tự đặng lập Đạo của Thầy, nên buộc phải nói rõ ràng với con.
Thời kỳ giấu giếm Thiên cơ đã qua rồi, Thầy phong cho con là: Quản Pháp Thiền Sư Thích Đạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Đạo Sĩ, con vừa lòng chăng?"
Con đã giúp Thầy gìn giữ Thích đạo nguyên luật từ thử, nay mới còn đặng như vầy, không thì đã ra bàng môn tả đạo rồi.
Con phải biết Thầy ngày nay trông công con mà lập thành Tân Luật Thích giáo. Con phải đại tịnh kể từ tháng 9 cho tới rằm tháng 10, Thầy không muốn cho con lo lắng điều gì khác hơn là xét xem kinh điển lại.
Con biết Ngũ chi: Minh Đường, Minh Sư, Minh Tân, Minh Lý, Minh Thiện cũng đều do nơi Phật pháp mà ra, duy giáo lý của các chi ấy thì có Tiểu Học, Đại Học, Trung Dung, và Tứ Thơ là kinh điển mà thôi. Còn phái Lão duy có Đạo Đức Kinh và Huỳnh Đình Kinh là căn bổn. Con phải xem xét hết lại mà lập Tân Luật.
Thầy nhứt định giao Thánh Thất nầy lại cho Thơ lo lắng thế cho con, song sự thờ phượng phải có thay đổi chút ít, sau Thầy sẽ dạy chư đạo hữu con định liệu.
Rằm tháng 10 nầy, Thầy xin con hội cả chư hòa thượng tại Thánh Thất đây chung lo lập Tân Luật. Ngày ấy Thầy sẽ dạy cho hai vị hòa thượng phò loan, đặng có điều chi bợ ngợ thì cầu Thầy mà thôi.
Thầy phú thác một trách nhậm nặng nề cho con, nhưng mà con đừng ái ngại. Danh giá con, Thánh đạo Thầy trong ấy, con khá hết lòng.
Con phải hiểu rằng, hội chư hòa thượng trọn đôi ba tháng thì là hao tốn, song chẳng hề chi, để Thầy định liệu. Tuy vân, Thầy biết sức một mình con cũng đủ lập Tân Luật, nhưng mà Thầy muốn có hòa thượng đặng cho khỏi trành tròn, lại còn làm tay chơn Thầy để thâu phục Thích đạo.
Thầy cậy con một điều là đòi Minh, vì nó là môn đệ của con, đặng giao chức Thái Đầu Sư cho nó đi phổ độ nhơn sanh. Cái trách nhậm ấy đáng lẽ về phần con, song con tuổi đã cao rồi, khó bề cực nhọc, nghe à!
Thầy để con trọn quyền mà Thầy xin con an lòng, Thầy lo chung cùng con, Thầy trông cậy nơi con lắm đó!"

Một phần vì bị bọn Pháp đe dọa, một phần vì những người lúc trước đã quyên tiền xây chùa cũng buộc ông đòi chùa lại. Tiếc thay, ông ta lại sợ ma quyền hơn là Thánh Giáo. Ông ta kỳ hạn cho Đạo Cao Đài trong vòng 3 tháng phải trả chùa lại.

Sau đó với sự chỉ dẫn của Đức Lý, Hội Thánh tìm mua được miếng đất ở khu rừng cấm trên Bàu Cà Na, xã Long Thành, Tây Ninh. Lúc ấy, ông Cao Thượng Phẩm mới đứng ra huy động số công thợ, công quả tình nguyện chung tâm hiệp trí để cất chòi, đốn cây, bứng gốc khu rừng cấm ngày đêm không nghỉ. Với 2 bàn tay trắng,  không một cơ giới, chỉ một quyết tâm cùng nhiệt tình vỏn vẹn trong vòng 3 tháng người tín hữu Cao Đài đã san bằng và xây lên được ngôi Tòa Thánh tạm bằng gỗ, tranh lá đủ lầu chuông, lầu trống, Bát Quái Đài. Đó là do công lao phần lớn của ông Cao Thượng Phẩm và các công thợ, công quả nhiệt tình ngày đêm dầm sương trải nắng để hoàn thành. Cũng bởi tại vì đã quá kỳ hạn 3 tháng trả chùa mà vẫn chưa có nơi nào để đi, mà ông Hòa Thượng đó lại cứ theo đòi chùa lại miết. Khi đã hoàn thành Tòa Thánh tạm xong, Hội Thánh trả chùa lại cho ông Hòa Thượng, thỉnh Thánh Tượng, dời chư Phật, Tiên về đất mới.

THÀNH LẬP HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO

Sau khi Chí Tôn ra lịnh tổ chức lễ Khai Đạo vào ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần (1926), Đức Hộ Pháp vâng lịnh Chí Tôn xin nghỉ việc 6 tháng để lo việc Khai Đạo tại Thánh Thất Gò Kén. Nay thời hạn 6 tháng đã hết, Ngài mới cầu cơ hỏi Chí Tôn:
"Con nên xin nghỉ luôn để lo cho đạo hay trở lại làm việc nơi sở Thương Chánh của chánh quyền Pháp?"
Chí Tôn mới trả lời:
"Con chưa cần phải xin nghỉ ngay lúc nầy, con cứ trở lại làm việc rồi sẽ có chuyện hay."

Ngài trở lại sở Thương Chánh trình diện, xin tái phục vụ thì chánh quyền Pháp đổi Ngài lên làm việc ở Nam Vang. Ông Trung mới bạch với Chí Tôn xem việc đó có phải là Thánh ý chăng. Chí Tôn cười và bảo:
" Chẳng nét nào không nơi Thầy đặng, nó cũng nên an lòng. Sau sẽ thấy máy huyền vi…"
Đức Hộ Pháp đi Nam Vang, hay còn được gọi là Kim Biên vào đầu tháng 4 năm Đinh Mão (1927).

Sang Cao Miên Ngài ở tại nhà ông Cao Đức Trọng là anh của ông Cao Thượng Sanh. Nhà của ông Trọng trong dãy phố 8 căn gọi là phố Lang Cô. Cách đó là nhà của ông Trần Quang Vinh, Đặng Trung Chữ. Và Ngài cũng thường lui tới nhà ông Huỳnh Hữu Lợi. Phần đa người ngụ trong dãy phố nầy đều là người Việt Nam.

Trong lúc đó anh em thân thuộc ở gần toàn là công tư chức, hằng đêm tựu họp trước sân nhà ông Cao Đức Trọng chuyện trò và nhơn dịp ấy tiếp xúc với Ngài Hộ Pháp là người bạn mới ở Sài Gòn đổi lên. Trong những câu chuyện thường, Ngài hằng đàm luận về thi phú văn chương, nhứt là nhắc nhở các bài thi học hỏi nơi Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng, tường thuật bao nhiêu huyền diệu trong việc xây bàn và cầu cơ lúc ở Sài Gòn, lập đi lập lại những thi văn hướng dẫn về con đường đạo đức. Những câu chuyện rất hấp dẫn, thâu phục được các bạn trí thức, rồi dẫn đến việc xây bàn thử để xem các Đấng ấy dạy thế nào.

Lúc mởi khởi việc xây bàn thì chỉ có Ngài Hộ Pháp với ông Trọng để tay lên bàn tròn 3 chơn, cơ lên nhưng bàn nhịp hơi yếu, thêm một người ngoài để tay vào thì bàn nhịp mạnh, cách đếm ráp chữ cũng giống y như hồi Đức Hộ Pháp hiệp với các bạn ở Sài Gòn vậy.

Trong những bạn bè đến chơi, có người xin hỏi về gia đạo, về tương lai,… thì tức khắc được trả lời cho một bài thi, hoặc tứ cú hoặc bát cú để thỏa mãn lòng hiếu kỳ. Những vị được bài thi đọc đi đọc lại, tự biết chuyện của mình, khen cơ nói trúng phốc nên khen lấy khen để, gọi là linh thiêng, tỏ vẻ kính trọng hơn trước. Tiếng đồn ngày càng lan rộng, nhiều người khác đến mỗi đêm.

Càng ngày mọi người kéo tới càng đông, xây bàn thì chậm chạp, mỗi đêm chỉ được năm ba bài thi, nên Đức Hộ Pháp nảy ra 2 ý kiến hay ho là: tạo ra một tiểu Ngọc Cơ, hình thức như Ngọc Cơ tại Tòa Thánh: cũng có cần cơ, mỏ cơ và một cái giỏ đương bằng mây phất giấy vàng, ngang miệng giỏ có một cây ngang, dẹp, giữa cây có xoi một lổ cho vừa đút xuống cái cốt bàn cơ. Bàn cơ thì hình vuông như bàn cờ tướng, trên mặt có vẽ tất cả các chữ trong bảng chữ cái từ A tới Z theo hình rẻ quạt. Khi đúc Ngọc Cơ vào cốt, hai vị phò loan 2 tay nắm miệng giỏ, mỗi người một bên, khi điển quang vào tay thì Ngọc Cơ chuyển động, quay qua quay lại trên trụ cố xây vòng theo chữ vẽ hình rẻ quạt. Khi đến chữ mà cơ ngừng thì có người hầu kế bên đọc, một người khác viết lại. Cách nầy tuy chậm hơn Ngọc Cơ ở Tòa Thánh nhưng mau hơn cách xây bàn.

Cái nữa là, buộc ai muốn cầu cạnh điều chi thì phải dâng sớ, phải viết một tờ sớ kể lể việc mình cầu khẩn đội trên đầu khi hầu đàn, cơ giáng thì tuần tự kêu tên người. Huyền diệu thay! Mỗi khi có một hai chục người dâng sớ, 2 vị phò loan là Hộ Pháp và ông Trọng làm sao biết hết tên họ, mà trong mỗi bài thi tặng cho mỗi người đều mang tên người ấy ở đầu bài thi. Trong lá sớ của mỗi người dâng lên là họ hỏi việc riêng của họ, mà trong bài cơ tiếp được thì trả lời trúng theo sở cầu của họ, làm cho họ hết sức bái phục.

Có đêm nọ trong đàn cơ có một bà góa phụ tên Trần Kim Phụng, là một người đàn bà sang trọng có tên tuổi, lại là một bậc thi sĩ ở Nam Vang mà ai ai cũng đều kính nể đến hầu đàn mà có tư ý là muốn thử cho biết thiệt hư. Bà cũng vào quì hầu đàn như mọi người, dâng sớ xin thi. Trong đàn thi đông đảo, mỗi người đội một lá sớ, lòng thành khẩn. Lúc mới vào đàn, còn đương lộn xộn, kẻ đứng người quì, bỗng có một bạn quen tên Huỳnh Đình Thới cố ý đến thử sự linh thiêng của đàn cơ, ông lén tráo lá sớ của bà nầy rồi để lá sớ của mình vào mà không ai hay biết. Khi cơ giáng ban một bài thi cho bà Phụng, mà lá sớ bà ta đang đội là của ông Thới lúc nảy, nhưng chữ đầu của bài thơ vẫn là "PHỤNG", trọn ý bài thơ đều nói về việc của bà nầy. Rồi đến lược ông Thới mà lá sớ ông ta đang đội là của bà Phụng, khi cơ giáng cho thi, chữ đầu cũng là tên ông nầy "THỚI", và bài thi đều nói về việc của ông nầy.
Đến hồi bãi đàn đem thi ra đọc lại, ông Thới mới thú thật là ông đã tráo lá sớ của bà  Phụng để thử xem cơ thực hư ra sao cho biết, chừng ấy ông mới bái phục sự linh hiển của quyền năng thiêng liêng.

Lại nữa, ông Vinh có độ dẫn được một người bạn nhập môn theo đạo là ông Võ Văn Sự chủ tiệm thuốc bắc, tánh nết hay khoe khoang tự xưng là thi sĩ, thi phú văn Nho cũng khá, được đời khen tặng. Tuy đã theo đạo nhưng đức tin chưa vững, đôi khi ông lộng ngôn vô ý là đến đàn để làm thi chơi với các đấng. Vì đó mà một đêm nọ có Bát Nương giáng cơ phiền trách như vầy:
" Anh Sự, anh nói anh giỏi lắm hả? Nội cái hiệu của anh đó thì đủ thấy cái dốt của anh rồi. Minh Tâm có câu:
NHÀN trung kiểm điểm Bình Sanh Sự, TỊNH lý tư lương nhựt sở vi.
Phải dùng hiệu NHÀN TỊNH hay là TỊNH NHÀN mới trúng văn? Hiệu gì mà dùng có một câu là Bình Sanh Sự vậy! Em thương mà dặn anh từ đây không nên xúc phạm đến các Đấng nữa nghe!" Bát Nương thương người chưa trọn hiểu Đạo nên tuy quở rầy mà dạy dỗ, bởi lắm khi ông Sự cũng có phạm thượng đến các Đấng.

Trong một đàn cơ mà ông Sự vắng mặt, Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng đàn có cho một bài thi bát cú chữ Nho, toàn là những vị thuốc bắc mà nhị vị phò loan không hiểu nghĩa lý chi hết, được bảo là trao lại cho Sự. Bài thi như vầy:
" Mộc tặc phòng phong tuyết bạch đầu,
Trầu bì thục địa ám minh châu.
Đào căn chỉ thiệt hồng hoa kiến,
Nhãn nhục xuyên tâm quả lựu sầu.
Quân tử mạch môn cam thảo thuận,
Kỳ châu viễn chí khổ qua mâu.
Hổ giao lộc giác y căn thủ,
Trạch tã càng cương thiểu khách hầu."
                                                                      * Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.

Đức Chưởng Đạo còn nhắn là bảo ông Sự xem và tìm hiểu bài thi nầy thì biết trọn đời của ông.
Bữa nọ Ngài Hộ Pháp muốn đi dạo vòng chơi cho khuây khỏa, đang đi trên đường tình cờ có một tốp lính bám theo làm cho Ngài sợ bị chúng nó bắt nên nhắm rạp ciné chun vào mua vé. Chúng thấy Ngài vào mua vé xem phim rồi nên không theo nữa. Chờ một lát tốp lính bỏ đi Ngài ra ngoài cho vé lại ai muốn đi coi mà chưa mua. Đoạn Ngài thả bộ đến chợ mà lại tự nhiên muốn trở về nhà ông Trọng. Ngài về đúng lúc ông Trọng đang phò loan, một tay cầm cơ, một tay viết. Ông Trọng thấy Ngài về mới mừng nói:
"Có Đức Nhàn Âm đến."
Ngài không tin mới nói:
"Làm gì có!"
Ông Trọng nói:
"Đây nầy."
Đức Nhàm Âm mới viết:
" Cởi ngọn gươm linh xuống cõi trần,
Không cần bạch hạc với thanh vân.
Nghe Tây Sơn Đạo nương Tần Quốc,
Mới đến thăm nhau mới một lần."
                                                           * Nhàn-Âm Đạo-Trưởng.

Tây Sơn Đạo chính là bút danh của Đức Hộ Pháp khi còn viết báo làm cách mạng. Đến đây Ngài mới cười và nói:
" Hèn chi tôi đi mà Ngài không cho lại khiến tôi quay về đây. Ngài kéo tôi về đây gặp Ngài đó mà! "
Xa quê nhà hèn lâu, Ngài nhiều phen cũng nhớ và muốn quay trở về làm đạo, có mấy lần Ngài cầu cơ các Đấng thiêng liêng hiểu được nên Đức Nhàn Âm cũng có cho Ngài bài thi nầy:
" Ác xế nâng cao bóng hải đường,
Xa tên nhờ bởi nặng cung thương.
Lòn trôn Hàn Tín nên cơ nghiệp,
Dâng dép Trương Lương mở miếu đường.
Khương Thượng đi câu ra trí chúa,
Văn Vương ngồi ngục mới đồ vương.
Trượng phu phải mặt không nao chí,
Xung đột quyết hơn chốn chiến trường."
                                                                                              * Nhàn-Âm Đạo-Trưởng

Bát Nương cũng có cho Ngài một bài:
" Đường đợi thanh loan đến Hớn đài,
Tửu Tiên chưa phỉ tỉnh cùng say.
Nghe danh ông Tắc, Y lìa ruộng,
Mến đức ông Nghiêu, Thuấn bỏ cày.
Ái vật Thành Thang quên dở ná,
Yêu dân Hạ Võ mặc hài gai.
Trông mưa đã đợi ba xuân mãn,
Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài."
* Bát Nương Diêu Trì Cung.

Trong những đàn cơ mà Ngài cùng ông Trọng tổ chức cũng có rất nhiều Đấng thiêng liêng về nói chuyện dạy nhiều điều mới lạ, như Victor Hugo, La Fontaine, Tôn Trung Sơn, Lêon Tolstoi, Shakespeare, Aristide Briand,…

Như đàn cơ Ngài được vãn cảnh Đế Thiên để mở rộng tầm nhìn sau nầy xây dựng Tòa Thánh. Ngài vừa đặt cơ xuống thì có một vị cổ Vương giáng cho thi:
" Mưa chầy gió lụn cảnh riêng gìn,
Tạc để nền Tiên rạng trước Minh.
Trời hỡi gượng soi gương viễn đại,
Đất còn chặt giữ dấu anh linh.
Rừng tòng hạc lánh muôn năm khuất,
Chùa đá đời lưu một thuở nhìn.
Dâu bể tan tành non nước cũ,
Dóng chuông cảnh tỉnh vẽ nên tranh ".

BAKHANAYOUK

Về sau khi Thượng Phẩm đăng Tiên rồi có về cơ khi Đức Hộ Pháp phò cơ ở đây, Thượng Phẩm cũng có giáng cơ cho Ngài biết nơi nầy họ thấy cầu cơ lạ quá, nên họ xúm nhau cười và cố ý xem cho biết. Vì lòng cảm mến nên mỗi lần có cầu cơ là họ làm lễ đón rước. Nên Đức Thượng Phẩm dặn Ngài là:
" Em phải đốt nhang và xá bốn hướng để chào cảm tạ họ mỗi khi cầu cơ. "
Họ ở đây mà Đức Thượng Phẩm nói không phải là người hữu hình, mà là những vị vô hình.
Đến trung tuần tháng 4 năm Đinh Mão (1927) dưới sự dìu dắt của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là đại văn hào Pháp Victor Hugo và với sự bảo trợ hữu hình của Ngài, Hội Thánh Ngoại Giáo được hình thành.

Trong đàn cơ đêm ngày 29 tháng 6 Đinh Mão (1927) do Đức Hộ Pháp và ông Cao Đức Trọng phò loan, Chí Tôn ân phong các vị sau đây:
Về Cửu Trùng Đài thì có:
- Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh (Lê Văn Bảy)
- Giáo Hữu Ngọc Sự Thanh (Võ Văn Sự)
- Giáo Hữu Thượng Lắm Thanh (Nguyễn Văn Lắm)
- Giáo Hữu Hương Phụng (Bà Batria Trần Kim Phụng)
- Giáo Hữu Hương Huê (Bạn đời của ông Bảy)
- Giáo Hữu Hương Hạt (Thân mẫu của ông Chữ)
- Lễ Sanh Thượng Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ)
- Lễ Sanh Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh)
- Lễ Sanh Thái Của Thanh (Phạm Kim Của)
- Lễ Sanh Hương Trọng (Bạn đời của ông Chữ)

Hiệp Thiên Đài thì có: Tiếp Đạo Cao Đức Trọng Về Cửu Trùng Đài thì Chí Tôn giáng cơ phong phẩm rồi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ chấm phái.
Quí vị chức sắc nam nữ trên đây là những chức sắc đầu tiên của Đạo Cao Đài tại Nam Vang. Nhờ số chức sắc nầy mà Đức Hộ Pháp lập thành Cơ Quan Truyền Giáo Hải Ngoại, thường được gọi là Hội Thánh Ngoại Giáo trụ sở đặt tại Nam Vang, có nhiệm vụ truyền bá Đạo Cao Đài nơi ngoại quốc, đặc biệt là độ nhơn sanh ở Nam Vang gồm có: Việt Kiều, Hoa Kiều, và người Cao Miên. Hội Thánh Ngoại Giáo được đặt dưới quyền điều khiển vô vi của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là Victor Hugo với chức vụ Chưởng Đạo do Chí Tôn phong. Về Sau ông Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh được bổ nhiệm làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo về hữu hình.

Sau đó sở Tuần Cảnh Pháp báo cáo với nhà đương quyền Miên là có khoảng 5000 người Cao Miên đến lễ bái trước Chánh Điện Tòa Thánh Tây Ninh và lễ bái trước Đức Phật Thích Ca ở sân Đại Đồng Xã. Khi số người tăng lên khoảng 30 ngàn thì chánh tham biện Tây Ninh sợ biến nên báo cáo với chánh quyền Pháp. Bộ trưởng Tôn Giáo của Miên ra thông tri như sau: “Sau khi nghiên cứu tận nơi ta phải nhận định rằng giáo phái nầy đã dựng lên trong mục đích bất chánh, đáng trách vì họ lấy tôn giáo làm phương tiện lường gạt lợi dụng lòng tín ngưỡng của dân chúng thật thà để đem quyền lợi về cho nhóm họ. Nay giáo lý đạo Phật mà dân Miên đã thấm nhuần đang dẫn ta đến Chân Thiện và Liêm khiết. Ngoài ra không một tôn giáo nào khác đến choán chổ trên các địa phương của ta.

Các sư sải Cao Miên được chỉ thị rõ ràng là họ có bổn phận đẩy lùi giáo lý Cao Đài và định hình phạt đối với người Cao Miên nào nhập môn theo Đạo Cao Đài.
Vì thế người Miên bớt theo đạo và vắng bóng họ trên đường về Tòa Thánh.
Ngài bèn chú trọng vào Việt Kiều và Hoa Kiều, do đó việc truyền đạo vẫn được tiếp tục. Một hôm khi đi làm về, Ngài nói với ông Huỳnh Hữu Lợi: “Ngày mai qua về Sài Gòn.”
Làm ông Lợi hết sức ngạc nhiên, vì Ngài đang làm công chức mà muốn về Sài Gòn ngang sao được. Quả nhiên hôm sau Ngài được lịnh đổi về Sài Gòn vì họ không chịu được các hoạt động truyền giáo của Ngài ở đây mà họ cho là phá rối trị an.
Tuy chỉ trong thời gian 7 tháng ngắn ngủi, Ngài đã kiện toàn cơ chế tổ chức Hội Thánh Ngoại Giáo đặt tại đường Lalande Calan. Từ đó bổ chức sắc đi truyền giáo ở Trung Hoa, Pháp, Nhật, Thái Lan,… qua cơ bút do chính Ngài phò loan, Hội Thánh Ngoại Giáo về vô vi còn có:

1 . Jean De La Fontaine (1621-1695), là một thi sĩ người Pháp, sinh ở Château-Thierry, Champagene, Pháp. Ông phụ trách phổ độ dân chúng Châu Âu với sự trợ lực của bà Jeanne d’Arc, là một kiếp sanh của cô Lục Nương Diêu Trì Cung.
2 . Tôn Trung Sơn (1866-1925), tên thật là Tôn Văn tự Dật Tiên, là người Quảng Đông, cũng là một trong 3 vị Thánh Bạch Vân Động trong bức tranh Tam Thánh Ký bản Thiên Nhân Hòa Ước. Ông phụ trách phổ độ dân Châu Á với sự trợ lực của cô Bát Nương.
3 . William Shakespeare (1564-1616), là nhà đại thi hào Anh quốc, sinh tại Straford-sur-Avon. Ông được dân chúng thế giới hoan nghinh thi tài kiệt liệt. Ông phụ trách phổ độ dân chúng Anh và các nước trong Liên Hiệp Anh.
4 . Léon Tolstoi (1828-1910), là tiểu thuyết gia người Nga, sinh ở Iasnaia-Poliana nổi danh về hai (2) quyển " Chiến Tranh và Hòa Bình ", và " Anna Karénia ". Ông phụ trách phổ độ dân Âu-Á.
5 . Aristide Briand (1862-1932), một nhà chính trị Pháp, sinh ở Nantes, từng làm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp. Ông phụ trách phổ độ dân Châu Phi.
Vì những hoạt động truyền giáo mà chính quyền Pháp đổi Ngài về Việt Nam rồi định đổi ra miền Trung nữa. Nhưng khi hay tin đó, Ngài liền đệ đơn nghỉ việc rồi không cần đợi phép cho nghỉ, Ngài bỏ việc về Tây Ninh hành đạo từ đó luôn. Trong thời gian nầy Ngài viết truyện Thiên Thai Kiến Diện gồm 77 bài thơ Đường, rồi quyển “Phương Tu Đại Đạo” bao gồm văn xuôi, biền ngẫu lẫn thơ thất ngôn tràng thiên, có các tiết mục như: luật đời, phận anh, phận chị, phận em trai, phận em gái, phận chồng, phận rễ, phận vợ (làm dâu), làm cha.
Đức Ngài kể:
" Trong Thiên Thai kiến diện, qua được Chí Tôn cho thấy ngôi vị Giáo Tông lần lượt từ người một của nền tôn giáo Cao Đài qua nhiều thời kỳ. Từ một tới thất ức niên. Đức Quyền Giáo Tông là ông Giáo Tông đầu tiên và nghèo nhất. Lạ lùng một điều là đến ông Giáo Tông cuối cùng sao mà nhỏ quá, tuổi độ chừng 17-18 tuổi, một lứa tuổi quá trẻ."
Đức Ngài thầm nghĩ trong bụng: "Sao mà nhỏ quá vậy, công đức gì đâu mà làm Giáo Tông?"
Đột nhiên vị ấy tỏa rực sáng hào quang để cho Đức Ngài biết căn kiếp của vị ấy. Đức Ngài mới khỏi hoài nghi.
Đức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh năm Mậu Thìn (1928).

ĐẠO XẢY RA BIẾN, HỘ PHÁP GIẢI ẾM LONG TUYỀN KIẾM

Sau khi mua được đất xây chùa mới, khi phá rừng nầy thì người Cam Bốt xuống cả ngàn người để phá rừng, làm cho ông Chánh Tham Biện người Pháp nghi ngờ, mời Đức Cao Thượng Phẩm ra Tòa Bố. Ông ta hỏi Thượng Phẩm chớ làm cái gì mà đông đảo như vậy. Đức Thượng Phẩm mới trả lời rằng:
“Tôi mua miếng đất đó đặng trồng cao su.”
Ông tham biện hỏi trồng mấy mẫu? Thượng Phẩm trả lời:
“Tôi trồng hết sở đất tôi mua, phá tới đâu tôi trồng tới đó.”

Nên sau nầy trong Nội Ô có cây cao su là do nơi đó.
Khổ tâm hơn hết là Đức Thượng Phẩm bị người Pháp cật vấn đủ điều cho đến đổi tới giờ cúng cũng không vô Chánh Điện cúng được, buộc phải rào song ly ngăn lại. Trong Chánh Điện chỉ có một mình ông Lễ Sanh Thượng Xường Thanh cúng mà thôi, còn ở ngoài thì vài ba ông thợ mộc quì trên dăm bào lạy vô Bửu Điện. Vì lúc nầy chánh phủ Pháp nghi ngờ, bắt đạo và bó buộc không cho tụ họp đông.

Hồi mà mới trả chùa, dời tượng Phật Tổ về đất mới, cốt Phật vì nặng quá, bởi con ngựa Kiền Trắc của Đức Phật Tổ cỡi lớn và dài nên Thượng Phẩm phải kết hai (2) chiếc xe bò lại để thỉnh cốt Phật lên. Trong lúc sửa soạn thỉnh cốt Phật thì ông chánh tham biện người Pháp cho một toán lính mặc đồ thâm núp dưới đường mương ngoài chong súng lên đặng bắn Thượng Phẩm. Tới chừng thấy rõ là thỉnh cốt Phật mới rút lui. Hội Thánh từ từ di cốt Phật về đất mới mua.

Đức Thượng Phẩm đứng trên xe bò vịn cốt Phật thấy nghiêng bên nào thì hô lên để sửa ngay lại, đi từ 6 giờ chiều tới 2 giờ khuya mới đến Thánh Địa bây giờ. Trước cửa Hòa Viện có cây vên vên, đến đây di cốt Phật vào không được vì bị một cái đường mương lớn quá, Thượng Phẩm phải lập kế kiếm ván đặng lót xe vô mới được. Khi xe qua đường mương rồi thì tạm để cốt Phật nơi đây, vì Thượng Phẩm mệt đuối, nhào xuống đống lá khô trong rừng nằm nghỉ, tất cả chức sắc cũng nằm xuống đó nghỉ theo, vì khi đó mới mua được đất chứ chưa cất được cái nhà nào hết, chỉ có cái nhà bò của ông Aspar, là chủ đất cũ để lại, cũng nhờ đó mà tạm dùng làm phòng trù cho công quả có chổ để ăn mà phá rừng, nên khi Thượng Phẩm thỉnh cốt Phật về đến đây mệt lả thì bà Hương Hiếu đã chuẩn bị nấu cháo sẵn rồi.

Lúc bấy giờ đạo phải trải qua nhiều lối chông gai, nhiều đường khổ hạnh, nhưng người chủ trương việc đạo nhứt là ông Thượng Phẩm, đem hết dạ nhiệt thành, hết bầu tâm huyết mà sắp đặt trật tự bên trong và chống trả với phản động lực bên ngoài. Thượng Phẩm vâng lịnh Chí Tôn phá rừng, xây cất Tòa Thánh tạm, hậu điện,  đông lang, tây lang, trường học, trù phòng, tất cả đều bằng tranh, rồi đào giếng, cái giếng nầy đến nay vẫn còn gần Đền Thánh đó.
Thảm thay, trời đương thanh, biển đương lặng, gió đương êm. Bỗng đâu đất bằng sóng dậy, nước lả khuấy nên hồ đem đến gieo ác cảm cho Thượng Phẩm.

Ông Tư Mắt, chữ Hán là Mục, tên giấy tờ là Nguyễn Phát Trước, là người côn đồ được Pháp dùng quyền để mua chuộc làm sếp lính kín ở miền Nam Việt Nam hồi Chí Tôn mới dùng huyền diệu cơ bút khai đạo, ông ta biết đến Đạo Cao Đài và xin nhập môn.

Ngày 25 tháng Giêng năm Bính Dần (1926), Đức Chí Tôn có giáng dạy ông ta như vầy:
" THẦY
Mắt! Nghe dạy:
Trước vốn Hỏa Thần ở Ngọc Cung,
Giúp Nam không đặng phận tôi cùng.
Nước đời lắm nỗi chua cay bấy,
Còn đợi chi mong thế vẫy vùng.
Ngươi muốn biết đặng cha ngươi thế nào, hỏi nơi ngươi. Hễ tu thì cứu đặng Cửu Huyền Thất Tổ. Ngươi là hiếu hạnh, chẳng lẽ để cha mẹ chịu đọa A-Tỳ. Nghe mà ăn năn sám hối.
Thăng."

Tái cầu:
" CAO ĐÀI
Mắt! Ngươi muốn hiểu cha ngươi thể nào, ấy là hiếu hạnh. Ta khen đó.
Ngươi làm tội chớ cha ngươi là trung hiếu lưỡng toàn, hay thương yêu đồng chủng, mà bị tội giáo tử bất nghiêm, để đến đỗi hại sanh linh đã lắm lúc nên bị tội liên can đó mà thôi, phải ở tại ngục Ngươn Tiêu mà đợi ngươi đến.
Ngươi phải ăn năn, khuyến thiện và tu tâm dưỡng tánh đặng độ nó và ngày sau đặng qui vị mà khỏi đọa luân hồi.
Nghe và tuân lịnh dạy.
Tâm thành của ngươi mới đặng mà thôi.
Ngươi muốn vậy, làm lành lánh dữ. Ngày nào đặng vậy, Ta sẽ cho cha ngươi về nói lại cho ngươi biết.”
Ông ta lúc nào cũng muốn làm lớn trong cửa đạo để được ngang bằng với cái chức sếp lính kín của mình. Sau khi nhập môn tự nhiên ông ta oán ghét Thượng Phẩm. Rồi sau đó ông ta tố cáo Thượng Phẩm ăn cắp cưa, ăn cắp thuốc, ăn cắp ky đem bán. Còn nói cho bà Tư là bạn đời của Thượng Phẩm nào là ăn cắp từ bó rau, hủ chao về bán.

Năm Mậu Thìn (1928) ông Tư Mắt cùng nhóm Cầu Kho Sài Gòn kéo về Tòa Thánh gây áp lực đánh đổ Hộ Pháp và Thượng Phẩm, đòi dẹp Hiệp Thiên Đài vì cho rằng Hộ Pháp và Thượng Phẩm thâm lạm do tủ sắt bị lủng đáy. Họ vận động tín đồ nói rằng Cửu Trùng Đài đã đủ cơ cấu hành đạo để cứu chúng sanh, còn Hộ Pháp có công buổi đầu giờ đây đã mỏi mệt nên nghỉ việc đi. Vì cớ nên mới có sự bàn cãi giữa hai bên: một bên là phe ông Tư Mắt, một bên là tín đồ trung kiên với Hộ Pháp và Thượng Phẩm.

Cuối cùng sự việc dẫn tới sự biểu quyết bằng cách bỏ thăm để định vận mạng của quí Ngài. Thăm có 2 loại: "Còn nữa""Không thôi" để trả lời cho câu hỏi Hiệp Thiên Đài còn nữa hay không. Kết quả là 15 phiếu "Còn nữa", 27 phiếu "Không thôi", và 3 phiếu trắng. Như vậy Hiệp Thiên Đài phải nghỉ vì chỉ có 15 phiếu.
Thượng Phẩm mới nói:
" Vai trò của tôi còn thì Hiệp Thiên Đài còn, vì cả một khu rừng già độc địa lúc trước nay tôi san bằng, phát hoang, rồi tạo ngôi Đền tạm nầy đây. Công việc còn nhiều lắm biết bao số kể, tôi đâu có nghỉ được, đâu có làm lơ được. "

Mà rồi thì quí Ngài cũng phải chịu phép không cãi lại được với sự giao ước.
Bọn chúng gây áp lực đuổi quí Ngài đi trong vòng 24 tiếng đồng hồ không là bị cột vào rừng thiên nhiên bắn. Tất cả chức sắc không ai dám nói gì, đành im lặng để cho kẻ bạo tàn thắng thế, người cô thế phải thua, nhứt thời chịu nhục. Thượng Phẩm thì về đất nhà ở ngoài gần Đình Hiệp Ninh, là đất của bà tư Hương Hiếu để cho nguôi ngoai nỗi buồn thảm. Đức Hộ Pháp có an ủi ông rằng:
" Số 15 là số của Hiệp Thiên Đài, 12 vị Thời Quân và 3 vị làm đầu 3 Chi là 15 người. Chiết ra cộng lại 1+5 là 6. Số 27 là số của Cửu Trùng Đài, chiết ra 2+7 là 9. Còn lại 3 phiếu trắng nếu có thêm vào bên nào thì nguy cho bên đó (loạn pháp bên đó). Nhận thấy bao nhiêu đó cũng đáng mừng, quyền Chí Tôn khiến Hiệp Thiên Đài vẫn còn Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài vẫn còn Cửu Trùng Đài, không có bên nào mất cả."

Cũng chính nơi đây các Đấng thường hay giáng cơ an ủi, cô Thất Nương có giáng cơ đặt tên cho nơi đó là “Thảo Xá Hiền Cung” và cho đôi liễn:
“THẢO XÁ tùy nhơn ngu muội bần cùng nghinh nhập thất.
HIỀN CUNG trạch khách thông minh phú quí cấm lai môn.”

Hồi Đức Hộ Pháp vâng lịnh Chí Tôn qua Kim Biên mở đạo, Đức Thượng Phẩm ở nhà được lịnh của Chí Tôn cùng với Đầu Sư Thượng Trung Nhựt xuống làng Phú Mỹ ở Mỹ Tho lập Minh Thiện Đàn dạy đặng một đoàn môn đệ.
Trước tiên là lập Thánh Thất Phú Mỹ rồi giao cho ông Giáo Hữu Thượng Minh Thanh coi sóc. Đức Lý cũng thường giáng đàn nơi nầy để dạy đạo. Về sau anh em được chiêu mộ về Tòa Thánh làm công quả.

Khi Hộ Pháp từ Nam Vang trở về ngay lúc đạo gặp cơn nguy biến, nền đạo bị chinh nghiêng, trong bị quyền đạo khảo đảo, ngoài bị Pháp buổi nọ áp bức làm cho mấy anh lớn cầm quyền đạo chia rẽ nghịch lẫn nhau, thiên hạ lại giục thêm cho nghịch, cho loạn. Tình trạng nguy ngập không thể tưởng tượng. Chúng bắt buộc bất cứ ai trong Đền Thánh buổi nọ ra hành đạo đều bị bắt đi giam cầm. Pháp định diệt đạo buổi phôi thai, bó buộc đến nỗi không có cơm ăn. Bên ngoài chúng mướn tay sai bắt giam cầm làm nhục một cách không thể tưởng tượng được. Bên trong thì phân phe chia phái, một đoàn người theo ông Trung, một số theo ông Tương, và cũng có một số theo Thượng Phẩm. Minh Thiện Đàn cũng không còn được trông nom tới, có vẻ suy tàn.

Lúc ấy, sau khi Thượng Phẩm lui về Thảo Xá để tạm lánh, Đức Hộ Pháp cùng đoàn môn đệ Phạm Môn cũng bị đuổi ra khỏi Đền Thánh, thầy trò dắt nhau đi tìm mua đất tạo dựng lại cơ ngơi gọi là Phạm Nghiệp tại xóm trường đua xã Hiệp Ninh, tỉnh Tây Ninh ráng làm cho đạo sống lại.
Ngôi nhà đầu tiên dựng trên phần đất Ngài mua được, giao khoán cho ông Lễ Sanh Thượng Ngươn Thanh lãnh làm xong kéo đến dựng, cột cây kê táng, lợp tranh.
Trong thời gian kiến tạo đó, có một số người đạo tâm tình nguyện đến xin làm giúp cho Ngài, cũng với ý định muốn được gần gủi Ngài để học đạo. Sau đó số người dần tăng lên đông đúc. Năm Canh Ngọ (1930) Ngài mới nói với số người đạo tâm là:
“Chổ này không phải chổ làm công quả, nếu ai muốn làm công quả thì về trong Tòa Thánh mà làm. Còn như em nào muốn theo qua thì phải làm tờ hiến thân trọn đời vào Phạm Môn và phải có cha mẹ với vợ bằng lòng ký tên cho hiến thân mới đặng, đồng thời tờ hiến thân phải có Đầu Họ Đạo vi chứng.”

Những anh em nầy họp nhau bàn tính, kết cuộc anh em đồng ý làm tờ hiến thân. Khi làm xong đệ lên Ngài xem rồi đệ qua cho Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.
Từ ngày anh em làm tờ hiến thân rồi, Ngài buộc làm công mỗi tháng phải đủ 27 ngày, nghỉ 3 ngày là mùng 10, 20 và 30, nếu tháng thiếu nghỉ ngày 29. Khi số người tăng lên đông đúc, phần ăn uống có mòi thiếu thốn, mấy người lớn tuổi mới bàn tính định phân ra một số đi cưa cây làm cửa để trang trí ngôi nhà, một số lo kiếm ruộng làm. Khi bàn tính xong trình lên Đức Ngài hay, Ngài chấp thuận rồi hỏi mướn sở ruộng của bà Hương Thanh ở Bến Sỏi để mọi người có đất trồng lúa.

Khi ngôi nhà được trang trí kín đáo, xây 2 trụ cửa ngõ xong Đức Hộ Pháp mới dạy làm tấm bảng đề 2 chữ “Phạm Nghiệp” và đăng lên đôi liễng:
“PHẠM Nghiệp thừa nhàn lợi lộc công danh vô sở dụng,
MÔN Quan tích Đạo tinh thần tháp bữu hữu cơ cầu.”

Sau đó Đức Hộ Pháp được lịnh của Chí Tôn sai đi xuống Thủ Đức do nơi ấy đang có bịnh dịch hoành hành. Lúc đó ông Thái Thơ Thanh mới bảo:
“Thầy Tám có một mình thôi thầy xuống tôi, xuống Thủ Đức sống.”
Thấy cũng được nên Đức Ngài gọi 2 người Thổ là ông Inh và ông Chia thu dọn đồ đạt vào rương rồi 3 thầy trò rời Tây Ninh xuống Thủ Đức. Năm đó Thiên hạ bị bịnh chướng, khi không khởi phù mình rồi chết, nhứt là ở tại Thủ Đức lắm bịnh nhơn quá chừng, nên Chí Tôn sai Ngài xuống đặng chữa bịnh.

Mới đầu Ngài trị bệnh như bác sĩ, mua thuốc tiêm chích, cho uống thuốc nước hoặc viên như thường, bịnh nào cũng mau hết. Rồi sau đó trị tà, mắc đằng dưới, quỉ ma nhập, kết quả rất linh diệu. Ông Giáo Hữu Minh thấy Ngài trị bịnh hay quá mới về Phú Mỹ chở người cháu kêu ông Minh bằng chú, bị đau tê bại trong 2 năm đi không được lên Thủ Đức cho Ngài trị. Ngài truyền điển trị xong bịnh nhân tự nhiên cử động đi tới đi lui được, rồi lần hồi đi bình thường. Đó là ông Đinh Công Trứ sau nầy làm Giám Đốc Trường Qui Thiện.

Được 7 tháng, cái nhóm người của Cửu Trùng Đài ở Thủ Đức ngày càng tỏ vẻ có ý khinh rẻ xem thường Đức Ngài. Thấy vậy Ngài lại một phen ngán ngẩm cho cái sự đời. Bửa nọ Ngài đến nhà ông Thơ chơi, ông Thơ biết ý họ muốn đuổi xô Ngài nên mới ngỏ ý với Ngài là:
“Hay là vầy, tôi còn đám cao su, thôi thầy về đó làm người cạo mủ bán để kiếm sống.”
Nghe vậy Ngài càng thêm buồn thảm, chẳng lẽ mạng lịnh Hộ Pháp lại đi làm mướn kiếm sống hay sao? Ngài thấy không ổn nên mới quyết định ra đi, vì thấy nơi nầy không xứng đáng để Ngài ở nữa. Trước khi đi, Đức Ngài có để lại một bài thơ dán tại văn phòng Thánh Thất ấy như vầy:
“Thắng khổ người tu vẫn để lòng,
Vì thua Thủ Đức phải đành dông.
Buồn vì chưa đứng đặng trên đầu rắn,
Vui đã phân minh chí khí rồng.
Nào để vịt gà chê tiếng phụng,
Chỉ phiền hồng hộc ghét đuôi công.
Mở kho cứu đói đây trề miệng,
Ta quảy hồng ân rải giáp vòng.”

Sau đó 3 thầy trò chuẩn bị đồ đạt vào rương rồi ra đi rời Thủ Đức. Ý định của Ngài là qua nhà ông Hội Đồng Quản ở Gò Công, bạn của Ngài và cũng là bà con cô cậu với ông Khai Pháp. Ngài có định sai 2 ông Miên đến nhà ông Quản hỏi trước rồi Ngài sẽ đến sau. Trời xuôi đất khiến, ông Giáo Hữu Minh từ Phú Mỹ đáp xe về Sài Gòn thì gặp Ngài đang định đi về Gò Công. Ông trình bày ý kiến của mình là muốn rước Ngài về Phú Mỹ. Lúc nầy Ngài mới định thần xét xem nên phải đi đâu và sau đó Ngài quyết định về Phú Mỹ ở Mỹ Tho, đi cùng Ngài là ông Inh và ông Chia nữa.

Về Thánh Thất Phú Mỹ, Ngài vào bái lễ Chí Tôn mới thấy Đức Lão Tử đi ngang qua, Ngài mới nói rằng: “Thánh Thất Phú Mỹ nầy do Đức Thái Thượng Lão Quân làm chưởng quản.”
Ngày hôm đó từ ngoài đầu đường dẫn vào Thánh Thất bao gồm bổn đạo có, người ngoại đạo có, họ chen lấn nhau mong được thấy mặt và nghe Ngài nói chuyện.

Tiếng đồn có Hộ Pháp xuống lan nhanh, mọi người ùn ùn tới Thánh Thất Phú Mỹ, đoàn người kéo dài hàng trăm mét. Cái cảnh đầu tiên đón rước Ngài như thế làm Ngài nhận thấy cả một khối tinh thần quí trọng, tôn kính trọn tin nơi Ngài. Ngài nói với mọi người rằng:
“Thủ Đức không biết xài ngọc nên qua đem ngọc đi. Còn Phú Mỹ biết xài ngọc nên qua đem ngọc ban cho.”

Ngài bắt đầu giảng đạo, thuyết pháp, hành pháp, cầu cơ, chữa bệnh và dạy dỗ nhơn sanh.
Có lần Đức Ngài hành pháp giải bịnh cho một người đàn ông bị bịnh đã lâu, thuốc thang không hết. Người đàn ông ấy như ngây như dại, lờ khờ.
Khi được người nhà đưa đến trước mặt Ngài, Đức Ngài nhìn thấy trong vô hình một cái bị 9 quai hiện trước mặt người bệnh. Đức Ngài mới hỏi:
“Ông bà người này trước làm nghề gì? Có phải ‘phường’ không?” Gia đình nghe Ngài hỏi vậy cả sợ, nhưng niềm tin nơi Đức Hộ Pháp lại thêm mãnh liệt. Họ nói:
“Dạ phải.”
Rồi mẹ ông ấy kể gốc gác diễn tiến nhiều đời của nhà họ. Đức Hộ Pháp nói:
“Qua hành pháp trị bệnh xong rồi. Nên về cúng và cầu nguyện Đức Chí Tôn ân tứ cho ông bà tổ phụ, lại nữa cũng cầu xin ông bà phù hộ cho con cháu trên bước đường tu, lập công bồi đức, tạo âm chất phần nào ngõ hầu nâng đỡ Cửu Huyền Thất Tổ được siêu thăng.”

Đức Hộ Pháp dạy như vậy là vì chữ “phường” là người đi ăn xin. Cúng ông bà là phải đồ đi xin ông bà mới chứng, còn không xin thì không chứng. Xin đây có nghĩa là dù cuộc sống có khá, giàu có, nhưng khi mua đồ thì mua mà cũng phải xin thêm một chút, góp nhiều món xin lại làm đồ món mới cúng, đó là bí mật gia đình người ấy không thổ lộ với ai. Trong nhà có người biết mới chứng thật được vậy.

Lúc ấy ông Giáo Sư Cậu hay có tính bắt chước làm phép vì ông rất thích việc ấy. Có lần Đức Ngài hành Pháp giải bịnh điên cho một người, và hành pháp đoạn căn cho một người, sợ ông Giáo Sư Cậu bắt chước nên Ngài nói:
“Nè, anh đừng có thấy tôi làm mà bắt chước nghe. Chỉ có tôi mới hành pháp này mà thôi. Tôi tắm đây là tắm cho cái chơn hồn đó, chớ không phải tắm cho cái xác. Tôi có lịnh của Đức Chí Tôn truyền pháp. Chừng nào có được dịp tôi truyền cho anh thì anh mới làm được.”

Có lần sau khi giảng đạo xong, để cho không khí có phần vui tươi thoải mái, ngoài ra cũng có một số đông các cụ thầy Nho. Đức Ngài muốn thử tài xem trình độ tiến hóa tâm linh của mọi người như thế nào, Ngài nói:
“Hôm nay qua ra câu đố, ai trả lời được sẽ có thưởng.”
Rồi Ngài đọc:
“Ở nơi Tam Bộ Châu
Đầu đội mão thành y
Thân mặc áo Tam diệu
Tay tả cầm cây sức triệu
Tay hữu nắm nhành dương liễu
Vai mang gói tồn trang
Trong gói ấy là tứ linh báu vật (Xuất nhơn)
Mọi người nhẩm tới nhẩm lui."

Trời càng về khuya, mỗi người một ý không ai giống ai. Tất cả những câu trả lời đều không đúng. Đức Ngài cho hẹn về suy nghĩ đêm sau trả lời. Đêm sau cũng không ai trả lời đúng. Bấy giờ Đức Ngài nói:
“Dễ ợt mà đoán không ra. Bần đạo nói cho. Hễ thực nhơn tài thì phải cứu nhơn tai, xưa nay vẫn vậy. Nếu mấy em nói ra không được, thì đây qua tả một người ăn xin và cách sinh hoạt của người ấy.
Ở nơi Tam Bộ Châu: Ở mọi nơi, đi khắp đó đây.
Đầu đội mão thành y: Áo vá nhiều chỗ như áo bá nạp.
Tay tả cầm cay sức triệu: Cây gậy để đánh chó.
Tay hữu nắm nhành dương liễu: Cầm cái cây đầu tưa như cây chổi nhỏ để quơ đuổi ruồi đậu.
Vai mang gói tồn trang: Vai mang cái bị vải thòng dài xuống lưng.
Tứ linh báu vật: Đồ ăn thức uống xin được, đó là báu vật thiêng liêng ban cho thế gian đó.”

Hiểu ra được, mọi người đồng cười sảng khoái.
Sau đó Đức Hộ Pháp hợp nhứt 2 nhóm cầu cơ là Hồng Đăng và Bạch Đăng để phục hưng Minh Thiện Đàn do Đức Ngài làm Chưởng Quản đồng thời cũng lập Phạm Môn ở đây luôn. Khi ấy Chí Tôn mới giáng cơ cho bài thi nói về Phạm Môn là:
“Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn
Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.”

Chí Tôn có dạy:
“Như Lai là cảnh Phật chớ không phải danh Phật, nên trong kinh có câu ‘Bổn giác vị kim giác Như Lai’. Bồ Đề là nơi chổ Phật ngự, Phạm Môn là cửa Phật, Bỉ ngạn là đất Phật.”

Khi xây cất Thánh Thất Phú Mỹ xong, Ngài sai ông Giáo Hữu Minh xuống ông Ca ở Mỹ Tho để xin phép lập đàn ở Phú Mỹ làm lễ khánh thành, vì ông Ca là cựu Đốc Phủ nên cậy ông xin phép sẽ dễ dàng hơn. Ông Ca không nhận bảo rằng:
“Mỹ Tho là Thánh Thất lớn, Phú Mỹ là Thánh Thất nhỏ, Đức Hộ Pháp đến Mỹ Tho sao không xuống Thánh Thất Mỹ Tho, bộ Mỹ Tho không có chỗ cho Ngài thuyết pháp hay sao mà lại đến Phú Mỹ rồi nhờ đi xin phép?”

Ông Minh về trình lại với Ngài, Ngài buồn nhưng chẳng biết nói sao. Trong lúc bối rối Đức Ngài thấy Thái Thượng Lão Quân đến mà không có cởi Thanh Ngưu.
Ngài hỏi lý do vì sao thì Đức Thái Thượng nói:
“Ta đến dẫn Thanh Ngưu về, để nó phá hiền hữu không thi hành Thiên mạng được.”
Đức Ngài hiểu ý, năn nỉ Đức Lão Tử cứ để y như vậy, Thanh Ngưu không hại Ngài đặng đâu. Vì lòng bác ái mà Ngài không nở để ông Ca tuyệt mạng, chẳng thà Ngài chịu khổ. Bởi vì, nguyên căn của ông Ca chính là tọa thị của Đức Thái Thượng Lão Quân giáng trần. Trong một đàn cơ cô Bát Nương Diêu Trì Cung trêu Đức Quyền Giáo Tông như thế nầy:
“Kim Ngưu lằn sứt mũi hãy còn, làm sao mà anh móc dây dẫn về Bạch Ngọc Kinh cho được.”

Chuyện là Đức Quyền Giáo Tông chính là chiết ngươn linh của Lý Thiết Quả, khi xưa nơi cõi thiêng liêng Đức Lý Thiết Quả sang viếng thăm Đức Lão Tử, là Thái Thượng Lão Quân, lại ngay hôm Lão Tử không có nhà, còn Từ Giáp, là người đệ tử coi con trâu cỡi của Lão Tử thì đang ngủ. Thấy Thanh Ngưu đang đứng, Lý Thiết Quả đến gần mở dây để cỡi. Thanh Ngưu thấy người lạ hoảng sợ giựt đứt dây, sứt mũi chạy mất. Trong buổi khai Đại Đạo, ông đốc phủ Ca là gốc Thanh Ngưu đầu kiếp nên môi của ông có lằn vá do bị nứt rách nơi ấy. Vì vậy mà cô Bát Nương trêu Quyền Giáo Tông để nhắc lại tích xưa cho biết sự tương quan giữa ông và ông Ca.
Đêm hôm đó Ngài trằn trọc không ngủ được. Trong lúc mơ màng nửa tĩnh nửa mê, Ngài thấy Phật Mẫu cho 3 chữ Nho, còn nghe tiếng nói:
“Khổ Hiền Trang.”

Ngài giật mình dậy lấy giấy viết lại liền 3 chữ Nho ấy. Sáng ngày Ngài đem 3 chữ nho ấy hỏi mấy vị thầy Nho thì đúng là Khổ Hiền Trang. Ngài thuật lại chuyện đêm hôm qua và nói 3 chữ Nho đó là do Phật Mẫu ban cho. Sau đó Ngài cho viết 3 chữ đó vào một tấm bảng lớn rồi treo ngay trước cổng Thánh Thất để cho mọi người biết Thánh Thất Phú Mỹ giờ đây có tên là “Khổ Hiền Trang”, là cái lều của người chịu khổ. Ngài mới nói:
“Trên thiêng liêng có Động Khổ Hiền là nơi Đức Thái Thượng ngự, nên nơi Khổ Hiền Trang Ngài hằng viếng thăm. Mấy em hãy giữ gìn Khổ Hiền Trang cho sạch sẻ, thanh khiết để khỏi lỗi cùng Đức Thái Thượng.”
Đức Ngài còn nói:
“Nơi đây, nơi Thánh Thất Khổ Hiền Trang nầy, chỉ cho một chữ thôi cũng đủ làm giàu, khỏi lo đói: truyền thần chữ KHÍ để chữa bệnh.”
Đức Lý Giáo Tông cũng có giáng cho bài thi như sau:
“Khổ thà cam chịu chớ đừng than,
Hiền ngõ cùng nhau mới vẹn toàn.
Trang điểm ngọc lành cho đáng giá,
Dồi mài Chí Thiện, Thượng Minh Thanh.”

Sau đó, cô Bát Nương Diêu Trì Cung giáng đàn báo tin cho Ngài biết là vào năm 1914 trạng Trung Hoa có lén đưa thầy địa lý là người Tiều Châu đột nhập vào lãnh thổ Việt Nam mang theo cây Long Tuyền Kiếm bí mật lần dò đến địa điểm  ngọn Chàm Sập, Láng Cát có ngọn Núi Lan mới vừa hình thành ở làng Phú Mỹ, cách Khổ Hiền Trang khoảng 10 cây số để trấn ếm với ý đồ thâm hiễm là nhờ lưỡi kiếm báu vớt đứt hết nhân tài không cho Trạng, Tướng của đất Việt xuất hiện được.

Ngài có hỏi cách giải ếm đều được Bát Nương chỉ phép, nhưng chưa thực hiện được thì Ngài hay tin Thượng Phẩm lâm trọng bịnh. Sau đó Ngài trở về Tòa Thánh ngay.
Thượng Phẩm từ ngày về Thảo Xá thì lâm bệnh nặng, thân thể hao mòn, sắc diện âu sầu buồn bã. Ngài bị tâm bịnh vì thất chí, lương y khó phương điều trị cho lành mạnh. Chí Tôn có dạy Hội Thánh cất Tịnh Thất trong Nội Ô để rước Thượng Phẩm nhập tịnh. Nhập tịnh được một thời gian mà bịnh tình cũng không thuyên giảm, hằng ngày kém ăn mất ngủ, thân thể xem gầy còm.

Đến ngày 26 tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928), Đức Thượng Phẩm mới nói với bà Hương Hiếu lo sắp đặt 6 giờ chiều trở về Thảo Xá mà không cho chức sắc hay trước.
11 giờ trưa ngày mùng 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929), Đức Thượng Phẩm kêu Hộ Pháp, Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, bà Hương Hiếu, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, Giáo Hữu Thượng Kỳ Thanh, Lễ Sanh Thượng Ngươn Thanh. Thượng Phẩm nhìn Đức Hộ Pháp trối rằng:
“Nay qua về chầu Đức Chí Tôn, em ở lại hiệp với chức sắc chung lo nền đạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự. Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn.”

Nói rồi tuôn 2 hàng nước mắt. Kế day qua nói với bà Hương Hiếu căn dặn để trọn tâm lo tròn phận sự. Dứt lời Đức Thượng Phẩm xuất hồn đi nhẹ nhàng, ai nấy có mặt đều cảm động ngậm ngùi. Mọi người đở kim thân Thượng Phẩm ngồi dậy, thúc xác ngồi kiết già, trước mặt lập bàn hương án có chưng hoa quả rượu trà. Đức Hộ Pháp ra kiểu cho thợ đóng liên đài hình bát quái. Thời Tý đại liệm, rồi thành phục phát tang theo nghi tiết. Hội Thánh thông tri cho toàn đạo xa gần được hay.

Đức Hộ Pháp có làm một bài điếu như vầy:
“Thượng Phẩm ôi! Hỡi anh ôi!
Chưa xong trách nhiệm đã về Trời.
Bốn năm công quả vun nền đạo,
Mấy đoạn chông gai chịu nước đời.
Ngọn bút Thần cơ Trời nỡ đoạn,
Nắm xương Thánh chất lấp chôn vùi.
Mực hòa huyết lệ đề câu điếu,
Thượng Phẩm ôi! Hỡi anh ôi!”

Liên đài quàn tại Thảo Xá 3 ngày, chức sắc và đạo hữu đến tế rất đông. Chức sắc Hiệp Thiên Đài cầu cơ Thượng Phẩm có về giáng tỏ vẻ vui mừng được về bái mạng Chí Tôn và Phật Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung. Ngài có cho bài thi:
“CAO thanh miệng thế mặc chê khen,
THƯỢNG trí màng chi tiếng thấp hèn.
PHẨM cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.”

Cao Thượng Phẩm là chiết ngươn linh của Hớn Chung Ly giáng trần. Hớn Chung Ly, tức là Chung Ly Quyền thời nhà Hớn, là một vị Đại Tiên trong Bát Tiên đứng dưới Lý Thiết Quả, lãnh lịnh Chí Tôn giáng trần làm tướng soái cho Chí Tôn khai đạo. Đức Chí Tôn có giáng cơ nói về việc Thượng Phẩm đăng Tiên như sau:
“Thầy đã nói rõ rằng Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng mà hại thay vì biếng nhác, các con không đọc Thánh ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.
T…! Con có nhớ lời Thầy nói với các con rằng đạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại thiêng liêng chi vị thì ai đem các chơn hồn vào cửa Thiên giùm cho các con. Lại nữa, các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt Thầy nơi thế nầy về phần đời, còn phần đạo cũng phải có đôi đứa mới đặng cho, cười!”

Sau khi lo đám tang của Đức Thượng Phẩm xong, Ngài quay trở về Thánh Thất Khổ Hiền Trang, chấp bút thì được chỉ dẫn nơi ếm Long Tuyền Kiếm. Ông Lê Văn Trung, sau nầy làm Chưởng Quản Phước Thiện có kể là hồi ông còn đi học, ông thấy có một cái đám xác đi chôn nơi Láng Cát, làng Phú Mỹ, ông vô tình ngồi trong một quán nước và nghe một ông lão chuyên môn đào huyệt mướn nói chuyện với mọi người, lão ấy cằn nhằn rằng, phải đào đi rồi bỏ, đào lại rồi bỏ, bốn lần đào mới được cái huyệt mà người nhà ưng ý để chôn bà già đó.
Lúc đó có một người Trung Hoa ngồi gần bên nghe nói mới đến bên ông đào huyệt hỏi:
“Sao mà tới 4 lần, chôn ở đâu? Chôn ở xa hay gần?”
Ông đào huyệt nói:
“Chôn ở Láng Cát, đào cứ trúng đá hoài, lần chót ra bìa gần kinh mới đào được. Chôn cũng không sâu lắm vì cũng có đá mà hơi mềm hơn.”

Ông Trung Hoa nầy đến đây đã 2 năm rồi, nói là đi tìm bà con nhưng không gặp. Ông ta nói chuyện với lão đào huyệt, sau đó 2 ông nầy chèo xuồng vào Láng Cát. Ông lão đào huyệt nói là ông Tàu bảo ông ngồi chơi, rồi không biết ông Tàu làm gì chỉ thấy ổng cầm một bọc gói kín, một cái hộp cải bắp thảo, đi quanh đi quất tìm kiếm cái gì không biết. Một lúc lâu sau ông Tàu trở ra và cùng ông đào huyệt đi về.

Thời gian trôi qua 14-15 năm gì rồi, ông Tàu thì đi đâu mất, ông lão đào huyệt thì đã mất. Cho đến khi lúc Hộ Pháp lãnh lịnh khai quật Long Tuyền Kiếm thì ông Trung mới giựt mình, bao nhiêu điều mắt thấy tai nghe buổi nọ lần lượt quay lại trong đầu. Ông đem kể lại hết cho Đức Hộ Pháp nghe từng chi tiết một.
Đây nói thêm về lai lịch của Long Tuyền Kiếm từ đâu mà có.
Ngày xưa ở nước Ngô nọ có hai vợ chồng là Can Tương và Mạc Da là người nước Ngô có biệt tài rèn các thanh kiếm báu mà không một ai có thể rèn được. Hai người có ý định thực hiện cho kỳ được thanh kiếm quí để dâng cho Ngô Vương để đền đáp công ơn ngọn rau tấc đất. Mà muốn hoàn thành gươm báu phải hòa hợp đứng trinh chính của Hào Lục quẻ Khôn chỉ về Đất, và phải đủ khí kiên cường của Hào Cửu quẻ Càn chỉ về Trời do huyền vi mầu nhiệm khéo léo của Tạo Hóa làm ra và nhờ chất tinh của âm dương phối hợp mới rèn được thanh kiếm quí, nên hai vợ chồng ngày đêm đem hết tài trí quyết tâm rèn cho kỳ được song kiếm báu. Lòng hy sinh cao cả tuyệt đối phi thường của một người phụ nữ như Mạc Da là rất hiếm có, Mạc Da can đảm cắt hết tóc, cắt hết móng tay rồi nhảy vào bể lò rèn hy sinh cả thể xác làm cho thép chảy ra giúp chồng hoàn thành được song kiếm quý đặng dâng vua.
Home                    1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét