Việc
Đức Cao Đài Thượng Đế giáng cơ lập đạo, qui Tam Giáo làm cho những bậc trí thức
và giới tu sĩ bàn tán rất nhiều. Trong đó có cụ Yết Ma Luật quyết đến đàn cơ thử
coi thực hư ra sao cho biết. Cụ viết sẵn một bài thơ bỏ trong túi áo và xin cơ
bút họa lại, Đức Chí Tôn họa lại như vầy:
" Hãy tĩnh cho mau giấc mộng tràng,
Đời cùn Tiên Phật giáng phàm gian.
Chính thật ta đây Đấng Ngọc Hoàng.
Cao Đài Thượng Đế. "
Nhận được bài
thơ họa, ông Yết Ma Luật hết hồn, bái phục và xin theo đạo rồi đưa bài thi mà
ông đã viết cho mọi người coi. Bài thi đó như vầy:
" Ấm ức tâm tư suốt mộng tràng,
Có đâu Tiên Phật giáng phàm gian.
Văn hay chữ giỏi bày thi phú,
Họa đặng thơ đây mới Ngọc Hoàng."
*
Yết Ma Luật
Tuy có dự trong
đàn cầu cơ nhưng ông Phan Khắc Sửu vẫn không tin, ông làm một bài thơ rồi đốt mà không khấn vái
gì cả. Cơ đang dạy chư môn đệ thì bổng ngưng lại rồi họa một bài thơ như vầy:
" Cơ trời khó tỏ hỡi con ơi,
Nghiệp quả tiền khiên của giống nòi.
Bởi luyến mồi thơm cam cá chậu,
Vì ganh tiếng gáy chịu chim lồng.
Trời khai Đại Đạo nên yên dạ,
Đất dậy phong ba cứ vững lòng.
Gắng trả cho rồi căn nợ ấy,
Tu mà cứu thế dễ như không."
*
Cao Đài Thượng Đế
Đến lúc nầy thì
ông Phan Khắc Sửu mới tâm phục khẩu phục và chịu làm đệ tử. Ông cũng có đọc lại bài thi của ông
cho mọi người nghe, bài thi của ông thế nầy:
" Cao Đài Tiên Trưởng hỡi ông ơi,
Linh hiển sao không cứu giống nòi.
Trăm họ điêu linh thân cá chậu,
Muôn dân đồ thán phận chim lồng.
Coi nòi diệt chủng càng đau dạ,
Thấy cảnh vong bang bắt não lòng.
Ách nước nạn dân như thế đấy,
Ngồi mà đạo đức có yên không? "
* Phan Khắc Sửu
Đức Thượng Đế
còn cho thêm ông Sửu 4 câu thơ tỏ ý khuyên ông chớ nên chần chờ, hãy sớm giác ngộ lo tu hành như
vầy:
" Đường đạo tìm vào mới rõ cơ,
Cơ mầu giải khổ chớ chần chờ.
Chờ cho trễ bước xa thuyền bến,
Bến tục thoát vòng hết ước mơ."
* Cao Đài Thượng Đế
Nhờ vậy mà ông Sửu
hoàn toàn tin tưởng nơi Chí Tôn và sau đó nhập môn cầu đạo, làm môn đệ của Đức Chí Tôn.
Sang đến ngày 25
tháng 11, Đấng Cao Đài Thượng Đế dạy mấy ông Cư, Tắc đến đường Quai Testard ở
Chợ Lớn để độ rỗi ông Lê Văn Trung, đương kim Thượng Nghị Viên, Hội Đồng Thượng
Nghị Viện lúc bấy giờ. Do biết thân thế của ông Trung là một vị quan lớn trong
thời mất nước nên ông Tắc có ý không bằng lòng. Nhưng vì Đức Chí Tôn bảo đâu là
phải làm đó nên 2 ông mới ôm cái cơ đến nhà ông Trung.
Khi đến nhà, 2
ông nói với ông Trung là:
" Chúng
tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà anh phò loan cho Đức Chí Tôn dạy đạo. "
Thật ra ông
Trung đã biết rõ về Đức Chí Tôn rồi, là vì ông Trung cũng có hay đi hầu các đàn cơ cầu
Tiên ở Chợ Gạo tại Phú Lâm Chợ Lớn. Chính nơi đàn cơ nầy Đức Lý Thái Bạch vâng
lịnh Chí Tôn dạy cho ông Trung giác ngộ.
Ông Trung lo sắp
đặt bàn ghế, sửa soạn buổi phò loan rồi bắt ông nhập môn.
Trong nhà có một
người con nuôi tên là Thạnh, còn nhỏ độ 12 tuổi. Hai cha con kiếm được cơ đâu
không biết, mới vái rồi cầu cơ. Khi phò loan thằng nhỏ ngủ, ông thì thức, cơ
thì chạy hoài. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có 2 người biết với nhau mà
thôi. Từ đó ông mới tin có Chí Tôn.
Trong đàn cơ hôm
đó Chí Tôn đã dùng huyền diệu cho ông Trung thấy được Cực Lạc Niết Bàn nơi
Thiêng Liêng để thâu phục ông vào đạo.
Qua ngày 29
tháng 11 năm Ất Sửu cô Thất Nương có giáng cho thi:
" Thất
Nương
Người vô tình kẻ
bạc tình,
Ba anh chẳng
nghĩ nghĩa đồng thinh.
Đặng chim
trách kẻ toan quên ná,
Buồn bực
cho đây vẫn một mình. "
Mấy ông mới
trách Thất Nương như vầy:
" Anh
trách em sao không nói thật A-Ă-Â là ông Trời, em thấy ba anh cũng như mù em cứ
gạt hoài. "
Thất Nương mới
nói:
" Trời là Trời, em là em. Em rõ biết nhưng không dám lậu, nay ba anh đặng vậy
em mừng.
Thử lòng tri kỷ đó mà thôi,
Tương ngộ có hơn bảy tháng trời.
Yêu mến một lòng đây rõ biết,
Thỉ chung đâu để hỗ cùng lời."
Sau đó Lục Nương
cũng có giáng cho thi mừng 3 ông hiểu đạo:
Lục Nương
" Mừng nay đường đạo đã êm chơn,
Vàng ngọc công khanh chẳng dám hơn.
Rượu cúc Bàn Đào chờ hội ẩm,
Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng vai Thánh khảy đờn.
Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân phân thế tục phẩm chi sờn."
Rồi đến ngày
mùng 3 tháng Chạp năm Ất Sửu cũng có ông Quí Cao về nói với mấy ông như vầy:
" Đã từ
lâu không dám nói vì em còn phải tu như 2 anh vậy. Không dám nói vì 2 anh còn
có Thầy, em không dám lộng quyền.
Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Đạo vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp muối dưa, muôn kiếp hưởng,
Đôi năm mệt nhọc, vạn năm bường.
Có Thần nuôi nấng Thần càng mạnh,
Luyện khí thông thương khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.
"
Nói thì nói vậy
nhưng tuy là đã theo học đạo với ông Thầy Trời mà tấm lòng
thương dân yêu nước, lo âu
cái sự đời của mấy ông vẫn chưa nguôi. Nên khi chính quyền Pháp đàn áp các phần
tử ái quốc lại làm cho dòng máu cách mạng của mấy ông lại bừng sôi. Đến đỗi Thất
Nương phải giáng để lời khuyên nhủ:
" Em xin
quí anh coi lại đời là thế nào? Bông phù dung sớm còn tối mất, còn hơn kiếp con
người. Vì nó sống ngắn ngủi nhường ấy nhưng mà lúc sống còn có cái sắc, chớ đời
người sanh ra chỉ để khổ mà thôi, dù sống trăm tuổi chưa một điều đắc chí, rồi
chết. Cái đời đúng là một khổ hải.
Em xin quí
anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm cho có,
mình có sẵn nỡ bỏ đi. Em tiếc dùm đó thôi. Đã vào đường chánh cứ dò theo đó bước
tới hoài thì trở về cựu vị đặng."
Ông Trung mới hỏi:
" Có duyên luyện đạo cùng chăng? Xin em mách dùm."
Cô Thất Nương mới
trả lời:
" Đã gặp
đạo đức tức có duyên phần. Rán tu luyện, siêng thì thành, biếng thì đọa. Liệu lấy
răn mình."
Rồi Chí Tôn cũng
có giáng cho bài thi dạy mấy ông thêm:
" Một ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện đặng tính thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
Cương tỏa đương thời đã giải vây,
Đừng mơ oan nghiệt một đời này.
Hữu duyên độ thấu nguồn chơn đạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay."
Từ lúc ngưng việc
xây bàn chuyển qua phò cơ thì đều do ông Tắc và ông Cư làm đồng tử, vì vậy ông Sang thấy mình hơi
thừa rồi lần lần ít chịu đi hầu đàn. Mấy ông có xin Chí Tôn để lời dạy bảo thì
Chí Tôn nói là:
" Nó thật
thà vã lại nó còn mang xác phàm. Ai dưới thế này đặng trọn vẹn các
con chỉ cho
Thầy coi? "
Sau đó Chí Tôn dạy
mấy ông là: " Đến Chiêu xem cách thức nó thờ Thầy,
bảo nó hiệp một với các con. "
Ông Chiêu tên thật
là Ngô Văn Chiêu, mấy năm trước hồi ông còn làm ở quận Phú Quốc được Đức Chí
Tôn dùng huyền diệu thâu phục và giáo hóa suốt trong khoảng thời gian đó, nên cũng được xem là môn
đệ đầu tiên của Chí Tôn trong thời kỳ tiền khai đạo. Sau đó đến năm Giáp Tý
(1924) ông được đổi về Sài Gòn làm, âu cũng là cơ khiến để ông và nhóm của mấy
ông Cư, Tắc, Sang hiệp cùng nhau. Ông Chiêu là chiết ngươn linh của Tào Quốc Cựu
trong hàng Bát Tiên.
Mấy ông vâng lịnh
Chí Tôn đến nhà ông Chiêu ở số 110 đường Bonnard để học cách thờ tự. Ông Chiêu
thờ Thầy rất kỹ, họa hình một con mắt y theo Chí Tôn đã dạy bảo, để tận trên
cao và ngay chính giữa nhà thật kín đáo gọi đó là Thiên Nhãn.
Có ai đến nhà
chơi khó mà biết được vì ông là người dè dặt, không phải bạn tu thì không bao
giờ chỉ dẫn. Rồi sau đó
Chí Tôn có giáng dạy về việc thờ tự nầy như sau:
" Thập
Nhị Khai Thiên là Thầy, chúa cả Càn Khôn thế giái, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần
vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy.
Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ
Thánh Tượng con mắt mà thờ Thầy. Song Thầy
nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
Nhãn thị chủ Tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả ngã giả.
Thần là khiếm
khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày đạo bị bế. Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nầy duy Thầy
cho Thần hiệp Tinh, Khí đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập
Thánh. "
Đến ngày Rằm
tháng Chạp năm Ất Sửu (1926) ở nhà ông Lê Văn Trung có tổ chức thượng Thánh Tượng Thiên Nhãn để thờ,
có mời mấy ông trong nhóm xây bàn là ông Tắc, Sang, rồi cũng có mời ông Chiêu,
Nguyễn Trung Hậu, Vương Quang Kỳ, Đoàn Văn Bản, Nguyễn Văn Hoài, Trương Hữu Đức,
Võ Văn Sang, Lê Văn Giảng, Lý Trọng Quí, Lê Thế Vĩnh,… nhân dịp đó Chí Tôn có
giáng cơ nói:
" Thầy
vui thấy các con thuận hòa cùng nhau. Thầy muốn các con như vậy hoài. Ấy là lễ
hiến cho Thầy rất trọng. Trung! Thầy khen con đó. "
Sau đó Chí Tôn dạy
Đức Ngài Phạm Công Tắc như vầy:
"
THẦY
Một Trời một Đất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.
Tắc, có tuân
mạng lệnh Thầy chăng? Thầy có cấm con đừng dự việc hội đàm chăng? Con sắp đặt
hoàn thành rồi thối chức."
Ông tuân theo lệnh
của Chí Tôn làm đơn xin tạm nghỉ việc 6 tháng.
Ngày 30 tháng Chạp
năm Ất Sửu (1926) Đức Chí Tôn dạy mấy ông Cư, Tắc, Chiêu ôm cây cơ đến nhà của
mỗi vị để mừng xuân. Đến nhà ai thì cặp cơ Cư-Tắc phò loan, trước hết là nhà
ông phán Võ Văn Sang, sau cùng là nhà ông Lê Văn Trung.
Mỗi người đều được
một bài thơ tứ tuyệt, của ai cũng hay ho đẹp đẽ riêng của ông Tắc như vầy:
" Ngao ngán không phân lẽ thiệt
không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.
Nghe con! "
GIÁNG LINH HỘ PHÁP
DI ĐÀ
Khuya mùng
1 Tết Bính Dần (1926), Chí Tôn giáng dạy mấy ông:
" Hôm
nay là ngày trọng đại, Thầy chính thức khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt 92 ức
Nguyên Nhân đang bị đọa trầm luân:
Phụng gáy non Nam Đạo trổ mòi,
Trổ mòi nhân vật bốn phương trời.
Trời Âu, biển Á chờ thay sắc,
Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi. "
Qua ngày mùng 9
là ngày vía của Đức Chí Tôn, ông Quan Phủ Vương Quang Kỳ có thiết đàn tại nhà
riêng số 80 đường Lagrandìere. Đêm ấy có mời chư nhu và các vị đạo hữu hầu đàn.
Chí Tôn về giáng cơ dạy mấy ông:
" Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắc đến cùng ta."
Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau
các con sẽ hiểu.
Thầy vui muốn cho các con thuận hòa nhau hoài, ấy là lễ
hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh đạo Thầy.
Đạo Thầy
tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho nhau đặng thế lực đừng ganh gỗ
nghe. Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.
"
Khi ấy ông
Quan Phủ Chiêu mới xin Chí Tôn lấy tên mấy người đệ tử mà cho một bài thi làm kỷ niệm. Đức Chí Tôn cho bài thi nầy:
" Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Hậu Đức Tắc Cư thiên địa cảnh,
Hườn Minh Mân đáo thủ đài danh.
Hườn, Minh, Mân sau sẽ rõ…"
Những vị môn đệ
có tên trong bài thi đó là:
1 . Ngô Văn Chiêu
2 . Vương Quang Kỳ
3 . Lê Văn Trung
4 . Nguyễn Văn Hoài
5 . Đoàn Văn Bản
6 . Cao Hoài Sang
7 . Lý Trọng Quí
8 . Lê Văn Giảng
9 . Nguyễn Trung Hậu
10 .Trương Hữu Đức
11 . Phạm Công Tắc
12 . Cao Quỳnh Cư
Thật ra là Chí
Tôn có đến 13 vị môn đệ đầu tiên, vì 2 ông Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang cùng
tên nên Chí Tôn điểm chung 1 tên. Nếu phân tích theo Kinh Dịch thì 12 là đạo đã
thành, chính cái chưa xong số 13 đó mới biến thiên đạo truyền tới thất ức niên,
tức là 700.000 năm, giống như quẻ 63 là Ký Tế nghĩa là đã xong, nhưng qua đến
quẻ cuối cùng 64 là Vị Tế nghĩa là chưa xong.
Đại khái ý nghĩa
của bài thi đó là đạo đã được Đức Chí Tôn lập ra để cứu vớt đời, mấy ông Hườn,
Minh, Mân là 3 vị theo hầu đàn thôi, mấy ông chưa vào đạo, nhưng Chí Tôn tiên
tri trước là " đáo thủ đài danh ", tức là sẽ theo đạo.
Đến ngày Rằm
tháng 3, mấy ông thiết đàn tại nhà ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn Chí Tôn dạy như
sau:
" Cư
nghe dặn: Con biểu Tắc tắm rửa sạch sẻ, xông hương cho nó, biểu nó lựa một bộ
quần áo tây cho sạch sẻ, ăn mặc như thường, đội nón… Cười…
Đáng lẽ nó phải
sắm khôi, giáp như hát bội mà mắc nó nghèo Thầy không biểu. Bắt nó lên đứng
trên ngó mặt ngay vô ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải đều đắp mặt nó lại.
Lịch, con viết
một lá phù Giáng Ma Xử đưa cho nó cầm.
…
Cả thảy môn đệ
phân làm ba ban đều quì xuống, biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang đến
bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến rồi mới tới trước mặt Tắc đặng Thầy trục xuất chơn thần nó ra, nhớ
biểu Đức, Hậu xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.
Hai con mặc đồ
thường, chừng nào Thầy triệu Ngũ Lôi và Hộ Pháp về rồi Thầy biểu mặc Thiên phục
thề mới đặng. "
Nghi lễ thọ
phong Hộ Pháp khác thường, không lời tuyên thệ, không lời nguyện mà là một cuộc
hành pháp trục chơn thần Phạm Công Tắc ra khỏi xác phàm để chơn linh Di Đà Hộ
Pháp giáng ngự nơi thân thể ông Tắc như trong bài "Kinh Đại Tường"
có nói:
" Giáng
linh Hộ Pháp Di Đà,
Chuyển cây Ma
Xử đuổi tà trục tinh."
Từ đây ông Phạm
Công Tắc trở thành Hộ Pháp trong nền Đại Đạo. Ngài được Chí Tôn giao trọng
trách đứng đầu Hiệp Thiên Đài, thông công với các Đấng Thiêng Liêng.
Cũng trong thời
gian nầy có mấy ông được thọ phong là:
- Ông Cao Quỳnh
Cư thọ phong Thượng Phẩm.
- Ông Lê Văn
Trung thọ phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.
- Ông Lê Văn Lịch
thọ phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
- Ông Cao Hoài
Sang thọ phong Thượng Sanh
.
Mấy ông sau đây
được phong vị để phò cơ là:
- Đức, Hậu thọ
phong Tiên Đạo phò cơ Đạo Sĩ.
- Cư thọ phong
Tá cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ.
- Tắc thọ phong
Hộ Giá Tiên đồng Tá cơ Đạo Sĩ.
Đức Chí Tôn nhờ
cậy chủ yếu vào cặp cơ do ông Cư và Tắc phò loan như từ buổi ban sơ, 2 ông còn
được gọi là cặp cơ phong Thánh để truyền giáo, thành lập nền móng cho Đại Đạo.
Ngoài cặp cơ Cư-Tắc còn có các cặp cơ khác như SangDiêu, Hậu Đức, Nghĩa-Tràng,
Tươi-Chương, Kim-Đãi, Mai-Nguyên, Mạnh-Phước, Thâu-Vĩnh.
Sở dĩ phò loan cầu
cơ phải theo cặp như vậy đó là vì trong mỗi người đều có điển âm và điển dương,
nếu hai luồng điển đó được điều hòa thì cơ viết dễ và người tiếp điển thiêng
liêng dễ thông công với cảnh vô hình. Hai người lúc nhơn điển xuất ra, hễ bên nầy
âm thì bên kia dương, bên nầy đương thì bên kia âm, hai luồng điển ấy xô đẩy
hút kéo nhau mà cây cơ được vận chuyển. Lúc điển vô hình chưa giáng thì 2 luồng điển ấy không ăn với nhau, vì cớ
mà cây cơ không chuyển động. Chừng lúc nào người tiếp điển đã xuất chơn thần tiếp
rước điển thiêng liêng, thì điển vô hình làm cho 2 luồng nhơn điển dụng chạm
nhau mà xây chuyển cây cơ. Còn cây cơ có chuyển mà viết không được, vì một phần
do 2 luồng nhơn điển không điều hòa cùng nhau, nó chạm nhau mà không làm 1 âm,
hay 1 dương, vì đó mà cây cơ không chỉ theo chỗ, hay không chuyển động được, hoặc
do thần không tịnh, hoặc do thần của người tiếp điển lộn xộn bất định, nên điển
thiêng liêng bị đứt, chơn thần của kẻ phò loan làm cho loạn điển. Điển vô hình là thứ điển thuần dương
mà thôi, do đó mà khi điển thiêng liêng giáng hiệp với 2 luồng điển của cặp phò
loan mà thành luồng điển 3 dây. Sự huy động của cây cơ là do luồng điển hợp
thành ấy.
Điển của việc
phò loan là do đó, còn điển của việc chấp bút cũng do luồng điển 3 dây hợp
thành mà làm chuyển động bàn tay chấp bút, nhưng cái khó là người chấp bút một
lần phải xuất ra 2 thứ điển âm và dương đặng vận chuyển cây bút.
Nhưng cây bút phải
là cây bút chì đặng điển thiêng liêng chạy vòng trong cây bút mà không đụng đến
tay người chấp bút thì mới viết dễ dàng được.
Cũng chính vì vậy
mà người ta có thể nghi ngờ các Thánh Ngôn là do người phàm phò loan chấp bút
viết ra. Thế nên cơ bút có thiệt mà cũng có giả, chỉ có người trong cuộc mới hiểu
rõ mà thôi.
Về sau nhằm ngăn
chặn sự lợi dụng cơ bút, một hiến pháp gọi là "Hiến Pháp cơ bút"
được ra đời, qui định chỉ chấp nhận và thừa nhận cầu cơ nơi Cung Đạo tại Tòa
Thánh mà thôi. Khi cơ đạo biến chuyển, Đức Hộ Pháp lên nắm quyền nhị hữu hình
đài cũng có ra Thánh Lịnh nói về việc cơ bút như vầy:
" Cơ bút
vẫn là hư hư thiệt thiệt, vì bất kỳ sự chi mà có tánh phàm của con người phối hợp
vào đó đều giả nhiều mà thiệt ít. Cơ bút đủ quyền tạo đạo đặng, thì nó cũng đủ
quyền diệt đạo đặng. Vì cớ mà Đức Chí Tôn đã cấm cơ Phổ Độ. "
Trong thời gian
đó, đất nước đang bị đô hộ dưới quyền Pháp, việc tập trung nhiều người mà không
có giấy phép hội họp cũng là một nỗi lo lớn của mấy ông.
Các đàn cơ đâu
thể nào tránh khỏi sự theo dõi của bọn mật thám Pháp. Nhứt là ông quan phủ Ngô
Văn Chiêu, Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang biết rõ luật pháp chính quyền đô hộ hơn
ai hết. Thậm chí bọn chúng còn cho mật thám trà trộm theo dõi nơi đáng nghi ngờ,
mà điển hình là chúng cho ông thông dịch viên Nguyễn Văn Tường, cảnh sát Trần
Văn Tạ, quản Báo,… trà trộm để theo dõi đạo, nhưng rốt cuộc mấy ông nầy lại
theo đạo và thọ Thiên phong.
Nhìn thấy trước
được những khó khăn đó mấy ông rất lấy làm lo lắng, nhứt là ông Lê Văn Trung,
nên ngày 16 tháng 8 năm Bính Dần, Chí Tôn giáng có dạy:
" Các
con xin Chánh Phủ Lang Sa đặng khai đạo thì cực chẳng bằng Thầy đã ép lòng mà
chịu vậy cho tùng nơi Thiên cơ. Thầy rất đau lòng mà phải chịu vậy chớ biết
sao? Con phô lời cho cả chư môn đệ Thầy thâu thập vào phái Thái, rồi cho chúng
nó hiểu. "
Chí Tôn còn dạy
2 ông Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt phải nhóm họp các môn đệ mà
lo khai đạo.
Gần một tuần sau
đó Chí Tôn dạy mấy ông như vầy:
" Trung,
con biết Thầy thương yêu nhân loại là dường nào chưa? Những điều ngăn trở đều
do nơi tiền khiên của chúng sanh. Đã vào trọn một thân mình nơi ô trược thì Thầy
đây cũng khó mà rửa với một gáo nước mà đặng trong sạch. Nhơn loại đã thâm nhiễm
vào tình luyến ái tà mị trên 10 ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một
lúc chẳng tới một năm cho trọn lành đặng.
Rất đỗi Thầy
là bực Chí Tôn đây mà còn bị chúng nó mưu lén cho qua Thánh ý Thầy thay, một
đàng trì, một đàng kéo, thảm thay các con chịu ở giữa.
Thầy dạy các
con một điều là biết tranh đấu cùng Thầy, hễ nó tấn thì mình chống, cân sức cho
bằng hay là trổi hơn mới đắc thắng. Các con chịu nổi thì đạo thành, còn các con
ngã thì đạo suy. Liệu lấy.
Cầm cả quyền
hành vô lượng nơi tay. Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà
phép công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy, ấy cũng là cơ mầu nhiệm cho các
con có thể lập công quả.
Trung, Lịch
hai con phải hội chư Thánh mà xin khai đạo. Phải làm đơn mà dâng cho Thầy xem
xét sửa trước nghe! "
Ngày hôm sau các
vị môn đệ họp tại nhà ông Nguyễn Văn Tường ở đường Gallíeni. Buổi chiều hôm đó
trời đột nhiên đổ mưa rất lớn, kéo dài khoảng 3 tiếng đồng hồ làm ngập đường
xá, giao thông bị bế tắc. Nhờ vậy mà buổi họp không bị lính mật thám quấy rầy,
và cũng đồng thời khiến cho những người hiếu kỳ chỉ muốn đến xem cho vui không
đến được.
Buổi họp được bắt
đầu khoảng 7 giờ 30 tối dưới sự hướng dẫn của ông Trung, Lịch, Cư. Văn bản dự
kiến của Tờ Khai Đạo được đọc lên cho toàn thể môn đồ có mặt được nghe và góp ý. Sau khi tất cả đã thống
nhứt nội dung, ông Trung chịu trách nhiệm soạn ra văn bản bằng tiếng Pháp để gởi
cho chánh quyền Pháp.
Đại hội kết thúc
vào khoảng 9 giờ tối, lúc đó trời cũng bắt đầu tạnh mưa. Đồng đạo lần lượt ra về
bình an. Trong buổi hợp hôm đó hiện diện đếm được 247 vị, nhưng ký tên vào danh
sách chỉ thấy có 244 vị, vì có một vị ghi lộn số thứ tự và còn 2 vị chưa kịp ký
tên.
Sau khi ông
Trung viết xong Tờ Khai Đạo bằng tiếng Pháp thì mấy ông lập đàn tại nhà ông Cư
để dâng lên cho Chí Tôn xét qua. Chí Tôn giáng cơ bảo ông Diêu đọc tên từng người
trong danh sách, khi cơ gõ tên người nào thì đưa tên người ấy vào Tờ Khai Đạo.
Tổng cộng Chí Tôn điểm 28 vị được đưa vào Tờ Khai Đạo. Xong Chí Tôn dạy:
"Thầy dặn
con, Trung, nội thứ năm tuần tới phải đem đến Le Fol mà khai cho kịp nghe."
Sau đó ông Trung
vâng lịnh Thầy chờ đến thứ năm tuần sau, là ngày mùng 1 tháng 9 năm Bính Dần (1926), đích thân ông
Trung lên dinh Thống Đốc Nam Kỳ nạp Tờ Khai Đạo cho ông Thống Đốc Le Fol.
Nguyên văn tờ khai viết bằng tiếng Lang Sa xin được trích ra như sau:
" Saigon, le 7 Octobre 1926
Monsieur le
Gouverneur,
Les
Soussignés, ont l’honneur de venir respectueusement vous faire connaitre ce qui suit:
Il existait
en Indochine trois Religions (Boudhisme, Taoisme et
Confucianisme).
Nos ancêtres pratiquaient religieusement ces trois doctrines et vivaient
heureusement en suivant strictement les beaux préceptes dictés par les Créateurs de
ces religions. On était, pendant cet ancien temps, tellement insoucieux qu’on pouvait
dormir sans fermer les portes et qu’on dédaignait même de ramassser les objets
tombés dans la rue (gia vô bế hộ, lộ bất thập di, tel est l’adage inscrit dans nos annales).
Hélas! Ce
beau temps n’existe plus pour les raisons suivantes:
1 . Les
pratiquants de ces religions ont cherché à se deviser, tandis que le but de toutes les
religions est le même: Faire le bien et éviter le mal, adorer pieusement le Créateur.
2 . Ils ont
dénaturé complètement la signification de ces saintes et précieuses doctrines.
3 . La course
au confort, à l’honneur, l’ambition des gens, sont aussi des causes
principales des divergences d’opinions actuelles. Les Annamites de nos jours ont
complètement abandonné les bonnes moeurs et traditions de l’ancien temps.
Ecoeurés de
cet état de choses, un groupe d’Annamites, fervents traditionalistes et religieux,
ont étudié la refonte de toutes ces religions, pour n’en former qu’une seule et unique
appelée CAODAISME ou ĐẠI ĐẠO.
Le nom "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ", qui signifie la troisième Amnistie Générale, est
donné par l’Esprit Suprême qui est venu aider les soussignés à fonder cette
nouvelle religion.
L’Esprit
Suprême est venu sous le nom de Ngọc Hoàng Thượng Đế dit Cao Đài ou “Le
Très Haut, DIEU TOUT PUISSANT ".
Par
l’intermédiare de médiums écrivants, Ngọc Hoàng Thượng Đế transmet aux
soussignés des enseignements divins ayant pour but de concentrer et d’enseigner
les beaux préceptes de ces trois anciennes Religions.
La Nouvelle
Doctrine enseignera aux peuples:
1 . La haute
morale de Confucius;
2 . Les vertus
dictées dans les religions boudhique et taoique. Ces vertus consistant à
faire le bien et éviter le mal, aimer l’humanité, pratiquer la concorde, éviter
totalement la dissention et la guerre.
Les sousignés
ont l’honneur de vous soumettre:
1 . Quelques
extraits du recueil des “Saintes Paroles” de Ngọc Hoàng Thượng Đế, paroles
estimées plus précieuses que tout ce qui existe ici-bas.
2 . La
tradition de quelques passages du livre de prières que Ngọc Hoàng Thượng Đế
nous a enseignées. Le but poursuivi par les soussignés est de ramener les peuples à
l’ancien temps de paix et de concorde. On sera ainsi dirigé vers une époque
nouvelle tellement heureuse qu’il est difficile de la décrire. Au nom de très nombreux
Annamites qui ont entièrement approuvé ces études et don’t la liste est
cijointe, les soussignés ont l’honneur de venir respectueusement vous déclarer
qu’il vous propager à l’humanité entière cette Sainte Doctrine.
Persuadés
d’avance que cette Nouvelle Religion apportera à nous tous la Paix et la
Concorde, les soussignés vous prient de recevoir officiellement leur déclaration.
Les
soussignés vous prient d’agréer, Monsieur le Gouverneur, l’assurance de leurs
sentiments respectueux et dévoués” (PIERRE BERNARDINI, Le Caodaisme au Cambodge,
Universite1 de Paris VII, trang 282–284).
Ont signé:
- Mme Lâm Ngọc Thanh,…
- Mr Lê văn Trung,…
…"
Nguyên văn Tờ
Khai Đạo được Hiền Tài Nguyễn Kim Anh, Giáo Sư Pháp Văn Trung Học Tây Ninh tạm dịch ra như
sau:
" Sài
Gòn, ngày 7 tháng 10 năm 1926
Kính ông Thống
Đốc,
Những người
ký tên dưới đây, hân hạnh kính báo đến ông biết những điều sau: Từ trước ở Đông
Dương đã có ba Tôn Giáo (Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo). Tổ tiên chúng tôi đã
tu theo giáo lý Tam Giáo và sống hạnh phúc nhờ thuận tùng nghiêm khắc những lời
dạy tốt đẹp của các vị Chưởng Giáo của các Tôn Giáo ấy. Vào thời xưa, người ta
sống vô tư đến độ có thể ngủ mà không cần đóng cửa và ra đường chẳng thèm lượm
của rơi (gia vô bế hộ, lộ bất thập di là câu nói đã được sử sách ghi lại).
Buồn thay! Thời
kỳ tốt đẹp đó không còn vì những lý do sau đây:
1 . Tín hữu của
các Tôn Giáo ấy tìm cách chia rẻ nhau, trong khi mục đích của tất cả các Tôn
Giáo đều như nhau: Làm lành lánh dữ, lòng thành thờ kính Đấng Tạo Hóa.
2 . Họ làm lệch
lạc hoàn toàn ý nghĩa của các giáo lý thánh thiện và quý giá đó.
3 . Sự chạy
theo vinh hoa phú quý, tính tham vọng của con người là những nguyên nhân chính
của các bất đồng tư tưởng hiện nay.
Người Việt
Nam hôm nay đã từ bỏ hoàn toàn những mỹ tục và truyền thống cổ xưa.
Đau lòng trước
tình huống này, một nhóm người Việt Nam nhiệt tâm với truyền thống và đạo hạnh
đã nghiên cứu canh tân tất cả các Tôn Giáo này mà hợp nhứt lại với tên gọi là đạo
Cao Đài hay Đại Đạo.
Danh hiệu Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nghĩa là đại ân xá kỳ ba đã do Đức Chí Tôn ban bố. Ngài đã
giáng trần với danh hiệu Ngọc Hoàng Thượng Đế tức Đức Cao Đài hay là “Đấng Tối
Cao, Thượng Đế toàn năng”.
Qua trung
gian đồng tử, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cho những người ký tên dưới đây Thánh
Giáo có mục đích tập trung giảng dạy những lời giáo huấn tốt lành của Tam Giáo
cổ xưa.
Nền tân giáo
lý sẽ dạy nhân sanh:
1 . Luân lý cao
siêu của Đức Khổng Phu Tử,
2 . Những đức hạnh
được dạy trong Phật Giáo và Lão Giáo. Những đức hạnh này bao gồm việc làm lành
lánh dữ, yêu thương nhân loại, sống hòa hợp, tránh mọi sự chia rẻ và chiến
tranh.
Những người
ký tên dưới đây hân hạnh gửi đến ông:
1. Một vài đoạn
trích lục trong những "Thánh Ngôn" của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, những
lời dạy quí báo hơn tất cả mọi cái hiện hữu trên đời này.
2 . Một vài đoạn
trong quyển Kinh cầu nguyện mà Đức Thượng Đế đã dạy chúng tôi.
Mục đích của
những người ký tên dưới đây theo đuổi là nhằm đưa nhân sanh trở lại thời cổ xưa
hòa bình và hòa hợp. Được vậy, con người sẽ hướng về một kỷ nguyên mới hạnh
phúc khôn tả.
Nhân danh rất
nhiều người Việt Nam đã đồng ý hoàn toàn những điều nghiên cứu này và đính kèm
danh sách dưới đây, những người ký tên hân hạnh tuyên cáo cho ông biết là chúng
tôi sẽ truyền bá cho toàn thể loài người nền giáo lý thánh thiện này.
Tin rằng nền
tân Tôn Giáo này sẽ đem đến cho tất cả chúng ta sự hòa bình và hòa hợp, những
người ký tên thỉnh cầu ông chính thức tiếp nhận tuyên ngôn của chúng tôi.
Kính Thống Đốc,
những người ký tên dưới đây xin ông nhận những tình cảm trân trọng và thành
kính của chúng tôi.
Ký Tên:
1 . Bà Lâm Ngọc
Thanh, Nghiệp Chủ, Vũng Liêm.
2 . Ông Lê
Văn Trung, cựu Thượng Nghị Viên, Ngũ đẳng Bắc Đẩu bội tinh, Chợ Lớn.
3 . Ông Lê Văn
Lịch, thầy tu làng Long An, Chợ Lớn.
4 . Ông Trần Đạo
Quang, thầy tu làng Hạnh Thông Tây, Gia Định.
5 . Ông Nguyễn
Ngọc Tương, Tri Phủ, Chủ Quận Cần Giuộc.
6 . Ông Nguyễn
Ngọc Thơ, Nghiệp Chủ, Sài Gòn.
7 . Ông Lê Bá
Trang, Đốc Phủ Sứ, Chợ Lớn.
8 . Ông Vương
Quang Kỳ, Tri Phủ, Sở thuế thân, Sài Gòn.
9 . Ông Nguyễn
Văn Kinh, thầy tu Bình Lý thôn, Gia Định.
10 . Ông Ngô
Tường Vân, Thông Phán Sở Tạo Tác, Sài Gòn.
11 . Ông Nguyễn
Văn Đạt, Nghiệp Chủ, Sài Gòn.
12 . Ông Ngô
Văn Kim, Điền Chủ, Đại Hương Cả, Cần Giuộc.
13 . Ông Đoàn
Văn Bản, Đốc học trường Cầu Kho, Sài Gòn.
14 . Ông Lê
Văn Giảng, Thơ Ký Kế Toán hãng Ippolito, Sài Gòn.
15 . Ông Huỳnh
Văn Giỏi, Thông Phán sở Tân Đáo, Sài Gòn.
16 . Ông Nguyễn
Văn Tường, Thông Ngôn sở Tuần Cảnh, Sài Gòn.
17 . Ông Cao Quỳnh
Cư, Thơ Ký sở Hỏa Xa, Sài Gòn.
18 . Ông Phạm
Công Tắc, Thơ Ký sở Thương Chánh, Sài Gòn.
19 . Ông Cao
Hoài Sang, Thơ Ký sở Thương Chánh, Sài Gòn.
20 . Ông Nguyễn
Trung Hậu, Đốc học trường Tư Thục Đakao, Sài Gòn.
21 . Ông Trương
Hữu Đức, Thơ Ký sở Hỏa Xa, Sài Gòn.
22 . Ông Huỳnh
Trung Tuất, Nghiệp Chủ, Chợ Đủi, Sài Gòn.
23 . Ông Nguyễn
Văn Chức, Cai Tổng, Chợ Lớn.
24 . Ông Lại
Văn Hành, Hương Cả, Chợ Lớn.
25 . Ông Nguyễn Văn
Trò, Giáo Viên, Sài Gòn.
26 . Ông Nguyễn
Văn Hương, Giáo Viên, Đakao.
27 . Ông Võ Văn
Kinh, Giáo Tập, Cần Giuộc.
28 . Ông Phạm
Văn Tỷ, Giáo Tập, Cần Giuộc."
Nội dung Tờ Khai
Đạo như thông báo chính thức cho chính quyền Pháp biết rằng mấy ông sẽ tuân theo
lịnh của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mà mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chớ không phải
là một tờ xin phép được khai đạo. Thế nên, mấy ông không cần chờ phúc văn của
Pháp mà bắt đầu công cuộc truyền giáo phổ độ luôn, vả lại cũng không có bản văn
kiện nào trả lời hoặc cho phép về Tờ Khai Tịch Đạo nầy cả. Chính Thống Đốc Nam
Kỳ, Le Fol một viên chức dày dặn kinh nghiệm cũng không thể ký giấy phép cho Đạo
Cao Đài hoạt động, vì đó chỉ là một Tờ Khai Tịch Đạo quá khôn khéo của Ngài Hộ
Pháp và ông Đầu Sư Thượng Trung Nhựt cùng với các môn đồ của Chí Tôn viết nên,
chớ chẳng có ai xin phép cả. Đây là bằng chứng hùng hồn để trả lời cho những ai
hô hào bảo rằng Pháp là người đã ký giấy cho phép Đạo Cao Đài hoạt động.
Ngay sau khi Tờ
Khai Đạo được ông Thống Đốc Nam Kỳ tiếp nhận, ông Trung giao cho ông Cư biên soạn
bản "Phổ Cáo Chúng Sanh" để ban hành trong giới chức sắc, tín
đồ, và nhơn sanh khắp nơi, thông báo cho biết rằng Đạo Cao Đài đã được công
khai trên mặt pháp lý để các tín đồ yên tâm thờ phượng và hành đạo, đồng thời
gián tiếp thông báo cho các chính quyền địa phương biết Đạo Cao Đài đã đượcThống
Đốc Nam Kỳ hoan nghinh. Nguyên văn nội dung bản "Phổ Cáo Chúng Sanh"
đó như vầy:
" Thuở hỗn
độn sơ khai, nhứt khí Hư Vô sanh duy có một Đấng Tạo Hóa, người phương Đông gọi
là Ngọc Hoàng Thượng Đế, người Âu Tây gọi là DIEU, Đức Chúa Trời, người An Nam
gọi là Ông Trời, là Đấng dựng nên Trời Đất và muôn vật."
Có Thánh Ngôn, Đức
Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ ngày 13 tháng 6 năm Bính Dần, rằng:
"…Bậc
chơn tu, tỷ như hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông,
trổ bông rồi sanh trái, mà biến biến sanh sanh càng thêm tăng số, vì vậy mà các
con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa Chơn thần, Chơn
thần lại biến hóa hằng muôn, thêm tăng lên hoài. Ấy là Đạo.
Bởi vậy, một
Chơn thần mà sanh hóa chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn
loại trong Càn khôn Thế giới, nên chi, các con là Thầy, Thầy là các con.
Như kẻ bên Phật
giáo hay tặng Nhiên Đăng là Chưởng giáo, Nhiên Đăng vốn sanh ra đời Hiên Viên
Huỳnh Đế.
Người gọi
Quan Âm là Nữ Phật tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân, Từ Hàng
lại sanh ra lúc Phong Thần, đời nhà Thương.
Người gọi
Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ, Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.
Người gọi Lão
Tử là Tiên Tổ giáo thì Lão Tử cũng sanh đời nhà Châu.
Người gọi
Jésus là Thánh đạo Chưởng giáo, thì Jésus cũng sanh nhằm đời nhà Châu.
Thầy hỏi vậy
chớ ai sanh ra các Đấng ấy? Ấy là Đạo, các con nên biết.
Nếu không có
Thầy thì không có chi trong Càn khôn Thế giới nầy, mà nếu không có Hư Vô chi
Khí thì không có Thầy."
Chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật mỗi khi giáng cơ đều xưng là Đạo hữu với các chư môn đệ Nam phái Nữ
phái của Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn chính mình Ngài lại xưng là Thầy của chúng
ta và hằng dạy rằng: Sự khiêm từ nhịn nhục hạ mình là hạnh yêu dấu của Ngài.
Khi chư Thiện
nam Tín nữ vừa nghe trong môn đệ gọi Ngọc Hoàng Thượng Đế là Thầy thì ái ngại
điều phạm thượng, song đã có Thánh Ngôn chính mình Ngài dạy vậy, xin hãy an
lòng.
Có hai Đạo hữu:
Tương, Kinh, vẫn trước khi nhập môn thì đã thọ nghĩa thầy trò cùng vị Lão thành
pháp danh là Đạo Quang nơi chùa Minh Dường (Hạnh Thông Tây).
Nhằm ngày 21
tháng 8 năm Bính Dần, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ tại chùa ấy dạy việc, luôn
dịp Ngài có để lời rằng:
" Tương,
Kinh, hai con phải lạy Đạo Quang trước mặt Thầy, rồi từ đây gọi là Anh mà thôi,
còn Thầy duy có một Thầy."
Thánh Ngôn ngày
mồng 5 tháng 9 năm Bính Dần có dạy rằng:
"Ngọc
Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, giáo đạo Nam
phương.
Các con coi bậc
Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một
vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên và Phật. Đáng lẽ thế thường phải
để mình vào phẩm vị tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là thể nào. Vì
vậy mà nhiều kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ.
Hạnh khiêm
nhượng là hạnh của mỗi đứa con phải noi gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng…"
Thánh Ngôn dạy tại
Vĩnh Nguyên Tự, chùa Minh Đường, Cần Giuộc:
"Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã,
Thích Ca Mâu Ni thị Ngã,
Thái Thượng Ngươn Thỉ thị Ngã,
Gia Tô Giáo Chủ thị Ngã,
Kim viết Cao Đài Bồ Tát Ma Ha Tát."
Thánh Ngôn ngày
25 tháng 2 lang sa năm 1926:
" Trọng
Ni (Khổng Phu Tử) là Văn Xương Tiên hạ trần đặng thừa mạng Thầy
làm Chưởng
giáo Nhơn Đạo, lo xong phận sự thì Thầy đến độ hồi cựu vị." Trong mấy lần giáng thế hóa thân truyền Đạo,
Ngọc Hoàng Thượng Đế đều có để lời tiên tri rằng:
" Ngày
kia sẽ có một nước nhỏ nhen trong vạn quốc mà đặng làm chủ nền Chơn đạo Ta.
"
Trong Sám truyền
và Phật Tông Nguyên Lý đều có ghi lời tiên tri ấy.
Chúng ta nên
nghĩ, tiếc cho Phật đạo và Tiên đạo đã khai từ thuở mới tạo Thiên lập Địa, nay
càng ngày càng xem tựa hồ như nền Chơn đạo đã biến dời, lần lần xa nguồn Chánh
giáo. Ngoái lại coi Thánh Đạo gọi Gia Tô mới lập trong hai ngàn năm nay mà
Thánh quyền cao thượng là dường nào.
Song, mọi việc
chi cũng hữu chung hữu thỉ, có tạo Thế tức là có Tận Thế. Cái tận tức là cuối
cùng, mà hễ cuối cùng chẳng dứt thì phải qui nguyên lại trước nên gọi là Tuần
hườn.
Ngày nay là buổi
tuần hườn Đại Đạo, Thiên Địa hoằng khai, Ngọc Hoàng Thượng Đế tuy chẳng giáng
sanh như mấy kỳ trước, song giáng thế bằng huyền diệu Tiên bút, khai Đạo tại
Nam phương, hầu chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn.
Có Thánh Ngôn
ngày 13 tháng 3 Bính Dần rằng:
" Vốn từ
trước, Thầy lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là:
Nhơn đạo
Thần đạo
Thánh đạo
Tiên đạo
Phật đạo
Tùy theo
phong hóa của nhơn loại mà gầy Chánh giáo, vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn
vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì
nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Đạo ấy mà
nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nữa,
trước Thầy lại giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo
mà làm ra Phàm giáo. Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười ngàn năm,
nhơn loại phải bị sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.
Thầy nhứt định
đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Thánh giáo cho tay phàm nữa."
"…Chẳng
một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của
nhơn loại…"
Tuy vân, mỗi lần
giáng thế truyền Đạo thì đổi Thánh danh khác nhau, chớ kỳ trung cũng một Chơn linh Ngọc Hoàng Thượng
Đế.
Còn nay giáng thế
bằng huyền diệu đặng chuyển Phật giáo, chuyển Phật pháp, chuyển Phật tăng, lại
lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Troisième Amnistie générale) (Đại Ân Xá lần thứ ba)
thì Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, giáo đạo
Nam phương.
Thánh Ngôn ngày
7 tháng 7 năm Bính Dần:
" Vốn từ
ngày Đại Đạo bế lại, chánh quyền đều vào một tay Chúa Quỉ. Khi Ngọc Hư Cung và
Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ, Chúa Quỉ biết cơ mầu nhiệm ấy và hiểu rõ rằng
Tà quyền đã dứt, nên trước khi Thầy chưa đến thì nó đã hiểu rõ rằng: Bề nào Thầy
cũng phải chiếu y Thánh ý Tam giáo qui nhứt mà dùng danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ
Tát Ma Ha Tát, nên đã dùng danh Cao Đài trước Thầy mà lập Tả đạo Bàng môn.
Thầy hỏi các
con: Vậy chớ Tà quái nhận tên ấy là chủ ý gì?
…Lại làm cho
ra rẻ rúng danh ấy để cho các con nghi ngờ mà lánh xa Chánh giáo, như đàn Cái
Khế vậy, nhưng có một điều là nó không dám ngự nơi ngai Thầy, tiện dùng làm một
vị Tiên Ông mà thôi.
Vậy các con
khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia, đừng vội tin mà lầm mưu Tà mị."
Nội trong Thánh
danh: Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, chúng ta đủ hiểu rõ Thánh ý gồm Tam giáo (Nho Thích
Đạo) và Ngũ Chi Đại Đạo cũng qui nguyên phục nhứt.
Cao Đài: Nho gọi
là Đấng Chí Tôn.
Tiên Ông: là về
Tiên đạo.
Đại Bồ Tát Ma Ha
Tát: là về Thích giáo.
Có bài thơ giáng
cơ tại Biên Hòa rằng:
"
Chín Trời mười Phật cũng là
Ta,
Truyền đạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh, Tiên, Phật đạo vốn như nhà."
Ngài đã dạy rõ rằng:
Tam Kỳ Phổ Độ tuy khai năm Dần (Nhơn sanh ư Dần) chớ kỳ trung Thiên cơ tiền định đã lâu rồi:
Thánh Ngôn rằng:
‘Vốn từ trước,
trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có:
Nhứt Phật,
Tam Tiên,
Tam thập lục
Thánh,
Thất thập nhị Hiền,
Tam thiên đồ đệ.
Chưởng quản thâu
Tam giáo hiệp nhứt.
Nơi Bạch Ngọc
Kinh, hơn sáu chục năm trước, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ của Thầy,
nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời, Thầy coi lại bọn ấy lại làm tội lỗi hơn kẻ
phàm xa lắm. Vậy vì cớ chi, các con biết chăng?
Bị hàng phẩm
Nhơn tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước. Đáng lẽ Thầy cũng nên cho các
con phải chịu số phận bần hàn, mà bởi không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy.
Thầy nói thiệt cho các con biết: Dầu một vị Đại La Thiên Đế xuống phàm nầy mà
không tu cũng khó trở lại địa vị đặng.
Ngài hằng dạy rằng:
Đạo phổ thông trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh.
Vậy thì trong kỳ
Phổ độ nầy là lần thứ ba, lại là lần chót, xin chư Hòa Thượng, chư Lão thành,
chư sơn cùng chư Chức sắc cả Tam giáo, và chư Thiện nam Tín nữ ráng hiệp sức, cộng
trí vùa giúp chung lo chấn hưng Chơn Đạo cho hoàn toàn, hầu cứu vớt chúng sanh
thoát khỏi trầm luân khổ hải.
Có Thánh Ngôn
giáng cơ ngày 27 tháng 6 năm Bính Dần rằng:
" Thầy hằng
nói cùng các con rằng: Thầy đến độ rỗi các con là đến lập tại thế nầy một Trường
thi Công quả. Các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi trường nầy mà đoạt thủ
địa vị mình, chớ chẳng đi nơi nào khác mà đặng đắc đạo bao giờ. Thầy lại khuyên
nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc
đạo, phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh còn phải bị trầm luân nơi khổ hải,
chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.
Nay tuy các
con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm mà chính mình Thầy đã đến nói, các con
cũng nên tin nơi Thầy mà cho rằng lời dạy của Thầy là chơn thật.
Nếu các con đợi
đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác, mới thấy cơ mầu nhiệm đặng, thì chừng ấy
đã muộn rồi."
Chúng ta lưu ý rằng:
Ngũ Chi: Minh Đường, Minh Sư, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân cũng đều do nơi Phật
pháp mà ra, chớ nên lầm tưởng vì chia phái mà riêng Đạo. Hễ cùng nhau một Đạo tức
là con một CHA, phải thương yêu nhau, vùa giúp nhau như tình đồng cốt nhục vậy.
Từ buổi bế Đạo,
tu nhiều thành ít, gẫm lại coi, từ trước nơi cõi Á Đông nầy đã đặng bao nhiêu
Tiên, Phật. Chúng ta duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi.
Thánh Ngôn của
Ngọc Đế giáng cơ tại chùa Minh Đường Vĩnh Nguyên Tự ngày 14 tháng 7 năm Bính Dần
rằng:
" Đời Mạt
kiếp nầy dữ nhiều lành ít, nếu Thầy không chuyển pháp lại thì chưa một ai tu đặng
trọn Đạo."
Ngài có giáng cơ
tại Chùa Minh Đường ở Hạnh Thông Tây ngày mồng 2 tháng 9 năm Bính Dần, cho bài
Tứ Tuyệt nầy:
" Huợt địa bất tri Thánh chí tân,
Minh Thiên nhựt khí tản phong trần.
Huyền vi thế sự vô nhơn thức,
Hiệp khí bất năng hiệp diệu thần. "
Theo tứ bài thi
trên đây thì xét đương kim ít ai quen thuộc đường đi nước bước mà gấm ghé chơn
vào nguồn Tiên ngọn Phật. Duy thành đạo cùng chẳng thành đều do nơi Thiên ý,
công bình chánh trực, đại từ đại bi của Ngọc Đế ban ơn cho chúng ta, tùy theo
công quả âm chất và công phu của chúng ta khổ hạnh hành đạo.
Thánh Ngôn hằng
dạy rằng: Người đời muốn đặng giàu có thì phải làm ra của, ấy là về phần phàm,
xác thịt; còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn đắc đạo phải có công quả.
Nếu lầm tưởng rằng
bấy nhiêu Đạo lý trong Cổ pháp Cựu luật thế tình mà đủ chiếm máy Thiên cơ huyền
vi mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa và đặng phản nguyên ư nhứt Khí Hư Vô, hay là tưởng
rằng người thông thuộc kinh sám, hằng bữa tụng cầu, lâu ngày chầy tháng mà
thành Tiên hóa Phật, thì từ cổ cập kim, quê hương chúng ta, Tiên, Phật An Nam
biết kể sao cho xiết.
Vậy thì đâu đến
đỗi Thượng Đế phải giáng trần mà chuyển Pháp, và e khi cũng khỏi lập Tam Kỳ Phổ
Độ mà cứu vớt nhơn sanh.
Có Thánh Ngôn Ngọc
Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài giáng cơ tại Hội Trường Sanh Tự (Cần Giuộc) ngày
19 tháng 4 năm Bính Dần, dạy chư chúng sanh rằng:
" Từ trước,
Ta giáng sanh lập Phật giáo gần sáu ngàn năm thì Phật đạo Chánh truyền gần thay
đổi. Ta hằng nghe chúng sanh nói: Phật giả vô ngôn. Nay nhứt định lấy huyền diệu
mà giáo hóa chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn.
Dường nầy, từ đây chư chúng sanh chẳng tu, bị đọa A Tỳ thì hết lời nói rằng: Phật
tông vô giáo, mà chối tội nữa.
Ta nói thiệt
cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không tu thì không còn trông
mong siêu rỗi."
Thánh Ngôn của
Thích Ca Như Lai kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát, giáng tại Hội Phước Tự
ngày 26 tháng 4 năm Bính Dần, rằng:
" Chư sơn nghe dạy:
Vốn từ Lục Tổ
thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành. Chánh
pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật, buộc mối Đạo
Thiền.
Ta vì luật lịnh
Thiên mạng đã ra, cho nên cam để vậy, làm cho Phật tông thất chánh có trên 3
ngàn năm nay.
Vì Tam Kỳ Phổ
Độ Thiên Địa hoằng khai, nơi Tây phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã
truyền siêu rỗi chúng sanh.
Trong Phật
Tông Nguyên Lý đã có cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ không kiếm
chơn lý mà hiểu. Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo.
Ôi! Thương
thay, công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà Ta rất đau lòng.
Ta đến chẳng
phải cứu một mình chư tăng mà thôi, vì trong thế, hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên,
Phật phải đọa hồng trần, Ta đương lo cứu vớt.
Chư tăng, chư
chúng sanh hữu căn hữu kiếp đặng gặp kỳ Phổ độ nầy là lần chót, phải ráng sức
tu hành, đừng mơ tưởng hoài trông giả luật…
Ta đến với
huyền diệu nầy thì từ nay Ta cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày
sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền.
Chư tăng từ
đây chẳng đặng còn nói: Phật giả vô ngôn, nữa."
Trần thế bị những
sự vinh hoa phú quí hằng làm chìm đắm biết bao nhiêu người có tiền căn cựu phẩm,
vì ham luyến hồng trần mà lạc bước vào đường tội lỗi.
Vậy thì, nay trống
Lôi Âm đã giục, chung Bạch Ngọc đã rung, xin chư Thiện Nam Tín Nữ hồi tâm tỉnh
ngộ, lo tu tâm dưỡng tánh mà chen bước vào đường đạo đức cho kịp thời Tam Kỳ Phổ
Độ nầy. Gẫm xét cho cùng tột rồi, chẳng vinh diệu nào cho bằng chịu khổ hạnh
nâu sồng, lập âm chất công quả hầu siêu rỗi cho tiền bối nơi Chín Suối, chưởng
đức lưu truyền lại cháu con, ráng công phổ độ, cứu vớt nhơn sanh khỏi nơi trầm
luân khổ hải, và chính mình đặng cải tà qui chánh, thoát kiếp luân hồi, ấy là sở
hành cao thượng vô cùng.
Có bài thi giáng
cơ rằng:
" Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Đạo vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hiển,
Đôi năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có Thần nuôi nấng Thần càng mạnh,
Luyện Khí thông thương Khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương."
Trong nước có
nhiều Đạo mà chẳng một Đạo chi đáng chơn chánh đặng làm gương soi cho quốc dân, cho nên nước phải
thấp, dân phải hèn, thấp hèn cũng vì dân một nước như con một nhà mà xem tựa hồ
như phân chia ra nhiều phe nhiều phái, kẻ đạo nầy người đạo khác, rồi kích bác
lẫn nhau.
Trời không hai mặt,
Đất chẳng hai vua. Đất có hai vua là đất giặc. Trời già hai mặt, thế ra tro.
Phải trông mong
ngày sanh linh đạo đức, an cư lạc nghiệp, cộng hưởng thái bình, trong nhà không
đóng cửa, ngoài đường chẳng lượm của rơi.
Nay Cao Đài Thượng
Đế hạ trần, dùng huyền diệu Tiên bút, lập nền Chơn Đạo tại Nam phương, nhập Tam
Giáo lại làm một, chủ ý qui tụ chúng sanh lại một nhà, Ngài làm CHA chưởng quản,
sẽ hội Tam Giáo nơi Thánh Thất là nhà chung (tại Tây Ninh ngày rằm tháng 10 tới
đây) xem xét kiểm dượt kinh điển mà tạo thành Tân Luật, sự thờ phượng chế sửa
theo Tam Kỳ Phổ Độ cũng nơi ấy mà xuất hiện; nhìn Quốc âm, tiếng An Nam làm
Chánh tự mà lập Đạo.
Từ đây, nước Nam
duy có một Đạo chơn thật là Đạo của Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài lập ra gọi
là QUỐC ĐẠO.
Có bài thi giáng cơ rằng:
"Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi ân tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt nhược hư vạn đại an.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế sắc cao ban."
THÁNH TƯỢNG CON MẮT
Có Thánh Ngôn
dạy rằng:
" Chưa
phải hồi các con rõ tại sao phải vẽ Thánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy
cắt nghĩa cho hiểu chút đỉnh:
Nhãn thị chủ
tâm,
Lưỡng quang
chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị
Thiên,
Thiên giả Ngã
dã.
Thần là khiếm
khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy Thầy cho
Thần hiệp Tinh, Khí đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh."
SỰ THỜ PHƯỢNG CHẾ SỬA
THEO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
NƠI THÁNH THẤT TÂY NINH
Thánh Ngôn ngày
12 tháng 8 năm Bính Dần dạy rằng:
" Các
con lo một trái Càn khôn, hình tròn quay như trái đất, sơn màu xanh da trời, bề
kính tâm 3 thước 3 tấc, lớn quá, mà phải vậy mới đặng vì là cơ mầu nhiệm Tạo
Hóa trong ấy.
Cung Bắc đẩu
và Tinh tú phải vẽ lên trái Càn khôn ấy. Thầy kể Tam thập lục Thiên và Tứ Đại Bộ
Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập
nhị Địa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh tú, tính lại là ba ngàn bảy mươi
hai ngôi sao, con phải biểu vẽ lên đó cho đủ. Con dở sách Thiên văn Tây ra coi
mà bắt chước.
Tại ngôi Bắc
đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc đẩu cho rõ ràng, trên vì
sao Bắc đẩu, vẽ Con Mắt Thầy.
Đáng lẽ trái ấy
phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện
rất quí báu cho cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới đó, nhưng mà làm chẳng kịp
thì con tùy tiện làm thế nào cho kịp Đại hội.
Khi đem trái
Càn khôn ấy về, con làm một cái cốt xây, để trái ấy lên Đại Điện, nhớ day Con Mắt
ra ngoài, rồi con lại lên tượng Phật Thích Ca, Lão Tử, và Khổng Tử mà để dựa dưới;
kế ba vị ấy là Quan Thế Âm, Lý Thái Bạch, Quan Thánh Đế; kế nữa ngay dưới Lý
Thái Bạch là Jésus de Nazareth; kế dưới Jésus là Khương Thượng Tử Nha; còn chư
Phật, Tiên, Thánh, Thần đã lên cốt thì để dài theo dưới."
Ấy là sắp đặt sự
thờ phượng tại Thánh Thất Tây Ninh, còn các nơi Tiểu đàn, lập trang thờ tại nhà
riêng thì như vầy:
TIỂU ĐÀN: Trên
thì Thánh Tượng Con Mắt, hàng dưới thì lập đủ Ba Trấn
chứng đàn trong
Tam Kỳ Phổ Độ và qui Tam Giáo nầy:
Phật thì có Quan
Âm (bên mặt, ở trong ngó ra)
Tiên, Lý Thái Bạch
(ở giữa, dưới tượng Thầy)
Nho, Quan Thánh
Đế Quân (bên trái)
Mồng 2 tháng 7 năm Bính Dần:
Lý Thái Bạch giáng cơ:
" Thái Thượng vô ngôn hữu Đạo thành,
Bạch vân hữu nhãn kiến nhơn sanh.
Kim quang đắc kiếp tu tâm thiện,
Tinh đẩu nan tri Ngã độ thành.’
Quan Âm Bồ Tát giáng cơ:
" Quang minh Nam hải trấn Thiền môn,
Âm cảnh năng du độ dẫn hồn.
Bồ đoàn mạc hám liên huê thất,
Tác thế tâm ưu khởi đạo tông.’
Quan Thánh Đế Quân giáng cơ:
Quan thành tái kiếp Hớn triều phong,
Thánh đức mạc vong hám thế trần,
Đế thất nhứt tâm trung khí dõng,
Thanh y xích diện hảo vinh phong."
TỊCH ĐẠO THI
"Thanh Đạo tam khai thất ức
niên,
Thọ như địa quyển thạnh hòa Thiên.
Vô
hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên."
KHAI ĐẠO NƠI CHÁNH PHỦ
Ngày 7 Octobre
1926, nhằm mồng 1 tháng 9 năm Bính Dần, có môn đệ Thiên phong của Đức Cao Đài là cựu Hội Đồng Thượng
Nghị Viện Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt, vưng lịnh Thánh Ngôn đến
Khai Đạo nơi Chánh phủ.
Trong Tờ Khai Đạo
ấy có ký tên 247 chư môn đệ, phần nhiều đều là Chức sắc Viên quan và có Nữ phái
nhiều người danh dự.
Quan Nguyên soái
Nam Kỳ hoan nghinh và khen rằng vì chữ thiện mà khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao
thượng.
Chúng tôi xin
phô đôi lời thành thật thô sơ, chư Hòa Thượng, chư Lão thành, chư sơn, chư Chức
sắc trong Tam Giáo và chư Thiện nam Tín nữ xin lưu ý.
Chầy kíp đây,
chúng tôi sẽ có dịp hiệp mặt mà luận Đạo kỹ thêm nữa.
TÂN TẢ BẠCH NGỌC KINH
(Giáng cơ mồng 1 Tết năm Bính Dần)
" Một tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc đẩu,
Thiên trùng nhiếp khảm hiệp Nam tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm pháp vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao."
Bản “Phổ Cáo
Chúng Sanh” nầy của mấy ông viết cũng đã được Chí Tôn chỉnh sửa lại trong đàn cơ ngày mùng 7
tháng 9 năm Bính Dần như vầy:
" THẦY
Các con,
Mấy đứa nhỏ bỏ
thói kiêu ngạo nghe!
Vĩnh! Đọc Phổ
Cáo Chúng Sanh, đợi Thầy sửa nghe. Hễ Thầy hạ cơ thì ngừng
đọc.
…
Các con nghe,
Thầy chẳng buổi
nào mà đành lòng cho các con hạ mình trước mặt ai hết, song ngày nay buộc phải
vậy. Các con tức cấp lo phổ độ.
Kể từ ngày mồng
10 tháng nầy, mấy đứa phò loan phải xin phép nghỉ 29 ngày hết nghe. Thầy dặn
các con phải phân nhau mà đi cho khắp.
Đạo Quang,
ngày thứ bảy, Thầy sẽ phân việc. Thầy trông cho mau lập Tân Luật.
Con
Trung, con phải nói với Le Fol cho con giấy chứng Khai Đạo. Mai con lên
nó, có Thầy.
Con phải nhớ viết một cái thơ cho em con là Lâm thị, nó đương sầu thảm, giờ nầy nó đương
ngồi nơi phòng mà khóc. Con phải khuyên lơn nó, nhắc nó nhớ lời Thầy dặn.
Trang, con nếu
biết thương em con, con cũng nên đi Vũng Liêm, con đi mới hữu ích nghe. Thầy
nói ít con hiểu nhiều.
Từ đây, hai
con lại để ý gìn giữ hai đứa nó kẻo nó ngã lòng mà tổn bớt công quả của chúng
nó, tội nghiệp. Thầy giao cho hai con chăm nom cả em út các con, nghe à!
Thầy còn dạy
nhiều việc, nhưng hai đứa nhỏ đã mệt. Thầy dặn các con đừng dùng tiếng “đồng”
mà kêu mấy đứa nhỏ, nó giận không muốn phò loan là tại vậy.
Thơ, biểu nó
viết chữ tựa lơn lớn một chút, còn Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh và Tờ Khai Đạo con cứ
làm, Thầy cho phép. Có vậy mới nhẹ bớt công phổ độ. Còn tờ
Nhựt trình, thỉnh thoảng
sẽ tính.
Thầy ban ơn
cho các con.
Đặng nhiều
càng tốt. Chữ quốc âm mà thôi.
Thăng."
Về việc Chí Tôn
buộc môn đệ của Người gọi Người là Thầy, Đức Ngài có một lần vấn nạn Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
như thế nầy:
" Hể làm
cha thì làm cha, còn làm thầy thì làm thầy. Cớ sao Đại Từ Phụ lại xưng Thầy rất
ư khó hiểu? "
Đức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn đáp:
" Người cũng vốn Cha Thầy luôn một,
Cả Chơn linh hài cốt nơi Người.
Nuôi mình dùng vật xanh tươi,
Tạo hồn lấy phép tột rồi Chí linh.
Nơi Người vốn quang minh cách trí,
Tấn hóa hồn phép quí không ngưng,
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn Người lại dành phần Phật Tiên.
Luật thương yêu quyền là công chánh,
Gần thiện căn xa lánh phàm tâm.
Làm Cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Thiên."
*
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
Sau đó mấy ông
chia nhau ra thành 3 nhóm để đi phổ độ lục tỉnh. Ngài Hộ Pháp ở trong nhóm thứ
nhứt cùng với ông Lê Văn Trung, Trần Đạo Quang, Nguyễn Ngọc Thơ, Lâm Hương
Thanh, Lê Văn Giảng,… đi phổ độ trong các tỉnh:
- Vĩnh Long
- Trà Vinh
- Cần Thơ
- Sóc Trăng
- Bạc Liêu
- Long Xuyên
- Châu Đốc
- Hà Tiên
- Rạch Giá
Phò loan là do
ông Cư, Tắc thực hiện.
Nhóm thứ hai gồm
có ông Lê Văn Lịch, Nguyễn Ngọc Tương, Yết Ma Luật, Lê Văn Hóa,… lo truyền đạo
trong các tỉnh Tiền Giang như:
- Chợ Lớn
- Gò Công
- Tân An
- Mỹ Tho
- Bến Tre
Phò loan
là ông Nguyễn Trung Hậu, Trương
Hữu Đức thực hiện.
Nhóm thứ ba gồm
có ông Lê Bá Trang, Vương Quang Kỳ, Yết Ma Nhung, Trần Văn Liêng,… lo phổ độ
các tỉnh miền Đông như:
- Tây Ninh
- Thủ Dầu Một
- Gia Định
- Biên Hòa
- Bà Rịa
- Sa Đéc
Phò loan là ông Sang, Diêu thực hiện.
Hỗ trợ cho 3 nhóm trên còn có một bộ phận giảng đạo do ông
Nguyễn Văn Tương và ông Nguyễn Văn Kinh là những vị rõ thông đạo lý từ Minh Sư
quy nhập Cao Đài. Kết quả cuộc phổ độ nầy
rất khả quan, tính đến ngày Đại Hội khai đạo thì số người nhập có lên đến 20 ngàn người.
Trong số những
người nhập môn ở giai đoạn nầy có nhiều nhân sĩ trí thức tiếng tăm như là:
- Ông Bà Tổng Đốc
Phạm Văn Tươi
- Ông Bà Tổng Đốc
Huỳnh Thái Thông
- Ông Bà Luật Sư
Dương Văn Giáo
- Ông Đốc Phủ
Nguyễn Văn Ca (Thanh Ngưu của Đức Lão Tử)
- Ông Tri Huyện
Nguyễn Dư Hoài
- Ông Cai Tổng
Trương Vinh Qui
- Ông Nghị Viên
Nguyễn Phan Long
- Ông Nghị Viên
Cao Triều Phát
- Bác sĩ Lê Văn
Hoạch
- Bác sĩ Nguyễn
Thế Vinh
- Giáo Sư Trần
Văn Quế
- Nhà thầu khoán
Lê Kim Tỵ
- Ông Nguyễn Văn
Phùng ở sở Hỏa Xa
- Ông Latapie ở
sở Thương Chánh …
Ngoài ra Chí Tôn
còn thâu nhận thêm được 4 vị phò loan đó là: ông Lê Thiện Phước, Lê Thế Vĩnh,
Nguyễn Văn Mạnh, và Thái Văn Thâu. Về sau Chí Tôn phong cho 4 vị nầy vào hàng
phẩm Thời Quân thuộc Chi Thế của Hiệp Thiên Đài.
Qua ngày mùng 1
tháng 10 năm Bính Dần (1926), tất cả chức sắc được lịnh tạm ngưng việc truyền
giáo trở về Thánh Thất Từ Lâm, hay còn gọi là Gò Kén, để chuẩn bị khai minh Đại
Đạo. Chấp hành lịnh của Chí Tôn, đồng đạo các nơi lũ lượt kéo về Tây Ninh. Đức
Chí Tôn giáng dạy:
" Các con! Thầy đã lập thành Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con. Hiểu
à!
Thầy qui Tam
Giáo, lập Tân Luật trong rằm tháng 10, có đại hội cả Tam Giáo nơi Thánh Thất.
Các con hay à!
Sự tế tự sửa
theo Tam Kỳ Phổ Độ cũng do nơi ấy mà xuất hiện ra. Rõ à!
Thầy nhập 3
chi lại làm một, là có ý qui tụ các con trong Đạo Thầy lại một nhà. Thầy
là Cha chưởng quản. Hiểu à!
Từ đây các
con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phận sự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy các
con sanh nạnh nhau, tựa hồ phân phe chia phái là đại tội trước mặt Thầy. Nghe
à! Các con phải ngưng mọi việc mà chung lo Đại Hội."
Đêm ngày 14 rạng
ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần chính thức khai Đạo Cao Đài tại chùa Gò Kén và
làm lễ khánh thành Thánh Thất Từ Lâm đầu tiên của nền Đại Đạo.
Đêm hôm ấy, vì
quá đông người nên cuộc lễ bớt phần trang nghiêm. Khi cầu cơ Chí Tôn giáng ký
tên khai đạo, để ít lời quở trách rồi thăng. Thừa dịp đó tà quái nhập vào ông
Lê Thế Vĩnh xưng là Tề Thiên Đại Thánh, và nhập vào bà Vương Thanh Chi, con gái
của ông Vương Quang Kỳ, xưng là Quan Âm Bồ Tát. Lúc đầu bổn đạo tưởng thật, sau
2 người nói năng lung tung, lại nắm tay nhảy múa gây náo loạn khiến mọi người đều
nghi ngờ là tà quái. Cuộc biến thiên xảy ra trong lễ tấn phong chức sắc Cửu
Trùng Đài chớ không phải trong một đàn cơ, cũng bởi vì lòng tham vọng của một số
người mà tâm sanh ra cuồng vọng.
Sở dĩ có chuyện
tà quái lộng hành hôm đó một phần là do ông Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt làm phép trấn
thần không đúng như Chí Tôn đã dạy trước đó mấy ngày, ngày 12 tháng 10 Chí Tôn
có giáng dạy sắp đặt cuộc Đại Hội rất chi tiết như vầy: “Lập lễ Thánh Thất:
Phải làm một
Nghi án trước điện day mặt vô 7 Ngai, hình vuông đóng bốn mặt, trên như nóc
chùa, kết hàng cho đẹp, nơi ấy phải kín, 4 phía ra vô có màn. Thầy giáng cơ tại
án ấy, nghe à!
Lễ Thánh Thất
chia ra làm: Lễ, Khách, Xuất, Thâu.
Vậy Thầy nói về
Lễ trước.
Về Lễ:
Thầy giao Chánh
sự cho Trang, Phó sự cho Nhung, Phụ sự có Ý, nghe à. Như Ý không chịu thì Lịch
phải thế. Vậy thì Chánh sự là Trang làm đầu. Thầy lại thêm 3 vị nữa cho
các con rộng dùng: Mùi, Vân, Đạt.
Thầy lại hỏi thêm 12 đứa nữa, ai tình nguyện?
Lê Văn Sanh, Dương Văn Hoài, Nghĩa, Nguyễn Xuân Quang, Sơn, Lê Thế Vĩnh, Hườn, Trần Văn Bân, Nguyễn Văn Mùi.
Về Khách:
Khách thì Tương
là Chánh sự, Luật là Phó sự, Thầy muốn đem Hoài vô đặng không Lịch? Voi là Phụ
sự, Lại, Son, Thành là giúp Thầy.
Hỏi 12 đứa tình
nguyện:
Giỏi, Bản, Tuất,
Tiếp, Trò, Giảng, Học, Kỳ, Tường, Hơn, Kính, Đơn.
Về Thâu: Thì
Thơ, Như Nhãn, Đạo Quang.
Thầy hỏi 2 đứa
ký lục: Châu, Tuấn.
Việc Xuất: Xuất
thì Lịch, Xài, Hóa.
Thầy hỏi 2 đứa
ký lục: Kiều, Vĩnh.
Nghe hành lễ,
con Trang:
Chưởng Pháp, Đầu
Sư: Thầy định 3 ngôi Chưởng Pháp, 3 ngôi Đầu Sư đều có vị.
Phối Sư: Còn Phối
Sư thì là Trang, Tương, Thơ là Chánh, còn 33 vị nữa thì tùy theo ngày phong sau
trước đứng nối theo đó.
Giáo Sư: Rồi tới
72 Giáo Sư, cũng tùy theo ngày thọ sắc mà phân sau trước.
Giáo Hữu: Kế nữa
là 3000 Giáo Hữu, cũng tùy Thiên Phong mà đứng theo hàng ngũ phái Thượng, phái
Thái, phái Ngọc vậy.
Phò loan: Tiếp nối
theo sau, ngay chính giữa, nơi bàn Hộ Pháp thì: Đức, Hậu, Tràng, Nghĩa.
Bên mặt thì: Mạnh,
Phước, Mai, Nguyên.
Bên trái thì:
Đãi, Kim, Tươi, Chương.
Hộ Pháp: Con lại
để dựa bên bàn Hộ Pháp 2 cái ghế, rồi làm 2 cây phướn đề: Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
Thượng Phẩm: Bên
mặt Hộ Pháp là Thượng Phẩm.
Thượng Sanh: Bên
trái Hộ Pháp là Thượng Sanh.
Đưa cây Phướn
Thượng Phẩm cho Mùi, cây Phướn Thượng Sanh cho Vĩnh cầm, đứng hầu 2 bên.
Trấn cờ Ngũ
phương: Tại Đông phương, Tây phương, Nam phương, Bắc phương lựa 12 đứa đồng nhi
cầm cờ, còn ở giữa thì giao cho Hậu, Nghĩa, Đức.
Lịch hiểu à! Khi
hành Đại lễ cho Thầy rồi thì Lễ Sanh xướng: “Thiên phong quán tẩy”, cả
thảy đều ra rửa mặt mày cho tinh sạch. Chừng xướng: “Chỉnh túc y quan”,
thì cả thảy phải thay Thiên phục.
Lễ sanh xướng: “Lập
vị” thì đứng theo hàng ngũ cũ như trước.
Hành lễ y như tại
chùa Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch.
Còn Nữ phái thì
đều mặc đồ trắng trước khi hành lễ.
Thiên phong Nữ
phái: Thì Cư, Tắc phải vào nghi án phò loan cho Thầy phong Nữ phái trước và lập
Tịch Đạo luôn nữa nghe.
Trấn Thần: Chừng
mặc Thiên phục rồi thì Cư, con chấp bút nhang cho Thầy trấn Thần mỗi người và
nơi mình của chư Thiên phong rồi mới hành lễ.
Nhớ biểu Nam
phái đứng chẳng hết ở giữa thì qua bên tả của Thầy, song phải phân hàng ngũ đẳng
cấp chúng nó cho tử tế, chớ không đặng lộn xộn.
Hành lễ: Còn bao
nhiêu môn đệ thì đứng tiếp theo sau. Thầy dặn: Hành lễ rồi thì phải biểu Lễ
sanh xướng: "Thiên phong phò loan" đặng Thầy lập Phật Truyền Chánh
Pháp.
Cư, Tắc phải
để Thiên phục vậy mà phò cơ nghe.
Thầy sẽ giao
Nhạc cho Mỹ Ngọc và Lễ cho Nhơn."
Lúc chuẩn bị cho
Đại Hội ông Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt chỉ trấn Thần ở giữa đàn nội mà thôi, chớ không trấn các góc của
Thánh Thất theo lời dạy của Chí Tôn.
Thêm nữa, trong
buổi lễ hôm đó đến lúc Đức Thượng Phẩm đang chấp bút bằng nhang để Chí Tôn trấn
Thần cho các vị chức sắc thì Ngài Hộ Pháp lúc ấy đang ngự trên ngai ngó vào
chánh điện, từ xa thấy cứ tưởng đâu là Thượng Phẩm ngoắc ngoắc kêu mình lại nói
gì đó nên Ngài bước xuống ngai đi lại Thượng Phẩm. Vừa đi được 3 bước thì tình
trạng tà quái xung nhập xảy ra lộn xộn như kể trên. Từ đó mới thấy được tầm
quan trọng của việc làm phép trấn và sự hiện diện của Hộ Pháp ngự trên ngai khi
thiết đàn.
Thấy việc như vậy,
ông Monet, là một thành viên trong hội Thần Linh học khuyên giải trong bổn đạo
như vầy:
" Công
việc các ông làm đây là rất phải. Các ông chẳng nên vì một cuộc biến thường
tình như vậy mà ngã lòng thối chí. Tôi cho là thường tình, vì bên Pháp trong mấy
đàn thỉnh tiên cũng thường xảy ra những điều rối rắm như vậy. Tôi có một lời khuyên
các ông là từ đây trở đi, hễ có cầu cơ thì chớ họp nhau đông đảo, vì cần phải thanh
tịnh. Mà hễ đông người thì một là mất bề thanh tịnh, hai là tư tưởng bất đồng không
tương ứng nhau được thì không linh nghiệm."
Khi tất cả đã ra
về, mấy ông mới thiết đàn cầu hỏi về việc tà quái lộng hành như vừa qua thì có
Chí Tôn giáng cơ quở trách, Đại úy Monet thấy cơ chuyển liền làm phép cắt điển
theo phương pháp Thần Linh học để coi phải đúng điển của Tiên Phật hay không,
mà không cắt được. Chí Tôn nói như vầy:
" Cả chư
môn đệ ngu, ngu, ngu.
Thầy lập phép
để làm chi? Thầy dạy sắp đặt lễ… làm không trúng.
Cả chư môn đệ
nam nữ hầu Thầy đặng phân hàng ngũ cho nghiêm trang.
Thái Đầu Sư?
Tương đâu?"
Tiếp theo:
" Các con nghe,
Tuy vân Thầy
dùng phép thử Thánh mặc dầu, chẳng lẽ một vị Thiên Tước mà rẻ rúng đặng vậy,
nhưng các con lại chẳng hiểu rõ tà quái quyền hành là bực nào mà giữ mình hằng
buổi.
Thầy lấy làm
tức cười mà lại đau thảm cho những kẻ vô phúc bị ngã vì bận thử thất nên vậy."
Tái cầu:
" Khi Trang, Tương, Minh đến nghe à! Nếu các con còn vậy nữa Thầy
sẽ phạt một cách nặng nề. Kỳ đem một chén nước lạnh vào đây."
Tái cầu:
" Các con, cười…
Thầy chẳng biết
đến chừng nào Thầy dạy cho các con hiểu Thánh ý Thầy đặng… cười…
Thầy dặn… Lịch
nghe dạy.
Phải trấn đàn
tứ phía góc Thánh Thất chớ chẳng phải nội ở giữa mà thôi, rồi làm Đại Lễ như buổi
ở tại chùa Vĩnh Nghiêm.
Nhớ đừng phát
cờ lộn nữa nghe à.
Bởi tại con
nên ra đến đổi, hiểu à.
Thầy dặn con
một điều nầy nữa, từ đây khá làm theo lời Thầy dạy, đừng biến cải nghe à.
Thiên
phong lập vị.
Chưởng Pháp tọa vị, Đầu Sư tọa vị… khá hành
lễ.
Chư môn đệ nhập
nội cho có nghiêm trang. Mỹ Ngọc, con phải biểu nhạc đờn đủ 7 bài.
Thầy buộc tái
cầu đặng Thiên Phong nghe.
Thầy ngự.”
Qua mấy ngày hôm
sau Chí Tôn giáng cơ có dạy về việc tà quái vừa qua. Chí Tôn nói:
“Các con, Thầy
nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra một trường tà quái mà Thầy bắt đau
lòng đó các con. Các con thiết nghĩ ra lẽ nào?”
Mỹ Ngọc, tức là
ông Cao Quỳnh Diêu mới bạch:
“Bạch Thầy tại
vài ông Thiên Phong làm chuyện lôi thôi nên mới có quỉ yêu xung nhập.”
Thầy nói tiếp:
“Phải, bởi cái lếu
của chúng nó mà sanh việc ngày hôm nay.”
Mỹ Ngọc:
“Bạch Thầy
trong môn đệ có nhiều người ngã lòng.”
Thầy nói:
“Bất bình lắm
hả?”
Mỹ Ngọc:
" Nhưng trong Thiên phong có vài ông mà
thôi."
Thầy mới nói tiếp:
" Cũng
có nhiều chớ sao con nói ít vậy con? Đó là bước đạo, đó là Thiên cơ, các con hiểu
sao được, nhưng Thầy buồn vì nỗi có nhiều đứa sàm biện về việc ấy.
Thầy cũng muốn
phạt chúng nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút. Môn đệ của
Thầy nhiều đứa muốn bỏ đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi
bước đạo gập ghình khó tới nên mới ra cớ đỗi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi
phú quí, mê chữ vinh sang mà ngán đạo.
Các con hiểu
Thầy buồn, nhưng ấy là máy Trời đã định chạy sao cho khỏi?
Thầy biết bao
lần vì các con mà chịu nhọc nhằn.
Từ khai Thiên
lập Địa Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao những điều khổ hạnh, mấy lần
lao lý, mấy lúc vang mày nuôi nấng các con hầu lập nên nền Đạo, cũng tưởng các
con lấy đó mà làm đuốc soi mình đặng bỏ tà qui chánh. Mấy lần vun đắp nền Đạo
Thầy đều cũng bị bây mà hư giềng đạo cả.
Thầy buồn đó
các con.
Thầy ban ơn
cho các con, Thầy thăng.”
Tái cầu:
" Các con nghe Thầy:
Sự biến xảy
ra đến nay đã thành một trường ngôn luận, có khi cũng náo nhiệt đến nền Đạo. Kẻ
gọi tà, người nói chánh. Nơi Thiên thơ đã có dấu ràng ràng. Các con có đi tranh
luận cũng nhọc công vô ích. Kẻ hữu phần, người vô phước, tin tin, không không
cũng chẳng sửa cơ Trời đặng.
Đường còn
dài, bước càng nhọc, thì nền Đạo càng cao, công trình càng rỡ. Ôi! Thầy đã lắm
nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng
khổ hải, nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền,
thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước. Thầy cũng phải đau lòng mà nắm
máy huyền vi để cơ Trời xây đổi. Các con liệu lấy."
Cuộc biến ấy
thành ra một trường công kích rất nên kịch liệt. Kẻ nghịch đạo nhơn đó mà hô lớn
lên rằng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là tà giáo, là quái giáo lăng xăng. Tuy nhiên
cũng có một ít người bổn đạo vì đó mà ngã, chớ còn kẻ có chút quan tâm về tôn
giáo càng nghe lời công kích chừng nào càng để ý quan sát về Đại Đạo chừng nấy,
thành ra trường công kích lại trở thành phương tiện giới thiệu cho nền Đại Đạo
mà tự người đứng ra công kích cũng phải nhìn nhận là như vậy.
Trong bối cảnh rối
ren như vậy, Đức Chí Tôn vẫn dùng huyền diệu cơ bút mà lập thành Hội Thánh Cửu
Trùng Đài, Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, thành lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
Tiếp theo sau
chuyện rối ren tà quái lộng hành đó, là ông Hòa Thượng Như Nhãn đòi chùa Từ Lâm
lại không hiến cho Đạo Cao Đài nữa. Vốn ngôi chùa nầy là trong lúc trụ trì tại
chùa Giác Hải ở Chợ Lớn, ông Thích Từ Phong tức là ông Như Nhãn, có quyên tiền
trong bổn đạo để lập một cảnh chùa tại Gò Kén, Tây Ninh lấy tên là Từ Lâm Tự. Trong
số quyên góp đó thì ông bà Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh đóng góp nhiều hơn cả. Sau khi được Chí Tôn thâu làm môn đệ,
ông bà nầy mới thuyết phục ông Như Nhãn vào Đạo. Ông Như Nhãn cũng được Chí Tôn
thâu làm môn đệ, và sau đó đắc phong Chưởng Pháp phái Thái. Rồi sau đó ông Như
Nhãn tự nguyện hiến chùa Từ Lâm cho Đạo Cao Đài làm Thánh Thất để tổ chức Lễ
Khai Đạo.
Lúc đó chùa nầy
chưa xây cất xong hoàn toàn, chỉ vỏn vẹn có ngôi chánh điện, chưa có các cơ sở
phụ thuộc như Đông Lang, Tây Lang, nhà Tăng, nhà khách. Đường sá vào chùa cũng
chưa hoàn tất. Ông Trung mới làm đơn xin phép với chánh quyền Pháp. Ngộ nghĩnh
thay, giấy phép được cấp ngày 7-11-1926, cách ngày nộp Tờ Khai Đạo đúng 1
tháng, 7-10-1926. Xong rồi Ông bà Nguyễn Ngọc Thơ, Lâm Hương Thanh gấp rút tiến
hành công việc xây chùa cho xong. Ông bà cho sơn phết, phát quang chung quanh,
đổ đá làm đường cho rộng rãi từ quốc lộ vào tới sân chùa để xe hơi chạy vô được
tới sân chùa, cất thêm các dãy nhà xung quanh để có chỗ làm việc, nơi tiếp
khách, phòng trù, nhà nghỉ,… Công việc rất nhiều, phải mướn thêm thợ từ Sài Gòn
đem lên mới có thể hoàn tất đúng thời hạn. Các phí tổn cho công việc nầy rất lớn,
ông bà Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh đều chịu phần công quả.
Thế vậy mà vì cuộc
biến nọ, trường công kích kia mà ông Hòa Thượng nầy lại lộng ngôn trở tráo đòi
chùa lại. Hồi chuẩn bị khai đạo, Chí Tôn đã tin tưởng ông ta mà giao cho trọng
trách là hội chư hòa thượng để thành lập Tân Luật. Chí Tôn nói là:
" Như Nhãn hiền đồ! Thầy không muốn nói với con bằng tiếng Hớn ngôn, vì tiếng
An Nam từ đây Thầy cho là Chánh tự đặng lập Đạo của Thầy, nên buộc phải nói rõ
ràng với con.
Thời kỳ giấu
giếm Thiên cơ đã qua rồi, Thầy phong cho con là: Quản Pháp Thiền Sư Thích Đạo
Chuyển Luật Lịnh Diêu Đạo Sĩ, con vừa lòng chăng?"
Con đã giúp
Thầy gìn giữ Thích đạo nguyên luật từ thử, nay mới còn đặng như vầy, không thì
đã ra bàng môn tả đạo rồi.
Con phải biết
Thầy ngày nay trông công con mà lập thành Tân Luật Thích giáo. Con phải đại tịnh
kể từ tháng 9 cho tới rằm tháng 10, Thầy không muốn cho con lo lắng điều gì
khác hơn là xét xem kinh điển lại.
Con biết Ngũ
chi: Minh Đường, Minh Sư, Minh Tân, Minh Lý, Minh Thiện cũng đều do nơi Phật
pháp mà ra, duy giáo lý của các chi ấy thì có Tiểu Học, Đại Học, Trung Dung, và
Tứ Thơ là kinh điển mà thôi. Còn phái Lão duy có Đạo Đức Kinh và Huỳnh Đình
Kinh là căn bổn. Con phải xem xét hết lại mà lập Tân Luật.
Thầy nhứt định
giao Thánh Thất nầy lại cho Thơ lo lắng thế cho con, song sự thờ phượng phải có
thay đổi chút ít, sau Thầy sẽ dạy chư đạo hữu con định liệu.
Rằm tháng 10
nầy, Thầy xin con hội cả chư hòa thượng tại Thánh Thất đây chung lo lập Tân Luật.
Ngày ấy Thầy sẽ dạy cho hai vị hòa thượng phò loan, đặng có điều chi bợ ngợ thì
cầu Thầy mà thôi.
Thầy phú thác
một trách nhậm nặng nề cho con, nhưng mà con đừng ái ngại. Danh giá con, Thánh
đạo Thầy trong ấy, con khá hết lòng.
Con phải hiểu
rằng, hội chư hòa thượng trọn đôi ba tháng thì là hao tốn, song chẳng hề chi, để
Thầy định liệu. Tuy vân, Thầy biết sức một mình con cũng đủ lập Tân Luật, nhưng
mà Thầy muốn có hòa thượng đặng cho khỏi trành tròn, lại còn làm tay chơn Thầy
để thâu phục Thích đạo.
Thầy cậy con
một điều là đòi Minh, vì nó là môn đệ của con, đặng giao chức Thái Đầu Sư cho
nó đi phổ độ nhơn sanh. Cái trách nhậm ấy đáng lẽ về phần con, song con tuổi đã
cao rồi, khó bề cực nhọc, nghe à!
Thầy để con
trọn quyền mà Thầy xin con an lòng, Thầy lo chung cùng con, Thầy trông cậy nơi
con lắm đó!"
Một phần vì bị bọn
Pháp đe dọa, một phần vì những người lúc trước đã quyên tiền xây chùa cũng buộc ông đòi chùa lại. Tiếc
thay, ông ta lại sợ ma quyền hơn là Thánh Giáo. Ông ta kỳ hạn cho Đạo Cao Đài
trong vòng 3 tháng phải trả chùa lại.
Sau đó với sự chỉ
dẫn của Đức Lý, Hội Thánh tìm mua được miếng đất ở khu rừng cấm trên Bàu Cà Na,
xã Long Thành, Tây Ninh. Lúc ấy, ông Cao Thượng Phẩm mới đứng ra huy động số
công thợ, công quả tình nguyện chung tâm hiệp trí để cất chòi, đốn cây, bứng gốc
khu rừng cấm ngày đêm không nghỉ. Với 2 bàn tay trắng, không một cơ giới, chỉ một quyết tâm cùng nhiệt
tình vỏn vẹn trong vòng 3 tháng người tín hữu Cao Đài đã san bằng và xây lên được
ngôi Tòa Thánh tạm bằng gỗ, tranh lá đủ lầu chuông, lầu trống, Bát Quái Đài. Đó
là do công lao phần lớn của ông Cao Thượng Phẩm và các công thợ, công quả nhiệt
tình ngày đêm dầm sương trải nắng để hoàn thành. Cũng bởi tại vì đã quá kỳ hạn
3 tháng trả chùa mà vẫn chưa có nơi nào để đi, mà ông Hòa Thượng đó lại cứ theo
đòi chùa lại miết. Khi đã hoàn thành Tòa Thánh tạm xong, Hội Thánh trả chùa lại
cho ông Hòa Thượng, thỉnh Thánh Tượng, dời chư Phật, Tiên về đất mới.
THÀNH LẬP HỘI THÁNH NGOẠI
GIÁO
Sau khi Chí Tôn
ra lịnh tổ chức lễ Khai Đạo vào ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần (1926), Đức Hộ
Pháp vâng lịnh Chí Tôn xin nghỉ việc 6 tháng để lo việc Khai Đạo tại Thánh Thất
Gò Kén. Nay thời hạn 6 tháng đã hết, Ngài mới cầu cơ hỏi Chí Tôn:
"Con nên
xin nghỉ luôn để lo cho đạo hay trở lại làm việc nơi sở Thương Chánh của chánh
quyền Pháp?"
Chí Tôn mới trả
lời:
"Con
chưa cần phải xin nghỉ ngay lúc nầy, con cứ trở lại làm việc rồi sẽ có chuyện
hay."
Ngài trở lại sở
Thương Chánh trình diện, xin tái phục vụ thì chánh quyền Pháp đổi Ngài lên làm
việc ở Nam Vang. Ông Trung mới bạch với Chí Tôn xem việc đó có phải là Thánh ý
chăng. Chí Tôn cười và bảo:
" Chẳng
nét nào không nơi Thầy đặng, nó cũng nên an lòng. Sau sẽ thấy máy huyền vi…"
Đức Hộ Pháp đi
Nam Vang, hay còn được gọi là Kim Biên vào đầu tháng 4 năm Đinh Mão (1927).
Sang Cao Miên
Ngài ở tại nhà ông Cao Đức Trọng là anh của ông Cao Thượng Sanh. Nhà của ông Trọng
trong dãy phố 8 căn gọi là phố Lang Cô. Cách đó là nhà của ông Trần Quang Vinh,
Đặng Trung Chữ. Và Ngài cũng thường lui tới nhà ông Huỳnh Hữu Lợi. Phần đa người
ngụ trong dãy phố nầy đều là người Việt Nam.
Trong lúc đó anh
em thân thuộc ở gần toàn là công tư chức, hằng đêm tựu họp trước sân nhà ông
Cao Đức Trọng chuyện trò và nhơn dịp ấy tiếp xúc với Ngài Hộ Pháp là người bạn
mới ở Sài Gòn đổi lên. Trong những câu chuyện thường, Ngài hằng đàm luận về thi
phú văn chương, nhứt là nhắc nhở các bài thi học hỏi nơi Chí Tôn và các Đấng
thiêng liêng, tường thuật bao nhiêu huyền diệu trong việc xây bàn và cầu cơ lúc
ở Sài Gòn, lập đi lập lại những thi văn hướng dẫn về con đường đạo đức. Những
câu chuyện rất hấp dẫn, thâu phục được các bạn trí thức, rồi dẫn đến việc xây
bàn thử để xem các Đấng ấy dạy thế nào.
Lúc mởi khởi việc
xây bàn thì chỉ có Ngài Hộ Pháp với ông Trọng để tay lên bàn tròn 3 chơn, cơ
lên nhưng bàn nhịp hơi yếu, thêm một người ngoài để tay vào thì bàn nhịp mạnh,
cách đếm ráp chữ cũng giống y như hồi Đức Hộ Pháp hiệp với các bạn ở Sài Gòn vậy.
Trong những bạn
bè đến chơi, có người xin hỏi về gia đạo, về tương lai,… thì tức khắc được trả
lời cho một bài thi, hoặc tứ cú hoặc bát cú để thỏa mãn lòng hiếu kỳ. Những vị
được bài thi đọc đi đọc lại, tự biết chuyện của mình, khen cơ nói trúng phốc
nên khen lấy khen để, gọi là linh thiêng, tỏ vẻ kính trọng hơn trước. Tiếng đồn
ngày càng lan rộng, nhiều người khác đến mỗi đêm.
Càng ngày mọi
người kéo tới càng đông, xây bàn thì chậm chạp, mỗi đêm chỉ được năm ba bài
thi, nên Đức Hộ Pháp nảy ra 2 ý kiến hay ho là: tạo ra một tiểu Ngọc Cơ, hình
thức như Ngọc Cơ tại Tòa Thánh: cũng có cần cơ, mỏ cơ và một cái giỏ đương bằng
mây phất giấy vàng, ngang miệng giỏ có một cây ngang, dẹp, giữa cây có xoi một
lổ cho vừa đút xuống cái cốt bàn cơ. Bàn cơ thì hình vuông như bàn cờ tướng,
trên mặt có vẽ tất cả các chữ trong bảng chữ cái từ A tới Z theo hình rẻ quạt.
Khi đúc Ngọc Cơ vào cốt, hai vị phò loan 2 tay nắm miệng giỏ, mỗi người một bên,
khi điển quang vào tay thì Ngọc Cơ chuyển động, quay qua quay lại trên trụ cố xây
vòng theo chữ vẽ hình rẻ quạt. Khi đến chữ mà cơ ngừng thì có người hầu kế bên
đọc, một người khác viết lại. Cách nầy tuy chậm hơn Ngọc Cơ ở Tòa Thánh nhưng
mau hơn cách xây bàn.
Cái nữa là, buộc
ai muốn cầu cạnh điều chi thì phải dâng sớ, phải viết một tờ sớ kể lể việc mình
cầu khẩn đội trên đầu khi hầu đàn, cơ giáng thì tuần tự kêu tên người. Huyền diệu
thay! Mỗi khi có một hai chục người dâng sớ, 2 vị phò loan là Hộ Pháp và ông Trọng
làm sao biết hết tên họ, mà trong mỗi bài thi tặng cho mỗi người đều mang tên
người ấy ở đầu bài thi. Trong lá sớ của mỗi người dâng lên là họ hỏi việc riêng
của họ, mà trong bài cơ tiếp được thì trả lời trúng theo sở cầu của họ, làm cho
họ hết sức bái phục.
Có đêm nọ trong
đàn cơ có một bà góa phụ tên Trần Kim Phụng, là một người đàn bà sang trọng có
tên tuổi, lại là một bậc thi sĩ ở Nam Vang mà ai ai cũng đều kính nể đến hầu
đàn mà có tư ý là muốn thử cho biết thiệt hư. Bà cũng vào quì hầu đàn như mọi
người, dâng sớ xin thi. Trong đàn thi đông đảo, mỗi người đội một lá sớ, lòng
thành khẩn. Lúc mới vào đàn, còn đương lộn xộn, kẻ đứng người quì, bỗng có một
bạn quen tên Huỳnh Đình Thới cố ý đến thử sự linh thiêng của đàn cơ, ông lén
tráo lá sớ của bà nầy rồi để lá sớ của mình vào mà không ai hay biết. Khi cơ giáng
ban một bài thi cho bà Phụng, mà lá sớ bà ta đang đội là của ông Thới lúc nảy, nhưng
chữ đầu của bài thơ vẫn là "PHỤNG", trọn ý bài thơ đều nói về
việc của bà nầy. Rồi đến lược ông Thới mà lá sớ ông ta đang đội là của bà Phụng,
khi cơ giáng cho thi, chữ đầu cũng là tên ông nầy "THỚI", và
bài thi đều nói về việc của ông nầy.
Đến hồi bãi đàn
đem thi ra đọc lại, ông Thới mới thú thật là ông đã tráo lá sớ của bà Phụng để thử xem cơ thực hư ra sao cho biết,
chừng ấy ông mới bái phục sự linh hiển của quyền năng thiêng liêng.
Lại nữa, ông
Vinh có độ dẫn được một người bạn nhập môn theo đạo là ông Võ Văn Sự chủ tiệm
thuốc bắc, tánh nết hay khoe khoang tự xưng là thi sĩ, thi phú văn Nho cũng
khá, được đời khen tặng. Tuy đã theo đạo nhưng đức tin chưa vững, đôi khi ông lộng
ngôn vô ý là đến đàn để làm thi chơi với các đấng. Vì đó mà một đêm nọ có Bát
Nương giáng cơ phiền trách như vầy:
" Anh Sự,
anh nói anh giỏi lắm hả? Nội cái hiệu của anh đó thì đủ thấy cái dốt của anh rồi.
Minh Tâm có câu:
NHÀN trung kiểm
điểm Bình Sanh Sự, TỊNH lý tư lương nhựt sở vi.
Phải dùng hiệu
NHÀN TỊNH hay là TỊNH NHÀN mới trúng văn? Hiệu gì mà dùng có một câu là Bình
Sanh Sự vậy! Em thương mà dặn anh từ đây không nên xúc phạm đến các Đấng nữa
nghe!" Bát Nương
thương người chưa trọn hiểu Đạo nên tuy quở rầy mà dạy dỗ, bởi lắm khi ông Sự
cũng có phạm thượng đến các Đấng.
Trong một đàn cơ
mà ông Sự vắng mặt, Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng đàn có cho một
bài thi bát cú chữ Nho, toàn là những vị thuốc bắc mà nhị vị phò loan không hiểu
nghĩa lý chi hết, được bảo là trao lại cho Sự. Bài thi như vầy:
" Mộc tặc phòng phong tuyết bạch đầu,
Trầu bì thục địa ám minh châu.
Đào căn chỉ thiệt hồng hoa kiến,
Nhãn nhục xuyên tâm quả lựu sầu.
Quân tử mạch môn cam thảo thuận,
Kỳ châu viễn chí khổ qua mâu.
Hổ giao lộc giác y căn thủ,
Trạch tã càng cương thiểu khách hầu."
* Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
Đức Chưởng Đạo
còn nhắn là bảo ông Sự xem và tìm hiểu bài thi nầy thì biết trọn đời của ông.
Bữa nọ Ngài Hộ
Pháp muốn đi dạo vòng chơi cho khuây khỏa, đang đi trên đường tình cờ có một tốp
lính bám theo làm cho Ngài sợ bị chúng nó bắt nên nhắm rạp ciné chun vào mua
vé. Chúng thấy Ngài vào mua vé xem phim rồi nên không theo nữa. Chờ một
lát tốp lính bỏ đi Ngài ra ngoài cho vé lại ai muốn đi coi mà chưa mua. Đoạn Ngài thả bộ đến chợ mà lại tự nhiên muốn
trở về nhà ông Trọng. Ngài về đúng lúc ông Trọng đang phò loan, một tay cầm cơ,
một tay viết. Ông Trọng thấy Ngài về mới mừng nói:
"Có Đức
Nhàn Âm đến."
Ngài không tin mới
nói:
"Làm gì có!"
Ông Trọng nói:
"Đây nầy."
Đức Nhàm Âm mới
viết:
" Cởi ngọn gươm linh xuống cõi trần,
Không cần bạch hạc với thanh vân.
Nghe Tây Sơn Đạo nương Tần Quốc,
Mới đến thăm nhau mới một lần."
*
Nhàn-Âm Đạo-Trưởng.
Tây Sơn Đạo
chính là bút danh của Đức Hộ Pháp khi còn viết báo làm cách mạng. Đến đây Ngài mới
cười và nói:
" Hèn
chi tôi đi mà Ngài không cho lại khiến tôi quay về đây. Ngài kéo tôi về đây gặp
Ngài đó mà! "
Xa quê nhà hèn
lâu, Ngài nhiều phen cũng nhớ và muốn quay trở về làm đạo, có mấy lần Ngài cầu
cơ các Đấng thiêng liêng hiểu được nên Đức Nhàn Âm cũng có cho Ngài bài thi nầy:
" Ác xế nâng cao bóng hải đường,
Xa tên nhờ bởi nặng cung thương.
Lòn trôn Hàn Tín nên cơ nghiệp,
Dâng dép Trương Lương mở miếu đường.
Khương Thượng đi câu ra trí chúa,
Văn Vương ngồi ngục mới đồ vương.
Trượng phu phải mặt không nao chí,
Xung đột quyết hơn chốn chiến trường."
*
Nhàn-Âm Đạo-Trưởng
Bát Nương cũng
có cho Ngài một bài:
" Đường đợi thanh loan đến Hớn đài,
Tửu Tiên chưa phỉ tỉnh cùng say.
Nghe danh ông Tắc, Y lìa ruộng,
Mến đức ông Nghiêu, Thuấn bỏ cày.
Ái vật Thành Thang quên dở ná,
Yêu dân Hạ Võ mặc hài gai.
Trông mưa đã đợi ba xuân mãn,
Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài."
* Bát Nương Diêu Trì Cung.
Trong những đàn
cơ mà Ngài cùng ông Trọng tổ chức cũng có rất nhiều Đấng thiêng liêng về nói
chuyện dạy nhiều điều mới lạ, như Victor Hugo, La Fontaine, Tôn Trung Sơn, Lêon
Tolstoi, Shakespeare, Aristide Briand,…
Như đàn cơ Ngài
được vãn cảnh Đế Thiên để mở rộng tầm nhìn sau nầy xây dựng Tòa Thánh. Ngài vừa
đặt cơ xuống thì có một vị cổ Vương giáng cho thi:
" Mưa chầy gió lụn cảnh riêng gìn,
Tạc để nền Tiên rạng trước Minh.
Trời hỡi gượng soi gương viễn đại,
Đất còn chặt giữ dấu anh linh.
Rừng tòng hạc lánh muôn năm khuất,
Chùa đá đời lưu một thuở nhìn.
Dâu bể tan tành non nước cũ,
Dóng chuông cảnh tỉnh vẽ nên tranh ".
BAKHANAYOUK
Về sau khi Thượng
Phẩm đăng Tiên rồi có về cơ khi Đức Hộ Pháp phò cơ ở đây, Thượng Phẩm cũng có giáng cơ cho Ngài
biết nơi nầy họ thấy cầu cơ lạ quá, nên họ xúm nhau cười và cố ý xem cho biết.
Vì lòng cảm mến nên mỗi lần có cầu cơ là họ làm lễ đón rước. Nên Đức Thượng Phẩm
dặn Ngài là:
" Em phải
đốt nhang và xá bốn hướng để chào cảm tạ họ mỗi khi cầu cơ. "
Họ ở đây mà Đức
Thượng Phẩm nói không phải là người hữu hình, mà là những vị vô hình.
Đến trung tuần
tháng 4 năm Đinh Mão (1927) dưới sự dìu dắt của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn
Nhơn, tức là đại văn hào Pháp Victor Hugo và với sự bảo trợ hữu hình của Ngài,
Hội Thánh Ngoại Giáo được hình thành.
Trong đàn cơ đêm
ngày 29 tháng 6 Đinh Mão (1927) do Đức Hộ Pháp và ông Cao Đức Trọng phò loan,
Chí Tôn ân phong các vị sau đây:
Về Cửu Trùng Đài
thì có:
- Giáo Hữu Thượng
Bảy Thanh (Lê Văn Bảy)
- Giáo Hữu Ngọc
Sự Thanh (Võ Văn Sự)
- Giáo Hữu Thượng
Lắm Thanh (Nguyễn Văn Lắm)
- Giáo Hữu Hương
Phụng (Bà Batria Trần Kim Phụng)
- Giáo Hữu Hương
Huê (Bạn đời của ông Bảy)
- Giáo Hữu Hương
Hạt (Thân mẫu của ông Chữ)
- Lễ Sanh Thượng
Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ)
- Lễ Sanh Thượng
Vinh Thanh (Trần Quang Vinh)
- Lễ Sanh Thái Của
Thanh (Phạm Kim Của)
- Lễ Sanh Hương
Trọng (Bạn đời của ông Chữ)
Hiệp Thiên Đài
thì có: Tiếp Đạo Cao Đức Trọng Về Cửu Trùng Đài thì Chí Tôn giáng cơ phong phẩm rồi
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ chấm phái.
Quí vị chức sắc
nam nữ trên đây là những chức sắc đầu tiên của Đạo Cao Đài tại Nam Vang. Nhờ số
chức sắc nầy mà Đức Hộ Pháp lập thành Cơ Quan Truyền Giáo Hải Ngoại, thường được
gọi là Hội Thánh Ngoại Giáo trụ sở đặt tại Nam Vang, có nhiệm vụ truyền bá Đạo
Cao Đài nơi ngoại quốc, đặc biệt là độ nhơn sanh ở Nam Vang gồm có: Việt Kiều,
Hoa Kiều, và người Cao Miên. Hội Thánh Ngoại Giáo được đặt dưới quyền điều khiển
vô vi của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là Victor Hugo với chức vụ Chưởng Đạo
do Chí Tôn phong. Về Sau ông Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh được bổ nhiệm làm Chủ
Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo về hữu hình.
Sau đó sở Tuần Cảnh
Pháp báo cáo với nhà đương quyền Miên là có khoảng 5000 người Cao Miên đến lễ
bái trước Chánh Điện Tòa Thánh Tây Ninh và lễ bái trước Đức Phật Thích Ca ở sân
Đại Đồng Xã. Khi số người tăng lên khoảng 30 ngàn thì chánh tham biện Tây Ninh
sợ biến nên báo cáo với chánh quyền Pháp. Bộ trưởng Tôn Giáo của Miên ra thông
tri như sau: “Sau khi nghiên cứu tận nơi ta phải nhận định rằng giáo phái nầy
đã dựng lên trong mục đích bất chánh, đáng trách vì họ lấy tôn giáo làm phương
tiện lường gạt lợi dụng lòng tín ngưỡng của dân chúng thật thà để đem quyền lợi
về cho nhóm họ. Nay giáo lý đạo Phật mà dân Miên đã thấm nhuần đang dẫn ta đến
Chân Thiện và Liêm khiết. Ngoài ra không một tôn giáo nào khác đến choán chổ
trên các địa phương của ta.
Các sư sải Cao
Miên được chỉ thị rõ ràng là họ có bổn phận đẩy lùi giáo lý Cao Đài và định
hình phạt đối với người Cao Miên nào nhập môn theo Đạo Cao Đài.
Vì thế người
Miên bớt theo đạo và vắng bóng họ trên đường về Tòa Thánh.
Ngài bèn chú trọng
vào Việt Kiều và Hoa Kiều, do đó việc truyền đạo vẫn được tiếp tục. Một hôm khi
đi làm về, Ngài nói với ông Huỳnh Hữu Lợi: “Ngày mai qua về Sài Gòn.”
Làm ông Lợi hết sức ngạc nhiên, vì Ngài đang làm công chức
mà muốn về Sài Gòn ngang sao được. Quả nhiên hôm sau Ngài được lịnh đổi về Sài
Gòn vì họ không chịu được các hoạt động truyền giáo của Ngài ở đây mà họ cho là
phá rối trị an.
Tuy chỉ trong thời gian 7 tháng ngắn ngủi, Ngài đã kiện
toàn cơ chế tổ chức Hội Thánh Ngoại Giáo
đặt tại đường Lalande Calan. Từ đó bổ chức sắc đi truyền giáo ở Trung Hoa,
Pháp, Nhật, Thái Lan,… qua cơ bút do chính Ngài phò loan, Hội Thánh Ngoại Giáo
về vô vi còn có:
1 . Jean De La Fontaine (1621-1695), là một thi sĩ người Pháp, sinh ở Château-Thierry, Champagene, Pháp. Ông phụ
trách phổ độ dân chúng Châu Âu với sự trợ lực của bà Jeanne d’Arc, là một kiếp
sanh của cô Lục Nương Diêu Trì Cung.
2 . Tôn Trung Sơn
(1866-1925), tên thật là Tôn Văn tự Dật Tiên, là người Quảng Đông, cũng là một
trong 3 vị Thánh Bạch Vân Động trong bức tranh Tam Thánh Ký bản Thiên Nhân Hòa
Ước. Ông phụ trách phổ độ dân Châu Á với sự trợ lực của cô Bát Nương.
3 . William Shakespeare (1564-1616), là nhà đại thi hào Anh quốc, sinh tại Straford-sur-Avon. Ông được dân chúng thế giới hoan nghinh thi tài kiệt
liệt. Ông phụ trách phổ độ dân chúng Anh và các nước trong Liên Hiệp Anh.
4 . Léon Tolstoi
(1828-1910), là tiểu thuyết gia người Nga, sinh ở Iasnaia-Poliana nổi danh về hai
(2) quyển " Chiến Tranh và Hòa Bình ", và " Anna
Karénia ". Ông phụ trách phổ độ dân Âu-Á.
5 . Aristide Briand
(1862-1932), một nhà chính trị Pháp, sinh ở Nantes, từng làm Bộ Trưởng Bộ Ngoại
Giao Pháp. Ông phụ trách phổ độ dân Châu Phi.
Vì những hoạt động
truyền giáo mà chính quyền Pháp đổi Ngài về Việt Nam rồi định đổi ra miền Trung
nữa. Nhưng khi hay tin đó, Ngài liền đệ đơn nghỉ việc rồi không cần đợi phép
cho nghỉ, Ngài bỏ việc về Tây Ninh hành đạo từ đó luôn. Trong thời gian nầy
Ngài viết truyện Thiên Thai Kiến Diện gồm 77 bài thơ Đường, rồi quyển “Phương
Tu Đại Đạo” bao gồm văn xuôi, biền ngẫu lẫn thơ thất ngôn tràng thiên, có các
tiết mục như: luật đời, phận anh, phận chị, phận em trai, phận em gái, phận chồng,
phận rễ, phận vợ (làm dâu), làm cha.
Đức Ngài kể:
" Trong
Thiên Thai kiến diện, qua được Chí Tôn cho thấy ngôi vị Giáo Tông lần lượt từ
người một của nền tôn giáo Cao Đài qua nhiều thời kỳ. Từ một tới thất ức niên.
Đức Quyền Giáo Tông là ông Giáo Tông đầu tiên và nghèo nhất. Lạ lùng một điều
là đến ông Giáo Tông cuối cùng sao mà nhỏ quá, tuổi độ chừng 17-18 tuổi, một lứa
tuổi quá trẻ."
Đức Ngài thầm
nghĩ trong bụng: "Sao mà nhỏ quá vậy, công đức gì đâu mà làm Giáo Tông?"
Đột nhiên vị ấy
tỏa rực sáng hào quang để cho Đức Ngài biết căn kiếp của vị ấy. Đức Ngài mới khỏi
hoài nghi.
Đức Hộ Pháp trở
về Tòa Thánh năm Mậu Thìn (1928).
ĐẠO XẢY RA BIẾN, HỘ PHÁP
GIẢI ẾM LONG TUYỀN KIẾM
Sau khi mua được đất xây chùa mới, khi phá rừng nầy thì người Cam Bốt xuống cả ngàn người để phá rừng, làm cho
ông Chánh Tham Biện người Pháp nghi ngờ, mời Đức Cao Thượng Phẩm ra Tòa Bố. Ông
ta hỏi Thượng Phẩm chớ làm cái gì mà đông đảo như vậy. Đức Thượng Phẩm mới trả
lời rằng:
“Tôi mua miếng
đất đó đặng trồng cao su.”
Ông tham biện hỏi
trồng mấy mẫu? Thượng Phẩm trả lời:
“Tôi trồng hết
sở đất tôi mua, phá tới đâu tôi trồng tới đó.”
Nên sau nầy
trong Nội Ô có cây cao su là do nơi đó.
Khổ tâm hơn hết
là Đức Thượng Phẩm bị người Pháp cật vấn đủ điều cho đến đổi tới giờ cúng cũng
không vô Chánh Điện cúng được, buộc phải rào song ly ngăn lại. Trong Chánh Điện
chỉ có một mình ông Lễ Sanh Thượng Xường Thanh cúng mà thôi, còn ở ngoài thì
vài ba ông thợ mộc quì trên dăm bào lạy vô Bửu Điện. Vì lúc nầy chánh phủ Pháp
nghi ngờ, bắt đạo và bó buộc không cho tụ họp đông.
Hồi mà mới trả
chùa, dời tượng Phật Tổ về đất mới, cốt Phật vì nặng quá, bởi con ngựa Kiền Trắc
của Đức Phật Tổ cỡi lớn và dài nên Thượng Phẩm phải kết hai (2) chiếc xe bò lại
để thỉnh cốt Phật lên. Trong lúc sửa soạn thỉnh cốt Phật thì ông chánh tham biện
người Pháp cho một toán lính mặc đồ thâm núp dưới đường mương ngoài chong súng
lên đặng bắn Thượng Phẩm. Tới chừng thấy rõ là thỉnh cốt Phật mới rút lui. Hội
Thánh từ từ di cốt Phật về đất mới mua.
Đức Thượng Phẩm
đứng trên xe bò vịn cốt Phật thấy nghiêng bên nào thì hô lên để sửa ngay lại,
đi từ 6 giờ chiều tới 2 giờ khuya mới đến Thánh Địa bây giờ. Trước cửa Hòa Viện
có cây vên vên, đến đây di cốt Phật vào không được vì bị một cái đường mương lớn
quá, Thượng Phẩm phải lập kế kiếm ván đặng lót xe vô mới được. Khi xe qua đường
mương rồi thì tạm để cốt Phật nơi đây, vì Thượng Phẩm mệt đuối, nhào xuống đống
lá khô trong rừng nằm nghỉ, tất cả chức sắc cũng nằm xuống đó nghỉ theo, vì khi
đó mới mua được đất chứ chưa cất được cái nhà nào hết, chỉ có cái nhà bò của
ông Aspar, là chủ đất cũ để lại, cũng nhờ đó mà tạm dùng làm phòng trù cho công
quả có chổ để ăn mà phá rừng, nên khi Thượng Phẩm thỉnh cốt Phật về đến đây mệt
lả thì bà Hương Hiếu đã chuẩn bị nấu cháo sẵn rồi.
Lúc bấy giờ đạo phải
trải qua nhiều lối chông gai, nhiều đường khổ hạnh, nhưng người chủ trương việc
đạo nhứt là ông Thượng Phẩm, đem hết dạ nhiệt thành, hết bầu tâm huyết mà sắp đặt
trật tự bên trong và chống trả với phản động lực bên ngoài. Thượng Phẩm vâng lịnh
Chí Tôn phá rừng, xây cất Tòa Thánh tạm, hậu điện, đông lang, tây lang, trường học, trù phòng, tất
cả đều bằng tranh, rồi đào giếng, cái giếng nầy đến nay vẫn còn gần Đền Thánh
đó.
Thảm thay, trời
đương thanh, biển đương lặng, gió đương êm. Bỗng đâu đất bằng sóng dậy, nước lả
khuấy nên hồ đem đến gieo ác cảm cho Thượng Phẩm.
Ông Tư Mắt, chữ
Hán là Mục, tên giấy tờ là Nguyễn Phát Trước, là người côn đồ được Pháp dùng
quyền để mua chuộc làm sếp lính kín ở miền Nam Việt Nam hồi Chí Tôn mới dùng
huyền diệu cơ bút khai đạo, ông ta biết đến Đạo Cao Đài và xin nhập môn.
Ngày 25 tháng
Giêng năm Bính Dần (1926), Đức Chí Tôn có giáng dạy ông ta như vầy:
" THẦY
Mắt! Nghe dạy:
Trước vốn Hỏa
Thần ở Ngọc Cung,
Giúp Nam
không đặng phận tôi cùng.
Nước đời lắm
nỗi chua cay bấy,
Còn đợi chi mong thế vẫy vùng.
Ngươi muốn biết đặng cha ngươi thế nào, hỏi
nơi ngươi. Hễ tu thì cứu đặng Cửu Huyền Thất Tổ. Ngươi là hiếu hạnh, chẳng lẽ để
cha mẹ chịu đọa A-Tỳ. Nghe mà ăn năn sám hối.
Thăng."
Tái cầu:
" CAO ĐÀI
Mắt! Ngươi muốn
hiểu cha ngươi thể nào, ấy là hiếu hạnh. Ta khen đó.
Ngươi làm tội
chớ cha ngươi là trung hiếu lưỡng toàn, hay thương yêu đồng chủng, mà bị tội
giáo tử bất nghiêm, để đến đỗi hại sanh linh đã lắm lúc nên bị tội liên can đó
mà thôi, phải ở tại ngục Ngươn Tiêu mà đợi ngươi đến.
Ngươi phải ăn
năn, khuyến thiện và tu tâm dưỡng tánh đặng độ nó và ngày sau đặng qui vị mà khỏi
đọa luân hồi.
Nghe và tuân
lịnh dạy.
Tâm thành của
ngươi mới đặng mà thôi.
Ngươi muốn vậy,
làm lành lánh dữ. Ngày nào đặng vậy, Ta sẽ cho cha ngươi về nói lại cho ngươi
biết.”
Ông ta lúc nào
cũng muốn làm lớn trong cửa đạo để được ngang bằng với cái chức sếp lính kín của
mình. Sau khi nhập môn tự nhiên ông ta oán ghét Thượng Phẩm. Rồi sau đó ông ta
tố cáo Thượng Phẩm ăn cắp cưa, ăn cắp thuốc, ăn cắp ky đem bán. Còn nói cho bà
Tư là bạn đời của Thượng Phẩm nào là ăn cắp từ bó rau, hủ chao về bán.
Năm Mậu Thìn
(1928) ông Tư Mắt cùng nhóm Cầu Kho Sài Gòn kéo về Tòa Thánh gây áp lực đánh đổ
Hộ Pháp và Thượng Phẩm, đòi dẹp Hiệp Thiên Đài vì cho rằng Hộ Pháp và Thượng Phẩm
thâm lạm do tủ sắt bị lủng đáy. Họ vận động tín đồ nói rằng Cửu Trùng Đài đã đủ
cơ cấu hành đạo để cứu chúng sanh, còn Hộ Pháp có công buổi đầu giờ đây đã mỏi
mệt nên nghỉ việc đi. Vì cớ nên mới có sự bàn cãi giữa hai bên: một bên là phe
ông Tư Mắt, một bên là tín đồ trung kiên với Hộ Pháp và Thượng Phẩm.
Cuối cùng sự việc
dẫn tới sự biểu quyết bằng cách bỏ thăm để định vận mạng của quí Ngài. Thăm có
2 loại: "Còn nữa" và "Không thôi" để trả lời
cho câu hỏi Hiệp Thiên Đài còn nữa hay không. Kết quả là 15 phiếu "Còn
nữa", 27 phiếu "Không thôi", và 3 phiếu trắng. Như vậy
Hiệp Thiên Đài phải nghỉ vì chỉ có 15 phiếu.
Thượng Phẩm mới
nói:
" Vai
trò của tôi còn thì Hiệp Thiên Đài còn, vì cả một khu rừng già độc địa lúc trước
nay tôi san bằng, phát hoang, rồi tạo ngôi Đền tạm nầy đây. Công việc còn nhiều
lắm biết bao số kể, tôi đâu có nghỉ được, đâu có làm lơ được. "
Mà rồi thì quí
Ngài cũng phải chịu phép không cãi lại được với sự giao ước.
Bọn chúng gây áp
lực đuổi quí Ngài đi trong vòng 24 tiếng đồng hồ không là bị cột vào rừng thiên
nhiên bắn. Tất cả chức sắc không ai dám nói gì, đành im lặng để cho kẻ bạo tàn
thắng thế, người cô thế phải thua, nhứt thời chịu nhục. Thượng Phẩm thì về đất
nhà ở ngoài gần Đình Hiệp Ninh, là đất của bà tư Hương Hiếu để cho nguôi ngoai
nỗi buồn thảm. Đức Hộ Pháp có an ủi ông rằng:
" Số 15
là số của Hiệp Thiên Đài, 12 vị Thời Quân và 3 vị làm đầu 3 Chi là 15 người.
Chiết ra cộng lại 1+5 là 6. Số 27 là số của Cửu Trùng Đài, chiết ra 2+7 là 9. Còn lại
3 phiếu trắng nếu có thêm vào bên nào thì nguy cho bên đó (loạn pháp bên đó).
Nhận thấy bao nhiêu đó cũng đáng mừng, quyền Chí Tôn khiến Hiệp Thiên Đài vẫn
còn Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài vẫn còn Cửu Trùng Đài, không có bên nào mất cả."
Cũng chính nơi
đây các Đấng thường hay giáng cơ an ủi, cô Thất Nương có giáng cơ đặt tên cho
nơi đó là “Thảo Xá Hiền Cung” và cho đôi liễn:
“THẢO XÁ tùy
nhơn ngu muội bần cùng nghinh nhập thất.
HIỀN CUNG trạch
khách thông minh phú quí cấm lai môn.”
Hồi Đức Hộ Pháp
vâng lịnh Chí Tôn qua Kim Biên mở đạo, Đức Thượng Phẩm ở nhà được lịnh của Chí
Tôn cùng với Đầu Sư Thượng Trung Nhựt xuống làng Phú Mỹ ở Mỹ Tho lập Minh Thiện
Đàn dạy đặng một đoàn môn đệ.
Trước tiên là lập
Thánh Thất Phú Mỹ rồi giao cho ông Giáo Hữu Thượng Minh Thanh coi sóc. Đức Lý
cũng thường giáng đàn nơi nầy để dạy đạo. Về sau anh em được chiêu mộ về Tòa
Thánh làm công quả.
Khi Hộ Pháp từ
Nam Vang trở về ngay lúc đạo gặp cơn nguy biến, nền đạo bị chinh nghiêng, trong
bị quyền đạo khảo đảo, ngoài bị Pháp buổi nọ áp bức làm cho mấy anh lớn cầm quyền
đạo chia rẽ nghịch lẫn nhau, thiên hạ lại giục thêm cho nghịch, cho loạn. Tình
trạng nguy ngập không thể tưởng tượng. Chúng bắt buộc bất cứ ai trong Đền Thánh
buổi nọ ra hành đạo đều bị bắt đi giam cầm. Pháp định diệt đạo buổi phôi thai,
bó buộc đến nỗi không có cơm ăn. Bên ngoài chúng mướn tay sai bắt giam cầm làm
nhục một cách không thể tưởng tượng được. Bên trong thì phân phe chia phái, một
đoàn người theo ông Trung, một số theo ông Tương, và cũng có một số theo Thượng
Phẩm. Minh Thiện Đàn cũng không còn được trông nom tới, có vẻ suy tàn.
Lúc ấy, sau khi
Thượng Phẩm lui về Thảo Xá để tạm lánh, Đức Hộ Pháp cùng đoàn môn đệ Phạm Môn
cũng bị đuổi ra khỏi Đền Thánh, thầy trò dắt nhau đi tìm mua đất tạo dựng lại
cơ ngơi gọi là Phạm Nghiệp tại xóm trường đua xã Hiệp Ninh, tỉnh Tây Ninh ráng
làm cho đạo sống lại.
Ngôi nhà đầu
tiên dựng trên phần đất Ngài mua được, giao khoán cho ông Lễ Sanh Thượng Ngươn
Thanh lãnh làm xong kéo đến dựng, cột cây kê táng, lợp tranh.
Trong thời gian
kiến tạo đó, có một số người đạo tâm tình nguyện đến xin làm giúp cho Ngài,
cũng với ý định muốn được gần gủi Ngài để học đạo. Sau đó số người dần tăng lên
đông đúc. Năm Canh Ngọ (1930) Ngài mới nói với số người đạo tâm là:
“Chổ này
không phải chổ làm công quả, nếu ai muốn làm công quả thì về trong Tòa Thánh mà
làm. Còn như em nào muốn theo qua thì phải làm tờ hiến thân trọn đời vào Phạm Môn và phải có cha mẹ với
vợ bằng lòng ký tên cho hiến thân mới đặng, đồng thời tờ hiến thân phải có Đầu
Họ Đạo vi chứng.”
Những anh em nầy
họp nhau bàn tính, kết cuộc anh em đồng ý làm tờ hiến thân. Khi làm xong đệ lên
Ngài xem rồi đệ qua cho Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.
Từ ngày anh em
làm tờ hiến thân rồi, Ngài buộc làm công mỗi tháng phải đủ 27 ngày, nghỉ 3 ngày
là mùng 10, 20 và 30, nếu tháng thiếu nghỉ ngày 29. Khi số người tăng lên đông
đúc, phần ăn uống có mòi thiếu thốn, mấy người lớn tuổi mới bàn tính định phân
ra một số đi cưa cây làm cửa để trang trí ngôi nhà, một số lo kiếm ruộng làm.
Khi bàn tính xong trình lên Đức Ngài hay, Ngài chấp thuận rồi hỏi mướn sở ruộng
của bà Hương Thanh ở Bến Sỏi để mọi người có đất trồng lúa.
Khi ngôi nhà được
trang trí kín đáo, xây 2 trụ cửa ngõ xong Đức Hộ Pháp mới dạy làm tấm bảng đề 2
chữ “Phạm Nghiệp” và đăng lên đôi liễng:
“PHẠM Nghiệp
thừa nhàn lợi lộc công danh vô sở dụng,
MÔN Quan tích
Đạo tinh thần tháp bữu hữu cơ cầu.”
Sau đó Đức Hộ
Pháp được lịnh của Chí Tôn sai đi xuống Thủ Đức do nơi ấy đang có bịnh dịch hoành hành. Lúc đó ông
Thái Thơ Thanh mới bảo:
“Thầy Tám có
một mình thôi thầy xuống tôi, xuống Thủ Đức sống.”
Thấy cũng được
nên Đức Ngài gọi 2 người Thổ là ông Inh và ông Chia thu dọn đồ đạt vào rương rồi
3 thầy trò rời Tây Ninh xuống Thủ Đức. Năm đó Thiên hạ bị bịnh chướng, khi
không khởi phù mình rồi chết, nhứt là ở tại Thủ Đức lắm bịnh nhơn quá chừng,
nên Chí Tôn sai Ngài xuống đặng chữa bịnh.
Mới đầu Ngài trị
bệnh như bác sĩ, mua thuốc tiêm chích, cho uống thuốc nước hoặc viên như thường,
bịnh nào cũng mau hết. Rồi sau đó trị tà, mắc đằng dưới, quỉ ma nhập, kết quả rất
linh diệu. Ông Giáo Hữu Minh thấy Ngài trị bịnh hay quá mới về Phú Mỹ chở người
cháu kêu ông Minh bằng chú, bị đau tê bại trong 2 năm đi không được lên Thủ Đức
cho Ngài trị. Ngài truyền điển trị xong bịnh nhân tự nhiên cử động đi tới đi
lui được, rồi lần hồi đi bình thường. Đó là ông Đinh Công Trứ sau nầy làm Giám
Đốc Trường Qui Thiện.
Được 7 tháng,
cái nhóm người của Cửu Trùng Đài ở Thủ Đức ngày càng tỏ vẻ có ý khinh rẻ xem
thường Đức Ngài. Thấy vậy Ngài lại một phen ngán ngẩm cho cái sự đời. Bửa nọ
Ngài đến nhà ông Thơ chơi, ông Thơ biết ý họ muốn đuổi xô Ngài nên mới ngỏ ý với
Ngài là:
“Hay là vầy,
tôi còn đám cao su, thôi thầy về đó làm người cạo mủ bán để kiếm sống.”
Nghe vậy Ngài
càng thêm buồn thảm, chẳng lẽ mạng lịnh Hộ Pháp lại đi làm mướn kiếm sống hay sao?
Ngài thấy không ổn nên mới quyết định ra đi, vì thấy nơi nầy không xứng đáng để
Ngài ở nữa. Trước khi đi, Đức Ngài có để lại một bài thơ dán tại văn phòng
Thánh Thất ấy như vầy:
“Thắng khổ người tu vẫn để lòng,
Vì thua Thủ Đức phải đành dông.
Buồn vì chưa đứng đặng trên đầu rắn,
Vui đã phân minh chí khí rồng.
Nào để vịt gà chê tiếng phụng,
Chỉ phiền hồng hộc ghét đuôi công.
Mở kho cứu đói đây trề miệng,
Ta quảy hồng ân rải giáp vòng.”
Sau đó 3 thầy
trò chuẩn bị đồ đạt vào rương rồi ra đi rời Thủ Đức. Ý định của Ngài là qua nhà
ông Hội Đồng Quản ở Gò Công, bạn của Ngài và cũng là bà con cô cậu với ông Khai
Pháp. Ngài có định sai 2 ông Miên đến nhà ông Quản hỏi trước rồi Ngài sẽ đến
sau. Trời xuôi đất khiến, ông Giáo Hữu Minh từ Phú Mỹ đáp xe về Sài Gòn thì gặp
Ngài đang định đi về Gò Công. Ông trình bày ý kiến của mình là muốn rước Ngài về
Phú Mỹ. Lúc nầy Ngài mới định thần xét xem nên phải đi đâu và sau đó Ngài quyết
định về Phú Mỹ ở Mỹ Tho, đi cùng Ngài là ông Inh và ông Chia nữa.
Về Thánh Thất
Phú Mỹ, Ngài vào bái lễ Chí Tôn mới thấy Đức Lão Tử đi ngang qua, Ngài mới nói
rằng: “Thánh Thất Phú Mỹ nầy do Đức Thái Thượng Lão Quân làm chưởng quản.”
Ngày hôm đó từ
ngoài đầu đường dẫn vào Thánh Thất bao gồm bổn đạo có, người ngoại đạo có, họ
chen lấn nhau mong được thấy mặt và nghe Ngài nói chuyện.
Tiếng đồn có Hộ
Pháp xuống lan nhanh, mọi người ùn ùn tới Thánh Thất Phú Mỹ, đoàn người kéo dài
hàng trăm mét. Cái cảnh đầu tiên đón rước Ngài như thế làm Ngài nhận thấy cả một
khối tinh thần quí trọng, tôn kính trọn tin nơi Ngài. Ngài nói với mọi người rằng:
“Thủ Đức
không biết xài ngọc nên qua đem ngọc đi. Còn Phú Mỹ biết xài ngọc nên qua đem
ngọc ban cho.”
Ngài bắt đầu giảng
đạo, thuyết pháp, hành pháp, cầu cơ, chữa bệnh và dạy dỗ nhơn sanh.
Có lần Đức Ngài
hành pháp giải bịnh cho một người đàn ông bị bịnh đã lâu, thuốc thang không hết.
Người đàn ông ấy như ngây như dại, lờ khờ.
Khi được người
nhà đưa đến trước mặt Ngài, Đức Ngài nhìn thấy trong vô hình một cái bị 9 quai
hiện trước mặt người bệnh. Đức Ngài mới hỏi:
“Ông bà người
này trước làm nghề gì? Có phải ‘phường’ không?” Gia đình nghe Ngài hỏi vậy cả sợ, nhưng niềm tin
nơi Đức Hộ Pháp lại thêm mãnh liệt. Họ nói:
“Dạ phải.”
Rồi mẹ ông ấy kể
gốc gác diễn tiến nhiều đời của nhà họ. Đức Hộ Pháp nói:
“Qua hành pháp
trị bệnh xong rồi. Nên về cúng và cầu nguyện Đức Chí Tôn ân tứ cho ông bà tổ phụ,
lại nữa cũng cầu xin ông bà phù hộ cho con cháu trên bước đường tu, lập công bồi
đức, tạo âm chất phần nào ngõ hầu nâng đỡ Cửu Huyền Thất Tổ được siêu thăng.”
Đức Hộ Pháp dạy
như vậy là vì chữ “phường” là người đi ăn xin. Cúng ông bà là phải đồ đi xin
ông bà mới chứng, còn không xin thì không chứng. Xin đây có nghĩa là dù cuộc sống
có khá, giàu có, nhưng khi mua đồ thì mua mà cũng phải xin thêm một chút, góp
nhiều món xin lại làm đồ món mới cúng, đó là bí mật gia đình người ấy không thổ
lộ với ai. Trong nhà có người biết mới chứng thật được vậy.
Lúc ấy ông Giáo
Sư Cậu hay có tính bắt chước làm phép vì ông rất thích việc ấy. Có lần Đức Ngài
hành Pháp giải bịnh điên cho một người, và hành pháp đoạn căn cho một người, sợ
ông Giáo Sư Cậu bắt chước nên Ngài nói:
“Nè, anh đừng
có thấy tôi làm mà bắt chước nghe. Chỉ có tôi mới hành pháp này mà thôi. Tôi tắm
đây là tắm cho cái chơn hồn đó, chớ không phải tắm cho cái xác. Tôi có lịnh của
Đức Chí Tôn truyền pháp. Chừng nào có được dịp tôi truyền cho anh thì anh mới
làm được.”
Có lần sau khi
giảng đạo xong, để cho không khí có phần vui tươi thoải mái, ngoài ra cũng có một
số đông các cụ thầy Nho. Đức Ngài muốn thử tài xem trình độ tiến hóa tâm linh của
mọi người như thế nào, Ngài nói:
“Hôm nay qua
ra câu đố, ai trả lời được sẽ có thưởng.”
Rồi Ngài đọc:
“Ở nơi Tam Bộ Châu
Đầu đội mão thành y
Thân mặc áo Tam diệu
Tay tả cầm cây sức triệu
Tay hữu nắm nhành dương liễu
Vai mang gói tồn trang
Trong gói ấy là tứ linh báu vật (Xuất nhơn)
Mọi người nhẩm tới nhẩm lui."
Trời càng về
khuya, mỗi người một ý không ai giống ai. Tất cả những câu trả lời đều không
đúng. Đức Ngài cho hẹn về suy nghĩ đêm sau trả lời. Đêm sau cũng không ai trả lời
đúng. Bấy giờ Đức Ngài nói:
“Dễ ợt mà
đoán không ra. Bần đạo nói cho. Hễ thực nhơn tài thì phải cứu nhơn tai, xưa nay
vẫn vậy. Nếu mấy em nói ra không được, thì đây qua tả một người ăn xin và cách
sinh hoạt của người ấy.
Ở nơi Tam Bộ
Châu: Ở mọi nơi, đi khắp đó đây.
Đầu đội mão
thành y: Áo vá nhiều chỗ như áo bá nạp.
Tay tả cầm
cay sức triệu: Cây gậy để đánh chó.
Tay hữu nắm
nhành dương liễu: Cầm cái cây đầu tưa như cây chổi nhỏ để quơ đuổi ruồi đậu.
Vai mang gói
tồn trang: Vai mang cái bị vải thòng dài xuống lưng.
Tứ linh báu vật:
Đồ ăn thức uống xin được, đó là báu vật thiêng liêng ban cho thế gian đó.”
Hiểu ra được, mọi
người đồng cười sảng khoái.
Sau đó Đức Hộ
Pháp hợp nhứt 2 nhóm cầu cơ là Hồng Đăng và Bạch Đăng để phục hưng Minh Thiện
Đàn do Đức Ngài làm Chưởng Quản đồng thời cũng lập Phạm Môn ở đây luôn. Khi ấy
Chí Tôn mới giáng cơ cho bài thi nói về Phạm Môn là:
“Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn
Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.”
Chí Tôn có dạy:
“Như Lai là cảnh
Phật chớ không phải danh Phật, nên trong kinh có câu ‘Bổn giác vị kim giác Như Lai’. Bồ Đề là nơi chổ
Phật ngự, Phạm Môn là cửa Phật, Bỉ ngạn là đất Phật.”
Khi xây cất
Thánh Thất Phú Mỹ xong, Ngài sai ông Giáo Hữu Minh xuống ông Ca ở Mỹ Tho để xin
phép lập đàn ở Phú Mỹ làm lễ khánh thành, vì ông Ca là cựu Đốc Phủ nên cậy ông
xin phép sẽ dễ dàng hơn. Ông Ca không nhận bảo rằng:
“Mỹ Tho là
Thánh Thất lớn, Phú Mỹ là Thánh Thất nhỏ, Đức Hộ Pháp đến Mỹ Tho sao không xuống
Thánh Thất Mỹ Tho, bộ Mỹ Tho không có chỗ cho Ngài thuyết pháp hay sao mà lại đến
Phú Mỹ rồi nhờ đi xin phép?”
Ông Minh về
trình lại với Ngài, Ngài buồn nhưng chẳng biết nói sao. Trong lúc bối rối Đức
Ngài thấy Thái Thượng Lão Quân đến mà không có cởi Thanh Ngưu.
Ngài hỏi lý do vì
sao thì Đức Thái Thượng nói:
“Ta đến dẫn
Thanh Ngưu về, để nó phá hiền hữu không thi hành Thiên mạng được.”
Đức Ngài hiểu ý,
năn nỉ Đức Lão Tử cứ để y như vậy, Thanh Ngưu không hại Ngài đặng đâu. Vì lòng
bác ái mà Ngài không nở để ông Ca tuyệt mạng, chẳng thà Ngài chịu khổ. Bởi vì,
nguyên căn của ông Ca chính là tọa thị của Đức Thái Thượng Lão Quân giáng trần.
Trong một đàn cơ cô Bát Nương Diêu Trì Cung trêu Đức Quyền Giáo Tông như thế nầy:
“Kim Ngưu lằn
sứt mũi hãy còn, làm sao mà anh móc dây dẫn về Bạch Ngọc Kinh cho được.”
Chuyện là Đức
Quyền Giáo Tông chính là chiết ngươn linh của Lý Thiết Quả, khi xưa nơi cõi
thiêng liêng Đức Lý Thiết Quả sang viếng thăm Đức Lão Tử, là Thái Thượng Lão
Quân, lại ngay hôm Lão Tử không có nhà, còn Từ Giáp, là người đệ tử coi con
trâu cỡi của Lão Tử thì đang ngủ. Thấy Thanh Ngưu đang đứng, Lý Thiết Quả đến gần
mở dây để cỡi. Thanh Ngưu thấy người lạ hoảng sợ giựt đứt dây, sứt mũi chạy mất.
Trong buổi khai Đại Đạo, ông đốc phủ Ca là gốc Thanh Ngưu đầu kiếp nên môi của
ông có lằn vá do bị nứt rách nơi ấy. Vì vậy mà cô Bát Nương trêu Quyền Giáo
Tông để nhắc lại tích xưa cho biết sự tương quan giữa ông và ông Ca.
Đêm hôm đó Ngài
trằn trọc không ngủ được. Trong lúc mơ màng nửa tĩnh nửa mê, Ngài thấy Phật Mẫu
cho 3 chữ Nho, còn nghe tiếng nói:
“Khổ Hiền
Trang.”
Ngài giật mình dậy
lấy giấy viết lại liền 3 chữ Nho ấy. Sáng ngày Ngài đem 3 chữ nho ấy hỏi mấy vị
thầy Nho thì đúng là Khổ Hiền Trang. Ngài thuật lại chuyện đêm hôm qua và nói 3
chữ Nho đó là do Phật Mẫu ban cho. Sau đó Ngài cho viết 3 chữ đó vào một tấm bảng
lớn rồi treo ngay trước cổng Thánh Thất để cho mọi người biết Thánh Thất Phú Mỹ
giờ đây có tên là “Khổ Hiền Trang”, là cái lều của người chịu khổ. Ngài
mới nói:
“Trên thiêng
liêng có Động Khổ Hiền là nơi Đức Thái Thượng ngự, nên nơi Khổ Hiền Trang Ngài
hằng viếng thăm. Mấy em hãy giữ gìn Khổ Hiền Trang cho sạch sẻ, thanh khiết để
khỏi lỗi cùng Đức Thái Thượng.”
Đức Ngài còn
nói:
“Nơi đây, nơi
Thánh Thất Khổ Hiền Trang nầy, chỉ cho một chữ thôi cũng đủ làm giàu, khỏi lo
đói: truyền thần chữ KHÍ để chữa bệnh.”
Đức Lý Giáo Tông
cũng có giáng cho bài thi như sau:
“Khổ thà cam chịu chớ đừng than,
Hiền ngõ cùng nhau mới vẹn toàn.
Trang điểm ngọc lành cho đáng giá,
Dồi mài Chí Thiện, Thượng Minh Thanh.”
Sau đó, cô Bát
Nương Diêu Trì Cung giáng đàn báo tin cho Ngài biết là vào
năm 1914 trạng Trung Hoa có
lén đưa thầy địa lý là người Tiều Châu đột nhập vào lãnh thổ Việt Nam mang theo
cây Long Tuyền Kiếm bí mật lần dò đến địa điểm ngọn Chàm Sập, Láng Cát có ngọn Núi Lan mới vừa
hình thành ở làng Phú Mỹ, cách Khổ Hiền Trang khoảng 10 cây số để trấn ếm với ý
đồ thâm hiễm là nhờ lưỡi kiếm báu vớt đứt hết nhân tài không cho Trạng, Tướng của
đất Việt xuất hiện được.
Ngài có hỏi cách
giải ếm đều được Bát Nương chỉ phép, nhưng chưa thực hiện được thì Ngài hay tin
Thượng Phẩm lâm trọng bịnh. Sau đó Ngài trở về Tòa Thánh ngay.
Thượng Phẩm từ
ngày về Thảo Xá thì lâm bệnh nặng, thân thể hao mòn, sắc diện âu sầu buồn bã.
Ngài bị tâm bịnh vì thất chí, lương y khó phương điều trị cho lành mạnh. Chí
Tôn có dạy Hội Thánh cất Tịnh Thất trong Nội Ô để rước Thượng Phẩm nhập tịnh.
Nhập tịnh được một thời gian mà bịnh tình cũng không thuyên giảm, hằng ngày kém
ăn mất ngủ, thân thể xem gầy còm.
Đến ngày 26
tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928), Đức Thượng Phẩm mới nói với bà Hương Hiếu lo sắp
đặt 6 giờ chiều trở về Thảo Xá mà không cho chức sắc hay trước.
11 giờ trưa ngày
mùng 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929), Đức Thượng Phẩm kêu Hộ Pháp, Bảo Văn Pháp Quân
Cao Quỳnh Diêu, bà Hương Hiếu, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, Giáo Hữu Thượng Kỳ
Thanh, Lễ Sanh Thượng Ngươn Thanh. Thượng Phẩm nhìn Đức Hộ Pháp trối rằng:
“Nay qua về
chầu Đức Chí Tôn, em ở lại hiệp với chức sắc chung lo nền đạo của Thầy cho được
vẹn toàn mọi sự. Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn.”
Nói rồi tuôn 2
hàng nước mắt. Kế day qua nói với bà Hương Hiếu căn dặn để trọn tâm lo tròn phận
sự. Dứt lời Đức Thượng Phẩm xuất hồn đi nhẹ nhàng, ai nấy có mặt đều cảm động
ngậm ngùi. Mọi người đở kim thân Thượng Phẩm ngồi dậy, thúc xác ngồi kiết già,
trước mặt lập bàn hương án có chưng hoa quả rượu trà. Đức Hộ Pháp ra kiểu cho
thợ đóng liên đài hình bát quái. Thời Tý đại liệm, rồi thành phục phát tang
theo nghi tiết. Hội
Thánh thông tri cho toàn đạo xa gần được hay.
Đức Hộ
Pháp có làm một bài điếu như vầy:
“Thượng Phẩm ôi! Hỡi anh ôi!
Chưa xong trách nhiệm đã về Trời.
Bốn năm công quả vun nền đạo,
Mấy đoạn chông gai chịu nước đời.
Ngọn bút Thần cơ Trời nỡ đoạn,
Nắm xương Thánh chất lấp chôn vùi.
Mực hòa huyết lệ đề câu điếu,
Thượng Phẩm ôi! Hỡi anh ôi!”
Liên đài
quàn tại Thảo Xá 3 ngày, chức sắc và đạo hữu đến tế rất đông. Chức sắc Hiệp
Thiên Đài cầu cơ Thượng Phẩm
có về giáng tỏ vẻ vui mừng được về bái mạng Chí Tôn và Phật
Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung. Ngài có cho bài thi:
“CAO thanh miệng thế mặc chê khen,
THƯỢNG trí màng chi tiếng thấp hèn.
PHẨM cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.”
Cao Thượng Phẩm
là chiết ngươn linh của Hớn Chung Ly giáng trần. Hớn Chung Ly, tức là Chung Ly
Quyền thời nhà Hớn, là một vị Đại Tiên trong Bát Tiên đứng dưới Lý Thiết Quả,
lãnh lịnh Chí Tôn giáng trần làm tướng soái cho Chí Tôn khai đạo. Đức Chí Tôn
có giáng cơ nói về việc Thượng Phẩm đăng Tiên như sau:
“Thầy đã nói
rõ rằng Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng mà hại thay vì biếng
nhác, các con không đọc Thánh ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.
T…! Con có nhớ
lời Thầy nói với các con rằng đạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại
thiêng liêng chi vị thì ai đem các chơn hồn vào cửa Thiên giùm cho các con. Lại
nữa, các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt Thầy nơi thế nầy về
phần đời, còn phần đạo cũng phải có đôi đứa mới đặng cho, cười!”
Sau khi lo đám
tang của Đức Thượng Phẩm xong, Ngài quay trở về Thánh Thất Khổ Hiền Trang, chấp
bút thì được chỉ dẫn nơi ếm Long Tuyền Kiếm. Ông Lê Văn Trung, sau nầy làm Chưởng
Quản Phước Thiện có kể là hồi ông còn đi học, ông thấy có một cái đám xác đi
chôn nơi Láng Cát, làng Phú Mỹ, ông vô tình ngồi trong một quán nước và nghe một
ông lão chuyên môn đào huyệt mướn nói chuyện với mọi người, lão ấy cằn nhằn rằng,
phải đào đi rồi bỏ, đào lại rồi bỏ, bốn lần đào mới được cái huyệt mà người nhà
ưng ý để chôn bà già đó.
Lúc đó có một
người Trung Hoa ngồi gần bên nghe nói mới đến bên ông đào huyệt hỏi:
“Sao mà tới 4
lần, chôn ở đâu? Chôn ở xa hay gần?”
Ông đào huyệt
nói:
“Chôn ở Láng
Cát, đào cứ trúng đá hoài, lần chót ra bìa gần kinh mới đào được. Chôn cũng
không sâu lắm vì cũng có đá mà hơi mềm hơn.”
Ông Trung Hoa nầy
đến đây đã 2 năm rồi, nói là đi tìm bà con nhưng không gặp. Ông ta nói chuyện với
lão đào huyệt, sau đó 2 ông nầy chèo xuồng vào Láng Cát. Ông lão đào huyệt nói
là ông Tàu bảo ông ngồi chơi, rồi không biết ông Tàu làm gì chỉ thấy ổng cầm một
bọc gói kín, một cái hộp cải bắp thảo, đi quanh đi quất tìm kiếm cái gì không
biết. Một lúc lâu sau ông Tàu trở ra và cùng ông đào huyệt đi về.
Thời gian trôi
qua 14-15 năm gì rồi, ông Tàu thì đi đâu mất, ông lão đào huyệt thì đã mất. Cho
đến khi lúc Hộ Pháp lãnh lịnh khai quật Long Tuyền Kiếm thì ông Trung mới giựt
mình, bao nhiêu điều mắt thấy tai nghe buổi nọ lần lượt quay lại trong đầu. Ông
đem kể lại hết cho Đức Hộ Pháp nghe từng chi tiết một.
Đây nói thêm về
lai lịch của Long Tuyền Kiếm từ đâu mà có.
Ngày xưa ở nước
Ngô nọ có hai vợ chồng là Can Tương và Mạc Da là người nước Ngô có biệt tài rèn
các thanh kiếm báu mà không một ai có thể rèn được. Hai người có ý định thực hiện
cho kỳ được thanh kiếm quí để dâng cho Ngô Vương để đền đáp công ơn ngọn rau tấc
đất. Mà muốn hoàn thành gươm báu phải hòa hợp đứng trinh chính của Hào Lục quẻ
Khôn chỉ về Đất, và phải đủ khí kiên cường của Hào Cửu quẻ Càn chỉ về Trời do
huyền vi mầu nhiệm khéo léo của Tạo Hóa làm ra và nhờ chất tinh của âm dương phối
hợp mới rèn được thanh kiếm quí, nên hai vợ chồng ngày đêm đem hết tài trí quyết
tâm rèn cho kỳ được song kiếm báu. Lòng hy sinh cao cả tuyệt đối phi thường của
một người phụ nữ như Mạc Da là rất hiếm có, Mạc Da can đảm cắt hết tóc, cắt hết
móng tay rồi nhảy vào bể lò rèn hy sinh cả thể xác làm cho thép chảy ra giúp chồng
hoàn thành được song kiếm quý đặng dâng vua.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét