Lời Cảm Tưởng.
Quyễn "Triết Lý Nhân Bản".
Giáo Lý và Triết Lý của một Tôn Giáo rất là mầu
nhiệm, siêu việt mà người trần thế tìm tòi để TU, nhưng nhiều khi hết một kiếp sống riêng của đời mình cũng chưa thấu triệt để
gọi hiểu một chút gì của Tạo Hóa
đã sắp bày.
May duyên cho Nhơn loại vào thời kỳ Hạ
Nguơn Mạt Pháp nầy ĐỨC CHÍ TÔN NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ GIÁO ĐẠO
NAM PHƯƠNG TÁ DANH
CAO ĐÀI, ĐẠI ÂN XÁ cho chúng sanh TU, để tự mình sửa tánh ăn Hiền ở Lành, biến đời dữ hóa ra Hiền đặng giữ bền Cơ Sanh
Hóa và cũng để mỗi người tự lập công tạo âm chất khi viên mãn về bái mạng ĐỨC
CHÍ TÔN, ĐỨC PHẬT MẪU cùng các Đấng Thiêng Liêng không hổ thẹn.
Nhưng vì
vật chất dục người phải nặng mang trong kiếp sống nên sự TU trau luyện phần Hồn phải kém
đi, do đó sự truyền bá mối Đạo Trời đến đại chúng lắm khi phải bị chậm và sự
học hỏi ở Tinh Thần Đạo Đức phải kém.
Nay có Hiền Huynh Huệ
Phong đã ra công dài sưu tầm về Đạo Giáo Cao Đài phần triết lý viết rõ LÝ của
ĐẠO để giải đáp cho ai muốn tìm hiểu triết lý Đạo CAO ĐÀI ở mọi đề mục, đề tài.
Sưu tầm về triết của Đạo
Cao Đài không phải đơn thuần tự hiểu biết do bản thân HUỆ PHONG mà thôi, tôi
thiết nghĩ vì lòng mộ Đạo và trọn đức Tin Tín Ngưỡng nên ĐỨC CHÍ TÔN, ĐỨC PHẬT
MẪU, các Đấng thiêng liêng đã khai khiếu sáng được Huệ Nhãn cho
Huệ Phong thấy sự Huyền Bí
và Huyền Linh để viết thành tài liệu cho Đạo lưu lại mai sau.
Đó là một công dài của
Hiền Huynh Huệ Phong góp phần Đại Nghiệp Đạo Cao Đài rất quí giá trong nền Tôn
Giáo.
Tôi có lời xin giới thiệu
đến Đại Chúng Đạo Đời mong độïc giả sẽ thấy và hiểu về nền ĐẠI ĐẠO CAO ĐÀI TÒA
THÁNH TÂY NINH phần Triết Lý Đạo do ĐỨC CHÍ TÔN dùng Huyền Diệu Cơ Bút khai mở
nền Đại Đạo Cao Đài Đại Ân Xá cho toàn cả Nhơn loại trong kỳ Hạ Ngươn Tam
Chuyển nầy.
Tòa Thánh, Ngày 12
tháng 2 năm 1999
(ÂL: 27-12 Mậu
Dần)
Phối sư THƯỢNG NHÃ
THANH
Nguyên Quyền
Thượng Chánh Phối Sư
* * *
Để Tặng Soạn Giả
Quyễn "Triết Lý Nhân Bản".
Mừng bạn Huệ Phong đã
thành công trong sự nghiệp văn chương và đạo đức với quyển "Triết Lý Nhân Bản". Vậy tôi xin cảm tưởng một bài thi
coi như gởi trọn tấm chân tình để thay lời xác minh cùng bạn đọc.
THI
Mừng bạn Huệ Phong bút nở hoa,
Phát huy triết lý thuyết trung hòa.
Búa rìu phàm tục không lay chí,
Ân điển Thánh Linh hẳn giúp ta.
Tánh giống Đổng Hồ nêu những thật,
Tâm như Lục Tổ giải đâu ngoa.
Nhu cầu Đại Đạo vui nguồn sống,
Tam lập đường tu rạng Thánh tòa.
Tòa Thánh ngày 15
tháng 2 Tân Mùi
(1991)
CHÁNH CÔNG
* * *
Cảm tưởng Về quyễn.
ĐẠI ĐẠO TRIẾT LÝ
NHÂN BẢN
Triết thuyết Cao Đài lý nhiệm thay,
Hữu duyên Trời giúp được công dài.
Huệ Phong bút hiệu làng thi cũ,
Phẩm vị Thiên Thần buổi hiện nay.
Am hiểu cơ
mầu nền Chánh Giáo,
Âu nhờ ân điển khiếu quang khai.
Đề ra Nhân Bản sưu tầm đọc,
Làm đuốc soi đường bước hậu lai.
Ngày 1 tháng Giêng Kỷ Mão.
(dl. 16-2-1999)
Giáo Hữu
THƯỢNG BUỘI THANH
Tự Hoài Lẹ
* * *
LỜI MỞ ĐẦU
Chỉ có đạo Cao Đài Tòa
Thánh Tây Ninh tượng hình một quả Càn khôn đặt giữa tòa Bát Quái. Trên quả Càn
khôn, chúng ta thấy ngôi Bắc Đẩu, trên đó vẽ một con mắt bên trái để cho nhơn
sanh sùng bái với ý nghĩa thờ Trời, cũng là thờ Người. Đây là nguyên lý độc
nhứt vô nhị.
Bởi Đức Chí Tôn đến lập
Đạo Kỳ ba, muốn bảo tồn triết lý nhơn sanh trong đạo pháp nên dạy thờ Thiên
Nhãn tức là thờ thần Thiên lương của nhơn loại.
Bao quanh Thiên Nhãn là
khung mây hình tam giác tiêu biểu cho lý Thái cực, bao trùm cả Thiên Nhãn, ở
bên trong thể hiện vòng vô cực, chính giữa có nhứt điểm thần. Ở người là con
ngươi.
Còn ở trời đất là cái Tròn
với cái Vuông của hai đấng Chí Tôn. Quả Càn Khôn tượng cái bản thể viên dung ở
lý đạo, vốn con số "không"
(0), chớ thuở Hồng Mông đạo sanh nhứt là Phật, nhứt sanh nhị là Pháp, nhị sanh
tam là Tăng, nên giữa khoảng không phát một tiếng nổ thì khí hư vô biến sanh
ngôi Thái Cực tức là phần Tăng của nguơn vô thỉ, liền có Đức Chí Tôn hiện nơi
khối lửa Thái Cực, ngự trị cả Phật, Pháp, Tăng. Đức Chí Tôn chuyển vận linh
tánh biến xuất ba nguơn khí là : 1) Lý phản phục, 2) Pháp thu liễm, 3) Cơ định
vị, rồi mới khởi thỉ tạo Càn Khôn Thế giới. Xong, khối lửa ấy tắt không còn nữa
tức làThái Cực nhi Vô Cực.
Từ cái không hình thành
cái có. Từ cái có trở lại cái không đều do đạo pháp hư vô. Nên cơ Tạo đoan Càn
Khôn Vũ Trụ, Thái Cực là khởi thỉ, Vô Cực là nhi trị, ở trời đất cũng như ở con
người tư tưởng của tâm, còn hành động ở tánh, nhưng tâm cũng là tánh.
Thờ quả Càn Khôn với Tôn
giáo Cao Đài là thờ cái lý âm dương của trời đất, ấy là đạo, bởi âm dương hòa
sanh hóa Càn Khôn vạn vật và chư Thần Thánh Tiên Phật cũng do đó mà ra. Nói về
Pháp, cái phần siêu thể để tượng lý nguơn khí của Chí linh tức là thờ Trời. Còn
về vật thể là hình ảnh của Vạn linh ấy là đất nên thờ quả Càn Khôn có nghiã là
thờ Chí linh và Vạn linh. Ta nhìn vào Chơn Pháp của Đức Chí Tôn dạy phải đốt
trong lòng quả Càn Khôn một cây đèn, thay cho ngọn huệ đăng chiếu rực Tam Thập
Lục Thiên, còn ở chúng ta tâm cũng thuộc hoả làm điểm dương của lý Thái Cực để
vận hành tiểu thể thiên địa nầy, Thái Cực ở Trời tức là Tam Tài nên triết lý
Cao Đài đã thể hiện khung hình tam giác nơi ngôi thờ Đức Chí Tôn là một đấng
chủ tể Càn Khôn nắm quyền Phật, chủ cả Pháp và Tăng.
Với cơ năng ba hào dương,
tạo hóa đã tượng hình tam giác bằng ba ngọn đèn Thái Cực và Lưỡng Nghi khi hành
lễ, để phát huy ba điểm dương của Đức Chí Tôn trong cơ khởi thỉ Càn Khôn. Từ
Thái Cực, Lưỡng Nghi gác tréo sanh tứ tượng không tính số toàn là dương. Chừng
biến tứ âm thành Bát Quái là cơ chưởng giải của đại Vũ Trụ, nên nơi tòa Bát
Quái thờ quả Càn Khôn có đủ lý âm dương. Bên trong quả Càn Khôn có ba mươi sáu
cọng sườn nằm theo chiều dọc, thể hiện cho Tam Thập Lục Thiên là con số cửu của
Trời, mặt ngoài có Thất Thập Nhị Địa là con số cửu của đất, Bề kính tâm 3 thước
3 tấc, 3 nhân với 3 lại là 9, thành ra ba hào dương của cung Càn là Trời. 3 lần
9 là 27 cũng từ 9, là con số định vị cho Càn Khôn. Nếu lấy số chín mà cộng với
"tam" của Tam Thiên Thế Giái là con số mười hai, vốn số Thập Nhị Địa
Chi của Phật Mẫu, với Đức Chí Tôn ba là con số khởi thỉ, 9 là con số định vị
tức thị con số Thập Nhị Khai Thiên vì lẽ đó mà cả chúng sanh phải vận hành theo
qui luật tạo đoan giữa không gian và thời gian của một chu kỳ. Chẳng vật thể gì
ở ngoài pháp can chi của trời đất biến dịch, Chi là hệ ngang, Can là hệ dọc
cũng như pháp tứ tượng ở nơi tiểu Vũ Trụ của chúng ta, trí là hệ thống âm, tâm
là hệ thống dương, người có cả hai không thể thiếu, nếu thiếu chiều dọc là con
người quên hẳn nguồn gốc Thiên lương, thảng họ được chiều ngang thì giỏi phần
tấn hóa, dầu có tài trí, nhưng tánh ý không hiền.
Đại Đạo là một triết lý
duy nhân. Do đó, chúng ta muốn hiểu đạo học phải tầm gốc ở nhơn sinh chỗ tình
người, bởi nhơn sinh là một phần tối linh của Thượng Đế, không phải duy thiên
duy địa mà bỏ nhân, nên mọi sự sống nhất tịnh nhất động với hệ thống có qui
luật nhịp nhàng do máy hành tàng... "các
hữu Thái Cực". Cái của Chí Linh ở trong Vạn Linh giữa Chí linh và Vạn
linh, nên Cao Đài giáo đã thể hình hai chữ Thiên Thượng và Thiên Hạ, riêng
chúng ta là phẩm tối linh phải gìn còn cái thiên lương để xử kỷ tiếp vật, tất
nhiên chúng ta thật hành cái triết lý Trời Người đồng trị, nên phần nhơn sinh
nhìn vào bản thể là một tiểu Vũ Trụ, phải kết tụ cái pháp thân bằng thần của
Vạn linh. Nhờ vật loại cộng sinh vào đó để làm hình ảnh thiên lương của Chí
linh tức là Trời.
Chúng ta muốn hiệp được cùng
Trời thì tâm tu không xa rời bổn thiện, về phần nội tại ta nên nhận thức Đại
Đạo là cơ qui nhứt của Đức Chí Tôn với chơn pháp đồng nguyên thì sự luận giải
về triết lý Vũ Trụ phải gắn liền với triết lý nhơn sinh ở mặt tâm linh và đạo
pháp.
Thánh Địa Cao Đài,
ngày 6-5 (nh) Canh Ngọ
(DL 28-6-90)
Soạn giả: Huệ
Phong
* * *
1 -
CHÂN LÝ ĐẠO TRỜI
Tôn giáo Cao Đài là một
nền minh triết gồm cả bí quyết của trời đất và vạn vật, Tam Giáo và Ngũ Chi để
phát huy cơ huyền nhiệm của vũ trụ,ï là một "đại
nhứt thể" có quan hệ với nhơn sinh ở mặt tâm linh và đạo pháp, do càn
khôn hữu hạp biến tướng cơ hữu hình, thì hình ảnh của Chí linh ở trong Vạn
linh, chúng ta phải dùng tầm mắt thiên lương mới nhìn thấy đặng.
Trước trời đất, thuở Hồng
Mông hỗn độn trược thanh lộn lạo do hạo nhiên khí kết thành khối sanh quang,
bỗng dưng tách rời ra hai làn sanh khí, thì đạo biến sinh pháp, pháp ấy vốn ánh
diệu quang của khối sanh quang luân lưu giữa khoảng không vô lượng. Thời gian
hai làn sanh khí đụng với nhau phát vang tiếng nổ đầu tiên nơi cõi hư vô đó là
nguyên lý Thái Cực về cơ khởi thỉ. Liền đó, có Đức Chí Tôn ngự trị trong ngôi
Thái Cực, chuyển đạo pháp biến xuất chơn thần cho Càn Khôn, rồi Càn Khôn mới
phân định âm dương biến tạo chơn thần cho chúng sanh, mỗi chúng sanh là mỗi
linh lực, đó là "các hữu thái
Cực" của Chí linh ở trong Vạn linh.
Đức Chí Tôn nói khí hư vô
sanh có mình Thầy; rồi Thầy mới sanh cả chư Thần,Thánh,Tiên, Phật. Như vậy Đức
Mẹ Chơn thần của chư Tiên Phật và chúng sanh do đâu mà có ? Bởi Phật, Tiên
nguyên thỉ có 3 vị do pháp tánh Đức Chí Tôn bao trùm ngôi Thái Cực mới biến
xuất là: 1) Thái Thượng, 2) Nguơn Thỉ, 3) Hộ Pháp. Thủy là Chơn âm của Đức Phật
Mẫu, Hỏa là Chơn dương của Đức Chí Tôn.
Khi tạo Càn Khôn, Đức Chí
Tôn biến ra ba nguơn khí tượng lý cho ba ngôi pháp đó là con số "tam sanh vạn vật". Bắt đầu
khởi thỉ nếu luận theo cổ giáo Bà La Môn thì ba ngôi đó tức là "Tam Thế
Chí Tôn" trong cơ sáng tạo, hay là Tam Hồn của Đức Chí Tôn . Ngài là đấng
chủ tể Càn Khôn thế giái nắm quyền chưởng giải ở nghi hóa dục. Lý phản phục do
Thái Thượng, Pháp thu liễm do NguơnThỉ, Cơ định vị do Hộ Pháp.
Nhờ ba Đấng đó giúp Đức
Ngài phân quyền ngự trị biến xuất hào cửu tam, hào cửu nhị và hào sơ cửu. Cửu
(9) là số lão dương sẽ sanh âm ở lý đạo. Càn là Trời, tượng thể 3 vạch mới tách
rời thành Khôn lục đoạn dương đã biến xuất âm. Ngôi "Dương" Đức Chí Tôn là Thần, Thái Thượng là Khí, do ánh
Thái Cực phát xuất Thái Bạch là Tinh, tức thị ánh sáng của khối nguơn linh
chiếu vào cảnh giới hữu hình tạo thành cơ hóa dục. Còn ngôi "Âm" Đức Nguơn Thỉ là Thần, Hộ
Pháp là Khí nắm cơ định Càn Khôn thế giới xong. Khí vật chất phát xuất Thông
Thiên Giáo chủ là Tinh, tượng thể phần xác thú của Vạn linh. Đất là căn nguyên
của Thông Thiên Giáo chủ để tạo xác thú cho con người. Nên thân chúng ta là
thành phần triệt giáo thuộc về nhơn dục của con vật,
Ngôi Thái Cực do Đức Chí
Tôn phân tánh trong cơ khởi thỉ tạo đoan pháp hóa vận hành biến thành phản động
lực Thái Cực, chuyển mình với hình tam giác, liền phát xuất mầm móng lưỡng
nghi, xoay tứ tượng, biến Bát Quái, do nhị khí âm dương giữa Phật Mẫu cùng Đức
Chí Tôn mới tạo thành Càn Khôn Thế giái do hai ngôi Đạo và Pháp.
Đạo tượng lý do chơn khí
phát xuất. Pháp tướng của Đức Chí Tôn là Nhiên Đăng ngự trị cõi Hư Vô Thiên.
Nhưng đến đời Hiên Viên mới giáng sanh, Đức Thái Bạch tới đời Đường mới biến
thân với họ Lý. Còn vào thời nhà Châu Đức Nguơn Thỉ mới biến thân là Doãn Hỉ,
cùng thời Đức Thái Thượng biến thân là LãoTử.
Trong cơ khởi thỉ đến định
vị xong, Thái Cực là cái "có"
trở lại cái "không" thì
chơn khí Vô Cực của Phật Mẫu phát xuất. Pháp tướng của Đức Mẹ là Di Đà trước
ngực với chữ Vạn xoay theo chiều thu liễm thuộc pháp giới của Phật Mẫu, để
chưởng quyền Lôi Âm Tự có nghĩa đức Di Đà an ngự ngôi tiếng sấm Hồng Mông mà
đạo trời cũng tượng lý trong dương phải có âm, âm dương tương hòa là cơ sanh
hóa càn khôn vạn vật. Phật Tiên nguyên thỉ chỉ có 7 vị lấy lý tượng số thất
diệu cho ngôi Bắc Đẩu của Đức Chí Tôn, nên phần âm kể như cái bóng ở ngôi dương
có nghĩa Phật Mẫu là pháp thân của Đức Chí Tôn đó vậy. Nhưng ngôi Thái Cực ở
Đức Chí Tôn là tiếng nổ khai thiên với khối điển lực chiếu sáng rực cả hư
không, còn Đức Phật Mẫu là ngôi tiếng vang bao trùm cả Vũ Trụ của cơ lập địa.
Tiếng nổ tạo ra tiếng vang. Tiếng vang có là do nơi tiếng nổ. Đền Thánh gốc ở
đạo Trời nên thể hiện hai đài Chung Cổ Lôi Âm và Bạch Ngọc. Cổ là tiếng nổ ở
bên âm, Chung là tiếng vang ở bên dương, tức thị Chơn dương hữu âm trung, Chơn
âm hữu dương trung; vì lẽ đó khi cúng đàn trước khởi trống triệt cả hư không,
dầu nơi Bạch Ngọc Kinh chư Thần Thánh cũng nương ánh Linh Quang đạo pháp của
Đức Chí Tôn đến mà chầu Lễ, và chư Thần Thánh ở tại thế cũng vậy. Cúng đàn hành
Đại Lễ hay Tiểu Lễ được thể hiện ở lý âm dương có phướn Chi Đạo và Chi Thế. Chư
Thiên Phong cùng Chư Tín đồ nam nữ sắp hàng đâu đó nghiêm trang, gần nữa hồi
chuông thì Đức Hộ Pháp đến ngự trên Ngai, tay ban cờ lệnh cho vị Hộ Đàn Pháp
Quân quì xuống tiếp nhận, xong đứng dậy xá rồi bước ra.
Nếu Đại Đàn hành Đại Lễ,
vị Hộ Đàn Pháp Quân ra tại chỗ để mời chư Chức sắc Thiên Phong nam nữ nhập đàn.
Hàng Thánh đổ lên đi theo sau phướn Thượng Phẩm do Hữu Phan Quân cầm phướn chi
Đạo dẫn đầu, kế chư vị Hiệp Thiên Đài là Pháp, đến chư Thánh Cửu Trùng Đài là
Thế. Còn hàng Thiên Thần đổ xuống đi sau phướn Thượng Sanh do vị Tả Phan Quân cầm,
mỗi vị phải bắt ấn tý từ vị trí để vào. Còn khi cúng Đàn thường chư Chức sắc để
ý thấy vị Hộ Đàn ra tại tam cấp phất cờ lệnh thì chư Chức sắc và chư Tín đồ nam
nữ tuần tự vào, Chức sắc đến ngưỡng cửa Tịnh Tâm Đài phải bắt ấn tý, còn Tín đồ
nam nữ vào cửa bên hông Hiệp Thiên Đài, đến Cấp Tam Qui Thường Bộ phải bắt ấn
tý là pháp trấn tâm tùng cơ định vị trong giờ hành lễ.
Còn chuông dọng thì phóng
Phong Đô với cơ ân xá của Đại Đạo các tội hồn xuất khỏi cảnh u đồ, nên pháp kệ
chuông với câu "Tam Kỳ vận chuyển
Kim Quang hiện". Về pháp đó là con dao hai lưỡi đối ở tâm đức của
chúng ta. Người tu hành chơn chính hiện chữ "Tiên",
tức là phù hộ mạng cho bản thân, còn hạng tà tâm sẽ hiện chữ "Sứ" để dẫn dắt chúng ta đến
chỗ đọa nghiệt trần do sự gieo nhân phải gặt quả tùy ở sự dữ lành.
* * *
2 - ĐẠO DỤNG ÂM THINH
Đạo "Dụng Âm Thinh" thể hiện cái
Linh lực của Trời Đất đối cùng vạn vật. Khi cúng đàn, khởi trống dứt rồi mới
khởi chuông. Sự thực hành lễ cúng đàn tiêu biểu cho pháp giới tạo đoan Càn Khôn
Vũ Trụ. Khởi đầu đánh ba tiếng trống (Lôi Âm Cổ), và ba tiếng chuông (Bạch Ngọc
Chung), thể hiện nguyên lý Tam Thiên : Thượng Thiên là Phật, Trung Thiên là Pháp, Hạ Thiên
là Tăng. Kế tiếp đánh và kệ bốn dùi Khai Chung Cổ. Bốn dùi trống, ngôi tiếng
nổ, là tứ dương; bốn tiếng chuông, ngôi tiếng vang, là tứ âm. Xong điểm nhẹ mỗi
mỗi đều sáu, thể hiện con số khai nguơn của hai ngôi Đạo và Pháp, rồi đánh lên
ba hồi. Mỗi hồi mười hai chập, mỗi chập là mười hai dùi. Vậy, mỗi hồi là 144
dùi, ba chữ số cộng lại là chín. Ba hồi là con số cửu của cung "Càn", ngôi dương thể hiện cho
Tam Thập Lục Thiên. Mỗi hồi 144 dùi, ba hồi là 144x3=432 dùi, cộng ba chữ số
lại cũng là 9, đó là con số của pháp định vị Càn Khôn. Chung Cổ mỗi chập đánh
12 dùi, trong đó đánh 9 dùi, tiếng điểm 10 làm 1 thành nhồi 3 là 12; 12 là số
khai thiên, trong đó 3 là số khởi thỉ, 9 là số định vị.
Với lý đạo tiếng nổ là
ngôi dương ở bên âm, còn tiếng vang là ngôi âm ở bên dương, thì lẽ đương nhiên
trong âm phải có dương, nên chuông cũng đánh 3 hồi 12 chập thể hiện ngôi tiếng
nổ ở bên âm triệt cả Tam Thập Lục Thiên, ngôi tiếng vang ở bên dương làm cho
thức tỉnh Tam Thập Lục Động. Dứt lợi 3 dùi, để giục tỉnh Tam Hồn của chúng sanh
đặng vận hành pháp giới tâm linh trụ cả tinh thần nơi đàn nội để cung nghinh
Thượng Đế.
Trong nhạc phải có lễ,
trong lễ phải có nhạc. Nhạc là cơ điều hòa, lễ là pháp trật tự, cũng như trong
luật phải có pháp, trong pháp phải có luật, tiếng nổ Thái Cực ở Chí Tôn là ngôi
luật điều hòa trong Càn Khôn, còn tiếng vang của ngôi Vô Cực ở Phật Mẫu là pháp
trật tự trong Vũ Trụ, khác nào tất cả nhạc khí thể hiện luật điều hòa, còn sanh
phách là pháp trật tự.
Chung kim sanh thủy, chày
mộc sanh hỏa, còn trống văm bằng cây, mặt bằng đồng có đủ cả lý âm dương, những
vật dầu kim thạch thảo mộc, thú cầm đều do tay người chế nhạc tạo thành bát âm
của vạn loại. Khi hiến lễ cũng hòa rập các món nhạc khí với chơn lý của Thượng
Đế tận độ chúng sanh trong buổi Tam Kỳ mà đạo Trời thể hiện.
Mỗi khi Lễ cúng đàn, khởi
trống rồi mới khởi chuông. Kế tiếp khởi nhạc. Sự biểu tượng chứng tỏ vạn vật
xuất phát do ngôi tiếng nổ và ngôi tiếng vang của hai đấng tạo đoan, nên bát âm
của vạn vật dấy lên để chiêm ngưỡng. Còn bên Công Giáo, khi hành Lễ chỉ giựt
chuông mà thôi. Dầu Chúa Cứu Thế là con một của Chúa Trời, nhưng thuộc ngôi
hai, bởi chuông thể hiện cho tiếng vang để thức tỉnh chúng sanh. Chúa cùng một
nguơn linh phần giác hồn của Đức Chí Tôn, vì đó mà Chúa Cứu Thế với Đức Hộ Pháp
biết được Đưc Chí Tôn, mới cho nhơn loại biết rằng Đức Đại Từ Phụ của chúng ta
trên cõi hằng sống là Đấng Vi Chủ phần linh hồn. Đến như Đức Thích Ca cũng để
lời phỏng ngôn mà thôi. Bởi Đức Thích Ca là Giáo Chủ cõi ta bà, còn Đức Di Đà
Giáo Chủ Tây phương Cực Lạc, Đức Địa Tạng Giáo Chủ cõi u minh. Phật vì chúng
sinh lập cơ tận độ các tội hồn còn ở Phong Đô, nhưng buổi Nhị Kỳ Thập Điện Minh
Vương nắm luật Thiên điều như vị quan tòa để mà buộc tội. Nay là buổi Tam Kỳ với
cơ đại ân xá của Đức Chí Tôn, thì 10 vị đó trở thành Thập Điện Từ Vương tức là
Trạng Sư của tội hồn. Ngôi Đền Thánh, Tòa ngự của Đức Chí Tôn hiệp Ngũ Chi qui
Tam giáo, có thờ Đức Thích Ca nhưng kinh xưng tụng Đức Nhiên Đăng, cũng như bên
nhà Thiền tăng đồ thờ Thích Ca mà niệm Di Đà, xưng tụng Đức Nhiên Đăng là xưng
tụng cái đức khai nguyên, vị Phật đầu tiên ven đường mở ngõ dọn nền. Còn thờ
Đức Thích Ca là thờ cái công lập nên ngôi nhà Phật Giáo, đó là cái lý hữu thỉ
hữu chung mới là trung đạo sẽ thành Đại Đạo; về Tiên Giáo Tâm Kinh xiển dương
oai linh Thái Thượng, 2/3 niệm danh cũng Thái Thượng, nhưng cúng đàn ngày sinh
của Lão Tử, cũng như thờ Đức Quan Âm Thị Kính, mà cúng đàn ngày của Đức Quan Âm
Diệu Thiện; về Thánh Giáo Tâm Kinh xưng tụng Đức Văn Xương cũng vậy nhưng niệm
danh Khổng Thánh là vị hưng Nho. Cúng đàn cũng ngày của Khổng Thánh. Đây là ba
Tôn giáo buổi Nhị Kỳ vị Giáo Chủ cõi ta bà làm cái lý trung hoà, nên Đức Thích
Ca thuyết kinh Di Đà, vị Phật buổi Nhứt Kỳ, đắc lịnh phổ truyền giáo pháp. Đến
Tam Kỳ Đức Thích Ca còn thuyết Di Lạc Chơn Kinh đó là lễ bàn giao cơ tận độ
chúng sinh cho Cao Đài ở thời kỳ Đức Di Lạc. Bởi Sơ hội Long Hoa Đức Nhiên Đăng
Chưởng giáo Thanh Vương Đại Hội, Nhị hội Long Hoa Đức Di Đà Chưởng Giáo Hồng
Vương Đại Hội, Tam hội Long Hoa Đức Di Lạc Chưởng Giáo Bạch Vương Đại Hội; Đức
Di Lạc vị cỗ Phật thứ ba đứng ra cứu đời, vâng mệnh trời đến để lập lại thời
Thượng Nguơn Thánh Đức.
* * *
3 - TINH KHÍ THẦN
VÀ PHÁP ĐỊNH VỊ CÀN KHÔN
Trong cơ khởi thỉ, pháp
giới tạo đoan, Càn Khôn đã định vị, Đức Chí Tôn mới giao quyền cho Phật Mẫu
quản khí Hư Vô. Hư là hư linh, Vô là vô cực, bởi nguyên nhân đó mà chúng sanh
niệm danh Đức Diêu Trì Kim Mẫu với hai chữõ Thiên Tôn là vậy.
Ngôi Vô Cực ở Đức Phật Mẫu
là pháp giới phát xuất khí hư vô biến tạo Chơn thần cho chúng sanh trong khối
Vạn Linh nhờ phối hợp âm dương mới đủ tinh khí thần như trời đất đúng như câu "Thiên địa vạn vật đồng nhất thể".
Nên sự hiến lễ của Tôn Giáo Cao Đài dùng hoa tượng trưng cho Tinh, rượu tượng
trưng cho Khí, trà thì tượng trưng cho Thần. Lễ dâng rượu phải đúng Ngọ và Tý
bởi hai thời đó nguơn khí của trời đất hưng vượng, còn trà dâng phải thời Mẹo
và thời Dậu bởi hai giờ đó nguơn thần của trời đất hưng vượng. Như vậy Trời Đất
cũng có tinh-khí-thần. Bởi ánh Thái Cực nảy sanh Thái Bạch là nguơn tinh, nên
buổi Tam Kỳ Đức Lý Đại Tiên kiêm nhiệm Giáo Tông, cầm quyền chuyển thế vừa sửa
trị vừa định vị cho thánh thể của Đức Chí Tôn.Trong nguơn bảo tồn dầu ở chơn
trời gốc bể cũng có Bàn trị sự là Hội Thánh Em thay hình thể cơ tận độ của Thầy
Đạo tượng lý thái cực do
cung Càn biến xuất dưới một vạch ngang hai vạch chỏi lên thành hình tam giác,
mọi vật thể cực lớn từ hữu hình lẫn vô hình chẳng lọt ra ngoài, còn cực nhỏ ví
như hạt nguyên tử cũng khó ẩn được bên trong. với cái không không là vô cực,
giữa thái cực và vô cực Đức Thái Thượng và Đức Hộ Pháp là đầu mối trung hòa
lưỡng cực, nhờ đó mà tạo thành khối điển lực sanh quang cho Càn Khôn Thế Giới,
vì thế mà tôn giáo vẫn quí ba ngôi báu của trời đất. Người tu theo Phật hằng
niệm Phật-Pháp-Tăng, tâm ta biết thọ giáo là qui y Phật, tánh biết giữ giới là
qui y Pháp, thân biết hành sãi vãi là qui y Tăng. Triết lý của Đức Chí Tôn đối
với con người từ thể xác đến linh hồn, thì Phật là tượng lý, Pháp là định vị,
Tăng là phát huy chơn tướng của đạo nhờ đó mà xây dựng nên nền chánh giáo phổ
truyền.
Giữa Tiên Thiên và Hậu
Thiên, Tăng là Tinh, phần sanh hóa, Pháp là Khí, lý trưởng dưỡng, Phật là Thần
cơ an định. Đối với người tu hằng niệm Phật-Pháp-Tăng coi như hằng kỉnh vậy, hễ
kỉnh Phật thì xá vô, kỉnh Pháp thì xá ra, kỉnh Tăng thì xá ngang tức mỗi người
chúng ta tạo nơi đàn nội một pháp Tứ Tượng nhứt âm, nhứt dương của trời đất,
nhờ đó mà biến sanh vạn vật.
Xá Tăng là xá cái nguyên
lý về cơ sáng tạo ở cõi vô hình trước kia, cũng như ở mặt hữu vi, nhờ sự khởi
thỉ mới có chỗ để cho chúng ta sùng bái, tức nhiên phải kỉnh Tăng, trước cũng
như sau : vô thì chào, ra thì kiếu, chớ không phải xá đối tượng giữa nam và nữ.
Còn luận về phật pháp, từ vô thỉ đến khởi thỉ, Tăng là nguyên lý phát khởi Càn
Khôn đó là cơ mầu nhơn đạo của Đức Chí Tôn, vừa phân hóa vừa phân quyền định vị
mỗi vật thể, mỗi chơn hồn với bản năng sanh tồn tự hữu, nhờ Tăng mà phát huy cơ
tạo đoan cùng chân lý đạo, nên người tu đắc pháp rồi mới đắc Phật,
Khi xá chí trán kỉnh
Thiên, chí đơn điền kỉnh Địa, chí ngực kỉnh Nhân. Nhân tức tâm, tâm tức thiên ,
thiên giả ngã dả, còn xá với phép định vị là Thiên-Địa-Nhân. Ý nghĩa lạy tiêu
biểu lý phục nguyên Thiên-Nhân-Địa, thấy rõ con người chúng ta là pháp trung
hoà giữa Thiên và Địa, nên khởi lạy trước đem cái điểm dương của Thiên vào Tâm.
Chừng ngất dậy đem cái điểm âm của địa lên, tức hệ thống dương của bản tâm đã
đắc nhứt hình thành pháp Tứ Tượng ở con người, cũng như nơi đàn nội, lúc ngất
lên để lạy tiếp thể hiện ĐịaNhân-Thiên của mỗi Thừa trong chín phẩm với pháp
Dục Tấn là Địa- Nhân-Thiên.
Kỉnh Phật hay các Đấng đều
xá ba xá là bởi chúng ta ngưỡng vọng cái lý Tam Tài, còn kỉnh pháp xá có một,
với chân lý vạn pháp qui nhứt. Kỉnh Tăng cũng xá một, bởi nhứt thuyết chúng
sanh nhứt điểm linh. Riêng sự bái lễ Đức Phật Mẫu không lấy dấu Phật-Pháp-Tăng
nhưng thể hiện trong câu niệm Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu là Phật, Nam mô Cửu Vị
Tiên Nương là Pháp, Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh là Tăng. Ngọc Hư là Thiên
điều, còn Cung Diêu Trì là pháp giới, do nguyên lý đó nên Tôn giáo Cao Đài đem
luật áp dụng ở mặt điều hành về pháp cốt yếu để giữ thăng bằng cho cơ đạo. Dầu
Tín đồ dĩ chí Thiên phong muốn tạo công lập vị phải đi trong khuôn luật Cửu
Trùng Đài, còn Hiệp Thiên Đài lẽ đương nhiên là pháp định vị.
Đời lập Pháp Viện Tối Cao
để chủ lấy luật, với đạo lại khác, có Phật rồi mới có Pháp. Do đó ngôi luật của
Đức Chí Tôn nắm quyền Phật chủ cả Pháp và Tăng. Người tu biết tùng khuôn luật
của đạo do sự tìm tàng đạt được chơn lý là đắc Pháp, rồi gắng trau dồi thân
tâm, trụ được chơn tánh là đắc Phật, lúc nhập định xuất thần được gần gũi với
các đấng để học hỏi gọi là đắc Duyên, nhờ đó mở đươc con mắt giữa nơi trán là
cái cửa của tâm linh. Với cái nhìn quán thông căn cơ của mình chỗ bản lai diện
mục là đắc Vị.
Ở Cơ Tạo đoan có Phật Pháp
rồi mới có Tăng. Dầu những đấng thay trời lập giáo cũng không ngoài chân lý đó.
Khổng Thánh dạy chúng sanh tu thân giữ điều nhân với phép tồn tâm, Thái Thượng
dạy lập đức để tu mệnh làm phương dưỡng tánh. Thích Ca dạy về linh hồn có luân
hồi quả báo. Trong Tam Giáo, Phật là Thần, Tiên là Khí, Thánh là Tinh, bởi cớ
Khổng Tử chiêm bao gặïp Lão Tử rủ bay lên không trung, nhưng cố gắng mà vẫn quá
chậm chừng gặp núi non hiểm trở lo sợ, Lão Tử mới nói đó là tư tưởng chớ chẳng
có chi, cứ bình tĩnh tự nhiên bay qua thì được. Khi đó Khổng Tử nhìn thấy đôi
cánh mình nhỏ lần, chỉ còn ba cọng lông còi, nghe hỏi nặng nề nên hạ cánh trở
về cùng mặt đất, tất nhiên đạo Thánh thể hiện phần Tinh của con người.
Con người phải đủ Tinh Khí
Thần. Đó là triết lý của Tam Giáo.
Trong con người chúng ta phải có đủ ba tôn giáo, Phật là linh hồn, Tiên là chơn thần,
Thánh là xác thân.Tôn giáo Cao Đài đã biểu tượng cho cơ qui nhứt của Đức Chí Tôn trong sự hiến lễ : hoa thể hiện cho
nguơn Tinh, rượu thể hiện cho nguơn Khí, trà thể hiện cho nguơn Thần. Trà có
chung nước trắng tượng lý âm dương, Rượu là Khí sao lại ba chung? Ba chung cùng
một nguyên lý giữa con người với trời đất thể hiện cơ định vị là ba nguơn Khí
của Thiên-Địa-Nhơn. Về tượng lý khởi thỉ của cơ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ, ngôi
Thái Cực Đức Chí Tôn phát xuất ba nguơn Khí : 1) Thái Thượng, 2) Nguơn Thỉ 3)
Hộ Pháp. Luận đến vô thỉ là ba nguơn khí của Phật-Pháp-Tăng ở ba ngôi nhứt Cực,
nhì Nghi, tam Tài.
Loài người là phẩm tối
linh để đại diện cho chúng sanh, nên trong giờ hiến lễ, coi như nguơn Khí của
Vạn linh được hiệp cùng đấng Chí linh. Nguơn Vô Thỉ khởi điểm có tượng lýù, có
định vị bằng pháp số nhứt Cực, nhì Nghi, tam Tài, vì vậy màø đạo Cao Đài rất
chú trọng lễ dâng Tam Bửu.
Tại sao Hành Chánh, Phước
Thiện hai bên thực hiện nghi lễ cúng đàn dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn cùng Đức
Phật Mẫu, sự bái lễ thấy không giống nhau? Trước kia Đức Hộ Pháp đã dạy Lễ viện
Đền Thánh cũng như Báo Ân Từ đều bái lễ như nhau khi dâng Tam Bửu. Về sau, đàn
anh chúng ta, có thỉnh ý Hội Thánh xin sửa đổi về cách lạy, có khác ở pháp số.
Đầu năm Đinh Hợi (1947)
ông Giáo sư Ngọc Ninh Thanh người thâm Nho học được bổ nhiệm nắm quyền Thượng
Thống Lễ Viện Cữu Trùng Đài, mới đề nghị cùng Hội Thánh về cách bái lễ khi dâng
Tam Bửu như sau : trường hợp dâng một Bửu thì lạy ba lạy (mỗi lạy bốn gật), còn
dâng đủ ba Bửu thì mỗi Bửu lạy một lạy, mỗi lạy bốn gật, để khi dâng một Bửu
hay ba Bửu thì cũng giữ đủ mười hai lạy cho đúng số 12 của Thầy, đề nghị này
được Hội Thánh đồng ý ra Châu tri ban hành nhưng tài liệu đó đã bị thất lạc.
Tương tự, ngày 18-8 Mậu
Dần (10-10-38 ), Hộâi Thánh ra Châu Tri số 61, do ba vị cầm quyền Chánh Phối Sư
ký, là: 1) Giáo sư Thái Phấn Thanh, 2) Giáo sư Thượng Chữ Thanh , 3) Phối sư
Ngọc Trọng Thanh, trong đó điều 5 qui định về lạy từ Bàn Trị Sự đổ xuống như
sau: " Chánh Trị Sự đổ xuống Tín đố
lạy bốn lạy ". Như vậy kể như mất hết hai phẩm Nhơn Thần (Bàn Trị Sự)
và Địa Thần (Tín đồ giữ đủ trai giới 10 ngày đổ lên) trong cửu phẩm Thần Tiên,
theo Thánh ngôn của Thầy đã dạy "Lạy
Thần, Thánh ba lạy, lạy vong phàm bốn lạy". Vong phàm là thân nhân
chúng ta chưa biết đạo hoặc những tín đồ bị Hội Thánh trục xuất, hay không giữ
đủ trai giới vv... Cả hai Châu Tri đều được Đưc Hộ Pháp phê chuẩn. Nhưng thiết
nghĩ do Đức Ngài vẫn trọng cái chủ quyền của Hội Thánh là hình thể Đức Chí Tôn
nên chấp thuận vì đủ ba ấn ký. Kể hai văn bản đó có đủ quyền Chí Linh, nếu có
quyền Vạn linh cầu xin thì quyền Chí Linh sẽ cứu xét cho lại. Bởi vị Chánh Trị
Sự là Đầu Sư em, Phó Trị Sự là Giáo Tông em, Thông Sự là Hộ Pháp em, xem đó là
vong phàm thì làm sao điều hành phận sự của Hội Thánh em đặng, vì hai phẩm chót
của Hạ thừa chức việc là Thần của người, tín đồ là thần của đất phải cúng triêu
tịch không điện tam bửu chớ nơi bàn linh có đủ để biểu tượng tinh khí thần cho
người tu. Với lý đạo có tinh khí mà thiếu thần mất cơ an định, có thần mà không
tinh khí khó huờn được đệ nhị xác thân. Về phép tu phải hiệp tam bửu mới đắc
vị.
Nên lạy Tam tài thể hiện
nguyên lý của ba ngôi Trời có nhựt nguyệt tinh, đất có thủy hỏa phong, người có
tinh khí thần ý nghĩa là vậy.
Trường hợp trong thời cúng
thường ngày, nếu hiến lễ Thầy một bửu thì lạy ba lạy, còn ba bửu thì lạy mỗi
bửu một lạy để giữ đươc con số 12 của lý Khai Thiên như Ông Giáo sư Ngọc Ninh
Thanh hướng dẫn. Nhưng như thế sẽ mất con số biến dịch của đạo pháp về Tam Thập
Lục Thiên, kể dâng Tam Bửu mỗi bửu 3 lạy, mỗi lạy 4 gật cộng thành 12 mỗi lần
lạy, như vậy tính chung ba lần là 36, tổng hai chữ số là 9, đó để làm con số
định vị của ngôi dương, Từ khởi thỉ đến chung kết phải giữ đúng lý số của cơ
huyền nhiệm, nên sự hành lễ của Tôn Giáo Cao Đài biểu tượng pháp giới tạo đoan
có liên quan cùng pháp giới chúng sanh trong tứ thời hành lễ.
Khi cúng tứ thời, về niệm
danh Đức Cao Đài trong bốn bài: Niệm hương, Ngọc Hoàng Kinh, dâng một Bửu, Ngũ
nguyện, mỗi bài lạy ba lạy, mỗi lạy 4 gật, tổng số là : 4 (bài) x 3 (lạy) x 4
(gật) = 48, tổng hai chữ số là 12, con số Khai Thiên. Như vậy, khởi thỉ bằng
bài Niệm hương 3 lạy, 4 gật (12), chung kết cũng con số 12 thì mới đúng pháp.
Danh Thầy có 12 chữ, mỗi lạy 4 gật thành 48 chữ, tổng hai chữ số cũng 12.
Về Lễ Cúng Đại Đàn, niệm
danh Thầy trong 7 lần như : Niệm hương (1), bài Ngọc Hoàng Kinh (1), Dâng Tam
Bửu (3), Thượng sớ (1), bài Ngũ nguyện (1), mỗi lần lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật,
tổng số là: 7 (lần) x 3 (lạy) x 4 (gật) = 84 tổng hai chữ số vẫn là 12, đó là
con số Nhứt bổn tán vạn thù, Vạn thù qui nhứt bổn, mới là lý số của đạo pháp
biến dịch, chớ dâng đủ tam Bửu mà mỗi Bửu có 4 lạy (kể cả lạy và gật) thì mất
hết 24 lạy chỉ còn có 60 lạy, tức nhiên con số chung kết không trở lại chỗ khởi
thỉ là số 12.
Trong Tứ Thời Xưng Tụng Tam
Giáo Tâm Kinh, khi dứt mỗi bài kinh, lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật. Lạy mỗi vị 9 lạy
(kể cả lạy và gật), ba bài kinh có 27 lạy, cộng hai chữ số là 9. Danh mỗi vị
trong Tam Giáo gồm 12 chữ. Mỗi lạy 3 gật, mỗi lần niệm 12 chữ, ba lần niệm 36
chữ, 3 với 6 là 9, đó là pháp định vị cho 3 ngôi Tinh-Khí-Thần. Phật là Thần,
Tiên là Khí, Thánh là Tinh. Khi cúng Tứ thời nơi Báo Ân Từ, về niệm danh Đức
Diêu Trì Kim Mẫu trong 5 bài : Niệm hương, Phật Mẫu Chơn Kinh, Tán Tụng Công
Đức DTKM, Dâng một Bửu, Ngũ nguyện, mỗi bài lạy ba lạy, mỗi lạy 3 gật, tổng số
là : 5 (bài) x 3 (lạy) x 3 (gật) = 45, tổng hai chữ số là 9, biểu tượng cho Cửu
Thiên Khai Hóa.
Trường hợp cúng Đàn thì
dâng đủ Tam Bửu, có thượng sớ, bớt bài Tán Tụng Công Đức DTKM, tính ra là 7 bài
(bớt một bài, thêm ba bài). Mỗi bài lạy 9 lạy (kể cả lạy và gật), 7 bài 63 lạy,
tổng hai chữ số là 9. Đó là pháp định vị cho Càn Khôn ở con số cửu, nên rượu
cúng 3 chung, mỗi chung 3 phân, cộng lại cũng là 9. Trừ khi Lễ điện 9 phân vì
có một ly. Còn trà cúng, mỗi chung 8 phân, tượng thể con số Bát Quái hai ngôi ở
lý âm dương lưỡng hiệp là Thần. Phần hoa tiêu biểu cho nguơn tinh, tức hình thể
của phẩm tối linh, phải tốt đẹp thơm tho mới đem ra hiến lễ cho hai đấng Tạo
Đoan. Vì con người ảnh hưởng pháp giới tạo đoan trong tiểu thể thiên địa cũng
như đại thể, do ngũ khí biến ngũ hành, cõi đất sanh ngũ sắc, dầu nơi mặt thế,
người hay vật cũng chia ra có 5 màu. Nên sự hiến lễ thể hiện phần nguơn tinh
của chúng sinh, với lý đạo thài hoa tươi năm sắc là vậy.
Luận về triết ta phải có
cái nhìn quán triệt hai chiều. Triết có nghĩa là triệt cùng một vấn đề nếu
triệt thượng luận về vũ trụ còn triệt hạ thì diễn tả ở sự vật. Nhưng cũng đồng
nhất cái lý tạo đoan chỗ khởi thỉ. Khí hư vô còn hồn hồn ngạc ngạc mới biến ra
ngôi Thái Cực, nên phần tượng lý âm trước dương, có nghĩa là đạo sanh nhứt, nhị
sanh tam là âm sanh dương, đó là khối sanh khí của nguơn vô thỉ, chừng khởi thỉ
tạo Càn Khôn Thế Giới rồi do cơ định vị của tạo đoan biến ra pháp giới chúng
sanh mới định danh thì Thiên trước Địa.
Cơ khởi thỉ tạo nhơn loại
cũng thế, Đức Thượng Đế là Chúa Trời lấy đất nặn hình rồi hà sanh khí vào liền
có sự sống đó là ông A Dông. Chúa Trời bèn lấy cọng sườn của ông A Dông, là hệ
thống ngang thuộc âm của ngôi dương là xương sống ở hệ dọc, lấy đó mà tạo ra bà
Ê Va thì nữ phải tùng nam, nam nữ thể hiện lý âm dương của chí linh ở trong vạn
linh để bảo tồn cơ sanh hóa.
Vì đó mà đạo vợ chồng kể
như một xác thịt, một linh hồn. Nên kỳ ba Đức Chúa Trời đến cũng nhắc lại, đó
là Đức Chí Tôn nói lên trong giờ hành Pháp Hôn Phối trong bài thi tứ hôn ở câu "Mãn thế bất ly thể dử hồn",
có nghĩa đôi vợ chồng trọn đời xác thịt với linh hồn chẳng rời nhau, thảng như
để bỏ không có điều kiện thích đáng, coi như mình tự phân thây mình vậy.
* * *
4 - TRỜI LÀ THẦN THIÊN LƯƠNG
CỦA NHÂN LOẠI
Tôn Giáo Cao Đài dạy thờ
Thiên Nhãn, tức thờ Trời mà cũng là thờ chúng ta đó. Về lý âm dương giữa Trời
và Người cũng như pháp thập tự giá với hình tứ tượng có ác, có thiện, thể hiện
đạo Chúa đủ lý âm dương mới trường tồn, còn ta thờ Đức Chí Tôn bằng Thiên Nhãn,
với căn bản tinh túy ở nguyên lý âm dương. Thờ Thiên Nhãn tức là thờ Thần Thiên
Lương của nhơn loại sự trọng đại chỗ Trời Người hiệp nhứt, Thượng Đế tức là
chúng ta mà chúng ta cũng là Thượng Đế, vì thế chúng ta sùng bái cái điểm linh
của bản tâm, bởi Nhãn thị chủ Tâm. Thần cư tại nhãn, Thiên Nhãn là căn bản của
chúng sanh, vì mỗi chúng sanh đều thọ một phần nguơn linh của Tạo Hóa.
Thờ Thiên Nhãn là thờ đủ
Phật-Pháp-Tăng. Luận về Tăng, thờ Thiên Nhãn là thờ cái bản thể chữ "Chủ", luận về Pháp, thờ Thiên
Nhãn là thờ cái bản tâm của con người, luận về Phật thờ Thiên Nhãn là thờ cái
bản chân của Thượng Đế, tức là Thần Thiên Lương của nhơn loại. Bởi cớ mà người
tu phải vì nhơn loại tức vì Thượng Đế, nếu biết vì Thượng Đế phải dùng thiên
lương của mình đặng chế ngự dục tình, mới xứng danh đại diện cho Chí Linh trong
cơ truyền giáo để phổ cáo triết lý thờ Thiên Nhãn tức là thờ Tâm Linh.
Nếu chúng ta luận đến tâm
linh, biết cái chi để điển hình cho nó. Chỉ có con người, tâm linh mới nhìn
thấy được phần lý giải, dầu rằng cái trong thân là thực tại, ngược lại là hư
không. Tâm là cái hư không, vốn của thời gian, bởi nó là điểm linh quang của
ánh lửa Thái Cực, khi ba tất hơi ở con người đã dứt thì nó trở về với nguyên lý
Thái Cực rất an nhàn tự tại nhập vào khối đại linh quang, vì lẽ đó cầu hồn khi
hấp hối được đọc "Bài ba mươi sáu
cõi Thiên Tào..." để rước Chơn linh, còn lễ cầu siêu cho những chơn
thần thiếu chay lạt chỉ cầu Bạt tiến mà thôi. Bạt tiến có nghĩa rút níu lên,
đọc bài "Đầu vọng bái ..."
để cầu các Đấng hợp điển lực cùng chúng ta mà cầu rỗi cho chơn thần, vì bởi
chơn thần có liên hệ cùng xác thân, mà kiếp người tu không trọn chẳng dám đưa
lên cao sợ lôi điển đánh chơn thần ra tro bụi.
Tánh là không gian, Tâm là
thời gian. Nếu cái Tâm ta biết trau thành cõi Niết Bàn thì Tánh sẽ hoàn nguyên
phật vị nơi cõi Hằng Sống. Tâm là cái "không" ở trong cái
"có"ù là Thân, mà cái có đó lại là cái không, vì bản thân chưa phải
trường tồn, linh hồn mới là bất diệt, nên triết lý đạo thể hiện những cái "có" để làm sáng tỏ cái
"không". Trong bản thân của chúng ta, Tánh là màn ảnh của Tâm, Tâm
vốn là linh thể của vũ trụ. Chỗ vừa khởi ra ánh diệu quang là Vũ, vừa kết tụ
làn từ khí là Trụ, ở chơn tướng biến thành pháp trí để làm cái lý trung hòa cho
thần khí vận hành, do đó mà biến sanh tiềm lực cho cơ thể là Chí, còn Ý ví như
tia phản chiếu tự động để soi vào màn ảnh giữa Tánh và Tâm, cái phần nội tại
phát xuất ở ngoại diện cho mọi người thấy. Tâm có đức làm hình thức cho cái đạo
thường hằng, Tánh có hạnh để biểu tượng sự cứu cánh về nghi lễ đối với con
người và Thần linh. Còn thân có mệnh, mệnh ấy là trời nên mọi sự sống ở cõi đời
do trời vi chủ và định mệnh, nhưng Ý của Tâm ở tại Tánh, Trí của Tánh ở tại
Tâm. Chẳng khác nào hai thanh âm chuông mõ để biểu tượng cho Lễ Nhạc, Mõ thể
hiện cho nhạc để điều hòa câu kinh khi tụng niệm, chuông thể hiện cho lễ để giữ
trật tự nơi lòng nhắc chừng kỉnh bái. Chuông mõ còn có ý nghĩa của kim mộc. Mộc
năng sanh hỏa, kim năng sanh thủy. Thủy bên tả, hỏa ở bên hữu cùng đổi vị trí
coi như pháp ký tếâ.
Còn ý nghĩa năm cây nhang
trong ba là án tam tài, ngoài hai là tượng ngũ khí. Khi thắp lên cái phần thực
tại là an lư thể cho ngũ hành, còn cái phần bốc lên lập đảnh tượng cho ngũ khí,
với Trời là ngũ khí, với đất là ngũ hành, với nhơn sanh là ngũ tạng. Cùng thể
cho ngũ hành, khéo luyện sanh ngũ khí triều nguyên với pháp tiên đạo trong cơ
khởi thỉ, Thái Cực, Lưỡng Nghi Tam Tài là pháp định danh và định vị.
Luận về nguơn vô thỉ, phần
tượng lý nhứt Cực là Phật, nhì Nghi là Pháp, tam Tài là Tăng, tức thị cung
"Càn." Cực là hào cửu sơ, Nghi là hào cửu nhị, Tài là hào cửu tam.
Khi cắm năm cây hương, ngoài hai cây, biểu tượng hai làn sanh khí của thuở Hồng
Mông, còn trong ba cây, tượng Tam Tài Phật-Pháp-Tăng, nên khi bái lễ với Phật
ta phải trụ được nguơn thần, với Pháp ta phải định được nguơn khí, với Tăng ta
phải chuyển được nguơn tinh. Về cơ khởi thỉ Đức Chí Tôn là Phật, Diêu Trì Kim
Mẫu là Pháp, vạn vật là Tăng, nên ở trong trời đất cái tự nhiên đó là Phật, cái
an nhiên đó là Pháp, cái hiển nhiên đó là Tăng. Vậy, ta phải luyện cái tự nhiên
cho Tánh, tập cái an nhiên cho Tâm, tu cái hiển nhiên cho Thân. Thân là thành
phần mắc vướng, nó sẽ ảnh hưởng cho Tánh và Tâm. Nay cơ tận độ Kỳ ba nên Đức
Chí Tôn đến lần đầu tiên với tiền bối chúng ta xưng Thánh danh bằng ba chữ A,
Ă, Â nghĩa ám chỉ ngôi thờ Đức Thượng Đế tức là tòa Bạch Ngọc Kinh tại thế, A
là Pháp (Hiệp Thiên Đài), Ă là Tăng (Cửu Trùng Đài), Â là Phật (Bát Quái Đài).
Ngoài ra, ba chữ A, Ă, Â
về đạo pháp là một triết lý uyên thâm huyền nhiệm. A là chữ đầu của 24 chữ cái
tức là đạo, Ă là một dấu dương, Â là một dấu âm đủ chứng tỏ là một Đấng Chủ Tể
Càn Khôn. Trong Kỳ ba Đức Chí Tôn đến lập đạo để cứu đời, nên A là Pháp, Ă là
Tăng, Â là Phật, buổi Tam Kỳ cơ tuần huờn phản tiền vi hậu, Thầy là Phật chủ cả
Pháp Tăng, với chơn lý cơ tận độ Thầy tức là Phật là Â, nhưng thờ ở sau để đưa
cả chúng tăng là Ă trở vào Hư Vô Chi Khí, A là Pháp, đó là lời của Đức Chí Tôn
xưng với môn đồ.
Nói về pháp, bản thân của
ta là khối sanh vật có vàn vàn nguơn chất, tức là khối chúng sanh, chơn lý đạo
kỳ ba dạy ta độ tận chúng sanh, tức phải dứt tiệt dục vọng và phiền não của
chúng sanh trong con người. Muốn tận độ chúng sanh, cúng Tứ Thời ta nhớ niệm
danh của Đại Từ Phụ 12 chữ (Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát) Tam
Giáo cũng niệm danh mỗi vị 12 chữ. Kể như Thầy đã nắm trọn Phật-Pháp-Tăng vào
tay ở câu niệm. Cao Đài laø Nho, Tiên Ông là Lão, Bồ Tát là Thích, còn hai chữ
Nam mô là một triết lý quan yếu đối với trời đất cùng vạn vật.
Thuở hỗn độn Hồng Mông
trong pháp sơ tạo, Đạo khởi thỉ Trời Đất nên chữ được niệm đầu tất cả các Thánh
Danh là Nam vô đọc trại là Nam mô. Nam Bính Đinh hỏa lửa Thái Cực ở lý nhứt
nguyên biến cung Càn thành ba vạch, Vô là chỗ tách rời hình Khôn, lục đoạn với
khoảng không đó là vòng Vô Cực nơi phát xuất sanh quang cho Vũ Trụ, dầu đời hay
đạo cũng sống trong cái lý của tạo đoan. Khi tâm Thành tưởng niệm thì hai chữ
Nam mô trước, (RỒNG TIÊN NGUYÊN LÝ DỊCH). Do vậy, cái bản tính của con người
Việt nam với tinh thần sùng thượng, không quên cái nguyên lý chỗ cơ khởi thỉ để
tưởng niệm cái thiêng liêng nhứt là ba ngày của đầu năm trong dịp Tết Nguyên
Đán. Tổ tiên ta còn giữ tập tục đều dán trước cổng nhà 4 chữ thật to gọi là "Tam Dương Khai Thới" chứng tỏ
nòi giống ta còn nhớ tới nguyên lý tạo đoan về ba hào dương cung Càn. Với sự
hiếu kỉnh đó nên Đức Chí Tôn đem ánh linh quang khai cơ tận độ, để giáo Đạo Nam
phương trong buổi Tam Kỳ trên dải đất rồng tiên được may duyên gội nhuần ân huệ
của Thượng Đế.
Nước Việt từ Đức Quốc Tổ
truyền kế trên danh tự 18 đời Hùng Vương, cộng cũng 9, đó là con số khai cơ
định vị của trời đất, lẽ tất nhiên đạo Trời là cơ khởi thỉ, đầu là Thượng Nguơn
đệ nhứt chuyển, hễ có khởi thỉ thì phải có chung kết trong giai đoạn. Nay là Hạ
Nguơn tam chuyển hầu mãn nguơn thứ 9 thì Trời khai Đạo tại nước Việt Nam tức là
pháp định vị cho một Chu Kỳ có cả không gian lẫn thời gian, vì nòi giống chúng
ta còn mang nặng cái truyền thống của Tổ Tiên về nguyên lý đạo của Trời đất,
nhân đó mà chúng ta mới có sự may duyên cho miền Nam nước Việt (Nam Bính Đinh
Hỏa). Bởi Đức Hộ Pháp Giáo chủ đạo Cao Đài là người thừa lịnh. Căn cứ Pháp
Chánh Truyền lời dạy của Đức Chí Tôn. Cung Đoài tức Cung Đạo ở giữa, hữu Cung
Khôn, còn bên tay trái của Thầy là Cung Càn. Nên Đức Hộ Pháp lật Bát Quái Hậu
Thiên trở lại thành Bát Quái Trung Thiên đưa Cung "Càn" về phía Tây Nam tức là "Đài tại Nam Phương Đạo thống truyền". Ba cung Càn, Khảm,
Cấn đổi vị trí Khôn, Ly, Tốn.
Nền minh triết của nòi
giống Rồng Tiên phát khởi do nguyên lý của đạo pháp. Về hai chữ Rồng Tiên, Tiên
ở núi, Rồng ở bể, thể hiện lý âm dương của trời đất, về dân tộc tánh chưa mất
nguồn gốc trên bốn ngàn năm lịch sử của Tổ Tiên lưu lại cho con cháu Âu Lạc. Âu
là Âu Cơ mẹ của chúng ta là Tiên ở núi (Liên Sơn Thành Khí), còn Lạc là Lạc
Long Quân tức cha của chúng ta là Rồng ở bể, vốn thủy sanh. Khí coi như phép ký
tế của đạo pháp, giữa nhị khí tạo thành lý Thái Cực mới sanh một bọc trăm
trứng, nhờ đó mà biến ra nguyên chủng Rồng Tiên, chẳng khác nào buổi khai thiên
lập địa trăm ức nguyên nhân giáng trần trong cơ khởi thỉ.
Nguyên nhân vốn là siêu
khí của Càn Khôn do đạo pháp biến sanh chủng tử, đó là nguơn chất ở Kim Bồn,
chưa đến kiếp người nên chẳng có pháp thân, không phân nam nữ. Vì lẽ đó, cái
nguyên lý Rồng Tiên của chúng ta 50 người theo Cha xuống biển là dương gián,
thể hiện đạo Trời với chơn lý từ ngôi dương đến ngôi âm cơ sanh hóa, còn 50
người theo Mẹ lên núi là âm phù, coi như từ ngôi âm trở về ngôi dương của lý
trưởng dưỡng, trong số đó chẳng có nói nam hay nữ đều ám chỉ lý âm dương giữa
Cha và Mẹ mà thôi. Với con số Ngũ của trời đất ở Khung Hồng Phạm mới biến dịch
cơ tạo đoan Càn Khôn và vạn vật.
* * *
5 -
DỊCH LÀ ĐẠO PHÁP
Đến đời Tây Châu, Đức Văn
Vương ngồi tù nơi Vũ Lý bảy năm, nhầm con số Thất Diệu, định thần mở khiếu huệ
quang để nghiên cứu cơ huyền nhiệm của vũ trụ. Khi về nước mới tìm lại những
vạch ở Hà Đồ của Phục Hi, để lại gọi Tiên Thiên Bát Quái, và căn cứ Lạc Thư
soạn ra Hậu Thiên Bát Quái, cũng lấy số tượng cho lý.
Đến Đức Khổng Phu Tử nhìn
thấy cơ hành xử của Vũ Trụ nên phụ chú vào cho mỗi hào thêm sáng tỏ mới có sách
gọi là Kinh Dịch, đây cũng bằng chứng cụ thể kể nòi giống Rồng Tiên mới là Thỉ
Tổ của Dịch Lý, nên chuyện bánh chưng bánh dầy không ngoài ý nghĩa về minh
triết của đạo pháp ở câu "Thiên viên Địa phương". Nếu có một nền
triết lý trên tôn chỉ thiếu đạo pháp, thì nó chỉ để áp dụng cho bản thể nhị
nguyên mà thôi, coi như ngày nào phục hồi được môi trường về tâm linh thì thế
giới mới có hoà bình nhơn loại.
Với sự chiêm ngưỡng của
tín đồ trong nền Đại Đạo, Toà Thánh Tây Ninh là nơi thờ Trời được thể hình pháp
Địa Chi có mười hai cửa nội ô ra vào, còn ngôi thờ cũng biểu tượng ba đài Bát
Quái là Phật, Hiệp Thiên là Pháp, Cửu Trùng là Tăng, để phát huy chơn tướng của
Đạo. Cửu Trùng Đài là phần xác, Bát Quái Đài là linh hồn, Hiệp Thiên Đài là
Chơn Thần, chẳng khác nào ở bản thân của con người chúng ta cũng có ba, một là
Thân, hai là Tâm, ba là Tánh, y như ngôi Đền Thánh mà Đức Hộ Pháp đã tạo, Bát
Quái Đài phần nguơn linh tức là Đạo, Hiệp Thiên Đài phần nguơn khí tức là Pháp,
còn Cửu Trùng Đài phần nguơn Tinh tức là Thế. Mỗi đài đều có liên hệ ảnh hưởng
cho nhau. Chẳng khác nào Thân Tâm và Tánh, Tánh là cái thể của Tâm, nhưng Tâm
cũng là Tánh, Tánh để tiêu biểu mọi sắc thái về hành động, còn Tâm là cái trừu
tượng xuất phát những tư tưởng cho Tánh, Tâm thay vì tòa Bát Quái, tánh ví như
cửa HiệpThiên, Thân tượng thể ví Cửu Trùng, đó là phần xác của vạn linh được
tiêu biểu đạo pháp của Càn Khôn tức là hình ảnh Chí Linh đó vậy.
Chính giữa Cửu Trùng Đài
có Nghinh Phong Đài tức là Đài tiếp giá..., tầng dưới vuông tượng thể địa
phương. Với qui luật công bình, bốn bên thể hình Thập Nhị Địa Chi bằng 12 ô
chữ, nhưng thấy có 10, bởi bên trong Nghinh Phong Đài đông và tây đọc được hai
chữ Lôi- Điển còn bên ngoài mười ô toàn là chữ triện hay cổ tự, chữ Lôi đỡ đầu
đòn dông, Nghinh Phong Đài giáp với Bát Quái Đài hướng chánh đông, chớ kỳ thật
bên ngoài Nghinh Phong Đài do hai nóc đền chập lại nên mất hết 2 ô chữ, còn
phía trong Nghinh Phong Đài từ Hiệp Thiên Đài nhìn lại chữ Điểân đỡ đầu đòn
dông phía chánh tây Nghinh Phong Đài. Như vậy chữ Lôi chánh đông tiêu biểu
tiếng nổ là Đạo, còn chữ Điển chánh tây tượng lý tiếng vang về ánh chớp là
Pháp. Bên trong nhìn cũng có mười ô chữ như bên ngoài, vì tô liền hướng Bắc hết
một ô, hướng Nam một ô, chỉ thấy có mười ô coi như pháp Địa Chi phối hợp cùng
Thiên Can tạo cơ hóa trưởng Càn Khôn.
Tầng trên Nghinh Phong Đài
thì tròn tượng thể Thiên viên ở nguyên lý của sự bác ái với cái không chẳng có
giới hạn, giáp vòng chỉ có mười ô chữ tiêu biểu cho Thập Thiên Can, nhưng ngay
chánh tây bên ngoài đủ mười, nhưng bên trong tô kín chỉ còn có chín ô của Pháp
định vị cho hai chữ Can Chi, Can Chi tượng lý âm dương ở Trời Đất. Chi là cành
hệ thống ngang, Can là gậy hệ thống dọc, phần trên hình quả địa cầu nó tròn với
bản viên dung ở lý đạo, còn vuông với định hướng bình phương về pháp.
Trên nóc địa cầu có hình
Long Mã phụ Hà Đồ với tám cung Bát Quái, Càn trên Khôn dưới chính giữa là Thái
Cực Đồ với hai điểm chấm hình bầu dục tạo sức hút đun đẩy mãi của lý Thái Cực
tức châu kỳ Vô Cực, về đạo học là Thái Cực, với khoa học cái lý đồng nhất
là"đi na mô" một đầu phát âm điện, một đầu phát dương điện, sở dụng
là chỗ biến ra trung hòa điện. Đó là chân lý Đạo Trời mới tạo cho đời sự sống
có ánh sáng mà Khoa Học thể hiện với điều kiện của Đạo Học ở cơ hóa dục quần
linh. Còn Hà Đồâ tượng thể cho không gian và thời gian với triết lý tạo đoan
cái không lẫn trong cái thời, cái thời chẳng rời cái không. Không gian là pháp
an nhiên thời gian là cơ chuyển hóa, chuyển hóa ấy là Đạo, an nhiên ấy là Đức.
Đạo có nghĩa là thời, thời có nghĩa là dịch, dịch có nghĩa là lý âm dương của
trời đất. Hình Long mã đứng giữa quả địa cầu coi như chỗ Vạn Pháp qui nhứt giữa
Tiên Thiên và Hậu Thiên hòa hợp nguơn khí của đạo pháp biến xuất can chi để vận
hành cơ hóa trưởng của Vũ Trụ. Do đó, có tám rồng vàng đỡ quả địa cầu cất đầu
bao quanh chia thành tám hướng tượng thể Bát Quái Tiên Thiên, thân kèo châu lại
như tám đuôi rồng tại nóc trái đất ở bên trong, tất nhiên nằm ngay rúng Long
mã. Long mã tiêu biểu Tiên Thiên Khí. Địa cầu tiêu biểu cho Hậu Thiên Khí, kể
như pháp ký tế của trời đất buổi Hạ Nguơn của cơ tuần huờn Vũ Trụ.
* * *
6 - CƠ HOẰNG PHÁP
Trời mở đạo
kỳ ba với cơ qui nhứt, căn cứ trên nguyên lý Lạc Thư Hà Đồ của nền Tôn giáo
Cao Đài đã biểu tượng huyền pháp Hư Vô của trời đất, tất nhiên là cơ qui nhứt của nền Đại
Đạo với khối đức tin lớn vốn con đường cả Trời mở kỳ ba. Tam giáo qui nguyên
Ngũ Chi phục nhứt tức là ba cổ xe đồng hành, cổ Hạ Thừa dành cho Thần Đạo Nhơn
Đạo mới đủ phương độ rỗi đưa chúng sanh về nơi bổn thiện. Đạo có nghĩa là con
đường để cho các Chơn Linh bị đọa trần nhờ nương nơi đó mà lần về cựu vị. Chúng
ta tin nơi Đức Thượng Đế giáng thế kỳ ba theo Thánh Ngôn đã dạy. Hiệp Thiên Đài
là nơi Thầy ngự nên nơi đó có đủ ba ngôi : Thông Thiên Đài là Phật, Phi Tưởng
Đài là Pháp, Tịnh Tâm Đài là Tăng, nên khi Thầy đến dụng huyền năng cơ bút mở
đạo kỳ ba cho chúng sanh Thầy mới xưng danh Ngọc Hoàng Thượng Đế lần đầu tiên
tại tư gia đức Cao Thượng Phẩm, dạy thiết Lễ Hội Yến Diêu Trì. Đức Chí Tôn có
đến dự nhưng Phật Mẫu không hề thấy, chứng tỏ cái Hội Yến Diêu Trì năm Ất Sửu
là phát khởi bào thai của nền Đại Đạo có đủ chủ âm quang và dương quang, nếu
nói đó là bào thai thì phải hợp đủ tinh khí thần. Nên Đức Chí Tôn dạy lập đàn
Vọng Thiên cầu Đạo trong đó Thầy kêu có 3 vị Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh
với cái danh thì đủ chủ ba chi Đạo-Pháp-Thế. Thế thểcho Tinh, Pháp thể cho Khí,
Đạo thể cho Thần, quì trước đàn Vọng Thiên. Với ý nghĩa chi Đạo tiêu biểu cho nguơn
Thần, chi Pháp tiêu biểu cho nguơn Khí là ngôi chủ quyền pháp giới Ngũ Lôi nơi
cõi Hư Linh, còn Chi Thế tiêu biểu cho nguơn Tinh. Chừng khai sanh Đạo mới tạo
nên hình thể của Thầy là ngày lập cơ phong Thánh, cũng là lập Pháp.
Hôm nay được Hội Thánh thay
mặt cho nhơn sanh dạy công thợ tạc tượng Đức Hộ Pháp đặt lên Ngai nhằm ngày 13
qua 14 tháng 12 năm Quí Mão. Buổi sáng làm lễ an vị xong, tối lại 3 Hội Thánh
Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện đồng vào Cung Đạo làm lễ cầu nguyện Đức Chí
Tôn cùng các Đấng đặng dán Thiên Nhãn cũ lên quả Càn Khôn mới lợp lại lần này
bằng kim loại (nhôm), làm lễ an vị cúng Tý Thời Tiểu Đàn Vọng Nhựt và cầu ơn
trên Đại Từ Phụ trấn thần Bửu Tượng Hộ Pháp, kế sau Bửu Tượng Đức Thượng Sanh
được Hội Thánh làm lễ an vị ngày 1-7 Đinh Tỵ, còn Bửu Tượng của Đức Thượng Phẩm
tạc lúc Tòa Thánh đã hoàn thành cuối năm Bính Tuất, Đức Hộ Pháp còn sanh tiền
cầm quyền chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài.
Hiện. tam Vị tiền bối Hiệp
Thiên Đài đã ngự trên Ngai để chúng sanh chiêm ngưỡng ân đức của ba Ngài đã dày
công trong cơ lập đạo mà còn với sứ mạng để cứu đời. Riêng về Bửu Tượng Đức Hộ
Pháp mình mặc giáp đầu đội mão chỉa Tam Sơn, ngự trên Thất Đầu Xà, buộc dây Sắc
Lịnh, bên trong thả mối nơi hông mé Đức Thượng Phẩm, thấy đó đã chứng tỏ Pháp
trị Đạo, nhưng thuộc bên hữu của bản thân kể như nắm phần trị Thế nữa, tay hửu
cằm cây Kim Tiên, Đức Ngài có đủ quyền điều khiển lôi điển Càn Khôn Vũ Trụ,
thay vì Giáng Ma Xử đã trấn giữ Cực Lạc Thế giới.
Khi cúng đàn, lúc đứng dựa
Ngai là Đức Ngài chuyển pháp, lúc ngồi là trụ pháp, nơi để chân và gác tay
chính Đức Ngài đã ngự trị bốn cái nộc độc ở trong con người. Đó là ai, nộ,
ố,dục. Nếu người tu biết trưởng dưỡng ba cái thể hiện bên sau Đức Ngài là Hỉ,
Ái, Lạc thì cơ giải thoát chúng ta được khai thông thất khiếu sanh quang bằng
bửu pháp Kim Tiên.Vì bửu pháp Kim Tiên ở Đức Ngài có đủ quyền tác phước cho
người trước kia hung dữ mà nay biết khử ám hồi minh nên hóa giải tội tình với
cơ tận độ kỳ ba. Bửu tượng Đức Cao Thượng Phẩm ngự giữa thân mình thể hiện lý
đạo phải bảo trọng bản tâm, tay hữu cầm bửu Pháp Long Tu Phiến do điển khí Tam
Thập Lục Thiên kết thành nên tượng hình bằng 36 lông cò trắng. Phần đầu Long Tu
Phiến là ngọn Phất trần để quét sạch bợn trần rồi mới dùng Long tu Phiến quạt
đưa Chơn Thần về cõi Hư Linh, tay tả nắm xâu chuổi Từ Bi để phát huy tinh thần
độ rỗi chúng sanh và dâng Đạo cho Đức Hộ Pháp.
Bửu tượng Đức Thượng Sanh
ngự ở phần đuôi lưng buộc dây Thần Thông ở bên trong, ngoài có dây Sắc Lịnh,
bên sau giắt Thư Hùng Kiếm, tuy một mà thể hiện cho hai : một lưỡi trống một
lưỡi mái tức là pháp âm dương của Chi Thế đương nhiên có đủ quyền về Thế Đạo
trị ở phần đuôi "Thể tạo thế và
chuyển thế." Tay hữu cầm cây Phất Chủ dâng thế vào cho Hộ Pháp, tay tả
nắm xâu Chuỗi Từ Bi dâng Đạo cho nhân sanh.
Giữa Đạo và Thế, Long Tu
Phiến, Phất Chủ, Thư Hùng Kiếm là ba bửu pháp giúp tay chuyển thế Cửu Trùng Đài
trong cơ truyền giáo. Dưới quyền ba Chi của 3 Ngài có Thập Nhị Thời Quân và
Thập Nhị Bảo Quân tức là lấy số tượng cho lý kể như 24 vị Trưởng Lão lo phụng sự
cho Đức Chúa Trời nơi Tòa Thánh, thể hình Bạch Ngọc Kinh tại thế. Bửu pháp nơi
mão mỗi Chi đều khác, Chi Pháp Bình Bát Vu, Chi Đạo quạt Long Tu có Phất Trần,
Chi Thế Phất Chủ và Thư Hùng kiếm, lúc thi hành sứ mạng Chi Pháp buộc dây Sắc
Lịnh thả mối ngay giữa, Chi Đạo thả mối bên hữu, Chi Thế thả mối bên tả. Phần
tiểu cấp bên Hiệp Thiên Đài, phẩm Luật Sự do Sắc Lịnh số 24 của Đức Hộ Pháp đề
ngày 23-5 Bính Tý (DL. 16-6-1936) dạy mở khoa mục thi Luật sự, còn phẩm Sĩ Tải.
Truyền Trạng, Thừa Sử, Giám Đạo, Cải Trạng, Chưởng Ấn, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, do
Thánh Giáo của Đức Chưởng Đạo dạy lập 18-2 Ất Hợi (22-3-1935). Những vị trên
đây nơi mão đề phẩm trật và cân "Công bình" với Thiên Nhãn. Đây là
mão hệ dọc, còn mão thuộc hệ ngang bên sau có ba Cỗ Pháp Xuân Thu, Phất Chủ,
Bát Vu.
Từ Thời Quân dĩ chí phẩm
Luật sự áo mão toàn màu trắng, chỉ có Thời Quân ba chi đều có mão tròn mỗi chi
mỗi bửu pháp dùng để ngồi tòa y như mão của Chánh Bảo Thể vậy. Nếu hành lễ cúng
Đại Đàn, quí Ngài đội Nhựt Nguyệt Mạo, còn cúng thường thì đội Hỗn Nguơn Mạo.
Còn Chức Sắc tiểu cấp giúp việc cho Hiệp Thiên Đài, những vị được mang dây Sắc
Lịnh của Pháp Chánh ban cho để thừa hành sứ mạng, thả mối ngay giữa với nhiệm
vụ Pháp Chánh Địa Phương hay Trung ương đặng giải quyết mọi việc đạo, chỉ dùng
trong phiên họp mà thôi.
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài
không phân nam tả nữ hữu như bên Cửu Trùng Đài, nhưng có hai Chi : Đạo và Thế
thể hiện cho âm dương còn lý trung hòa là Chi Pháp. Cửa Hiệp Thiên biểu tượng
nguyên lý là Nguơn Thần trong cơ khởi thỉ chỉ gọi bằng nguyên nhân chưa phân
nam nữ. Chừng chuyển hóa trong bát phẩm chơn hồn được về cùng Đức Chí Tôn và
Đức Phật Mẫu, do công phu tu luyện nhờ đó mà phục vị đắc đệ nhị pháp thân, thì
Chơn Thần đó mới có nam nữ như người ở thế vậy.
Tam vị tiền bối Hiệp Thiên
Đài đã triều thiên được Hội Thánh tạc tượng đồng ngự trên ngai Thất Đầu Xà bao
quanh ba cái đôn với tòa sen màu đỏ. Chiếc đôn ba Ngài hình bát giác có tám
chân thể hiện cho pháp giới tạo đoan liên quan pháp giới chúng sanh ba con số
bát tức 24 vốn của ba ngôi Phật-Pháp-Tăng, chủ Chi Pháp Đức Ngài thứ 8, chủ chi
Đạo Đức Ngài thứ tư, Chủ Chi Thế Đức Ngài cũng thứ tư, sự biểu tượng Đạo là Tứ
dương, Thế là Tứ âm về thứ tự ba Chi cũng là pháp giới y như tuổi Tý Sửu Dần
của ba Ngài vậy.
Lúc tạc tượng của ba Ngài,
thợ nhìn bửu ảnh mà đắp Đức Thượng Phẩm Chi Đạo đứng bộ Lưỡng Nghi trên tòa sen
dưới chân không nệm, mang giày trắng đế vàng, mũi giày có chữ Đạo, bên trong áo
tràng trắng ngoài mặc áo lá xanh để tóc phủ vai, để râu, đầu không đội mão bởi
đạo với vẻ tự nhiên.
Bửu tượng Đức Hộ Pháp thể
hiện uy quyền, mình mặc giáp, đầu đội mão chỉa Tam Sơn, chơn mang hia chót mũi
hia có chữ Pháp, đứng bộ chữ nhơn trên cái nệm đỏ, chứng tỏ Đức Ngài ấn nguơn
khí sanh quang để ngự trị phần Tăng, thuộc pháp giới chúng sanh trong bát phẩm
chơn hồn. Chữ Khí màu vàng ở trong cái phong nền đỏ tức là Phật ở trong Tăng
cũng như Đạo ở trong Pháp.
Bửu tượng Đức Thượng Sanh,
trong mặc áo tràng trắng ngoài áo lá xanh, chơn mang giày trắng mũi giày có chữ
Thế. Đầu bịt Thanh Cân, Chơn đứng bộ chữ bát trên chiếc nệm xanh để vận chuyển
pháp giới chúng sanh biết tùng cơ dục tấn, vì vạn vật hữu sanh, hữu chủ, hữu
định mệnh do Đấng Tạo Hóa. Thượng Sanh chủ Chi Thế tức chủ phần Tăng, nên mỗi
vật hình điều riêng bản năng sinh tồn tự hữu do Trời phú tánh với câu "Thiên sử ư Tánh" vì đó mà tất
cả chúng sanh mỗi mỗi điều có linh tánh, riêng con người là phẩm tối linh nhờ
trí thông minh khôn hơn vạn vật, vạn vật có Sanh hồn, Giác hồn. Nếu phần Sanh
lấn phần Giác thì linh tánh trở nên ác tánh. Về con người chúng ta Thượng Đế
ban cho có đủ ba hồn Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn. Nếu Chơn Thần kẻ thế quá
hôn trầm thì lương tâm sanh ác tâm, tức là mê hồn trở thành con người lộn lương
tâm chỉ biết tùng nhơn dục của xác thú.
* * *
7 - SÁM TRUYỀN MINH TẢ
Tòa Thánh Tây Ninh đạo Cao
Đài đã thể hình Bạch Ngọc Kinh tại thế để thờ Đức Thượng Đế tức là Chúa Trời mà
Sám truyền Ky Tô Giáo đã minh tả bên trong có 24 vị Trưởng Lão (đó là Thập Nhị
Thời Quân và Thập Nhị Bảo Quân),vòng thành có 12 cửa. Nhưng ngôi đền thể hình
con linh vật dưới nách có nhiều tròng đó là số Thiên Nhãn giáp vòng ngôi đền
với hình Long Mã, mà Cao Đài đã tượng thể tòa Bạch Ngọc Kinh với chơn pháp khi
vô chầu lễ từ phẩm Nhơn Thần đổ xuống vào hai bên lỗ tai nam tả nữ hữu với bổn
phận để nghe và nhắc nhở cho nhau chưa đủ quyền lập đàn thuyết đạo. Còn từ phẩm
Thiên Thần đổ lên vào ngay cửa giữa tức là miệng dầu nam hay nữ với điều kiện
có sứ mạng thuyết đàn giáo hóa, mỗi vị Thiên Thần là một cái loa của Hội Thánh
để truyền đạt lời của Chúa Trời. Theo triết lý Phật, phẩm đi vào lỗ tai chia ra
có 3 hạng Tín đồ hàng Thinh văn, chức việc phụ hàng Duyên Giác, Bàn Trị Sự hàng
La Hán, còn vào cửa miệng thể hiện sự giáo hóa Lễ sanh hàng Bồ Tát sơ Tâm, Giáo
hữu hàng Bồ Tát Thâm hạnh, còn Giáo sư đến Đầu sư là hàng đại Bồ Tát với sứ
mạng đội mão Bát Quái, nhưng khi Hoán Đàn số ít Chánh Trị Sự với Giáo Nhi được
lịnh đi nối tiếp phẩm Thiên Thần ở pháp dục tấn.
Ngôi Tòa Thánh vòng quanh
nách đền có 23 Khuôn Thiên- Nhãn đắp 2 mặt nằm trong khung hình tam giác tức là
46, trước Hiệp Thiên Đài một, trên Cung Đạo một, nơi quả Càn Khôn một, với
Thánh Tượng Thờ bên trong Thông Thiên Đài một, tức 50 Thiên Nhãn tượng lý số
ngũ của Khung Hồng Phạm Ngũ Hành bao quanh cửu trù mà ngôi đền đạo Trời đã thể
hiện Tòa Thánh hình Long Mã.
Ngôi đền có tứ tướng tượng
ngũ hình là Long Mã, ngũ hình sinh tứ tướng là Long, Lân, Qui, Phụng đã thể
hiện, chúng ta nhìn hai lầu chuông trống là cặp gạt rồng, chỗ Đức Di Lạc ngự là
ngù lân, đá cẩn nền giáp vòng thể hình là Qui, tầng ô ngói mái đền phơi bày như
chim sè cánh là Phụng. Cái dụng của ngôi Đền là hình Long Mã nằm, cửa Tịnh Tâm
Đài là cái miệng, 2 cột rồng 4 cột hoa sen đứng chõi bao lơn là hàm răng, cái
lưỡi dựng lên bên trong là phong chữ Khí, bên ngoài Tam Thánh ký hòa ước, ba Cổ
Pháp trước bảng Đại Đạo là sóng mũi, Thiên Nhãn Kế trên là tam tinh, 2 chữ Nhân
Nghĩa là đôi mắt, 2 cái vòm ở lầu chuông trống cửa để vào đền là lỗ tai, với 4
cửa có Kim Mao Hẫu là chơn, hình Long Mã nhỏ ở nóc địa cầu là phụ Hà Đồ, chỗ
đại bửu tòa của Tam Thế Phật trên Bát Quái là cái đuôi.
Trở lại mặt tiền ngôi đền
nơi bao lơn Tòa Thánh tiêu biểu những tấm gương bất hủ có đủ hạng người từ vua
chí thứ dân, bên hữu cánh đền nhìn qua Hạ Võ là nhân, Ngu Thuấn là hiếu, Toại
Hữu là công, Phạm Lãi là trung, Lữ Vọng là thời, Bá Nha là nghĩa, Hứa Do là
trí, Mãi Thần là chí. Những sự tích có đủ hạng người Sĩ Nông Công Thương, Canh
Tiều Ngư Mục đây là Tứ Thú. Phần đầu là Tứ Dân, đạo trời biểu tượng tinh thần
hòa hợp cuộc sống của nhơn loại, đặc biệt có hai tích nếu tả nhìn qua hữu Mãi
Thần nhứt sĩ, bằng bên hữu xem qua tả Hạ Võ nhứt nông, còn Toại Hữu là công,
Phạm Lãi là thương, với Tứ Thú về lao công không phải ở tài nghệ tiêu khiển Cầm
Kỳ Thi Họa, Canh là Ngu Thuấn, Tiều là Tử Kỳ, Ngư là Lữ Vọng, Mục là Sào Phủ.
Sự lành dữ ở con người do
lỗ miệng nên cửa đền bên tả thể hình ông Thiện, bên hữu thể hình ông Ác, ông
Thiện thể hiện dưới chơn một tòa sen, còn ông Ác xuất phát dưới chơn một khối
lửa, giữa ác và thiện đạo trời thể hiện cái lý âm dương, nếu kẻ ác biết giác
ngộ sẽ thành, bằng có sở hành lấn áp người thiện, thì người thiện với điều kiện
tự vệ tay tả cầm đao bửu pháp để sát sanh tâm đặng bảo tồn bổn thiện.
Kìa sự thể hiện 2 món báu
của ông Ác, tay hữu cầm Thiết Song Phủ vốn cái rìu của thời Cổ với người tu
phải nhờ ông ác dùng những nhát rìu chạm trổ mới ra thiệt tướng, tay tả cầm Lưu
Tinh Chì, hai loại binh khí võ quan, ông Ác giác ngộ cũng thành thì con người
biết hối lỗi lo tu hành đến phút chung qui được nhập cửa lầu Bát Quái. Phần
trên Tam Bửu kết tụ, thì ba cái hành tàng của kiếp sanh rơi xuống trụ dưới chân
thành khối lửa nó là Hỏa Tinh Tam muội, lửa phàm của bản thân ba cái Tham, Sân,
Si, còn Tam muội Chơn Hỏa là lửa phật của Tinh Khí Thần.
Giữa ác và thiện ta khó
biện biệt được bởi sắc phục y nhau, nhưng chúng ta hãy nhìn vào ông Ác khác ông
Thiện ở chỗ tâm đức. Bởi ông Ác xuất phát làn từ khí hai mối ở trong khối lửa
uốn quanh khỏi thân hình với màu đỏ của lửa, còn ông Thiện làn Từ Khí phát hiện
cũng vậy với màu tam thanh hai chân đạp trên hai đầu mối của làn Từ Khí. Bên
trên ông Ác và ông Thiện, Cao Đài đã thể hiện hai chữ Nhân Nghĩa theo triết lý
đạo Trời. Nhân bất tương tranh, nghĩa bất vụ lợi. Nhân gốc lợi sanh ở trời,
nghĩa gốc phúc lợi ở đất, thì tất cả người tín đồ phải đem tài lợi sanh hầu làm
việc phúc lợi để giúp ích chúng sanh, bởi Nhân tức thị Tâm, Tâm tức thị Thiên
thì chúng ta có đủ quyền thực thi những điều ở mặt phúc lợi, và vận dụng cái
tài chỗ lợi sanh mới là Nhân Nghĩa, chớ không phải giúp người để cầu danh và
tạo uy tín để thừa dịp đấu tranh cho môi trường chánh trị. Đó chưa hẳn là tình
thương ở Đức Chí Tôn.
Còn mặt tiền hai lầu
chuông trống biểu tượng bó hoa ba màu. Tích U Vương chiêm bao ngó thấy từ trên
trời bay xuống, bèn hỏi triều thần cho là điềm lành, sẽ có đạo Tam Thanh giáng
thế. Nên trước mắt ta tượng hình hai chữ T, có nghĩa là Tam Thanh, mỗi bó hoa
đều nằm trong lòng chữ T. Coi như một linh thể Tam Thanh rơi vào khổ hải đặng
kết thành bè từ làm phương độ rỗi chúng sanh. Tam Kỳ là cơ qui nhứt nên Thánh
Thể của Đức Chí Tôn cũng tiêu biểu màu Tam Thanh như bó hoa ở lầu chuông trống.
Hoa thể hiện cho Tinh, dưới hoa là lớp sóng bể trần, giữa tia chớp ánh ngần của
điển lực tức là Khí, trên đầu chữ T với một cổ quả 3 màu đó là nguyên lý của
Thần về hột thánh cốc, nhờ nước Khổ hải mà hột Thánh Cốc mới nảy mầm đơm hoa,
chừng hương từ ái lan ra mùi trần sẽ lắng dịu. Bởi vùng Đông Á từ vua chí dân
nhân tâm bất nhứt, thế đạo suy di. Nên Thích Ca giáng sanh Khai Phật giáo gọi
Thái Thanh, Lão Tử giáng sanh khai Tiên giáo, gọi Thượng Thanh, Khổng Tử giáng
sanh khai Thánh giáo gọi Ngọc Thanh, cả ba để biểu tượng cho Tinh Khí Thần.
Còn Nhứt Kỳ, Nhiên Đăng là
Thần, Hồng Quân là Khí, Văn Xương là Tinh, theo kinh Đức Nhiên Đăng là đấng chủ
tể Càn Khôn cũng một vị Tôn Sư trong thời hỗn độn, chính là Đức Hồng Quân vốn
Thầy của Thái Thượng, Nguơn Thỉ và Thông Thiên Giáo Chủ. Hai danh từ đó có
nghĩa là Đức Chí Tôn, Đức Nhiên Đăng hà hơi hóa mống một cột chống trời nói đến
mống có đủ ba màu Tam Thanh vàng xanh đỏ, còn cột là hệ thống dọc của ngôi nhứt
dương trên đó có ngọn huệ đăng chiếu 36 cõi Trời tức là Khối lửa Thái Cực. Nên
Tôn Giáo Cao Đài thờ đèn Thái Cực tức thị thờ Nhiên Đăng đó vậy.
Đức Chí Tôn đã nói Nhiên
Đăng Cỗ Phật thị ngã, Thích Ca Mâu Ni thị ngã, Thái Thượng Nguơn Thỉ thị ngã kiêm
viết Cao Đài. Trong mỗi thời kỳ lập đạo, Tam giáo biểu tượng Tinh Khí Thần đặng
thay Thân cho Đức Chí Tôn làm phương độ rỗi, Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ từ Phật đến Tiên
kế Thánh là một ngôi trường chia thành ba lớp mới phù hợp trình độ tấn hóa cho
cả nhơn sanh dễ bề tu học từ thượng đẳng chí hạ đẳng.
Riêng cõi Á Đông Trời cũng
ban cho chúng ta có ba ngôi vua thời cỗ thể hiện chủ quyền của lý sơ nguyên về
mặt Thế Đạo. Phục Hi biểu tượng cho lửa tức là Thiên Hoàng, Thần Nông biểu
tương cho đất tức là Địa Hoàng, Huỳnh Đế biểu tượng cho người tức là Nhơn
Hoàng, Tam Hoàng thể hiện cho đầu mối phẩm tối linh về Tinh, Khí, Thần của con
người với lý Tam Tài của cơ khởi thỉ để khai nguơn định hội và tạo thế, Phục Hi
là mầm móng phát huy Cơ khởi thỉ đồ vật nhờ đạt pháp Ngũ Hành, Thần Nông tìm ra
lẽ sống nếm thuốc và dạy dân trồng Ngũ Cốc, Huỳnh Đế bày ra áo mão mở mang nền
nhân bản cho giềng mối Ngũ Luân, nên Lôi Âm Cổ Đài, Bạch Ngọc Chung Đài đã thể
hiện bó hoa ba màu vàng xanh đỏ, một triệu ứng để chứng tỏ Thanh Đạo khai lần
thứ 3 mà Đức Chí Tôn đã xác định ở Câu Thi (Thanh Đạo tam khai thất ức niên).
Bởi Đức Chí Tôn chủ về Thanh Đạo buổi Tam Kỳ là cơ qui nhứt gồm đủ Tam Thanh
tức thị Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh. Lấy Tinh Khí Thần làm hình thể
Hội Thánh đặng đem cái nộ Khí Tam Thanh của Xiển giáo để trừ cái độc Khí Tam
Bành của Triệt giáo, nên những cái gì của Đức Chí Tôn khi dựng lại nguơn bảo
tồn sẽ đem về hiệp một với nền Đại Đạo chớ không phải Cao Đài đa Thần giáo.
Còn Đức Phật Mẫu chủ về
Huỳnh Đạo, nên các nền Tôn Giáo cõi Á Đông thường gọi Phật Mẫu nhiều danh từ
khác nhau, Hoàng Cực Lão Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Tây Vương Mẫu, còn nhân gian
thờ kính cái danh là Mẹ Sanh hay Đấng Cửu Thiên Huyền Nữ cũng là Phật Mẫu. Còn
Bà Nữ Oa luyện thạch bổ Thiên. Trời là (Càn tam liên) chừng tách ra với khoảng
không đó là vòng (khôn lục đoạn) dương đã sanh âm chỗ cơ biến dịch của đạo
pháp. Nên ám chỉ sự luyện đá thành khí ngũ sắc vá trời cho liền, liền một vạch
sanh một cung. Đoạn một vạch thành một quẽ đó là cơ biến dịch Càn Khôn, với
chân lý đó nói lên cái quyền Thiên Hậu của Đức Phật Mẫu tức là Trời tuy danh từ
khác nhau chớ chúng ta nhìn vào tựu trung cùng một nguyên lý mà thôi, nên bài
Tạo Hóa Thiên, Kinh Phật Mẫu với ý nghĩa khi dứt niệm danh hai lần, vế trên nói
lên sự chiêm ngưỡng Đức Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên, vế dưới xưng tụng
cái quyền Thiên Hậu Chí Tôn Đại Bi Đại Ái của Phật Mẫu cũng là Trời, hiện trên
quả địa cầu này vật là cái thể của chúng sinh, còn dụng là cái linh của tạo
hóa.
Chỉ có con người là vật tối
linh của Đức Chí Tôn mới đủ tam hồn mà thôi, sanh hồn đến trong bào thai lúc
tượng nhơn hình, còn giác hồn đến một phần ở bên trong, một phần ở bên ngoài
phù trì mẹ, chừng thai sinh lọt lòng sẽ nhập vào trọn vẹn, thảng thai sinh lọt
lòng rồi mà không tiếng khóc xổ lòng, ta nắm hai chơn xách lên vỗ đít ba cái,
hài nhi mới ré lên lúc đó giác hồn mới vào, còn linh hồn đúng 12 tuổi mới đến
cũng tùy việc làm của hai hồn kia hoặc ở hoặc đi, nếu con người đủ căn duyên
lúc chung qui tam hồn tuần tự xuất phát đi một lượt, bằng nặng nghiệp quả phải
trả ở sự hành xác cái linh cái giác đã đi rồi, chỉ còn sanh hồn ở lại với xác
thể là phần Tăng nên sự ăn nói mất chuẩn thằng có vẻ kỳ dị. Kể như tâm trí
chẳng còn. Nên Thánh Giăng còn trong bụng mẹ mà biết mừng Chúa Cứu Thế bằng sự
nhảy nhót mạnh. Lúc hai Bà đang mang thai đến thăm nhau có sự chào đón của thai
nhi là nhờ giác hồn, như vậy nên những vong vô danh và bào thai bị súc sảo mới
đôi tháng mà biết đến sự ân oán đối với gia đình. Đức Chí Tôn có nói một giọt
máu là một điểm chơn linh, nên phần tinh của bản thân là một khối sanh vật.
Giữa cha và mẹ hòa chung giọt máu mới tạo ra bào thai dầu chưa tượng nhơn hình,
chỉ còn bằng khí chất tất nhiên phải có tiểu hồn vật loại trong đó.
Hồn là phần vô vi để phát
huy về Xiển giáo, còn bản thân là vật hữu thể kể như của Triệt giáo, nó vốn xác
thú của ta sinh ra để rồi tử, tử để rồi sinh. Đó là lẽ dinh hư tiêu trưởng của
trời đất (sinh sinh bất tức) nên trước mặt chúng ta có ba hiện tượng để cấu tạo
cơ thể cho muôn loài, về siêu thể là khí biến ra vi thể là chất, vi thể biến ra
vật thể là hình, từ Sinh đến Tử do dịch lý âm dương chuyển hóa, nếu chúng ta
định thần khám phá đến chỗ u linh sẽ nhìn thấu cái nguyên lý của vạn vật.
Chớ kỳ thật ta chưa hiểu
kiếp ta đâu, cũng như sâu chưa biết mình là con của bướm, cũng như bướm chưa
hiểu mình là kiếp của sâu. Do sự chuyển hóa từ đầu suốt cuối, chẳng khác chi
loại chuồn chuồn đẻ rơi mặt nước. Chừng nở được là giống ăn mài, mức chung kết
của nó trèo lên ngọn cỏ lột lớp vỏ để có cánh mà bay chưa hay kiếp của nó là
con ăn mài với định luật tất cả loài vật phải chuyển hóa, để tấn hóa căn bản
của nó là Tinh, Khí, Thần. Thảng như trời đất không thần thì mất cơ an định,
còn người vật không thần sẽ bị hoại, bằng tôn giáo đảng phái không thần khó tồn
tại với thời gian ví như một đóa hoa phải có ba thời kỳ. Nở phô sắc đó là Tinh,
nép cánh gìn hương đó là Khí, đưa nhụy kết trái đó là Thần, cùng một nguyên
nhân phát xuất do định luật của trời đất.
Nên đôi lầu chuông trống
thể hiện ba món báu với triết lý tôn giáo Cao Đài, dưới thì giỏ Hoa Lam của
Phật Quan Âm cấp cho đệ tử buổi Tam Kỳ là Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, còn bầu
linh gậy sắt của Lý Thiết Quả buổi Tam Kỳ lại là anh cả Đức Quyền Giáo Tông
Thượng Trung Nhựt. Giỏ Hoa Lam tiêu biểu phần Tinh về linh thể Vũ Trụ của cơ
chuyển hóa, bầu linh thuộc hỏa, gậy sắt thuộc thủy đó là tam bửu, hoa là Tinh,
thủy là Khí, hỏa là Thần. Đạo Trời thể hiện Tinh Khí Thần cho ngôi tiếng nổ và
ngôi tiếng vang.
Còn đôi cửa bên hông
khoảng giữa Cửu Trùng Đài bên Tả ngôi đền tượng thể hai con Kim Mao Hẫu cái ở
bên nam phái, còn cửa phía bên nữ thì hai con Kim Mao Hẫu đực với lý đạo trong
âm có dương, nhưng bốn cửa có tám con Kim Mao Hẫu đều ở lý âm dương, riêng biệt
của mỗi cửa, hễ trụ búp sen phía tả thì Mao Hẫu gác chơn hữu ở trên đó, còn ở
bên hữu thì gác chân tả cả tám con đều như vậy, chỉ có một trụ búp sen bên hông
Bát Quái mé phái nữ trụ bên tả thấp hơn trụ bên hữu tám phân cũng là nguyên
nhân của đạo pháp, còn 2 cửa bên hông Bát Quái đều bốn con đực hết, cửa chẳng
có ngõ vào bên trong coi như cửa của Thiên Thần xuống thế, có 9 cấp, mỗi cấp 2
tấc rưỡi cũng là 7. Bảy lần 9 là 63 cũng 9 ở pháp định vị.
Lúc Đức Hộ Pháp còn tại
tiền đã dạy thể hiện bí pháp này trong mỗi kỳ đàn, Đức Ngài cho một phần Lễ
sanh nam nữ được lên bên trong tầng hành lang lầu đặng chầu lễ, khi mãn đàn
không được trở lại Hiệp Thiên Đài như hiện nay là do vị Quyền Ngọc Chánh Phối
Sư ra lệnh bế môn chặn cơ truyền giáo nên Thiên Thần phải trở về Trời đó là
việc xãy ra từ thời Ngô Triều đàn áp Đạo.
Chớ trước kia Đức Hộ Pháp
chủ quyền Đạo nên Hội Thánh nhứt luật khi hành lễ xong bãi đàn phẩm Lễ Sanh,
tuần tự lại đường thang khu ốc phía sau Bát Quái để xuống, nam bên tả nữ bên
hữu, chừng ra đến sân xem như Thiên Thần xuống trần gian. Công giáo nhờ Thiên
Thần gần 2.000 năm Đạo Thánh vững bền, nay Trời mở Tam Kỳ Lễ sanh với phẩm là
Thiên Thần mà Đức Chí Tôn đã định vị ở lý âm dương có nam lẫn nữ để dìu dẫn
chúng sanh lo lập công, phải đi trong con đường Cửu Phẩm Thần Tiên mới về được
cùng Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu dầu Thập Nhị Đẳng cấp thiêng liêng lúc chung qui
cũng phải vượt Cửu Thiên Khai Hóa.
Còn Kim Mao Hẫu ở cõi
thiên giữ cửa Bạch Ngọc Kinh đó là con linh vật chực rước những người hoàn tất
ba món nợ sẽ chở vào triều kiến Đức Chí Tôn, nếu chúng ta trả chưa xong thì nó
chẳng cho vào, nợ thứ nhứt ta là phẩm tối linh biết đem thân để phụng sự cho
vạn linh sẽ trả được món nợ về điểm linh của Đức Thượng Đế, nợ thứ hai trong
kiếp sanh ta dùng những vật hữu sanh của Đấng Háo Sanh. Nếu khéo tu hành luyện
nó chuyển thành đệ nhị Pháp Thân mới trả được món nợ Chơn Thần cho Đức Phật
Mẫu. Nợ thứ ba chúng ta có bản thân, phải có nhân duyên, đó là Thập nhị công
nghệ mối liên hệ giữa cuộc sống tức là cái ơn của xã hội. Nếu trong ba mà không
trọn coi như đắc tội cùng Vạn Linh với Chí Linh.
Buổi Tam Kỳ gọi đó là Thập
nhị nhơn duyên mà kiếp người đã thọ ân với 12 nghề. Sĩ Nông Công Thương, Ngư
Tiều Canh Mục, Nho Y Lý Bốc. còn triết lý bên phật dạy từ vô minh đến bệnh tử
gọi Thập Nhị nhân duyên vốn cái nghiệp của bản thân.
Với giáo lý Cao Đài ai có
bản thân phải có nhân duyên cùng Thập nhị công nghệ, đó là cái ơn của xã hội đã
cung ứng vào cuộc sống cá nhân ta tức là "Vạn
thù qui nhứt bổn" thì người tu phải nặng ơn xã hội trên đường hành giả
trọn tâm đức cầu rỗi cho cả chúng sanh thoát ly khổ hải coi như "Nhứt bổn tán vạn thù".
Còn trên nóc Bát Quái Đài
có tượng hình Tam Thế Phật tiêu biểu tam hồn của Đức Chí Tôn nên Phật có ba màu
vàng, xanh, đỏ, với sự thể hiện chúng ta thấy rõ ở bên trên đền thờ Đức Chí
Tôn. Linh hồn màu vàng, giác hồn màu xanh, sanh hồn màu đỏ, đã chứng tỏ ở con
người cũng thế Thượng Đế cũng là chúng ta. Nhưng chúng ta cũng là Thượng Đế,
với con người ở thế sanh hồn của bản thân, giác hồn của trí thức, linh hồn của
tâm thần, Tam Hồn của Chí Tôn thường tại trong chúng sanh nên gọi cái danh là
Tam Thế Chí Tôn. Ba vị phật CHRISTNA màu xanh chánh bắc, Phật CIVA màu đỏ chánh
nam, Phật BRAHMA màu vàng chánh tây, xoay theo chiều chưởng giải, màu vàng của
Thần Sáng tạo tức thần hòa bình, màu xanh của Thần hủy diệt tức thần hóa sinh,
màu đỏ của thần phá hoại, ngược lại Thần bảo tồn, Nhứt Thế Chí Tôn là Phật, Nhị
Thế Chí Tôn là Pháp, Tam Thế Chí Tôn là Tăng, theo chiều chưởng giải ngôi Tăng
có Pháp, còn cơ thu liễm ngôi Pháp có Tăng, nên vạn vật tùng phép thu liễm ví
như cây cỏ bỏ dòi quấn ngọn cũng theo chiều thuận với định luật. Phật BRAHMA
cỡi con thiên nga day chánh tây đó là vị Thần Sáng Tạo mở đường đưa sanh chúng
về cung Đoài tức Cung Đạo chỗ trụ nguơn thần, tay hữu bắt ấn khai nguơn, một
ngón chỉ thiên biểu tượng lý Thái Cực, hai ngón cụng đầu với hình Châu Kỳ thể
hiện Vô Cực tương hòa có nghĩa là "Thái Cực nhi Vô Cực", tay tả nắm
bửu châu đưa trước ngực tức thị ấn pháp trấn linh thể Càn Khôn, cũng là trấn
điểm linh ở bản tâm của nhơn loại đó là vị hiện thân của Đức Chí Tôn.
Phật CHRISTNA mình trần
day chánh bắc, chơn đạp trên đầu rắn dữ tức thần hủy diệt dục tình không phải
giết mệnh, ngược lại thần hóa sinh Tiên Phật, nên những tư tưởng quấy ở con
người dấy lên sẽ bị ngự trị phần ai nộ ố dục của nhơn sanh để giữ còn cái nguơn
linh ở Thượng Đế, phật CHRISTNA cũng đứng trên Thất Đầu Xà như Hộ Pháp để trừ 4
cái nộc độc trong bản thân nhơn loại. Nhìn vào thực tại đấng đó cũng là hiện
thân của Hộ Pháp, nhưng thổi ống tiêu để thức tỉnh quần linh, day miệng ống đưa
sinh khí vào cung Chấn chánh đông tức là cung pháp nơi tụ nguơn thần.
Ống tiêu có bảy lỗ tượng
cho tổ khiếu thất tình, nếu con người khéo tu nó sinh thất bửu cũng thể hiện
cho thất khiếu sanh quang, nhưng đắc pháp rồi thần khí phục hồi mở được cửu khiếu
nhờ kết tụ tam diệu sẽ chiếu ngần ánh xá lợi. Nên Thích Lão định danh là Mâu Ni
Bửu Châu hoặc Thử Mễ Huyền Châu hay Cửu Khúc Minh Châu. Phật CIVA da đỏ mình
trần đứng day chánh nam, tay tả chống nạnh thể hình tam giác ở lý tam tài
Thiên, Địa, Nhân, tay hữu chống gươm với phép định địa, chơn phải đạp trên đầu
Giao Long để trừ cái dữ phô bày nơi mặt thế làm khổ chúng sanh, dầu mọi vật thể
đúng chu kỳ với định luật bị đào thải trở lại vật chất. Lẽ tất nhiên phần đó
phải có sanh hồn, như thế Thần Phá Hoại tức Thần Bảo Tồn là vậy. Thần CiVa có
bộ nhủ hoa là hiện thân của Phật Mẫu, nhưng phật Mẫu chính Đức Nguơn Thỉ với
hạnh huỳnh kỳ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét