Bước Đầu Học Đạo Dành cho Tân Tín Đồ Cao-Đài - 6 / 8 (HT. Nguyễn Văn Hồng)


Chương 15
PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
thời ĐẠI ÂN XÁ
I . Câu chuyện luyện đạo
Một bạn đạo thuộc đạo dòng, gia đình khá giả, làm nghề dạy học, nay con cái đã trưởng thành có nghề nghiệp ổn định, nên bạn có thời giờ sưu tập các kinh sách của Đạo để nghiên cứu và học tập.

Bạn muốn đi làm công quả nên thường đến Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu,
nhưng bạn nhận thấy ở đó không có việc làm nào thích hợp với khả năng của bạn,
và nhất là bạn thấy ở đó có nhiều người nhiều việc  làm cho bạn không hài lòng, đôi khi bạn không thể ngờ là có thể có những việc phàm tục như vậy xảy ra trong cửa Đạo.

Bạn nghĩ rằng, Thánh Thất là nơi thể hiện tình thương và sự hòa hợp, cho nên khi bước vào Thánh Thất, chúng ta thấy ngay bức họa “Tam Thánh Ký Hòa Ước” với bốn chữ “Bác Ái - Công Bình”, nhưng bạn ít khi thấy sự bác ái và công bình thể hiện rõ nét ở nơi đây. Hay bức họa nầy chỉ rằng, nơi đây là trường thi mà hai môn thi là : Bác ái và Công bình, để xem thí sinh ở đây ai đậu ai rớt.

Bạn rút về nhà nghiên cứu kinh sách. Bạn đọc qua các kinh sách của Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, rồi đọc vài quyển sách của chi phái Chiếu Minh, những Thánh giáo Sưu tập của các chi phái khác. Bạn vẫn còn nhiều thắc mắc chưa giải tỏa được, bạn bèn tìm đọc các sách của Tam giáo. Khi đọc sách Thiền Tông, bạn rất thích thú, nhưng cảm thấy khó quá ! Bạn đọc qua các sách Tiên giáo dạy về Tinh Khí Thần, bạn cảm thấy thích hạp hơn.

Bạn hỏi tôi : - Tại sao Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh có xây dựng các Tịnh Thất, mà sao không có tài liệu nào dạy cách luyện  đạo ?

Tôi đáp : - Tịnh Thất là phần hành của Đức Cao Thượng Phẩm HTĐ. Ngài qui Tiên quá sớm nên Ngài giao quyền lại cho Đức Phạm Hộ Pháp. Sau khi cất Tòa Thánh  xong, Đức Hộ Pháp lo xây dựng các Tịnh Thất. Đức Ngài đã cất được Trí Huệ Cung và Trí Giác Cung. Tuy đã cất được hai Cung, nhưng đó là để tạo phần căn bản cho sau nầy, chớ Đức Chí Tôn chưa cho Đức Hộ Pháp mở Bí pháp luyện đạo. Đó là vì còn trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn. Bạn đọc kỹ trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, không có chỗ nào Đức Chí Tôn cho phép tín đồ Cao Đài luyện đạo trong giai đoạn nầy, mà Đức Chí Tôn lại nói nhiều lần rằng : Chỉ có làm công quả phụng sự nhơn sanh thì mới đắc đạo. Xin trích Thánh Ngôn :

“ Trong các con, có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Đạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ  u nhàn mà ẩn thân luyện đạo. Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa đủ, nhơn sự chưa xong thì không thế nào các con luyện thành đặng đâu mà mong. Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi.” (TNHT hợp nhứt, B 108)

ĐĐTKPĐ là con đường ngắn nhất mà Đức Chí Tôn mở ra cho con cái của Ngài đắc đạo. Tuy nhiên, Đức Chí Tôn cũng không bắt buộc, tùy ý lựa chọn, muốn tu theo đường khác cũng được, miễn là giữ vững chánh tâm, đừng lầm theo đường tà quái. Ai thích đi đường vòng mà khuyên can không được thì cứ để họ đi, hơn là bắt buộc làm họ bất mãn mà sa vào vòng tà quái thì Đức Chí Tôn không đành lòng. Thà để cho họ tiến hóa chậm một chút còn hơn là để họ lọt vào tay tà quái mà bị thoái hóa thì rất uổng.

Bạn tôi hiểu biết hết các lẽ đó, nhưng dường như có một điều gì đó rất hấp dẫn, hạp với ước vọng của bạn tôi, khiến bạn tôi hướng về việc tu Thiền, mà lý do đầu tiên là để trấn an tinh thần, làm cho cái tâm bớt vọng động trước những diễn biến phức tạp của việc đời và việc Đạo.

Thời gian thấm thoát trôi qua chừng 3 năm, tôi có dịp gặp lại bạn, tôi hỏi bạn tu Thiền được 3 năm rồi, bạn đạt được những điều gì ?
Bạn cho biết nhờ đếm hơi thở, bạn định được cái tâm, gìn cái ý, khi ngồi thiền, có một luồng điện chạy rần rần trong xương sống từ xương cụt lên đỉnh đầu, làm cơ thể của bạn ấm lên, xuất mồ hôi, nhờ đó bạn trục các trược khí trong người thải ra ngoài, làm cơ thể của bạn không bịnh tật, khỏe mạnh luôn luôn.

Tôi nói : - Tôi đọc sách thấy : Nếu tu được một ngàn ngày thì có ấn chứng, sao bạn không có gì hết vậy ? . . . . .

Sau đó, bạn tôi chuyển qua luyện đạo theo Tiên giáo : luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hoàn Hư. Nhờ tu thiền 3 năm mà bạn tôi luyện Tinh hóa Khí của giai đoạn đầu, kết quả khá dễ dàng. Giai đoạn kế là luyện Khí hiệp Thần, bạn luyện hoài mà thấy không hiệp được. Bạn nghiên cứu lại các sách xem có bí quyết gì không, cuối cùng bạn cũng luyện được Khí hiệp Thần, bạn có thể xuất chơn thần của bạn ra khỏi thể xác. Cái chơn thần nầy có hình ảnh giống y như bạn, khi xuất ra thì ngồi kế bên bạn, không đi đâu được, bởi vì mỗi lần muốn đi thì dường như bị một sợi dây vô hình kéo lại, nếu muốn bứt mạnh để đi thì lực vô hình cũng giựt mạnh lại, làm cho chơn thần nhập mạnh trở lại vào thể xác.

Bạn nhứt quyết luyện cho chơn thần thoát đi được, nhưng liền đó có một giọng nói rất nhỏ nhưng rõ ràng rót vào tai bạn: “ Bao nhiêu món nợ oan nghiệt của ngươi từ nhiều kiếp trước tạo thành các sợi dây oan nghiệt buộc chặt chơn thần của ngươi vào thể xác, làm sao ngươi có thể bứt ra mà đi thoát được. Ngươi phải gỡ hết các mối dây oan nghiệt nầy bằng cách làm công quả phụng sự chúng sanh, để dùng công đức ấy mà hoá giải hết các oan nghiệt, lúc đó ngươi mới có thể thoát ra đi được.”

Thế là bạn tôi thức tỉnh, chấm dứt việc luyện đạo, trở lại đời sống bình thường, lo cúng kiếng và làm công quả, tham gia rất tích cực vào các hoạt động từ thiện do địa phương hay do Thánh Thất tổ chức.

Bạn tôi đã bỏ ra gần 6 năm trời để đi một vòng, rốt lại trở về chỗ cũ, bởi vì bạn không tin tưởng 100% vào Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn trong TNHT, phải để bạn chứng nghiệm rồi bạn mới tin, mà cũng may cho bạn vì bạn có căn lành nên vẫn giữ được chánh tâm, không bị sa vào tay tà quái, có Đấng thiêng liêng nhắc nhở, kịp thời trở lại con đường chánh đạo.

Nếu bạn đạo nào có lòng hám vọng lớn lao, muốn tu gấp để trở thành người có huyền pháp, để được người khác tôn sùng, đưa lên hàng lãnh đạo, thì tà quái sẽ nương theo hám vọng đó, nhập vào để dẫn đi. Lúc đó, muốn làm Tiên, nó sẽ cho làm Tiên; muốn làm Phật, nó sẽ cho làm Phật, vì các thứ ấy là giả mà tà quái dùng để chiều theo thị hiếu của người đời mà mê hoặc người đời, tới chừng thức tỉnh biết là giả thì đã quá muộn.

Chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối vào lời dạy bảo của Đức Chí Tôn và thực hành đúng theo đó, thì mới mong tâm linh tiến hóa nhanh chóng. Chúng ta chỉ có một cuộc đời, không thể đem ra mà thử nghiệm hoài cho được.

II . Đại Ân Xá là gì ?

Đại Ân Xá hay Đại Xá là Đức Chí Tôn ban ơn huệ lớn lao bằng cách tha thứ tội lỗi cho những kẻ có tội.

Kể từ ngày khai ĐĐTKPĐ, tức là khai Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn mở ra một thời kỳ Đại Ân Xá cho các đẳng linh hồn trong càn khôn thế giới và cho toàn cả chúng sanh, để chúng sanh tu hành dễ bề đắc đạo. Cho nên ĐĐTKPĐ cũng được gọi là Đại Ân Xá Kỳ Ba.

Muốn hưởng được sự ân xá nầy, mỗi người phải biết thành tâm hối lỗi, ăn năn sám hối tội tình, cải tà qui chánh, lập lời Minh Thệ, nhứt quyết  tu hành, lập công bồi đức. Những tội lỗi của họ đã chồng chất từ nhiều kiếp trước được Ơn Trên cất giữ lại (không đem ra trừng phạt) và cho họ làm một tân dân (người dân mới) trong cửa Đạo, nhờ vậy người nhập môn hành đạo rảnh nợ tiền khiên, chỉ lo trau giồi Đạo hạnh, lập công bồi đức, để sau cùng lấy công đức trừ dứt tội tình, thì có thể đắc đạo trong một kiếp tu.

Ngày khai Đạo Cao Đài là ngày 15-10-Bính Dần (1926) là ngày khởi đầu thời Đại Ân Xá Kỳ Ba.

Đức Chí Tôn ban cho nhơn loại các đặc ân sau đây :
1 . Tha thứ tội lỗi ở các kiếp trước của những người biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu đạo, lập Minh Thệ với Đức Chí Tôn, nhứt tâm tu hành. Cho nên trong Kinh Giải Oan (KGO) và Kinh Cầu Bà con Thân bằng Cố hữu đã qui liễu (KCBCTBCHĐQL) có các câu sau đây :
May đặng gặp hồng ân chan rưới,
Giải trái oan sạch tội tiền khiên. (KGO)
Chí Tôn xá tội giải oan,
Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ căn.
Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
                                                              (KCBCTBCHĐQL)

2 . Đức Chí Tôn đặc ân cho các tín đồ Cao Đài, khi chết, linh hồn được Cửu vị Tiên Nương hướng dẫn đi lên 9 từng Trời của Cửu Trùng Thiên, mỗi nơi đều được quan sát các cảnh Trời đẹp đẽ mà dưới thế gian không bao giờ có, đến bái kiến các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, đến Minh Cảnh Đài để xem xét tất cả hành vi thiện ác của mình đã gây ra trong suốt kiếp sống nơi cõi trần, đến DTC ở từng Trời Tạo Hóa Thiên để bái kiến Đức Phật Mẫu, rồi tiếp tục đi lên Ngọc Hư Cung bái kiến Đức Chí Tôn để cây Cân công bình thiêng liêng của Tòa Tam Giáo cân tội phước.

Phước nhiều thì được phong thưởng bằng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng. Nếu tội nhiều thì bị đưa đến cõi Âm Quang, vô Tịnh Tâm Xá mà định tâm tịnh trí xét mình, cầu nguyện Đức Chí Tôn độ rỗi. Tại đây có Thất Nương DTC giáo hóa các nữ tội hồn và Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các nam tội hồn.

3 . Đức Chí Tôn cho đóng cửa Địa ngục. Các tội hồn không còn bị hành hình thảm khốc nơi Địa ngục như trước nữa, mà được đưa đến cõi Âm Quang để học Đạo, cầu khẩn Đức Chí Tôn cứu rỗi, chờ ngày tái kiếp trở lại cõi trần để trả cho xong nghiệp quả.

4 . Đức Chí Tôn cho mở cửa Cực Lạc Thế Giới để rước những người đầy đủ công đức đắc đạo. Nếu người nào quyết chí tu hành, chỉ trong một kiếp tu cũng có thể đắc đạo. “ Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại trong càn khôn thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng.”
Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương. (KGO)

5 . Những người bị tội Tận đọa Tam đồ bất năng thoát tục được ân xá, những người bị tội Ngũ Lôi tru diệt, cũng nhờ Đại Ân Xá nầy mà được Đức Phật Mẫu huờn lại chơn thần, tất cả đều đặng tái kiếp lập công chuộc tội.

Thời kỳ Đại Ân Xá không phải kéo dài đến thất ức niên (700 000 năm) mà chỉ được giới hạn trong khoảng thời gian từ ngày Khai Đạo cho đến khi Đức Di-Lạc Vương Phật mở Đại Hội Long Hoa là chấm dứt, vì đã bước vào một thời kỳ tiến hóa khác của nhơn loại.

Chúng ta hôm nay gặp Đạo Cao Đài, được làm môn đệ của Thượng Đế, là một duyên may ngàn năm một thuở, nếu không mau mau bước chân vào cửa Đạo lo việc tu hành, lập công bồi đức, cứ để dần dà ngày tháng trôi qua, có mong chi đắc đạo  trở về ngôi vị cũ.

III . Hai giai đoạn tu hành

Trong công việc tu hành, phải trải qua 2 giai đoạn:
-  Giai đoạn làm công quả.
-  Giai đoạn luyện đạo.

1 .  Giai đoạn làm công quả.
Làm công quả là làm tất cả công việc có tính cách giúp người giúp đời mà không nhận sự đền đáp bằng tiền bạc hay vật chất nơi cõi trần nầy, mà chỉ mong nhận được kết quả tốt đẹp cho phần linh hồn nơi cõi thiêng liêng.

Trong việc công quả nầy, trước hết là phải lo phổ độ nhơn sanh bỏ ác theo lành, nhập môn vào Đạo, và tiếp theo là lo giúp đỡ nhơn sanh về đời sống vật chất và tinh thần, gọi chung là phụng sự nhơn sanh. Giai đoạn làm công quả nầy còn được gọi là : Ngoại giáo công truyền.

Chúng ta tùy theo khả năng và sở thích, có thể lựa một trong ba cơ quan để làm công quả sau đây :
a) Cửu Trùng Đài :
Chúng ta làm công quả đi từ phẩm thấp nhất là Đạo hữu, lần lần lên Chức việc Bàn Trị Sự. Khi đủ công nghiệp thì cầu phong lên hàng Lễ Sanh, rồi tiếp tục làm công quả để tiến lên hàng Thánh thể của Đức Chí Tôn, sau cùng được thăng lên các phẩm cao cấp là : Đầu Sư, Chưởng Pháp, đứng vào Tiên vị. Làm công quả để tiến hóa như vậy gọi là đi theo phẩm trật Cửu phẩm Thần Tiên hay Cửu Thiên Khai Hóa. Trong số các Chức sắc tiền bối, Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh (1906-1985) đã làm công quả trong hơn 30 năm, đi từ phẩm Đạo hữu, rồi Chánh Trị Sự và sau cùng lên tới phẩm Đầu Sư.

b) Hiệp Thiên Đài :
Nếu chúng ta muốn làm công quả nơi HTĐ thì phải thi tuyển vào phẩm Luật Sự của Bộ Pháp Chánh, rồi dần dần lập công, thăng lên phẩm Sĩ Tải, đi hết 7 phẩm cấp của Bộ Pháp Chánh là đến Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, sau cùng có thể tiến lên phẩm vị Thời Quân khi có công phổ độ một nước, và được ân phong đặc biệt của Đức Chí Tôn.

c) Cơ Quan Phước Thiện :
Nếu muốn lập công nơi CQPT, chúng ta phải xin giấy chứng nhận do Bàn Trị Sự và Tộc Đạo nơi mình ở cấp cho, rồi nạp hồ sơ vào cơ sở Phước Thiện mà mình muốn lập công, làm Tờ Hiến Thân vào Hội Thánh Phước Thiện.

Người mới vào làm công quả nơi cơ sở lương điền hay công nghệ của CQPT thì gọi là Đạo sở. Sau thời gian 6 tháng thì được vào Minh Đức, là phẩm thấp nhứt trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của CQPT. Làm công quả nơi CQPT gọi là tiến hóa theo Thập nhị đẳng cấp th. liêng.
* Ngoài ra những vị Đạo hữu nào có tay nghề chuyên môn đặc biệt như nghề đờn, nghề xây dựng, . . . thì có thể xin lập công quả nơi các cơ quan chuyên môn của Đạo như : Bộ Nhạc Lễ, Ban Kiến Trúc, vv. . . .

2.  Giai đoạn tu luyện.
Khi đã lập công bồi đức đầy đủ rồi thì mới được tuyển vào Tịnh Thất, có Tịnh chủ dạy cho luyện đạo.
Trong phép luyện đạo của Đạo Cao Đài, Tịnh chủ dạy cho cách luyện Tam bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt, để được Tam hoa tụ đảnh, Ngũ khí triều nguơn, tạo được chơn thần huyền diệu, có thể xuất nhập thể xác tùy ý mà vân du đến các cõi thiêng liêng. Ấy là đắc đạo tại thế.
Nhưng làm sao biết được có công đức đầy đủ ?
Đức Phạm Hộ Pháp giải thích : “ Trước khi vào tịnh thì phải có đủ Tam Lập : Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn.
Nơi cửa Đạo đặt ra việc chi đều hữu ích cả, mượn Thể Pháp tượng trưng mới đoạt Bí Pháp. Trước kia Bần đạo Lập Phạm Môn tại Tòa Thánh tượng trưng cửa Phật độ sanh hồn, tức nhiên gọi Phật; Minh Thiện Đàn mở tại Khổ Hiền Trang, Bần đạo khai Thể Pháp tại đó, gọi là Pháp, Phước Thiện ngày nay đã ra thiệt hiện, tức nhiên ra mặt xã hội, gọi là Tăng, thì nó sẽ bành trướng vận chuyển lưu hành cùng khắp xã hội nhơn quần, nghĩa là phải phụng sự toàn thể chúng sanh, tế khổ phò nguy, đi Đầu Họ Đầu Quận làm hậu thuẫn cho Hội Thánh CTĐ, lo cơ tận độ, chỉ có công phổ độ mới giải quả tiền khiên. Ai không xuất thân hành đạo, tức là không có công phổ độ thì không vào tịnh được, vì không đủ Tam Lập.

Trước khi xin vào, phải nạp tất cả giấy tờ hành đạo, lai lịch từ thuở nhỏ đến trưởng thành, ở ngoài Đời không án tiết, trong cửa Đạo cũng vậy, trọn tùng luật pháp Đạo và trường trai mới được, rồi giao cho Pháp Chánh minh tra về Thể Pháp đủ bằng chứng.

Chi Pháp phải giữ hồ sơ của mỗi người, còn nhiều điều trọng yếu về vô vi, không thế gì Chi Pháp biết đặng, chiếu văn kiện thì đầy đủ lắm vậy, Chi Pháp chỉ biết văn bằng hiện hữu về mặt hữu hình mà thôi.

Khi minh tra đủ lẽ, mới giao cho Hộ Pháp cân thần, nếu vị nào đủ Tam Lập thì vào tịnh được, bằng thiếu thì trở lại đi Đầu Họ, Đầu Quận, đi hành đạo nữa.

Nói rõ là phải có Hộ Pháp trục thần khai khiếu mới biết đặng đủ hay thiếu Tam Lập, còn không thì ngồi tịnh, bụng lớn vô ích.” (Trích Diễn Văn và Thuyết đạo ĐHP trang 163)
Chú thích : CÂN THẦN : Cân thần là Đức Hộ Pháp trục chơn thần của một vị công quả để Đức Ngài dùng cặp mắt thiêng liêng xem xét tánh chất của vị công quả đó. Có tất cả 12 tánh chất :
1 . Hạnh            4. Lực                7. Thân         10. Căn
2 . Đức              5. Tinh               8. Tín            11. Kiếp
3 . Trí                   6. Thần               9. Mạng        12. Số.

Đức Hộ Pháp chỉ cần 4 tánh chất đầu. Thí dụ nếu có được :
1 . Hạnh : 5 điểm.         3. Trí  :  4 điểm.
2 . Đức   : 6 điểm.         4. Lực : 7 điểm.
Tổng cộng : 22 điểm, chia 4 để lấy trung bình = 5,5 điểm.

Như vậy là đậu, tức là xem như “đủ Tam lập”.
Giai đoạn học Bí pháp luyện đạo trong Tịnh Thất còn được gọi là : Nội giáo vô vi, hay Tâm pháp bí truyền.

IV . Phương pháp tu hành thời Đại Ân Xá

Tuy Đức Phạm Hộ Pháp đã dự bị Tịnh Thất để lo về phần luyện đạo, nhưng trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn, Đức Chí Tôn miễn cho phần luyện đạo, nghĩa là : các môn đệ của Đức Chí Tôn chỉ lo làm công quả, phụng sự nhơn sanh, đến khi thoát xác thì Đức Chí Tôn sẽ căn cứ trên Bộ Công quả của mỗi người (do chư Thần, Thánh biên chép) mà Đức Chí Tôn sẽ ban những phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng.

Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn :
“ Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc đạo phải có công quả. Thầy  đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ.”  (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 17)

Tuy Đức Chí Tôn không nói trắng ra là bỏ môn luyện đạo, nhưng Đức Chí Tôn cấm chúng ta luyện đạo, và lập một trường thi công quả cho chúng ta đắc đạo. Điều nầy đã quá rõ rồi. Cho nên, nếu trong chúng ta có người còn lo ngồi thiền luyện đạo trong thời kỳ Đại Ân Xá nầy thì chỉ mất thời giờ quí báu của đời sống một cách vô ích.

Tùy theo công quả nhiều ít mà Đức Chí Tôn lập ra 4 cấp giải thưởng : Thần, Thánh, Tiên, Phật. Công quả càng nhiều thì phẩm vị càng cao.

Trong thời kỳ nầy, khi chúng ta lo làm công quả phụng sự nhơn sanh thì giống y như là chúng ta ký hợp đồng làm mướn cho Đức Chí Tôn, không phải để lấy tiền, mà là để đổi lấy phẩm vị thiêng liêng, bằng cách phụng sự các con cái của Người về tất cả các phương diện : đời sống vật chất, tinh thần và linh hồn.

Nhưng điều quan trọng trước tiên là phải tìm cách phổ độ, đem con cái của Người từ đường dữ trở lại đường lành, nhập môn vào cửa Đạo, ăn chay hành thiện.

- Về Đời sống vật chất: Đói phải cho ăn, rách phải cho mặc, lạnh phải cho mùng mền, bịnh phải cho thuốc, . . vv . . . Đó là việc làm của các vị công quả trong CQPT.

- Tinh thần đau khổ, buồn chán, thì phải có người  an ủi, vỗ về, giải thích cho biết con người nơi cõi trần phải chịu trong vòng Tứ Khổ và lẽ luân hồi quả báo, cố gắng vượt qua để rồi sẽ gặp điều vui sướng tốt đẹp. Đó là công việc giáo hóa của các Chức sắc CTĐ.

Hai phần trên gọi là Độ Sanh, tức là cứu giúp về phần đời sống của thể xác, đến khi chết còn phải Độ Tử nữa, tức là cứu giúp phần linh hồn.

- Khi nhơn sanh có người chết thì Bàn Trị Sự hương  đạo và bổn đạo làm công quả phải lo kinh kệ độ hồn, cầu siêu, làm các phép bí tích, vv . . . rồi phải lo chôn cất, xong rồi phải làm Tuần cửu, Tiểu tường và Đại tường mãn tang.

Lo cho các con cái của Đức Chí Tôn được như vậy mới là trọn vẹn, và chắc chắn Đức Chí Tôn sẽ trả công cho chúng ta rất xứng đáng.

V . Cách lập Thiên vị : tu Tam lập

Thiên vị là phẩm vị nơi cõi Trời, tức là phẩm vị nơi cõi thiêng liêng hằng sống.

Tam lập là ba điều lập nên, không bao giờ hư hoại, nên được gọi là Tam bất hủ, được truyền mãi về sau.
“ Con người sanh ra trên mặt địa cầu nầy mà không có Tam lập (Lập đức, Lập công, Lập ngôn) thì giá trị con người không có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã hội nhơn quần được.

Nếu con người không có Đức thì làm sao xử sự trong gia đình và ngoài xã hội đặng.
Người không có Công thì ở với ai cũng không được. Người ta làm ngã ngửa, còn mình ngồi đó hả họng hưởng, không làm gì có nghĩa với người, với đời thì sống với ai ?

Cũng như người ta chơn chất thật thà, hiền lương đạo đức, còn mình thì xảo ngữ, lường gạt, không chút dạ nhơn từ, thì dầu cho người có tài tình đến mấy mà thiếu ba điều đó thì không thể gì sống với ai được hết, như vậy thì địa vị mình tại mặt thế nầy chưa rồi. “ (TĐ.ĐPHP)

Muốn lập phẩm vị cho mình nơi cõi thiêng liêng trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn thì chúng ta phải tu Tam lập. Đức Chí Tôn đã miễn cho môn luyện đạo, nên người tín đồ Cao Đài chỉ cần đủ Tam Lập là đắc đạo.

 Sau khi chấm dứt thời kỳ Đại Ân Xá, tín đồ có đủ Tam Lập phải vô Tịnh Thất luyện đạo thì mới đắc đạo.

Trong Tam Lập, ba Lập ấy tương quan mật thiết với nhau, khó tách rời ra được, vì nếu tách riêng ra thì không thể thi hành. Cho nên, khi nói Lập đức hay nói Lập công thì chúng ta ta ngầm hiểu là phải bao gồm cả Tam lập.

Trong bài Kinh Tụng Cha Mẹ đã qui liễu, có câu :
Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

Chữ Lập đức trong câu kinh nầy, chúng ta phải hiểu bao gồm cả Tam lập : lập đức, lập công, lập ngôn.
Câu kinh trên cho chúng ta biết rằng, một người dù nam hay nữ, nếu quyết chí tu hành, phế bỏ việc đời, hiến thân hành đạo, miệt mài lập đức bồi công, thì nhứt định sẽ cứu được Cửu Huyền Thất Tổ và cứu được cả linh hồn của cha mẹ thoát khỏi cảnh đọa đày và được siêu thăng lên cõi thiêng liêng hằng sống.

Có ba chứng minh sau đây của ba vị : - Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, - Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, - Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu.

1 - Bài Thánh ngôn Đức Chí Tôn dạy Bà Hương Hiếu đi hành đạo, ngày 7-giêng-Bính Dần (1926) :
“ Đức Chí Tôn dạy Bà Hương Hiếu đi hành đạo, phổ độ nhơn sanh. Bà Hương Hiếu bạch với Thầy rằng :
-  Má con mắc ở xa, làm sao con đi độ được ?
Thầy : - Hiếu ! Con biết một lòng tu niệm đạo đức của con đủ cứu Cửu Huyền Thất Tổ rồi, huống là mẹ con, để Thầy định đoạt, con đừng lo buồn.”  (Trích  ĐS. I. 36)

2 - Trong một đàn cơ, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung hỏi Bát Nương :
- Bát Nương vui lòng cho biết : Thân phụ và thân mẫu của Qua có được siêu thăng không ?  Giờ đây ở đâu ?
Bát Nương đáp : - Em chỉ nói bằng thơ, nếu anh giảng trúng thì nói nữa, còn trật thì lui.
Đức Quyền Giáo Tông năn nỉ : - Nếu Qua nói trật thì Em thương tình mà chỉ dẫn để cho Qua học thêm với.
Bát Nương nói :
Bạch Y Quan nay sanh Cực Lạc,
  phụ  cùng  bá mẫu đặng an.

Đức Quyền Giáo Tông nói :
- Như vậy là thân phụ và thân mẫu của Qua trước ở cõi Bạch Y Quan, nay đã sang ở yên nơi Cực Lạc Thế Giới.
- Đúng đó, ấy là nhờ công tu luyện của anh nên bá phụ và bá mẫu siêu thăng nơi Cực Lạc.
3 - Thân mẫu của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu xin phép Đức Chí Tôn giáng cơ để tỏ cho Ngài Hậu biết, nhờ công quả của Ngài mà Bà được siêu thăng lên Đông Đại Bộ Châu.

Ngày 19-2-1929 (âl 10-1-Kỷ Tỵ).  Phò loan : Bảo Pháp-Hiến Pháp.
Mẹ mừng con, Mẹ cám ơn con đó.
Con đâu rõ đặng, ngày nay Mẹ nhờ công con mà đặng thăng cấp. Nay Mẹ đặng vào Đông Đại Bộ Châu. Ấy cũng nhờ ơn của Chí Tôn rất thương mà cho Mẹ vào phẩm ấy. Mẹ chẳng biết lấy chi mà thông công cho hai con và các cháu, nên mới dụng huyền diệu mà Mẹ đã cầu xin Chí Tôn ban cho Mẹ đặng cho con cùng cháu hay rằng, Đức Chí Tôn đã giữ lời hứa cùng con. Nay Mẹ đến khuyên hai con khá lo sao cho tròn phận sự, ngày thêm vun đắp nền Đạo đặng báo đáp Ơn Trên đã hết lòng vì cả nhà ta. Nếu con có lòng ấy thì Mẹ rất vui lòng đó, con hiểu...
Mẹ rất vui thấy lòng con nên Mẹ mới xin phép Chí Tôn đến đây tỏ ít lời cho con hiểu. Vậy con khá an lòng mà lo Đạo, chớ nên vì việc nhỏ mà nao chí nghe !
Tôi chào nhị vị Thánh (nói với Nghĩa và bác vật Lang). Tôi chẳng biết lấy chi cám cảnh cho bằng dùng vài lời nhắc đây : Xin nhị vị khá hết lòng lo hiệp tác mà nâng cao địa vị mình càng ngày cho tột phẩm.

Tôi đây chẳng chi xứng phận mà cũng nhờ ơn Chí Tôn thương tưởng thay ! Ấy cũng nhờ sức con mới đặng vậy, không thì biết sao mà kể xiết.

Ấy đó, công của nhị vị càng dày thì Chí Tôn càng yêu dấu. Xin khá để hết tâm chí mà hành phận sự. Ấy là lời tôi xin nhị vị khá để ý.  (Hỏi về việc ông thân tôi, Ngài Bảo Pháp hỏi.)
- Mẹ không dám nói. Thôi Mẹ lui.
(Trích Thánh Ngôn chép tay của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu)

Ba câu chuyện của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu đã minh chứng câu : “ Nhứt nhơn đắc đạo Cửu Huyền thăng.” (một người tu hành đắc đạo thì Cửu Huyền Thất Tổ của người đó đều được siêu thăng).
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng giải về Tam Lập,  trích ra sau đây :
" - Mình học để biết Đạo là Lập Đức, nói Đạo cho thân tộc mình biết là Lập Công, độ toàn nhơn loại là Lập Ngôn. Có làm đủ ba điểm đó mới về được với Đức Chí Tôn bằng con đường Cửu Thiên Khai Hóa."
" - Lập Đức thì phải nhớ đạo lý. Lập Công thì phụng sự nhơn sanh. Lập Ngôn thì để hết trí óc tìm hiểu về triết học tinh thần, tìm tòi mọi lẽ cao sâu để thuyết minh Chánh giáo."
" - Phương pháp Tam Lập, nói rõ ra là chỉ đem mảnh thân nầy làm tế vật cho Đức Chí Tôn đặng phụng sự nhơn loại. Nếu giải rõ rất nhiều chi tiết, để có dịp Bần đạo sẽ thuyết minh hoặc viết sách in ra cho học hỏi."
" Còn mấy em đây là trung phẩm chi nhơn, giáo nhi hậu thiện, mấy em tạo thiện đức được là biết nghe lời Hội Thánh. Người ta có tài thì làm việc hay, còn mình dở thì làm việc thường.

Bần đạo tỉ dụ một việc thường để cho mấy em dễ hiểu. Phận mình dốt thì làm theo dốt. Muốn tạo thiện đức, thiện công, thiện ngôn, là như vầy :

Mình nghe đâu có cất chùa, thì mình tự tính đi đến đó xin làm công quả. Mình nghe đâu đó bị tai nạn khốn khổ thì trong đêm ấy nằm tính và thương xót, nghe chỗ đó bị tai nạn, mình định sáng ngày mai, rủ anh em hay tự mình đi, dầu sáng ngày tằm sắp chín hoặc có mối lợi gì đó cũng bỏ đi, để đến trợ giúp tai nạn. Đó là thiện đức, nghĩa là khi mình tính.

Khi đến, mình nói như vầy: “Thưa anh, tôi nghe anh bị tai nạn, tôi đến để xin phép giúp anh một ngày, hoặc là vác một cái cây, hoặc giúp một đồng bạc, vậy thì anh vui lòng cho tôi giúp với một nghĩa mọn.” Khi mình nói là Thiện ngôn, khi mình làm là Thiện công. Chớ không phải ỷ có tiền rồi nói sổ sàng: “Đây tôi cho anh một đồng mua gạo ăn đỡ đói.” Như vậy là chưa Thiện ngôn.

Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài, trong buổi đầu là thời kỳ Đại Ân Xá, nên Đức Chí Tôn lập một trường thi công quả (hay trường thi công đức) cho nhơn sanh đắc đạo. Đức Chí Tôn miễn cho môn thi luyện đạo vì môn nầy rất khó, chỉ cần có đủ công quả là Đức Chí Tôn cho đắc đạo.

Việc lập công quả hay công đức là thuộc về Tam Lập, vì Lập đức, Lập công và Lập ngôn gắn liền nhau, không thể tách rời ra từng phần được. Do đó, thi Lập công quả hay thi Lập công đức chính là thi Tam Lập.

Người tín đồ Cao Đài là những sĩ tử tham dự kỳ thi nầy, nên cần phải luyện tập ba môn thi nói trên cho hay cho giỏi. Làm bài trúng, được điểm cao, được chấm đậu thì Đức Chí Tôn ban thưởng cho các phẩm vị tương xứng.

Nếu các sĩ tử không lo rèn luyện các môn thi chánh thức nầy, lại xem thường nó, rồi rèn luyện các môn khác không sử dụng trong kỳ thi như môn Luyện đạo, thì rất uổng phí thời gian cho một kiếp sanh may duyên gặp Đạo.

Trong kiếp sanh nầy, muốn đắc đạo tức là thi đậu thì phải lo học tập và thực hành Tam Lập. Việc nầy cũng rất khó khăn, nhưng không phải không làm được, muốn thực hiện thì phải có một quyết tâm lớn, một ý chí kiên cường nhẫn nại và một tấm lòng hy sinh.
- Quyết tâm là để không lùi bước trước khó khăn, vượt qua các thử thách do bọn Tà quyền gây nên.
- Ý chí kiên cường nhẫn nại là để thắng dục vọng thấp kém, tình cảm yếu hèn của mình, kềm hãm lục dục thất tình, hướng chúng vào đường cao thượng.
- Lòng hy sinh là để thắng cái Ta hẹp hòi ích kỷ. Hy sinh là để hiến dâng tất cả những gì quí báu của đời mình cho Đạo pháp, cho nhơn sanh. Sự hy sinh đó sẽ làm dứt hết các phiền não, đem lại cho tâm hồn sự an lạc nhẹ nhàng.

TNHT:  ĐĐTKPĐ chẳng khác chi một trường thi công quả. Nếu biết ăn năn trở bước lại con đường sáng sủa, giồi tâm, trau đức, đặng đến hội diện cùng Thầy thì mới đạt đặng địa vị thanh cao trong buổi chung qui đó. (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 48)

VI . - Lập Đức * Lập Công * Lập Ngôn
1) . Lập Đức
Nói riêng về việc Lập đức, trong Đạo Cao Đài, muốn lập đức cho được trọn vẹn thì phải theo con đường Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện.

Trong Con Đường thiêng liêng hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng giải như sau :
“ Lập vị mình theo Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, tức là theo Hội Thánh Phước Thiện. Nơi đây, ngoài việc ăn chay, giữ gìn luật đạo, tùng theo chơn pháp của Đức Chí Tôn, còn phải dùng đức để lập vị mình.
Muốn lập đức, phải đi từ Minh Đức, Tân Dân, Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Chí Thiện, vv. . .
Lập đức là gì ? là dùng sự thương yêu để cứu độ chúng sanh, mà Đức Chí Tôn đã có nói : “ Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh”.
Các đẳng chơn hồn tái kiếp đang chơi vơi trong Tứ Khổ. Muốn thoát khổ, họ phải thọ khổ, có thọ khổ mới thắng khổ. Người tu đi theo Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng là dạy người ta thọ khổ để thắng khổ. Muốn dạy người ta thọ khổ, trước hết mình phải thọ khổ đã. Muốn thọ khổ thì không gì hay hơn là dùng đức thương yêu. Cho nên bậc thứ nhứt của Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng là Minh Đức. Có thương yêu mới thọ khổ được. Ta thương cha mẹ ta, ta mới chịu khổ mà bảo dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, ta thương con ta, ta mới lo tảo lo tần nuôi nó khôn lớn, ta thương những người cô thế tật nguyền, ta mới tầm phương giúp đỡ họ, mà tầm phương giúp đỡ họ là thọ khổ đó vậy.

Thọ khổ rồi mới thắng khổ. Thọ khổ không phải một ngày một bữa, mà phải thọ đến nơi đến chốn, nghĩa là nuôi cha mẹ cho đến tuổi già, lo cho con từ bé cho tới lúc nó tự lo cho nó được. Hai điều đó còn dễ, đến lo cho thiên hạ hết khổ mới khó, vì khi lo cho người nầy thì lại đến người khác, và cứ như vậy, trọn kiếp sanh mới gọi là thắng khổ.
Có thắng khổ mới về được với Đức Chí Tôn bằng con đường Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng.”

 Có học mới biết phương Lập đức. Đức có Đại đức và Tiểu đức. Đại đức như nước biển cả, thấm đều khắp muôn vật. Tiểu đức như nước trong ao, thấm có giới hạn. Tiểu đức chỉ cảm hóa ít người; Đại đức bao trùm cả thiên hạ.
Muốn Lập đức thì nên lấy bố thí làm phương tiện.
Bố thí gồm : thí tài, thí công, thí ngôn, thí pháp.
. Thí tài là đem tiền của ra giúp khó trợ nghèo.
. Thí công là đem sức lực ra làm việc giúp người.
. Thí ngôn là đem lời nói mà giúp ý kiến hay cho người để giải quyết những khó khăn của người.
. Thí pháp là đem lẽ Đạo thuyết minh để cảm hóa, giáo dục người trở nên lành. Những cách bố thí trên, chỉ có Thí pháp là có nhiều công đức hơn cả.

Giúp người đói, giúp người hết khổ hay thoát khỏi tai nạn, cũng chỉ qua một thuở mà thôi, duy chỉ có đem đạo lý ra hóa độ người dữ ra hiền, người mê muội ra giác ngộ, lo  tu hành để thoát vòng sinh tử luân hồi thì công đức ấy đời đời chẳng mất.

Lập đức phải đứng trên quan điểm VÔ NGÃ, tức là quên mình mà lo cho người, chẳng cầu người trả, chẳng nghĩ đó là công đức do ta làm.
Muốn lập đức trên phương diện Thí pháp, cần phải có quyết tâm lớn trên đường tu học. Phải học cho thông, phải hiểu cho rành, quán thông từ Nhơn đạo đến Thiên đạo. Phải cầu bậc cao minh mà thọ giáo. Chớ nên tự mãn, mới học nhom nhem nửa câu mà tự cho rằng mình biết hết, rồi đem cái biết thô thiển đó truyền thụ cho người thì tai hại vô cùng, không lập đức được mà lại còn tổn đức.

Ngày nào học thông chánh lý, lòng thông suốt, trí hiểu rành, chẳng còn gì trái với chơn ý của Thánh nhân, ấy là thể theo Thánh nhân mà nói lại lời của Thánh nhân.

Nếu là kẻ mê tín thì ta lấy Chánh tín mà độ họ; nếu là kẻ tư dục thì ta đem công lý giải bày; nếu là kẻ tham lam thì ta đem việc Thí tài mà giảng giải; nếu là kẻ sân hận thì ta đem pháp nhẫn nhục mà độ; nếu gặp kẻ chẳng may lạc vào Tả đạo Bàng môn thì ta đem Chánh đạo mà khai hóa; nếu là người si mê thì ta đem Chánh lý mà mở mang trí tuệ cho họ.

Giáo dục có nhiều phương pháp, phải tùy duyên mà hóa độ, tùy bệnh mà lập phương trị liệu, bệnh nào thuốc nấy. Chữa bệnh về thân xác thì có lương y; chữa bệnh về Tâm thì chỉ có Thánh nhân. Thánh nhân chữa cả Tâm lẫn thân, thân tâm hiệp trị. Nếu thân chưa trị thì Tâm khó trị. Vì vậy nên thân Tâm phải hiệp trị.

Khi lập đức thì phải lập từ đức nhỏ đến đức lớn.
Đức nhỏ là hóa độ người trong nhà. Đức lớn là cảm hóa nhiều người trong thiên hạ. Đức lớn là đức của bậc Thánh nhân, đức nhỏ là đức của bậc Sĩ, bậc Hiền.

Đức lớn sáng soi khắp Trời Đất, chói lọi như ánh Thái dương, nên gọi là Minh Minh Đức. Có Minh Minh Đức mới xây dựng được một thế hệ tươi đẹp, mới đào tạo được giống dân mới gọi là Tân Dân. Tân Dân cũng là thân dân, là thương người như thương mình hay như thương người thân của mình. Vua Nghiêu hằng nói với quần thần : “ Các Khanh hãy thương yêu dân như thương yêu Trẫm, dân đói là Trẫm đói, dân rét là Trẫm rét.”

Như vậy, đời sao không thạnh trị ?  Quần thần khi nghe lời nói của Đấng Minh quân như thế thì ai mà chẳng xúc động. Toàn thể quốc dân nghe được lời nói của vua như thế thì ai mà chẳng động lòng. Động lòng vì Đức cả, Nhân lớn, nên cả thảy đều lo tích Đức tu Nhân, mọi người đều no cơm ấm áo. Chẳng còn nghèo, chẳng còn đói, thì đâu còn cảnh trộm cướp, mà chỉ đua nhau làm Nhân, làm Nghĩa, nên nhà nhà  không đóng cửa, ngoài đường không ai lượm của rơi, người người thảnh thơi mà an hưởng cảnh thanh bình trời Nghiêu đất Thuấn.

2) . Lập Công :
Lập Công là đem sức lực và sự hiểu biết của mình ra làm việc phụng sự nhơn sanh.
Việc Lập Công chia làm 3 phần : Công phu, Công quả, Công trình.
Phần Công quả là quan trọng hơn cả, vì Đức Chí Tôn có nói nhiều lần rằng : Đức Chí Tôn mở ĐĐTKPĐ là lập một trường thi công quả cho nhơn sanh đắc đạo. Đắc đạo cùng chăng là do công quả. Muốn làm giàu thì phải tìm cách làm ra của cải cho nhiều, muốn làm Tiên Phật thì phải có công quả.

Công quả muốn được chánh danh và đúng nghĩa thì phải là công quả xuất phát từ lòng tự giác tự nguyện, thiết tha với nó, xem nó là nguồn sống,là mục đích của đời mình.

Mỗi người tùy theo khả năng chuyên môn mà làm công quả. Trong đạo có biết bao nhiêu công việc, đủ mọi ngành nghề, đủ mọi trình độ, từ lao động trí thức cho đến lao động chân tay, ai có sở trường trong công việc nào thì xin vào làm công việc đó cho đạt được mau chóng nhiều kết quả tốt đẹp.

TNHT: " Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào có trí lực bao nhiêu, khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng cái điểm linh quang của Thầy ban cho các con lắm." (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 74)

Và Đức Chí Tôn cũng có hứa rằng : " Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần."
Hành đạo nơi CTĐ chủ yếu là Lập công để lập Thiên vị của mình nơi cõi thiêng liêng. Muốn Lập công cho kết quả mỹ mãn, người tín đồ cần lưu ý các điều sau đây :

- Thứ nhứt, tự rèn luyện khả năng hiểu biết đạo lý để dẫn dắt người chưa biết đạo hay chưa hiểu đạo đi vào con đường đạo đức như mình. Đó là tự giác nhi giác tha, tức là mình tự giác ngộ lấy mình rồi sau giác ngộ người khác.

- Thứ nhì, phải gìn giữ sức khỏe cho được tráng  kiện, dẽo dai, để làm điều thiện không mệt mỏi, phụng sự Đạo và nhơn sanh không ngừng nghỉ và đắc lực.

Nếu đau ốm liên miên, chẳng những mình không lập công được mà lại để cho nhơn sanh giúp lại mình, tự nhiên mình phải mất phần công đức hay mang nợ nhơn sanh.

1 . Công phu : Phần Công phu gồm hai việc :
- Học tập kinh sách để thông hiểu giáo lý và luật pháp của Đạo.
- Cúng Đức Chí Tôn vào Tứ thời : Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu.

a. Học tập kinh sách  Đạo :
.  Kinh thì có Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.
. Luật thì có Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Bát Đạo Nghị Định, Đạo Luật năm Mậu Dần, Luật Hội Thánh.
. Giáo lý thì có các sách : TNHT 1 và 2, Thánh Ngôn Sưu tập, Thuyết Đạo của Đức Phạm Hộ Pháp, Giáo lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng, Thiên Đạo của Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, Chánh Trị Đạo của Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, vv. . .
Việc học tập kinh sách có mục đích mở mang thể Trí của tín đồ.

b . Cúng Đức Chí Tôn vào Tứ thời :
Chúng ta cố gắng cúng Đức Chí Tôn nơi Thiên bàn tại nhà chúng ta vào Tứ thời : Tý, Mẹo, Ngọ, Dậu. Nếu còn bổn phận lo lắng nhiều về công quả thì cũng phải ráng cúng mỗi ngày được 2 thời.

Việc Tứ thời Công phu nầy rất quan trọng, vì lúc đó chơn thần chúng ta hấp thụ thanh điển của Trời.
Như vậy, việc công phu hằng ngày giúp cho người tín đồ sớm mở được Trí huệ, tức là cái trí càng ngày càng thêm sáng suốt.

2 . Công quả :
Tấùt cả việc làm giúp người giúp đời mà không nhận sự đền đáp, phụng sự Đạo, phụng sự nhơn sanh, dù phạm vi nhỏ hay lớn, đều gọi là Công quả, vì những việc nầy tạo ra kết quả tốt đẹp cho linh hồn nơi cõi thiêng liêng.

Công quả muốn được chánh danh và đúng ý nghĩa của nó thì phải là công quả phát xuất từ lòng tự nguyện,  thiết tha với nó, xem nó là mục đích của đời mình.

Thường thấy nơi thế gian nầy có những thứ công quả mà người có tiền mượn làm, người không tiền đi làm giùm. Nếu giá trị công quả ấy đúng với lẽ công bình của Tạo hóa thì Thái tử Sĩ Đạt Ta ngày xưa có thể mở kho đem các vật báu ra mượn người khác làm giùm cho mình đắc đạo, cần chi phải bỏ ngôi Thái tử, đi chu du thí pháp.

Cái giá trị của Công quả là phải từ tận đáy lòng, thiết tha phát khởi mà làm, dầu có phương tiện hay hoàn cảnh giàu sang, dầu trong cảnh nghèo nàn túng bấn, mà tận đáy lòng mình thiết tha với công quả thì công quả ấy mới có giá trị cao và bền vững.

Điều cần nhứt trong việc lập công quả là không nên khoe khoang cho người ngoài biết, nên làm việc âm thầm để công quả ấy là âm chất hay âm công thì người làm mới hưởng được trọn vẹn nơi cõi thiêng liêng.

Mình phải vừa làm công quả, vừa kêu gọi người khác làm chung với mình, chớ không phải đưa ra giải pháp cho người khác làm, trong lúc đó mình đi làm việc khác.

Làm công quả phụng sự nhơn sanh là thể hiện đức tánh Từ Bi. Càng làm công quả thì thể Bi trong mỗi người chúng ta càng phát triển và phải tiếp tục làm cho nó phát triển mãi, để cuối cùng hòa nhập được vào khối thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn.

3 . Công trình :
Công trình là việc lập hạnh tu hành, bao gồm việc gìn giữ giới luật như : Ngũ Giới Cấm, Tứ Đại Điều Qui, Thế Luật, việc ăn chay kỳ hay ăn chay trường.

Việc lập hạnh đòi hỏi người tu phải có ý chí mạnh mẽ, hùng dũng mới thắng nỗi những sự yếu hèn và ham muốn của thể xác, do lục dục và thất tình xúi giục gây ra. Thể xác lúc nào cũng muốn tự tung tự tác, sung sướng thoải mái, chớ đâu chịu bó mình trong Giới luật.

Do đó, việc lập hạnh tu hành là thể hiện cái Dũng của con người. Cần phải dũng cảm chiến thắng sự đòi hỏi buông lung của thể xác. Không có chiến thắng nào vẻ vang hơn chiến thắng được dục vọng của mình.
Tóm lại :  -  Công quả là thể hiện đức BI,
     -  Công phu  là thể hiện đức TRÍ,
     -  Công trình là thể hiện đức DŨNG.

Tam công : công phu, công quả, công trình, liên hệ mật thiết nhau, quan trọng như nhau, giống như Bi, Trí, Dũng, không thể tách rời, không thể bỏ sót phần nào được, mà phải phát triển song song nhau thì sự tiến hóa tâm linh mới nhanh chóng và mau đắc quả.

3)  .  Lập Ngôn :
Lập Ngôn là nói lời chơn thật, chánh đáng, có đạo đức để người nghe phát tâm theo đạo tu hành.
Lời nói thốt ra từ cửa miệng gây ra Khẩu nghiệp.
Trong Tam nghiệp : Thân nghiệp, Ý nghiệp, Khẩu nghiệp, thì Khẩu nghiệp dễ mắc phải nhứt, vì lời nói không mất tiền mua, nên người ta cứ phát ngôn bừa bãi. Nhưng người tu nên nghĩ rằng : lời nói không tốt sẽ gây ra Khẩu nghiệp, cũng nặng nề như Thân nghiệp và Ý nghiệp.

Cho nên khi nói ra lời nào, phải suy nghĩ cho cẩn thận, xem lời nói đó có chơn thật không, có gây thiệt hại hay phiền giận cho ai không.

Bên Tây phương có một câu cách ngôn làm lời khuyên rất quí báu : "Trước khi nói hãy uốn lưỡi bảy lần." (Il faut tourner sept fois sa langue dans sa bouche avant de parler)

Nho giáo có dạy rằng: “Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, nhứt ngôn khả dĩ táng bang”. (Một lời nói có thể làm nước hưng thịnh, một lời nói có thể làm nước mất). Câu nói nầy để cảnh giác các vị vua khi nghe lời tâu cáo của quần thần, phải phân biệt lời nào trung quân ái quốc xây dựng đất nước, lời nói nào sàm nịnh của kẻ gian thần hại nước.

Nhứt tinh cho hỏa năng thiêu vạn khoảnh chi sơn, bán cú phi ngôn ngộ tổn bình sanh chi đức. (Một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy muôn khoảnh núi rừng, nửa câu nói bậy làm hại cả cả đức bình sanh).

Đức Chí Tôn cũng thường dạy: "Thầy dạy các con phải cẩn ngôn cẩn hạnh, thà là các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể." (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 144)

Người tín đồ Cao Đài muốn Lập Ngôn đúng đắn thì phải nghiêm chỉnh tuân theo giới cấm thứ 5 trong Ngũ Giới Cấm : Ngũ bất vọng ngữ.
 “ Ngũ bất vọng ngữ là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng thô tục, chửi rủa người, hủy báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa."

Tóm lại, muốn tạo được ngôi vị thiêng liêng cho mình thì chúng ta phải tu Tam lập, tức là phải Lập đức, Lập công, Lập ngôn, rồi lo công phu, công quả, công trình, nói tóm một lời là : Lập thân hành đạo, Xả thân giúp đời.

Việc xả thân giúp đời có hai sở dụng :
- Trả quả : trả dứt hết các món nợ oan nghiệt mà mình đã gây ra từ nhiều kiếp trước.
- Lập vị thiêng liêng : công quả càng dày thì địa vị thiêng liêng càng cao trọng.

Tu Tam lập là phương pháp tu cốt yếu của Đạo Cao Đài trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn.

Khi chúng ta tụng Ngũ Nguyện trong mỗi thời cúng Đức Chí Tôn là chúng ta nguyện tu Tam lập :
- Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai : Muốn hoằng khai Đại Đạo thì phải thuyết giảng giáo lý, viết sách truyền bá cho mọi người biết, đó là Lập ngôn.
- Nhì nguyện phổ độ chúng sanh: đó là Công quả.
- Tam nguyện xá tội đệ tử : Muốn được Đức Chí Tôn xá tội thì phải lập hạnh gìn giữ giới luật tu hành nghiêm chỉnh để không gây thêm tội lỗi mới, đó là Công trình.
- Tứ nguyện thiên hạ thái bình : Chúng ta thành tâm cầu khẩn Đức Chí Tôn và Phật Mẫu ban ơn cho thế giới được hòa bình, nhơn sanh an lạc, đó là Công phu.
- Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh : Muốn được an ninh thì chúng ta phải hành động thế nào cho hợp lòng người, thuận đạo Trời, đó là Lập đức.

Chương 16

LUẬT CÔNG BÌNH
thiêng liêng

I . Nhân Quả : Luật công bình thiêng liêng
Nhân hay Nhơn là cái nguyên do, cái cớ; Quả là cái trái, kết quả. Nhơn Quả là Nhân nào thì  Quả nấy.

Nhân ví như cái hột, Quả ví như cái trái. Hễ gieo hột dưa thì mọc lên cây dưa, cho ra trái dưa; gieo hột đậu thì mọc lên cây đậu chớ không thể mọc lên cây dưa, rồi cây đậu sanh ra trái đậu.

Cho nên sách Nho nói : Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu (Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu). Luật ấy không bao giờ sai chạy, đó là Luật Nhân Quả.

Một cái nhân tạo ra cái quả, quả nầy tạo ra nhân mới, nhân mới lại tạo ra quả mới, cứ thế tiếp diễn mãi. Nếu như muốn không có quả thì đừng tạo nhân.

Luật Nhân Quả thể hiện sự công bình của Trời Đất.
Đấng Thượng Đế chí công vô tư, không vì thương mà thưởng, không vì ghét mà phạt. Đấng ấy lập ra Luật Nhân Quả và cầm cây cân Công bình thiêng liêng để cho Luật Nhân Quả tác động một cách chính xác công bình.

Trong sách Minh Tâm Bửu Giám có viết:“ Thiên địa vô tư, Thần minh thì sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, bất vị thất lễ nhi giáng họa.”  Nghĩa là: Trời Đất không riêng (công bình), chư Thần sáng suốt thường xem xét, chẳng vì hưởng tế lễ mà ban cho điều tốt lành, chẳng vì thất lễ mà gieo xuống tai họa.

Thượng Đế và các Đấng thiêng liêng là những Đấng chí công vô tư, không đem phước đến cho ai, cũng không đem họa đến cho ai. Các Đấng ấy chỉ giữ Luật Nhân Quả làm Luật công bình thiêng liêng, cho thể hiện một cách đúng lẽ công bình đi từ Nhân tới Quả.

Tất cả những sự chi đưa đến cho mình, dầu việc ấy có xấu có tốt, vui buồn, lành dữ, đều là Quả do cái Nhân mà mình đã tạo ra trong quá khứ hoặc xa hoặc gần. Mỗi việc mình làm là Nhân, Nhân lành hay Nhân dữ, trong đó bao gồm cả lời nói, ý nghĩ và hành động, thì cái Quả liền tượng hình ra theo cái Nhân ấy, để đến lúc đúng hạn kỳ thì nó báo đáp phát ra.

Trong Luật Nhân Quả, thời gian đi từ Nhân tới Quả không nhất thiết phải xảy ra ngay, có thể xảy ra một thời gian sau trong một kiếp sống hay có thể xảy ra trong nhiều kiếp, nhưng nhứt định phải xảy ra, Quả luôn luôn tương xứng với Nhân, không bao giờ sai chạy.
- Nếu Nhân và Quả xảy ra ngay trong một kiếp sống thì gọi là : Hiện kiếp Nhơn quả, cũng gọi Báo ứng nhãn tiền.
Một người lúc trẻ làm nhiều việc gian ác, đến khi trở về già thì phải chịu cảnh khốn cùng, tủi nhục, đau đớn ê chề, rồi mới chết. Đó là Báo ứng nhãn tiền xảy ra trong một kiếp.
- Nếu Nhân ở kiếp trước mà Quả báo ứng xảy ra trong kiếp hiện tại thì gọi là Tiền kiếp Nhân quả.
- Nếu Nhân trong kiếp hiện tại mà Quả báo sẽ xảy ra trong kiếp sau thì gọi là Hậu kiếp Nhân quả.
Có Luật Nhơn quả mới có sự Luân hồi, hay nói cách khác, Luân hồi là hệ quả của Luật Nhân quả. Vì gieo nhân trong kiếp trước mà chưa trả được nên phải chịu luân hồi, đầu kiếp trở lại để trả quả.

Trong xã hội, chúng ta vẫn thường thấy có nhiều người giàu sang danh vọng, nhưng họ lại nghinh ngang hống hách, chỉ biết mưu lợi hại người, làm điều gian ác, dối trên lừa dưới, thế mà họ vẫn lên chức đều đều, giàu có thêm lên, mặc cho người đời nguyền rủa.

Đừng nghĩ rằng Luật Nhơn quả sai ! Những người đó được vậy là vì cái Quả lành của họ đã tạo ra từ nhiều kiếp trước vẫn còn để họ hưởng, nhưng họ không biết tô bồi cái Quả lành đó trong kiếp nầy, đến chừng hưởng hết Quả lành thì sẽ bắt đầu trả quả, và sự trả quả đó có thể xảy ra trong những ngày cuối đời của họ hay trong kiếp sau, nhưng nhứt định là phải trả, không trốn tránh vào đâu cho được.

KSH : Người làm phước có khi mắc nạn,
                           Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
                               Ấy là nợ trước còn mang,
                      Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.

TNHT :   Ức lòng dễ tỏ đặng cùng  ai !
                          Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.
                          Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,
                          Cũng là vay trả luật xưa nay.

Các ngoại đạo tà kiến thấy người làm điều thiện mà lại sanh vào đường ác, kẻ làm ác lại sanh vào nẻo thiện, liền cho rằng Nhân Quả đều không, thậm chí còn bài bác và cho rằng tất cả đều không.

Người làm thiện mà phải sanh vào nẻo ác là vì ác quả của đời trước vẫn còn dây dưa chưa dứt nên phải chịu nốt, Nhân thiện hiện tại sẽ sanh Quả thiện tương lai. Đây là đạo lý Tam thế Nhân quả mà Đức Phật đã nói trong kinh Thiện Ác Nghiệp Báo.

Trong kinh Nhơn Quả cũng có viết rằng : Muốn biết cái Nhân đã qua, hãy xem cái Quả hiện tại; muốn biết cái Quả tương lai, hãy xem cái Nhân hiện tại.

Nhơn nào Quả nấy, chắc chắn không bao giờ sai, chỉ có thời gian báo ứng lâu hay mau mà thôi.
Chúng ta là người phàm không bao giờ biết được thời gian báo ứng đó lúc nào xảy ra, cho nên đừng nên lộng ngôn mà phê phán sai lầm, than Trời trách Đất, mà mang trọng tội cùng các Đấng thiêng liêng.

Khi đã biết rõ Luật Nhân Quả rồi, mỗi người muốn cho đời mình được may mắn tốt lành, thì ngay từ bây giờ phải tạo ra cái Nhân lành : Thân làm điều lành, Khẩu nói điều lành, Ý nghĩ trong sạch. Thấy thì dễ nhưng luôn luôn chúng ta bị Tam độc (Tham, Sân, Si) phản kháng, rồi dụ dỗ lôi cuốn chúng ta theo nó để tạo ra Nhân xấu :
- Lòng tham làm giảm giá trị con người, làm tinh thần lụn bại, như tham lam của cải tiền tài, tham công danh sự nghiệp bất chánh, tham mê tửu sắc tài khí. Cái lòng tham ấy mỗi khi dấy động, nó tạo ra lớp mây mù che lấp lương tri, làm cho ta không còn phân biệt phải trái, liêm sỉ, miễn làm sao cho thoả mãn lòng tham dục.
- Tánh sân giận nổi lên thì sanh ra si mê ám muội, xúi giục con người hành động theo lục dục thất tình thấp hèn, tạo ra biết bao nhiêu điều ác.

Cho nên, Đạo Cao Đài đưa ra các giới luật như : Ngũ giới cấm, Tứ đại điều qui, vv... là để ngăn chận không cho Tham Sân Si dấy lên xúi giục ác hành.         

Hiểu biết rõ Luật Nhân quả, chúng ta có được những lợi ích sau đây :
o Không còn mê tín dị đoan, không cầu cúng xin xỏ Thần quyền.
o Tin tưởng mình là tác nhân chủ động tạo ra số phận của mình.
Không chán nãn, trên không trách Trời, dưới không trách người, chỉ nên trách mình.

II . Luân hồi

Luân là cái bánh xe, hồi là quay trở lại. Luân hồi, nghĩa đen là xoay tròn như cái bánh xe, quay đi rồi trở lại, mãi mãi như thế.

Luân hồi là một tín thuyết đã có từ thời thái cổ của nước Ấn Độ, với đạo Bà-La-Môn, cho rằng linh hồn của một sinh vật, sau khi sinh vật chết, linh hồn trở lại đầu thai vào một sinh vật khác và cứ thế tiếp diễn mãi.

Đức Phật Thích Ca mở đạo Phật thời Nhị Kỳ Phổ Độ, lấy thuyết Luân hồi làm giáo lý căn bản.
Đức Phật nói : Kiếp sống của con người sanh ra rồi chết, chết rồi đầu thai trở lại, tức là sanh sanh tử tử cứ thế nối tiếp nhau, như cái bánh xe quay tròn không bao giờ ngừng nghỉ.

Sự Luân hồi chỉ là thể hiện của Luật Nhân quả, có Nhơn thì phải có Quả, hết Nhơn thì hết Quả, dứt luân hồi.

Con người sống nơi cõi trần có ba thể gọi là Tam thể xác thân :
- Xác thân phàm bằng vật chất (thể xác) : Giả thân.
- Xác thân thiêng liêng : Chơn thần hay Chơn thân.
- Một điểm linh quang do Đức Chí Tôn ban cho gọi là Linh hồn để điều khiển chơn thần và thể xác.

Khi một con người nơi cõi trần chết đi, thể xác sẽ tan rã biến trở lại thành đất, còn chơn thần và linh hồn  thoát  ra khỏi thể xác, trở về cõi thiêng liêng, mang theo :
- Những điều học hỏi và kinh nghiệm.
- Những công đức và tội lỗi đã gây ra.

Nơi cõi thiêng liêng, chơn thần và linh hồn được đưa đến trước Minh Cảnh Đài xem lại khúc phim của cuộc đời mình, từ lúc mới sanh cho đến lúc chết, các hành vi thiện ác cùng lời nói đều hiện lên đủ cả, không sót một thứ gì, để nơi đây, cây Cân Công bình thiêng liêng cân tội phước và định phận :
- Nếu công đức nhiều hơn tội lỗi thì linh hồn và chơn thần sẽ được ban thưởng bằng những phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng.
- Nếu công đức ít mà tội lỗi nhiều thì linh hồn và chơn thần bị đưa trở lại cõi trần để đầu kiếp mà trả quả, và cũng để lập công chuộc tội.

Những công đức, tội lỗi và kinh nghiệm học hỏi được trong kiếp sống tạo thành hột giống luân hồi rút vào trong chơn thần, tạo thành cái Nhân, quyết định kiếp tái sinh có đời sống sang hèn, hạnh phúc hay khổ đau, làm quan hay dân, vv... ấy là cái Quả do Nhân tạo ra.

Linh hồn và chơn thần cứ mãi luân chuyển như thế, lên lên xuống xuống, không bao giờ dứt. Đó là Luân hồi.

Muốn thoát khỏi Luân hồi thì phải làm sao ?
- Phải tu, tu để dứt Nhân xấu, tạo Nhân lành: Nhân xấu thì Quả xấu tức là phải Luân hồi, Nhân lành thì hưởng Quả lành tức là đạt được phẩm vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng, ấy là thoát khỏi Luân hồi.

Giáo lý về luật Nhân quả và Luân hồi cho chúng ta lòng tự tin, tự thấy mình là chủ nhân của đời mình, mình làm ra cái gì thì mình hưởng thụ cái đó, không ai giành giựt với mình, mình tạo ra Nhân gì thì mình hưởng Quả nấy, chớ không ai đem họa hay phước đến cho mình.

Chúng ta phải cố gắng kềm hãm lục dục thất tình, xa lìa tam độc, để cho tư tưởng, lời nói, hành động của mình được chơn chánh, thiện lương, tức là mình gieo Nhân lành, thì nhứt định tương lai của mình sẽ hưởng được Quả lành, trái ngọt, đời mình sẽ được sung sướng hạnh phúc.

Còn muốn thoát khỏi luân hồi, chúng ta phải rửa sạch các Nhân xấu từ các tiền kiếp lưu lại, bằng cách chịu đựng các sự trả quả, rồi lo lập công phụng sự nhơn sanh  lấy công chuộc tội, các Nhân xấu lần lần tiêu hết, mà khi Nhân hết thì không có Quả, tức nhiên thoát khỏi luân hồi.
III . Quả báo

Quả báo là cam nhận chịu cái kết quả đau khổ báo đáp lại để đền trả cái Nhân xấu mà mình đã gây ra lúc trước hay trong kiếp trước.

Quả báo còn được gọi là Nghiệp báo.
Nghiệp là cái lực vô hình do cái Nhân sanh ra, để nó thúc đẩy tạo thành cái Quả.

Chúng ta là người phàm nên vô minh, không biết kiếp trước đã tạo ra những Nhân gì, thiện hay ác, nhưng ngày nay trong kiếp sống nầy, khi chúng ta tự nhiên gặp được một việc may mắn bất ngờ, như đang hoạn nạn gặp quí nhân đến giúp đỡ; hoặc là đang sống yên lành bỗng nhiên bị người vu oan giá họa, thì chúng ta phải hiểu rằng : đó là Nghiệp báo từ cái Nhân thiện hay Nhân ác của mình ở trong kiếp trước.

Kinh Cảm Ứng cũng có viết rằng : “ Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình.”  Nghĩa là : Họa và phúc không có cửa, tự nơi người rước lấy, cái quả báo của thiện và ác như bóng theo hình.

Khi gặp Quả báo xấu, chúng ta phải gồng mình chịu đựng, chớ nên than van, vì nó do chính mình tạo ra cái Nhân xấu mà có. Đó là Trả quả.
Sự trả quả nầy hoàn toàn nằm trong Luật Nhân quả, là Luật Công bình thiêng liêng, gieo nhân nào thì gặt quả nấy.
Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy về Trả quả như sau:
LÝ GIÁO TÔNG
Trái oan chưa dứt thuở nào thôi,
Muốn đặng phi thăng, ráng trả rồi.
Cượng lý tu hành cho thoát tục,
Tiền vay nợ hỏi, sổ ai bôi  ?

Đây Lão nhắc về lời của Đức Chí Tôn dạy về cách Trả quả như vầy :
“ Các con ôi ! Phải ráng vui lòng mà chịu điều cực khổ. Hễ Thầy thương các con chừng nào thì hành hạ các con chừng nấy. Bởi vậy khi các con hiến thân hành đạo với Thầy, đã lịnh cho Thần Thánh bắt các con trả quả cho đủ kiếp đặng trừ cho kịp kỳ nầy. Bởi các con phải chịu luật luân hồi, vì cớ mà phải chịu điều khổ sở như vậy, các con chớ than phiền, chính theo lời thề của các con thì Thầy hành các con cho đúng lẽ, vậy mới xứng đáng là môn đệ của Thầy. Có nhiều đứa vì không rõ luật Thiên điều, cứ than van mãi.”

Vậy, chư hiền hữu hiền muội nghe Ơn Trên dạy đành rành, nợ thì phải trả, chớ không chạy đâu được. Dầu cho một vị Đại La mà phạm luật Thiên điều thì cũng phải tái kiếp mà đền bù cuộc trả vay.
* Thế nào gọi là Trả quả ?
- Là nhận chịu cái nợ tiền khiên đã kết nạp nhiều kiếp, chí quyết trả cho xong mà không vay thêm nữa.
* Có hai cách Trả quả :
- Một là quả báo về tinh thần, ở phạm vi tư tưởng, buồn bã, âu sầu.
- Hai là quả báo về xác thịt : tật bịnh, đói rét, khốn nàn.
* Quả lại chia ra  ba ảnh hưởng :
- Một là quả báo các nhân do mình tạo ra.
- Hai là quả báo của chủng tộc do nòi giống tạo ra.
- Ba là quả báo do quần chúng của mỗi người trong xã hội gây ra.

Vậy muốn dứt các dĩ vãng là kết quả của hiện tại âu sầu thống khổ thì phải lấy cái hiện tại mà tạo cái tương lai cho được rực rỡ vẻ vang, rồi lấy cái tương lai đó mà tạo  một cơ sở vững vàng muôn kiếp, tức là đi tới chỗ trường sanh bất tử đó vậy.

IV . Nhồi qua

Nhồi là nhét thêm vô rồi dồi lên dập xuống nhiều lần. Quả ở đây là ý nói cái quả xấu báo đáp lại cái nhân xấu đã gây ra từ nhiều kiếp trước.

Nhồi quả là những nhân xấu nghiệp xấu từ nhiều kiếp trước dồn lại báo đáp trong một kiếp nầy mà thôi.

Đối với người tu hành chơn chánh, lo lập công bồi đức để trả cho dứt các nghiệp xấu cũ của nhiều kiếp trước, lại phải cố gắng giữ mình không gây ra các oan nghiệt mới thì Đức Chí Tôn sẽ cho dồn các nghiệp xấu lại để trả dứt trong kiếp nầy thì mới có thể thoát khỏi cõi trần để trở về cùng Đức Chí Tôn. Cách trả dứt các nghiệp trong một kiếp như vậy gọi là Nhồi quả.

Như trong bài Thánh Ngôn của Đức Lý Giáo Tông, Đức Lý có nhắc lại lời của Đức Chí Tôn : “ bắt các con trả quả cho đủ kiếp đặng trừ cho kịp kỳ nầy”, đó là Đức Chí Tôn cho chúng ta Nhồi quả.

Nhồi quả là một cách trả quả rất nặng nề, nhưng là phương giải thoát. Cho nên người biết đạo nên luôn luôn vui chịu những hoạn nạn tai ương dồn dập đến cho mình.

Nếu thấy một bậc chơn tu nào mà bị hoạn nạn tai ương dồn dập liên tiếp xảy ra rất khổ sở thì chúng ta chẳng nên lấy làm lạ mà phàn nàn, bởi vì người ấy đang chịu nhồi quả để có thể đắc đạo trong một kiếp tu.

Đây là một đặc ân của Đức Chí Tôn trong kỳ Đại Ân Xá nầy, cho nhồi quả đặng mau hết nghiệp để có thể trở về cùng Đức Chí Tôn.

Nếu Đức Chí Tôn không cho nhồi quả trong một kiếp tu thì biết đến bao giờ các môn đệ của Ngài mới trả hết nghiệp, bởi vì nếu để trả quả từ từ thì mỗi kiếp trả quả lại tạo thêm nghiệp mới, thì phải mang nghiệp trần triền miên mà chịu luân hồi mãi mãi.

Chính vì thế mà chúng ta thấy nhiều Chức sắc Thiên phong, càng tu, càng lập công quả thì bản thân và gia đình càng gặp nhiều nỗi éo le ngang trái, điêu đứng khổ sở, hết đau bịnh tới tai nạn, khiến cho người đời biếm nhẻ rằng càng tu càng bị hoạn nạn tai ương.

Nếu tâm đạo vững vàng, một lòng tin tưởng Đức Chí Tôn, cắn răng gánh chịu những quả báo tiền khiên, cầu nguyện Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu ban cho ơn huệ để đủ sức chịu đựng nghịch cảnh, thì dần dần tại nạn cũng giảm bớt, tâm tu tăng tiến và cuối cùng thì trả hết nghiệp, được đắc đạo, trở về cùng Đức Chí Tôn.

TNHT :  Ví muốn tu thân nhồi quả trước,
Gắng công  sau  sẽ đến cùng Ta.
Chúng ta biết có hai trường hợp nhồi quả sau đây :

1 .  Trường hợp Ngài Bảo Đạo Ca Minh Chương.
Đức Chí Tôn cho nhồi quả theo bài thi sau đây của Đức Chí Tôn  ban cho Ngài Ca Bảo Đạo :
Thấy con gia đạo tợ tơ cuồn,
Chạnh đến lòng Thầy dạ ướm tuôn.
Ngặt nỗi vợ nhà đau dã dượi,
Khật khùng con trẻ nói luông tuồng.
Khiến nên mai đảnh khơi màu trắng,
Cho đến tòng lâm trổ sắc buồn.
Công quả đã đành công quả  đủ,
Nay đem ba kiếp dập dồn luôn.

Qua bài Thánh ngôn trên, Đức Chí Tôn cho Ngài Ca Minh Chương nhồi quả ba kiếp khiến Ngài bị bịnh, vợ đau, con gái khật khùng, dồn vào một kiếp nầy đặng trả xong quả, sạch nợ tiền khiên, hầu trở về ngôi vị thiêng liêng.

2 .  Chánh Trị Sự Miên, quê ở Phú Mỹ, Mỹ Tho.
Ông Miên làm Hương Cả ở làng Phú Mỹ, nhập môn vào Đạo Cao Đài, lập công bồi đức, lên được phẩm Chánh Trị Sự. Ông rất hiền, nhưng sau đó, ông bị điên khùng luôn, không ai chữa trị được.
Vợ của ông đưa ông về Tòa Thánh, vô Hộ Pháp Đường cầu xin Đức Phạm Hộ Pháp giải bịnh, được Đức Ngài nhận lời.
Đức Ngài hành pháp giải oan, bệnh ông Miên giảm dần và gần như hết bịnh. Đức Phạm Hộ Pháp dặn ông Miên không được ra ngoài, chỉ ở quanh quẩn trong Hộ Pháp Đường mà thôi.
Vợ ông Miên cũng là một Nữ Chánh Trị Sự, thấy ông Miên hết bịnh, cả mừng, xin cho rước ông Miên về gia đình ở Phú Mỹ để an dưỡng và dễ bề săn sóc.

Đức Phạm Hộ Pháp nói :
- Coi vậy chớ ảnh chưa mạnh đâu, chị có về thì về, cứ để ảnh ở đây một thời gian nữa.
Bà vợ cứ năn nỉ hoài để rước ông Miên về, buộc lòng Đức Ngài phải cho. Bà đưa ông Miên trở về xứ.
Lạ lùng thay, về nhà ở Phú Mỹ một thời gian ngắn thì bệnh của ông Miên tái phát trầm trọng và chết, không thầy thuốc nào trị được.
Gia đình báo tin cho Đức Hộ Pháp. Đức Phạm Hộ Pháp nói với các anh em Phạm Môn :
- Anh Miên trả quả ba kiếp nhồi một đó. Lúc bị bệnh, ảnh thường diễn đạt ba hình thức, mỗi hình thức là một kiếp :

Kiếp thứ nhứt: ông đang đi thì đứng lại, lấy thế rồi cung tay xoay người từ trái qua phải, rồi buông hai tay, giống như là quăng lưới chài cá. Đó là kiếp chài lưới.
Kiếp thứ nhì: một tay như cầm mõ, một tay như cầm dùi, miệng niệm Nam mô, tay làm bộ điệu gõ mõ. Ấy là kiếp thứ  nhì làm thầy chùa.
Kiếp thứ ba: ông hay lượm lá cây, giấy, ngồi vẽ vẽ lên đó, ấy là kiếp làm đồ nho viết liễn.
Nay gặp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, may duyên làm môn đệ Đức Chí Tôn, Đức Chí Tôn cho nhồi quả để trả cho dứt nghiệp mà về, nên mừng cho ổng được giải thoát.
 (Viết theo lời kể của ông Chơn Nhơn Phạm Duy Hoai).

Chương 17

THIÊN ĐẠO & NHƠN ĐẠO

I . Thiên đạo

Thiên là Trời, là Thượng Đế, Đức Chí Tôn. Đạo là tôn giáo. Thiên đạo dịch ra tiếng Việt là đạo Trời.
Chữ Thiên đạo, tùy theo trường hợp mà chúng ta hiểu nghĩa. Chúng ta có thể gặp 3 trường hợp sau đây :
1.  Thiên đạo là đạo do Đấng Thượng Đế lập ra và làm Giáo chủ.
Đạo Cao Đài là Thiên đạo vì do Đức Chí Tôn dùng cơ bút lập ra và Đức Chí Tôn làm Giáo chủ.
Cũng như Thích giáo, là đạo do Đức Phật Thích Ca lập ra và làm Giáo chủ.
2.  Thiên đạo là nói bao gồm các đạo tu hành để giải thoát linh hồn con người ra khỏi luân hồi, đưa linh hồn đến cảnh Cực Lạc Niết Bàn hay cõi TLHS.
Như vậy, Thiên đạo bao gồm Tiên đạo và Phật đạo.
Muốn đạt đến Tiên đạo và Phật đạo thì phải trải qua : Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo. Nhưng Nhơn đạo  là căn bản, bởi vì làm tròn được Nhơn đạo thì mới đạt được Thần vị hay Thánh vị tùy theo mức độ cao thấp.

TNHT : Rằng ở đời thì Nhơn đạo trọn,
Trọn rồi, Thiên đạo mới hoàn toàn.

3 . Thiên đạo là đạo Trời, đứng trên Phật đạo.
Đó là nấc thang tiến hóa cuối cùng để chư Phật tu hành tiến hóa lên thành Thượng Đế và nhập vào khối Đại linh quang của Thượng Đế.

II . Nhơn đạo

Nhơn đạo là đạo làm người, đạo ở đời, nên nó cũng được gọi là Thế đạo.
Đó là những nguyên tắc và bổn phận mà con người phải tuân theo trong đời sống đối với gia đình và đối với quốc gia, xã hội. Nhờ Nhơn đạo, con người mới xứng đáng phẩm người, mới có giá trị là thượng đẳng chúng sanh.

Nếu nói chung cho cả nam và nữ thì Nhơn đạo gồm Bát đức, tức 8 điều : hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ.

Đó chính là Bát bửu trong cái túi Bát bửu nang mà Đức Phật Mẫu giao cho 100 ức nguyên nhân đem theo khi đầu thai xuống cõi trần, và căn dặn rằng : Nếu nguyên nhân nào làm mất một món báu thì không thể trở về với Đức Phật Mẫu đặng.

Nhưng đối với Nho giáo thì phân ra : Nhơn đạo của người nam khác Nhơn đạo của người nữ :
- Nam thì Tam Cang và Ngũ Thường.
- Nữ thì Tam Tùng và Tứ Đức.

Không có tôn giáo nào dạy về Nhơn đạo kỹ lưỡng và chi tiết bằng Nho giáo.
Người là Tiểu linh quang, Trời hay Thượng Đế là Đại linh quang; nên con người là một phần tử nhỏ của Thượng Đế. Thượng Đế cho con người đầu kiếp xuống cõi trần là để học hỏi và tiến hóa, học hỏi mãi mãi và tiến hóa mãi mãi, tới mức cùng tột thì trở thành Thượng Đế và hiệp nhứt vào Thượng Đế.

Muốn đạt được như thế, con người phải trải qua năm cấp tiến hóa :
       - Cấp tiến hóa thứ 1 là Nhơn đạo tiến lên Thần đạo,
       - Cấp tiến hóa thứ 2 là Thần đạo   -      -  Thánh đạo,
       - Cấp tiến hóa thứ 3 là Thánh đạo -      -  Tiên đạo,
       - Cấp tiến hóa thứ 4 là Tiên đạo    -      -  Phật đạo,
       - Cấp tiến hóa thứ 5 là Phật đạo    -      -  Thiên đạo.

Trong năm cấp tiến hóa đó, Nhơn đạo là căn bản. Không hoàn thành Nhơn đạo thì không mong chi bước lên các cấp tiến hóa cao hơn.

Thánh nhơn khi xưa có nói rằng : Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhơn đạo, Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ. Nghĩa là : Muốn tu Tiên đạo, trước tu Nhơn đạo, Nhơn đạo không tu, Tiên đạo xa vời lắm vậy.

ĐĐTKPĐ mở ra kỳ nầy là Đức Chí Tôn dựng lên một cái thang 5 nấc để cho người tu từ từ tiến lên mà đoạt vị. Hễ công đức tu hành đạt đến mức nào thì Đức Chí Tôn chấm cho mức ấy với những phẩm vị cao trọng tương xứng.

TNHT: Thầy dạy Nữ phái biết trọng Tam tùng Tứ đức, Nam phái Tam cang Ngũ thường. Hễ Nhơn đạo thành là phù hạp Thiên đạo, nghe à !  (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 104)

TNHT: Buông trôi ví chẳng tròn Nhơn đạo,
Còn có mong chi đến  đạo Trời.

III . Thánh ngôn dạy về Thiên đạo - Nhơn đạo

Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ đêm 25 và 28 tháng giêng năm Nhâm Thìn (dl 20 và 23-2-1952) dạy về Nhơn đạo (tức Thế đạo) và Thiên đạo, trích trong Luật Tam Thể, chép ra như sau : (Xem TNST 3, Bài 107 -108)
“ Đêm nay, Bần đạo giải về Thế đạo là gì ?
Hẳn mấy em đã rõ đại cương về Thế đạo là :
- Nam thì Tam cang, Ngũ thường,
- Nữ  thì  Tam tùng, Tứ đức.
Song đó chỉ là thể của Nhơn đạo hữu hình mà thôi.
Nếu mấy em hằng ngày tâm niệm có bấy nhiêu đó thôi thì làm sao trọn vẹn được.
Trong Thế đạo phải phân tách ra làm hai pháp lý :
- Một là Thể pháp Thế đạo,
- Hai là  Bí pháp  Thế đạo.

Tam cang Ngũ thường, Tam tùng Tứ đức là thể đặng làm sở hành cho mặt Thể pháp Thế đạo mà thôi, lấy đó làm chánh đề mà đi.

Bây giờ muốn giữ TAM CANG, NGŨ THƯỜNG thì phải làm thế nào ?
- Quân Thần cang: Vua là kẻ chăn dân. Vậy bổn phận ấy là phải lập trên những hành tàng để cứu giúp dân cho khỏi điều thống khổ. Ấy là công việc của Cơ Quan Phước Thiện bây giờ đó. Tôi thì phải tỏ dạ trung thành đặng vùa giúp vua mà làm cho bá tánh an cư lạc nghiệp, tức là bổn phận của hàng Thánh thể đó vậy.

- Phụ tử cang : Cha là người thay quyền Chí Tôn trong một tiểu gia đình, tức nhiên là phải biết mình có bổn phận giáo hóa, dưỡng dục, tức nhiên là một Hội Thánh nhỏ trong một gia đình. Vậy con phải trọn hiếu, tức nhiên không làm điều nhục tổ hổ tông, tức là bổn phận của một tín đồ, hay nói đúng hơn là một môn đệ xứng đáng của Đức Chí Tôn đó vậy.
- Phu phụ cang: Chồng là người cầm lèo giữ lái đặng đưa một tiểu gia đình đến chỗ đạo đức thanh bạch, tức nhiên là bổn phận của cơ quan Hành Chánh đó vậy. Vợ là người tùng theo chồng để giúp an sự nghiệp, tạo nên hạnh phúc gia đình, tức là bổn phận của Bảo Cô đó vậy.

Về NGŨ THƯỜNG thì :
- Nhơn : là phải biết nghĩa đồng sanh, biết tình  đồng hưởng ÂmDương chi khí, chẳng để lòng sái loạn chơn truyền, tức phải trọn vâng theo luật Công bình Bác ái.
- Nghĩa : là phải biết trọn phận người để tạo nên danh trọng giá cao, tức là phải giữ phẩm hạnh mà nhìn rõ của chung đồng hưởng.
- Lễ : là giữ hạnh nết đúng đắn để tạo nên một nhơn phẩm, biết nhường biết nhịn, tức nhiên là phải giữ  trọn hạnh đạo đó vậy.
- Trí : là phải thông hiểu việc thế mà đi, không để tên tuổi phải bị lời chê tiếng nhẻ, tức nhiên là phải trọn vâng Luật pháp Chơn truyền đó vậy.
- Tín : là phải đúng lời đúng hẹn, tức là phải danh chánh ngôn thuận, thuyết hành phải được giống in nhau, tức là phải trọn thệ đó vậy.

Đó là mặt Thể pháp Thế đạo.
Còn mặt Bí pháp Thế đạo là phương tầm ra định hướng để vẹn giữ Tam cang Ngũ thường, tức nhiên là trọn phần Nhơn đạo. Ấy là kết quả do Thể pháp mà nên.
Nói chung về Bí pháp Thế đạo, tức nhiên là phương giúp đời an nhàn đạo đức đó vậy.

Về Tam tùng Tứ đức là phận của Nữ phái :
- Tùng phụ : như người con phải trọn giữ tiết trinh, cũng như kẻ tín đồ phải giữ tròn danh đạo.
- Tùng phu : như bóng tùy hình, tức nhiên là phải ví mình như một trong Thánh thể, tùng Hội Thánh vậy.
- Tùng tử : là phải vì đám hậu sanh mà quên mình đặng tạo thành sự nghiệp tương lai cho chúng, tức nhiên là bổn phận của Chức sắc vậy.
- Công, Dung, Ngôn, Hạnh : tức là việc làm cho nhơn sanh thoát khổ, lời nói để đưa đường giáo hóa, hành vi cử chỉ đáng treo gương mặt thế, phải biết nâng cao giá trị của Thánh thể Chí Tôn, nết na đầm thấm, giữ trọn thương yêu, tức nhiên là làm nền móng cho Đại đồng thế giới.

Đó là Thể pháp.
Kẻ đã trọn về mặt Thể pháp, tức nhiên hiểu biết Bí pháp, vì Bí pháp không chi lạ hơn là phương pháp bí yếu để nâng cao giá trị cho Thế đạo. Nói rõ hơn nữa là phương làm cho đời trở nên tận thiện tận mỹ. Nói theo Nhơn sanh Triết lý thì Bí pháp là kế hoạch nâng cao đời sống trong Nhơn Nghĩa đó vậy.”
 “ Đêm nay, Bần đạo giải về Thiên đạo.
Trong Thiên đạo cũng có Thể pháp và Bí pháp của Thiên đạo.

Về Thể pháp của Thiên đạo, tức nhiên là những nơi để học hỏi, để un đúc tinh thần trong khuôn viên Chánh pháp.  Trong Thể pháp của Thiên đạo có ba thời kỳ :
- Thứ nhứt là thời kỳ khai thác
- Thứ nhì   là thời kỳ luyện tập
- Thứ ba    là thời kỳ thi hành.

Trong thời kỳ sau nầy mới thường gặp những cơ khảo đảo đặng thử thách tinh thần.
Về thời kỳ thứ nhứt, là những tạo tác, nơi qui hợp đức tin cho con cái Chí Tôn, tức là các Đền thờ đó vậy. Khi một môn đệ đã nhập môn tùng giáo thì phải do nơi các Đền thờ đặng tụ hiệp đức tin. Đó là bước đầu tiên của Thể pháp Thiên đạo. Do đó, sự cúng kiếng niệm kinh là điều trọng yếu vậy.
Qua thời kỳ thứ nhì, là đem đức tin đã trụ được đặng tập luyện tâm tánh và khởi lập công trừ quả, đặng tự giải khổ cho mình và giúp phương cứu khổ cho toàn nhơn loại. Ấy là phương luyện tánh  thành tâm niệm đó vậy.

Qua thời kỳ thứ ba, là thi thố những đức tin hầu lấy phương giải khổ mà đem gieo truyền hột giống thương yêu. Ấy là phương cứu khổ đó vậy.

Trong lúc nầy, tinh thần hay gặp những chướng ngại, hoặc làm cho nao núng tan rã đức tin, hoặc theo đường quỉ mị, chia phe phân phái mà gầy nên Tả đạo Bàng môn, như  đã xảy ra đó.

Trong ba thời kỳ : thứ nhứt là Lập Ngôn, thứ nhì   Lập Công, thứ ba Lập Đức. Đó là Thể pháp của Thiên đạo.
Khi đã trọn phần Thể pháp rồi, liền bước qua mặt Bí pháp, là phương tu tâm sửa tánh, hầu lập thành chơn khí thanh khiết mà hiệp với chơn thần, đặng tiếp chơn linh, để giải phương cứu khổ thêm bề siêu lý diệu chơn.
Ấy là phương tầm hiểu chơn truyền chánh pháp đó vậy. Khi đã vẹn sạch Tinh, Khí, Thần thì là đắc Pháp đó vậy.
Mấy em đã học về khoa Bí pháp khẩu tụng, vậy khá để tâm học hỏi cho được tâm truyền thì công phu của mấy em đã được phần thưởng vô giá đó.
Nói về Thiên đạo tức là luận về vũ trụ triết lý, tức là nói về Không gian. Còn Thế đạo là luận về nhơn sanh triết lý, tức là nói về Thời gian đó.
Mấy em khá hiểu cho lắm mới được. Phải để tâm suy nghiệm đó nghe ! “

Chương 18

TU THÂN

I . Tu thân theo Nho giáo

Tu là sửa, Thân là thân mình. Tu thân là sửa chữa bản thân mình cho được ngay chánh, hợp theo đạo đức.
Muốn Tu thân thì trước hết phải giữ cái tâm mình cho được ngay chính. Tâm không ngay chính thì làm sao sửa mình cho ngay chánh được.

Trong Bát điều mục của Nho giáo thì Tu thân là trung tâm điểm, nên quan trọng hơn tất cả.

Muốn Tu thân, phải : Cách vật, Trí tri, Thành ý và Chánh tâm. Tu thân được rồi thì mới có thể : Tề gia, Trị quốc và Bình thiên hạ. Bốn điều mục trước là điều kiện để Tu thân, và ba điều mục sau là hệ quả của việc Tu thân.

“ Người quân tử cần phải có học, mà sự học của mọi người là cốt ở sự sửa mình (Tu thân), cho nên sách Đại Học nói rằng : “ Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ Tu thân vi bổn ”. Nghĩa là : Từ vua cho đến dân, ai cũng phải lấy sự Tu thân làm gốc. Muốn sửa mình cho thành người có đức hạnh hoàn toàn thì trước hết phải giữ cái tâm của mình cho chánh (Chánh tâm), cái ý của mình cho thành (Thành ý), rồi mới Cách vật Trí tri được, nghĩa là hiểu rõ các sự vật và biết đến cùng cực cái biết.

Giữ cái tâm của mình cho chánh, là đừng để cho sự tức giận, sợ hãi, sự vui say, ưu hoạn, làm cho cái tâm của mình chếch lệch, làm cho mình không hiểu rõ cái nghĩa lý ngay thẳng. Khi đã bị những sự ấy làm loạn cái tâm của mình thì mắt trông không thấy, tai nghe không hiểu, ăn không biết mùi, bởi thế cho nên bao giờ ta cũng phải giữ cái tâm cho chánh.

Giữ cái ý của mình cho thành tức là mình không dối mình, đối với việc gì cũng cứ thành thật, như ghét mùi thối, yêu sắc đẹp, nghĩa là ý mình thế nào thì cứ thực bày tỏ ra như thế, chớ không dối trá chút nào. Được như thế mới là khoái túc. Bởi thế người quân tử phải giữ cẩn thận tư tưởng của mình trong khi ngồi một mình đối với mình.

Tâm đã chánh, ý đã thành thì tự nhiên cái lương tri lương năng của mình tức là cái Minh đức trở nên mẫn huệ, xem xét điều gì cũng hiểu rõ chỗ sâu xa, làm điều gì hay là đối phó với cảnh huống nào cũng đắc kỳ trung, cũng có điều hòa, có bình hành, rất hợp đạo lý.

Trong việc Tu thân, Khổng giáo lấy sự Thành ý làm trọng yếu hơn cả. Nên Tăng Tử nói : “ Phú nhuận ốc, đức nhuận thân, tâm quảng thể bàn, cố quân tử tất thành kỳ ý.”  Nghĩa là : Giàu thì hiển hiện ra ở nhà, có đức tốt thì hiển hiện ra ở người, trong bụng rộng rãi thì thân thể có vẻ ung dung thơ thới. Bởi thế người quân tử phải giữ cái ý của mình cho thành thật. Cái ý ở trong mà thành thật thì cái đức hiển hiện ra ngoài thân thể.

Việc Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ đều bởi đó mà ra cả.” (Theo Nho giáo của Trần Trọng Kim)

II . Tu thân phải làm gì ?

Trong công việc Tu Thân, nên ghi nhớ các điều :
* Thấy người làm thiện thì xem xét lại mình có thiện không ?  Thấy người làm ác thì cũng phải xem xét lại mình có ác không ?
* Mình không sửa mình để dạy người là nghịch; còn sửa mình cho ngay chính để dạy người là thuận.
* Có lỗi mà không sửa, ấy là người lỗi vậy.
* Vui thấy người thiện, vui nghe sự thiện; vui nói lời thiện, vui làm điều thiện.
* Người nói những điều xấu của ta là thầy ta; kẻ nói những điều hay của ta là hại ta.
* Thuốc hay đắng miệng, lời ngay thật ích lợi cho việc sửa mình.
* Có cha mẹ mà không báo đáp, lại muốn con cái phải hiếu thảo với mình, là không biết lượng xét.

Có anh mà không biết kính trọng, lại đòi em phải vâng lời mình, là không biết lượng xét.
* Muốn xét người, trước phải xét mình; mình nói xấu người tức là mình tự xấu.
* Tự mãn là hỏng, tự kiêu là khờ, tự hại ấy    nhẫn.
* Người không phải chớ giao thiệp, vật không phải nghĩa chớ lấy, giận không phải chỗ chớ nên, việc không phải lễ chớ nói.
* Cẩn thận thì không lo, nhường nhịn thì không nhục, bình tỉnh thì thường yên, tiết kiệm thì thường đủ.

Muốn sửa mình thì phải giữ theo Đạo. Muốn giữ theo Đạo thì phải có lòng Nhân. Nhân là đức căn bản sanh ra các đức tốt khác, là đầu của các điều thiện.

Vào đạo Tu thân, phải xem kinh đọc sách đạo, học tập Thánh ngôn Thánh giáo để thanh lọc tư tưởng, gội rửa tánh xấu, hầu xa lần những ngôn ngữ tổn đức thất nhơn tâm, tránh không làm những điều tội lỗi, tập làm những điều nhân việc thiện, ban đầu hơi ngỡ ngàng đối với người đã quen tánh cũ, nhưng phải cố gắng bền chí thanh lọc ngày ngày tháng tháng trong câu : Nhựt tụ nguyệt tăng, hay Nhựt nhu ngoạt nhiễm.

Dòng nước sông múc vào trong chậu, để yên sẽ được lóng trong phần trên, thải hồi phần cặn cáu. Người tu hành siêng năng bền chí thanh lọc trau sửa bổn tâm bổn tánh, lần hồi sẽ trở nên thuần lương thánh thiện.

Phật Tiên Thần Thánh ngày nay, ngày xưa được trọn lành trọn tốt đều phải trải qua những giai đoạn thanh lọc ấy. Có nhiều bậc Phật Tiên Thần Thánh trước kia cũng mang thể xác làm người, cũng lâm vấp những thói hư tật xấu như ai, nhưng nhờ biết khiêm tốn học hỏi, biết phục thiện để chừa lỗi, thâu nhận lời lành, ý hay, lẽ tốt để trau sửa bổn tâm, rèn luyện bổn tánh, mới có thể tiến hóa lần lần từ kiếp người đến hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Đức tánh khiêm tốn, tinh thần phục thiện là món bửu bối quí giá để giúp người tu thân hành đạo có được những cử chỉ khả ái, tác phong dễ thương, tư cách đức độ, việc làm nhân từ khả dĩ gây được bầu không khí hiền hòa với những người đối diện. Đó là TU vậy.

Tu là sửa đổi từ dữ ra hiền, từ hư được nên, sửa đổi từ xấu thành tốt, từ phàm nhân ra Thánh nhân.
Tu cũng là tu bổ những chỗ hư hỏng thiếu sót để được hoàn mỹ chí thiện chí nhân vậy.

Nếu không sửa đổi cải thiện, nếu không khiêm tốn học hỏi điều lành, nếu không phục thiện để nhận chỗ sai hầu chừa cải thì dầu tu trọn đời mãn kiếp, phàm nhân vẫn là phàm nhân, luân hồi chuyển kiếp vẫn trong vòng chuyển kiếp luân hồi.

III . Đức Chí Tôn dạy về Tu thân

Đức Chí Tôn giáng cơ dạy về Tu thân, phải thực hành hằng ngày hằng bữa và liên tục :
“ Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa và lương tâm có điều chi cắn rứt chăng. Nếu phận sự còn nét chưa rồi, lương tâm chưa được yên tịnh thì phải biết cải hóa, ráng sức chuộc lấy lỗi lầm đã làm thì các con có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh.

Thầy mong mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình thì lấy làm may mắn cho nền Đạo, rồi các con sẽ được thong dong treo gương cho kẻ khác.”  (TNHT 1-2 hợp nhứt,B 69)
Hạnh Đường Huấn Luyện Lễ Sanh đặt ra 10 câu tự hỏi sau đây để giúp cho việc Tu Thân :
“ Vậy mỗi buổi tối, chúng ta nên kiểm điểm sự hành động của ta trong ngày và tự hỏi :
1 . Ta có ích kỷ không ?
2 . Ta có phạm Ngũ giới cấm không ?
3 . Ta có làm việc chểnh mảng không ?
4 . Ta có làm ngơ trước một điều thiện nhỏ nào không?
5 . Ta có làm điều gì phạm danh giá người không ?
6 . Ta có làm hại ai không ?
7 . Ta có xúi giục người làm quấy không ?
8 . Ta có làm gì trái luật nước không ?
9 . Ta có làm gì trái thuần phong mỹ tục không ?
10 . Ta có làm điều gì bất công không ?

Mỗi ngày cứ tập xét mình như vậy mãi, hễ nhận thấy mình đã làm điều chi thuộc 10 câu tự vấn ấy, tức khắc phải lo chừa cải, mỗi ngày cải tiến một ít, lần lần ta sẽ hoàn toàn quay về với lẽ phải.

Ngoài những phương pháp tu dưỡng cao siêu riêng dành cho bực thượng thừa, những qui tắc vừa kể trên đây rất hạp với chư thiện tín, mà vấn đề không có điều chi bó buộc khó khăn và cũng không một mảy may nào gọi là yếm thế, dị đoan, mê tín.”

Chương 19

CÁCH XƯNG HÔ

I . Cách xưng hô

Trong Đạo Cao Đài, cách xưng hô giữa Chức sắc và tín đồ cần phải có tánh cách khiêm tốn và có vẻ đạo, nên   Hội Thánh ban hành Huấn Lịnh dạy rõ sau đây :

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Nhị thập thất niên)
Tòa Thánh Tây Ninh

Số : 211/CV          HUẤN  LỊNH
THÁI, THƯỢNG, và NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ

Gởi cho chư vị Thiên phong Chức sắc, toàn đạo.
Chư  Hiền huynh, Hiền tỷ,
Nhận thấy công văn về mặt Đạo, có một phần ít Chức sắc không mấy rành cách xưng hô cùng nhau cho  y  một khuôn khổ.

Muốn bổ khuyết điều ấy và do nơi sự đề nghị của Hội Thánh, Đức Hộ Pháp đã phê chuẩn Huấn Lịnh nầy, xin chư Hiền huynh, Hiền tỷ do theo các danh từ xưng hô cùng nhau kể dưới đây mà dùng trong các công văn  của  Đạo.
1 . Giáo Tông và Hộ Pháp xưng :   Bần đạo.
2 . Chưởng Pháp và Đầu Sư xưng : Tinh tế.
    Tinh là tinh vi, thuần túy, Tế là tế độ chúng sanh.
3 . Chánh Phối Sư và Phối Sư xưng là : Tiện minh.
    Tiện là tiếng khiêm tốn, ám chỉ là còn thiếu kém tài đức.
    Minh là sáng, minh mẫn, lấy trí khôn mà xét đoán việc hành sự.
4 . Giáo Sư xưng là Tiện hiền.

Chữ Tiện, như đã giải ở trên. Chữ Hiền, là hiền đức, hiền lành. Đức Chí Tôn đã ban cho 72 Giáo Sư  là Thất thập nhị Hiền thì tính cách xưng hô của Giáo Sư  có chữ Hiền, hiểu nghĩa trắng, thiết  tưởng cũng không quá đáng.
5 . Giáo Hữu xưng là Tiện đệ.
Chữ Tiện, như đã giải ở trên. Chữ Đệ là em, mà có nghĩa trong số Tam thiên Đồ đệ của Đức Chí Tôn ban cho.
6 . Lễ Sanh xưng là Thiểu phẩm.
Thiểu là ít, là nhỏ, xưng là chức nhỏ một cách khiêm cung. Lễ Sanh là người có hạnh đức hơn hết trong chư môn đệ của Đức Chí Tôn mà dùng chữ khiêm tốn xưng mình thì giá trị càng cao.

Luận một cách tổng quát, Chức sắc nhỏ đối với Chức sắc lớn hơn, có thể gọi là Hiền huynh, còn mình tự xưng là Tiện đệ, còn bề trên xưng với cấp dưới thì tự gọi là Tiện huynh, kêu  em là Hiền đệ.

Luận về hai tiếng : Ông và Ngài hay dùng thường thức trong Đạo :
- Từ  Tín đồ đến Giáo Hữu thì dùng chữ  ÔNG.
- Từ  Giáo Sư  trở lên mới dùng chữ  NGÀI.
- Trong việc liên quan giữa gia đình thân thuộc thì cứ  giữ tiếng xưng hô như xưa nay : cô, bác, cậu, dì, anh, chị, em, cháu, . . . .
Đặc biệt, riêng về Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp thì phải để trên các văn kiện :
Bạch Đức Giáo Tông hay
Bạch Đức Hộ Pháp,
Kế đó là : Bạch Đức Ngài, dài theo câu chuyện nếu lập đi lập lại thì đề  Bạch Đức Ngài  luôn.
Trên văn kiện chánh thức gởi cho Chức sắc cấp trên thì phải để chức phẩm.
Thí dụ như : Giáo Hữu mà gởi cho Quyền Ngọc Chánh Phối Sư thì đề :
Giáo Hữu Thượng Vinh Thanh, Khâm Châu Đạo Cần Thơ,
Kính gởi : Ngài Quyền Ngọc Chánh Phối Sư.
Hàng dưới cách khoảng thì đề :
Kính Ngài Quyền Ngọc Chánh Phối Sư,

Rồi trong văn kiện thì xưng hô như cách đã chỉ trên, hoặc dùng tiếng chung mà gọi người là Hiền huynh, xưng là Tiện đệ.

Bên nữ phái, trên đối với dưới thì xưng là Tiện tỷ, gọi em là Hiền muội, dưới đối với trên thì gọi bề trên là Hiền tỷ, xưng mình là Tiện muội.

Vậy, từ đây, xin chư vị Chức sắc nam nữ tuân theo Huấn Lịnh nầy, tùy giai cấp mà xưng hô cùng nhau và ban hành cho toàn Đạo đặng rõ.

Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 15-7-Nhâm Thìn (dl 3-9-1952).
Nữ Chánh Phối Sư         Q.Thái CPS          Q.Thượng CPS           Q. Ngọc CPS
 (ấn ký)                              (ấn ký)                     (ấn ký)                        (ấn ký)
 Hương Hiếu.             Thái Khí Thanh.     Thượng Sáng Thanh.     Ngọc Non Thanh

II . Hạnh khiêm nhượng

“ Khiêm nhượng là hạ mình để nhường người, để tặng người trên mình.
Kẻ tài sơ mà biết khiêm nhượng, người tài giỏi mới vui dạ dắt dìu chỉ bảo. Người học giỏi biết khiêm nhượng, kẻ tài sơ mới đem lòng mến phục. Nên biết rằng dầu mình tài cao trí sáng bực nào cũng có người khác giỏi hơn mình.

Vả lại, nếu đem cái học lực hữu hạn của ta mà so sánh với biển Thánh mênh mông, rừng nhu thăm thẳm thì có thấm tháp vào đâu mà hòng tự đắc ?

Vì vậy mà Thánh hiền xưa đã nói : Học chừng nào càng thấy mình dốt chừng nấy.
Thánh hiền xưa thì vậy, còn người đời nay phần nhiều hễ mở miệng ra là khoe mình giỏi, không đợi ai khen. Cái tánh tự kiêu ấy làm cho con người như mù quáng, nên hễ việc chi của mình làm, lời chi của mình nói, đều cho là phải cả, rồi hiu hiu tự đắc. Người như vậy không bao giờ thấy chỗ lỗi của mình mà sửa đổi, hoặc chỗ dở của mình mà học hỏi cho hay.

Người tài giỏi chẳng cần khoe khoang, người ta cũng biết; kẻ dở mà cố khoe khoang, người ta đã không mến phục lại còn khinh bỉ là khác.” (Trích B 12 Huấn Luyện Lễ Sanh)
“ Đức Chí Tôn hằng dạy môn đệ của Ngài qua một đoạn Thánh giáo như sau :
Các con coi bực Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là thế nào !  Vì vậy mà nhiều kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ.

Hạnh khiêm nhượng là hạnh của mỗi đứa phải noi theo gương Thầy, mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhượng sao cho bằng Thầy.

Đức Khổng Thánh hằng dạy chư môn đệ :
Dầu mình có thông minh đến bực nào cũng phải xem mình như ngu dốt; dầu mình có công cao hơn thiên hạ cũng phải nhường người; dầu mình có sức mạnh hơn đời cũng coi mình như mềm yếu; dầu mình giàu có đầy bốn biển cũng coi mình như nghèo nàn vậy.

Ấy là hạnh khiêm nhượng của các bậc cổ nhân như thế là phương hay để giữ gìn thực lực của mình, không để cho tánh kiêu sa phóng túng, tính tự đắc tự kiêu là cái nhược điểm của tâm lý thường tình xô đẩy vào nẻo quấy, có hại cho tinh thần đạo đức.

Phàm làm người có tài năng là nhờ có tâm đức trước hết, nếu không khéo giữ gìn được tâm đức mà tự đắc tự kiêu thì tài năng quán thế cũng trở nên tối tăm tiêu tán, lắm khi còn đưa mình đến nơi hoạn nạn là khác. . . . . . .

Chỉ có tinh thần đạo đức là đáng cho chúng ta trông cậy mà khỏi sợ bị lầm lạc. Tinh thần đạo đức lấy nhỏ nhoi, khiêm nhượng làm cốt yếu.

Thế nên qua các giáo điều của Thánh nhân lưu truyền giác thế đều khuyên dạy nên học tánh khiêm cung hòa nhã để làm phương hay xử thế, tiếp vật cho được ôn nhu dè dặt, mới tránh khỏi sai lầm.

Ví bằng tự kiêu tự đắc, tức là buông trôi theo mặt sóng của thế tình, sao cho khỏi vùi dập mảnh thân phàm mà nhiều phen khốn đốn.

Hạnh khiêm nhượng là hạnh bảo vệ thân tâm quí báu nhứt, vì hễ làm người bắt đầu tự kiêu là bắt đầu bước trên đường nguy vong đó vậy.

Đời sống khiêm tốn là đời sống thanh cao khoáng đạt nhứt, có thể bảo tồn được thân tâm dù trải qua bao nhiêu sự tàn phá của thời gian. . . . . . .

Vì vậy, đức tánh khiêm nhượng là đáng cho ta quan tâm hơn hết.” (Trích Hạnh đường Huấn luyện Lễ Sanh)

Chương 20

MA KHẢO

I. Khảo thí

Khảo là thử thách khả năng để xem xét trình độ. Thí là thi. Khảo thí là mở ra một cuộc thi để xem xét khả năng và trình độ của thí sinh.
1 . Trường thi công quả :
TNHT : “ Một trường thi công quả, các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi.”

Có trường thi công quả tất có cơ khảo thí theo phép công bình thiêng liêng. Nếu muốn đoạt thủ địa vị nơi trường thi ấy, người hành đạo phải có công quả xứng đáng và đức hạnh hoàn toàn. Chịu thử thách mà không sa ngã mới đáng đứng và hàng Tiên Thánh.

Đức Chí Tôn mở trường thi công quả và giao cho Đức Di-Lạc Vương Phật làm chủ khảo chấm thi đậu rớt.

Cho nên, mỗi tín đồ Cao Đài đều có một cuốn Bộ công quả, mỗi khi làm được một công quả nào thì chư Thần Thánh biên chép vào cuốn Bộ ấy, để sau khi qui liễu, Đức Di-Lạc xem xét Bộ công quả mà chấm thi đậu rớt.

Kinh Tiểu Tường có câu :
Bộ công  Di-Lạc  Tam Kỳ  độ sanh.
Ấy là khảo thí về công quả.

Ngoài ra Đức Chí Tôn còn khảo thí về đạo đức, hay hạnh đức của tín đồ nữa, bởi vì muốn được vào Tiên tịch thì phải có hai điều kiện :
- Công quả xứng đáng,
- Hạnh đức hoàn toàn.

2 . Trường thi đạo đức :
TNHT : “ Thầy đã nói : Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, nó hằng thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp,  chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.

Thầy lại khuyên các con gìn giữ bộ thiết giáp cho đến ngày hội hiệp cùng Thầy.”  (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 26) 

Cuộc khảo thí nầy là về phần đạo đức, Đức Chí Tôn giao cho bọn Ma vương làm giám khảo, mà Đức Chí Tôn nói bọn nó là lũ hổ lang.

Cho nên, cuộc thi nầy rất khó khăn, bởi vì lũ Ma vương luôn luôn ở kế cận thí sinh, ý muốn đánh rớt thí sinh hơn là muốn cho thí sinh thi đậu, nên bày ra nhiều thứ cạm bẫy để lừa gạt thí sinh.

Luật công bình thiêng liêng không để thầy làm giám khảo cho trò, vì e ngại thầy thương trò mà nương tay không nỡ đánh rớt, nên phải giao cho người khác.

Đức Chí Tôn đã dạy dỗ chúng ta đủ các môn học, rèn luyện chúng ta cho hay cho giỏi, để rồi đến kỳ thi thì giao cho :
-  Đức Di-Lạc làm giám khảo chấm thi công quả.
-  Ma Vương làm giám khảo chấm thi đạo đức.

Có như vậy, việc chúng ta thi đậu mới có giá trị cao, mới xứng đáng làm môn đệ của Đức Chí Tôn, mới được Đức Chí Tôn ban thưởng cho những phẩm vị cao quí thiêng liêng.

II . Ma khảo

Ma khảo là ma quỉ thử thách tâm đức, phẩm hạnh của người tu để xem có xứng đáng đắc đạo cùng chăng.

Thường thì Chánh Tà tương khắc. Hễ Đạo khai thì Tà khởi. Đạo không ma khảo, Đạo khó thành; ma không Đạo khai, ma không được dịp mở cơ  thạnh vượng.

Ma khảo có nhiều cách, đại khái như :
- Mạo danh Tiên Phật, dối ban huyền diệu cốt mê hoặc người tu phải xa đường chánh giáo.
- Giục người thấy sắc đẹp mê sa, thấy tiền bạc hay danh lợi thì ham muốn.
- Hóa ra nhiều việc lạ lùng quái gở làm cho người tu sợ hãi mà bỏ dở công  phu.
- Chiếu theo sở dục của con người mà cám dỗ, tức là đánh ngay chỗ yếu của mỗi người.
- Bày bố những khó khăn gay cấn nguy hiểm làm cho người tu thối chí ngã lòng.

Các Đấng Tiên, Phật đều nói trước rằng : “Vô ma khảo bất thành Đại Đạo, Đạo bất khảo bất thành Phật.”

Xưa, Đức Chúa Jésus, Đức Phật Thích Ca, trước khi thành đạo, phải chịu cho Satan, Quỉ vương, khảo đảo đủ cách, khi không lay chuyển được thì Quỉ vương mới chịu phục và các Đấng ấy mới thành đạo.
 Home      [  1  ]  [   ]  [  3  ]  [  4  ]  [  5  ]  [  6  ]  [  7  ]  [  8  ]  Đến Hạnh Đường

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét