Bộ Pháp Chánh tổ chức các
Tòa Đạo từ Trung ương đến địa phương.
Bộ Pháp Chánh bổ nhiệm các
Chức sắc HTĐ (dưới Thập nhị Thời Quân) đi hành đạo về Pháp Chánh nơi các địa
phương, từ Tộc Đạo đến Châu Đạo và Trấn
Đạo.
* Pháp Chánh tại Tộc Đạo
là một vị Luật Sự (đối phẩm Chánh Trị Sự).
(Theo Hiến pháp của Chức
sắc HTĐ thì phẩm Luật Sự chưa được bổ nhiệm làm Pháp Chánh Tộc Đạo, nhưng vì số lượng Chức sắc Pháp Chánh quá thiếu nên
phải bổ nhiệm Luật Sự làm Pháp Chánh Tộc Đạo).
* Pháp Chánh tại Châu Đạo
là một vị Sĩ Tải (đối phẩm Lễ Sanh).
* Pháp Chánh tại Trấn Đạo
là một vị Truyền Trạng (đối phẩm Giáo Hữu).
Đạo Lịnh số 16 ngày 13-giêng-Kỷ Hợi (dl
20-2-1959) qui định Bộ Pháp Chánh có 3 Văn phòng như sau :
1 . Phòng
Luận Án :
Vả lại phận sự xử đoán
người phạm luật Đạo vốn do Hội Thánh CTĐ đảm nhận, nhưng trước khi xử đoán, hồ
sơ phải gởi đến Bộ Pháp Chánh để Bộ nầy định phải giao nội vụ đến : Hội Công
Đồng, hoặc Ban Kỷ Luật phân xử.
Và sau khi phân xử rồi,
Hội Công Đồng hay Ban Kỷ Luật cũng phải gởi hồ sơ đến Bộ Pháp Chánh xem lại coi
có đúng theo tinh thần luật pháp chăng.
Ấy là Pháp Chánh HTĐ giúp
cho Hội Thánh CTĐ áp dụng luật pháp để giữ trật tự của Hội Thánh.
2 . Phòng Kiểm soát công quả hay
Minh Tra Công nghiệp
(MTCN) hành đạo :
Mỗi năm có một lần phong
thưởng những vị dày công phụng sự chúng sanh mà chẳng vi phạm pháp luật của Đạo
và quốc pháp của Đời. Pháp Chánh HTĐ có phận sự kiểm soát hồ sơ công quả của
Chức sắc, Chức việc hầu làm cho sự phong thưởng được công minh.
Hai phận sự giúp cho CTĐ
thưởng người có công và răn kẻ có tội đã kể ở trên, đại ý là khuyến khích người
đạo đức mau thành công trên đường Đạo và cảnh tỉnh kẻ sai lầm sớm giác ngộ ăn
năn.
3 . Phòng Kiểm duyệt Kinh Luật (KDKL) :
Ngoài PCT và Tân Luật, Hội
Thánh cũng tùy trình độ tấn hóa của nhơn sanh mà ban hành những thể lệ bổ túc,
hầu nâng đỡ tinh thần đạo đức của bổn đạo. Dĩ nhiên, những thể lệ ấy tạm hữu
dụng trong một thời hạn, rồi có ngày nó sẽ trở nên lỗi thời.
Pháp Chánh HTĐ có phận sự
kiểm duyệt thể lệ ấy và đề nghị với Hội Thánh lập thể lệ khác thích ứng hơn.
Còn những kinh sách nào có
tính cách tổn thương tinh thần đạo đức, Pháp Chánh HTĐ cũng được phép đề nghị
hủy bỏ.
Ngoài các Phòng kể trên,
Bộ Pháp Chánh còn tổ chức thêm 2 Phòng khác nữa là :
- Phòng Thẩm vấn.
- Phòng Nhân viên.
Trong Bộ Pháp Chánh, không
có phân ra hai tổ chức : nam phái và nữ phái, như trong các cơ quan khác của
Đạo. Chức sắc nam nữ của Bộ Pháp Chánh đều mặc đạo phục với áo mão đều giống
hệt nhau, nhưng số lượng Chức sắc nữ phái rất ít so với nam phái.
Khi Bộ Pháp Chánh có nhu
cầu tuyển dụng phẩm Luật Sự, Bộ Pháp Chánh dâng tờ lên Đức Hộ Pháp chưởng quản
HTĐ để Đức Ngài ra Thánh lịnh mở khóa thi tuyển Luật Sự, ấn định thời gian, các
môn thi, ban Giám khảo.
Hồ sơ dự thi nạp tại Bộ
Pháp Chánh.
Những người thi đậu kỳ thi
tuyển nầy được gọi là Luật Sự tập sự. Sau thời gian 1 năm huấn luyện và làm
việc, các vị nầy mới được công nhận là Luật Sự chánh vị.
IV . Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy về Pháp Chánh
Đức Cao Thượng Phẩm giáng
cơ dạy Pháp Chánh :
“ Pháp luật vốn vô tư, đứng trong chánh giới chơn
truyền, nó là Bác ái, Công bình. Thi hành luật pháp đại khái là làm cho cả
chúng sanh biết tương thân tương ái trên đường
sanh sống và tấn hóa.
Vậy phận sự của Pháp Chánh HTĐ là gieo rắc sự thương
yêu trong toàn sanh chúng : không tư chẳng vị và giúp chúng sanh một cách cận
kề, kẻ hung người bạo, kẻ tham người tà, rồi tìm phương nâng đỡ tinh thần họ
trở về với chơn lý. Đó là áp dụng Luật Bác ái.
Còn như kẻ dữ nào còn muốn giở lối tà
mị, không thể sửa cải được, chừng ấy mới đem pháp luật
thi hành một cách công minh, chẳng vì thương mà trọng, không vì ghét mà khinh,
chẳng vì trung trực mà binh, không vì tà vạy mà bỏ. Như thế thì cân tội phước
mới chói rạng.
Ấy là phương bảo tồn trật tự trước Luật Công bình.
Vậy, thực hành cái thuyết Bác ái - Công bình là phận
sự của Pháp Chánh HTĐ. Thành thử có khi dùng đức để cảm hóa, có khi dùng pháp
luật để khuyên răn, cầu cho kẻ sai lầm giác ngộ chơn lý.
Nhưng chúng ta cũng chẳng khá quên rằng, ngoài pháp
luật của Đạo, kẻ tu hành còn phải chịu dưới hệ
thống thưởng phạt
của Luật Nhơn Quả : Lành thì thăng, dữ thì đọa. Sự báo ứng chẳng hề sai
chạy mảy may. Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu. Đó là một điều mà người hành
đạo nên lưu tâm cho lắm.” (Hạnh Đường 1973)
Đức Cao Thượng Phẩm dạy
Chức sắc CTĐ về Pháp Chánh :
“ Cũng vì lẽ ấy mà nay Đức Chí Tôn giáng trần lập Đạo,
lại chia hình thể của Ngài ra hai phần để có phương kềm thúc nhau trên bước
đường lập vị.
Phần CTĐ chuyên về mặt giáo hóa nhơn sanh, còn phần
của HTĐ thì lo về mặt luật pháp để bảo thủ chơn truyền của Đạo. Nhờ đó nền
Thánh giáo của Đức Chí Tôn khỏi phải qui thành phàm giáo.
Cũng vì lẽ quyền hành riêng biệt ấy mà khiến cho hai
bên thường có phản khắc đạo quyền, bởi tánh phàm thường hay có phạm những lỗi
lầm mà chẳng chịu phục thiện, đặng cải sửa cho trở nên tận thiện.
Các em đâu hiểu rằng, Chí Tôn giao quyền sửa trị Chức
sắc, Chức việc và toàn đạo nam nữ cho bên HTĐ là Thánh ý của Đức Chí Tôn muốn
dùng hình phàm đặng làm cho giảm bớt tội
vô hình.
Nếu ai chẳng thận trọng để cho phạm vào luật pháp mà
chẳng chịu pháp sửa trị của HTĐ thì rất uổng cho một kiếp tu mà không trọn
phận, và đến khi rời bỏ xác phàm rồi, làm sao có cơ hội lập công nữa ! Mà một khi không lập công quả được nữa thì
tội án đã phạm làm sao chuộc được, rồi mãi bị trầm luân khổ hải đời đời kiếp
kiếp.
Vậy các em khá nhớ lời Bần đạo dặn mà giữ mình cho
trọn phận trong lúc Tam Kỳ Phổ Độ nầy.
Thêm nữa, các em nên nhớ : Hễ khi các em đã vô tình
hay cố ý mà phạm vào luật pháp thì hãy vui vẻ để cho luật pháp sửa trị đặng
khỏi vướng tội vô hình.
Còn những người được lịnh HTĐ để sửa trị các em là
những người ơn của các em, chớ không phải người thù theo tánh phàm của nhơn
sanh đã tưởng.” (TNST-Q2-B 50)
“ Chơn truyền là gốc, luật pháp là chuẩn thằng, từ bi
bác ái là đạo pháp.
Mỗi việc các em phải khá suy nghiệm cho kỹ lưỡng, phải
luôn luôn nhớ rằng : Mình là người của chúng sanh, chớ chẳng phải chúng sanh là
người của mình.
Mảnh thân phàm đã làm con vật hy sinh đặng Đức Chí Tôn
dùng để sửa đời lầm lạc ra thuần phong mỹ tục, thì phải biết nó ra thế nào rồi,
giá trị hay chăng là được trọn cùng không đó. Lại nữa, khi đã làm con vật hy
sinh thì con vật ấy phải tùng theo sự điều khiển của chủ nó, nếu chẳng tuân thì
sự hình phạt không tránh khỏi.
Các em có biết hữu hình là sao ? vô hình là sao ? Hai đàng chỉ khác nhau như hình với bóng,
hình thế nào thì bóng cũng thế ấy. “ (TNST-Q2- B 64)
Chương 10
PHƯỚC THIỆN
I . Quá trình thành lập CQPT
Khởi đầu là Minh Thiện Đàn
do Đức Lý Giáo Tông lập ra tại làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho vào năm 1927 để Đức Lý
thu nhận các tín đồ tu chơn.
Năm 1929, Đức Lý Giáo Tông
giao Minh Thiện Đàn cho Đức Hộ Pháp cai quản. Đức Hộ Pháp đến Phú Mỹ hai lần để
cân thần, lựa chọn được tất cả 72 vị công quả.
Năm 1930, Đức Phạm Hộ Pháp
mua một sở đất tại xã Trường Hòa, lập ra Phạm Nghiệp là cơ sở đầu tiên của Phạm
Môn tại Tây Ninh. Tất cả 72 vị công quả nơi Minh Thiện Đàn được nhập về Phạm
Môn.
Các tu sĩ trong Phạm Môn
gọi Đức Hộ Pháp là Sư phụ và xưng mình là đệ tử. Tại Trường Hòa, Đức Hộ Pháp
cân thần chọn được 72 vị công quả Phạm môn.
Năm Quí Dậu (1933), một số
người ganh ghét, vu cáo Phạm Môn chống đối nhà cầm quyền Pháp, nên Pháp ra lịnh
đóng cửa các cơ sở lương điền, công nghệ của Phạm Môn. Đức Hộ Pháp phải cho
phân tán các vị nầy đi xuống các tỉnh Nam Kỳ khai mở các cơ sở lương điền, công
nghệ và thương mãi.
Đến năm Ất Hợi (1935), Đức
Hộ Pháp biến Phạm Môn thành Cơ Quan Phước Thiện với đầy đủ cơ sở lương điền
công nghệ và thương mãi ở khắp các tỉnh Nam Kỳ.
Năm Mậu Dần (1938), Cơ
Quan Phước Thiện (CQPT) được hợp thức hóa bằng Đạo Luật Mậu Dần, chánh thức là
một cơ quan của Đạo Cao Đài.
Cũng trong năm nầy, Đức Lý
Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp đồng ký tên lập Đạo Nghị Định số 48/PT ngày
19-10-Mậu Dần (dl 10-12-1938) xác nhận sự thành lập CQPT và Thập nhị đẳng cấp
thiêng liêng của CQPT.
Nền Đại Đạo đang phát
triển thì tình hình chánh trị của Việt Nam và thế giới biến chuyển, chánh quyền
Pháp cấm đạo, đóng cửa Tòa Thánh, bắt Đức Hộ Pháp và một số Chức sắc cao cấp
đày đi Madagascar vào giữa năm 1941. Sau khi thế chiến thứ hai kết thúc, Nhựt
Bổn đầu hàng, Pháp trở lại Việt Nam, chánh quyền Pháp trả tự do cho Đức Hộ
Pháp, và đưa Đức Ngài trở về Tòa Thánh, vào ngày 4-8-Bính Tuất (dl 30-8-1946).
Đức Hộ Pháp tái thủ phận
sự, củng cố trở lại nền Đạo sau nhiều năm bị đàn áp điêu tàn.
Cuối năm Bính Tuất (1946),
Đức Hộ Pháp triệu tập Đại Hội Phước Thiện, thăng thưởng nhiều Chức sắc PT, rồi
Đức Hộ Pháp thành lập Hội Thánh Phước Thiện có Cửu Viện giống như bên Hội Thánh
Cửu Trùng Đài.
II . Các phẩm Chức sắc Phước Thiện
Đạo Nghị Định 48 của Đức Lý
Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp thành lập Cơ Quan Phước Thiện, qui định 12 phẩm
cấp Chức sắc Phước Thiện gọi là Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của CQPT, với
Đạo phục và dây sắc lịnh, kể ra như sau đây :
1 . Phật Tử, (Đạo phục do Đức Chí Tôn định
sau)
2 . Tiên Tử, áo tràng trắng, khăn đóng
vàng 9 lớp chữ nhứt, DSL vàng có gắn lịnh bài, chân mang giày trắng.
3 . Thánh Nhơn, - như trên-
4 . Hiền Nhơn, - như trên-
5 . Chơn Nhơn, áo tràng
trắng, khăn đóng trắng 7 lớp chữ nhơn, DSL xanh có gắn lịnh bài, không mang
giày.
6 . Đạo Nhơn, - như trên-
7 . Chí Thiện, như trên nhưng đội khăn đen 7
lớp chữ nhơn.
8 . Giáo Thiện, áo tràng trắng, khăn đen, DSL đỏ có lịnh
bài.
9. Hành Thiện, - như trên-
10. Thính Thiện, - như trên-
11. Tân Dân, áo dài trắng, quần trắng, khăn đen.
12. Minh Đức, - như trên-
(Viết tắt : DSL : dây sắc lịnh).
Phẩm Hiền Nhơn trở lên
không còn phận sự trong CQPT, mà qua HTĐ giúp Hội Thánh HTĐ giữ gìn chơn pháp.
Dây sắc lịnh trong bộ Đạo
phục của Chức sắc Phước Thiện luôn luôn choàng từ vai trái xuống hông mặt, ý
nghĩa là thuộc về Chi Đạo của HTĐ.
Chức sắc CQPT chỉ có một
bộ Đạo phục, không có đại phục và tiểu phục như Chức sắc CTĐ hay HTĐ.
Chức sắc nữ phái Phước
Thiện có Đạo phục giống y như Chức sắc nam phái PT, nhưng đầu để trần, không
đội khăn, phẩm nào cũng vậy.
Người muốn gia nhập vào
CQPT thì trước hết phải là một Đạo hữu của Đạo Cao Đài, sau đó đến Đầu Tộc Đạo
xin giấy chứng hạnh kiểm và làm giấy hiến thân trọn đời cho CQPT. Khi có đủ hồ
sơ rồi thì đem nạp vào cơ sở PT mà mình muốn làm công quả tại đó, vị Chủ sở sẽ
chấp hồ sơ ấy gởi lên Bàn Cai Quản và vị Quản Tộc Đạo PT.
Đạo hữu khởi đầu làm công
quả nơi cơ sở PT, chưa chánh thức là người của CQPT, nên được gọi là Đạo sở.
Sau thời gian 6 tháng công quả, vị Đạo sở mới được chánh thức nhập vào CQPT với
phẩm khởi đầu là Minh Đức.
III . Tổ chức Cơ Quan Phước Thiện
Tổ chức của CQPT có những
nét giống như Hành Chánh Đạo của Cửu Trùng Đài, nghĩa là cũng phân làm 2 phái:
nam phái và nữ phái. Hai phái nầy có quyền hành riêng biệt và chỉ điều hành bên
phái mình mà thôi.
Đứng đầu CQPT bao gồm có 2
phái nam và nữ là một vị Thời Quân chi Đạo của Hiệp Thiên Đài, gọi là Thống
Quản CQPT.
Dưới Thống Quản CQPT là 2
vị Chưởng Quản nam phái và nữ phái PT, phẩm Chơn Nhơn.
(Xem Sơ đồ tổ chức của
CQPT)
Dưới mỗi vị Chưởng Quản là
2 vị Phó Chưởng Quản : Đệ I và Đệ II.
Dưới Phó Chưởng Quản là
Cửu Viện PT : Cửu Viện PT nam phái giống y như Cửu Viện PT nữ phái, gồm 9 Viện,
có tên và nhiệm vụ giống y như bên Cửu Trùng Đài : Hòa Viện, Lại Viện, Lễ Viện,
Học Viện, Y Viện, Nông Viện, Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện.
CQPT thì lo tạo tác Điện
Thờ Phật Mẫu để thờ phượng Đức Phật Mẫu, còn bên Hành Chánh Đạo CTĐ thì lo xây
dựng các Thánh Thất để thờ Đức Chí Tôn.
Hai tổ chức Hành Chánh và
Phước Thiện song hành nhau, các chức vụ tương ứng nhau, phận sự thờ phượng
tương đương nhau, do đó mà các Chức sắc CQPT đôi khi xem nhẹ mục tiêu chánh yếu
của Phước Thiện là cơ quan bảo tồn, cứu khổ ban vui cho chúng sanh, làm ra thật
nhiều của cải vật chất để thực hiện mục tiêu nầy.
So sánh tổ chức CQPT ở địa
phương với tổ chức Hành Chánh Đạo CTĐ ở địa phương :
Sơ đồ tổ chức CQPT :
IV .
Đại hội Phước Thiện
Đại Hội PT là một hội nghị mà các hội viên gồm
đủ đại diện của các thành phần Chức sắc trong CQPT, kể ra :
- Các Phái viên : đại diện cho các vị trong 3
phẩm : Minh Đức, Tân Dân, Thính Thiện.
- Các Nghị Viên : đại diện cho các vị Hành
Thiện.
- Các Chức sắc PT từ Giáo Thiện đến Chơn Nhơn.
(Xem chi tiết trong Đạo Luật Mậu Dần, phần
Phước Thiện)
Phận sự của Đại Hội Phước Thiện là :
1 . Kiểm soát công việc hành đạo trong năm vừa
qua, nhận định các ưu khuyết điểm.
2 . Chương trình hành đạo trong năm tới, dự
kiến mở rộng các cơ sở Phước Thiện.
3 . Kiểm soát tài chánh và phỏng định số thâu
xuất.
4 . Ý kiến về cầu phong cầu thăng của Chức sắc
PT.
Đại hội Phước Thiện mỗi năm họp một lần ngay
sau ngày Ba Hội lập Quyền Vạn linh họp xong.
V .
Chơn truyền của Phước Thiện
“ Phước Thiện là cơ quan
bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải
khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát ít
oi, hoặc giúp tay cho bên Hành Chánh thi hành luật pháp cho đặng dễ dàng trọn
vẹn.” (ĐLMD)
“ Phước Thiện là cơ quan
tận độ, cốt để mở đường Thánh đức cho toàn sanh chúng có đủ phương thế nhập vào
Thánh thể, người ngoại giáo có thể nhờ nơi cửa Phước Thiện mà hiệp cùng Hội
Thánh.
Phước Thiện là phương bảo
tồn sanh chúng, tế khổn phò nguy, vì trong đời người không có sự khổ nào bằng
sanh, lão, bệnh, tử. Muốn thi hành cơ tận độ, những con cái của Đức Chí Tôn sẵn
có tài tình học thức, đã được lập công nơi cơ quan khác, còn sót lại những kẻ
dốt, kém, thật thà thì do nơi đâu mà lập công đoạt vị ? Chỉ có CQPT mới có đủ
phương thâu nhập toàn thể con cái Chí Tôn qui về cửa Đạo, nên gọi là cơ Bảo
tồn.
Muốn thật hành chánh nghĩa
Phước Thiện, con cái Chí Tôn đói phải nuôi, rách cho mặc, tật nguyền phải bảo
dưỡng, cô thế phải chở che, châu cấp người già cả, săn sóc kẻ bịnh hoạn, vv. .
. . nói tóm lại là phải gánh mọi sự khổ trên đời nầy.
Vả lại, đời là một trường
tranh đấu vì miếng ăn chỗ ở. Muốn sống phải no, ấm, mạnh.
Phước Thiện cứu kẻ khổ,
giúp kẻ nguy, dìu dắt cho có phương sanh sống, tuy không giàu mà tự toại, không
sang mà thung dung, mới có thể tránh được sự tranh đấu vì lẽ sống, tức là nâng
đỡ, bảo sanh cho hạng Tam dân (nông, công, thương) hưởng đủ quyền lợi mà mỗi người
được quyền sống hưởng theo luật tự nhiên của Tạo hóa.
Phước Thiện là phương pháp
làm cho bình đẳng giữa hai hạng người : vô sản và tư sản, hay nói cho đúng là
dung hòa quyền lợi chung hưởng chánh đáng, bất phân giai cấp sang hèn, tức là
huờn thuốc tự do bình đẳng bác ái.
Chơn truyền của Phước
Thiện lại còn phải thay thế cho Chí Tôn và Phật Mẫu thật hành cơ cứu khổ bằng
phương pháp là : làm cha những kẻ không cha, làm mẹ những kẻ không mẹ, làm anh
những kẻ không anh, làm bạn những kẻ thiếu bạn, làm chồng làm vợ những kẻ không
chồng không vợ, trong sự thương yêu cao quí và trong sự giúp đỡ chơn thành. Như
thế mới có thể thực hành cơ quan cứu khổ để nơi mặt thế.
Nếu CQPT bảo đảm được con
cái Chí Tôn dường ấy thì ân đức của Đại Đạo có thể sánh cùng Trời Đất, làm cho
đời khổ trở nên đời hạnh phúc, đời loạn trở nên đời an cư lạc nghiệp thì sự hòa
bình của đại đồng thế giới mới mong thành tựu đặng. “ (Trích Chánh Trị Đạo của
Trần Khai Pháp)
“ Phải cho cơm những kẻ thiếu cơm, cho thuốc những kẻ
thiếu thuốc, cho hàn những kẻ không hàn chôn, chở che những kẻ bị đàn áp bất
công, binh vực những kẻ bị chúng hiếp, an ủi những kẻ buồn rầu, khuyến khích
những kẻ toan thối bước, độ những kẻ khổ tâm, lau chùi nước mắt những kẻ cô độc
đang khóc trước mặt mình.
“ Tóm lại, là phải tự hiến mảnh thân làm tế vật cho
Đức Chí Tôn để làm tôi đòi cho con cái của Người sử dụng trong công việc đem
hạnh phúc đến cho họ, để thực hành trọn vẹn cơ quan giải khổ của Đại Từ Phụ.” (TNST-Q2-B 67)
Chương 11
CƠ QUAN LẬP PHÁP
(Ba Hội lập Quyền Vạn Linh)
I .
Quyền Vạn linh là gì ?
Vạn linh là toàn cả các chơn linh (linh hồn) trong
càn khôn vũ trụ, gồm đủ Bát hồn.
Bát hồn là tám phẩm chơn
hồn trong càn khôn vũ trụ, gồm : kim thạch hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, Nhơn
hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.
Quyền Vạn linh là quyền
quyết nghị của các đại biểu của Vạn linh, tức là các đại biểu của Bát hồn.
Khi lập Đạo Cao Đài, Đức
Chí Tôn lập ra 3 đài tương ứng với 3 quyền : Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp.
- Quyền Lập pháp là của
Bát Quái Đài do Đức Chí Tôn nắm giữ.
- Quyền Hành pháp là của
Cửu Trùng Đài do Đức Giáo Tông nắm giữ.
- Quyền Tư pháp là của
Hiệp Thiên Đài do Đức Hộ Pháp nắm giữ.
Khi lập Đạo xong thì Đức
Chí Tôn giao Quyền Lập pháp lại cho Vạn linh, vì Đức Chí Tôn cho Quyền Vạn linh
được ngang bằng với Quyền Chí linh. (Chí linh là Đức Chí Tôn). Vì thế, Quyền
Vạn linh lập thành Cơ quan Lập pháp của Đạo Cao Đài.
Cơ quan Lập pháp của Đạo
Cao Đài là một cơ quan có nhiệm vụ lập ra hay hủy bỏ các luật pháp tu hành cho
các tín đồ Cao Đài, để các luật pháp nầy lúc nào cũng thích hợp với trình độ
tiến hóa của nhơn sanh.
Quyền Vạn linh lập pháp
của Đạo Cao Đài thể hiện lần đầu tiên là lập thành Tân Luật, luật tu hành của
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Muốn thực hiện Quyền Vạn
linh thì phải quyết nghị qua 3 Hội :
- Hội Nhơn sanh,
- Hội Thánh,
- Thượng hội.
- Hội Nhơn sanh là hội
nghị của các đại biểu nhơn sanh gồm : đại biểu của hạng Đạo hữu (đối phẩm Địa
Thần), đại biểu của hạng Bàn Trị Sự (đối phẩm Nhơn Thần), đại biểu của hạng Lễ
Sanh (đối phẩm Thiên Thần).
Hội Nhơn sanh còn là đại
biểu của các hạng chúng sanh : kim thạch, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, bởi vì
trong chúng sanh thì nhơn loại tiến hóa và linh hơn tất cả, nên làm đầu chúng
sanh.
Cho nên, Hội Nhơn sanh đại
biểu cho 5 phẩm chơn hồn : kim thạch hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, Nhơn hồn
và Thần hồn.
- Hội Thánh là hội nghị
của các đại biểu của hàng Thánh, gồm : các Giáo Hữu (đối phẩm Địa Thánh), các
Giáo Sư (đối phẩm Nhơn Thánh), các Phối Sư và Chánh Phối Sư (đối phẩm Thiên
Thánh).
- Thượng Hội là hội nghị
của các đại biểu hàng Tiên và Phật, gồm : các vị Đầu Sư (đối phẩm Địa Tiên),
các vị Chưởng Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh (đối phẩm Nhơn Tiên), Đức Giáo
Tông và Đức Hộ Pháp (đối phẩm Thiên Tiên và Phật vị).
Ba hội nầy hiệp lại quyết
nghị một điều gì thì đó là quyết nghị của Vạn linh, tạo thành Quyền Vạn linh.
Hội Nhơn sanh thể hiện ý
nguyện của nhơn sanh nên có tánh cách dục tấn, cấp tiến, thường đi quá cao so
với năng lực của nhơn sanh, nên cần phải có Hội Thánh để dung hòa và kềm chế
bớt, còn Thượng Hội thì chỉnh đốn cho hợp với Thiên điều.
Do đó, một quyết nghị mà
được thông qua 3 Hội như thế thì nhứt định là xác đáng, hợp lý và hợp Thiên
điều.
Cho nên, luật nào được Ba
Hội lập Quyền Vạn linh quyết nghị thông qua, thì được xem là Thiên điều tại
thế, không ai có quyền sửa cải. Khi có điều luật nào áp dụng lâu ngày trở nên
lỗi thời thì chỉ có Quyền Vạn linh mới được sửa cải mà thôi.
II . Hội Nhơn sanh
1 - Các Đại biểu của Hội Nhơn sanh gồm :
1 . Các vị Lễ Sanh Đầu Tộc
Đạo.
2 . Các Nghị viên.
3 . Các Phái viên.
- Lễ Sanh làm đầu nhơn
sanh, nên các vị Lễ Sanh Đầu Tộc Đạo phải có mặt trong Hội Nhơn sanh.
- Nghị viên là đại biểu
của ba hạng : Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự. Lấy đơn vị bầu cử là Tộc đạo
:
Các vị Chánh Trị Sự đương
quyền trong Tộc đạo bầu ra 1 đại biểu Chánh Trị Sự.
Các vị Phó Trị Sự đương
quyền trong Tộc đạo bầu ra 1 đại biểu Phó Trị Sự.
Các vị Thông Sự đương
quyền trong Tộc đạo bầu ra 1 đại biểu Thông Sự.
Như vậy trong 1 Tộc đạo có
3 Nghị viên : 1 Chánh Trị Sự, 1 Phó Trị Sự, và 1 Thông Sự.
- Phái viên là đại biểu
các Đạo hữu trong Tộc đạo.
Trong Tộc đạo, cứ 500 Đạo
hữu thì bầu ra 1 Phái viên. Thí dụ như trong Tộc đạo có 800 Đạo hữu nam phái thì
được bầu ra 2 Phái viên nam phái. (Nếu có 980 Đạo hữu thì cũng chỉ bầu ra 2
Phái viên mà thôi, vì vẫn chưa tới số 1000).
Đối với nữ phái, số Nghị
viên và Phái viên bên nam phái thế nào thì số Nghị viên và Phái viên nữ phái
cũng y như thế.
Nhiệm kỳ của Nghị viên là
Phái viên là 3 năm.
2 - Tổ chức Hội Nhơn sanh :
Tất cả các Đại biểu nam nữ
của Hội Nhơn sanh họp chung với nhau, chỗ ngồi phân biệt hai bên nam nữ.
1 . Nghị trưởng : Thượng Chánh Phối Sư.
2 . Phó Nghị trưởng : Nữ Chánh Phối Sư.
3 . Từ hàn : - 1 Nghị viên nam
- 1 Nghị viên nữ.
4 . Phó Từ hàn : - 2 Nghị viên nam
- 2 Nghị viên nữ.
5 . Tất cả các Lễ Sanh Đầu
Tộc Đạo, các Nghị viên và Phái viên đều là Hội viên của Hội Nhơn sanh, có
quyền bàn cãi và bỏ thăm biểu quyết.
6 . Một Chức sắc HTĐ được
cử tới dự Hội Nhơn sanh để chứng kiến và giữ cho cuộc hội nhóm của Hội không
phạm đến luật đạo. Vị nầy không đặng biểu quyết.
3 - Phận sự
của Hội Nhơn sanh :
Hội Nhơn sanh mỗi năm nhóm
họp một lần vào ngày 15 tháng giêng, để bàn cãi các việc sau đây :
1 . Giáo hóa nhơn sanh.
2 . Liệu phương hay cho
Đạo và Đời không phản khắc nhau và nâng cao tinh thần trí thức của nhơn sanh.
3 . Phổ độ nhơn sanh vào
cửa Đạo, dìu dắt tín đồ trọn tuân các luật pháp của Đạo.
4 . Sửa cải, thêm bớt hay
hủy bỏ những luật lệ của nhơn sanh không còn phù hạp.
5 . Lo cho nền Đạo được
điều hòa và đủ phương tiện đặng phổ thông chơn đạo.
6 . Xem xét tài chánh,
kiểm tra tài sản của Đạo, phỏng định số thâu xuất trong năm tới.
7 . Xem xét sổ cầu phong
và cầu thăng của Chức việc và Chức sắc.
4 - Ban Ủy
viên :
Sau khi khai mạc Đại Hội
Nhơn sanh, Nghị trưởng trình bày chương trình nghị sự xong thì toàn hội chọn cử
ra 4 Ban Ủy viên ngánh theo phái đặng thảo luận các vấn đề cho được cặn kẽ và
thấu đáo :
1) Ban Ủy viên phái Thái.
2) Ban Ủy viên phái Thượng.
3) Ban Ủy viên phái Ngọc.
4) Ban Ủy viên Nữ phái.
Số hội viên của Hội Nhơn
sanh được chia đều cho 4 Ban Ủy viên nầy.
Mỗi Ban Ủy viên cử : 1
Nghị trưởng, 1 Phúc sự viên.
5 - Hội Ngánh thường xuyên Hội Nhơn sanh.
Mục đích của Hội Ngánh
thường xuyên Hội Nhơn Sanh tại Tòa Thánh là bàn tính các điều ngoài chương trình
nghị sự của Đại hội và các việc trọng hệ xảy ra thình lình, nhứt là việc giao
thiệp cùng chánh phủ. Hội Ngánh thường xuyên của Đại Hội Nhơn sanh gồm có :
o Thượng Chánh Phối Sư : Nghị trưởng.
o Nữ Chánh Phối Sư : Phó Nghị trưởng.
o Từ hàn nam nữ của Đại hội : Từ hàn.
o Phó Từ hàn nam nữ của Đại hội : Phó Từ hàn.
o Mỗi Châu đạo chọn 1 Nghị viên nam và 1 Nghị
viên nữ tham dự Hội Ngánh.
o Một Chức sắc HTĐ chứng kiến, bảo thủ luật
pháp.
Hội Ngánh thường xuyên Hội
Nhơn sanh nhóm mỗi năm 3 lần :
mùng 6 tháng 4; 13 tháng 8;
13 tháng 10.
III . Hội Thánh
Đại Hội Hội Thánh gồm tất
cả Chức sắc nam nữ CTĐ thuộc hàng Thánh (gồm các phẩm : Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối
Sư, Chánh Phối Sư) và Thập nhị Thời Quân của HTĐ với tánh cách là Hội viên, có
quyền bàn cãi và bỏ phiếu, nhưng số phiếu nầy tính riêng.
Các Chức sắc hàm phong
không được dự vào Hội viên của Đại hội nầy.
1 - Tổ chức của Đại hội Hội Thánh :
1 . Nghị trưởng : Thái Chánh Phối Sư.
2 . Phó Nghị Trưởng : Nữ Chánh Phối Sư.
3 . Từ hàn : - 1 Chức sắc nam
- 1 Chức sắc nữ.
4 . Phó Từ hàn : - 2 Chức sắc nam
- 2 Chức sắc nữ.
5 . Nghị viên : Tất cả
Chức sắc CTĐ nam nữ từ Giáo Hữu đến Chánh Phối Sư.
6. Thập nhị Thời Quân HTĐ phải
có mặt đặng bảo thủ luật đạo không cho Hội phạm đến, cũng đồng quyền như Nghị
viên.
Đại Hội Hội Thánh nhóm họp
vào ngày 15 tháng 7 âm lịch hằng năm.
Nơi nhóm Đại Hội Hội Thánh
: giữa Tòa Thánh.
2 - Nhiệm vụ của Đại hội
Hội Thánh :
1 . Thảo luận các vấn đề
của Hội Nhơn sanh dâng lên, hoặc của Thượng Hội đưa xuống đặng lập phương ban
hành.
2 . Lo về sự phổ độ nhơn
sanh, việc châu cấp cho Chức sắc hành đạo tha phương, xem xét lại tài chánh của
Đạo, kiểm thảo lại lịch trình hành đạo.
3 . Bàn cãi và công nhận
số phỏng định thâu xuất tài chánh trong năm tới.
4 . Hủy bỏ, thêm bớt, sửa
cải những luật lệ nào không phù hạp với sự tiến hóa của nhơn sanh.
5 . Quan sát các việc có
ảnh hưởng đến nền Đạo.
IV . Thượng Hội
Thượng Hội là hội tối cao
trong Ba Hội lập Quyền Vạn linh, gồm 11 Chức sắc cao cấp nhứt của Cửu Trùng Đài
và Hiệp Thiên Đài.
Thượng Hội gồm :
- Đức Giáo Tông : Nghị trưởng.
- Đức Hộ Pháp : Phó Nghị trưởng.
- Thượng Phẩm : Nghị viên.
- Thượng Sanh : - -
- 3 Chưởng Pháp : - -
- 3 Nam Đầu Sư :
- -
- 1 Nữ Đầu Sư :
- -
Một vị Phối Sư hay Giáo Sư
làm Từ hàn, không có quyền bàn cãi và bỏ thăm.
Mỗi năm, sau ngày lễ Noel,
Thượng Hội nhóm thường niên trong hạn kỳ là 15 ngày.
Ngoài phiên nhóm lệ nầy,
Thượng Hội còn nhóm 3 tháng 1 lần.
Thượng Hội nhóm trong Đền
Thánh với nghi thức Khai hội và Bãi hội rất long trọng.
Khi Thượng Hội nhóm thường xuyên thì nhóm tại Giáo Tông Đường.
Phận sự của Thượng Hội :
Xem xét và phê chuẩn :
1 . Các điều của Hội Nhơn
sanh và Hội Thánh bàn luận về việc Đạo.
2 . Các điều ước nguyện
của Hội Nhơn sanh và Hội Thánh, những điều nào, hoặc của Hội Thánh, hoặc của
Hội Nhơn sanh đánh đổ thì không được phép đệ lên Thượng Hội, trừ khi nào có đơn
của hai ông Nghị trưởng kêu nài.
3 . Thượng Hội bàn luận và
định đoạt các việc cần gấp, hoặc yếu trọng phải ban hành trong Đạo.
Biểu quyết :
Khi đã bàn cãi xong, Đức
Giáo Tông và Đức Hộ Pháp bày tỏ ý kiến sau cùng, rồi Đức Giáo Tông cho bỏ thăm,
vẫn lấy đa số làm qui tắc.
Quyền của Giáo Tông và Hộ
Pháp hiệp lại là quyền Chí Tôn nên hai vị Đại Thiên Phong nầy không bỏ thăm.
Nếu cả Ba Hội trong Quyền
Vạn linh phản khắc nhau thì Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp hiệp lại chỉ định thế
nào thì toàn đạo phải tuân theo thế ấy.
Thảng như Giáo Tông và Hộ
Pháp phản khắc nhau, thì cả thảy ý kiến của hai hội dưới đều bị hủy bỏ. Chừng
ấy, cả Ba Hội lập Quyền Vạn linh phải nhóm lại từ đầu để thảo luận lần thứ hai.
Trước giờ bế mạc Thượng
Hội 15 phút, Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp vào đại điện mật nghị, rồi trở ra cho
Thượng Hội biết rõ quyết định chung của hai vị.
Chương 12
LƯỢC SỬ THÀNH LẬP
Đạo Cao Đài
Trong chương nầy, chúng
tôi ghi lại một cách tóm tắt các sự kiện quan trọng theo niên biểu (từ năm 1925
đến 1941) để bạn đạo có một nhận định tổng quát về sự thành lập Đạo Cao Đài của
Đức Chí Tôn Thượng Đế.
Bạn đạo muốn biết thêm các
chi tiết thì đọc các quyển sách về Lịch Sử Đạo Cao Đài.
Năm Ất Sửu
(1925)
Thứ sáu, 4-6-Ất Sửu (dl 24-7-1925), lúc 9 giờ tối.
Bốn ông : Cao Quỳnh Cư,
Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Diêu họp nhau tại nhà ông Sang ở phố
hàng dừa, Sài Gòn, để thí nghiệm xây bàn theo lối Thần Linh học Tây phương. Bốn
ông ngồi quanh một cái bàn tròn một trụ ba chân đặt nơi hàng ba, một chân bàn
kê lên cho gập ghình, hai bàn tay đều xòe ra úp lên mặt bàn, im lặng định thần.
Lát sau, cái bàn rung động, nghiêng qua lại gõ nhẹ lên gạch. Các ông biết là có
vong linh nhập vào bàn, tuy nhiên khi ghi lại các tín hiệu nhận được thì không
đọc được ra câu gì hết, có chữ Việt, có chữ Pháp lộn xộn, dường như các vong
linh tranh nhau nói. Đến quá khuya mà chưa có được kết quả cụ thể nào, các ông
mệt quá, đành dọn dẹp đi nghỉ, hẹn đêm mai thử nữa.
Thứ bảy, 5-6-Ất Sửu (dl 25-7-1925), khoảng 9 giờ tối.
Bốn ông vẫn bày bố y như
hôm qua, nhưng chưng hoa quả và nhang đèn tươm tất hơn. Vừa tịnh thần một lát
thì có vong linh nhập bàn, liền nhịp chân bàn gõ thành tiếng rõ ràng, không lộn
xộn như đêm qua, quí ông ráp lại được 3 chữ : CAO QUỲNH LƯỢNG.
Bốn ông rất vui mừng, vì
Cao Quỳnh Lượng là con của ông Cao Quỳnh Diêu, chết đã mấy năm rồi. Ông Cư thử
xem có thiệt là Cao Quỳnh Lượng không, liền nói : - Nếu phải là Cao Quỳnh Lượng
thì gõ bàn cho biết tên của những người đang ngồi xây bàn nơi đây. Cao Quỳnh
Lượng liền gõ bàn đúng tên các vị. Ông Diêu biểu Lượng đi mời ông Nội đến. Chờ
một lúc thì chơn linh ông CAO QUỲNH TUÂN (thân phụ của hai ông Diêu và Cư) nhập
bàn, gõ cho bài thi : “ Ly trần tuổi đã quá năm mươi, . . . . . “
Kết quả buổi xây bàn nầy
thật là mỹ mãn, làm cho bốn ông suy nghĩ rất nhiều, tin tưởng là có thế giới vô
hình và có thể nói chuyện với những vong linh đã khuất.
Ngày 10-6-Ất Sửu (dl 30-7-1925), lúc 9 giờ tối.
Bốn ông lại tổ chức xây
bàn tại nhà ông Sang. Tối nay, chiếc bàn chuyển động khoan thai nhẹ nhàng, gõ
bàn cho một bài thi, tựa là “Thác vì tình” : “Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai, . . .
“, xưng tên là : Đoàn Ngọc Quế, con gái.
Quí ông yêu cầu Cô cho
biết phần mộ của Cô ở đâu đặng đến viếng. Cô cho biết, mộ của Cô ở trong vườn
Bà Lớn, gần Ngã Bảy và tên thiệt của Cô là Vương Thị Lễ.
Mấy hôm sau, ba ông Cư,
Tắc, Sang đem đèn nhang đi viếng mộ Cô Lễ thì đúng y như lời cô chỉ dẫn.
Thứ bảy, 19-6-Ất Sửu (dl 8-8-1925), khoảng 8 giờ tối.
Ba ông Cư Tắc Sang xây
bàn, Cô Lễ giáng bàn, kết
nghĩa anh em với ba ông :
Cô gọi ông Cư là Trưởng Ca, ông Tắc là Nhị Ca, ông Sang là Tam Ca, còn Cô là Tứ
muội. Cô Lễ gọi bà Hiếu (vợ của ông Cư) là Đại tỷ. Tình cảm thân thiết của quí
vị như trong một gia đình.
Quí ông cứ tiếp tục xây
bàn, có nhiều chơn linh đến xướng họa thi phú để cho quí ông có thêm đức tin về
các chơn linh nơi cõi vô hình.
Thứ sáu, 10-7-Ất Sửu (dl 28-8-1925), tối.
Tại nhà ông Cư, ba ông Cư,
Tắc, Sang xây bàn như thường lệ. Khi tay vừa đặt vào bàn, bàn liền chuyển động,
cho bốn câu thi “ Ớt cay cay ớt gẫm mà cay, . . .“ và xưng danh là “ A Ă Â “
Mùng 1-8-Ất Sửu (dl
18-9-1925), tối.
Cô Vương Thị Lễ nhập bàn
tiết lộ cho ba ông biết, Cô là Thất Nương của Diêu Trì Cung nơi cõi thiêng
liêng, trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, còn Cô Hớn Liên Bạch là Bát Nương.
Ba ông xin Cô dạy cách cầu Cửu Thiên Nương Nương. Thất Nương bảo ba ông phải ăn
chay trước 3 ngày và phải có ngọc cơ mới cầu Nương Nương đặng. Thất Nương chỉ
vẽ cho 3 ông cách cầu bằng ngọc cơ.
Mùng 8-8-Ất Sửu (dl
25-9-1925), tối.
Đấng A Ă Â giáng bàn, dạy
ba ông nhân đó mà làm một cái tiệc chay vào đêm Trung Thu để đãi Diêu Trì Kim
Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.
Đêm 15-8-Ất Sửu (dl
2-10-1925) : HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG.
Ba ông Cư, Tắc, Sang thiết
lễ Hội Yến DTC tại tư gia của ông Cư (134 đường Bourdais, Sài Gòn). Quí ông lập
bàn hương án, chưng những thứ hoa thơm, xông trầm trọn ngày (nhà không tiếp
khách). Sắp đặt tiệc ấy do bà Hiếu vâng lịnh lập thành. Trên là bàn thờ Đức
Phật Mẫu, dưới đặt một bàn dài, sắp 9 cái ghế như có người ngồi vậy, chén, đũa,
muỗng, ly, tách, đều giống y như đãi người hữu hình. Đến giờ Tý, quí vị lên
nhang đèn, quì lạy thành kỉnh, rồi đem ngọc cơ ra cầu. Đức Phật Mẫu và Cửu vị
Tiên Nương giáng chào mừng.
Ba ông, mỗi người đều có
chuẩn bị sẵn một bài thi mừng do Thất Nương dặn trước, lần lượt ngâm lên để
hiến lễ Nương Nương. Đức Phật Mẫu và 9 Cô an vị lắng nghe.
Chừng nhập tiệc, Thất
Nương mời ba ông ngồi chung vào tiệc cho vui. Ba ông thấy không thể chối từ nên
sắp sau lưng 9 Cô ba cái ghế, ba ông xá rồi ngồi xuống.
Cách chừng nửa giờ sau,
như là mãn tiệc, ba ông phò cơ tái cầu. Lịnh Nương Nương và 9 Cô để lời cảm tạ,
mỗi vị cho một bài thi bốn câu, lại hứa rằng : “ Từ đây có ngọc cơ rồi thì tiện
cho DTC Cửu Cô đến dạy việc.”
Kể từ ngày nầy, quí ông sử dụng ngọc cơ cầu
các Đấng theo lối Cầu Tiên của Đạo gia, nhận các Thánh giáo rất nhanh so với
lối Xây Bàn của Thần Linh học.
Đêm 3-9-Ất
Sửu (dl 20-10-1925).
Đấng AĂÂ giáng, nói với ba
ông : “ Tôi nói lộ Thiên cơ, trên Ngọc Hư bắt tội, xin tam vị Đạo hữu cầu Ngọc
Hư Cung tha tội cho tôi. Nếu không lo cầu giùm thì tôi bị phạt.” Ba ông liền
đặt một bài thi khẩn cầu, rồi lập bàn hương án cầu DTC xin Ngọc Hư tha tội cho
ông AĂÂ.
Đêm 27-10-Ất
Sửu (dl 12-12-1925).
Đấng Cửu Thiên Huyền Nữ
giáng đàn truyền lịnh : “ Mùng 1 nầy, tam vị đạo hữu vọng Thiên cầu Đạo.”
Ba ông không biết Vọng
Thiên cầu Đạo là làm gì, bèn cầu hỏi Thất Nương. Thất Nương trả lời : Không
phải phận sự của em, xin hỏi ông AĂÂ. Ba ông không thỏa mãn, bèn cầu hỏi các
Đấng khác, nhưng các Đấng ấy cũng trả lời tương tự như Thất Nương.
Đêm 30-10-Ất
Sửu (dl 15-12-1925).
Ba ông cầu Đấng AĂÂ, Ngài
giáng dạy : “ Ngày mùng 1 tháng 11 nầy, tam vị phải vọng Thiên cầu Đạo, tắm gội
cho tinh khiết, ra quì giữa trời, mỗi người cầm 9 cây nhang mà vái rằng : “ Ba
tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang vọng bái Cao Đài Thượng Đế
ban ơn đủ phước lành cho ba tôi cải tà qui chánh.”
Đêm mùng 1-11-Ất Sửu (dl 16-12-1925) : VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO.
Ba vị Cư, Tắc, Sang mặc
quốc phục nghiêm chỉnh, lập bàn hương án trước sân nhà ông Cư, cạnh lề đường,
mỗi ông cầm 9 cây nhang quì giữa trời cầu nguyện y như Đấng AĂÂ dạy. Lúc đó
khoảng 10 giờ đêm, người hiếu kỳ bu lại xem ba ông cầu cúng gì mà lạ vậy.
Sau khi tàn 9 cây nhang,
ba ông trở vô nhà, đem ngọc cơ ra cầu. Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng, viết chữ
nho, ba không không hiểu. Khi Đấng Cao Đài thăng rồi, ba ông liền cầu Đấng AĂÂ.
Ngài giáng dạy : Đức Cao Đài Thượng Đế nói, tam vị chưa đủ đức tin về Ngài nên
hỏi gạn lại, tam vị phải nghĩ cho thấu. Rồi Ngài cho bài thi bốn câu : “ Cứ níu
theo phan Đức Thượng Hoàng, . . . . “
Đêm mùng 4-11-Ất Sửu (dl 19-12-1925).
Ba ngày sau khi Vọng Thiên
Cầu Đạo, Đấng AĂÂ giáng cho ba ông bài thi :
Mừng thay gặp gỡ Đạo Cao Đài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh, chớ đơn sai.
Như vậy là Đấng Thượng Đế
đã chấp nhận lời vọng Thiên cầu Đạo của ba ông Cư, Tắc, Sang, và sẽ mở ra một
mối đạo mới gọi là Đạo Cao Đài để cứu độ nhơn sanh.
Đêm mùng 9-11-Ất Sửu (dl 24-12-1925) : Đêm NOEL 1925.
Nhân Lễ Chúa Giáng Sinh,
ba ông tập hợp lại nhà ông Cư để cầu cơ. Đấng AĂÂ giáng cơ xác nhận : AĂÂ chính
là Cao Đài Thượng Đế, tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát để dạy đạo
tại nước Việt Nam, và Đức Chí Tôn ban lịnh cho ba ông : “ Chẳng bao lâu đây,
các con phải ra giúp Thầy khai đạo.”
Đêm 18-11-Ất
Sửu (dl 2-1-1926) : Thầy bắt đầu dạy
Đạo.
Đức Chí Tôn khởi sự dạy
đạo cho ba ông Cư, Tắc, Sang và căn dặn hai ông Cư, Tắc mỗi việc chi đều phải
triệt để tuân lịnh Thầy.
Ngày 27-11-Ất Sửu (dl 11-1-1926).
Ông Lê Văn Trung đến hầu
đàn tại nhà ông Cư, được Đức Chí Tôn ban cho bốn câu thi.
(Ông Trung trước đó được
ông Nguyễn Hữu Đắc hướng dẫn đến hầu đàn Chợ Gạo ở Phú Lâm (nhà của ông Lê
Thành Vạn), tại đây Đức Lý Thái Bạch giáng đàn, độ ông Trung, làm cho cặp mắt
của ông hết bịnh, sáng trở lại).
Ngày 3-12-Ất Sửu (dl 16-1-1926).
Ông Quí Cao giáng cơ cho
bài thi “ Tu như cỏ úa gặp mù sương “ và sau đó ông giải thích về Ngũ kỵ, tức
là Ngũ vị tân mà Phật giáo cấm dùng.
Ngày 5-12-Ất Sửu (dl 18-1-1926).
Hai ông Cư và Tắc vâng
lịnh Đức Chí Tôn đến nhà ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn để lập đàn. Đức Chí Tôn dạy
ông Trung : “ Trung, nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy,
thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng của con mà suy lấy.”
Trong dịp nầy, Đức Chí Tôn
dạy ông Trung phải hiệp với hai ông Cư và Tắc lo việc mở Đạo.
Ngày 14-12-Ất Sửu (dl 27-1-1926).
Quí ông bạch hỏi Đức Chí
Tôn về cách thờ phượng. Đức Chí Tôn dạy quí ông đến gặp ông Ngô Văn Chiêu để
xem cách thức. (Ông Chiêu lúc đó ngụ tại lầu 2, số nhà 110 đường Bonard, nay là
đại lộ Lê Lợi, Sài Gòn).
Nói riêng về Ngài Ngô Văn Chiêu
:
- Mùng 1 Tết Tân Dậu (dl
8-2-1921), Đức Chí Tôn giáng bảo ông Chiêu ăn chay 3 năm (Chiêu ! Tam niên trường
trai), xem như ông Chiêu được Đức Chí Tôn thâu làm môn đệ đầu tiên, trong lúc
đó ông Chiêu đang làm Quận trưởng quận Phú Quốc.
- Ngày 13-3-Tân Dậu (dl
20-4-1921), ông Chiêu đang ngồi sau dinh Quận nhìn ra biển, chợt thấy hiện ra
một con mắt lớn, chói lọi hào quang. Ông Chiêu sợ hãi, vái : Như phải Tiên Ông
bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì.
- Vài ngày sau, ông Chiêu
lại thấy Thiên Nhãn hiện ra lần nữa, Ngài lại khấn xin vẽ Thiên Nhãn như thế để
thờ, thì Thiên Nhãn từ từ biến mất.
- Sau đó, ông Ngô Văn
Chiêu được nhà cầm quyền Pháp đổi về làm việc tại Sài Gòn. Ngài rời đảo Phú
Quốc ngày 28-6-Giáp Tý (dl 29-7-1924), về tới Sài Gòn ngay ngày hôm sau, thuê
nhà tại 110 đường Bonard để cư ngụ, còn gia đình của Ngài vẫn ở tại Thị xã Tân
An.
Ngày 18-12-Ất Sửu (dl 31-1-1926).
Ông Lê Văn Trung lập bàn
thờ Thầy rất long trọng và tổ chức lễ Khai đàn Thượng tượng. Đức Chí Tôn giáng
dạy ông Trung cách sắp đặt thờ Tam Trấn Oai Nghiêm.
Ngày 30-12-Ất Sửu (dl 12-2-1926) : Đêm giao thừa.
Đức Chí Tôn dạy Ngài Chiêu
hiệp với quí ông lập phái đoàn đi viếng thăm nhà các môn đệ của Đức Chí Tôn
trong dịp giao thừa cuối năm Ất Sửu.
Ngài Chiêu làm pháp đàn,
hai Ngài Cư và Tắc phò loan, ông Nguyễn Trung Hậu làm độc giả và ông Tuyết Tân
Thành làm điển ký.
Phái đoàn lần lượt đi đến
từng nhà của các môn đệ, đến mỗi nhà thì phò loan cho Đức Chí Tôn giáng dạy.
Khi phái đoàn đến nhà Ngài
Lê Văn Trung thì vừa kịp đón lễ Giao thừa.
Đúng giờ Tý năm mới Bính
Dần, Đức Chí Tôn giáng ban Thánh giáo đầu tiên rất quan trọng :
“ Chư đệ tử nghe,
CHIÊU buổi trước hứa lời
truyền Đạo cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ, dìu dắt cả môn đệ Ta
vào đường đạo đức, đến buổi chúng nó lập thành, chẳng nên tháo trút. Phải thay
mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó.
TRUNG, KỲ, HOÀI, ba con
phải lo thay mặt cho CHIÊU mà đi độ người. Nghe và tuân theo.
BẢN, SANG, GIẢNG, QUÍ lo
dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và tuân theo.
ĐỨC tập cơ, HẬU tập cơ,
sau theo mấy anh đặng độ người. Nghe và tuân theo. “
Ấy là lời Thánh giáo đầu
tiên.
Đây là ngày giờ mà Đức Chí
Tôn khởi lập Đạo Cao Đài : giờ Tý mùng 1
Tết năm Bính Dần.
* * *
Đạo lịch 1 - Năm Bính Dần (1926)
Mùng 8-1-Bính
Dần (dl 20-2-1926) : Lễ Vía Đức Chí Tôn.
Lễ Vía Đức Chí Tôn được tổ
chức tại nhà ông Vương Quan Kỳ, Sài Gòn. Sau phần cúng lễ, quí vị lập đàn cầu
Đức Chí Tôn. Ngài Chiêu làm pháp đàn, 2 Ngài Cư - Tắc phò cơ. Đức Chí Tôn giáng
dạy. Nhân dịp nầy, Ngài Chiêu bạch xin Đức Chí Tôn lấy tên các môn đệ hiện diện
hầu đàn kết thành bài thi để kỷ niệm. Đức Chí Tôn ban cho 4 câu thi : “ Chiêu
Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh, vv. . .” trong đó có đủ tên của 12 môn đệ đầu tiên
của Đức Chí Tôn.
Ngày
13-1-Bính Dần (dl 25-2-1926).
Tại nhà ông Cư, Đức Chí
Tôn giáng dạy về ý nghĩa của Thiên Nhãn, cách niệm danh Cao Đài, cách bắt ấn
Tý, cách lạy, cách dâng Tam bửu (bông, rượu, trà). Bà Hiếu được dạy cách may
Thiên phục Đầu Sư phái Thượng.
Ngày 6-3-Bính Dần (dl 17-4-1926).
Đức Chí Tôn dạy 3 ông :
Trung, Cư, Tắc lên nhà ông Chiêu bảo ông may Thiên phục Giáo Tông. Bà Hiếu lãnh
may và làm mão. Đức Chí Tôn giáng dạy bà Hiếu từng chi tiết, dự bị phong ông
Chiêu chức Giáo Tông.
Ngày 11-3-Bính Dần (dl 22-4-1926).
Đức Chí Tôn cho biết : ông
Chiêu không lãnh chức Giáo Tông được. Sau nầy, Đức Chí Tôn tiết lộ : Khi Đức
Chí Tôn dự bị phong ông Chiêu chức Giáo Tông thì Quỉ vương đòi thử thách ông
Chiêu. Vì luật công bình, Đức Chí Tôn phải cho thử thách. Sau 5 ngày thử thách,
ông Chiêu thua Quỉ vương nên đành chịu mất ngôi Giáo Tông.
Ngày 14-3-Bính Dần (dl 25-4-1926).
Ông Ngô Văn Chiêu tự ý
tách riêng ra khỏi nhóm của quí ông : Trung, Cư, Tắc, Sang, Hậu, Đức . . . Đồng
ý với ông Chiêu có : Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quí.
Ông Chiêu hiệp cùng bốn
ông : Trung, Cư, Tắc, Sang từ ngày 14-12-Ất Sửu đến ngày 14-3-Bính Dần thì ông
Chiêu tách ra, sự hội hiệp chỉ được 3 tháng tròn.
Ngày 15-3-Bính Dần (dl 26-4-1926).
Lễ Thiên phong Chức sắc
đầu tiên tổ chức tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, khởi đúng giờ Tý ngày
rằm. Đức Chí Tôn giáng phong :
- Đức và Hậu : phong vi
Tiên Đạo Phò Cơ Đạo Sĩ.
- Cư : phong vi Tá Cơ Tiên
Hạc Đạo Sĩ.
- Tắc : phong vi Hộ Giá
Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ.
- Trung, Lịch đã thọ sắc,
cứ tước vị mà theo sắc mạng Ta. (Hai vị nầy đã được Đức Chí Tôn phong Đầu Sư).
- Kỳ : phong vi Tiên Sắc
Lang Quân Nhậm Thuyết Đạo Giáo Sư.
Bản : phong vi Tiên Đạo
Công Thần Thuyết Đạo Sư.
Đặc biệt trong cuộc lễ
Thiên phong nầy, Đức Chí Tôn trục thần của Phạm Công Tắc để đưa chơn linh Vi Hộ
Pháp nhập vào xác thân của Phạm Công Tắc.
Từ cuối tháng 3 năm Bính Dần (1926).
Đức Chí Tôn cho thiết lập
nhiều đàn cơ phổ độ để thâu nhận tín đồ gia nhập Đạo Cao Đài. Trong vùng Sài Gòn,
Chợ Lớn, Gia Định có 6 đàn cơ phổ độ, kể ra :
1 . Đàn Cầu Kho tại nhà
ông Đoàn Văn Bản, ông Vương Quang Kỳ chứng đàn, phò cơ : Hậu - Đức.
2 . Đàn Chợ Lớn tại nhà
Ngài Lê Văn Trung, Ngài Trung chứng đàn, phò cơ : Cao Q. Diêu - Cao Hoài Sang.
3. Đàn Tân Kim, Cần Giuộc
tại nhà ông Nguyễn
Văn Lai, ông Nguyễn Ngọc
Tương và Lê Văn Lịch chứng đàn, phò cơ :
Ca Minh Chương - Phạm Văn Tươi.
4 . Đàn Lộc Giang, Chợ
Lớn, tại chùa Phước Long của Yết Ma Giống, chứng đàn là ông Mạc Văn Nghĩa và
Yết Ma Giống, phò cơ : Trần D. Nghĩa - Trương V. Tràng.
5 . Đàn Tân Định tại nhà
ông Nguyễn Ngọc Thơ, phò cơ : Cao Quỳnh Cư - Phạm Công Tắc.
6 . Đàn Thủ Đức tại nhà
ông Ngô Văn Điều, ông Điều chứng đàn, phò cơ : Huỳnh Văn Mai - Võ V. Nguyên.
Ngày 2-7-Bính Dần (dl 9-8-1926).
Tại Vĩnh Nguyên Tự Cần
Giuộc, Đức Chí Tôn giáng cơ ban Tịch đạo Chức sắc nam phái : “ Thanh Đạo tam
khai thất ức niên, …” và phong chức cho quí ông :
- Nguyễn Ngọc Tương : Phối
Sư Thg Tương Thanh.
- Nguyễn Ngọc Thơ : Phối
Sư Thái Thơ Thanh.
- Lê Bá Trang : Phối Sư Ngọc Trang Thanh.
- Ngô Văn Kim : Giáo Sư Thượng Kim Thanh.
Ngày 24-7-Bính Dần (dl 31-8-1926).
Đức Chí Tôn phong Ngài
Nguyễn Văn Tương (Minh Sư) ở làng Hữu Đạo, Cai Lậy, chức Thượng Chưởng Pháp.
Ngày
29-7-Bính Dần (dl 5-9-1926).
Đức Chí Tôn phong Hòa Thượng
Như Nhãn làm Thái Chưởng Pháp và dạy Hòa Thượng xem lại kinh sách xưa mà lập
thành Tân Luật của Đạo Cao Đài.
Đức Chí Tôn cũng phong Hòa
Thượng Thiện Minh, học trò của Ngài Như Nhãn, chức Đầu Sư Thái Minh Tinh.
Ngày 11-8-Bính Dần (dl 17-9-1926).
Đ. Chí Tôn dạy Giáo Hữu
Thg Kiệt Thanh (Nguyễn Văn Kiệt) làm 7 cái ngai; Giáo Sư Thái Bính Thanh làm
Trái Càn Khôn.
Ngày 23-8-Bính Dần (dl 29-9-1926) : LẬP TỜ KHAI ĐẠO.
Đức Chí Tôn ra lịnh cho
Ngài Đầu Sư Lê Văn Trung, họp các môn đệ tại nhà ông Nguyễn Văn Tường ở hẽm
237bis đường Galliéni (nay là đường Trần Hưng Đạo) để lập Tờ Khai Đạo gởi lên
nhà cầm quyền Pháp.
Có tất cả 247 môn đệ ký
tên trong buổi họp, nhưng khi ký vào Tờ Khai Đạo thì chỉ ký tên 28 vị làm đại
diện.
Tờ Khai Đạo nầy không phải
là Đơn xin Khai Đạo, mà là Tuyên Ngôn chánh thức thành lập Đạo Cao Đài.
Vài ngày sau, lập đàn tại
nhà Ngài Cư, Ngài Trung dâng Tờ Khai Đạo lên Đức Chí Tôn duyệt xét.
Đức Chí Tôn chấp thuận và
căn dặn Ngài Lê Văn Trung : “ Thầy dặn
con Trung, nội thứ năm tuần tới phải đến Le Fol mà khai cho kịp nghe.”
Ngày 28-8-Bính Dần (dl 4-10-1926).
Đức Chí Tôn giáng cơ cho
biết : Lập ĐĐTKPĐ, Thầy chọn : Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất
thập nhị Hiền và Tam thiên đồ đệ.
Thứ năm, 1-9-Bính Dần (dl 7-10-1926) : Nạp Tờ Khai
Đạo.
Ngài Lê Văn Trung vâng
lịnh Đức Chí Tôn, sáng thứ năm 7-10-1926 (âl
1-9-Bính Dần) đến dinh Thống Đốc Nam Kỳ nạp Tờ Khai Đạo cho Thống Đốc
Nam Kỳ Le Fol, được Le Fol vui vẻ tiếp nhận.
Ngày 7-9-Bính Dần (dl 13-10-1926).
Ngài Cư dâng tập “Phổ Cáo
Chúng Sanh“ lên Đức Chí Tôn duyệt xét, được chấp thuận và cho phép ấn hành.
Ngày 10-9-Bính Dần (dl 16-10-1926).
Đức Chí Tôn phong Ngài
Thái Lão Sư Trần Văn Thụ ở Vĩnh Nguyên
Tự chức : Ngọc Chưởng Pháp.
Ngày 23-9-Bính Dần (dl 29-10-1926).
Đức Chí Tôn giao quyền
thưởng phạt các Chức sắc cho Đức Lý Thái Bạch. Ngày nầy được xem là ngày Đức
Chí Tôn giao Đức Lý Thái Bạch làm Giáo Tông ĐĐTKPĐ.
Ngày 12-10-Bính Dần (dl 16-11-1926) : trước Lễ Khai Đạo 3 ngày.
Đức Chí Tôn dạy lập Lễ
Khai Đạo nơi Thánh Thất Gò Kén trong 3 ngày : 14, 15 và 16-10-Bính Dần.
Đức Chí Tôn phong thưởng 3
vị : Trang, Tương, Thơ lên làm Chánh Phối Sư ba phái.
Ngày 14-10-Bính Dần (dl 18-11-1926) :
ĐẠI LỄ KHAI ĐẠO.
Đức Chí Tôn lập Tịch đạo
nữ phái và phong :
- Bà Lâm Thị Thanh : phong
vi Giáo Sư Hương Thanh.
- Bà Ca Thị Thế : phong vi
Giáo Hữu Hương Thế.
* Đêm nay giờ Tý, 15-10-BD, khởi
ĐẠI LỄ KHAI ĐẠO.
Ngày 16-10-Bính Dần (dl 20-11-1926), đêm.
Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh
Truyền CTĐ.
Ngày 5-11-Bính Dần
(dl 9-12-1926).
Ngài Thượng Chưởng Pháp
Tương qui vị tại làng Hữu Đạo, quận Cại Lậy, Mỹ Tho, lúc đó Ngài được 48 tuổi.
Ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927).
Đức Chí Tôn phong :
- Ngài Trần Đạo Quang :
Quyền Thượng Chưởng Pháp.
- Ngài Dương Văn Nương:
Đầu Sư Thái Nương Tinh. (Còn Ngài Đầu Sư Thái Minh Tinh bị Đức Lý cách chức).
Ngày 13-12-Bính Dần (dl 16-1-1927).
Tân Luật lập xong, 3 Chánh
Phối Sư thay mặt Hội Thánh, đủ 6 bàn tay cầm bộ luật dâng lên 3 Đầu Sư, 3 Đầu Sư cũng đủ 6 bàn tay tiếp luật rồi dâng
lên 3 Chưởng Pháp, 3 Chưởng Pháp tiếp luật dâng lên Đức Lý Giáo Tông, đặt tại
tượng của Ngài.
Ngày 14-12-Bính Dần (dl 17-1-1927).
Đức Lý Giáo Tông mượn hai
vị Đầu Sư lên đại điện cầm bộ luật nơi tượng của Ngài, đem giao cho Hộ Pháp.
Đức Hộ Pháp khi đưa Luật thì nói : Kỳ một tháng nạp lại.
Cũng ngày nầy, Đức Chí Tôn
tiết lộ cho biết :
“ - Ông Nguyễn Ngọc Thơ là chơn linh Từ Hàng Bồ Tát
giáng trần. - Ông Dương Văn Nương là chơn linh của Văn Thù Bồ Tát giáng trần”.
Đạo lịch 2 - Năm Đinh Mão (1927)
Ngày mùng 1-1-Đinh Mão (dl 2-2-1927) : Tết Đinh
Mão.
* Đức Chí Tôn kiểm điểm
một năm truyền đạo, độ được 4 muôn môn đệ (40 000 tín đồ).
* Đức Lý Giáo Tông lập
Pháp Chánh Truyền nữ phái Cửu Trùng Đài.
* Ngài Thượng Chưởng Pháp
Tương giáng cơ un đúc tinh thần của chư Chức sắc Thiên phong.
Ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927).
Đức Chí Tôn giáng cơ lập
Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài, phong chức cho Thập nhị Thời Quân.
Ngày 18-1-Đinh Mão (dl 19-2-1927).
Đức Lý quyết định trả chùa
Gò Kén cho HT Như Nhãn, dạy Hội Thánh mua đất cất Tòa Thánh. Chỉ mua đất ở Tây
Ninh vì Tây Ninh là Thánh địa. Đức Chí Tôn cũng định quyết : Chi chi cũng tại
Tây Ninh đây mà thôi. Đức Lý gợi ý chỉ chỗ, Hội Thánh đi xem đất để mua.
Đức Lý dạy làm con dấu cho
3 Chg Pháp và 3 Đầu Sư.
Ngày 23-1-Đinh Mão (dl 24-2-1927).
Hội Thánh xem đất xong,
tối lại cầu Đức Lý. Đức Lý khen, nói đất ấy là Thánh địa vì có Lục Long Phò Ấn.
Ngày 27-1-Đinh Mão (dl 28-2-1927).
Đức Lý Giáo Tông dạy kích
thước xây cất Tòa Thánh, và phải mua Bàu Cà Na để làm Động Đình Hồ.
Ngày 20-2-Đinh Mão (dl 23-3-1927).
Hội Thánh trả chùa Gò Kén
cho H.T. Như Nhãn, thỉnh cốt Phật Tổ và ông Sa Nặc về đất mới mua. Công cuộc
nầy, Đức Cao Thượng Phẩm gánh vác, đứng ra chỉ huy. Đức Cao Thượng Phẩm nhờ số
công quả người Miên phá rừng, đốn cây, xây cất Tòa Thánh tạm, Hậu điện, Đông
lang, Tây lang, trù phòng, đào giếng, vv . . .
Ngày 2-5-Đinh Mão (dl 1-6-1927).
Đức Chí Tôn báo cho biết :
“Cuối kỳ tháng 6 đây thì Thầy phải ngưng hết cơ bút truyền đạo.” Tất cả các đàn
cơ phổ độ đều bế lại, chỉ còn cơ bút tại Tòa Thánh mà thôi.
Ngày 14-5-Đinh Mão
(dl 13-6-1927).
Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần
Văn Thụ đăng Tiên.
Ngày 29-6-Đinh Mão
(dl 27-7-1927).
Đức Phạm Hộ Pháp sang Nam
Vang mở đạo. Ngài ngụ tại nhà ông Cao Đức Trọng, lập đàn cơ, Đức Chí Tôn giáng
thâu nhận môn đệ, phong Chức sắc cho nhiều vị :
- Lê Văn Bảy, Giáo Hữu
phái Thượng, vv. . .
- Trần Kim Phụng, Nữ Giáo
Hữu Hương Phụng, vv...
Nhờ số Chức sắc nam nữ đầu
tiên nầy, Đức Hộ Pháp lập “Cơ quan Truyền giáo Hải ngoại”, thường gọi là Hội
Thánh Ngoại Giáo, cử Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh làm Chủ Trưởng, trụ sở đặt tại
Nam Vang, dưới quyền chưởng quản của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
Đạo lịch 3 - Năm Mậu Thìn (1928)
Ngày 19-10-Mậu Thìn
(dl 30-11-1928).
Ngài Bảo Đạo Ca Minh
Chương đăng Tiên.
Đây là vị Thời Quân của
HTĐ đã qui vị đầu tiên.
Đạo lịch 4 - Năm Kỷ Tỵ (1929)
Ngày 1-3-Kỷ Tỵ
(dl 10-4-1929).
Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh
Cư đăng Tiên, lúc 11 giờ trưa, Ngài được
42 tuổi.
Ngày 8-3-Kỷ Tỵ
(dl 17-4-1929).
Đức Lý Giáo Tông thăng bà
Phối Sư Hương Thanh lên phẩm Nữ Chánh Phối Sư.
Ngày 15-5-Kỷ Tỵ
(dl 21-6-1929).
Đức Chí Tôn duyệt và chấp
thuận cuốn “Đại Đàn Nghi Tiết” và 3 bài Dâng Tam Bửu mới do Tiếp Lễ Nhạc Quân
Cao Quỳnh Diêu đặt ra, nhưng đến ngày 17-6-Canh Ngọ (dl 12-7-1930), Ngài Thượng
Đầu Sư mới ban hành.
Ngày 12-12-Kỷ Tỵ
(dl 11-1-1930).
Đức Chí Tôn thăng phẩm cho
Ngài Cao Quỳnh Diêu vào chánh vị Bảo Văn Pháp Quân.
Đạo lịch 5 - Năm Canh Ngọ (1930)
Ngày 3-10-Canh Ngọ
(dl 22-11-1930).
Đức Lý Giáo Tông hiệp cùng
Đức Phạm Hộ Pháp lập 6 Đạo Nghị Định,
từ Đạo Nghị Định 1 đến 6.
Đặc biệt trong Đạo Nghị
Định 2, Đức Lý ban cho Đầu Sư Thượng Trung Nhựt cầm quyền Giáo Tông tại thế.
Ngày 30-11-Canh Ngọ
(dl 18-1-1930).
Đức Lý Giáo Tông ban cho
Thập Hình để Tòa Đạo xử phạt Chức sắc và Đạo hữu vi phạm luật pháp của Đạo.
Đạo lịch 7 - Năm Nhâm Thân (1932)
Ngày 13-3-Nhâm Thân
(dl 18-4-1932).
Ngài Ngô Văn Chiêu qui
liễu khi ngồi xe du lịch qua phà Cần Thơ, định đi về Tân An. Năm đó, Ngài 55
tuổi. Đám tang của Ngài tổ chức rất long trọng tại Cần Thơ.
Ngày 18-5-Nhâm Thân
(dl 21-6-1932).
Ngài Bảo Văn Pháp Quân
theo lịnh của Đức Hộ Pháp, viết bài Kinh “Tán
Tụng Công Đức DTKM” lấy ý từ bài thi của Phật Mẫu “ Từ Hỗn độn, Chí Tôn hạ chỉ,..”
Đạo lịch 8 - Năm Quí Dậu (1933)
Ngày 26-2-Quí Dậu
(dl 21-3-1933).
Bà Đoàn Thị Điểm giáng cơ
bắt đầu viết Nữ Trung Tùng Phận. Đức Hộ Pháp và Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh phò loan.
Về sau, Ngài Cao Tiếp Đạo thế Ngài Tiếp Thế
phò loan.
Ngày 1-10-Quí Dậu
(dl 18-11-1933).
Ông Phạm Văn Màng, Cai sở
Bàu Sen thuộc Phạm Môn, mất tại Sở Quảng nghệ do bịnh nặng, hưởng được 46 tuổi.
Thần Hoàng làng Long Thành báo cho biết ông Màng đắc Thánh vị, gọi là Phối
Thánh Phạm Văn Màng.
Ngày 29-12-Quí Dậu
(dl 12-2-1934).
Bát Nương và Lục Nương
giáng cơ báo cho biết Ngọc Hư Cung trở pháp, truất quyền của CTĐ, giao cho HTĐ
cầm quyền nền Đạo, bởi vì : “Cửu Trùng
không kế an thiên hạ, phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.” Đức Quyền Giáo Tông
biết rằng nhiệm vụ của Đức Ngài sắp chấm dứt.
Đạo lịch 9 - Năm Giáp Tuất (1934)
Ngày 16-7-Giáp Tuất
(dl 25-8-1934).
Đức Lý Giáo Tông và Đức
Phạm Hộ Pháp hợp nhau lập thành hai Đạo Nghị Định 7 và 8.
Đạo Nghị Định 8 : “Những Chi phái nào do bởi ĐĐTKPĐ làm gốc
lập thành mà không do nơi mạng lịnh của Hội Thánh thì cả chúng sanh chẳng đặng
nhìn nhận là của Chí Tôn và phải định quyết là Bàng môn Tả đạo.”
Ngày 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934).
Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn
Trung đăng Tiên tại Giáo Tông Đường, lúc
đó Đức Ngài được 59 tuổi.
Sau đó, Đức Lý Giáo Tông
giao quyền Giáo Tông hữu hình cho Đức Phạm Hộ Pháp, nên Đức Hộ Pháp xưng là :
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài, Hiệp Thiên và Cửu Trùng.
Đạo lịch 10 - Năm Ất Hợi (1935)
Ngày 16-2-Ất Hợi
(dl 20-3-1935).
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
(Victor Hugo) vâng lịnh Đức Chí Tôn giáng cơ lập 7 phẩm Chức sắc HTĐ từ Sĩ Tải
đến Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, dưới Thập nhị Thời Quân, để giúp chư vị Thời Quân cầm
quyền Tư Pháp của Đạo.
Ngày 23-7-Ất Hợi
(dl 21-8-1935).
Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên
Nương DTC, Đức Quan Âm Bồ Tát, Đức Phật Thích Ca, Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
giáng cơ ban cho Kinh Tận Độ (Tân Kinh), từ ngày nầy đến mùng 4 tháng 8 Ất Hợi
mới chấm dứt.
Đạo lịch 11 - Năm Bính Tý (1936)
Ngày 1-11-Bính Tý
(dl 14-2-1936).
Đức Hộ Pháp tiếp nối công
việc xây cất Tòa Thánh.
Đức Ngài huy động 500 công
quả hiến thân Phạm Môn làm lực lượng công thợ nồng cốt, các Đầu Họ PT trong 21
tỉnh Nam phần VN lo lương thực chở về Tòa Thánh, các Khâm Châu và Đầu Tộc Đạo
lo quyên góp tiền bạc của bổn đạo đưa về mua vật liệu xây dựng. Đức Hộ Pháp nói
: Chỉ cần mỗi Đạo hữu góp 1 đồng thì Hội Thánh đủ tiền cất Tòa Thánh và nhứt
định kỳ nầy thành công.
Đạo lịch 13 - Năm Mậu Dần (1938)
Ngày 16-1-Mậu Dần
(dl 16-2-1938).
Hội Thánh lập Đạo Luật năm
Mậu Dần, Đức Hộ Pháp phê chuẩn, và giao trở lại cho Hội Thánh ban hành.
Ngày 19-10-Mậu Dần
(dl 10-12-1938).
Đức Phạm Hộ Pháp hợp với
Đức Lý Giáo Tông lập Đạo Nghị Định số 48 thành lập Cơ Quan Phước Thiện.
Đạo lịch 16 - Năm Tân Tỵ (1941)
Ngày 4-6-Tân Tỵ
(dl 28-6-1941).
Lính mật thám Pháp vào Tòa
Thánh bắt Đức Hộ Pháp.
Ngày 17-6-Tân Tỵ (dl 11-7-1941), lính mật thám
Pháp lại vào Tòa Thánh bắt thêm 4 vị Chức sắc nữa là : Phối Sư Ngọc Trọng
Thanh, Giáo Sư Thái Gấm Thanh, Giáo Sư Thái Phấn Thanh, Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển,
đồng thời ở Sài Gòn, chúng đến bắt Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.
Ngày 4-6 nhuần-Tân Tỵ (dl 27-7-1941), nhà cầm
quyền Pháp đưa Đức Phạm Hộ Pháp và 5 vị Chức sắc lưu đày sang đảo Madagascar ở
Phi Châu. . .
Chương 13
TÔN CHỈ
của ĐẠO CAO ĐÀI
I . Định nghĩa
Tôn chỉ là nguyên tắc
chánh yếu để một đoàn thể theo đó hoạt động. Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là : Tam
Giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt. Câu nầy thường thấy nơi phần đầu của bài Sớ
văn thượng tấu.
Tam giáo qui nguyên là ba
nền tôn giáo trở về gốc. Cái gốc đó là chơn lý tuyệt đối hằng hữu, thường gọi
là Thượng Đế. Tam giáo gồm : Nho, Thích,
Đạo, tức là Nho giáo hay Khổng giáo, Thích giáo hay Phật giáo, Đạo giáo hay Lão
giáo hay Tiên giáo.
Ngũ Chi phục nhứt là năm
nhánh đạo trở lại thành một. Một đó là Đại Đạo, Một đó cũng là Thái Cực. Ngũ
Chi tức là Ngũ Chi Đại Đạo, năm nhánh của nền Đại Đạo, gồm : Nhơn đạo, Thần
đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo.
Chữ NGUYÊN là gốc và chữ NHỨT là một, đều chỉ
Đấng Thượng Đế, vì Ngài là gốc của các nền tôn giáo và là một
ngôi Thái Cực tuyệt đối.
Nói Tam giáo qui nguyên là
nói trong phạm vi Á Đông, nơi mà Tam giáo (Nho, Thích, Đạo) mở ra để giáo hóa
nhơn sanh trong vùng Á Đông nầy.
Nói Ngũ Chi phục nhứt là
nói toàn thể thế giới, gồm tất cả các tôn giáo (Vạn giáo), trong đó có Tam
giáo.
Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ hay Đạo Cao Đài là : Tam giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt, nghĩa là :
nơi cõi Á Đông thì đem ba nền tôn giáo (Nho, Thích, Đạo) trở về nguồn gốc của
nó và trên toàn thế giới thì đem năm nhánh đạo hợp lại thành một nền Đại Đạo
duy nhứt.
Đây là một công cuộc vĩ đại
của Đức Chí Tôn, phục hưng toàn bộ chơn truyền của tất cả tôn giáo, qui hiệp
tất cả giáo lý và triết lý của tất cả
tôn giáo vào một mối duy nhứt lập thành một hệ thống giáo lý mới và
triết lý mới phù hợp mức tiến hóa cao của nhơn sanh và dung hợp được tất cả các
giáo lý cũ và các triết lý cũ.
II . Tam giáo qui nguyên
Các tôn giáo đã lập ra từ
trước tới nay đã thất chơn truyền và lỗi thời, không còn thích hợp với mức tiến
hóa cao của nhơn sanh ngày nay. Vả lại, có một số tôn giáo qui phàm rõ rệt, bị
những nhà lãnh đạo tôn giáo hiếu chiến lợi dụng, gây thành những cuộc chiến
tranh tàn khốc, giết hại nhiều người, được ngụy trang dưới dạng Thánh chiến.
Đức Chí Tôn đến qui nguyên
Tam giáo như thế nào?
Ngày nay, Đức Chí Tôn đến
đem ba tôn giáo hiệp nhứt, tạo một tòa lớn lao vĩnh viễn cho nhơn sanh nương
vào đó mà lánh cơn khổ nạn sầu. Ba nhà tôn giáo ấy tuy đổ sập nhưng Đức Chí Tôn
vì lòng từ bi, chọn lựa cái nào còn dùng đặng thì lấy, cái nào hư nát thì bỏ
ra, như cột, kèo, xuyên, trính, ngói, gạch, cái nào còn nguyên thì dùng, cái
nào bể nát hư hao, bị mối ăn thì bỏ ra, cây nào cong vạy thì uốn lại, trừ ra
uốn không nổi mới bỏ. Đức Chí Tôn lấy các vật ấy ráp lại thành một Tòa Đại Đạo
cho nhơn sanh sùng bái tu hành, là tòa nhà ngày nay đó.
Chúng ta đều biết rằng,
tất cả các tôn giáo, các chi phái đạo hiện hữu đều là những phương tiện để thực
hiện mục tiêu là dẫn dắt nhơn sanh tiến hóa đi đến chỗ Chân Thiện Mỹ. Nhưng con
người vì vô minh, mê chấp, nên phân biệt đạo ta đạo người, đạo của ta cao, đạo
người thấp, chỉ có đạo ta mới là chánh đạo.
Còn các vị Giáo chủ đều là
những Đấng Tiên, Phật cao trọng, lãnh lịnh Đức Chí Tôn giáng trần mở đạo, vào
các thời kỳ khác nhau, ở các địa phương khác nhau, để mở trí khai tâm cho nhơn
loại, hầu lo tu tâm sửa tánh, tiến hóa lần lần để trở về cùng Đức Chí Tôn và
Phật Mẫu.
Các mối đạo đó chỉ là
những phương tiện, như cái thang bắc lên mây xanh, để con người biết lối trèo
lên từ từ mà trở về quê xưa cảnh cũ. Con người còn nhiều mê muội, chưa hiểu
chơn lý, nên sanh đố kỵ tỵ hiềm, chấp ta ngã mạn, đi đến chỗ chia rẽ phân biệt
giữa các tôn giáo, không thực thi đúng tinh thần Bác ái và Công bình, và những
điều giảng dạy chơn chánh của các Đấng Giáo chủ, làm cho các mối đạo qui
phàm và hỗn loạn.
Đạo không còn hướng dẫn
được người đời, khiến cho đời càng thêm hỗn loạn, mất hết đạo đức, nên luôn
luôn xảy ra chiến tranh giết chóc lẫn nhau, chỉ vì tham vọng.
III . Ngũ Chi phục nhứt
Đức Chí Tôn dạy :
“ Vốn từ trước, Thầy lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là : Nhơn
đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Tùy theo phong hóa của nhơn loại
mà gầy Chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn
loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi. Còn nay, nhơn loại đã hiệp
đồng, Càn khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn loại nghịch
lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt.” (TNHT)
Theo lời Thánh ngôn trên
đây của Đức Chí Tôn thì ngày nay, Đức Chí Tôn phục nhứt năm nhánh đạo, lập
thành nền Đại Đạo do Đức Chí Tôn đích thân chưởng quản, vì 3 lý do sau đây:
1 . Ngày xưa, nhơn loại
chưa văn minh, việc đi lại từ nơi nầy đến nơi khác rất khó khăn và mất nhiều
thời gian, sự thông tin liên lạc giữa dân tộc nầy với dân tộc khác cũng rất khó
khăn. Do đó, Đức Chí Tôn mở ra cho mỗi địa phương một mối đạo để độ rỗi nhơn
sanh vùng đó. Vì vậy mà có nhiều mối đạo khác nhau trên thế giới. Đó là thời
Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, là giai đoạn Nhứt bổn tán vạn thù (Một gốc phân ra
muôn sai biệt).
2 . Ngày nay, nhơn loại
rất văn minh, chế tạo được những phương tiện đi lại rất nhanh như máy bay, xe
hơi, tàu thủy, và chế tạo được một hệ thống thông tin liên lạc rất nhanh chóng,
lại chế tạo được các máy điện tử có thể dịch tiếng nói của nước nầy sang tiếng
nói của nước khác.
Cho nên Đức Chí Tôn nói
rằng, ngày nay Càn Khôn dĩ tận thức, Đức Chí Tôn không cần mở nhiều mối đạo như
xưa mà chỉ cần mở một nền Đại Đạo duy nhứt, bằng cách qui hiệp các đạo đã lập
từ trước, thống nhứt tín ngưỡng, rồi nhờ hệ thống thông tin liện lạc của thời
đại văn minh hiện nay mà truyền bá nền Đại Đạo ấy ra khắp hoàn cầu.
Đức Chí Tôn có tiên trị
rằng : Ngày sau, người Trung hoa sẽ thờ phụng Đạo Cao Đài đáo để và người Mỹ sẽ
truyền bá Đạo Cao Đài khắp hoàn cầu.
Đây là thời Tam Kỳ Phổ Độ,
là giai đoạn Vạn thù qui nhứt bổn (Muôn sai biệt trở về một gốc).
3 . Thời xưa, mỗi mối Đạo
thì có một Giáo chủ, khi vị Giáo chủ ấy thoát xác trở về cõi thiêng liêng thì
mối đạo ấy lần lần bị người phàm canh cải, trở nên phàm giáo. Các phàm giáo
chống báng nhau, đạo mình chánh, đạo kia tà, gây ra nhiều cuộc chiến tranh tôn
giáo tàn khốc.
Ngày nay Đức Chí Tôn qui
hiệp tất cả tôn giáo trong Ngũ Chi vào một nền Đại Đạo duy nhứt, do Đức Chí Tôn
làm Giáo chủ, lập thành năm nấc thang tiến hóa cho nhơn sanh đắc đạo. Năm nấc
thang tiến hóa đó là : Nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Người tu có công đức
ngang bằng với nấc tiến hóa nào thì sẽ được Đức Chí Tôn ban cho phẩm vị tương
ứng trong nấc ấy.
Lại nữa, kỳ nầy, Đức Chí
Tôn không đầu thai xuống phàm để mang xác phàm, mà Đức Chí Tôn vẫn ngự trên
Bạch Ngọc Kinh, dùng huyền diệu cơ bút, giáng điển xuống trần mở đạo và nắm giữ
mối đạo. Nhờ vậy, nền Đại Đạo sẽ mãi mãi là Chánh truyền, không bao giờ bị phàm
hóa.
Đức Hộ Pháp đọc diễn văn
tại Tòa Thánh ngày 14-2-Mậu Thìn (dl 5-3-1928), thuyết giảng về Ngũ Chi phục
nhứt :
“ Với các nguyên nhân thì Ngũ Chi tỉ như một cái thang
năm nấc bắc cho mình leo lên địa vị ngang bực cùng Thầy, tức là Phật phẩm đó
vậy. Chưa ai nhảy một nhảy mà lên cho tới tầng lầu 5 thước bề cao, mà như ai để
sẵn một cái thang năm nấc, mình có thể lần lần mà leo lên đặng. Thầy hiệp Ngũ
Chi đặng làm một trường học năm lớp cho mình tu luyện, chẳng khác một trường
học phàm kia vậy, lần lần bước đến đặng đoạt thủ địa vị của mình. Hễ ngồi đặng
phẩm nào thì địa vị mình nơi ấy, chẳng ai còn tranh giành ngược ngạo không nhìn
nhận cho được.
- Mình là người tức có sẵn Nhơn phẩm, mình mới luyện
Nhơn hồn theo gương của chư Thần mà chúng ta thờ phụng đó, thì tức nhiên cũng
đoạt đặng đức tánh của chư Thần mà làm Thần vị của mình.
- Đặng Thần vị rồi, lại xem gương của các Thánh mà tu
luyện Thần hồn của mình cho đặng Thánh đức, tức nhiên cũng đoạt được Thánh vị
vậy.
- Đặng Thánh vị rồi, cũng luyện Thánh hồn mình theo
tánh đức của chư Tiên mà đoạt đặng Tiên
vị.
- Khi biết mình đã vững nơi Tiên vị rồi thì mình cũng
cứ đào luyện Tiên hồn của mình theo gương chư Phật mà gấm ghé vào Phật vị.
Tưởng như có kẻ hỏi : Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật xa
cách với người như Trời với Đất, khác nhau kẻ tục người thanh thì thế nào người
phàm mong mỏi leo lên phẩm vị ấy cho xứng đáng ? Ta lại đáp như vầy :
. Những Vật chất có một điểm Thảo mộc hồn. Như cây
bông đá đó vậy.
. Thảo mộc có một điểm Thú hồn, như cây mắc cở.
. Thú hồn có một điểm Nhơn hồn, như loài cầm điểu thì
có : két, cưởng, nhồng; tẩu thú thí có : chó, ngựa, khỉ; còn ngư thú có : cá
ông đó vậy.
. Nhơn hồn có Thần hồn đã đành, chẳng cần phải giải.
. Thần hồn có Thánh hồn, Thánh hồn có Tiên hồn, Tiên
hồn có Phật hồn.
Ấy vậy, nơi mình chúng ta đã có sẵn một điểm Thần,
Thánh, Tiên, Phật hồn. Nếu ta biết làm cho chơn hồn tăng tiến lên hoài cho tới
phẩm vị Tiên, Phật thì phải tập luyện tu hành và đắc kỳ truyền mới đặng.”
Ngũ Chi Đại Đạo lập thành
năm nấc thang tiến hóa từ thấp lên cao, nghĩa là một chương trình học tập năm
cấp lớp (Nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật), có mục đích đưa người tu lần lần tiến
lên đến tột đỉnh phẩm vị thiêng liêng, hiệp nhập vào khối Đại Linh Quang của
Thượng Đế. Chương trình năm cấp lớp nầy thể hiện giáo lý thuần nhứt của Đại Đạo
mà bất cứ người tu nào muốn phản bổn hoàn nguyên đều phải trải qua năm cấp học
ấy.
Ngũ Chi Đại Đạo cũng biểu
tượng năm phương thức hành đạo là : Tùng khổ, Thắng khổ, Thọ khổ, Thoát khổ và
Giải khổ, của năm bậc : Hiền, Thần, Thánh, Tiên, Phật, để lập thành đường lối
hành đạo đi đến "Tuyệt khổ”.
Như thế, Ngũ Chi Đại Đạo
là năm trình độ chuyển hóa liên hợp nhứt quán trên cứu cánh giải thoát con người
khỏi sự đau khỗ phiền não một cách toàn diện.
Ba Chi đầu là : Nhơn đạo,
Thần đạo, Thánh đạo để tạo lập cảnh thế giới đại đồng, lập đời thượng nguơn
Thánh đức, để cho các bậc Hiền nhân, Thánh triết tạm dừng chân trong hành trình
tu tiến. Hai Chi sau là Tiên đạo và Phật đạo để các bậc ấy tiếp tục tu tiến,
đắc thành chánh quả, vào bực trọn lành, thoát khỏi luân hồi, hiệp nhập vào Thượng
Đế. Đó chính là cứu cánh của Đại Đạo.
IV . Kết luận
Tôn chỉ của Đạo Cao Đài
quá cao siêu vĩ đại, không một người phàm nào có thể thực hiện được, chỉ có Đức
Chí Tôn mới thực hiện được mà thôi.
Đức Chí Tôn ủy quyền cho
Đức Phật Di-Lạc thực hiện cơ qui nhứt trong Đại Hội Long Hoa mà Ngài là Giáo
chủ. Đó là cơ vạn giáo qui nhứt, không riêng gì Tam giáo, để lập đời Thánh đức,
đại đồng huynh đệ. Đức Phật Di-Lạc sẽ thâu các đạo hữu hình làm một mối. Những
người nào không đủ trình độ vào đời Thánh đức sẽ bị loại bỏ trong công cuộc qui
hiệp và phán xét vĩ đại nầy.
Đức Hộ Pháp thuyết đạo tại
Đền Thánh ngày 1-7-Mậu Dần (1938) nói về Đức Chí Tôn qui nguyên Tam giáo, phục
nhứt Ngũ Chi:
" Tại sao Đức Chí Tôn không giáng bằng xác thân,
lại giáng bằng huyền diệu cơ bút ?
Tại thời kỳ chuyển đạo vô vi, chấn hưng Tam giáo, phục
nhứt Ngũ Chi, nên Đức Chí Tôn giáng bằng huyền diệu cơ bút, mới qui đặng cả đại
đồng Tam giáo. Bởi Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Phật Thánh Tiên giáng trần mở Tam
giáo, trong buổi nhơn loại chưa hiệp đồng, ba vị Giáo chủ phải thọ sanh riêng
địa phận, nên hai kỳ khai đạo ấy chỉ phổ độ trở về cựu vị có 8 ức nguyên nhân;
còn buổi Hạ nguơn Tam Kỳ Phổ Độ là thời kỳ ân xá tội tình cho toàn thể chúng
sanh, lại nhơn buổi văn minh nhơn loại thông đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, nên
Đức Chí Tôn dùng huyền diệu giáng cơ khai đạo, chủ nghĩa là tận độ 92 ức nguyên
nhân qui hồi cựu vị nên gọi là cơ quan cứu thế.
Nếu Đức Chí Tôn chia chơn linh giáng thế như buổi
trước, thì phải tá mẫu đầu thai, mang hình thể hữu vi, lại nữa là đạo khai
trong nước Việt Nam thì phải thọ sanh làm người Việt Nam thì có thế nào chuyển
ba mối đạo khắp ngũ châu và toàn thế giới đặng.
Lại nữa, các dân tộc trong vạn quốc không thể hiệp
đồng sự tín ngưỡng làm một thì khó mà độ tận chúng sanh, cho nên Đức Chí Tôn
giáng bằng huyền diệu cơ bút đặng làm cho các nước để trọn đức tin rằng một
Đấng Chí Linh giáng thế cứu đời, qui tụ cả khối tinh thần của nhơn loại duy
nhứt, chỉ rõ bằng cớ như kỳ hội các tôn giáo tại Luân Đôn, các nước đều công
nhận Đạo Cao Đài là chơn thật, có thể qui nguyên đại đồng tôn giáo.
Đức Chí Tôn tuy chẳng giáng bằng xác thân, mà lại qui
tụ lương sanh lập Hội Thánh thay hình thể hữu vi cho Đức Chí Tôn và lập Quyền
Vạn linh bằng quyền Chí Linh. Kỳ Hạ nguơn nầy, dầu chúng sanh có tàn bạo hung
ác thế nào cũng không làm hại xác thân của Đức Chí Tôn như các vị Giáo chủ buổi
trước. Bởi quyền Vạn linh có đủ nghị lực tinh thần lập khuôn viên luật pháp,
xây chuyển cơ đạo và cơ đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn của Tạo hóa.
Đức Chí Tôn khai đạo kỳ thứ ba nầy giáng bằng huyền
diệu cơ bút, là do Thiên thơ tiền định, chuyển đạo vô vi, hiệp Tam giáo Ngũ Chi
làm một."
Chương 14
NHO TÔNG CHUYỂN THẾ
I . Nho tông chuyển thế.
Nho tông là Nho giáo, đạo
Nho. (Tông là tôn giáo).
Chuyển thế là làm cho cuộc
đời thay đổi từ xấu ra tốt, từ loạn ra trị, từ hung dữ ra hiền lành đạo đức.
Nho Tông Chuyển Thế là một
chủ trương lớn của Đạo Cao Đài, đối với cuộc thế, đối với nhơn quần xã hội.
Chủ trương nầy là dùng
tinh hoa của học thuyết Nho giáo để cải tạo cuộc thế trong buổi Hạ nguơn mạt
kiếp, phong hóa suy đồi, nền nếp gia đình đổ vỡ, xã hội vì danh lợi mà tranh
giành sát phạt nhau dữ dội, làm cho mạnh được yếu thua, khôn còn dại mất.
Với chủ trương Nho Tông
Chuyển Thế, Đức Chí Tôn lập Đạo Cao Đài thành một cơ quan chuyển thế.
Đức Hộ Pháp trong bài
thuyết đạo tại Đền Thánh đêm 1-9-Đinh Hợi (1947) giải thích Nho tông chuyển thế
như sau :
“ Bần đạo nhớ buổi Chí Tôn mới đến tỏ danh hiệu Người,
Người hứa với các môn đệ của Người buổi đầu tiên về Cơ quan chuyển thế, làm
phân vân biết bao nhiêu nhà trí thức tìm hiểu hai chữ Chuyển thế nghĩa là gì ?
Theo triết lý học, định nghĩa hai chữ Chuyển thế là :
xoay đổi thời đại hiển nhiên ra thời đại khác, hoặc không phù hạp, hoặc quá
khuôn khổ nề nếp nên quyết đoán thay đổi lập trường thiêng liêng vì thời đại
nầy đã định.
Chuyển nghĩa là sửa đổi cũ ra mới. Lấy nghĩa lý đã
định hẳn ra, tức nhiên chúng ta nhận thấy các khuôn luật đạo đức từ trước đến
giờ để lại đều bị biếm cả, bởi vì đời quá hung tàn bạo ngược, vô nhơn luân,
tinh thần đạo đức không qui định, tâm lý loài người không tương quan cùng nhau,
mất cả luật đồng sanh làm căn bản cho loài người, luật đồng sanh gần như bị hủy
bỏ, bởi thấy tấn tuồng trước mắt, nào giặc giã chiến tranh giành sống mà giết
hại lẫn nhau, oán kết thâm thù, loài người do nơi ấy mà biến sanh tàn ác, cái
phương sanh sống đến một giai đoạn rất khó khăn và chúng ta thử xét đoán trong
các kinh điển Đạo giáo đã để lại là “mưa dầu nắng lửa”. Trận mưa dầu nắng lửa
sẽ có hiện tượng y như trong kinh đã nói. Cũng vì sự sanh hoạt khó khăn mà loài
người giết hại lẫn nhau. . . . .
Đời sống đến giai đoạn khó khăn hơn nữa, những phẩm
vật nuôi sống loài người càng giảm bớt thì nhơn loại còn quyết liệt chiến đấu
hơn nữa. “
“ Nền Đạo Cao Đài là Nho Tông Chuyển Thế thì tức nhiên
của toàn xã hội nhơn quần tại mặt địa cầu nầy, nhờ đạo Nho sửa đương chỉnh đốn
thiên hạ lại. Chúng ta thấy xã hội tinh túy đạo đức của họ dường như đảo ngược
lại, khủng hoảng tinh thần mà ra vậy.”
Đạo Cao Đài chủ trương Nho
Tông Chuyển thế, không có nghĩa là đem toàn cả học thuyết của Nho giáo ra áp
dụng một cách máy móc khắt khe, vì xã hội hiện tại là dân chủ, nam nữ bình
quyền, trình độ tiến hóa về khoa học kỹ thuật cũng như tinh thần rất cao so với
thời kỳ của Đức Khổng Tử cách đây hơn 2500 năm.
Hơn nữa, tại sao không
dùng Phật giáo hay Lão giáo, hoặc Thiên Chúa giáo để làm căn bản chuyển thế ?
mà phải dùng Nho giáo ? Bởi vì không có học thuyết nào dạy Nhơn đạo kỹ bằng Nho
giáo. Muốn cải tạo xã hội thì phải dạy Nhơn đạo, vì Nhơn đạo là căn bản, chớ
không thể dạy Thánh đạo, Tiên đạo hay Phật đạo. Nhưng chỉ lấy những điểm tinh
hoa của Nho giáo làm căn bản giáo dục mà thôi, bởi vì toàn cả giáo lý Nho giáo
có nhiều điểm không còn thích hợp với xã hội ngày nay.
Những tinh hoa của giáo lý
Nho giáo được áp dụng ngày nay, có thể kể ra sau đây :
* Phần chung : - Thiên Địa vạn vật đồng nhứt thể.
- Nhơn
Nghĩa, Trung Dung.
* Phần riêng
: . Nam thì Tam
cang, Ngũ thường.
. Nữ thì Tam Tùng, Tứ đức.
* Phương pháp thực hành
chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, trước hết thi hành ba điểm :
- Tôn trọng Nhơn luân.
- Sùng kính Nhơn Nghĩa.
- Phục hưng Lễ Nhạc
II . Quốc Đạo - Nam phong
Quốc đạo tức là Quốc giáo,
là nền tôn giáo chánh thức của một nước.
Đạo Cao Đài là quốc đạo
của VN, vì Đạo Cao Đài được Đức ChíTôn mở ra trên đất nước VN, cho dân tộc VN.
TNHT: Từ thử nước Nam chẳng đạo nhà,
Nên Ta gầy dựng lập nên ra.
Đó là lời xác nhận của Đức
Chí Tôn Thượng Đế.
Trên đất nước VN hiện nay
có rất nhiều tôn giáo như: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, Thiên Chúa giáo, đạo Tin
Lành, đạo Bà La Môn, vv ... Những tôn giáo nầy đều được mở ra ở các nước ngoại
quốc rồi truyền vào VN, được người VN chấp nhận và tôn sùng.
Nhưng, riêng nước VN, kể
từ khi lập quốc đến nay, chưa có một tôn giáo được khai mở trên đất nước VN,
cho dân tộc VN. Ngày nay, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế đến ban thưởng cho
dân tộc VN, bằng cách mở ra trên đất nước VN, cho người VN một nền Đại Đạo gọi
là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hay nói vắn tắt là Đạo Cao Đài, do Đấng Thượng Đế tá
danh Cao Đài làm Giáo Chủ.
Thật là vinh hạnh cho dân
tộc Việt Nam !
TNHT: "Thầy
đã lập Đạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thử đến giờ hằng bị
lắm cơn thạnh nộ của Thầy. Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách
vinh diệu. Từ tạo Thiên lập Địa, chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 nầy đặng
vậy. Cốt để ban thưởng các con thì các con hưởng phần hơn đã đáng, lẽ nào Thầy
đã để phần nhiều cho các nước khác sao ? "
" Thầy có hội chư Tiên Phật lại mà thương nghị về
sự lập Đạo tại Đại Nam Việt quốc. Các con khá nghe lời Thầy dặn, chớ khá nghịch
lẫn nhau, phải đồng một lòng một dạ mà lo chấn hưng đạo đức."
" Vốn Thầy tạo lập nền Chánh giáo cho dân Nam
Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu. Các con ví biết Đạo là quí thì phải ân cần
thận trọng, đợi đến ngày thành tựu các con mới thấy rõ Thiên cơ thì chừng ấy
các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng, vì mỗi việc khó khăn trắc trở là
lúc sơ khai." " Từ đây trong
nước Nam duy có một Đạo chơn thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là
Quốc Đạo, hiểu à ! ”
Đức Chí Tôn giáng cho bài
thi và bảo chép lại bằng Hán văn để gởi cho vua Bảo Đại lúc đó, trong đó có 2
câu :
Quốc Đạo
kim triêu thành
Đại Đạo,
Nghĩa là : -
Nền Quốc Đạo Cao Đài ngày nay biến thành nền Đại Đạo cho cả hoàn cầu,
- Nền phong hóa của nước Việt Nam ngày ấy sẽ biến thành nền
phong hóa của nhơn loại.
Nam phong là nền phong hóa
của dân tộc Việt Nam. Nhờ thi hành chủ trương Nho tông chuyển thế của Đạo Cao
Đài, nền phong hóa của Việt Nam sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp, được dùng làm gương
mẫu cho các nước trên toàn thế giới noi theo.
" Nơi dãy đất VN chúng ta đã tám mươi mấy năm khổ
nạn, dân sanh sống dưới quyền lệ thuộc, hầu hết đã gần quên tinh thần cổ truyền
của tổ phụ để lại.
May thay cho nòi giống Lạc Hồng, là không đến nỗi phải
chịu mất tinh thần cố hữu ấy, nên được Đức Chí Tôn dùng dãy đất nầy làm Thánh
Địa và định cho dân tộc Việt Thường hưởng hồng ân của Ngài trước nhứt, rồi mới
cho nhơn loại trên mặt địa cầu nầy hưởng sau.
Theo Thánh ý của Đức Chí Tôn là muốn dùng dân tộc VN
làm gương mẫu cho toàn cầu, là chỗ mà thiên hạ cho là thấp hèn, bạc nhược, lại
được Đức Chí Tôn đem lên ngang hàng cùng vạn bang, mà còn cho trổi hơn mặt tinh
thần, do đó mới kêu là Quốc Đạo." (Trích Thánh giáo của Đức
Cao Thượng Phẩm tại Báo Ân Từ ngày 1-10-Canh Dần)
Đức Hộ Pháp thuyết đạo tại
Đền Thánh đêm 30-9-Đ.Hợi 1937 :
" Hai chữ Quốc Đạo, lần đầu Chí Tôn viết ra làm
cho Bần đạo mờ mịt. Cũng vì hai chữ Quốc Đạo mà Phạm Công Tắc chết năm 35 tuổi,
thí thân đeo đuổi làm cho ra thiệt tướng. Ôi ! Hai chữ Quốc Đạo là một vật mà
Bần đạo tiềm tàng rồi mới hiểu. Khởi điểm biết thương nòi giống, biết thương tổ
quốc, đeo đuổi mất còn với cái điều khát khao từ buổi thanh xuân đó vậy. Tự
biết khôn dĩ chí gặp Đạo năm 35 tuổi, Bần đạo thấy sao mà phải khao khát thèm
lạt, tại làm sao Chí Tôn biết thiếu thốn nơi tinh thần điều ấy mà cho Bần đạo.
Bần đạo ban sơ nghi hoặc, có lẽ một Đấng có quyền năng
thiêng liêng biết tâm lý đang nồng nàn ao ước, đương thèm lạt khao khát, đương
tiềm tàng mà đem ra cám dỗ. Hại thay ! Yếu ớt đức tin, ngày nay Bần đạo ăn năn
quá lẽ, 15 năm đã đặng thấy gì ?
Cả toàn thiên hạ nói rằng : Nòi giống VN không có Đạo.
Lạ lùng thay ! chúng ta tự hỏi có thật vậy chăng ? Thật quả có chớ, có nhiều
Đạo quá mà thành ra không Đạo, chỉ mượn Đạo, xin Đạo của thiên hạ mà thôi...
Thành thử VN có nhiều Đạo quá mà thành ra không Đạo.
Ngày Chí Tôn tình cờ đến, vì ham thi văn nên ban sơ
Diêu Trì Cung đến dụ bằng thi văn tuyệt bút làm cho mê mẩn tinh thần. Hại thay
! Nếu chẳng phải là nhà thi sĩ, ắt chưa bị bắt một cách dễ dàng như thế. Vì ham
văn chương thi phú nên Ngài ráng dạy. Chí Tôn đến ban đầu làm bạn thân, rồi dạy
đạo, kế bảo Vọng Thiên cầu Đạo, rồi Ngài dạy lập Đạo.
Khi ấy, Bần đạo chưa tín ngưỡng, bởi lẽ nòi giống nước
Nam còn tín ngưỡng tạp nhạp lắm, không chưn đứng, không căn bản, nói rõ là
không tín ngưỡng gì hết. Bần đạo mới trả lời với Đức Chí Tôn, ngày nay Bần đạo
nghĩ lại rất sợ sệt. Nếu không phải gặp Đấng Đại Từ Bi thì tội tình biết chừng
nào mà kể.
" Thưa Thầy, Thầy biểu con làm Lão Tử hay Jésus,
con làm cũng không đặng; Thích Ca, con làm cũng không đặng, con chỉ làm đặng
Phạm Công Tắc thôi. Con lại nghĩ con bất tài vô đạo đức nầy quyết theo Thầy
không bỏ, nhưng tưởng cũng chẳng ích chi cho Thầy."
Đấng ấy trả lời: - Tắc,
thảng Thầy lấy tánh đức của Phạm Công Tắc mà lập giáo, con mới nghĩ sao ?
Bần đạo liền trả lời: -
Nếu đặng vậy . . . .
Ngài liền nói: - Thầy đến
lập cho nước Việt Nam nầy một nền Quốc Đạo.
Nghe xong, Bần đạo từ đấy
hình như phiêu phiêu lên giữa không trung, mơ màng như giấc mộng. Được nghe nói
cái điều mà mình thèm ước nên Bần đạo không từ chối đặng. Ôi ! Quốc Đạo là thế
nào ? Quốc là nước, vậy nòi giống tín ngưỡng lập Quốc Đạo, Bần đạo theo tới
cùng coi lập nó ra thế nào, hình tướng nào cho biết. Vì đó mà lần mò theo đuổi
đến ngày nay, thấy hiện hữu cái hình trạng là Đạo Cao Đài, rồi lại đoán xét coi
nó biến hình Quốc Đạo Việt Nam ra sao ?
Ngài cho một bài thi, dám
chắc không ai thấu đáo nổi, người coi cái gốc thì không thấy ngọn, người coi
cái ngọn thì không thấy gốc, tứ văn thiệt thà hay ho cho
tới các đảng phái quốc sự ngày nay cũng lợi dụng.
Từ đây nòi giống chẳng chia ba.
Tức nhiên không chia 3 Đạo, chớ khgâ phải chia 3
Kỳ !
Thầy hiệp các con lại một nhà.
Thầy nắm chủ
quyền hiệp Tam giáo, nếu nói riêng nòi giống hiệp Nam , Trung, Bắc
thì vô vị lắm.
Tức nhiên nền chơn
giáo Quốc Đạo không phải của ta thôi, mà lại của toàn nhơn loại, truyền giáo
Nam Bắc thành tướng rồi ra ngoại quốc, tức là tôn giáo toàn cầu.
Chủ quyền chơn đạo một mình Ta.
Tam giáo, Ngài vi chủ, nắm cả tín ngưỡng và tinh thần
của loài người, chính Đức Chí Tôn là Chúa tể Càn khôn thế giới, làm chúa nền
Chánh giáo tại nước Nam, tức đủ quyền
năng lập Quốc Đạo. . . . . .
Chí Tôn nói rằng : Quốc Đạo nầy, Ngài qui tụ tinh thần
đạo đức trí thức toàn nhơn loại cho đặc biệt, có cao có thấp, có hàng ngũ có
phẩm giá; còn về phần xác thịt của loài người, mạng sống trước mặt Ngài không
ai hơn ai, cả thảy sống đồng sống, chết đồng chết, đặng đem Quốc Đạo làm môi
giới cả đại đồng đặng tạo tương lai loài người cho có địa vị oai quyền cao
thượng.”
Nếu hiểu đặng thì Thánh thể cũng vậy, Hội Thánh chư
Chức sắc Thiên phong nam nữ hay toàn thể tín đồ cũng vậy, lãnh Thiên mạng đảm
nhiệm trách vụ thiêng liêng Chí Tôn phú thác lập giáo, tức nhiên phải có phẩm
giá, trật tự đẳng cấp. Nếu hiểu thêm ý của Ngài, khi cổi áo nầy ra khỏi đại
điện rồi hết thảy đồng là anh em, không ai hơn ai, không ai thua ai, không
khinh không trọng, đầy đủ tình yêu ái trong lòng Mẹ đem ra mà thôi. Nam nữ cũng thế. Ngày giờ nào nhơn loại cả thế gian
ở mặt địa cầu nầy hiểu được lý lẽ chí hướng cao thượng ấy là ngày Đạo Cao Đài
sẽ ra thiệt tướng."
Nước Việt Nam trong buổi
Hạ nguơn, được hồng ân của Đức Chí Tôn ban cho một nền Quốc Đạo Cao Đài. Người
VN không nên ích kỷ, bo bo giữ lấy mối Đạo cao thượng của mình, mà phải truyền
bá ra khắp năm châu để toàn cả nhơn loại đều được hưởng ân điển của Đấng Chí
Tôn, Đại Từ Phụ của toàn nhơn loại, làm cho nền Quốc Đạo VN trở thành nền Đại
Đạo của toàn nhơn loại.
" Lo
lường thấu đáo đạo huyền vi,
Ngàn tuổi chưa
ai dám sánh bì.
Một nước
nhỏ nhen trong vạn quốc,
Ngày sau làm chủ mới là kỳ ! "
(Đức
Chí Tôn)
Nhờ nền Quốc Đạo Cao Đài
mà dân tộc Việt Nam sẽ làm chủ tinh thần của nhơn loại, và nền phong hóa Việt
Nam sẽ làm gương mẫu cho các dân tộc trên thế giới.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] Đến Hạnh Đường
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] Đến Hạnh Đường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét