IV . Cách cắm nhang
Khi chưa đốt gọi là Nhang,
khi đốt rồi thì gọi là Hương, vì khói nhang tỏa mùi thơm.
Phần Tiểu Dẫn : Cách thờ
phượng và cúng kiếng, nơi phần đầu của quyển Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, Hội
Thánh viết như sau :
“ Khi cúng Thầy, phải đốt
cho đủ năm cây hương, cắm hàng trong ba cây gọi là Án Tam Tài, thêm hàng ngoài
hai cây nữa gọi là Tượng Ngũ Khí.”
Thứ tự cắm 5 cây hương :
- Thứ tự cắm 5 cây hương giống như khi chúng ta lấy dấu : Phật, Pháp,
Tăng, cúng Đức Chí Tôn.
2 ----- 1 ----- 3
---4-------5----
Án Tam Tài: Án là đứng
hàng ngang. Tam Tài là : Thiên, Địa, Nhơn. Án Tam Tài là ba ngôi Thiên Địa Nhơn
đứng hàng ngang. Cắm cây hương 1 tượng trưng Thiên, cắm cây hương 2 bên phía
mặt của bàn thờ thuộc âm, tượng trưng Địa, cắm cây hương 3 bên phía trái bàn
thờ thuộc dương tượng trưng Nhơn.
Tượng Ngũ Khí: Cắm thêm ở
hàng ngoài hai cây hương 4 và 5, tất cả là 5 cây hương, tượng Ngũ Khí tức là
tượng trưng 5 chất Khí, là 5 cái năng lực khởi đầu của vũ trụ. Ngũ Khí là 5
chất khí nên không hình ảnh, thuộc thời Tiên Thiên, nhưng khi ngưng kết lại thì
có hình ảnh, thuộc thời Hậu Thiên, tạo thành Ngũ Hành.
Khi đứng trước bàn thờ
nhìn vào lư hương, thấy đủ 5 cây hương, không có cây nào bị che khuất là đúng.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết
đạo giải thích như sau :
“ Nói về năm
cây nhang, từ thử Bần đạo để cho các Nho gia tự do giảng giải sao thì giảng,
còn Bần đạo hiểu rõ là Ngũ Khí. Chí Tôn dùng Ngũ Khí biến thành Ngũ Hành,
vận chuyển càn khôn thế giới, tức là : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi
chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi Khí. Mùi vị và sanh quang của nó, chúng
ta không thể hưởng được, nghe được.
Nên chi, khi làm lễ đốt đủ Năm cây hương là đúng theo
phép tín ngưỡng, là qui pháp lại, mọi vật trong Ngũ Khí dâng lễ cho Đức Chí
Tôn, chỉ có Người vui hưởng qui pháp ấy mà thôi. Cắt nghĩa rõ rệt ra là Ngũ Khí
đó vậy. Đúng hơn nữa là trong Bát hồn vận chuyển được phải nhờ đến Ngũ Khí,
cùng một ý nghĩa với : Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn.”
Vậy Năm cây hương nầy là
lễ hiến Ngũ Khí dâng lên Đức Chí Tôn. Do đó, không bao giờ được dùng nhang giả
(nhang điện) cắm vào lư hương
V . Nghi tiết lễ Thượng tượng
Thượng tượng là đem bức
Thánh tượng Thiên Nhãn đặt lên bàn thờ để thờ phượng Đức Chí Tôn.
Chủ nhà liên lạc với vị
Chánh Trị Sự hương đạo của mình để nhờ ông sắp đặt Lễ Thượng tượng nơi nhà
mình, ấn định ngày giờ cuộc lễ và mời các Chức việc Bàn Trị Sự. Sau đó chủ nhà
đến Thánh Thất thỉnh vị Lễ Sanh do Hội Thánh bổ nhiệm cầm quyền đạo tại địa
phương đến khai đàn chứng lễ Thượng tượng.
Tùy theo sự sắp đặt của
Bàn Trị Sự, lễ Thượng tượng có thể tổ chức vào giờ Ngọ (12 giờ trưa) hay giờ
Dậu (6 giờ chiều).
Chuẩn bị : Sớ văn để trên
cái dĩa, đặt kế lư hương và một bó 5 cây nhang lấy chỉ cột lại.
Kiểm tra : bông, rượu,
trà, nước trắng, cho đầy đủ.
Tất cả chia ra đứng hai
bên Thiên bàn, nam tả, nữ hữu (từ Thiên bàn ngó ra). Chức sắc đứng trước, kế là
Chức việc BTS, Đạo hữu, chủ nhà và gia quyến đứng chót.
Lễ Thượng tượng diễn ra
như sau :
1 . Gõ 3 tiếng chuông : khởi lễ. Tất cả đều bắt ấn Tý.
2 . Xá đàn 1 xá, tất cả
bước vào đứng trước Thiên bàn.
3 . Xá 3 xá, quì xuống.
Người phụ lễ đốt bó nhang 5 cây trao cho viï Lễ Sanh chứng đàn.
4 . Lấy dấu : Nam mô Phật,
Nam mô Pháp, Nam mô Tăng. Đem ấn Tý đặt giữa ngực, vừa cúi đầu vừa niệm :
- Nam mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
- Nam mô Quan Thế Âm Bồ
Tát Ma Ha Tát,
- Nam mô Lý Đại Tiên
Trưởng kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ,
- Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế
QuanThánh Đế Quân
- Nam mô chư Phật chư Tiên
chư Thánh chư Thần.
(mỗi câu niệm,
gõ 1 tiếng chuông, cúi đầu)
5 . Đồng nhi khởi tụng kinh Niệm Hương.
Dứt kinh, Chức sắc chứng
đàn trao bó hương 5 cây cho phụ lễ đem cắm vào lư hương, giữa 5 cây hương đã
cắm trước.
Lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12
gật, mỗi gật niệm câu chú của Thầy. (mỗi lạy mỗi điểm chuông)
6 . Đồng nhi tụng bài Khai Kinh.
Dứt kinh, cúi đầu, không lạy. Khi tụng danh hiệu của
các Đấng, điểm 1 tiếng cho mọi người cúi đầu.
7 . Đồng nhi tụng Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Dứt kinh, lạy Đức Chí Tôn
3 lạy 12 gật, giống mục 5.
8. Đồng nhi tụng Kinh Phật giáo.
Dứt kinh, lạy 3 lạy 9 gật,
mỗi gật niệm : Nam mô
Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ
Tát Ma Ha Tát.
9 . Đồng nhi tụng Kinh Tiên giáo.
Dứt kinh, lạy 3 lạy 9 gật,
mỗi gật niệm : Nam mô
Thái Thượng Đạo Tổ Tam
Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.
10 . Đồng nhi tụng Kinh Nho giáo.
Dứt kinh, lạy 3 lạy 9 gật,
mỗi gật niệm : Nam mô
KhổngThánh Tiên Sư Hưng
Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
11 . Đồng nhi thài bài Dâng Hoa.
Dứt thài, mọi người đưa ấn
Tý lên trán cầu nguyện :
Dâng thể xác lên Đức Chí
Tôn dùng phương nào thì dùng. (Cách cầu nguyện dâng Tam bửu : Hoa, Rượu, Trà,
xem chi tiết nơi Chương 5 : Cúng Tứ
thời)
Lạy 1 lạy 4 gật, mỗi gật
niệm câu chú của Thầy.
12. Đồng nhi thài bài Dâng Rượu.
Y như mục 11 nhưng cầu
nguyện Dâng chơn thần.
13. Đồng nhi thài bài Dâng Trà.
Y như mục 11 nhưng cầu
nguyện Dâng linh hồn.
14. Dâng sớ : Người phụ lễ bưng dĩa sớ trên Thiên
bàn trao sớ cho Lễ Sanh chứng đàn. Vị nầy cầm đứng bao sớ, xá 3 xá (có điểm chuông), cầu nguyện, rút lá sớ ra, đưa cho người đọc sớ. (Đọc sớ,
đến chỗ danh hiệu các Đấng thì cúi đầu).
Đọc sớ :
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ
ĐỘ
(Thất thập . . .
niên)
Tam giáo qui
nguyên, Ngũ chi phục nhứt.
Thời duy, Thiên vận . . .
. . . niên, . . . . ngoạt, . . . . .
nhựt, ngọ thời, hiện tại Việt Nam quốc,
. . . . . Trấn, . . . . Châu, . . . . , Tộc, . . . . . Hương, cư trụ gia đường chi trung.
Kim đệ tử . . . (phẩm tước
và Thánh danh của vị Lễ Sanh chứng đàn) . . . . . công đồng chư Chức sắc hiệp dữ Chức việc, Đạo hữu nam nữ
đẳng quì tại Thiên bàn tiền, thành tâm trình tấu.
HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI :
Huyền Khung Cao
Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.
Diêu Trì Kim Mẫu
Vô Cực Thiên Tôn.
TAM TÔNG CHƠN GIÁO :
Tây Phương Giáo
Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,
Thái Thượng Đạo Tổ
Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn,
Khổng Thánh Tiên
Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM
TRẤN OAI NGHIÊM :
Thường Cư Nam Hải
Quan Âm Như Lai,
Lý Đại Tiên Trưởng
kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ,
Hiệp Thiên Đại Đế
Quan Thánh Đế Quân.
Gia Tô Giáo Chủ
Cứu Thế Thiên Tôn,
Thái Công Tướng
Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn,
Tam Châu Bát Bộ Hộ
Pháp Thiên Tôn,
Thập phương chư
Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.
Kim vì, kiết nhựt lương
thần, thỉnh an Thánh tượng chi lễ, chư Thiên phong nghiêm thiết đàng tràng,
hương đăng hoa trà quả, thanh chước chi nghi, thành tâm phụng hiến.
Cẩn thỉnh chư Phật, chư
Tiên, chư Thánh, chư Thần, chứng minh tọa hạ.
Phục vọng Vô Trung Từ Phụ,
phát hạ hồng ân, chuyển họa vi phước, tập kiết nghinh tường, bảo hộ gia đường .
. . . (tên gia chủ xin thượng tượng) . . . . . diên niên hạnh phước.
Ngưỡng nguyện Đại Từ Bi
vận chuyển thế cuộc tảo đắc hòa bình, trật tự an ninh, quốc thới dân an, phong
điều võ thuận.
Chư Thiên phong hiệp dữ
Chức việc, Đạo hữu nam nữ đẳng thiết triêm Thiên ân gia huệ dã.
Chư đệ tử đồng thành tâm khấu bái cẩn sớ thượng tấu
Dĩ văn.
Đệ tử : . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . .
(phẩm tước và Thánh danh của vị
Chức sắc chứng đàn)
Đọc sớ xong, người đọc đưa
sớ cho vị chứng đàn bỏ vào bao sớ, vị nầy cầm bao sớ xá 3 xá, đốt sớ bỏ vào
thố, đem đặt giữa chuông và mõ dưới Thiên bàn.
Lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12
gật, niệm chú đầy đủ.
15. Đồng nhi tụng Ngũ Nguyện.
Dứt Ngũ nguyện, tuy đã có
cầu nguyện theo sớ văn, nhưng vị chứng đàn có thể cầu nguyện thêm cho gia chủ
(vì đây là sự khích lệ rất lớn lao đối với gia đình gia chủ).
Khi cầu nguyện thêm, vị
chứng đàn nên cất tiếng cầu nguyện rõ ràng vừa đủ nghe để mọi người cùng nghe
cùng dâng lời cầu nguyện lên Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng, lời cầu
nguyện có thể đặt ra như sau :
“ Nam mô Cao
Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát,
Nam mô Tam Tông Chơn Giáo,
Nam mô Tam Trấn Oai Nghiêm,
Hôm nay, đệ tử và Bàn Trị Sự Hương đạo . . . . . . đến khai
đàn thượng tượng tại nhà của Đạo hữu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Nguyện cầu Đức Chí Tôn,
Đức Phật Mẫu, Tam Trấn Oai Nghiêm, chư Phật, Tiên, Thánh, Thần ban ân lành cho
Đạo hữu . . . .. . . . . và toàn gia quyến, tinh thần mẫn huệ, trí não quang
minh, giữ lời Minh Thệ, gìn tròn luật Đạo, lập công bồi đức, giải quả tiền
khiên, gội hưởng Thiên ân trong kỳ ba đại
ân xá.
Nam mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.”
Lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12
gật, niệm chú đầy đủ.
16. Tất cả đều đứng dậy, xá 3 xá, lui ra hai bên.
(không có quay ra sau xá chữ Khí vì đây là tư
gia)
17. Đồng nhi, ban nhạc và những người hầu đàn vào
lạy
Đức Chí Tôn.
18. Vị Chức sắc chứng đàn có thể thuyết
đạo ngắn gọn nói về ích lợi của việc Thượng tượng, việc cúng tứ thời và bổn
phận của người tín đồ đối với Đạo.
19. Bãi đàn : đánh 3 tiếng chuông, xá đàn, lui ra, dứt lễ.
Sau đó, tất cả tập họp trở
lại để tụng :
- Di Lạc Chơn Kinh. - Kinh Cứu Khổ.
Trước khi tụng kinh, mọi
người vào quì trước Thiên bàn, thỉnh Thánh, cầu nguyện, rồi bắt đầu tụng Di-Lạc
Chơn Kinh. Tụng xong thì lạy, khỏi cầu nguyện.
Tiếp theo là tụng Kinh Cứu
Khổ.
Trong Kinh Cứu Khỗ, chỗ :
cứu hộ đệ tử. . . . , nên tụng cầu nguyện cho chủ nhà và gia quyến, như sau :
cứu hộ đệ tử . . . . (tên
họ chủ nhà) và gia quyến thoát ly khổ
nạn, tự ngôn Quan Thế Âm anh lạc . . . .
Sau cùng, đồng nhi và chư
vị hầu đàn vào cầu nguyện và lạy Đức Chí Tôn. Xong, đánh 3 tiếng chuông bãi
đàn, mọi người xá đàn 1 xá. Buổi lễ Thượng tượng đã xong.
Ở các hương đạo địa
phương, thông thường thì BTS còn đến cúng thời cùng gia chủ trong hai ngày nữa,
tới ngày thứ ba huờn kinh, mới chấm dứt.
Ngày hôm sau, tức là ngày
thứ nhì, BTS cử Chức việc đến cùng với chủ nhà cúng thời Ngọ (hoặc thời Dậu),
không có dâng sớ, chỉ thài bài Dâng Rượu (nếu thời Dậu thì thài bài Dâng Trà).
Cúng thời xong thì tụng Di Lạc Chơn Kinh và Kinh Cứu Khổ y như ngày hôm qua.
Ngày hôm sau nữa, tức ngày
thứ ba, Chức việc cũng đến cúng thời với chủ nhà. Cúng xong thì tụng Kinh Di
Lạc và Cứu Khổ y như hai lần trước, nhưng bữa thứ ba nầy, tụng thêm Kinh Sám
Hối.
Như vậy, sau lễ Thượng
tượng, Bàn Trị Sự tiếp tục đến nhà, hiệp cùng gia chủ, cúng thời và tụng kinh hai
lần nữa để bắt trớn cho gia chủ tiếp tục cúng trong Tứ thời trước Thiên bàn tại
tư gia của mình.
VI . Tính chất của sự thờ phượng và nghi lễ
Chúng ta đã thấy trên
Thánh tượng Thiên Nhãn - Ngũ Chi, Đạo Cao Đài trên hết là thờ Đức Chí Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Đế, kế dưới là thờ các Đấng Giáo chủ thời Nhị Kỳ Phổ Độ và thờ Tam
Trấn Oai Nghiêm thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Tuy thờ như vậy nhưng khi
đọc kinh cúng thì đọc kinh xưng tụng Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, Giáo chủ Phật giáo
Nhứt Kỳ Phổ Độ; kinh Tiên giáo thì xưng tụng Đức Thái Thượng Đạo Quân Giáo chủ
Tiên giáo Nhứt Kỳ Phổ Độ và hóa thân của Ngài là Lão Tử thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
Như vậy, sự thờ phượng
phối hợp với kinh kệ của Đạo Cao Đài có tính chất xuyên suốt từ Nhứt Kỳ, qua
Nhị Kỳ rồi đến Tam Kỳ Phổ Độ. Đây là thời kỳ Vạn thù qui nhứt bổn mà hai thời
kỳ trước là Nhứt bổn tán vạn thù.
Đôi khi có một số người
hiểu lầm cho rằng, Đạo Cao Đài là một tôn giáo hỗn tạp, không thuần nhứt trong
cách thờ phượng và trong kinh kệ. Quả thật, nếu chúng ta chỉ nhìn riêng lẻ từng
tôn giáo và từng thời kỳ phổ độ, chúng ta sẽ có kết luận như thế, nhưng nếu
chúng ta có cái nhìn tổng quát xuyên suốt từ đầu đến cuối, thì thấy trong cái
hỗn tạp đó, có một cái trật tự do Đấng
Thượng Đế sắp đặt. Đấng Thượng Đế lâu nay không nói ra, để tự con người tìm tòi
hiểu biết, nhưng con người vẫn vô minh.
Ngày nay, Đấng Thượng Đế
lập Đạo Cao Đài trong thời kỳ cuối cùng trước khi đến Đại Hội Long Hoa, Đấng
Thượng Đế phơi bày ra tất cả, để nhơn loại hiểu biết nguồn gốc của mình đều là
con của Thượng Đế, nhìn nhau là anh em một nhà. Còn các Đấng Giáo chủ các tôn
giáo chỉ là những vị lãnh lịnh Đấng Thượng Đế giáng trần mở đạo dạy dỗ nhơn
sanh trong khu vực và thời hạn qui định.
Hiểu như vậy để tiến tới
sự hòa đồng các tôn giáo, trước khi Đức Di-Lạc Vương Phật giáng trần gom các
đạo hữu hình làm một dưới quyền chưởng quản của Ngài.
VII . Lập bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ
Sau khi lập Thiên bàn thờ
Đức Chí Tôn rồi, gia chủ nên lập thêm bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ tại nhà mình.
Thường thì bàn thờ Cửu
Huyền Thất Tổ thiết lập gần bên Thiên bàn cho thuận tiện việc cúng kiếng.
Nếu trong nhà đã có sẵn
bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ (CHTT) hay bàn thờ Tổ Tiên rồi thì nên chỉnh đốn cho
đúng theo khuôn mẫu của Đạo lập nên.
Ngoài ra, khi lập Thiên
bàn rồi thì những bàn thờ nhỏ trước đây như : bàn thờ Đức Quan Thánh, bàn thờ
Đức Quan Âm Bồ Tát, bàn thờ Đức Mẹ Sanh, vv . . . . thì nên dẹp hết, vì trên
Thiên Bàn đã có thờ đủ các Đấng ấy rồi.
(Nếu cha mẹ đã mất thì có
thể đặt hình của cha mẹ dưới Cửu Huyền Thất Tổ để thờ chung)
Chúng ta thờ Đức Chí Tôn
vì Đức Chí Tôn là nguồn gốc thiêng liêng của linh hồn của ta.
Chúng ta thờ Cửu Huyền
Thất Tổ vì CHTT là nguồn gốc phàm trần
của xác thân ta.
Chúng ta hiện diện trong
cõi đời hiện tại đây là do hai nguồn gốc đó, nên chúng ta phải phụng thờ đầy
đủ.
Bàn thờ CHTT có viết chữ
Cửu Huyền Thất Tổ bằng chữ Nho đại tự, 4 chữ thẳng đứng, hai bên có đôi liễn
thờ.
Xin đề nghị đôi liễn sau
đây, tùy nghi gia chủ sử dụng, hoặc đổi đôi liễn khác. (Đôi liễn nầy tại Bùi
Phủ Từ).
Đôi liễn : - Sùng đức Cửu
Huyền ân thượng trọng,
- Tôn công Thất Tổ nghĩa cao thâm.
Nghĩa là : Kính cái đức độ
của Cửu Huyền, ơn cao trọng,
. Tôn cái công nghiệp của
Thất Tổ, nghĩa cao sâu.
Cách chưng bày các món
trên bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ, lấy theo mẫu bàn thờ PHƯỚC LỘC THỌ (thờ ông bà
chung) nơi hậu điện Báo Ân Từ:
2 - - - - - - -1-
- - - - - - - 3
- - - -4 - - - - -
- -5 - - - -
6 - - - - - - 8 -
- - - - - - -7
1 -
Đèn vọng.
2 -
Dĩa trái cây.
3 -
Bình bông.
4 -
Chung nước trà.
5 -
Ly rượu.
6
và 7 - Cặp đèn nghi.
8
Lư hương (cắm 3 cây hương).
Thờ cúng Cửu Huyền, ý
nghĩa : mình là cháu 9 đời, thờ các bậc Tổ Tiên 9 đời trước mình.
Thờ CHTT là để tỏ lòng
kính trọng Tổ Tiên mà trong buổi sanh tiền đã dày công giáo hóa, chỉ dẫn công
việc làm ăn, dạy bảo cử chỉ hành động sao cho tốt đẹp, hợp đạo đức, để phát huy
sự nghiệp làm rạng rỡ Tổ Tiên.
Sau đây là bảng giải thích
Hệ thống Cửu Huyền (9 đời) và Thất Tổ (7 vị Tổ) của dòng họ :
Hệ thống Cửu Huyền :
1. Ông Sơ của ông Sơ. (Cao Cao Tổ). Thất
Tổ
2. Ông Cố của ông Sơ. (Cao Tằng Tổ). Lục Tổ
3. Ông Nội của ông Sơ. (Viễn Tổ).
Ngũ Tổ
4. Cha của ông Sơ. (Tiên Tổ). Tứ Tổ............ Thất Tổ
5. Ông Sơ . (Cao Tổ). Tam Tổ
6. Ông Cố . (Tằng Tổ). Nhị Tổ
7. Ông Nội. (Nội Tổ). Nhứt Tổ
8. Cha (Phụ thân)
VIII . Giải nghĩa Sớ văn
Các bài văn sớ trong Đạo
đều viết bằng Hán văn, tương đối khó hiểu, nên cần dịch nghĩa ra tiếng Việt.
Các bài văn sớ đều có phần
đầu và câu cuối giống nhau, chỉ khác nhau phần giữa gọi là lòng sớ.
BÀI DỊCH :
Nay theo,
Vận Trời năm. . . . . . . , tháng . . . . . , ngày . .
. . . . , giờ. . . . , hiện ở nước Việt
Nam, Trấn đạo. . . . . . . . . , Châu đạo . . . . . . . , Tộc đạo . . . . . . .
, Hương đạo . . . . . , đang tại nơi tư gia.
Nay đệ tử . . . . . . . . . . . . . . . . . . cùng
chung các Chức sắc, hiệp với các Chức việc và Đạo hữu nam nữ các cấp, quì trước
Thiên bàn, thành tâm tâu bày :
TRONG CỬA HUỲNH KIM KHUYẾT CÓ :
Đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế Đại Thiên Tôn,
Đức Diêu Trì Kim
Mẫu.
BA ĐẤNG GIÁO CHỦ TAM GIÁO :
Đức Phật Thích
Ca, - Đức Lão Tử, - Đức Khổng Tử.
BA TRẤN OAI
NGHIÊM của ĐĐTKPĐ :
Đức Quan Thế Âm Bồ
Tát,
Đức Lý Thái Bạch
Đại Tiên Trưởng, kiêm nhiệm
Giáo Tông Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ,
Đức Quan Thánh.
Đức Chúa Jésus,
Đức Khương Thượng
Tử Nha,
Đức Hộ Pháp,
Mười phương chư Phật, muôn
hạng chư Tiên, chư Thánh, chư Thần.(1)
(Phần lòng sớ : )
Nay vì ngày lành, giờ tốt,
làm lễ thỉnh an Thánh tượng, chư Chức sắc Thiên phong nghiêm trang thiết lễ nơi
đàn cúng tế, nhang, đèn, bông, trà, trái cây, rượu tinh khiết, lập nên nghi
thức, thành tâm hiến lễ.
Kính thỉnh chư Phật, chư
Tiên, chư Thánh, chư Thần chứng minh và ngự xuống.
Chúng con xin nghe theo và
mong mỏi Đấng Đại Từ Phụ trong cõi Hư Vô ban xuống ơn huệ lớn lao, đổi họa làm
phước, góp tốt đón lành, bảo hộ gia đình . . . . . . . . . . . . được hạnh phúc
lâu dài.
Kính mong Đức Chí Tôn từ
bi vận chuyển cuộc thế sớm được hòa bình, trật tự an ninh, nước thạnh dân an,
gió hòa mưa thuận.
Các Chức sắc Thiên phong
hiệp cùng Chức việc, Đạo hữu nam nữ các cấp, xin được thấm nhuần ơn Trời, gia
tăng ơn huệ.
(Câu cuối của sớ : )
Các đệ tử đồng thành tâm
cúi đầu lạy xuống, kính cẩn dâng sớ tâu lên.
Kính trình.
Ghi chú : (1) - Vạn
chưởng : tức là Vạn chủng : muôn loài, muôn hạng.
- Liên đài chi hạ : bên
dưới tòa sen, là vị trí của chư Thánh chư Thần.
Chương 5
CÚNG TỨ THỜI
I . Tứ
Thời là gì ?
Tứ Thời là 4 giờ đặc biệt
trong một ngày mà tại 4 thời điểm đó, hai nguyên khí Âm và Dương của Trời Đất,
hoặc là khởi sanh hoặc là cân bằng nhau.
Theo Tây phương thì một
ngày đêm có 24 giờ, nhưng theo âm lịch của Đông phương thì một ngày đêm có 12
giờ và đặt tên giờ theo Thập nhị Địa chi.
Sự tương quan như sau :
* Giờ Tý : từ 0
giờ đến trước 2 giờ.
Giờ Sửu : từ 2
giờ đến trước 4 giờ.
Giờ Dần : từ 4
giờ đến trước 6 giờ.
* Giờ Mẹo : từ 6
giờ đến trước 8 giờ.
Giờ Thìn : từ 8 giờ đến trước 10 giờ.
Giờ Tỵ : từ 10 giờ đến trước 12 giờ.
* Giờ Ngọ : từ 12 giờ đến trước 14 giờ.
Giờ Mùi : từ 14 giờ đến trước 16 giờ.
Giờ Thân: từ 16 giờ đến
trước 18 giờ.
* Giờ Dậu : từ 18 giờ đến trước 20 giờ.
Giờ Tuất : từ 20 giờ đến
trước 22 giờ.
Giờ Hợi : từ 22 giờ đến trước 24 giờ (tức 0 giờ ngày
kế)
- Chánh Tý là đầu giờ Tý,
tức là lúc 0 giờ.
- Chánh Ngọ là đầu giờ
Ngọ, tức là lúc 12 giờ trưa.
(Chánh : nghĩa là đứng đầu).
Tại sao có việc sụt lại 1
giờ ?
Thí dụ : *- giờ Mẹo : thay
vì là 6 - 8 giờ, thì phải sụt lại 1 giờ, tức là 5 - 7 giờ; *- giờ Ngọ : thay vì là 12 - 14 giơ,ø thì
phải sụt lại 1 giờ, tức là 11 - 13 giờ;
vv ….
Đó là khi xem ngày giờ tốt
xấu trong việc gả cưới, động thổ cất nhà, gác đòn dông, khai trương cửa hàng,
vv…
Việc coi giờ tốt xấu thì
phải dùng các sách coi ngày giờ của Tàu, mà người Tàu khi làm sách thì căn cứ
vào giờ của Tàu tại Bắc Kinh (BK), nên khi VN dùng các sách nầy thì phải áp
dụng giờ BK, tức là phải đổi giờ VN ra giờ BK.
Giờ BK trước VN 1 giờ, ta
có bảng tương ứng :
- Giờ Bắc Kinh : 6
8 10 12 14 16
18 20
- Giờ VN : 5 7
9 11 13
15 17 19
Đổi giờ BK ra giờ VN :
- Giờ Mẹo BK : 6g -
8g tương ứng VN 5g - 7g.
- Giờ Ngọ BK : 12g - 14g -
- VN 11g - 13g.
Do đó, khi coi giờ tốt xấu
thì phải dùng giờ BK tức là sụt giờ VN lại 1 giờ. Việc sụt lại 1 giờ chỉ đúng ở
VN, nơi các nước khác không còn đúng nữa.
Như vậy, ngoài việc coi
ngày giờ tốt xấu, trong tất cả trường hợp khác ở VN thì chúng ta phải dùng giờ
VN.
Giờ của VN cũng là giờ tại
Tòa Thánh Tây Ninh. Đức Chí Tôn nhận Tây Ninh là Thánh địa, Tòa Thánh Tây Ninh
là Đền Thờ của Ngài nên ngày giờ tại TTTN cũng là ngày và giờ của Thiên đình.
Sự biến đổi cường độ hai
khí Âm Dương trong một ngày được biểu diễn trong đồ thị sau đây :
PHOTO
Biểu diễn bằng đồ
thị
- Đường liền : biểu diễn
sự biến đổi của khí Dương theo giờ.
- Đường đứt đoạn : biểu
diễn sự biến đổi của khí Âm theo giờ.
1. - Thời Tý, lúc 0 giờ,
khí Âm cực thạnh rồi giảm dần, khí Dương khởi sanh và cường độ tăng dần.
2. - Thời Mẹo, lúc 6 gờ
sáng, khí Âm và khí Dương cân bằng nhau. Sau đó khí Dương tiếp tục tăng và khí
Âm tiếp tục giảm.
3. - Thời Ngọ, lúc 12 giờ
trưa, khí Dương cực thạnh, khí Âm giảm đến mức triệt tiêu và khởi sanh trở lại
với cường độ tăng dần. Lúc đó, sách Nho gọi là Dương cực Âm hồi, nghĩa là:
Dương cực đại thì Âm khởi sanh trở lại.
4. - Thời Dậu, lúc 18 giờ
tức 6 giờ chiều, khí Âm và khí Dương cân bằng nhau.
Sau đó khí Dương tiếp tục
giảm và khí Âm tiếp tục tăng, để đến lúc 24 giờ thì khí Dương giảm đến mức
triệt tiêu và khởi sanh trở lại, còn khí Âm lúc đó cực thạnh.
Do đó, sách Nho gọi là :
Âm cực Dương hồi, nghĩa là : Âm cực đại thì Dương khởi sanh trở lại.
Vào 4 thời điểm trên, hai
nguyên khí Âm Dương của Trời Đất có sự biến đổi đặc biệt như thế nên gọi là giờ
linh, sự cúng kiếng và cầu nguyện trong các giờ nầy được các Đấng tiếp nhận dễ
dàng hơn vào các thời điểm khác.
II . Nghi thức cúng Tứ Thời tại tư gia
1 . Các bài kinh cúng Tứ Thời tại tư gia :
Tại Thiên bàn nơi tư gia,
chỉ có cúng Đức Chí Tôn, không cúng Đức Phật Mẫu, nên các bài kinh cúng Tứ Thời
tại tư gia gồm có 8 bài, kể ra :
- Niệm Hương
- Khai Kinh
- Kinh Ngọc Hoàng Thượng
Đế
- Kinh Phật giáo. - Kinh
Tiên giáo. - Kinh Nho giáo.
- Bài Dâng Rượu hay Dâng
Trà.
- Ngũ Nguyện.
Việc tổ chức cúng Tứ Thời
tại tư gia, giống như cúng Thượng tượng, nhưng không có Dâng Sớ và không thài
hết 3 bài Dâng Tam bửu, chỉ thài bài Dâng Rượu nếu cúng lúc 12 giờ trưa hay lúc
12 giờ khuya, và thài bài Dâng Trà nếu cúng lúc 6 giờ sáng hay 6 giờ chiều.
(Còn việc tụng Kinh Di-Lạc, Kinh Cứu Khổ, Kinh Sám Hối thì tùy nghi).
2 . Nên cúng Tứ Thời đúng giờ.
Nên cúng Tứ Thời đúng giờ,
chỉ được xê xích trong vòng 15 phút. Mỗi thời cúng tại tư gia kéo dài chừng 20
phút và thời cúng tại Thánh Thất kéo dài chừng 30 phút vì có dộng chuông trước
và sau khi cúng.
Nên cúng đúng giờ qui định
vì ngày giờ tại TTTN (tức là giờ VN) cũng là giờ ở Thiên đình. Vào giờ Tý, khi
chúng ta cúng tại Tòa Thánh, Thánh Thất hay tư gia thì lúc ấy các Đấng thiêng
liêng cũng đang chầu lễ Đức Chí Tôn ở Thiên đình. Cúng đúng giờ để tất cả tín
đồ Cao Đài trên khắp nước VN đồng dâng lời cầu nguyện lên Chí Tôn và Phật Mẫu
thì sức cầu nguyện tổng cộng ấy rất vĩ đại, chắc chắn hai Đấng Cha Mẹ thiêng
liêng ấy rất hài lòng và ban rải hồng ân cho toàn cả chúng ta rất nên tốt đẹp.
Nhớ lại khi xưa, Đức Lý
Giáo Tông muốn xin Đức Chí Tôn thêm điều mật yếu vào Tân Luật, nên Ngài yêu cầu
toàn cả tín đồ cố gắng cùng với Ngài cầu nguyện Đức Chí Tôn thì mới kết quả.
Ngài viết trong TNHT như sau :
“ Lão tâu cùng Đại Từ Đại Bi xin thêm vào Luật những
điều bí mật yếu trọng ấy. Vậy chư hiền hữu cũng phải cầu khẩn với Lão, nội hạ
tuần tháng nầy thì khởi nguyện, dặn các Thánh Thất, các Đạo hữu phải để lòng
thành khẩn, hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh Luật, nghe à ! ) (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 77)
3 . Nghi thức cúng Tứ Thời tại tư gia :
Thí dụ : Cúng thời Mẹo lúc
6 giờ sáng.
Nam thì mặc quần trắng, áo
dài trắng, khăn đen.
Nữ thì mặc toàn trắng
giống như nam, đầu để trần.
Chăm sóc Thiên bàn cho
tinh khiết, đủ bông trái.
Rót nước thiên nhiên vào
chung nước trắng, đủ 8 phân; rót nước trà vào chung nước trà, 8 phân. Thời Mẹo
chỉ cúng nước Âm Dương. (Nếu thời Tý hay Ngọ thì không rót nước Âm Dương, chỉ
rót 3 phân Rượu vào mỗi ly).
Đốt 5 cây nhang, cầm hai
tay, đứng ngay thẳng trước Thiên bàn, xá sâu xuống 3 xá, cắm nhang vào lư
hương, hàng trong 3 cây, hàng ngoài 2 cây, nhìn vào thấy đủ 5 cây hương, không
cây nào bị che khuất.
1 . Gõ 3 tiếng chuông khởi
đầu thời cúng.
2 . Xá 1 xá nhập đàn. Bước
vào đứng trước Thiên bàn, hai tay bắt ấn Tý, xá 3 xá, quì xuống, đưa ấn Tý lên
trán lấy dấu Phật Pháp Tăng, rồi đặt giữa ngực, vừa cúi đầu vừa niệm :
- Nam mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Nam mô Quan Thế Âm Bồ
Tát Ma Ha Tát.
- Nam mô Lý Đại Tiên
Trưởng kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ.
- Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế
Quan Thánh Đế Quân.
- Nam mô chư Phật chư Tiên
chư Thánh chư Thần.
3 . Tụng kinh Niệm Hương.
Khi tụng kinh, mắt nhìn
lên Thiên Nhãn.
Khi tụng đến danh hiệu các
Đấng thì cúi đầu.
Tụng xong, lạy Đức Chí Tôn
3 lạy 12 gật, mỗi gật niệm câu chú của Thầy (gật chậm để đủ câu niệm).
4. Tụng Khai Kinh.
Dứt bài kinh thì cúi đầu,
không xá, không lạy.
5. Tụng Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Tụng xong thì lạy Đức Chí
Tôn như mục 3.
6 . Tụng Kinh Phật giáo.
Lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật,
mỗi gật niệm : Nam mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
7 . Tụng Kinh Tiên giáo.
Lạy 3 lạy 9 gật, mỗi gật
niệm : Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.
8 . Tụng Kinh Nho giáo.
Lạy 3 lạy 9 gật, mỗi gật
niệm : Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
9 . Thài bài Dâng Trà.
Thài xong bài Dâng Trà thì
cầu nguyện hiến dâng linh hồn của mình cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng.
Nhưng, Đức Phạm Hộ Pháp
thuyết đạo cho biết trong Dâng Tam bửu có Bí pháp giải thoát, nên chúng ta dầu
trong thời cúng nào cũng nên cầu nguyện dâng hết Tam bửu lên Đức Chí Tôn. (Xem
phần III tiếp theo)
Chúng ta có thể nói lời
cầu nguyện như sau :
“ Nam mô Cao
Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát,
Nam mô Tam Trấn Oai Nghiêm,
Nam mô chư Phật chư Tiên chư Thánh chư Thần.
Con xin dâng thể xác của con, chơn thần và linh hồn
của con lên Đức Chí Tôn tùy phương sử dụng.
Cầu xin các Đấng thiêng liêng chứng minh.”
Cầu nguyện xong, lạy Đức
Chí Tôn 3 lạy 12 gật, mỗi gật niệm câu chú của Thầy.
10. Tụng Ngũ Nguyện.
Lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12
gật, niệm chú đầy đủ.
11. Đứng dậy, xá Thiên bàn 3 xá, lui ra, nam
tả nữ hữu.
12. Gõ 3 tiếng chuông, xá đàn, chấm dứt thời cúng.
Trong hai thời Mẹo và Dậu,
tức 6 giờ sáng và 6 giờ chiều, sau khi cúng xong, chúng ta nên lấy một cái tách
(hoặc cái ly), rồi thỉnh hai chung nước Âm Dương trên Thiên bàn, kề hai miệng
chung lại rồi cùng đổ vào cái tách (hoặc cái ly), đứng trước Thiên bàn, đưa
tách nước Âm Dương ấy lên trán cầu nguyện . . . (Xin cho con uống tách nước Âm
Dương nầy để thân thể con được khỏe mạnh, trí não được thông minh sáng suốt lo lập công quả phụng sự nhơn sanh) . . . , xong rồi thì uống
cạn tách nước nầy.
Ích lợi : Hai chung nước Âm Dương sau khi cúng xong, Đức
Chí Tôn đã ban thanh khí vào đó nên nước ấy khác hẳn với nước thường, khi uống
là đem thanh khí vào cơ thể của chúng ta, nó sẽ lần lần hóa giải trược khí
trong cơ thể mỗi ngày một ít, đến lúc nào đó, trược khí tiêu mất hết, thân thể
chúng ta chỉ còn thanh khí, nên dứt hết các thứ bịnh kinh niên, làm ta khỏe
mạnh. Khi thực hành lâu dài, chúng ta sẽ thấy được tác dụng huyền diệu nầy.
Các nhà khoa học đã thí
nghiệm như sau :
- Với một ly nước thường,
họ quan sát bằng kính hiển vi điện tử, thấy các phân tử nước di chuyển lộn xộn,
không có trật tự chi cả.
- Đặt ly nước ấy vào một
chỗ mà chung quanh có nhiều người chú nguyện vào ly nước, sau thời gian chừng
15 phút, các nhà khoa học đem ly nước ấy quan sát thì thấy các phân tử nước
trong ly nước bây giờ có vị trí trật tự, kết lại có dạng giống như hoa sen, hay
như hoa mai.
Cho nên, hai tách nước Âm
Dương sau khi cúng xong, chúng ta không nên đổ bỏ, rất uổng.
III . Bí pháp giải thoát khi Dâng Tam bửu
1. Cách cầu nguyện khi Dâng Tam bửu :
Về cách thức cầu nguyện
khi Dâng Tam Bửu, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo
dạy như sau :
- Hễ đưa Bông lên là dâng cái hình thể của chúng ta,
ta cúi đầu cầu nguyện Đức Chí Tôn :
“ Con xin dâng
mảnh hình hài của con cho Đức Chí Tôn dùng phương nào thì dùng.”
- Khi dâng Rượu thì cầu nguyện :
“ Con xin dâng
cả trí thức tinh thần của con cho Đức Chí Tôn dùng phương nào thì dùng.”
(Trí thức Tinh thần của con người là thuộc
Chơn thần).
- Khi dâng Trà cầu nguyện
:
“ Con
xin dâng cả linh hồn của con cho Đức Chí Tôn dùng phương nào thì dùng.”
+ Câu chót, chúng ta nên nguyện gồm chung lại như vầy
:
“ Cả Linh hồn,
cả Trí não, cả Hình hài con, do Thầy đào tạo, đó là của Thầy thì do nơi quyền
hành độc đoán của Thầy định.”
Khi dâng Tam Bửu lên Đức
Chí Tôn, hễ dâng Bửu nào thì cầu nguyện theo Bửu nấy, dâng xong một Bửu thì lạy
1 lạy 4 gật, mỗi gật niệm câu chú của Thầy : Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát
Ma Ha Tát.
Dâng Tam Bửu cúng Đức Phật
Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu thì cầu nguyện với Đức Phật Mẫu, dâng Bửu nào thì cầu
nguyện theo Bửu nấy, lời cầu nguyện giống y như lời cầu nguyện đối với Đức Chí
Tôn, nhưng thay chữ Chí Tôn bằng chữ Phật Mẫu, xong mỗi Bửu thì lạy Phật Mẫu 3
lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
2 . Bí pháp dâng Tam bửu :
Tại sao Đức Chí Tôn buộc
tín đồ dâng Tam Bửu ?
Tại sao trong mỗi thời
cúng, Đức Chí Tôn buộc các tín đồ nam nữ đều phải dâng Tam bửu lên Đức Chí Tôn
và Đức Phật Mẫu ? Điều nầy có phải vì
lợi ích cho Đức Chí Tôn hay cho Đức Phật Mẫu không ?
Trả lời : Không, mà trái
lại là hoàn toàn vì lợi ích cho tín đồ, bởi vì đây là Bí Pháp giải thoát cho
mỗi tín đồ.
Bí Pháp thì phải bí mật,
nhưng thời ĐĐTKPĐ nầy, Đức Chí Tôn ban cho ơn huệ là Đại Ân Xá, nên Đức Chí Tôn
không giấu giếm Bí Pháp nữa, Đức Chí Tôn bày ra trước mắt nhơn sanh, để nhơn
sanh thấy rõ mà thực hành.
Đức Chí Tôn nhấn mạnh: “
Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi được.”
Bí Pháp đó là : Đức Chí
Tôn biểu chúng ta dâng Tam bửu của chúng ta (thể xác, chơn thần, linh hồn) lên
cho Đức Chí Tôn để Đức Chí Tôn lấy ba thứ đó làm phương tiện PHỤNG SỰ VÂN LINH.
Tại sao gọi đó là Bí Pháp
?
Bởi vì chính nó là phương
cách giải thoát chúng ta khỏi luân hồi để linh hồn sau khi thoát xác, trở về
hiệp nhứt với Đức Chí Tôn, tức là đắc đạo vậy.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết
đạo giải thích như sau :
“ Ấy vậy, mỗi
ngày, từ mơi tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya đến sáng, mình
vô Đền Thánh kêu Đức Chí Tôn, kêu Tam Giáo và các Đấng Thiêng liêng mà phân
chứng trước: Thân tôi không còn là của tôi nữa, tôi đã hiến cho Đức Chí Tôn,
làm tôi tớ cho vạn linh, thay thế cho Đức Chí Tôn.
Giờ phút đó, chúng ta không biết tội nào chúng ta đã
làm, dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm nữa thì quả kiếp ấy tiêu
diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt, không thế gì định tội được.
Đức Chí Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta, mà
chúng ta không phải là chúng ta thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta, tức
nhiên ta đã đoạt cơ giải thoát.”
Như vậy, mỗi ngày chúng ta
cúng Đức Chí Tôn, chúng ta đều cầu nguyện dâng Tam bửu (thể xác, chơn thần,
linh hồn, tượng trưng bằng Bông, Rượu, Trà) là dâng toàn thể con người chúng ta
cho Đức Chí Tôn dùng phương nào thì dùng, tức là chúng ta hoàn toàn tùy thuộc
vào Chí Tôn sai khiến định liệu trong công cuộc Phụng Sự Vạn Linh. Chúng ta
không còn điều gì để lo lắng ngoài sự lo lắng làm thế nào thực hiện cho hoàn
tất mệnh lệnh của Đức Chí Tôn giao phó.
Bí Pháp Giải thoát ấy, Đức
Chí Tôn để hiển hiện ngay trước mắt nhơn sanh mà ít ai để ý suy nghĩ.
Nhưng việc thực hiện Bí
Pháp nầy được trọn vẹn thì cũng khó khăn vô cùng. Nhưng càng khó khăn thì càng
có giá trị xứng đáng. Đâu có dễ gì ! Nhưng không phải là quá khó khăn để chúng
ta không thể thực hiện được.
Nếu chúng ta có một Đức
Tin mạnh mẽ nơi Đức Chí Tôn và có một tấm lòng hy sinh, quên mình thì mọi việc
đều trở nên dễ dàng.
Cái tấm thân của ta đây,
cả chơn thần và linh hồn nữa, chúng ta đã giao hết cho Chí Tôn, giao thật sự
với đầy đủ ý nghĩa của nó, thì ta không còn gì là của ta nữa, đừng nói chi là
của cha mẹ ta hay vợ con ta.
Như vậy, cái TA tức là cái
NGÃ không còn nữa, thì đâu còn gì để CHẤP NGÃ. Đây là một phương pháp PHÁ CHẤP
triệt để, hiệu quả hơn tất cả phương pháp khác.
Sự dâng hiến nầy là để
Phụng Sự Vạn linh, nếu chúng ta thi hành một cách chí thành thì đủ đem chúng ta
trở về cùng Đức Chí Tôn, mà không cần làm thêm một điều gì khác nữa. Trong TNHT, Đức Chí Tôn có dạy rằng :
“ Trong
các con có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Đạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng
nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện đạo. Thầy nói cho các
con biết, nếu công quả chưa đủ, nhân sự chưa xong, thì không thể nào các con
luyện thành đặng đâu mà mong.
Vậy muốn đắc quả, thì chỉ
có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách
khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.” (TNHT1-2 hợpnhứt, B108)
Trong Đạo Cao Đài, Đức Chí
Tôn cấm hẳn lối tu “Độc thiện kỳ thân”
một lối tu ích kỷ, chỉ biết lo riêng mình.
Thể pháp và Bí pháp của
Đạo Cao Đài đều đặt việc PHỤNG SỰ VAÏN LINH là trên hết.
Tóm lại, Đức Chí Tôn buộc
chúng ta dâng Tam bửu cho Ngài là vì Ngài muốn chúng ta thay thế Ngài mà lo
“Hoằng khai Đại Đạo, Phổ độ chúng sanh”, tức là lo Phụng Sự Vạn Linh, bởi vì đó
là Bí pháp đắc đạo để chúng ta trở về hội hiệp cùng Đức Chí Tôn và Phật Mẫu.
(Trích trong Giải Nghĩa Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo)
IV . Ích lợi của việc cúng kiếng
1. - Đức Chí Tôn có dạy rằng :
“ Luôn dịp, Thầy nói cho
các con biết :
Cúng Tứ Thời có ích cho
các con lắm, chớ không phải ích chi cho Thầy. Nếu cúng được thường thì lòng dạ
nở nang, tứ chi luân chuyển, có nhiều khi tật bịnh tiêu diệt. “ (TNST. Q1 B 39)
2. - Đức Quan Âm Bồ Tát cũng giáng cơ dạy rằng :
“ Các em phải cúng kiếng
thường.
1 . Một là tập cho chơn
thần được gần gũi các Đấng thiêng liêng cho đặng sáng lạn.
2 . Hai là cầu khẩn với
Đức Đại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.
3 . Ba là có tế lễ thì tâm
phải có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.
4 . Bốn là tâm có cảm thì
lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương tri lương năng của các em cũng
nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ.
Các em nhớ à ! “
(TNHT 1-2 hợp nhứt, B 162)
3. - Thất Nương DTC cũng có nói rằng :
“ Lễ bái thường hành tâm đạo khởi.”
“ Sự thờ phượng hiến dâng cũng là hình thức để
thể hiện lòng tôn kính, chớ không phải vì sự thờ phượng hiến dâng ấy mà được độ
rỗi an bài và siêu thoát.
Nếu trong nếp sống thường
nhựt, bản thân mình không được trong sạch, lương thiện, hành động mình thất
đức, lời nói bất nhơn, các đối xử mình tàn ác, thì dầu chay lạt suốt đời, cúng
lạy Tứ thời hiến dâng lễ vật đầy chùa thất cũng không được sự hộ trì và cứu
rỗi. . . . . . .
- Sự lễ bái cúng lạy quì
mọp, ngoài ý nghĩa trịnh trọng thi lễ với Phật Trời, lại còn có ý nghĩa câu
thúc thân mình trong sự khó khăn để trừ bớt nghiệp thân.
- Tịnh khẩu hoặc niệm Phật
tụng kinh để trừ bớt nghiệp khẩu.
- Nhắm mắt tham thiền,
hoặc ngó ngay vào Thiên Nhãn, hoặc ngọn nhang, ngọn đèn lưu ly là để trừ lần
nghiệp nhãn.
- Tham thiền định ý, khép
chặt tư tưởng suy nghĩ vẩn vơ phóng túng là để trừ lần nghiệp ý.
- Thiền định không chấp
nhận mọi tiếng động vào tai là để trừ lần nghiệp nhĩ.
Tóm lại, tất cả những điều
ấy là những phương pháp trợ giúp cho người tu hành được yên ổn trả dứt nghiệp
cũ, không gây nghiệp mới và tạo thêm âm chất để làm vốn liếng sản nghiệp vô
hình cho kiếp lai sanh hoặc cho bên kia thế giới.”
Chúng ta cúng lạy Đấng
Thượng Đế là để nhớ tưởng và biết ơn Đấng đã sanh ra linh hồn ta và dùng khí
sanh quang nuôi nấng linh hồn và chơn thần của chúng ta.
Chúng ta cúng lạy các Đấng
Tiên Phật là để nhớ tưởng tấm gương cao cả của các Đấng ấy đã hy sinh trọn đời
lo cứu độ chúng sanh.
Chúng ta không nên cúng
lạy với tinh thần vị kỷ, cầu lợi cho mình : cúng Phật để cầu Phật ban ơn cho
mình, cúng Tiên để cầu Tiên ban phước cho mình, mà nên cúng lạy với tinh thần
tôn kính các bậc phi thường và nguyện noi gương các Đấng ấy.
Có người ngoại đạo cho
rằng : Chúng ta thờ phượng và cúng lạy một tấm giấy. Nói như thế thật là ngu
muội đáng trách ! Bởi vì mỗi ngày các
nhân viên của cơ quan nhà nước chào quốc kỳ, cái chào đó không phải là chào một
miếng vải màu, mà là chào cái tinh thần của tổ quốc, cái hồn nước của chúng ta,
mà có biết bao người qua bao nhiêu thế hệ đã hy sinh để bảo vệ cái tinh thần
ấy, cái linh hồn của tổ quốc, của dân tộc.
Khi cúng Đức Chí Tôn,
chúng ta nhìn Thiên Nhãn vẽ trên tờ giấy, chúng ta không còn thấy tờ giấy nữa,
mà chúng ta chỉ thấy một Đấng vô cùng cao cả, Đấng Cha lành thiêng liêng đầy
tình thương yêu nhơn sanh và lúc nào cũng muốn cứu vớt nhơn sanh ra khỏi biển
khổ trầm luân để trở về ở trong lòng Ngài.
Khi cúng Tứ Thời, chúng ta
tụng kinh thì cần phải học hỏi để hiểu ý nghĩa lời kinh. Với tấm lòng kính
thành, hợp với sự hiểu biết ý nghĩa lời kinh, làm cho tâm hồn ta yên lặng, bớt
vọng động, bớt phóng tâm nghĩ quấy, để lần lần chúng ta kềm giữ cái tâm, cái ý,
để sau cùng đạt được trạng thái định ý định tâm. Tụng kinh cũng là để cho lời
kinh dạy cái tâm của ta, vì các kinh tụng đều là tâm kinh.
Mặt khác, khi chúng ta
tụng kinh thì những vong linh vô hình ở chung quanh chúng ta cũng được nghe
kinh, nhờ đó họ có thể sớm giác ngộ mà hưởng được ân huệ của các Đấng thiêng
liêng, sớm cho đi tái kiếp.
V . Giải nghĩa các từ ngữ đã dùng
Tam bửu : Tinh Khí Thần :
Có hai trường hợp : Tam bửu
dâng lên Đức Chí Tôn và Tam bửu trong phép luyện đạo.
- Tam bửu dâng lên Đức Chí Tôn :
Tinh là thể xác, tượng
trưng bằng cái Hoa.
Khí là chơn thần, tượng
trưng bằng Rượu.
Thần là linh hồn, tượng
trưng bằng Trà.
- Tam bửu trong phép luyện đạo : luyện Tinh hoá
Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hoàn Hư.
Tinh là chất tinh túy nhứt
trong thân thể để di truyền nói giống. Đối với người nam, Tinh là chất tinh
trùng; đối với người nữ, Tinh là noãn châu.
Khí là chất bổ dưỡng cao
cấp, theo máu đi nuôi dưỡng các cơ quan trong thân thể cho được cường tráng,
nhứt là nuôi bộ não cho được minh mẫn sáng suốt.
Thần là chơn thần của mỗi
người. Thể xác cường tráng tinh anh thì chơn thần thanh nhẹ và mạnh mẽ.
Tinh của con người là do
máu thanh lọc và tích tụ chất tinh túy tạo thành. Theo lẽ tự nhiên thì chất
Tinh nầy tiết ra khỏi cơ thể theo đường tình dục để kết hợp với noãn châu của
người nữ, tạo thành thai nhi, lưu truyền nòi giống. Đó là thuận chuyển. Bây giờ
nghịch chuyển, luyện cho chất Tinh nầy đi ngược lại, biến hóa trở lại thành
chất bổ dưỡng cao cấp, gọi là Khí. Luyện được như vậy gọi là Luyện Tinh hóa
Khí.
Luyện cho chất Khí ấy theo
máu nuôi dưỡng cơ thể cho được cường tráng, nhứt là đem lên bồi bổ não bộ cho
sung mãn, làm cho não bộ trở nên sáng suốt tinh anh. Não bộ là trung tâm hoạt
động của chơn thần, nên chơn thần người luyện đạo nhờ vậy mà được trong sáng,
mạnh mẽ, ấy là do được nuôi dưỡng bởi cái Tinh của người ăn chay trường rất
thanh, nên Khí cũng rất thanh. Luyện đặng như vậy gọi là Luyện Khí hiệp Thần.
Dùng chữ “hiệp” là vì mỗi người đều có sẵn một chơn thần (xác thân thiêng
liêng), chớ không phải do luyện đạo mới có chơn thần.
Cái chơn thần của người
chưa luyện đạo thì tầm thường yếu ớt mờ tối. Nhờ luyện đạo mà chơn thần của
hành giả được trong sáng, nhẹ nhàng, mạnh mẽ, hào quang ẩn ẩn muốn lòa, nhưng
chưa huyền diệu vì chưa thể xuất ra khỏi thể xác mà vân du thiên ngoại.
Phải luyện cho cái chơn
thần ấy được huyền diệu, có thể xuất ra hoặc nhập vào thể xác theo cái cửa là
Nê hoàn cung, tùy theo ý muốn của hành giả. Luyện được như vậy gọi là Luyện Thần hoàn Hư, đắc đạo tại thế.
Chương 6
Nghi tiết cúng đàn
tại THÁNH THẤT
I . Nghi tiết cúng Đại Đàn tại Thánh Thất
Đại Đàn tại Thánh Thất
thường cúng lúc 12 giờ trưa.
Thí dụ : Đại Đàn cúng Vía
Đức Lý Đại Tiên Trưởng Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ ngày 18-8 âl
hằng năm, tại Thánh Thất của Châu Đạo, có Chức sắc Pháp Chánh HTĐ và Chức sắc
Phước Thiện tham dự.
Gần tới 12 giờ trưa, bổn
đạo tụ tập trước Thánh Thất. Đầu Tộc Đạo sắp đặt các Chức việc Bàn Trị Sự và
Đạo hữu đứng có hàng ngũ chỉnh tề, nam tả nữ hữu.
6 Lễ sĩ mặc áo rộng màu
xanh da trời, đội mão trắng, chia làm 3 cặp đi vào chánh điện. Cặp Lễ xướng
đứng 2 bên ngoại nghi giữ phận sự xướng lễ.
Đúng 12 giờ, cặp Lễ Xướng
khởi xướng :
1 . Tịnh túc thị lập. (Đều nghiêm trang đứng
hầu)
2 . Chấp sự giả các tư kỳ sự.
(Người được phân công phần
việc nào thì đến giữ việc ấy).
Các Ban : Nhạc, lễ sĩ,
đồng nhi, lễ vụ, kiểm đàn sẵn sàng thi hành phận sự trong đàn cúng.
3 . Lôi Âm Cổ khởi. (Bắt đầu đánh trống Lôi Âm)
Vị Chức việc hầu trống nơi
Lôi Âm Cổ Đài khởi đánh trống. Trước tiên đánh 3 tiếng trống, rồi kệ 4 câu, dứt
mỗi câu kệ thì đánh 1 tiếng trống lớn.
Bài kệ chép ra sau đây :
Lôi Âm Thánh cổ triệt hư không,
Truyền tấu càn khôn thế giới thông.
Đạo pháp đương kim dương chánh giáo.
Linh quang chiếu diệu Ngọc Kinh Cung.
Kế đó, Chức việc hầu trống
nhịp lên mặt trống 12 tiếng trống nhỏ liên tiếp gọi là “lôi 12 điểm”, rồi đánh
tiếp 3 hồi, mỗi hồi 12 chập, mỗi chập 12 dùi, lúc đầu đánh chậm, sau đánh liên
dùi thúc cho mau, sau cùng đánh chậm rãi 3 dùi (2 nhặt 1 thưa) rồi dứt.
Cặp Lễ Xướng tiếp :
4 . Bạch Ngọc Chung minh. (dộng chuông BạchNgọc)
Vị Chức việc hầu chuông
nơi Bạch Ngọc Chung Đài, khởi dộng 3 tiếng chuông, rồi kệ 4 câu kệ chuông. Dứt
mỗi câu kệ thì dộng 1 tiếng chuông lớn. Bài kệ chuông chép ra sau đây :
Thần chung thinh hướng phóng Phong Đô, i
Địa Tạng khai môn phóng xá cô. i
Tam Kỳ vận chuyển kim quang hiện, i
Sám hối âm hồn xuất u đồ. i
Kế đó, Chức
việc hầu chuông nhịp 12 tiếng chuông nhỏ liên tiếp, rồi dộng tiếp 3 hồi, mỗi
hồi 12 chập, mỗi chập 12 tiếng, lúc đầu đánh chậm, sau đánh thúc cho mau, cuối
cùng đánh chậm rãi 3 tiếng (2 nhặt 1 thưa) rồi dứt.
5 . Cung thành thứ tự Chức sắc nhập đàn.
(Các Chức sắc, Chức việc,
Đạo hữu nam nữ đi hàng một vào chánh điện, nam bên tả, nữ bên hữu, đi vào trật
tự và im lặng).
Chức sắc Pháp Chánh đi vào
trước vì thuộc HTĐ.
Sau đó là Giáo Hữu Khâm
Châu Đạo, Chí Thiện Quản Châu Đạo PT, Lễ Sanh Đầu Tộc Đạo, Giáo Thiện Quản Tộc
Đạo PT, các vị Chánh Trị Sự, Hành Thiện PT, Đầu Phòng Văn, Phó Trị
Sự, Thông Sự, Thính Thiện,
các Đạo hữu từ từ đi vào chánh điện.
Nữ phái Chức sắc, Chức
việc và Đạo hữu cũng sắp đặt trật tự y như bên nam phái đi vào chánh điện, đứng
bên phía nữ phái.
Hai bên nam nữ tạo thành
hai ban đứng hầu nơi chánh điện, đứng đối diện nhau, tay bắt ấn Tý.
6 . Nội Nghi, Ngoại Nghi tựu vị.
CSCĐ xá đàn 1 xá, bước vào
đứng trước Nội nghi, CVNN cũng xá đàn, bước vào đứng trước Ngoại nghi, nhìn lên
bửu điện.
7 . Thiên phong dĩ hạ các tư kỳ vị.
(Chức sắc Thiên phong sắp
xuống, vị trí của ai nấy đứng).
Vị hầu chuông khắc 3 tiếng
chuông lớn làm hiệu, các Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu nam nữ đồng xá đàn một
xá, bước vô, xoay người đứng hướng mặt lên bửu điện.
Chức sắc Pháp Chánh thì
đứng trước bàn thờ Đức Hộ Pháp, tay bắt ấn Tý, nhìn vào chánh điện và đứng như
vậy suốt thời cúng.
8 . Nhạc tấu Quân Thiên.
Đầu tiên, nhạc và trống
trổi khúc nhạc Tiếp Giá, Đức Chí Tôn và các Đấng giáng đàn. Dứt trống, nhạc đờn
5 bài hiến lễ vì là vía Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm. [Nếu Ban Nhạc của Thánh
Thất thiếu Nhạc sĩ thì đờn 3 bài, hoặc
là đờn 3 hiệp Ngũ đối hạ]
9 . Nghệ hương án tiền. (Bước tới đứng trước bàn
hương)
LSĐĐ bước vào đứng trước
vị CVNN. Hai Lễ sĩ đài, một bên đặt bó
hương 5 cây bó lại, chưa đốt; một bên đặt một cái lư trầm cũng chưa đốt. [Nếu
không có trầm thì dùng nhang thơm cắt khúc bó lại tạo thành bó lớn
đặt vào lư].
10. Giai quì. (đều quì
xuống)
Chuông khắc 3 tiếng, mọi
người xá 3 xá, đồng quì xuống,
Những người không có chỗ
quì thì đứng hầu đàn.
Viết tắt : CSCĐ
: Chức sắc chứng đàn (quì tại Nội nghi).
CVNN : Chức
việc quì Ngoại nghi.
LSĐĐ : Hai cặp
Lễ Sĩ Đăng Đài (2 Lễ sĩ cầm đèn, 2 Lễ sĩ cầm đài)
11 . Phần hương. (đốt nhang)
CVNN lấy bó hương 5 cây,
đưa vô hai ngọn đèn của cặp Lễ sĩ đăng đang dụm lại, đốt cháy, xá 3 xá, trao
cho Lễ sĩ cầm đài, rồi đốt lư trầm, cũng xá 3 xá, trao cho Lễ sĩ cầm đài kia.
LSĐĐ đứng dậy, lui ra,
xoay người hướng vào bửu điện, chuẩn bị điện vào nội nghi để đem bó hương cho
CSCĐ cầu nguyện dâng hương lên Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng.
12 . Điện hương.
(Lễ sĩ điện lễ dâng hương,
bước đi theo hình chữ Tâm).
LSĐĐ cung tay lên ngang
mày, nghe theo điệu trống, bước đi theo hình chữ Tâm (. . .) (cách đi lễ đặc
biệt của Đạo Cao Đài), điện từ ngoại nghi vào tới nội nghi.
13 . Quì. Trống đổ 3 hồi cho các Lễ sĩ quì.
Bốn Lễ sĩ đăng đài đồng quì xuống, đối diện nhau, trước
vị Chức sắc chứng đàn, rồi trao bó hương cho CSCĐ, trao lư trầm cho vị Chức sắc
nữ phái quì kế CSCĐ.
Khắc chuông, CSCĐ hai tay
cầm bó hương đưa lên trán thỉnh Thánh và niệm :
- Nam mô Phật , Nam mô Pháp , Nam mô Tăng,
- Nam mô Cao Đài
Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát,
- Nam mô Quan Thế
Âm Bồ Tát Ma Ha Tát,
- Nam mô Lý Đại
Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ,
- Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế
Quan Thánh Đế Quân,
- Nam mô chư Phật, chư
Tiên, chư Thánh, chư Thần.
Các vị khác trong đàn cũng
đưa ấn Tý lên trán lấy dấu Phật Pháp Tăng và niệm y như vị CSCĐ.
14 . Thành kính tụng Niệm Hương chú.
(Thành kính tụng kinh Niệm
Hương). Các Giáo nhi và đồng nhi tụng kinh Niệm Hương giọng Nam ai. (Ban Nhạc
và các đồng nhi đều đứng trên lầu HTĐ). CSCĐ hai tay cung kính nâng bó hương
lên ngang trán trong suốt thời gian đồng nhi tụng kinh. Khi tụng danh hiệu các
Đấng thì khắc 1 tiếng chuông để mọi người
cúi đầu.
15 . Thượng hương. (Đem hương lên cắm vào lư hương)
Hai vị tiếp lễ, một cầm bó
hương đem lên cắm vào giữa 5 cây hương sẵn có trong lư hương, một bưng lư trầm
đặt kế lư hương. Nhạc đánh thét, LSĐĐ đứng lên, lui ra, trở bộ quay về ngoại
nghi.
16. Cúc cung bái.
(Cúi mình lạy xuống)
Người hầu chung lần lượt
khắc 3 tiếng chuông, toàn thể lạy
Đức Chí Tôn 3 lạy 12 gật,
mỗi gật niệm câu chú của Thầy.
17. Thành kính tụng Khai Kinh chú.
(Thành kính tụng bài Khai
Kinh).
Nhạc gài đờn Nam ai, đồng
nhi tụng Khai kinh.
Khi dứt bài thì tất cả cúi
đầu, không xá, không lạy.
18 . Thành kính tụng Ngọc Hoàng Kinh.
(Thành kính tụng kinh Ngọc
Hoàng Thượng Đế). Đồng nhi tụng kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế, giọng Nam xuân.
19 . Cúc cung bái.
Nhạc đánh lập ban. Lễ vụ
khắc chuông. Toàn thể lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12 gật, mỗi gật niệm câu chú của
Thầy.
20 . Thành kính tụng Phật giáo Tâm kinh.
(Thành kính tụng kinh Phật
giáo). (Tâm kinh là kinh dạy về Tâm pháp). Đồng nhi tụng kinh Phật giáo, giọng
Nam xuân.
21 . Cúc cung bái.
Toàn thể lạy Đức Phật
Nhiên Đăng 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát Ma
Ha Tát.
22 . Thành kính tụng Tiên giáo Tâm kinh. Thành kính tụng
kinh Tiên giáo, giọng Nam xuân.
23 . Cúc cung bái.
Lạy Đức Thái Thượng 3 lạy
9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.
24 . Thành kính tụng Thánh giáo Tâm kinh.
Thành kính tụng kinh Thánh
giáo, giọng Nam xuân.
25 . Cúc cung bái.
Lạy Đức Khổng Thánh 3 lạy
9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô
Khổng Thánh Tiên Sư Hưng
Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
26 . Cung hiến Tiên hoa. (Kính cẩn dâng hoa quí)
Hai Lễ sĩ đài sắp đặt một
bên có một bình hoa nhỏ đủ 5 sắc hoa tươi, một bên có 1 trái cây, rồi LSĐĐ đồng
đến đứng trước CVNN, day mặt vào nhau.
27 . Quì. (4 Lễ sĩ
đăng đài quì xuống)
28 . Chỉnh Tiên hoa. (Sửa sang hoa quí)
CVNN chỉnh sửa hoa và quả
cho ngay ngắn, cầm bình hoa và dĩa quả xá xuống 3 xá, rồi trao cho hai Lễ
sĩ đài.
Nhạc đổ 3 hồi, LSĐĐ đứng
dậy, lui ra hai bên, quay mặt hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện dâng hoa và
quả.
29 . Điện Tiên hoa. (Lễ sĩ điện dâng hoa quí)
Lễ sĩ điện dâng hoa giống y như lúc Điện Hương. Lúc
Lễ sĩ điện thì đồng nhi thài bài Dâng Hoa theo giọng Đảo Ngũ Cung. Khi dứt thài
thì Lễ điện cũng vừa tới nội nghi, day mặt vào giữa.
30 . Quì. Nhạc đổ 3
hồi, LSĐĐ quì xuống.
Vị Chức sắc chứng đàn tiếp lấy bình hoa, xá 3 xá, đưa bình hoa lên
trán cầu nguyện, đồng thời tất cả mọi người trong đàn cũng đưa ấn Tý lên trán
cầu nguyện Dâng Hoa : “ Con xin dâng hình hài của con lên cho Đức Chí Tôn tùy phương
sử dụng.”
Vị Chức sắc nữ phái quì bên
cạnh CSCĐ, hai tay bưng dĩa trái cây, cũng xá 3 xá rồi đưa lên trán cầu nguyện, cử chỉ giống như
CSCĐ nam phái.
31 . Thượng Tiên hoa. (Đem Hoa đặt lên bàn thờ)
Cầu nguyện xong đưa bình
hoa và dĩa trái cây cho 2 vị tiếp lễ đem lên đặt trên bàn thờ. Trong lúc đó,
trống đổ, LSĐĐ đứng lên, trở bộ quay lại đi về
ngoại nghi.
32 . Cúc cung bái.
Nhạc đánh lập ban, toàn
thể lạy Đức Chí Tôn 1 lạy 4 gật, mỗi gật niệm câu chú của Thầy.
33 . Cung hiến Tiên tửu. (Cung kính dâng rượu quí)
Hai Lễ sĩ đài sắp đặt một
bên có một ly nhỏ để đựng rượu, một bên có một cái nhạo rượu trắng tinh khiết,
rồi 4 Lễ sĩ đăng đài đồng đến đứng trước
CVNN, day mặt vào nhau.
34. Quì. LSĐĐ đều quì xuống trước CVNN.
35. Chước tửu. (Rót rượu)
Vị CVNN cầm nhạo rót rượu
vào ly, hai tay cầm ly rượu nâng lên xá 3 xá rồi trao lại cho Lễ sĩ đài.
36 . Điện Tiên tửu. (Lễ sĩ
đi điện dâng rượu lên) Công việc giống y như Điện Tiên hoa.
Đồng nhi thài bài Dâng
Rượu, Lễ sĩ điện lên nội nghi.
37 . Quì. LSĐĐ quì
xuống trước CSCĐ.
CSCĐ tiếp ly rượu, vị Chức
sắc nữ phái quì kế bên tiếp nhạo rượu, xá 3 xá, đồng đưa lên trán cầu nguyện,
có khắc chuông, tất cả mọi người trong đàn cúng cũng đưa ấn Tý lên trán cầu
nguyện Dâng Rượu : “ Con xin dâng chơn
thần của con lên cho Đức Chí Tôn tùy phương sử dụng.”
38 . Thượng Tiên tửu. (Đem rượu lên đặt trên
bàn thờ)
Cầu nguyện xong, trao ly
rượu và bình rượu cho tiếp lễ đem lên bàn thờ. Trống đổ, Lễ sĩ đứng lên, trở bộ
quay về ngoại nghi.
39 . Cúc cung bái.
Lạy Chí Tôn 1 lạy 4 gật,
mỗi gật niệm chú của Thầy.
40 . Cung hiến Tiên trà. (Cung kính dâng trà quí)
Hai Lễ sĩ đài sắp đặt, một
bên đặt 1 bình trà, một bên đặt 1 cái tách để dựng nước trà. LSĐĐ cùng vào đứng
trước CVNN.
41 . Quì. LSĐĐ quì
xuống trước CVNN.
42 . Điểm trà. (Rót nước trà)
CVNN cầm bình trà, rót
nước trà vào tách, hai tay nâng tách trà đưa lên trán xá 3 xá, trao lại cho hai
Lễ sĩ đài.
43 . Điện Tiên trà. (Lễ sĩ điện trà dâng
lên)
Công việc giống y như Điện Tiên hoa.
Đồng nhi thài bài Dâng
Trà, Lễ sĩ điện lên nội nghi.
44 . Quì. LSĐĐ quì
xuống trước CSCĐ.
CSCĐ tiếp tách trà, vị
Chức sắc nữ phái quì kế bên tiếp bình trà, xá 3 xá, đồng đưa lên trán cầu
nguyện, có khắc chuông, tất cả mọi người trong đàn cúng cũng đưa ấn Tý lên trán
cầu nguyện Dâng Trà tức là dâng linh hồn, nhưng lần cầu nguyện chót nầy nên
dâng cả Tam bửu lên Đức Chí Tôn, vì đây là Bí pháp giải thoát : “ Con xin dâng
cả thể xác, chơn thần và linh hồn của con lên cho Đức Chí Tôn tùy phương sử
dụng.”
45 . Thượng Tiên trà. (Đem trà lên đặt trên bàn
thờ)
Cầu nguyện xong, trao tách
trà và bình trà cho tiếp lễ đem lên bàn thờ. Trống đổ, Lễ sĩ đứng lên, trở bộ quay về ngoại
nghi.
46. Cúc cung bái. (lạy 1 lạy 4 gật giống
như mục 39)
47. Sớ văn thượng tấu. (Sớ văn tâu lên)
Hai Lễ sĩ đăng đi lên nội
nghi, bước thường, không điện.
48 . Quì. Hai vị tiếp lễ, 1 vị cầm
dĩa đựng sớ văn, 1 vị cầm cái thố (hay cái bình) để đựng tro lúc đốt sớ, quì
phía trên cặp Lễ sĩ đăng. Một vị có phận
sự đọc sớ lên quì gần CSCĐ.
CSCĐ cầm sớ xá 3 xá, cầu
nguyện, rồi rút tờ sớ ra trao cho người đọc sớ, còn vị CSCĐ hai tay cầm bao sớ
cung kính nâng lên ngang trán và giữ tư thế nầy trong suốt thời gian đọc sớ.
49 . Thành độc sớ văn. (Thành kính đọc bài văn sớ)
Vị đọc sớ, cao giọng đọc
to lên, đến danh hiệu của các Đấng thì dừng lại một chút để khắc chuông cúi đầu
kỉnh lễ.
Bài văn sớ cúng Vía Đức Lý
Đại Tiên chép ra như sau :
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thất thập . . . niên)
Tam giáo qui nguyên, Ngũ
chi phục nhứt.
Thời duy, Thiên vận . . .
. . . niên, bát ngoạt, thập bát nhựt, ngọ thời, hiện tại Việt Nam quốc, . . . . . Trấn, . . . . .
Châu, . . . . . Tộc, . . . . . Hương, cư
trụ Thánh Thất chi trung.
Kim đệ tử . . . (phẩm tước
và Thánh danh của vị Chức sắc chứng đàn). . . công đồng chư Chức sắc hiệp
dữ Chức việc, Đạo hữu nam nữ đẳng
quì tại điện tiền, thành tâm trình tấu.
HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI :
Huyền Khung Cao
Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.
Diêu Trì Kim Mẫu
Vô Cực Thiên Tôn.
TAM TÔNG CHƠN GIÁO :
Tây Phương Giáo
Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,
Thái Thượng Đạo Tổ
Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn,
Khổng Thánh Tiên
Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM :
Thường Cư Nam Hải
Quan Âm Như Lai,
Lý Đại Tiên Trưởng
kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ,
Hiệp Thiên Đại Đế
Quan Thánh Đế Quân.
Gia Tô Giáo Chủ
Cứu Thế Thiên Tôn,
Thái Công Tướng
Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn,
Tam Châu Bát Bộ Hộ
Pháp Thiên Tôn,
Thập phương chư
Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.
Kim vì, tiết chí Trung Thu
kiết nhựt lương thần, chánh thị Đức Lý
Đại Tiên Trưởng Nhứt Trấn Oai Nghiêm Thánh đán, chư Thiên phong nghiêm thiết
đàn tràng, hương đăng hoa trà quả, thanh chước chi nghi, thành tâm hiến lễ.
Ngưỡng nguyện Lý Đại Tiên
Trưởng, Nhứt Trấn Oai Nghiêm đạt đắc trí dõng thiên tài, thảo hích man thơ,
thanh danh quán thế, phụng thừa Thiên mạng, bảo thủ Đại Đạo chơn truyền, phò
trì chư đệ tử đào luyện trí thức tinh thần, thật hành chánh giáo, phổ hóa nhơn
sanh hiệp hòa chủng tộc, giải cứu chiến tranh khổ nạn, vãn hồi trật tự an ninh, cộng hưởng thạnh trị thái bình,
thanh nhàn hạnh phước.
Chư đệ tử đồng thành tâm khấu bái cẩn sớ thượng tấu
Dĩ văn.
Đệ tử : (phẩm tước và Thánh danh của Chức sắc chứng
đàn)
50 . Cung phần Sớ văn. (Cung kính đốt sớ)
Vị CSCĐ đặt lá sớ vào bao sớ, cầm bao sớ xá 3 xá, hai Lễ sĩ đăng dụm hai
ngọn đèn lại cho Chức sắc đốt sớ, thấy cháy được phân nửa thì bỏ vào thố, vị
tiếp lễ đem thố đặt lên bàn thờ, hai Lễ sĩ
quay trở về ngoại nghi, vị đọc sớ trở về chỗ cũ.
51 . Cúc cung bái.
Mục nầy là lạy và niệm
danh hiệu của Đấng ghi trong lòng sớ, chỗ Ngưỡng vọng hay Ngưỡng nguyện :
- Trong đàn nầy, Vía Đức
Lý Thái Bạch: Ngưỡng nguyện Lý Đại Tiên Trưởng, nên chúng ta lạy Đức Lý 3 lạy 9
gật, mỗi gật niệm: “Nam mô Lý Đại Tiên
Trưởng kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ”.
- Nếu lòng sớ ghi là: Ngưỡng
vọng Vô Trung Từ Phụ, chúng ta lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12 gật, mỗi gật niệm câu
chú Thầy.
- Nếu lòng sớ ghi là:
Ngưỡng nguyện Đức Thích Ca Mâu Ni, chúng ta lạy Đức Phật Thích Ca 3 lạy 9 gật,
mỗi gật niệm: Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn. vv...
52 . Thành tâm tụng Ngũ Nguyện.
Đồng nhi tụng Ngũ Nguyện,
giọng Nam xuân.
53 . Cúc cung bái. (Lạy Chí Tôn 3 lạy 12 gật
niệm chú)
54. Hưng bình thân. (Cất mình đứng lên)
Khắc chuông. Mọi người
đứng dậy, xá sâu xuống 3 xá, quay trở ra xá chữ
KHÍ sau bàn thờ Đức Hộ Pháp 1 xá.
55 . Cung thành thứ tự phân lập lưỡng ban.
(Cung kính, thứ tự, phân
ra đứng thành hai ban)
Tất cả Chức sắc, Chức
việc, Đạo hữu trong đàn, lui ra 2 bên, nam tả nữ hữu, đứng trật tự thành hai
ban nam nữ như lúc nhập đàn.
56 . Hiệp Thiên Đài Chức sắc nhập nội nghi.
Chức sắc HTĐ đi vào nội
nghi, xá 3 xá, quì, thỉnh Thánh, cầu nguyện, lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12 gật, mỗi
gật niệm câu chú của Thầy, quay trở ra xá chữ KHÍ 1 xá, xong đi trở về vị
trí cũ.
Các Ban : Đồng nhi, Lễ sĩ,
lễ vụ, kiểm đàn, lần lượt vào chánh điện lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12 gật, niệm câu
chú Thầy.
Những người hầu đàn tiếp
tục vào lạy Đức Chí Tôn.
Ban Nhạc quì ngay trên lầu
HTĐ lạy Đức Chí Tôn sau chót.
Đến đây, xem chừng có Chức
sắc thuyết đạo không ?
Nếu có thì giữ im lặng
nghe thuyết đạo.
Xong thì dộng chuông bãi
đàn : Người hầu chuông nơi Bạch Ngọc Chung Đài dộng trước 3 tiếng chuông, rồi
kệ bài Kệ chuông bãi đàn, kệ xong 1 câu thì dộng 1 tiếng chuông lớn.
Bài kệ chuông bãi đàn có 3
câu :
Đàn tràng viên mãn, Chức
sắc qui nguyên,
vĩnh mộc từ ân, phong điều
võ thuận.
Thiên phong hải chúng,
quốc thái dân an,
hồi hướng đàn trường, tận
thâu pháp giới.
Án dà ra đế dạ ta bà ha.
Tiếng chuông kệ bãi đàn
vừa dứt, cặp lễ sĩ xướng :
57 . Lễ
thành. (cuộc lễ cúng tế đã xong)
Nhạc đánh thét rồi dứt.
Mọi người xá đàn 1 xá.
Chức sắc từ bên trong đi
ra trước, đi hàng một, đi ra cũng trật tự như khi đi vào nhập đàn.
Khi ra khỏi chánh điện thì
mới được xả ấn Tý.
Đại Đàn tại Thánh Thất có
tất cả 57 Nghi tiết.
II . Nghi tiết cúng Tiểu Đàn tại Thánh Thất
Tiểu Đàn tại Thánh Thất thường
cúng lúc 12 giờ trưa.
Các nghi tiết Tiểu đàn đơn
giản hơn nhiều so với Đại Đàn, vì không lập ngoại nghi, không Chức việc quì
ngoại nghi, Lễ sĩ không điện, Nhạc Tấu Quân Thiên đờn 3 bài.
Do đó, trong Nghi tiết
Tiểu đàn, bãi bỏ các mục :
- Điện hương, - Chỉnh Tiên hoa,
- Chước tửu, - Điểm trà.
Tiểu đàn, bỏ bớt 8 mục,
còn lại : 49 mục.
Nghi tiết Tiểu đàn tại
Thánh Thất :
1 . Tịnh túc thị lập.
2 . Chấp sự giả các tư kỳ
sự.
3 . Lôi Âm Cổ khởi.
4 . Bạch Ngọc Chung minh.
5 . Cung thành thứ tự Chức
sắc nhập đàn.
6 . Nội nghi tựu vị.
7 . Thiên phong dĩ hạ các
tư kỳ vị.
8 . Nhạc Tấu Quân Thiên.
(Nhạc tiếp giá rồi đờn 3 bài)
9 . Nghệ hương án
tiền.
(4 Lễ sĩ đăng đài, một bên có bó hương 5 cây, một bên
có lư trầm, bưng đi vào nội nghi, đi thường, không điện, đứng hai bên
CSCĐ, quay mặt vào giữa).
10 . Giai quì. (Tất cả mọi người trong
đàn đều quì xuống, trống đổ cho 4 lễ sĩ đăng đài quì, lễ sĩ trao bó hương cho CSCĐ và trao lư
trầm cho vị Chức sắc nữ phái quì kế bên).
11 . Phần hương.
12 . Thành kính tụng Niệm
Hương chú.
13 . Thượng hương.
(Trong lúc 2 tiếp lễ đem
bó hương và lư trầm lên bàn thờ thì trống đổ cho 4 lễ sĩ đứng lên, trở bộ đi
trở xuống).
14 . Cúc cung bái. (Lạy Đức Chí Tôn)
15 . Thành kính tụng Khai Kinh chú.
16 . Thành kính tụng Ngọc Hoàng Kinh.
17 . Cúc cung bái. (Lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12 gật
niệm chú)
18 . Thành kính tụng Phật giáo Tâm kinh.
19 . Cúc cung bái. (Lạy Đức Nhiên Đăng Cổ Phật)
20 . Thành kính tụng Tiên giáo Tâm kinh.
21 . Cúc cung bái. (Lạy Đức Thái Thượng Đạo Tổ)
22 . Thành kính tụng Thánh giáo Tâm kinh.
23 . Cúc cung bái. (Lạy Đức Khổng Thánh).
24 . Cung hiến Tiên hoa.
(4 lễ sĩ đăng đài bưng
bình hoa và dĩa quả đi lên nội nghi, đi thường, không điện, vào đứng 2 bên
CSCĐ, day vào giữa)
25 . Quì. (4 lễ sĩ đăng đài quì xuống, trao bình hoa
cho CSCĐ, và trao dĩa quả cho vị Chức sắc nữ quì kế bên).
26 . Điện Tiên hoa.
(CSCĐ hai tay cầm bình hoa
xá 3 xá, đưa lên trán cầu nguyện Dâng Hoa, mọi người trong đàn cùng cầu nguyện
Dâng Hoa, rồi CSCĐ cung kính nângbình hoa lên ngang trán trong lúc đồng nhi
thài bài Dâng Hoa)
27 . Thượng Tiên hoa.
(CSCĐ cầm bình hoa xá 3 xá, rồi trao cho 2 tiếp lễ đem hoa và quả lên đặt trên
bàn thờ, trống đổ, 4 lễ sĩ đứng dậy, trở bộ
quay lại, đi xuống).
28 . Cúc cung bái. (Lạy
Đức Chí Tôn 1 lạy 4 gật, niệm chú)
29 . Cung hiến Tiên tửu.
(Giống như mục 24, nhưng dâng ly rượu và nhạo
rượu)
30 . Quì.
31 . Điện Tiên tửu. (Giống
mục 26)
32 . Thượng Tiên tửu.
33 . Cúc cung bái. (Lạy
Đức Chí Tôn 1 lạy 4 gật, niệm chú)
34 . Cung hiến Tiên trà.
(Giống như mục 24, nhưng dâng tách trà và
bình trà)
35 . Quì.
36 . Điện Tiên trà.
37 . Thượng Tiên trà.
38 . Cúc cung bái. (Lạy
Đức Chí Tôn 1 lạy 4 gật, niệm chú)
39 . Sớ văn thượng tấu.
40 . Quì.
41 . Thành độc Sớ văn.
42 . Cung phần Sớ văn.
43 . Cúc cung bái.
(Sau khi đốt sớ thì lạy và
niệm danh Đấng ghi trong lòng sớ, chỗ Ngưỡng nguyện, hay Ngưỡng vọng: Thí dụ
như :
- Ngưỡng vọng Vô Trung Từ
Phụ : chúng ta lạy Đức Chí Tôn 3 lạy 12 gật, mỗi gật niệm câu chú của Thầy.
- Ngưỡng nguyện Đức Hộ Pháp : chúng ta lạy Đức
Hộ Pháp 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên
Tôn. vv….
44 . Thành tâm tụng Ngũ
Nguyện.
45 . Cúc cung bái. (Lạy
Đức Chí Tôn 3 lạy 12 gật niệm chú)
46 . Hưng bình thân.
47 . Cung thành thứ tự
phân lập lưỡng ban.
48 . Hiệp Thiên Đài Chức
sắc nhập nội nghi.
49 . Lễ thành.
Tiểu đàn cúng tại Thánh
Thất có tất cả 49 Nghi tiết.
III . Nghi tiết cúng Tứ Thời tại Thánh Thất
Tại Thánh Thất, cúng Tứ
Thời vào 4 thời điểm : Tý (0 giờ), Ngọ (12 giờ), Mẹo (6 giờ) và Dậu (18 giờ).
Cúng Tứ thời tại Thánh
Thất có nghi tiết giống y như cúng Tứ
thời tại tư gia, chỉ khác là lúc khởi đầu thời cúng có dộng chuông và kệ chuông
I - II, và lúc sau cùng có kệ chuông và dộng chuông bãi đàn.
Diễn tiến : Đúng giờ cúng,
trên Bạch Ngọc Chung Đài, vị Chức việc khởi dộng chuông nhứt.
Trước hết dộng 3 tiếng
chuông, kệ 3 câu, mỗi câu dộng 1 tiếng chuông.
Bài kệ chuông nhứt :
Văn chung khấu hướng huệ trưởng càn khôn.
Pháp giới chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn.
Án dà ra đế dạ ta bà ha.
Khi hết chuông nhứt, các
Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu nam nữ tham dự cúng Tứ thời đi vào chánh điện,
sắp hàng hai bên, nam nữ đứng đối diện nhau, tay bắt ấn Tý, chờ nghe chuông
nhì.
Kệ chuông nhì, dứt mỗi câu
thì dộng 1 tiếng :
Nhứt vi u ám tất giai văn.
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.
Án dà
ra đế dạ ta bà ha.
Người hầu chuông nơi chánh điện gõ 3 tiếng chuông, hai bên xá đàn 1 xá, bước vào trong, nhìn lên Thiên bàn, gõ chuông 3 lần, xá 3 xá, quì
xuống.
Gõ chuông lấy dấu Phật Pháp Tăng, thỉnh Thánh
...
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . .
(giống
y như khi cúng Tứ thời tại tư gia)
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . .
Khi đến phần Dâng Tam bửu, tùy theo thời mà
thài.
- Cúng khuya và trưa : thài bài Dâng Rượu.
- Cúng sáng và chiều: thài bài Dâng Trà.
- Khi cúng có Dâng sớ (sớ
tân cố, sớ tuần cửu, sớ tiểu tường, đại tường, vv . . .): thài đủ 3 bài: Dâng
Hoa, Dâng Rượu, Dâng Trà.
Dù thài dâng 1 bửu hay
thài dâng đủ 3 bửu, chúng ta cũng cứ cầu nguyện dâng đủ Tam bửu lên Đức Chí Tôn
vì đây là Bí pháp giải thoát chúng ta khỏi luân hồi :
“Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát,
Nam mô Tam Tông Chơn Giáo,
Nam mô Tam Trấn Oai Nghiêm,
Con xin dâng cả thể xác, chơn thần và linh hồn của con
lên cho Đức Chí Tôn tùy phương sử dụng.
Cầu xin các Đấng thiêng liêng chứng minh. “
Tụng Ngũ Nguyện, lạy xong
đứng dậy, xá 3 xá, quay ra xá chữ Khí 1 xá, lui ra hai bên, chờ kệ chuông bãi
đàn.
“ Đàn tràng viên mãn, Chức sắc qui nguyên . . . . .”
Dứt kệ chuông bãi đàn, hai
bên xá đàn 1 xá, bắt đầu đi ra, trong đi ra trước, lần lần tới ngoài. Hết.
IV . Nghi tiết
cúng tế Cửu Huyền Thất Tổ tại Thánh Thất
1 . Bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ tại Thánh Thất :
Đây là bàn thờ Ông Bà
Chung cho các tín đồ cư ngụ trong một Tộc Đạo.
Bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ
được thiết lập nơi nhà hậu của Thánh Thất hoặc hậu điện Điện Thờ Phật Mẫu.
Cách sắp đặt trên bàn thờ
Cửu Huyền Thất Tổ tại hậu điện Thánh Thất hay Điện Thờ nên theo mẫu thống nhứt
là bàn thờ Phước Lộc Thọ nơi hậu điện Báo Ân Từ.
Mẫu nầy đã được trình bày
nơi Chương 4 mục VII.
2 . Nghi tiết cúng tế Cửu
Huyền Thất Tổ :
Vào ba ngày rằm lớn, tại
Thánh Thất hay Điện Thờ Phật Mẫu đều có tổ chức cúng tế Cửu Huyền Thất Tổ, có
một cặp lễ xướng, hai người tiếp lễ, ban nhạc và đồng nhi.
Các nghi tiết cúng tế
giống y như nghi tiết CÁO TỪ TỔ trong Tang lễ.
Nghi châm chước cúng tế
Cửu Huyền Thất Tổ :
Cặp lễ bắt đầu xướng :
1 . Tử tôn tựu vị. (con cháu tới đứng tại vị
trí của mình)
Người chủ tế đứng hàng
đầu, tay bắt ấn Tý.
Tất cả những người quì tế
phải mặc áo dài trắng quần trắng, nam đội khăn đóng đen, nữ để đầu trần.
2 . Giai quì. (đều quì
xuống). Tất cả xá 3 xá, quì xuống.
3 . Phần hương. (đốt
nhang)
Tiếp lễ đốt 3 cây hương,
trao cho người chủ tế.
4 . Nguyện hương. (cầm
nhang cầu nguyện)
Chủ tế cầm 3 cây hương đưa
lên trán cầu nguyện.
5 . Thượng hương. (dâng
hương cắm vào lư nơi bàn thờ)
Người tiếp lễ tiếp 3 cây
hương đem cắm vào lư hương.
6 . Cúc cung bái. (cúi
mình lạy xuống)
Tất cả những người quì tế
lạy xuống 3 lạy trơn.
7 . Chước tửu. (rót rượu)
Người tiếp lễ lấy nhạo rót
rượu vào ly rượu trên bàn thờ.
8 . Cúc cung bái.
Tất cả những người quì tế
lạy xuống 3 lạy trơn.
9 . Ai chúc. (đọc kinh tế
lễ với giọng Nam ai)
Đồng nhi tụng Kinh Cầu Tổ
Phụ Đã Qui Liễu, rồi tụng tiếp ba biến Kinh Cứu Khổ. Chỗ cứu hộ đệ tử thì tụng
là : cứu hộ Cửu Huyền Thất Tổ thoát
ly khổ nạn . . . . . .
10 . Cúc cung bái.
Tất cả những người quì tế
lạy xuống 3 lạy trơn.
11 . Điểm trà. (rót nước trà)
Người phụ lễ rót nước trà
vào tách nước trà trên bàn thờ.
12 . Cúc cung bái.
Tất cả những người quì tế
lạy xuống 3 lạy trơn.
13 . Hưng bình thân. (cất
mình đứng thẳng lên)
Tất cả những người quì tế
đứng dậy, xá 3 xá.
14 . Tử tôn dĩ hạ giai
xuất. (Tất cả con cháu từ đó sắp xuống đều bước ra ngoài).
15 . Lễ thành. (Cuộc tế lễ
đã xong).
V . Giải thích các chi tiết
1*. Nhạc tấu Quân Thiên : (. . . . )
Quân là cái bàn xoay của
người thợ nặn đồ gốm. Quân Thiên là chỉ Đấng Tạo Hóa, là Thượng Đế.
Nhạc tấu Quân Thiên là
những khúc nhạc tấu lên để hiến lễ Đức Chí Tôn.
Điển tích : Quân Thiên
Nhạc.
Theo Sử Ký, Triệu Giản Tư
mắc bệnh, năm ngày liền không nhận ra người thân. Biển Thước đến thăm bịnh, coi
mạch xong, Đổng An Vu hỏi, Biển Thước trả lời :
- Không có gì lạ cả, trước
kia Tần Mục Công cũng bị bệnh như thế, 7 ngày sau mới tỉnh.
Trong lúc bị bệnh như thế,
Triệu Giản Tư thấy mình đi lên chơi chốn Thiên đình, nghe tấu một điệu nhạc rất
hay, xúc động cả tâm can, gọi là Quân Thiên Nhạc.
Hai ngày rưỡi sau, Triệu
Giản Tư tỉnh lại, nói với một quan Đại Phu rằng : - Dữ bách Thần du ư Quân Thiên, quảng nhạc
cửu tấu vạn vũ, bất loại tam đại chi nhạc, kỳ thanh động nhân tâm. Nghĩa là :
Cùng trăm Thần ruổi chơi nơi Quân Thiên, quảng nhạc tấu 9 khúc, vạn điệu múa,
không khúc nào giống khúc nào thời tam đại, tiếng nhạc làm xúc động lòng người.
Lâu nay, chúng ta thường
viết “NHẠC TẤU HUÂN THIÊN”, nên sửa lại viết là “Quân Thiên” mới đúng chánh tả.
Có 3 trường hợp Nhạc tấu
Quân Thiên (NTQT) :
1. - Cúng Tiểu đàn : NTQT
chỉ đờn 3 bài :
- Ngũ đối hạ. - Long
đăng. - Tiểu khúc.
2. - Cúng Đại Đàn 3 Đấng
Giáo chủ Tam giáo, Tam
Trấn Oai Nghiêm và Đức
Chúa Jésus : NTQT đờn 5 bài :
- Xàng xê.
- Ngũ đối thượng.
- Ngũ đối hạ. - Long đăng. -
Tiểu khúc.
3. - Cúng Đại Đàn Vía Đức
Chí Tôn (mùng 9 tháng giêng), và 3 ngày rằm lớn của Tam nguơn:
Nhạc tấu Quân Thiên đờn 7
bài, ý nghĩa như sau :
1 . Xàng xê : nghĩa là đưa
qua trộn lại, không ở một chỗ, ấy là Hỗn độn sơ khai (khi nổ ra một tiếng).
2 . Ngũ đối thượng : nghĩa
là 5 từng trên, trên trời có Ngũ Khí, ấy là khí thanh nổi lên làm trời.
3 . Ngũ đối hạ : nghĩa là
5 từng dưới, đó là Ngũ Hành, ấy là trược khí hạ xuống làm đất.
4 . Long đăng : nghĩa là rồng lên, ấy là Dương.
5 . Long ngâm : nghĩa là
rồng xuống, ấy là Âm.
6 . Vạn giá : nghĩa là
muôn việc đã định rồi, ấy là muôn loài vật đều có tên.
7 . Tiểu khúc : nghĩa là
sự nhỏ, ngắn, ấy là sự nhỏ ngắn đều có định luật và có tên.
Khi Nhạc tấu Quân Thiên
thì Bát hồn vận chuyển dâng sự sống lên Đức Chí Tôn, nên chúng ta phải xem
trọng giờ phút ấy, giữ mình cẩn thận, phải đứng im lặng, nghiêm trang, không
được nói chuyện hay đi tới lui, hoặc cử động như đập muỗi, gãi chỗ ngứa, . . .
giữ tư tưởng trong sạch tưởng niệm Đức
Chí Tôn.
Tại các Thánh Thất địa
phương thường thiếu nhạc sĩ, nên không có khả năng đờn đủ 5 bài hay 7 bài theo
như nghi lễ qui định, lúc đó chỉ đờn 3 bài (Ngũ đối hạ, Long đăng, Tiểu khúc);
nếu như không đờn được 3 bài nầy thì chỉ đờn 1 bài Ngũ đối hạ, mà đờn 3 hiệp.
2*. Giải nghĩa các bài Kệ trống và chuông:
- Lôi Âm Cổ Đài : cái đài
có đặt trống Lôi Âm, thường gọi là Lầu trống. Lôi là sấm, âm là tiếng, cổ là cái trống. Lôi âm cổ là cái trống phát ra
tiếng lớn như tiếng sấm.
- Bạch Ngọc Chung Đài :
cái đài có đặt chuông Bạch Ngọc, thường gọi là Lầu chuông.
1. - Kệ trống :
C.1 : Lôi Âm thánh cổ
triệt hư không.
Tiếng trống Lôi Âm thiêng
liêng thấu suốt tới cõi Hư không.
C.2 : Truyền tấu càn khôn
thế giới thông.
Tiếng trống truyền đi để
tỏ bày cho cả càn khôn thế giới rõ.
C.3 : Đạo pháp đương kim
dương chánh giáo.
Giáo lý của Đạo Cao Đài
hiện nay nêu cao cho mọi người biết, đây là một nền tôn giáo chơn chánh.
C.4 : Linh quang chiếu
diệu Ngọc Kinh Cung.
Ánh sáng thiêng liêng
chiếu sáng rực rỡ tòa Bạch Ngọc Kinh.
2.- Kệ chuông Đại đàn và
Tiểu đàn :
C.1 : Thần
chung thinh hướng phóng Phong đô.
Tiếng chuông thiêng liêng
phát ra hướng đến cõi Phong đô.
C.2 : Địa Tạng khai môn
phóng xá cô.
Đức Địa Tạng Bồ Tát mở cửa
phóng thích, tha các tội hồn.
C.3 : Tam kỳ vận chuyển
kim quang hiện.
ĐĐTKPĐ vận chuyển làm hiện
ra một dải ánh sáng vàng.
C.4 : Sám hối âm hồn
xuất u
đồ.
Các chơn hồn nơi cõi Phong
đô sám hối tội tình thì đi ra khỏi nơi tối tăm ấy bằng con đường là dải kim
quang nói trên.
3. - Kệ chuông bãi đàn :
C.1 : Đàn tràng viên mãn,
Chức sắc qui nguyên, vĩnh mộc từ ân, phong điều võ thuận.
Đàn cúng tế đã đầy đủ và
trọn vẹn, Chức sắc trở lại chỗ cũ, lâu dài gội nhuần ơn huệ của Chí Tôn, gió
hòa mưa thuận.
C.2 : Thiên phong hải
chúng, quốc thới dân an,
hồi hướng đàn trường, tận
thâu pháp giới.
Trời ban cho dân chúng,
nước thạnh dân yên,
hồi hướng công đức nơi đàn
cúng tế, thâu hết pháp giới.
C.3 : Án dà ra đế dạ ta bà
ha. Câu mật chú bằng tiếng Phạn,
có ý nghĩa : Cầu nguyện
chúng sanh được tiêu tai tăng phước, đắc thành Phật đạo, chư Phật chứng minh.
4. - Kệ chuông nhứt :
C.1 : Văn chung khấu hướng
huệ trưởng càn khôn.
Nghe tiếng chuông, cúi
mình xuống hướng đến cái trí huệ lớn của Trời Đất.
C.2 : Pháp giới chúng sanh
đồng đăng bỉ ngạn.
Nhơn sanh nơi các cõi trần
cùng lên bờ giải thoát.
C.3 : Án dà ra đế dạ ta bà ha. (như trên)
5. - Kệ chuông nhì :
C.1 : Nhứt
vi u ám tất giai văn.
Tất cả trong phạm vi cõi Phong đô ắt hẳn đều
nghe biết.
C.2 : Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.
Tất cả chúng sanh đều thành bậc chánh giác
(Phật).
C.3 : Án dà ra đế dạ ta bà ha. (như trên)
3*. Giải nghĩa lòng sớ
(Vía Đức Lý Thái Bạch).
“ Nay vì đến tiết Trung Thu, ngày lành giờ tốt, chính
là ngày Thánh đản (ngày sanh) của Đức Lý Thái Bạch Đại Tiên Trưởng Nhứt Trấn
Oai Nghiêm của ĐĐTKPĐ.
Các Chức sắc Thiên phong nghiêm chỉnh thiết lập đại
đàn cúng tế gồm nhang, đèn, bông, trà, trái cây, rượu tinh khiết làm thành nghi
thức thành tâm dâng lễ.
Ngưỡng nguyện Đức Lý Đại Tiên Trưởng Nhứt Trấn Oai
Nghiêm, đạt được trí dũng thiên tài, viết bài văn hồi đáp vua Phiên*, tiếng tăm
tốt đứng trên cả một đời, vâng theo mạng lịnh của Đức Chí Tôn, bảo thủ chơn
truyền Đại Đạo, phò hộ gìn giữ các đệ tử, đào tạo và rèn luyện trí thức tinh
thần cho tài giỏi, thực hành chánh giáo, phổ độ và giáo hóa nhơn sanh hiệp hòa
chủng tộc, cởi bỏ và cứu giúp các khổ nạn của chiến tranh, vãn hồi an ninh trật
tự, cho dân chung hưởng cảnh thái bình thạnh trị, an nhàn hạnh phúc. “
(* Thảo: viết ra. Hích:
hịch, bài văn để lên án hay để kêu gọi. Man : mọi rợ, chỉ nước Bắc phiên. Thơ :
thư, văn thư.)
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] Đến Hạnh Đường
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] Đến Hạnh Đường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét