Chương 7
Nghi tiết cúng đàn tại
ĐIỆN
THỜ PHẬT MẪU
Theo vũ trụ quan của Đạo
Cao Đài, thuở đầu tiên của càn khôn vũ trụ, trong khoảng không gian bao la, chỉ
có một chất khí hỗn độn gọi là Khí Hư Vô (Hư Vô chi Khí), chuyển động quay
cuồng, phát nổ ra một tiếng lớn (big bang), sanh ra một Đấng gọi là Ngọc Hoàng
Thượng Đế, trọn lành trọn tốt, ngôi của Ngài là Thái cực.
Đấng Thượng Đế phân Thái
cực ra Lưỡng nghi : Âm quang và Dương quang. Đấng Thượng Đế chưởng quản Dương
quang, còn Âm quang chưa có người chưởng quản. Thượng Đế tự hóa thân ra Đức
Phật Mẫu để chưởng quản khí Âm quang. Từ đây mới bắt đầu có Ngôi Âm.
Đức Phật Mẫu cho hai Khí
Âm quang và Dương quang phối hợp với nhau để tạo ra càn khôn vũ trụ và vạn vật.
Trong vạn vật có chúng sanh. Trong chúng sanh, loài người khôn ngoan và linh
thiêng liêng hơn hết vì Thượng Đế ban cho mỗi người một điểm linh hồn.
Nói riêng về con người,
mỗi người chúng ta có Tam thể xác thân :
- Xác thân phàm : do cha
mẹ phàm trần sanh ra và được nuôi dưỡng bằng thực phẩm vật chất phàm trần.
- Xác thân thiêng liêng,
thường gọi là chơn thần, do Đức Phật Mẫu dùng hai nguyên khí nơi Diêu Trì Cung
tạo ra, được Đức Phật Mẫu nuôi dưỡng bằng khí Sanh quang do Thái cực phát ra.
- Linh hồn hay chơn linh
là một điểm linh quang của Thượng Đế lấy ra từ khối Đại linh quang của Ngài để
ban cho mỗi người, tạo ra sự sống và sự suy nghĩ hiểu biết.
Do đó, Thượng Đế là Cha
của chơn linh, Đức Phật Mẫu là Mẹ của chơn thần, còn thể xác thì có cha mẹ phàm
trần. Chúng ta phải thờ, trước hết là cha mẹ thể xác, kế đó là phải thờ hai
Đấng Cha Mẹ thiêng liêng : Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Thờ Đức Chí Tôn, thờ Đức
Phật Mẫu, thờ cha mẹ phàm trần là để chúng ta luôn luôn nhớ tưởng đến công ơn
sanh thành và dưỡng dục của các Đấng ấy.
II .
Hai kiểu thờ tại Điện Thờ Phật Mẫu :
Tại địa phương, ngôi nhà
thờ Đức Chí Tôn được gọi là Thánh Thất, ngôi nhà thờ Đức Phật Mẫu gọi là Điện
Thờ Phật Mẫu (ĐTPM). Tại Thánh địa Tây Ninh, Hội Thánh chưa xây cất Đền Thờ
Phật Mẫu Trung Ương, nên tạm thời thờ Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ.
1 . Kiểu thứ nhứt (thờ giống như ở Báo Ân
Từ) :
ĐTPM thường cất có 3 gian
:
- Gian chính giữa thờ:
Diêu Trì Kim Mẫu (Đức Phật Mẫu), Cửu Vị Tiên Nương và Bạch Vân Động Chư Thánh.
- Gian bên tả thờ: Chư
Chơn Linh Nam Phái.
- Gian bên hữu thờ: Chư
Chơn Linh Nữ Phái.
Các long vị đều được viết
bằng chữ Nho đại tự.
2 .
Kiểu thứ nhì (thờ giống ĐTPM Trí Giác Cung) :
ĐTPM nơi Trí Giác Cung (Trường
Qui Thiện cũ) không thờ Chư Chơn Linh Nam Phái và Nữ Phái, chỉ thờ Đức Phật
Mẫu, Cửu vị Nữ Phật, Bạch Vân Động Chư Thánh.
- Gian giữa thờ: Diêu Trì
Kim Mẫu (Đức Phật Mẫu)
- Gian hữu thờ: Cửu Vị Nữ
Phật (Cửu Vị Tiên Nương).
- Gian tả thờ: Bạch Vân
Động Chư Thánh.
Khi nào Hội Thánh xây dựng
được Đền Thờ Phật Mẫu Trung Ương thì mới có thể thống nhứt nghi lễ thờ Đức Phật
Mẫu.
III . Nghi tiết cúng đàn tại ĐTPM :
Đại Đàn cúng
Đức Chí Tôn tại Thánh Thất thường cúng lúc 12 giờ trưa. Do đó, đàn cúng Đức Phật
Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu địa phương phải dời lại cúng lúc 6 giờ chiều, tức là
18 giờ, nhằm giờ Dậu.
Cúng Đức
Phật Mẫu tại ĐTPM chỉ có một nghi tiết, không phân ra Đại đàn hay Tiểu đàn, nhưng vì Lễ sĩ đều
điện lễ khi Dâng hương hay Dâng Tam bửu, từ Ngoại nghi đến Nội nghi, nên nghi
tiết cúng đàn Đức Phật Mẫu có phần giống Đại đàn cúng Đức Chí Tôn tại Thánh
Thất.
Nhưng khi
cúng đàn Đức Phật Mẫu, về Nhạc Tấu Quân Thiên (NTQT), phân ra hai trường hợp : đờn 3
bài và đờn 5 bài.
* NTQT đờn 5 bài : Vía Đức
Phật Mẫu ngày 15 tháng 8, ba ngày rằm lớn của ba nguơn : 15 tháng giêng, 15
tháng 7 và 15 tháng 10.
* NTQT đờn 3 bài : các ngày sóc vọng thường lệ.
Trường hợp NTQT đờn đủ 5
bài chỉ có nơi Báo Ân Từ, còn các ĐTPM địa phương vì Ban nhạc thiếu nhạc sĩ nên
chỉ đờn 3 bài.
Khi cúng đàn Đức Phật Mẫu,
tất cả Chức sắc đều không mặc áo mão Chức sắc, chỉ mặc áo dài chẹt trắng y như
các Đạo hữu mà thôi, bởi vì tất cả đều là con của Đức Phật Mẫu, không phân biệt
phẩm tước.
Trong đàn cúng Đức Phật
Mẫu, mọi người đều mặc đạo phục như nhau, thể hiện một sự bình đẳng rõ rệt giữa
con cái của Phật Mẫu. Nơi đây chỉ có tình MẸ CON, và tình anh chị em với nhau
mà thôi.
Đặc biệt chỉ có 6 Lễ sĩ
mặc áo rộng màu vàng, đội mão trắng, mang giày bố trắng, phân ra 3 cặp : 1 cặp
lễ xướng đứng hai bên Ngoại nghi, 1 cặp đăng và 1 cặp đài.
Gần tới 6 giờ chiều, các
ban bộ có phận sự trong đàn cúng đi vào trước để chuẩn bị các việc, còn các nam
nữ tín đồ thì sắp hàng đứng phía trước Điện Thờ.
Đúng 6 giờ chiều, nơi lầu
chuông, vị chấp sự khởi kệ chuông nhứt : đầu tiên dộng 3 tiếng chuông, kệ 3
câu, dứt mỗi câu kệ thì dộng 1 tiếng chuông.
Bài kệ chuông nhứt giống y
như kệ chuông cúng Tứ Thời : “ Văn chung
khấu hướng . . . . . . “
Xong kệ chuông nhứt, Lễ sĩ
khởi xướng :
1 . Tịnh túc thị lập. (Đều nghiêm trang đứng hầu)
2 .
Chấp sự giả các tư kỳ sự. (Người được phân công phần việc nào thì đến giữ
phần việc ấy) Kế tiếp kệ chuông nhì.
Người chấp sự trên lầu
chuông dộng 3 tiếng trước khi kệ, rồi kệ xong một câu thì dộng 1 tiếng chuông.
Bài kệ chuông nhì : “ Nhứt vi
u ám . . . . . . “
Cặp Lễ Xướng tiếp :
3 . Cung thành thứ tự nam nữ nhập đàn.
Tất cả các tín đồ nam nữ
đi vào đàn cúng, tay bắt ấn Tý, đứng day ngang. Người hầu chuông nơi nội nghi
gõ 1 tiếng chuông, mọi người xá đàn 1 xá, bước vào chánh điện, quay người hướng
lên bàn thờ, đứng im lặng nghiêm trang.
4 . Nhạc tấu Quân Thiên.
Nhạc khởi đánh trống Tiếp
Giá, rồi bắt qua đờn 3 bài như đã nói ở trên.
5 . Nghệ hương án tiền.
(Bước tới đứng trước bàn hương)
Hai cặp Lễ sĩ đăng đài
(LSĐĐ) đến đứng trước và hai bên Chức việc quì ngoại nghi (CVNN). Hai Lễ
sĩ đài, một bên có một bó nhang 3 cây
cột lại chưa đốt, một bên có lư trầm. Nếu không có trầm thì dùng nhang thơm cắt
ra bó lại thành bó lớn đăït vào lư.
6 . Giai quì. (Tất cả đều quì xuống)
Vị hầu chuông lần lượt
khắc 3 tiếng, tất cả nam nữ đồng xá 3 xá rồi quì xuống.
7 .
Phần hương. (đốt nhang)
Vị quì ngoại nghi cầm bó nhang 3 cây, đốt nhang và
đốt lư trầm xá 3 xá rồi trao cho cặp Lễ sĩ
đài. Nhạc đánh thét cho 4 Lễ sĩ
đứng dậy, lui ra, quay mặt vào chánh điện, chuẩn bị điện hương.
8 . Điện hương.
LSĐĐ theo tiếng trống
nhạc, điện dâng hương và dâng lư trầm từ ngoại nghi vào nội nghi.
9 . Quì. LSĐĐ quì
phía trước vị CSCĐ.
Lễ sĩ trao bó hương cho vị
chứng đàn và lư trầm cho vị quì kế bên. Hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng, CSCĐ
hai tay cầm bó hương cùng với mọi người
xá 3 xá, vừa xá vừa niệm 3 lần :
- Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu
Vô Cực Thiên Tôn.
- Nam mô Cửu Vị Tiên Nương.
- Nam mô Bạch Vân Động Chư
Thánh.
10 .
Thành kính tụng Niệm hương chú.
Đồng nhi tụng kinh Niệm
Hương, giọng Nam ai. CSCĐ hai tay cầm bó hương kính cẩn nâng lên ngang trán và
giữ như thế trong suốt thời gian đồng nhi tụng kinh Niệm Hương. Vị quì kế bên
CSCĐ cũng nâng lư trầm lên ngang trán giống như CSCĐ.
11 .
Thượng hương. (Đem hương lên cắm vào lư hương)
CSCĐ cầm bó hương và vị quì
kế bên cầm lư trầm, đồng xá 3 xá rồi
trao cho hai vị tiếp lễ, một đem bó hương lên cắm vào lư hương trên bàn thờ,
một cầm lư trầm lên đặt trên bàn thờ. Bốn Lễ sĩ đăng đài lui ra, trở bộ quay trở
về ngoại nghi.
12 .
Cúc cung bái. (Cúi mình lạy xuống)
Nhạc đánh trống lập ban,
toàn thể lạy Đức Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu
Vô Cực Thiên Tôn.
13 .
Thành kính tụng Khai Kinh chú.
Đồng nhi tụng bài Khai
Kinh, giọng Nam ai.
Dứt bài kinh thì cúi đầu,
không xá, không lạy.
14 .
Thành kính tụng Phật Mẫu Chơn Kinh.
Nhạc gài trống đờn Nam
xuân, đồng nhi tụng bài Phật
Mẫu Chơn Kinh, giọng Nam
xuân.
15 . Cúc cung bái. (giống như mục số 12)
16 . Cung hiến Tiên hoa. (Kính cẩn dâng hoa quí)
Hai Lễ sĩ đài sắp đặt một
bên có một bình hoa nhỏ đủ 5 sắc hoa
tươi, một bên có 1 trái cây, rồi 4 Lễ sĩ
đăng đài đồng đến đứng trước vị quì
ngoại nghi, day mặt vào nhau.
17. Quì. Bốn Lễ sĩ
đăng đài quì xuống.
18. Chỉnh Tiên hoa. (Sửa sang hoa quí)
Vị quì ngoại nghi chỉnh
sửa hoa và quả cho ngay ngắn, cầm bình hoa và dĩa quả xá xuống 3 xá, rồi trao
cho hai Lễ sĩ đài.
Nhạc đổ 3 hồi, 4 Lễ sĩ
đứng dậy, lui ra hai bên, quay mặt hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện dâng hoa
và quả.
19 .
Điện Tiên hoa. (Lễ sĩ điện dâng Hoa quí)
Lễ sĩ điện dâng hoa giống y như lúc Điện Hương.
Trong lúc Lễ sĩ điện thì đồng nhi thài
bài Dâng Hoa theo giọng Đảo Ngũ Cung. Khi thài tới chữ “Thượng Đế” thì đổi lại là : “Phật Mẫu”.
Cúi mong Phật Mẫu rưới ân
Thiên.
Khi dứt thài, Lễ điện vừa
tới nội nghi, day mặt vào giữa.
20 . Quì. LSĐĐ và 2 tiếp lễ đều quì xuống trước CSCĐ.
CSCĐ tiếp lấy bình hoa, vị
quì kế bên tiếp lấy dĩa trái cây, đồng xá 3 xá, rồi đưa lên trán cầu nguyện, có
điểm chuông, đồng thời tất cả mọi người trong đàn cũng đưa ấn Tý lên trán cầu
nguyện Dâng Hoa: “ Con xin dâng hình hài
của con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.”
21 . Thượng Tiên hoa. (Đem hoa quí đặt lên bàn
thờ)
Cầu nguyện Dâng Hoa xong
thì đưa bình hoa và dĩa trái cây cho hai vị tiếp lễ đem đặt lên bàn thờ. Nhạc
đổ 3 hồi, Lễ sĩ đứng lên, trở bộ quay về ngoại nghi.
22 .
Cúc cung bái.
Tất cả trong đàn cúng đều
lạy Phật Mẫu giống như mục 12. Lưu ý :
Dâng mỗi bửu đều lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm danh hiệu Phật Mẫu :
Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
23 .
Cung hiến Tiên tửu. (Cung kính
dâng rượu quí)
Hai Lễ sĩ đài sắp đặt một
bên có một ly nhỏ để đựng rượu, một bên có một cái nhạo rượu trắng tinh khiết,
rồi 4 Lễ sĩ đăng đài đồng đến đứng trước
vị quì ngoại nghi, day mặt vào nhau.
24 . Quì. LSĐĐ quì xuống trước vị CVNN.
25 .
Chước tửu. (Rót rượu)
Vị CVNN cầm nhạo lên rót
rượu vào ly, rồi hai tay cầm ly rượu xá 3 xá, trao lại cho Lễ sĩ đài. LSĐĐ đồng
đứng dậy, lui ra, quay người hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện dâng rượu.
26 . Điện Tiên tửu. (Lễ sĩ điện dâng rượu quí )
Công việc giống y như Điện Tiên Hoa.
Đồng nhi thài bài Dâng
Rượu, Lễ sĩ điện lên nội nghi.
27 . Quì. LSĐĐ và 2 tiếp lễ đồng quì xuống trước CSCĐ.
Vị chứng đàn tiếp ly rượu,
vị quì kế bên tiếp nhạo rượu, cầm lên xá 3 xá, đồng đưa lên trán cầu nguyện, có
khắc chuông, tất cả mọi người trong đàn cúng cũng đưa ấn Tý lên trán cầu nguyện
Dâng Rượu: “ Con xin dâng chơn thần của
con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.”
28 .
Thượng Tiên tửu. (Đem rượu lên đặt trên bàn thờ)
Cầu nguyện xong, xá 3 xá,
rồi trao ly rượu và bình rượu cho hai vị
tiếp lễ đem đặt lên bàn thờ.
Nhạc đổ 3 hồi, Lễ sĩ đứng
lên, trở bộ đi về ngoại nghi.
29 .
Cúc cung bái. (giống như mục số 22)
30 . Cung hiến Tiên trà. (Cung kính dâng trà quí)
Hai Lễ sĩ đài sắp đặt, một bên đặt 1 bình trà, một bên
đặt 1 cái tách để dựng nước trà. LSĐĐ cùng đến đứng trước vị CVNN.
31 . Quì. LSĐĐ quì
xuống trước vị CVNN.
32 .
Điểm trà. (Rót nước trà)
CVNN cầm lấy bình trà, rót
nước trà vào tách, cầm tách trà đưa lên trán xá 3 xá, rồi trao lại cho Lễ sĩ
đài. LSĐĐ đứng dậy, lui ra, quay người
hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện trà.
33 . Điện Tiên trà. (Lễ sĩ điện dâng trà quí)
Công việc giống y như Điện Tiên Hoa.
Đồng nhi thài bài Dâng
Trà, Lễ sĩ điện vào nội nghi.
34 . Quì. LSĐĐ và 2 tiếp lễ đồng quì xuống.
Vị chứng đàn tiếp tách
trà, vị quì kế bên tiếp bình trà, đồng xá 3 xá rồi đưa lên trán cầu nguyện, có
khắc chuông, tất cả mọi người trong đàn cúng cũng đưa ấn Tý lên trán cầu nguyện
Dâng Trà tức là dâng linh hồn, nhưng lần cầu nguyện chót nầy nên dâng cả Tam
bửu lên Đức Phật Mẫu, vì đây là Bí pháp giải thoát :
“ Con xin dâng cả thể xác, chơn thần và linh hồn của
con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.”
35 .
Thượng Tiên trà. (Đem trà lên đặt trên bàn thờ)
Cầu nguyện xong, xá 3 xá,
trao tách trà và bình trà cho hai vị tiếp lễ đem đặt lên bàn thờ.
Nhạc đổ 3 hồi, Lễ sĩ đứng
lên, trở bộ đi về ngoại nghi.
36 .
Cúc cung bái. (giống như mục số 22)
37 . Sớ
văn thượng tấu. (Sớ văn tâu lên)
Hai Lễ sĩ đăng đi lên nội nghi, bước đi thường, không
điện,
38. Quì.
Hai vị tiếp lễ, 1 vị cầm
dĩa đựng sớ văn, 1 vị cầm cái thố (hay cái bình) để đựng tro lúc đốt sớ, quì
phía dưới cặp Lễ sĩ đăng. Một vị có phận
sự đọc sớ lên quì gần CSCĐ.
CSCĐ cầm sớ xá 3 xá, cầu nguyện, rồi rút tờ sớ
ra trao cho người đọc sớ, còn vị CSCĐ hai tay cầm bao sớ cung kính nâng lên
ngang trán trong suốt thời gian đọc sớ.
39 .
Thành độc sớ văn. (Thành kính
đọc bài văn sớ)
Vị đọc sớ, cao giọng đọc
lên, đến danh hiệu của các Đấng thì dừng lại một chút để khắc chuông cúi đầu
kỉnh lễ.
Bài văn sớ cúng Đức Phật
Mẫu ngày mùng 1 thường lệ (Sóc lệ) chép ra như sau :
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ
ĐỘ
(Thất thập . . .
niên)
Tam giáo qui
nguyên, Ngũ chi phục nhứt.
Thời duy, Thiên vận . . .
. . . niên, . . . ngoạt, sơ nhứt nhựt, Dậu thời, hiện tại Việt Nam quốc, . . .
. . Trấn, . . . . . Châu, . . . . . Tộc, . . . . . Hương, cư trụ Điện Thờ Phật Mẫu chi trung.
Kim đệ tử . . . (tên họ
của vị chứng đàn). . . công đồng chư thiện nam tín nữ đẳng quì tại điện tiền,
thành tâm trình tấu.
HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI :
Huyền Khung Cao Thượng
Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.
Diêu Trì Kim Mẫu
Vô Cực Thiên Tôn.
TAM TÔNG CHƠN GIÁO :
Tây Phương Giáo
Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,
Thái Thượng Đạo Tổ
Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn,
Khổng Thánh Tiên
Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM :
Thường Cư Nam Hải
Quan Âm Như Lai,
Lý Đại Tiên Trưởng
kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ,
Hiệp Thiên Đại Đế
Quan Thánh Đế Quân.
Gia Tô Giáo Chủ
Cứu Thế Thiên Tôn,
Thái Công Tướng
Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn,
Tam Châu Bát Bộ Hộ
Pháp Thiên Tôn,
Thập phương chư
Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.
Kim vì, sóc nhựt lương
thần, chư thiện nam tín nữ đẳng nghiêm thiết đàn tràng, hương đăng hoa trà quả,
thanh chước chi nghi, thành tâm hiến lễ.
Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn
Phật Mẫu, dĩ đức từ bi, chuyển họa vi phước, thoát ách tiêu tai, thế giới an
ninh, cộng hòa nhơn loại, Tổ quốc Việt Nam đạt vinh quang, sanh chúng an cư lạc
nghiệp, phục hồi Đường Ngu chi phong hóa.
Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn
Phật Mẫu, phát hạ hồng ân, hoằng khai Đại Đạo, độ tận chúng sanh, hiệp trí hòa
tâm, tinh thần qui nhứt, vĩnh sùng chánh giáo, giải thoát tiền khiên, triêm ngưỡng
Mẫu ân tứ phước.
Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn
Phật Mẫu, cứu độ các đẳng chơn linh quá vãng tảo đắc siêu thăng, an nhàn Cực
Lạc.
Chư đệ tử đồng thành tâm khẩn nguyện cúc cung khấu bái
thượng tấu
Dĩ văn.
Đệ tử : . . . (tên họ của vị
chứng đàn) . . .
40 . Cung
phần Sớ văn. (Cung kính đốt sớ)
Vị chứng đàn đặt lá sớ vào
bao sớ, cầm sớ xá 3 xá, hai Lễ sĩ đăng
dụm hai ngọn đèn lại cho vị chứng đàn đốt sớ, thấy cháy được phân nửa thì bỏ
vào thố, vị tiếp lễ đem thố đặt lên bàn thờ, hai Lễ sĩ trở về ngoại nghi, vị đọc sớ trở về chỗ cũ.
41. Cúc cung bái. (giống như mục số 12)
42. Thành tâm tụng Ngũ Nguyện.
Đồng nhi tụng Ngũ Nguyện.
43. Cúc cung bái. (giống như mục số 12)
44. Hưng bình thân. (Cất mình đứng thẳng lên)
Mọi người trong đàn cúng
đứng thẳng dậy tại vị trí của mình. Khắc chuông, mọi người đứng xá sâu xuống 3
xá, quay trở ra sau xá 1 xá để kỉnh khí Sanh quang.
45. Cung thành thứ tự phân lập lưỡng ban.
(Cung kính, thứ tự, phân
ra đứng thành hai ban : nam và nữ)
Tất cả tín đồ trong đàn
cúng, lui ra hai bên, đứng trật tự như lúc mới nhập đàn.
Các Ban : Đồng nhi, lễ sĩ,
lễ vụ, kiểm đàn, những người hầu đàn lần lượt vào chánh điện lạy Đức Phật Mẫu 3
lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Diêu Trì
Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
Riêng Ban Nhạc thì quì
ngay trên lầu lạy Đức Phật Mẫu, vì còn phận sự đánh nhạc.
Người chấp sự trên lầu
chuông dộng chuông bãi đàn.
Dộng trước 3 tiếng chuông,
rồi kệ bài Kệ chuông bãi đàn, kệ xong 1 câu thì dộng 1 tiếng chuông lớn. Bài kệ chuông bãi đàn :
“Đàn tràng viên mãn, Chức sắc qui nguyên, . . . . . “
Tiếng chuông kệ bãi đàn
vừa dứt, Lễ xướng :
46 . Lễ
thành. (Cuộc lễ cúng tế đã xong)
Nhạc đánh thét rồi dứt.
Mọi người xá đàn 1 xá rồi bắt đầu đi ra. Các vị bên trong đi ra trước, đi hàng
một, đi ra cũng trật tự như khi đi vào nhập đàn. Khi ra khỏi chánh điện mới xả
ấn Tý.
Tất cả có 46 Nghi tiết
trong lễ cúng đàn Đức Phật Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu địa phương.
IV . Nghi tiết cúng Tứ Thời tại ĐTPM
Cúng Tứ Thời
tại ĐTPM vào 4 thời điểm : Tý (0 giờ tức 12 giờ khuya), Mẹo (6 giờ sáng), Ngọ
(12 giờ trưa), Dậu (18 giờ tức 6 giờ chiều).
1* Đúng giờ
cúng, trên lầu chuông, vị chấp sự khởi dộng Chuông Nhứt.
Trước hết dộng 3
tiếng chuông, kệ 3 câu, mỗi câu dộng 1 tiếng chuông. Bài kệ chuông nhứt :
“ Văn chung
khấu hướng . . . . . . . . . . . “.
Khi hết chuông nhứt, các
tín đồ tham dự cúng Tứ thời đi vào chánh điện, sắp hàng hai bên, nam nữ đứng
đối diện nhau, tay bắt ấn Tý, chờ nghe chuông nhì.
2 * Kệ chuông nhì, dứt mỗi
câu thì dộng 1 tiếng :
“ Nhứt vi
u ám . . . . . . . . . . . . “
3 * Người hầu chuông nơi
nội nghi gõ 1 tiếng chuông, hai bên xá đàn 1 xá, bước vào trong, nhìn lên bàn
thờ, gõ chuông 3 lần, xá 3 xá, quì xuống.
4 * Người hầu chuông lần
lượt khắc 3 tiếng, mọi người đưa ấn Tý lên trán vừa xá vừa niệm 3 lần :
- Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
- Nam mô Cửu Vị Tiên Nương.
- Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh.
5* Đồng nhi tụng kinh Niệm
Hương, giọng nam ai.
Lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm :
“Nam mô
Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.”
6* Đồng nhi tụng Khai
Kinh, giọng nam ai.
Dứt bài Khai Kinh thì cúi đầu, không xá,
không lạy.
7* Đồng nhi tụng Phật Mẫu
Chơn Kinh.
Lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm :
“ Nam mô
Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.”.
8* Đồng nhi tụng bài Tán
Tụng Công Đức Diêu Trì
Kim Mẫu : “ Kể từ Hỗn độn sơ khai, . . . .
. . “
(Bài Tán Tụng Công Đức DTKM chỉ tụng khi
cúng Tứ
Thời, còn khi cúng đàn thì không tụng).
Lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, niệm danh hiệu
Phật Mẫu.
9* Đến phần Dâng Tam bửu, tùy theo thời mà thài.
- Cúng khuya và trưa : thài bài Dâng Rượu.
- Cúng sáng
và chiều : thài bài Dâng Trà.
Dù thài dâng Rượu hay dâng
Trà, chúng ta cũng cứ cầu nguyện dâng đủ Tam bửu lên Đức Phật Mẫu, giống y như
cầu nguyện dâng Tam bửu lên Đức Chí Tôn, vì đây là Bí pháp giải thoát chúng ta
khỏi luân hồi :
“Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn,
Nam mô Cửu Vị Tiên Nương,
Nam mô chư Phật chư Tiên chư Thánh chư Thần.
Con xin dâng cả thể xác,
chơn thần và linh hồn của con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.
Cầu xin các Đấng thiêng liêng chứng minh. “
Lạy Đức Phật Mẫu 3 lạy 9 gật và niệm
như trên.
10* Tụng Ngũ Nguyện.
Lạy Đức Phật Mẫu như trên.
Đứng dậy, xá 3 xá, quay ra sau xá 1
xá, lui ra đứng hai bên chánh điện như lúc mới nhập đàn. Chờ kệ chuông bãi đàn.
11* Kệ chuông bãi đàn :
“ Đàn tràng viên mãn, Chức sắc qui nguyên . . . . .”
Dứt kệ chuông bãi đàn, vị
hầu chuông nơi nội nghi khắc 1 tiếng chuông, hai bên xá đàn 1 xá, rồi bắt đầu
đi ra, trong đi ra trước, lần lần tới ngoài. Hết.
Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên
Nương và 4 Tiên đồng nữ nhạc
cỡi chim Thanh loan bay
xuống cõi trần.
(Tượng thờ Đức Phật
Mẫu và Cửu vị Tiên Nương nơi Báo Ân Từ)
V .
Giải thích các chi tiết :
1 .
Cửu vị Tiên Nương - Cửu vị Nữ Phật :
Cửu vị Tiên Nương là 9 vị Nữ Tiên hầu Đức Phật Mẫu và giúp việc cho Đức Phật Mẫu.
Trong thời khai Đạo, Cửu
vị Tiên Nương lập được nhiều công quả
nên đắc thành Phật vị, gọi là Cửu vị Nữ Phật.
Nhưng, 9 Đấng ấy, khi thi
hành nhiệm vụ giáo hóa và phổ độ nhơn sanh thì xưng là Cửu vị Tiên Nương; khi
an ngự trên ngôi vị thì xưng là Cửu vị Nữ Phật.
Đức Phật Mẫu và Cửu vị
Tiên Nương ngự tại DTC nơi từng trời thứ 9 : Tạo Hóa Thiên của Cửu Trùng Thiên.
Trong Cửu vị Tiên Nương,
các Đấng thường giáng cơ dạy đạo là : Bát Nương, Thất Nương, Lục Nương, Ngũ
Nương. Kể từ khi Thất Nương đảm nhận nhiệm vụ giáo hóa các nữ tội hồn tại cõi
Âm Quang thì Thất Nương ít có thời giờ rảnh để giáng cơ dạy Đạo.
2 . Bạch Vân Động chư Thánh :
Bạch Vân Động là một cái
động trên Mặt Trăng, làm nơi cư ngụ cho các vị Thánh, mà Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ
tức là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Động chủ.
Các vị Thánh nơi Bạch Vân
Động có nhiệm vụ bảo vệ Đức Phật Mẫu mỗi khi Đức Phật Mẫu du hành hay đi xuống
cõi trần. Cho nên khi thờ Đức Phật Mẫu, chúng ta cũng thờ luôn Bạch Vân Động
chư Thánh.
Trước khi Chí Tôn mở
ĐĐTKPĐ, các vị Thánh Bạch Vân Động được lịnh giáng sanh xuống cõi trần để Đức
Chí Tôn lập thành Hội Thánh trong buổi đầu khai đạo.
Đối với nhơn loại thì con
người không thể ở trên Mặt Trăng vì nơi ấy không có nước và không khí, nhưng
đối với các Đấng thiêng liêng, Mặt Trăng là nơi để dừng chân trước khi các Đấng
ấy giáng xuống cõi trần (tức là đi xuống địa cầu của nhơn loại).
3 . Giải thích lòng sớ cúng Đức Phật Mẫu :
“ Nay vì ngày mùng 1 giờ
tốt, các vị thiện nam tín nữ nghiêm trang thiết lập đàn cúng tế với nhang đèn,
bông trà trái cây, rượu tinh khiết làm nghi thức, thành tâm hiến lễ.
Ngưỡng vọng Đức Phật Mẫu
chưởng quản Kim Bàn, lấy đức từ bi chuyển họa làm phước, thoát khỏi khổ ách,
tiêu tan tai nạn, thế giới được an ninh, nhơn loại cộng hòa, Tổ quốc Việt Nam
đạt được vinh quang, dân chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi nền phong hóa như
thuở vua Nghiêu vua Thuấn.
Ngưỡng vọng Đức Phật Mẫu
chưởng quản Kim Bàn, ban xuống hồng ân, hoằng khai Đại Đạo, độ tận chúng sanh,
hiệp trí hòa tâm, tinh thần qui nhứt, vĩnh sùng chánh giáo, giải thoát khỏi các
tiền khiên nghiệp chướng, chiêm ngưỡng ơn phước của MẸ ban cho.
Ngưỡng vọng Đức Phật Mẫu
chưởng quản Kim Bàn, cứu độ các cấp chơn linh đã quá vãng, sớm được siêu thăng,
an nhàn nơi cõi Cực Lạc.
Các đệ tử đồng thành tâm
cầu khẩn mong ước, cúi mình lạy xuống, tâu lên.
Kính trình.
Chương 8
HÀNH CHÁNH ĐẠO
địa phương
I .
Các cấp Hành Chánh Đạo địa phương :
“ Hành Chánh Đạo là cơ quan để thi hành các luật lịnh
của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn phê chuẩn,
nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y luật pháp mà đi trên con đường đạo đức cho
đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thật hành cả
khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng.” (Đạo luật năm Mậu Dần
1938)
“ Hành Chánh Đạo là thi
hành cho đúng những qui điều trong chơn pháp để dìu độ chúng sanh lánh khỏi tội
tình, hiệp về cội Đạo.
Cầm quyền Hành Chánh Đạo
là phận sự của Chức sắc Cửu Trùng Đài thay mặt cho Trời mà thực thi nhơn nghĩa
đạo đức để phục vụ nhơn sanh về phần vật chất tức là phần đời. Bảo thủ chơn
truyền chẳng để cho Chánh giáo trở nên Phàm giáo là nhiệm vụ của Chức sắc Hiệp
Thiên Đài can hệ về phần tinh thần tức là phần Đạo.
Thiết nghĩ, Chức sắc Cửu
Trùng Đài được quyền sử dụng những luật lệ do nhơn sanh lập thành, nên phải gìn
giữ nhắc nhở nhơn sanh tuân hành nghiêm chỉnh giáo điều Tân luật, để khỏi bị
phạm luật phạm pháp mà thất thệ và lỗi đạo.
Vả lại, Chức sắc Hội Thánh
Cửu Trùng Đài cũng không nên quên rằng, chính mình cũng phải chịu dưới luật lệ
ấy vì nó đã thành Thiên điều tại thế rồi.
Vì thế, để xứng đáng là người
hướng đạo tinh thần cho nhơn sanh, chư Chức sắc Thiên phong cần ý thức rõ vai
tuồng Hành Chánh Đạo của mình, đừng vì một sự sơ suất hiểu lầm do phàm tâm lấn
áp mà biến sự phục vụ thành quyền cai trị, gây thống khổ cho nhơn sanh mà đắc
tội với Đại Từ Phụ, sanh điều phản khắc với tôn chỉ và chủ nghĩa của nền Đại
Đạo.
Để nhắc nhở chư Chức sắc
Thiên phong, Hội Thánh Cửu Trùng Đài hiểu rõ vai trò Hành Chánh Đạo của mình,
Hội Thánh xin giải rõ ý nghĩa, mục đích và cứu cánh của ba chữ : Hành Chánh
Đạo.
1 . Thích nghĩa ba chữ Hành Chánh Đạo :
Hành là làm, chánh là ngay
thẳng, không xiên vẹo, nghĩa là làm cho ra thiệt tướng nền chơn đạo của Đức Chí
Tôn trong sứ mạng tận độ.
Hành Chánh Đạo (viết tắt
HCĐ) thật là bao la và tổng quát vô cùng.
Tại sao nơi cửa Đạo Cao
Đài lại có HCĐ, mà không như các tôn giáo hằng hữu ngồi yên để tịnh luyện ?
Xin thưa: Đối với Đạo Cao
Đài, HCĐ là một cơ cấu bỉnh cán các đẳng chơn linh hạ trần nương theo đó mà hồi
cựu vị. HCĐ có nghĩa rộng là làm sáng tỏ những điều chánh đáng của một nền tôn
giáo mà Đấng đề xướng là Đức Chí Tôn, Chúa tể cả vạn loại.
2 . Mục đích
của Hành Chánh Đạo :
Mục đích của HCĐ là phục
vụ nhơn sanh trong tinh thần giáo hóa để giác ngộ, hầu hướng dẫn nhơn sanh lập
công bồi đức, chuộc lỗi tiền khiên, qui hồi cựu vị.
Hành Chánh Đạo là một danh
từ rất kêu đối với đời, nhưng nó là một danh từ trống rỗng ở cửa Đạo về mặt uy
quyền cũng như lợi lộc. Đạo Cao Đài sở dĩ có Hành Chánh Đạo là vì muốn cho có
đẳng cấp trật tự đi trong lẽ phải, thực hành chơn lý, để mỗi chơn linh dù lớn
dù nhỏ, có phương tiện nương theo đó mà lập vị mình, hầu trở lại quê xưa hay là
tiến hóa.
Chức sắc Hội Thánh Cửu
Trùng Đài có phận sự phải thực thi Hành Chánh Đạo một cách công minh, nghĩa là
chúng ta là kẻ tay sai cho tất cả sanh chúng, nhờ ta kêu gọi dìu dẫn mà họ sớm
giác ngộ, cải tà qui chánh, thoát khỏi tục trần, lánh vòng phiền não sa đọa.
Chúng ta nên hiểu rằng,
mục tiêu chánh của Hành Chánh Đạo là giáo hóa, chớ không phải như Hành Chánh
của đời là cai trị.
Các bậc Giáo chủ của các
nền tôn giáo xưa kia đâu cần phải có hình thức quan lại trong khuôn khổ trị
dân, để giáo Đạo đâu ? Các Đấng ấy đi ta bà để khuyến dân dạy đời và thức tỉnh
nhơn loại, rồi các đạo giáo ấy cũng thành hình trong sự dạy dỗ.
Vậy, chúng ta cả thảy nên
nhìn vào sự giáo hóa mà tiến lên, đừng để hình thức cai trị bắt buộc phải theo
đạo thì hình thức ấy chỉ là lầu đài trên bãi cát.
3. Cứu cánh
của Hành Chánh Đạo :
Cứu cánh của Hành Chánh
Đạo là đoạt vị tại thế trong chiều hướng tận độ chúng sanh đưa về cựu phẩm.
Chúng ta biết rằng, nhơn
hồn có nhiều bực cấp của chơn hồn, từ nguyên nhơn đến hóa nhơn và quỉ nhơn.
Hành Chánh Đạo chẳng phải kêu gọi hàng nguyên nhơn mà còn độ rỗi hóa nhơn và
trừ khử quỉ nhơn nữa. (Quỉ nhơn là tà tâm dục vọng).
Bởi cớ nên Đại Từ Phụ lập
ra Cửu Trùng Đài để sắp xếp các đẳng
linh hồn đã xuống thế, tùy theo căn nguyên biết mộ đạo tu tỉnh mà trở lại
nguyên căn ở cõi vô hình hay là thượng giới.
Ngoài ra, bên quỉ vị, vì
lẽ công bình của tạo đoan nên cũng có thành lập Tam thập lục động đối chiếu với
Tam thập lục Thiên để khảo duợt các chơn linh trước khi trở về đến Ngọc Hư
Cung.
Do dó, Hành Chánh Đạo là
làm thế nào cho sáng tỏ chơn lý, rạng rỡ nét công, không còn lẽ tà vạy trong
hàng Chức sắc Thánh thể của Đức Chí Tôn, cũng như trong bổn đạo là con chung
của Đại Từ Phụ.
Nếu mỗi mỗi trong Thánh
thể của Đức Chí Tôn biết nêu cao lẽ chánh thì con đường tận độ sẽ thênh thang,
cả nguyên nhơn lẫn hóa nhơn có thể trở lại ngôi xưa hay hóa kiếp để đoạt vị một
cách dễ dàng, bằng ngược lại thì sẽ bị rơi vào cái bẫy khảo duợt của chúa quỉ,
tức nhiên là lọt vào tay của Kim Quang Sứ vậy.”
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
“ Hành Chánh Đạo được tổ
chức một cách chặt chẽ. Bất cứ nơi nào có ánh sáng mặt trời cũng có vết chân
của các môn đồ của Thầy đến để cứu rỗi nhơn loại. Nhơn loại cũng nương theo
đường lối Hành Chánh Đạo mà tạo vị, lập công để chuộc tội tiền khiên, tiêu trừ
nghiệt chướng.
Đức Chí Tôn dạy rằng : Nếu
chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác
mà đắc đạo bao giờ.
Ân huệ và hạnh phúc thay
cho chúng sanh ! Thầy đã lập một trường thi công quả hy hữu trước mắt, chúng
sanh muốn tu hay chẳng muốn, sau nầy không còn chối cãi vì mê muội mà lạc bước
sa vòng tà mị. (Trích bài giảng Hạnh Đường của Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh).
Hành Chánh Đạo có một hệ
thống tổ chức chặt chẽ từ trung ương ở Tòa Thánh đến các địa phương, phân cấp
phân nhiệm rất rõ ràng để sự làm việc điều hòa tốt đẹp.
Trong hệ thống tổ chức
Hành Chánh Đạo CTĐ, từ Cửu Viện đổ lên thuộc về HCĐ Trung Ương, từ Cửu Viện trở
xuống thuộc HCĐ Địa phương.
HCĐ địa phương tổ chức
trong nước Việt Nam gồm : Trấn Đạo, Châu Đạo, Tộc Đạo và Hương Đạo.
Trấn đạo là cấp cao nhứt
của HCĐ địa phương. Trong nước VN có nhiều Trấn đạo.
- Một Trấn Đạo có nhiều
Châu Đạo. Đứng đầu Trấn Đạo là một vị Khâm Trấn Đạo, phẩm Giáo Sư, do Hội Thánh
bổ nhiệm.
- Một Châu Đạo có nhiều
Tộc Đạo. Đứng đầu Châu Đạo là một vị Khâm Châu Đạo, phẩm Giáo Hữu, do Hội Thánh
bổ nhiệm.
- Một Tộc Đạo có nhiều
Hương Đạo. Đứng đầu Tộc Đạo là một vị Đầu Tộc Đạo, phẩm Lễ Sanh, do Hội Thánh
bổ nhiệm.
- Một Hương Đạo có nhiều
Ấp Đạo, đứng đầu Hương Đạo là một vị Đầu Hương Đạo, phẩm Chánh Trị Sự, do các
Chức việc Bàn Trị Sự của Hương Đạo bầu lên.
- Một Ấp Đạo có 2 vị : Phó
Trị Sự và Thông Sự trông coi đạo sự trong Ấp Đạo của mình. Phó Trị Sự và Thông
Sự do các Đạo hữu trong Ấp Đạo bầu lên.
Như vậy, một Hương đạo chỉ
có một Chánh Trị Sự Đầu Hương Đạo, nhưng lại có nhiều Phó Trị Sự và Thông Sự
phụ trách trong các Ấp Đạo.
Đặc biệt trong Đạo Cao
Đài, Hành Chánh Đạo nói riêng và các tổ chức khác của Đạo nói chung, đều phân
ra hai phái NAM và NỮ.
Hai phái nầy có tổ chức
Đạo hoàn toàn giống nhau, các cấp bực đều tương ứng nhau, nhưng điều hành việc
Đạo riêng theo mỗi phái, phái nầy không xen qua phái kia, quyền hành nam nữ
riêng biệt.
Phẩm tước hay chức vụ của
Chức sắc nữ phái giống y như bên nam
phái, nhưng thêm chữ NỮ phía trước.
II . Tổ
chức điều hành một Thánh Thất.
Mỗi Tộc Đạo cần phải xây
dựng một Thánh Thất để làm nơi thờ cúng Đức Chí Tôn, các Đấng thiêng liêng và
để qui tụ các tín đồ tổ chức các sinh hoạt của tôn giáo.
Vị Lễ Sanh Đầu Tộc Đạo cai
quản đạo sự trong Tộc Đạo thì cũng cai quản luôn cả Thánh Thất của Tộc Đạo.
Giúp việc văn phòng cho
Đầu Tộc Đạo thì có một vị Đầu Phòng Văn khoa mục do Hội Thánh bổ nhiệm.
Nếu không có Đầu Phòng Văn
thì các Chức việc Bàn Trị Sự (BTS) của Tộc Đạo phải cử ra một Thơ Ký để giúp
việc văn phòng cho Tộc Đạo.
Phần cai quản Thánh Thất
thì có một Ban Tứ Vụ giúp việc cho Đầu Tộc Đạo.
Sơ đồ tổ chức như sau :
Viết tắt: - BTS: Bàn Trị
Sự. - CTS: Chánh Trị Sự. - HT: Hội Thánh. - ĐTĐ: Đầu Tộc Đạo.
* Đầu Phòng Văn của Văn
phòng Tộc Đạo phải lập đầy đủ hồ sơ, sổ sách và giấy tờ cần thiết sau đây:
1 . Hồ sơ Sắc lịnh, Thánh
lịnh, Huấn lịnh của HT.
2 . Hồ sơ Thánh huấn, Huấn
thị, Châu tri của HT.
3 . Hồ sơ văn thư của Hội
Thánh gởi xuống.
4 . Hồ sơ văn thư của Khâm
Châu Đạo gởi xuống.
5 . Hồ sơ văn thư của Đầu
Tộc Đạo gởi đi.
6 . Hồ sơ văn thư của Chức
việc BTS gởi lên.
7 . Hồ sơ Vi bằng nhóm lệ
BTS hằng tháng.
8 . Hồ sơ lưu chiếu các vụ
kiện thưa, hòa giải.
9 . Sổ nhựt ký Tắm Thánh,
Giải oan, Nhập môn.
10 . Sổ nhựt ký
Cầu siêu các bổn đạo qui liễu.
11 . Sổ nhựt ký
Khai sanh, Khai tử, Hôn phối.
12 . Sổ nhựt ký
giấy tờ gởi đi.
13 . Sổ nhựt ký
giấy tờ nhận được.
14 . Bộ Chức
việc và Đạo hữu.
Ngoài ra còn nhiều hồ sơ
linh tinh khác tùy theo Tộc đạo có nhiều hay ít công việc đạo.
* BAN TỨ VỤ của Thánh Thất
:
Ban Tứ Vụ là một ban gồm
có 4 vụ: Hộ vụ, Lễ vụ, Lương vụ và Công vụ. Mỗi vụ có phần hành riêng biệt.
- Hộ vụ: lo việc thâu giữ
tiền bạc của Thánh Thất do các tín đồ đóng góp để hành hương hay làm việc công
ích trong Thánh Thất, giữ sổ thâu xuất hằng ngày.
- Lễ vụ: lo việc nghi lễ,
cúng Tứ thời, đàn lệ, sớ văn, quả phẩm, nhang đèn và sắp xếp các ban trực thuộc
: lễ, nhạc, đồng nhi, thực hiện tang sự cho bổn đạo.
- Lương vụ : lo lương thực
nuôi ăn Chức sắc và các nhân viên công quả. Lương vụ quản lý phòng trù (nhà bếp)
- Công vụ : lo việc tu bổ,
bảo trì Thánh Thất và các nhà cửa làm cơ quan của Tộc đạo.
Ban Tứ vụ là một bộ phận
rất quan trọng trong công việc điều hành một Thánh Thất, cho nên Đầu Tộc Đạo
phải chọn cử người có uy tín và kinh nghiệm trong bổn đạo, thông thường thì
chọn các cựu Chức việc mà vì hoàn cảnh gia đình chưa đi cầu phong được.
Sự chọn cử phải được toàn
cả Chức việc BTS trong Tộc Đạo bỏ thăm tín nhiệm, để vị ấy có đủ uy tín làm
việc.
Các ban chuyên môn :
Phần Lễ vụ có các ban
chuyên môn trực thuộc : Ban nhạc, Ban lễ sĩ , Ban đồng nhi, Ban kiểm đàn.
. Ban nhạc có một Nhạc sĩ
cầm đầu. Nhạc sĩ nầy phải thi đậu cấp bằng Nhạc sĩ của Bộ Nhạc Lễ và được Hội
Thánh bổ nhiệm. (Xem Phần phụ: Thánh Lịnh thành lập Bộ Nhạc)
. Ban lễ sĩ có một Lễ sĩ
cầm đầu. Lễ sĩ nầy phải thi đậu cấp bằng Lễ sĩ của Bộ Nhạc Lễ và cũng được Hội
Thánh bổ nhiệm. (Xem Phần phụ: Sắc lệnh về Lễ sĩ và Giáo nhi)
- Ban đồng nhi có một cô
Giáo nhi cầm đầu.
Giáo nhi là cô giáo dạy
các đồng nhi tụng kinh, đã thi đậu bằng cấp Giáo nhi và được Hội Thánh bổ
nhiệm.
- Ban kiểm đàn để sắp đặt
và gìn giữ trật tự trong đàn cúng. Nhơn viên trong Ban kiểm đàn phải lựa chọn
trong hàng Chức việc hay Đạo hữu gương mẫu.
Các con em trong nhà đạo,
tuổi từ 6 đến 15, tuyển vào Ban đồng nhi. Có thể tổ chức hai ban đồng nhi: nữ
và nam. Khi các em nầy lớn lên thì có thể đưa vào học tập trong Ban lễ sĩ hay
Ban nhạc.
III . Nhiệm vụ của Đầu Tộc Đạo
Nhiệm vụ của
Đầu Tộc Đạo rất nặng nề, vì đây là cấp Hành Chánh Đạo cơ sở, làm việc trực tiếp
với nhơn sanh, chịu hệ thống nhiều cấp chỉ huy, cho nên ngoài khả năng điều hành
công việc, Pháp Chánh Truyền còn buộc Lễ Sanh ĐTĐ phải là người có đầy đủ đức
hạnh mới có thể nhẫn nại vượt qua những nỗi khó khăn gặp phải.
Nhiệm vụ của Đầu Tộc Đạo
có hai phần: đối ngoại và đối nội.
A . ĐỐI NGOẠI :
Đối với chánh quyền địa
phương cấp quận, huyện hay cấp xã; đối với các tôn giáo bạn và các chi phái.
1 .
Đối với chánh quyền địa phương :
Đầu Tộc Đạo dùng sự chơn
thật và hiền hòa của người tu hành tạo sự giao thiệp tốt đẹp với các quan chức
của chánh quyền đời, tham gia tích cực vào các hoạt động từ thiện và các hoạt
động văn hóa nâng cao dân trí, luôn luôn bày tỏ chủ trương thuần túy đạo đức tu
hành của tôn giáo Cao Đài, dứt khoát không dung túng các phần tử xấu ẩn núp trong tôn giáo để gây chia rẽ hay mượn
danh đạo làm chánh trị để tạo danh đời.
2 . Đối với các tôn giáo bạn :
Đầu Tộc Đạo không nên chỉ
trích hay bài bác các tôn giáo khác, cho rằng hiện nay chỉ có Đạo Cao Đài là
chánh pháp, còn các tôn giáo khác là mạt pháp. Đây là điều tối kỵ mà nếu đụng
vào thì hư hết các mối giao hảo.
Tôn chỉ “Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi phục nhứt”
của Đạo Cao Đài chỉ có Đức Phật Di-Lạc mới thực hiện được và cũng không biết
đến bao giờ, còn đối với người đạo chúng ta trong kiếp sanh nầy thật là quá lý
tưởng, cho nên điều nầy không làm cho các tôn giáo bạn hài lòng.
Đầu Tộc Đạo lấy tinh thần
hòa đồng trong sự bình đẳng giữa các tôn giáo với mục đích chung là giáo dân vi
thiện, cứu khổ ban vui, làm phương châm giao tiếp gây cảm tình với các tôn giáo
bạn.
3 . Đối với các chi phái của Đạo Cao Đài :
Hiện nay, những tín đồ
trong các Chi phái của Đạo Cao Đài chỉ là những nạn nhân của một số ít Chức sắc
tiền bối mà trước đây vì bất đồng quan điểm với Tòa Thánh Tây Ninh, quí vị nầy
tách ra để lập Chi phái.
Đáng thương hơn nữa là họ
có mặc cảm tự ti bởi Đạo Nghị Định số 8 ngày 15-7-Giáp Tuất (1934) của Đức Lý
Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp, cho rằng “Chi
phái là bàng môn tả đạo”.
Tình thế hiện nay có nhiều
đổi khác, vì từ năm 1934 đến nay trải qua gần 70 năm, việc đời việc Đạo biết
bao thương hải tang điền, nền văn minh tiến hóa vượt bực, thì tư duy của người
đạo cũng cần phải thay đổi theo cho phù hợp với tình thế mới.
Chính Đức Lý Giáo Tông và
Đức Phạm Hộ Pháp cũng đã nói từ năm 1957 và năm 1964 rằng:
“ Về Đạo Nghị Định của Lão đối với Chi phái là phương
pháp lúc trước để phổ độ nhơn sanh mà thôi, hiện giờ cửa Đạo đã mở rộng thì cơ
qui nhứt thế nào cũng thực hiện được.” (TNST. Q4
B 11)
“ Vậy ngày giờ
đã gần đến nên Bần đạo để lời khuyên cả Chức sắc và toàn đạo ráng thế nào thống
nhứt Đạo cho được mới có đủ sức mạnh để làm gương cho vạn quốc.” (TNST. Q4
B 33)
Việc phân chia Chi phái là
một vết thương âm ỉ trong lòng của mỗi tín đồ Cao Đài có nhiệt tâm vì Thầy vì
Đạo, khi nhắc đến thì đau buốt cả tâm can, vì bao nhiêu lời dạy bảo thương yêu
của Đức Chí Tôn đều bị phàm tâm bỏ chảy theo dòng sông ô nhiễm.
Người tín đồ Cao Đài Tòa
Thánh Tây Ninh mà không thương yêu được tín đồ Cao Đài của các Chi phái thì làm
sao dám nói đến sự thương yêu đối với tín đồ các tôn giáo khác trong tôn chỉ
qui nguyên phục nhứt. Cho nên, ưu tiên hàng đầu của Đạo Cao Đài là thực hiện cơ
qui nhứt, như lời dạy của Đức Hộ Pháp, một là để có đủ sức mạnh phổ độ nhơn
sanh, hai là làm gương tốt cho thế giới.
Cần mở rộng vòng tay đón
mời các huynh đệ trong các Chi phái với một tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau, giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Còn nếu chúng ta vẫn giữ theo nếp suy
nghĩ cũ, xem những người Chi phái như những kẻ hồi chánh, lầm đường lạc lối trở
về, lại tự cho mình là kẻ bề trên, thì cơ qui hiệp biết đến bao giờ mới thực
hiện được !
Cũng có nhiều vị tự cho mình
là người đạo kỳ cựu nhưng họ tu lè phè, phất phơ theo cuộc thủy triều, không
siêng năng cúng kiếng và làm công quả, thì bước đường tiến hóa của họ đi được
bao nhiêu mà khoe là kỳ cựu ?
Tuy rủi ở trong Chi phái
nhưng có nhiều người có trí thức cao, đạo hạnh tốt, trình độ tiến hoá tâm linh
đáng trọng. Dù ở vị trí nào, ở hoàn cảnh nào, cũng có thể tu hành chơn chánh
được, miễn là biết giữ tâm cho chơn chánh, xa lánh điều tà vạy; nhưng nếu ở
trong nghịch cảnh hoài thì sự tiến hóa ắt phải khó khăn chậm trễ, chi bằng
chuyển đổi hoàn cảnh cho thuận chiều Thiên lý thì sự tiến hóa tâm linh ắt dễ
dàng nhanh chóng.
Chúng ta cũng cần kêu gọi
những tín đồ Chi phái nên đặt lợi ích chung, danh dự chung của Đạo Cao Đài, hy
sinh phần nào quyền lợi cá nhân, xem phẩm tước phàm trần là giả tạm, mà qui tụ
đoàn kết với nhau trong một Hội Thánh duy nhứt, một Tòa Thánh duy nhứt, làm vui
lòng hai Đấng Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, hầu tạo được phẩm vị chơn thật nơi cõi
thiêng liêng.
Con đường tiến hóa tất yếu
của Đạo Cao Đài là phải qui hiệp, những chướng ngại trên con đường tiến hóa nầy
sẽ bị dẹp bỏ, ai giữ mãi tinh thần chia rẽ sẽ bị đào thải là lẽ tất nhiên không
thể nào tránh khỏi.
B . ĐỐI NỘI :
1. Cấp trên trực tiếp của
Đầu Tộc Đạo là Khâm Châu Đạo, nên tất cả Đạo sự trong Tộc đạo, Đầu Tộc Đạo phải
báo cáo đầy đủ chi tiết lên Khâm Châu Đạo, gặp những việc khó khăn thì phải xin
ý kiến của Khâm Châu Đạo giải quyết. Ngoài ra, Đầu Tộc Đạo còn phải làm đủ tất
cả các phúc trình Đạo sự gởi lên Châu đạo, Trấn đạo và Hội Thánh ở Trung ương.
2 . Đầu Tộc Đạo phải ban
hành các các giấy tờ của Đạo do cấp trên gởi xuống như : Đạo lịnh, Thánh lịnh,
Huấn lịnh, Thông tri, Châu tri, vv. . .
3 . Thiết lập các đàn cúng Đức Chí Tôn và các Đấng
thiêng liêng vào những ngày Vía hay Sóc Vọng.
Sau thời cúng thì đọc
Thánh Ngôn hay thuyết đạo, nhưng cần ngắn ngọn vì các tín đồ đã mỏi mệt nhiều.
4 . Đầu Tộc Đạo lo nhập môn cho Tân tín đồ, khai đàn,
thượng tượng và dẫn giải lễ nghi thờ cúng của Đạo.
5 . Đầu Tộc Đạo chủ tọa
các phiên họp của các Chức việc Bàn Trị Sự và Ban Tứ Vụ của Thánh Thất, Đầu Phòng
Văn làm Từ hàn lập biên bản các phiên họp.
6 . Đầu Tộc Đạo cùng Chức
việc BTS, Ban Tứ Vụ lo tang tế sự cho các bổn đạo trong địa phận của mình, hoặc
đi thăm viếng và giúp đỡ các gia đình đạo gặp khó khăn.
7 . Đầu Tộc Đạo chủ tọa việc công cử các chức vụ Bàn
Trị Sự khi bị khuyết, có mời vị Pháp Chánh của Tộc đạo đến giám thị. (Xem chi
tiết nơi phần sau).
8 . Về quyền sửa trị và giáo hóa của Đầu Tộc Đạo :
“ Lễ Sanh khi đã nhậm chức
Đầu Tộc Đạo (ĐTĐ) thì có quyền giáo hóa chư Chức việc và tín đồ trong Tộc đạo mình
cai quản và có quyền hòa giải những sự xích mích giữa người bổn đạo.
1 - Khuyên giải: Khi có người phạm lỗi nhẹ về
Thế luật hoặc thiếu hạnh kiểm làm mất tư cách người đạo, làm tổn thương đến
danh thể chung của người đồng đạo thì Lễ Sanh ĐTĐ phải có bổn phận dạy khuyên
cho người biết ăn năn chừa lỗi.
2 - Răn phạt : Nếu vị nào chẳng biết sửa mình
chừa lỗi, lại còn tái phạm thì Đầu Tộc Đạo có quyền răn phạt bằng cách quì hương
tụng kinh Sám Hối.
3 - Hòa giải: Những việc xích mích tranh tụng
thường sự giữa người đồng đạo, dầu thuộc về việc đời hay việc đạo, Đầu Tộc Đạo
chẳng nên dễ dãi bỏ qua để mất hòa khí, sanh những mầm hờn giận ghét ganh, mất
tình tương thân tương ái cùng nhau.
Trong trường hợp nầy, Đầu
Tộc Đạo cần mời tất cả đôi bên đến, dùng lời lẽ đạo đức giải thích phép đời
luật đạo, lời thuận lẽ êm, cân phân phải quấy, cho đôi bên hiểu rõ, rồi hòa
giải cho được thuận hòa cùng nhau.
4 - Răn trị : Người giữ
đạo buộc phải tuân y luật pháp của Đạo:
- Luật có Tân Luật,
- Pháp có Pháp Chánh
Truyền.
Thoảng như có vị nào phạm
luật, phạm pháp về mấy khoản nặng mà Lễ Sanh ĐTĐ đặng hiểu biết hay do Chức
việc BTS phúc tờ lên thì ĐTĐ chẳng nên im ẩn mà chính mình phải đích thân đến
tận nơi mở cuộc minh tra cho minh bạch, hoặc mời đến văn phòng hạch vấn cho ra
lẽ, rồi phúc sự lên Giáo Hữu Khâm Châu Đạo để cho người liệu phương giáo hóa,
hay Khâm Châu Đạo tư tờ về Hội Thánh định đoạt.
5 - Kiện tụng: Thoảng như có việc kiện tụng
rắc rối đại sự, ĐTĐ đã hết lời hòa giải mà chẳng đặng, đôi đàng vẫn cố tình
tranh đua hơn thiệt, hoặc vì quyền lợi, hoặc vì danh thể cá nhân, có ảnh hưởng
đến quyền dân sự, chừng đó mới buộc lòng để hai đàng kiện đến tòa án quốc gia.
Còn những vụ tranh tụng về
đạo mà Đầu Tộc Đạo hòa giải không đặng thì nên dùng quyền điều tra riêng, với tư
cách vô tư, rồi phúc sự nội vụ lên cho Giáo Hữu Khâm Châu Đạo phân xử.
Chú ý : Lễ Sanh ĐTĐ cần phải am hiểu bộ Luật lệ xử đoán đã
ban hành ngày 29-5-Đinh Dậu (1957) của Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp
Chánh.
“ Để có thực lực hữu hiệu điểm tô nghiệp đạo tại địa
phương được tốt đẹp, ĐTĐ phải đặt tình thương lên trên hết, thật hành bác ái,
vị tha, hướng dẫn điều hành thuộc cấp. Về tâm lý, phải sửa sai những lầm lẫn
trong trách vụ, vui nhận mọi ý kiến của đàn em xây dựng mới đáng bậc đàn anh,
có như vậy mới đẩy mạnh guồng máy Hành Chánh Đạo được nhịp nhàng và đắc nhơn
tâm, thực hành đúng câu “thể Thiên hành hóa” mà Hội Thánh tin giao cho mỗi vị
ĐTĐ đó vậy.” (Trích tài liệu Hạnh Đường Lễ Sanh)
IV .
Nhiệm vụ của Chức việc Bàn Trị Sự
Chức việc Bàn Trị Sự (BTS)
gồm 3 phẩm cấp : Chánh Trị Sư (CTS)ï, Phó Trị Sự (PTS), Thông Sự (TS), chịu
dưới quyền trực tiếp của ĐTĐ, nên phải sát cánh cùng ĐTĐ trong các đạo sự tại
Hương đạo. Mọi đạo sự trong Hương đạo đều phải báo cáo với Đầu Tộc Đạo.
1 .
Bổn phận Chức việc BTS đối với Hội Thánh.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy
: “ Thầy dùng lương sanh mà cứu vớt quần sanh. Cả lương sanh ấy, Thầy dụng
quyền thiêng liêng dạy dỗ, trước un đúc nơi lòng một khiếu từ bi cho tâm địa có
tính ái vật ưu sanh theo tánh đức háo sanh của Thầy, dùng lợi khí phàm tục để
độ rỗi người phàm tục. Những lương sanh ấy hiệp lại làm một, lập thành Hội
Thánh, là xác thân phàm, tức hình thể hữu vi của Thầy tại thế để thể Thiên hành
hóa, làm gương mẫu giáo hóa dìu dắt con
cái của Thầy trên đường Đạo và đường Đời trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ, để Thầy
tránh khỏi phải hạ trần như lúc Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ.”
Bổn phận của Chức việc BTS
là phải tuân mạng lịnh của Hội Thánh truyền dạy, không được phép trái với sở
định của bề trên, chẳng lấy ý riêng của mình mà canh cải, bất tùng giáo hóa.
Phải giữ lễ nghĩa khiêm cung đối với Chức sắc Hội Thánh cho vẹn toàn bổn phận
làm em, dầu có người kém tài trí đi nữa, đàn em cũng chẳng nên khinh khi, vi
lịnh. Khinh khi vi lịnh người tức là buộc vào mình tội bất tuân luật pháp.
Thảng như Chức sắc bề trên
cầm quyền Hành Chánh Đạo rủi có việc chi ngộ bất cập lượng, sai suyễn một đôi
điều không phù hạp luật thương yêu và quyền công chánh, thì bổn phận của đàn em
được phép gián can với lễ độ của tình huynh đệ nhất gia, chỉ rõ những việc
khuyết điểm để cho đàn anh suy độ mà cải cách hành vi cho phù hạp nhơn tâm,
thuận tùng Thiên lý. Một điều nên ghi nhớ trong Tứ Đại Điều Qui là: Dưới gián
trên đừng thất khiêm cung mà lỗi đạo làm em và bị phạm luật đạo.
Tóm lại, bổn phận Chức
việc BTS, đã mang danh là Hội Thánh Em, mà đối với Hội Thánh cùng Chức sắc đàn
anh bề trên được như vậy thì bao giờ Hội Thánh cũng tín nhiệm đàn em có tâm vì
Đạo và cũng là làm tròn sứ mạng thiêng liêng của một Chức việc đối với Hội
Thánh.
2 . Bổn phận Chức việc BTS đối với bổn đạo.
Chúng ta công nhận Đức Chí
Tôn là Ông Cha chung của nhơn loại về phần thiêng liêng, tức nhiên nhơn loại là
anh em với nhau, mặc dù khác màu da sắc tóc, cái tình huynh đệ nầy giữa người
đồng Đạo càng thêm thâm thúy và mật thiết hơn.
Đức Chí Tôn có giảng dạy :
Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
Cùng nhau một Đạo tức một Cha.
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hòa.
Vậy Chức việc BTS đối với
bổn đạo đàn em phải hết dạ thương yêu, thành thật giúp đỡ và dìu dắt đàn em
trên đường Đạo cũng như trên đường đời. Phải giữ hạnh khiêm cung từ nhượng,
dùng lời dịu ngọt mà dạy dỗ, nhứt là phải đối xử cho công bình, giữ mình trong
sạch để nêu gương tốt cho đàn em bắt chước.
Chức việc BTS được quyền
sai khiến đàn em trong phạm vi quyền hạn của mình. Phải chỗ khiến thì ôn tồn mà
khiến, chẳng phải chỗ sai chớ cưỡng bách mà sai, đừng làm điều chi quá quyền mà
mất niềm hòa khí cùng nhau trong tình huynh đệ của đại gia đình tôn giáo.
Chức việc BTS là người
thay Hội Thánh, thân cận với nhơn sanh trong Hương đạo, thì bổn phận của mỗi vị
cần phải thực thi đúng trách nhiệm của mình y theo Pháp Chánh Truyền, tóm lược
sau đây :
1 - Chánh Trị Sự : Mỗi Hương đạo có một Chánh Trị Sự, thay mặt
Hội Thánh làm đầu tín đồ, gọi là Đầu
Hương Đạo, làm anh cả trong địa phận ấy, chịu trách nhiệm về phần Đời và phần
Đạo đối với Hội Thánh.
Vì vậy, Chánh Trị Sự phải
là người đầy đủ đạo hạnh, hiểu biết về Luật pháp Chơn truyền của Đại Đạo, có đủ
năng lực dìu dẫn bổn đạo được trong ấm ngoài êm, chăm nom giúp đỡ sanh hoạt của
môn đệ Thầy, giúp khó trợ nghèo, coi cả tín đồ như em ruột.
Chánh Trị Sự cầm quyền Luật
pháp và Hành Chánh Đạo. Tại sao người cầm hết hai quyền ? Bởi vì CTS là Đầu Sư
Em, nên phải kiêm cả hai quyền và làm đầu trong một Hương đạo. Trong Luật pháp,
cấm CTS không được xâm phạm ranh giới của CTS khác. Ngoài ra, luật pháp còn
nghiêm cấm không cho công cử CTS Nội dung, CTS Đầu văn phòng, hoặc CTS Phổ tế.
2 - Phó Trị Sự : là người thay mặt Chánh Trị Sự trong một Ấp,
gọi là Tri Lý Đạo để lo về phần hành chánh đạo, đặng phép sửa đương giúp đỡ,
dìu dắt, dạy dỗ chư tín đồ trong địa phận trấn nhậm.
Về mặt xã hội, giúp đỡ bổn
đạo trong xóm ấp được tương thân tương trợ, gặp người hoạn nạn thì Phó Trị
Sự phải sốt sắng kêu gọi bổn đạo chung
tâm trợ giúp. Phó Trị Sự có quyền giáo hóa chớ không có quyền sửa trị.
Phó Trị Sự cầm quyền hành
chánh tức là Chánh Trị Đạo, ở Pháp Chánh Truyền gọi là Giáo Tông Em. Hễ quyền
trên lớn lao bao nhiêu thì quyền dưới cũng thế, nhưng Phó Trị Sự chỉ cầm quyền một Ấp đạo.
Hai vị Phó Trị Sự và Thông
Sự đều đồng thể, không ai lớn ai nhỏ, cũng như Giáo Tông và Hộ Pháp, song quyền
hành riêng biệt: Phó Trị Sự có quyền về Hành Chánh Đạo, còn Thông Sự có quyền
về Luật lệ. Phó Trị Sự và Thông Sự đều có quyền ứng cử chức Chánh Trị Sự.
3 - Thông Sự: là người thay mặt Chánh Trị Sự trong một
Ấp, gọi là Thông Lý Đạo, để lo về phần luật
lệ.
Thông Sự có quyền răn dạy
người đạo phạm luật pháp của đạo bằng cách giải thích khuyên lơn, nếu đôi ba
lần mà người phạm lỗi không biết ăn năn chừa cải thì Thông Sự có quyền phúc sự
lên CTS khuyên giải hoặc định hình phạt sám hối. Thông Sự là người cầm luật
pháp, nên trong Pháp Chánh Truyền gọi là Hộ Pháp Em, nghĩa là đồng quyền đồng
thể, không hơn không kém, nhưng Hộ Pháp cầm quyền toàn Đạo khắp thế giới, còn
Thông Sự chỉ cầm quyền trong địa phận một Ấp đạo mà thôi, vì thế mới gọi là Hộ
Pháp Em. (Trích Hạnh Đường Huấn Luyện BTS)
V .
Bổn phận của Đạo hữu
Người tín đồ, tuy đã nhập
môn vào Đạo Cao Đài, nhưng vẫn là một công dân của quốc gia, một thành viên của
xã hội và của gia đình, nên người tín đồ Cao Đài phải có bổn phận trước hết là
đối với quốc gia, đối với xã hội và sau đó là đối với gia đình. Đó là phần Nhơn
đạo.
Nhơn đạo có lo tròn thì
mới có thể tu hành cầu phần Thiên đạo giải thoát.
Phần Nhơn đạo của người
tín đồ thì rất rõ ràng và có nhiều sách khai triển chi tiết, nhứt là các sách
thuộc Nho giáo. Ở đây, trong phần
nầy, xin nêu ra một số bổn phận của người
Đạo hữu Cao Đài trong phạm vi tôn giáo.
Trong tôn giáo Cao Đài,
một Đạo hữu cần có các bổn phận căn bản sau đây :
1 . Phải tuân theo và gìn giữ luật pháp chơn truyền
của Đại Đạo.
2 . Luôn luôn ghi nhớ lời Minh Thệ lúc nhập môn cầu
Đạo và giữ mình không được thất thệ.
3 . Phải tuân lời dạy của Hội Thánh và của Chức sắc
bề trên, nhưng cũng phải có sự nhận định sáng suốt đúng theo lẽ đạo.
4 . Phải ăn chay tối thiểu 10 ngày trong một tháng, gìn
giữ Ngũ giới cấm và Tứ đại điều qui theo Tân Luật.
5 . Phải năng hầu đàn tại
Thánh Thất và cúng Tứ thời tại tư gia.
“ Vào đạo rồi chớ nên lầm tưởng rằng, nhà mình có lập
Thiên bàn thờ Thượng Đế, mỗi bữa cúng Tứ thời là đủ, cần chi phải đến Thánh Thất
hầu đàn, vì ở đâu cũng Thầy vậy. Nghĩ như thế rất sai. Thánh Thất là nhà thờ
chung lập ra cho chư Đạo hữu tới ngày sóc vọng (mùng 1 và 15) tựu đến, trước là
dâng đại lễ cúng Thầy, cùng nghe thuyết pháp, sau nữa là có dịp cho mình hội
hiệp nhau để luận bàn đạo đức, cùng xe chặt mối tương thân.
“ Thánh Thất lại là nơi biểu hiệu nền chơn đạo của
Đấng Chí Tôn, do đó mà nhơn sanh mới biết cách hành đạo cùng cách sắp đặt đạo
nghi niêm thức của mình ra thể nào, do đó mà đạo dễ phổ thông. Cho nên ngày sóc
vọng, chư Đạo hữu nơi nào cần đến Thánh Thất nơi đó hầu đàn cho đông đảo thì
đạo mới ra vẻ thạnh hành.
“ Nếu mỗi người cứ nói ở nhà cũng có Thầy, rồi nhà ai
nấy cúng mãi, thì Thánh Thất tất phải bỏ không, ấy có phải là điều đại quan hệ
cho nền đạo lắm chăng ?
“ Điều lệ hầu đàn : Cúng tế Trời Phật quí tại lòng
thành kỉnh. Chư Đạo hữu nam nữ đến hầu đàn phải cho tinh khiết nghiêm trang.
“ Vậy, trước khi đến hầu đàn, phải dọn mình cho sạch
sẽ, hết lòng thành kính khẩn nguyện cùng Trời Phật. Đến đàn rồi, phải giữ lễ nghi
cho nghiêm trang. Trước khi chỉnh đàn, không đặng ở trước Thiên bàn mà giỡn cợt
hay là nói điều chi hoại sự hay là khạc nhổ trong đàn.
“ Dầu chỉnh đàn rồi, dầu chưa chỉnh đàn cũng vậy, nam
nữ phải cho phân biệt thứ tự hẳn hòi, cứ trong ngó ra thì nam tả nữ hữu, không
được lộn xộn, không phép nói cười lả lơi, không đặng lời to tiếng nhỏ, không
đặng phép đem chuyện người ngoài mà thuật lại, không đặng luận bàn quốc sự,
không đặng đồn đãi điều chi huyễn hoặc, không đặng nhắc chuyện bất bình buổi
trước mà cãi lẫy nhau, không đặng hơn thua rầy rà, không đặng nói chuyện của
Đạo hữu vắng mặt, không đặng dùng lời quanh co soi bói nhau, không đặng giả ý
nói chơi mà kỳ trung châm chích nhau, không đặng đem đến đàn những sách vở chi
khác hơn là sách vở mà Hội Thánh đã phê chuẩn.
“ Khi nhập đàn : Nhập đàn phải khăn đen áo dài trắng,
môn đệ của Đấng Chí Tôn thì sắc phục cứ tuân theo Thánh ý, mỗi người ai phải lo
phận nấy, giữ cho khỏi vô lễ với Đấng Chí Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
“ Chỉnh đàn rồi, phải phân hàng đứng hầu lẳng lặng,
khi cúng phải cho đại tịnh.
“Những người uống rượu lỡ thì không nên nhập đàn.
“ Hầu đàn thì thân thể phải cho tinh sạch, lòng dạ
kỉnh thành. Việc tinh khiết cùng chẳng tinh khiết trong mình thì ai biết nấy,
chớ người nào khác hơn mình thì không thể rõ đặng. Ai đến lỡ mà trong mình
không tinh khiết thì chẳng khá nhập đàn, e mang lỗi cùng Trời Phật.” (Trích Phương Châm Hành Đạo của Đức Quyền
Giáo Tông)
6 . Học tập cho nhuần nhuyễn 4 quyển sách căn bản của
Đại Đạo là :
+ Kinh Thiên Đạo và Thế
Đạo.
+ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
+ Pháp Chánh Truyền.
+ Tân Luật.
Tại sao chúng ta phải học
đạo ? Học đạo để biết Đấng Thượng Đế là ai ?
Ta là ai ? Tại sao chúng ta phải tu ?
Mục đích của đời sống con người là gì ?
vv. . .
Trong các việc học thì học
đạo là khó khăn nhất, vì học chữ chỉ dùng trí não để lãnh hội, còn học đạo thì
dùng cả trí não và tâm hồn mới lãnh hội được.
7 . Đạo hữu còn phải học tập thêm các kinh sách khác
của Đạo để trau giồi kiến thức và nhờ đó được :
- củng cố và phát triển đức tin,
- từ bỏ mê tín, chỉ còn chánh tín,
- biệt phân thiện ác, chánh tà.
“ Sách kinh luật lệ trong Đạo chẳng khác nào ngọn đèn
để soi tỏ bước đường cho người giữ đạo.
“ Người ít học cần năng đọc sách xem kinh, một là mở
mang kiến thức cho mình, hai là đặng rõ thông đạo lý. Luật đạo là qui tắc dọn
sẵn để mọi người do theo mà hành đạo cho có chuẩn thằng, cho khỏi phạm điều
giới cấm. Có người nhập môn rồi mà không lo học hỏi theo kinh sách, giữ mình
theo luật lệ, mỗi ngày chỉ cúng Tứ thời là gọi đủ, rồi than phiền rằng : Vào
Đạo rồi mà không thấy ai chỉ bày tâm pháp, đạo lý chi hết. Than phiền như vậy
rất sai lầm, vì số bổn đạo vẫn hằng ức hằng triệu, ai hơi đâu chỉ biểu từ
người. Thiên thơ sẵn, chơn kinh sẵn, tại mình không thỉnh mà xem, để than phiền
trái lẽ.
“ Đó là phần người ít học. Còn phần người trí thức,
tuy mình tài cao trí rộng mặc dầu, chớ mới bước chơn vào cửa Đạo, không thế nào
hiểu đạo cho rành, mà dầu có hiểu thông đạo lý đi nữa, cũng nên xem kinh sách
nào thuở nay mình chưa đọc đến, vì kinh sách ấy có lẽ cũng giúp thêm kiến thức
cho mình nhiều ít. Vả lại, tuy mình tài trí mặc dầu, chớ mới vào đạo, thế nào
hiểu thấu tôn chỉ cùng luật pháp đạo mầu cho rành rẽ. Ví dụ như một người thông
minh kia sang đến xứ lạ nọ, muốn biết đường sá nơi ấy cần phải hỏi thăm người
bổn thổ, chớ có đâu tự phụ rằng, mình là người thông thái, không cần chi phải
hỏi han đến kẻ thường nhơn thiểu học.
“ Việc Đạo cũng vậy, mình giỏi là giỏi về phương diện
khác mà thôi, chớ mới vào cửa Đạo, tức cần phải hỏi đạo nơi người thông đạo
trước mình, hoặc là học cứu nơi kinh sách. Đến khi rõ thông đạo lý rành rẽ rồi,
nhờ trí thức của mình ra công nghiên cứu thêm nữa, có lẽ mình sẽ trổi hơn người
đã chỉ dẫn cho mình trước đó, rồi mình có thể trước tác ra nhiều sách vở có giá
trị hơn sách vở mà mình đã xem trong buổi nhập môn cầu đạo.
“ Phải xem kinh
sách thế nào ?
“ Kinh sách vẫn
do các Ngài rõ thông đạo lý soạn ra, song các bực ấy vốn cũng người phàm như
mình, nên cũng có chỗ sai lầm sơ sót, vì vậy mà kinh sách tự nơi mấy vị ấy soạn
ra cũng có chỗ khuyết điểm sai lầm. (Xin chớ lầm tưởng rằng, kinh điển xưa vẫn
là của Thánh Tiên làm ra hết; dầu cho thiệt của Thánh Tiên đi nữa, chớ lúc soạn
ra kinh điển ấy, các Ngài vẫn cũng còn phàm thì tất phải còn lầm lạc).
“ Vả lại, kinh sách làm ra phải hạp thời tùy thế. Có
nhiều quyển kinh xưa, sách cũ đối với đời trước thì rất hạp thời, mà đối với
đời nay lại có lắm điều không hạp (Tác giả [Đức Quyền Giáo Tông] không trưng
bằng cớ ra đây là không muốn kích bác đến kinh sách nào cả).
“ Vậy nên, muốn đọc kinh sách nào cho được bổ ích, ta
cần biết suy nghĩ nghiên cứu, khoản nào chánh lý thì để lòng, đoạn nào mờ hồ
thì chớ nên tin vội, chỗ nào hạp theo thời thế thì nghe, khoản nào nghịch với
tôn chỉ thì bỏ. Chẳng nên quá tin nơi kinh sách, chớ nên tưởng rằng, kinh sách
của Thánh Hiền làm ra cả thảy, nên dạy sao phải nghe nấy. Đọc sách như vậy thì
nguy lắm đó !
“ Kinh sách có chỗ đáng tin mà có chỗ cũng không nên
tin. Nếu tin hết thì phải lầm lạc. Đọc kinh sách mà không biết phân biệt điều
nào hữu lý, điều nào phi lý; đọc kinh sách mà tri thức không biết mở mang, tư
tưởng không biết độ lượng, thành ra đã tốn công vô ích, lại còn làm nô lệ kinh
sách nữa. Như vậy, thà đừng đọc là hơn.
“ Sách có câu: “ Tận tín thư bất như vô thư ”, nghĩa
là : Tin hết sách chẳng bằng không đọc sách.
“ Thuở nay, nhiều người quá tin nơi kinh sách điển
xưa, cứ nhắm mắt tin theo từng chữ, nghe từng câu, rồi hiểu sái tin lầm, khổ
tâm luyện đạo. Than ôi ! đã không ấn
chứng thì chớ, lại còn hại đến tinh thần là khác.
“ Ấy vậy, xem kinh sách để rõ thông đạo lý thì nên,
chớ do theo đó mà luyện đạo thì nguy lắm, vì hễ hiểu lầm một mảy thì cũng đủ
hại cho châu thân.
“ Muốn luyện đạo cho ấn chứng, trước hết ta cần phải
tu âm chất và lập công bồi đức cho đầy đủ, đến khi công viên quả mãn rồi, một
câu tâm pháp chơn truyền của Thầy ta là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng đủ cho ta
hiểu đạo.
“ Vả lại Đức Thượng Đế có dạy rằng: “ Kinh điển giúp
đời siêu phàm nhập Thánh chẳng khác chi đũa ăn cơm. Chẳng có nó, kẻ ăn cơm bốc
tay cũng ăn đặng.”
“ Ý Đấng Chí Tôn muốn nói như vầy: Kinh điển tỉ như
đũa, luyện đạo tỉ như ăn cơm. Người đủ âm chất đạo đức, rõ thông kinh điển thì
luyện đạo rất giản tiện, tỉ như người ăn cơm có đũa vậy. Còn người có đủ âm
chất đạo đức mà không rõ thông kinh điển đi nữa, bất quá luyện đạo khó một chút
vậy thôi, thế nào luyện cũng thành đặng, tỉ như kẻ ăn cơm, dầu không đũa, bốc
ăn cũng xong vậy.
“ Tóm lại, vào cửa Đạo rồi, bất kỳ kinh xưa sách nay,
thảy đều nên xem cho biết, song cần phải xét suy chiêm nghiệm, phân biệt giả
chơn, thì đọc mới bổ ích.”
(Trích trong Phương Châm
Hành Đạo của Đức Quyền Giáo Tông)
8 . Bổn phận quan trọng nhứt là làm công quả.
Làm công quả là làm những
công việc nơi cõi trần để hưởng cái kết quả ích lợi nơi cõi thiêng liêng.
Không phải chỉ có vô Thánh
Thất hay Điện Thờ Phật Mẫu làm những công việc nơi đó mới gọi là công quả.
Chúng ta phải hiểu cho rộng rãi hơn, nghĩa là làm tất cả công việc giúp đời,
giúp người, nói chung là cứu khổ ban vui cho chúng sanh mà không nhận tiền thù
lao với tấm lòng vui vẻ tự nguyện thì gọi là công quả.
Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ nầy, muốn đắc đạo thành Tiên, Phật thì phải làm công quả.
Trong TNHT, Đức Chí Tôn
xác định rằng :
“ Người dưới thế nầy, muốn giàu có phải kiếm phương
thế mà làm ra của; còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc đạo phải có công
quả. Thầy đến độ rỗi các con là thành
lập một trường công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng là tại nơi
các con muốn cùng chẳng muốn. Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa
vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ.” (Xem tiếp : Phương pháp tu hành trong thời
Đại Ân Xá).
9 . Người Đạo hữu, khi đi trên con đường đạo, gặp
phải nhiều khó khăn chướng ngại thì nên xin thọ Phép Giải Oan nơi vị Giáo Hữu
Khâm Châu Đạo trong những ngày mùng 1 hay 15 tại Thánh Thất. Hiệu quả của Phép
Giải Oan được nói rõ trong bài Kinh Giải Oan in trong quyển Kinh Thiên Đạo và
Thế Đạo.
Ngoài ra, đối với con cháu
thiếu nhi dưới 17 tuổi trong gia đình, nên đưa đến Thánh Thất thọ lễ Tắm Thánh
và xin cấp cho đứa nhỏ một Giấy chứng nhận Tắm Thánh. Giấy nầy có giá trị đối
với đứa nhỏ như là Sớ Cầu Đạo của người Đạo hữu vậy.
Ý nghĩa của việc Tắm Thánh
được nói rõ trong bài Kinh Tắm Thánh. Sự Tắm Thánh nầy còn có ý nghĩa là tẩy
rửa chơn thần của đứa bé cho trong sạch để mở mang trí thông minh của nó, học
hành mau tiến bộ.
(Lưu ý : Thanh niên đủ 18 tuổi mới được nhập môn cầu đạo và được cấp
giấy Sớ Cầu Đạo).
VI .
Luật công cử Chức việc Bàn Trị Sư
A . Công cử Chánh Trị Sự :
Chánh Trị Sự (CTS) phải
chịu cho toàn cả Phó Trị Sự và Thông Sự
trong Hương đạo xúm nhau công cử.
Đạo hữu được mời đến dự
kiến để phê bình chỉ trích hoặc đồng ý với ứng cử viên, ký tên vào Vi bằng công
cử, nhưng không có quyền bỏ thăm bầu cử CTS.
Hồ sơ
Ứng cử viên
gồm có :
1. Đơn xin ứng cử.
2. Chứng chỉ Hạnh kiểm.
3. Tờ khai lý lịch và
công nghiệp.
Chỉ có Phó Trị Sự hoặc Thông Sự đương quyền mới được ứng cử
chức Chánh Trị Sự. Đạo hữu không có quyền ứng cử chức CTS. Hồ sơ ứng cử phải nạp cho Đầu Tộc Đạo.
Chánh Trị Sự là người có
đầy đủ đạo hạnh, hiểu biết về luật pháp chơn truyền của Đại Đạo, có đầy đủ năng
lực dìu dẫn bổn đạo được trong ấm ngoài êm, chăm nom giúp đỡ sanh hoạt của môn
đệ Thầy, giúp khó trợ nghèo, coi cả tín đồ như anh em ruột. Do đó, việc công cử
một vị Chánh Trị Sự phải cho châu đáo. Lễ Sanh Đầu Tộc Đạo cần quan sát kỹ
lưỡng hạnh kiểm và năng lực hành đạo của ứng cử viên trước khi đem ra công cử.
Sau khi Đầu Tộc Đạo xem
xét xong hồ sơ mỗi vị rồi, phải gởi danh sách cho toàn Chức việc trong Hương
đạo hiểu biết và định ngày công cử, ít nhứt là trước 10 ngày.
Chánh Trị Sự đắc cử mỗi nhiệm kỳ là 5 năm.
Đắc cử rồi mà vô cớ phế
phận, không trọn khóa đắc cử thì không được kể công nghiệp, mặc dù có viện lý
do.
Chánh Trị Sự mãn khóa được
quyền ra ứng cử và tái cử lại một khóa nữa (Thủ tục cũng như mới ra ứng cử).
Một khi có cuộc công cử
Chức việc Bàn Trị Sự thì phải thành lập một Ủy Ban chứng sự, xem xét cuộc công
cử hầu tránh điều gian lận trong khi đầu phiếu.
Ủy Ban nầy
có ba nhân viên :
- Đầu Tộc Đạo sở tại làm Chủ Tọa.
- Luật Sự Pháp Chánh địa phương làm Giám Thị.
- Chánh Trị Sự Đầu Hương Đạo kế cận chứng
kiến.
Sau cuộc đầu
phiếu công cử xong, phận sự của Ủy Ban nầy là tuyên bố liền tên họ của người đắc cử, kế lập
Vi Bằng công cử và tờ cử 3 bổn y nhau, gởi về cho Khâm Châu Đạo nhờ xem xét và
phê kiến, rồi giao trả cho Tộc Đạo 1 bổn để hồ sơ lưu chiếu, 1 bổn để hồ sơ văn
phòng Khâm Châu Đạo, còn 1 bổn gởi về văn phòng Lại Viện.
Đến mãn hạn
kỳ 6 tháng tạm vị, nếu xét đủ tinh thần phục vụ, hạnh kiểm tốt, không phạm luật
đạo, Đầu Tộc Đạo lập phúc trình và hồ sơ ứng cử, Vi bằng Công cử, Tờ cử, đính theo ba ảnh
bán thân (4 x 6), Hội Thánh sẽ ban Đạo Cấp chánh vị. Đó là cuộc công cử đúng
phép.
Về việc bỏ thăm bầu cử :
có hai cách : - hoặc bỏ thăm kín bằng cách viết tên người mà mình lựa chọn trên
lá thăm, - hoặc bỏ thăm hở bằng cách đưa tay.
Nhưng cách bỏ thăm kín hay
hơn, cốt để tránh việc xu hướng và vị nể.
Lúc khui thăm, Chủ tọa mở
các lá thăm đọc rõ từng tên cho Thơ ký ghi chép để xem ai nhiều ít. Vị nào đắc
cử là chiếm được đa số thăm hơn hết, song ít nhất được 1 thăm trội hơn phân nửa
tổng số thăm mới đặng.
Thí dụ : Số cử tri là 10
thì số thăm tối thiểu để đắc cử phải là : 5 + 1 = 6 lá thăm.
Nhược bằng cuộc bầu cử lần
đầu không có người chiếm đủ đa số thăm như vậy thì Chủ tọa tuyên bố tái bầu cử,
ai được nhiều thăm hơn là đắc cử, khỏi luật buộc 1 thăm hơn phân nửa tổng số.
B . Công cử Phó Trị Sự và Thông Sự :
Mỗi tín đồ, sau khi đổi Sớ
Cầu Đạo Tạm, lấy Sớ Cầu Đạo Thiệt Thọ rồi, đều có quyền bầu cử và ứng cử chức
Phó Trị Sự hay Thông Sự, nhưng nam nữ
riêng biệt vì hai hệ thống Hành Chánh Đạo nam và nữ riêng biệt nhau.
Ứng cử viên Phó Trị Sự và
Thông Sự phải là người Đạo hữu giữ thập trai, có đạo tâm, sốt sắng và có năng
lực hành sự. Mỗi Ấp đạo chỉ có một Phó
Trị Sự và một Thông Sự làm đầu. Phó Trị
Sự và Thông Sự đồng thể cùng nhau, song quyền hành riêng biệt : Phó Trị Sự có
quyền về Hành Chánh Đạo, còn Thông Sự có quyền về Luật lệ.
Khi công cử thì Đầu Tộc
Đạo chủ tọa, Chánh Trị Sự sở tại thị chứng, Pháp Chánh làm giám thị, các Đạo
hữu trong Ấp đạo làm cử tri (người bỏ thăm).
Số Đạo hữu đến bỏ thăm
không được dưới 12 người.
Các văn kiện sau khi đắc
cử cũng làm y như trường hợp công cử Chánh Trị Sự.
Trường hợp đặc biệt Hương
đạo mới thành lập : Đề cử
Hương đạo mới phổ độ thành
lập thì Đầu Tộc Đạo có quyền đề cử, nghĩa là lựa chọn trong hàng Đạo hữu, những
vị nào có hạnh kiểm tốt, đạo tâm sốt sắng, để thành lập Bàn Trị Sự đầu tiên,
gồm có :
- 1 Chánh Trị Sự, - 1 Phó Trị Sự, - 1 Thông Sự.
Sau khi đề cử xong, Đầu
Tộc Đạo phải đệ tờ về Hội Thánh xin xác nhận mới có giá trị. (Trích trong tài
liệu Hạnh Đường Huấn Luyện Lễ Sanh và Huấn Luyện Bàn Trị Sự)
VII . Phụ
lục : Sắc lệnh của Đức Hộ Pháp
về Bộ Nhạc, Lễ sĩ, Giáo nhi
Để có sự hiểu biết về các
Ban chuyên môn: Nhạc, Lễ và Đồng nhi, chúng tôi xin chép ra sau đây Thánh Lịnh
của Đức Phạm Hộ Pháp qui định về Lễ sĩ, Giáo nhi và Thánh Lịnh thành lập các
phẩm Chức sắc của Bộ Nhạc.
1 . Về
Lễ Sĩ và Giáo Nhi :
Văn Phòng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
PHẠM HỘ PHÁP (Thập nhị niên)
SỐ : 51 Tòa Thánh Tây Ninh
SẮC LỊNH
Nghĩ vì Tân Kinh là Kinh
Tận độ đã ra, nên cần nhứt phải có Lễ sĩ và Giáo nhi dạy mấy em Đồng nhi cho
thành thuộc, phòng độ rỗi phần hồn của toàn con cái Chí Tôn khắp cả các nơi mà
phướn đạo đã đủ huyền linh che chở,
Nghĩ vì Hội Thánh mong mỏi
mở rộng con đường Thánh đức cho đoàn hậu tấn bước vào Thánh Thể của Chí
Tôn đặng lập vị,
Nghĩ vì trẻ em đồng nhi từ
11 năm mở Đạo đến nay đã trưởng thành nên buộc Hội Thánh định phần phong thưởng
công nghiệp, nên :
SẮC LỊNH :
Từ đây mở khoa mục mỗi năm
cho Lễ sĩ và Giáo nhi thi cử.
Lễ sĩ thi theo mặt kinh
luật của đạo về Quan, Hôn, Tang, Tế, nhứt là về Lễ Nhạc. Buộc Lễ sĩ phải cần
cho hay một món đờn trong mấy thứ âm nhạc : Tam, Tiêu, Tranh, Đản, Kìm, Tỳ, Cò,
Độc.
Giáo nhi thì phải thuộc
lòng Tân Kinh và cũng phải thuộc một môn
âm nhạc như Lễ sĩ.
Những Đồng nhi nam nữ có
đủ giấy chứng của Tòa Thánh, lớn trên 20 tuổi mới đặng thi Lễ sĩ và Giáo nhi,
và phải biết viết với đọc chữ quốc ngữ.
Mỗi năm mở khoa mục ngày
rằm tháng 10 tại Tòa Thánh. Hội Thánh
chia ra hai thứ Lễ sĩ và Giáo nhi :
* Thứ nhứt là những hạng Lễ sĩ và Giáo nhi trọn
hiến thân cho Hội Thánh, nhứt là Giáo nhi đã tuyên thệ thủ trinh hành đạo thì
sẽ đặng thuyên bổ hành đạo trong các Thánh Thất bất cứ nơi nào. Hễ đủ 5 năm
công nghiệp thì thăng Lễ Sanh, khỏi phải cầu phong lại nữa.
Hạng Lễ sĩ và Giáo nhi nầy
trên quyền Chánh Trị Sự và dưới quyền Lễ Sanh, nhưng về mặt Lễ Nhạc, Quan Hôn
Tang Tế mà thôi, chớ không đặng dự vào Chánh trị đạo hay luật pháp Tòa Đạo.
* Thứ nhì là hạng Lễ sĩ và Giáo nhi ở lại gia
đình, nhứt là Giáo nhi có chồng con theo thế thì không đặng vào nơi Thánh Thất
nào mà hành đạo hết, duy hành đạo nơi xóm làng của mình mà thôi, lại buộc mỗi
năm phải dạy ít nữa là trên 36 đứa Đồng nhi; Lễ sĩ thì dạy Nam, Giáo nhi thì
dạy Nữ, chớ không đặng dạy lộn xộn Nam Nữ chung nhau. Cấm nhặt Lễ sĩ không đặng
dạy Đồng nhi Nữ.
Nếu mỗi năm có một phái
Chức sắc, Chức Việc sở tại nói rằng dạy thiếu và không đi hành đạo thì bị ngưng
chức liền. Hội Thánh không cần minh tra lại nữa.
Hạng nầy tùng quyền Chánh
Trị Sự và ngang quyền Phó Trị Sự, Thông Sự nhưng về mặt Lễ Nhạc, Quan Hôn Tang
Tế mà thôi, chớ không đặng dự vào Chánh trị đạo hay luật pháp Tòa Đạo. Đủ 8 năm công nghiệp đổ lên mới đặng cầu
phong Lễ Sanh, nhưng do nơi tờ yêu cầu của Chức sắc và Chức Việc sở tại mới
đặng.
* Lễ sĩ mặc như Lễ Sanh
Nam phái, nhưng trên mão ngay trán có Tam Sắc Đạo và Cổ pháp của Giáo Tông là
Thư Hùng Kiếm, Long Tu Phiến và cây Phất Chủ thêu trên. (1)
* Giáo nhi mặc Đại phục
như Lễ Sanh Nữ phái nhưng không đặng giắt bông sen trên đầu tóc, còn Tiểu phục
cũng vậy nhưng trước ngực có choàng một tấm choàng đen.
Kiểu y phục nầy phải do
nơi tiệm Linh Đức.
Kỳ dư mấy vị Lễ sĩ và Giáo
nhi đương thời hành đạo trong Hội Thánh và có tờ của Hội Thánh công nhận chánh
thể rồi; Hội Thánh nhứt định cấm nhặt không ai đặng xưng danh hiệu Lễ sĩ hay
Giáo nhi mà không có khoa mục và cấp bằng của Hội Thánh ban cho đủ lẽ.
Khai Pháp, Tiếp Thế, Tiếp
Đạo HTĐ, Quyền Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư, Nữ Chánh Phối Sư và Chủ Trưởng
Hội Thánh Ngoại Giáo, mỗi vị tùy phận sự thi hành Sắc lịnh nầy.
Lập tại Tòa Thánh
Tây Ninh, ngày mồng 9 tháng 11 Bính Tý.
(22 Décembre 1936)
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị
Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu
Trùng (ấn ký)
TĐ ĐPHP : “ Giáo nhi từ trước cho lên Giáo Thiện
(CQPT) là thể theo lòng từ bi bác ái của Đức Chí Tôn mà ân tứ. Nhưng kể từ nay,
Giáo nhi có thể lên Lễ Sanh, chớ không được lên Giáo Thiện vì thiếu luật tạo
nghiệp cho 12 gia đình.”
(1) Đạo phục của Lễ sĩ ngày nay không có Tam sắc
đạo và cổ pháp Giáo Tông, nay chỉ có một bông sen trên mão giữa trán.
2 . Về
các phẩm Chức sắc Bộ Nhạc :
HỘ PHÁP ĐƯỜNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Văn phòng (Nhị thập
lục niên)
Số : 25 Tòa Thánh Tây Ninh
THÁNH LỊNH
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị
Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu
Trùng
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền;
Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần
(15-2-1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ đến ngày có Đầu Sư chánh vị;
Chiếu y Sắc Lịnh số 51
ngày mồng 9 tháng 11 Bính Tý (22-12-1936) định phần phong thưởng cho Lễ Sĩ và
Giáo Nhi đầy đủ 5 năm công nghiệp;
Nghĩ vì Ban Lễ đã định
phận thì Bộ Nhạc cũng được hưởng đặc ân của Hội Thánh đặng tiến bước lập vị.
THÁNH LỊNH :
Điều thứ 1 : Trong Bộ Nhạc của Tòa
Thánh có 9 phẩm ân phong như sau nầy :
1. Nhạc Sĩ 2.
Bếp Nhạc 3. Cai Nhạc
4. Đội Nhạc 5. Quản Nhạc 6. Lãnh Nhạc
7. Đề Nhạc 8.
Đốc Nhạc 9. Nhạc Sư.
Điều thứ 2 : Bộ Nhạc chuyên chú về
tài năng nghệ thuật thì từ hạ phẩm đến thượng phẩm, mỗi cấp đều có khoa mục
đặng tuyển chọn danh nhơn điều khiển nội ban.
Trong mỗi kỳ khoa mục, vị
nào đủ tài ứng thí thì được phép xin thi và mỗi khi thi đậu là mỗi lần được
thăng phẩm, nhưng không được xin ứng thí vượt bậc.
Điều thứ 3 : Nếu thi rớt vì không đủ
tài thì ở lại phẩm cũ, chờ đủ 5 năm công nghiệp mới được cầu ân phong.
Phẩm Nhạc Sư đủ 5 năm công
nghiệp thì thăng lên Phối Sư hay là Tiếp Lễ Nhạc Quân nếu có khuyết.
Điều thứ 4 : Chín phẩm trong Bộ Nhạc
đối với 9 phẩm của HTĐ hay các phẩm khác của CTĐ và Phước Thiện như sau nầy :
Điều thứ 5 : Chư vị : Bảo Thế Tổng
Thơ Ký Chánh Trị Đạo, Khai Pháp Chưởng quản Bộ Pháp Chánh, Quyền Ngọc Chánh
Phối Sư, Thượng Thống Lại Viện, Đạo Nhơn Chưởng Quản Phước Thiện, Phụ Thống Lễ
Viện Hành Chánh, Phụ Thống Lễ Viện PT, Nhạc Sư Bộ Nhạc, các tư kỳ phận, lãnh
thi hành Thánh Lịnh nầy.
Tòa Thánh, ngày 29
tháng 3 năm Tân Mão (4-5-1951)
HỘ PHÁP (ấn ký)
Đạo phục của các Chức sắc Bộ Nhạc :
“ Ngày 22-8-Đinh Hợi (6-10-1947), quí ông Nhạc Sư Võ
Văn Chở, Đốc Nhạc Đinh Văn Biện và Đề Nhạc Hồ Văn Sai có văn bản thỉnh giáo Đức
Hộ Pháp về Đạo phục của Chức sắc Bộ Nhạc, được Đức Ngài bút phê, như sau :
“ Bần đạo đã dạy trước rằng, mặc sắc phục hồng (màu
đỏ), áo đỏ, quần trắng, như các vị võ sĩ cựu, có viền kim tuyến bạc nơi cổ nơi
tay, ngay ngực có mang ba màu đạo, chính giữa thêu hình cây đờn tỳ bà. Dưới cây
đờn thì để chức tước của vị Chức sắc ấy, áo cụt khỏi trôn mà thôi. Từ Nhạc Sĩ
trở lên tới Lãnh Nhạc viền kim tuyến bạc, từ Đề Nhạc đổ lên viền kim tuyến
vàng.”
Như vậy, Chức sắc Bộ Nhạc đều mặc đại phục y như nhau
theo lời dạy trên, chỉ phân biệt tước phẩm ghi ở phía dưới cây đờn tỳ bà trên
tam sắc đạo thêu nơi ngực và màu kim tuyến viền nơi cổ và nơi tay áo.
Đức Hộ Pháp không có dạy về mão và tiểu phục của Chức
sắc Bộ Nhạc, nhưng trên thực tế thì Chức sắc Bộ Nhạc đội mão và mặc tiểu phục
như sau :
a) Mão đại phục :
Gọi là Hỗn Nguơn mạo có hình dáng như mão Ngưỡng Thiên của Giáo Hữu phái Ngọc
nhưng thấp hơn một chút (cao khoảng 12 cm ), giữa mão, ngay trước trán có Tam sắc đạo, gác xéo
một cây
đờn tỳ bà.
b) Tiểu phục :
Từ Nhạc Sư đổ xuống Nhạc Sĩ đều mặc áo tràng trắng, có thắt ngang lưng một sợi
dây nịt trắng như tiểu phục của Chức sắc HTĐ từ phẩm Cải Trạng đổ xuống Luật
Sự. Đầu đội Bán Nguyệt mạo như cái ca-lô trắng (giống mão của Đầu Phòng văn),
ngay giữa trán có huy hiệu hình chữ nhựt bằng kim khí, trên có Tam sắc đạo và
cây đờn tỳ bà gác xéo.”
* * *
Năm 1952, Đức Phạm Hộ Pháp
ra Thánh Lịnh mở khóa thi tuyển Nhạc Sĩ và Bếp Nhạc đặng bổ khuyết cho đủ số
ứng dụng trong Đạo.
Nguyên văn Thánh Lịnh ấy
chép ra dưới đây :
HỘ PHÁP ĐƯỜNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Văn phòng (Nhị
thập thất niên)
Số : 13 Tòa Thánh Tây Ninh
THÁNH LỊNH
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị
Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu
Trùng
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền;
Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần
(15-2-1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ đến ngày có
Đầu Sư chánh vị;
Nghĩ vì cần mở Khoa thi
Nhạc Sĩ và Bếp Nhạc đặng bổ khuyết cho đủ số ứng dụng trong cửa Đạo.
Do theo lời phê của Hộ
Pháp ngày 6 tháng 10 Tân Mão phân định thể thức khoa mục Nhạc Sĩ và các cấp trong Bộ Nhạc.
THÁNH LỊNH
Điều thứ 1 : Khoa thi Nhạc Sĩ và Bếp
Nhạc sẽ mở tại Tòa Thánh ngày rằm tháng chạp Tân Mão tại Báo Ân Từ đúng 3 giờ
chiều. Những đơn xin thi phải đệ lên Văn phòng HTĐ ngày 14 tháng chạp Tân Mão
là ngày chót.
Điều thứ 2 : Thể thức thi Nhạc Sĩ là
: Biết cầm một cây đờn và trọn hiểu nhạc khi có Tiểu đàn và Đại đàn, nhạc trống
tiếp giá.
Thể thức thi Bếp Nhạc là :
Biết trọn nghi lễ và nhạc nghệ về tài tử.
Điều thứ 3 : Ban Giám khảo trong
cuộc thi nầy là :
Bảo Thế Tổng Thơ Ký Chánh
Trị Đạo . . Chủ tọa.
Nhạc Sư Võ Văn Chở . . . .
. . . . . . . . Giám khảo.
Giáo Hữu Thái Huỡn Thanh .
. . . . . . . Giám khảo.
Chí Thiện Lê Văn Phuông .
. . . . . . . . .Giám khảo.
Điều thứ 4 : Vị Bảo Thế Tổng Thơ Ký Chánh Trị Đạo và Chức sắc có danh sách trong Ban Giám khảo,
các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.
Lập tại Tòa Thánh,
ngày 9 tháng 12 Tân Mão (5-1-1952)
HỘ PHÁP (ấn ký)
Chương 9
PHÁP CHÁNH
I .
Thành lập Bộ Pháp Chánh
Khi Đức Chí Tôn lập pháp
Hiệp Thiên Đài, Đức Chí Tôn giao cho HTĐ hai nhiệm vụ :
- Nhiệm vụ thiêng liêng :
phò cơ cho Đức Giáo Tông thông công với các Đấng Tiên Phật nơi cõi thiêng
liêng.
- Nhiệm vụ phàm trần : cầm
quyền luật lệ của Đạo.
Lúc đó, HTĐ chỉ có 15 vị :
Đức Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, và 12 Thời Quân.
Sau đó, ngày 16-2-Ất Hợi
(dl 20-3-1935) Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn vâng lịnh Đức Chí Tôn, giáng cơ lập 7
phẩm Chức sắc dưới Thập nhị Thời Quân, kể ra :
- Tiếp Dẫn Đạo Nhơn (Instructeur)
- Chưởng Ấn (Chancelier)
- Cải Trạng (Avocat)
- Giám Đạo (Inspecteur)
- Thừa Sử (Commissaire
de justice)
- Truyền Trạng (Greffier)
- Sĩ Tãi (Secretaire
Archviste)
Đức Hộ Pháp lập thêm một phẩm Luật Sự (Agent
judiciaire) theo Sắc lịnh số 34 ngày 23-5-Bính Tý (dl 11-7-1936), và muốn vào
phẩm nầy phải thi tuyển.
Chúng ta nhận thấy tên của các phẩm Chức sắc
nầy đều có ý nghĩa về luật pháp.
Nhờ số Chức sắc dưới Thập nhị Thời Quân, Hội
Thánh HTĐ thành lập Tòa Đạo để cầm quyền Tư Pháp của Đạo vào năm Mậu Dần
(1938), lập ra các Tòa Đạo để xử trị các Chức sắc và Đạo hữu vi phạm luật pháp
của Đạo.
(Tư pháp có nghĩa là quản lý luật pháp, lập ra
các Tòa án để xét xử những người vi phạm luật pháp)
Ngày 15-10-Đinh Hợi (dl 27-11-1947), Ngài Khai
Pháp Trần Duy Nghĩa đang đảm nhận nhiệm vụ Chưởng Quản Tòa Đạo, lập ra cách Tổ
Chức và Nội Luật của Bộ Pháp Chánh, thì danh từ Bộ Pháp Chánh mới được sử dụng,
và ngày 15-10-Đinh Hợi được xem là ngày thành lập Bộ Pháp Chánh, thay thế Tòa
Đạo.
Bộ Pháp Chánh là cơ quan Trung ương tại Tòa Thánh coi về Tư Pháp của Đạo, dưới quyền
Chưởng quản của một vị Thời Quân chi Pháp HTĐ. (Nếu không có Thời Quân chi Pháp thì Thời Quân chi Đạo hay
chi Thế đều có thể nắm quyền chưởng quản Bộ Pháp Chánh)
II . Nhiệm vụ và quyền hành
Bộ Pháp
Chánh là cơ quan để bảo thủ luật pháp chơn truyền, dìu dẫn và lập vị cho nhơn sanh trong
khuôn viên đạo pháp, gìn giữ cân công bình thể Thiên hành hóa, không ai qua
luật mà Hiệp Thiên Đài không biết.
Bộ Pháp
Chánh lập ra các Tòa đạo cốt yếu là để binh vực những người bị uất ức, trừng
phạt những người phạm luật pháp, gìn giữ quyền hành phân minh, đẳng cấp trật tự
cho nền Hành Chánh Đạo.
Lập Tòa đạo
là để răn trị kẻ phạm pháp luật, hầu tránh khỏi Thiên điều trừng trị, nếu bị
thế trị thì mới mong giảm tội thiêng liêng, bằng không bị thế trị thì bị Thiên
điều, có mong chi cứu rỗi.
Vậy, Pháp
Chánh rất cần thiết để gìn giữ phẩm trật, địa vị của mỗi con cái Đức Chí Tôn và
quyền hành phân minh trong các cơ quan của nền Đại Đạo.
Trách nhiệm trọng hệ hơn
hết của Bộ Pháp Chánh là công bình, vô tư, vô vị.
Ngoài phận sự bảo vệ luật
pháp chơn truyền giống như chư vị Thời Quân HTĐ, chư vị cầm quyền Pháp Chánh còn
có phận sự chăm nom cả hành vi của toàn thể Chức sắc và Đạo hữu trong các cơ
quan Hành Chánh Đạo và Phước Thiện trong phạm vi hành sự của mình, thị chứng
các cuộc nhóm họp để giữ cho được hợp pháp.
Ngoài ra, Bộ Pháp Chánh
còn được giao nhiệm vụ : Minh tra công nghiệp cầu phong và cầu thăng của tất cả
Chức sắc Cửu Trùng Đài hay Phước Thiện nam nữ.
Nếu Bộ Pháp Chánh chứng
nhận Chức sắc CTĐ hay PT có đầy đủ công nghiệp thì mới được đem tên vào sổ cầu
phong hay cầu thăng phẩm cấp.
“ Trong trường hợp điều tra, khi một Chức sắc phạm
tội, Bộ Pháp Chánh có quyền tạm bãi miễn, tức là tạm thâu quyền và chức của vị
ấy, để đưa bị cáo nhân ra Tòa Pháp Chánh điều tra hay thẩm phán, sau khi ấy,
nếu trắng án, vô tội sẽ được phục quyền chức như cũ.”
(Trích trong quyển Chánh
Trị Đạo của Ngài Trần Khai Pháp)
Do đó, Bộ Pháp Chánh có
quyền hành rất rộng lớn, chi phối tất cả các Chức sắc CTĐ và CQPT.
Tóm tắt quyền hành rộng
lớn của Bộ Pháp Chánh :
1 . Bảo thủ Luật pháp Chơn truyền của Đạo :
- Luật thì có Tân Luật,
Đạo luật, Luật Hội Thánh.
- Pháp thì có PCT và Đạo
Nghị Định.
2 . Lập các Tòa Đạo để xử trị những người vi phạm
Luật pháp Đạo, từ hàng Đạo hữu đến các Chức sắc của CTĐ và Phước Thiện. (Riêng Chức
sắc HTĐ vi phạm Luật Pháp thì có Ban Kỷ Luật HTĐ sửa trị).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét