Bước Đầu Học Đạo Dành cho Tân Tín Đồ Cao-Đài - 4 / 8 (HT. Nguyễn Văn Hồng)


Chương 15
PHƯƠNG PHÁP TU HÀNHthời ĐẠI ÂN XÁ
I . Câu chuyện luyện đạo
Một bạn đạo thuộc đạo dòng, gia đình khá giả, làm nghề dạy học, nay con cái đã trưởng thành có nghề nghiệp ổn định, nên bạn có thời giờ sưu tập các kinh sách của Đạo để nghiên cứu và học tập.

Bạn muốn đi làm công quả nên thường đến Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu, nhưng bạn nhận thấy ở đó không
có việc làm nào thích hợp với khả năng của bạn, và nhất là bạn thấy ở đó có nhiều người nhiều việc  làm cho bạn không hài lòng, đôi khi bạn không thể ngờ là có thể có những việc phàm tục như vậy xảy ra trong cửa Đạo.

Bạn nghĩ rằng, Thánh Thất là nơi thể hiện tình thương và sự hòa hợp, cho nên khi bước vào Thánh Thất, chúng ta thấy ngay bức họa “Tam Thánh Ký Hòa Ước” với bốn chữ “Bác Ái - Công Bình”, nhưng bạn ít khi thấy sự bác ái và công bình thể hiện rõ nét ở nơi đây. Hay bức họa nầy chỉ rằng, nơi đây là trường thi mà hai môn thi là : Bác ái và Công bình, để xem thí sinh ở đây ai đậu ai rớt.

Bạn rút về nhà nghiên cứu kinh sách. Bạn đọc qua các kinh sách của Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, rồi đọc vài quyển sách của chi phái Chiếu Minh, những Thánh giáo Sưu tập của các chi phái khác. Bạn vẫn còn nhiều thắc mắc chưa giải tỏa được, bạn bèn tìm đọc các sách của Tam giáo. Khi đọc sách Thiền Tông, bạn rất thích thú, nhưng cảm thấy khó quá ! Bạn đọc qua các sách Tiên giáo dạy về Tinh Khí Thần, bạn cảm thấy thích hạp hơn.

Bạn hỏi tôi : - Tại sao Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh có xây dựng các Tịnh Thất, mà sao không có tài liệu nào dạy cách luyện  đạo ?

Tôi đáp : - Tịnh Thất là phần hành của Đức Cao Thượng Phẩm HTĐ. Ngài qui Tiên quá sớm nên Ngài giao quyền lại cho Đức Phạm Hộ Pháp. Sau khi cất Tòa Thánh  xong, Đức Hộ Pháp lo xây dựng các Tịnh Thất. Đức Ngài đã cất được Trí Huệ Cung và Trí Giác Cung. Tuy đã cất được hai Cung, nhưng đó là để tạo phần căn bản cho sau nầy, chớ Đức Chí Tôn chưa cho Đức Hộ Pháp mở Bí pháp luyện đạo. Đó là vì còn trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn. Bạn đọc kỹ trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, không có chỗ nào Đức Chí Tôn cho phép tín đồ Cao Đài luyện đạo trong giai đoạn nầy, mà Đức Chí Tôn lại nói nhiều lần rằng : Chỉ có làm công quả phụng sự nhơn sanh thì mới đắc đạo. Xin trích Thánh Ngôn :

“ Trong các con, có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Đạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ  u nhàn mà ẩn thân luyện đạo. Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa đủ, nhơn sự chưa xong thì không thế nào các con luyện thành đặng đâu mà mong. Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi.” (TNHT hợp nhứt, B 108)

ĐĐTKPĐ là con đường ngắn nhất mà Đức Chí Tôn mở ra cho con cái của Ngài đắc đạo. Tuy nhiên, Đức Chí Tôn cũng không bắt buộc, tùy ý lựa chọn, muốn tu theo đường khác cũng được, miễn là giữ vững chánh tâm, đừng lầm theo đường tà quái. Ai thích đi đường vòng mà khuyên can không được thì cứ để họ đi, hơn là bắt buộc làm họ bất mãn mà sa vào vòng tà quái thì Đức Chí Tôn không đành lòng. Thà để cho họ tiến hóa chậm một chút còn hơn là để họ lọt vào tay tà quái mà bị thoái hóa thì rất uổng.

Bạn tôi hiểu biết hết các lẽ đó, nhưng dường như có một điều gì đó rất hấp dẫn, hạp với ước vọng của bạn tôi, khiến bạn tôi hướng về việc tu Thiền, mà lý do đầu tiên là để trấn an tinh thần, làm cho cái tâm bớt vọng động trước những diễn biến phức tạp của việc đời và việc Đạo.

Thời gian thấm thoát trôi qua chừng 3 năm, tôi có dịp gặp lại bạn, tôi hỏi bạn tu Thiền được 3 năm rồi, bạn đạt được những điều gì ?
Bạn cho biết nhờ đếm hơi thở, bạn định được cái tâm, gìn cái ý, khi ngồi thiền, có một luồng điện chạy rần rần trong xương sống từ xương cụt lên đỉnh đầu, làm cơ thể của bạn ấm lên, xuất mồ hôi, nhờ đó bạn trục các trược khí trong người thải ra ngoài, làm cơ thể của bạn không bịnh tật, khỏe mạnh luôn luôn.

Tôi nói : - Tôi đọc sách thấy : Nếu tu được một ngàn ngày thì có ấn chứng, sao bạn không có gì hết vậy ? . . . . .

Sau đó, bạn tôi chuyển qua luyện đạo theo Tiên giáo : luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hoàn Hư. Nhờ tu thiền 3 năm mà bạn tôi luyện Tinh hóa Khí của giai đoạn đầu, kết quả khá dễ dàng. Giai đoạn kế là luyện Khí hiệp Thần, bạn luyện hoài mà thấy không hiệp được. Bạn nghiên cứu lại các sách xem có bí quyết gì không, cuối cùng bạn cũng luyện được Khí hiệp Thần, bạn có thể xuất chơn thần của bạn ra khỏi thể xác. Cái chơn thần nầy có hình ảnh giống y như bạn, khi xuất ra thì ngồi kế bên bạn, không đi đâu được, bởi vì mỗi lần muốn đi thì dường như bị một sợi dây vô hình kéo lại, nếu muốn bứt mạnh để đi thì lực vô hình cũng giựt mạnh lại, làm cho chơn thần nhập mạnh trở lại vào thể xác.

Bạn nhứt quyết luyện cho chơn thần thoát đi được, nhưng liền đó có một giọng nói rất nhỏ nhưng rõ ràng rót vào tai bạn: “ Bao nhiêu món nợ oan nghiệt của ngươi từ nhiều kiếp trước tạo thành các sợi dây oan nghiệt buộc chặt chơn thần của ngươi vào thể xác, làm sao ngươi có thể bứt ra mà đi thoát được. Ngươi phải gỡ hết các mối dây oan nghiệt nầy bằng cách làm công quả phụng sự chúng sanh, để dùng công đức ấy mà hoá giải hết các oan nghiệt, lúc đó ngươi mới có thể thoát ra đi được.”

Thế là bạn tôi thức tỉnh, chấm dứt việc luyện đạo, trở lại đời sống bình thường, lo cúng kiếng và làm công quả, tham gia rất tích cực vào các hoạt động từ thiện do địa phương hay do Thánh Thất tổ chức.

Bạn tôi đã bỏ ra gần 6 năm trời để đi một vòng, rốt lại trở về chỗ cũ, bởi vì bạn không tin tưởng 100% vào Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn trong TNHT, phải để bạn chứng nghiệm rồi bạn mới tin, mà cũng may cho bạn vì bạn có căn lành nên vẫn giữ được chánh tâm, không bị sa vào tay tà quái, có Đấng thiêng liêng nhắc nhở, kịp thời trở lại con đường chánh đạo.

Nếu bạn đạo nào có lòng hám vọng lớn lao, muốn tu gấp để trở thành người có huyền pháp, để được người khác tôn sùng, đưa lên hàng lãnh đạo, thì tà quái sẽ nương theo hám vọng đó, nhập vào để dẫn đi. Lúc đó, muốn làm Tiên, nó sẽ cho làm Tiên; muốn làm Phật, nó sẽ cho làm Phật, vì các thứ ấy là giả mà tà quái dùng để chiều theo thị hiếu của người đời mà mê hoặc người đời, tới chừng thức tỉnh biết là giả thì đã quá muộn.

Chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối vào lời dạy bảo của Đức Chí Tôn và thực hành đúng theo đó, thì mới mong tâm linh tiến hóa nhanh chóng. Chúng ta chỉ có một cuộc đời, không thể đem ra mà thử nghiệm hoài cho được.

II . Đại Ân Xá là gì ?

Đại Ân Xá hay Đại Xá là Đức Chí Tôn ban ơn huệ lớn lao bằng cách tha thứ tội lỗi cho những kẻ có tội.

Kể từ ngày khai ĐĐTKPĐ, tức là khai Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn mở ra một thời kỳ Đại Ân Xá cho các đẳng linh hồn trong càn khôn thế giới và cho toàn cả chúng sanh, để chúng sanh tu hành dễ bề đắc đạo. Cho nên ĐĐTKPĐ cũng được gọi là Đại Ân Xá Kỳ Ba.

Muốn hưởng được sự ân xá nầy, mỗi người phải biết thành tâm hối lỗi, ăn năn sám hối tội tình, cải tà qui chánh, lập lời Minh Thệ, nhứt quyết  tu hành, lập công bồi đức. Những tội lỗi của họ đã chồng chất từ nhiều kiếp trước được Ơn Trên cất giữ lại (không đem ra trừng phạt) và cho họ làm một tân dân (người dân mới) trong cửa Đạo, nhờ vậy người nhập môn hành đạo rảnh nợ tiền khiên, chỉ lo trau giồi Đạo hạnh, lập công bồi đức, để sau cùng lấy công đức trừ dứt tội tình, thì có thể đắc đạo trong một kiếp tu.

Ngày khai Đạo Cao Đài là ngày 15-10-Bính Dần (1926) là ngày khởi đầu thời Đại Ân Xá Kỳ Ba.

Đức Chí Tôn ban cho nhơn loại các đặc ân sau đây :
1 . Tha thứ tội lỗi ở các kiếp trước của những người biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu đạo, lập Minh Thệ với Đức Chí Tôn, nhứt tâm tu hành. Cho nên trong Kinh Giải Oan (KGO) và Kinh Cầu Bà con Thân bằng Cố hữu đã qui liễu (KCBCTBCHĐQL) có các câu sau đây :
May đặng gặp hồng ân chan rưới,
Giải trái oan sạch tội tiền khiên. (KGO)
Chí Tôn xá tội giải oan,
Thánh, Thần, Tiên, Phật cứu nàn độ căn.
Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
                                                              (KCBCTBCHĐQL)

2 . Đức Chí Tôn đặc ân cho các tín đồ Cao Đài, khi chết, linh hồn được Cửu vị Tiên Nương hướng dẫn đi lên 9 từng Trời của Cửu Trùng Thiên, mỗi nơi đều được quan sát các cảnh Trời đẹp đẽ mà dưới thế gian không bao giờ có, đến bái kiến các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, đến Minh Cảnh Đài để xem xét tất cả hành vi thiện ác của mình đã gây ra trong suốt kiếp sống nơi cõi trần, đến DTC ở từng Trời Tạo Hóa Thiên để bái kiến Đức Phật Mẫu, rồi tiếp tục đi lên Ngọc Hư Cung bái kiến Đức Chí Tôn để cây Cân công bình thiêng liêng của Tòa Tam Giáo cân tội phước.

Phước nhiều thì được phong thưởng bằng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng. Nếu tội nhiều thì bị đưa đến cõi Âm Quang, vô Tịnh Tâm Xá mà định tâm tịnh trí xét mình, cầu nguyện Đức Chí Tôn độ rỗi. Tại đây có Thất Nương DTC giáo hóa các nữ tội hồn và Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các nam tội hồn.

3 . Đức Chí Tôn cho đóng cửa Địa ngục. Các tội hồn không còn bị hành hình thảm khốc nơi Địa ngục như trước nữa, mà được đưa đến cõi Âm Quang để học Đạo, cầu khẩn Đức Chí Tôn cứu rỗi, chờ ngày tái kiếp trở lại cõi trần để trả cho xong nghiệp quả.

4 . Đức Chí Tôn cho mở cửa Cực Lạc Thế Giới để rước những người đầy đủ công đức đắc đạo. Nếu người nào quyết chí tu hành, chỉ trong một kiếp tu cũng có thể đắc đạo. “ Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại trong càn khôn thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng.”
Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương. (KGO)

5 . Những người bị tội Tận đọa Tam đồ bất năng thoát tục được ân xá, những người bị tội Ngũ Lôi tru diệt, cũng nhờ Đại Ân Xá nầy mà được Đức Phật Mẫu huờn lại chơn thần, tất cả đều đặng tái kiếp lập công chuộc tội.

Thời kỳ Đại Ân Xá không phải kéo dài đến thất ức niên (700 000 năm) mà chỉ được giới hạn trong khoảng thời gian từ ngày Khai Đạo cho đến khi Đức Di-Lạc Vương Phật mở Đại Hội Long Hoa là chấm dứt, vì đã bước vào một thời kỳ tiến hóa khác của nhơn loại.

Chúng ta hôm nay gặp Đạo Cao Đài, được làm môn đệ của Thượng Đế, là một duyên may ngàn năm một thuở, nếu không mau mau bước chân vào cửa Đạo lo việc tu hành, lập công bồi đức, cứ để dần dà ngày tháng trôi qua, có mong chi đắc đạo  trở về ngôi vị cũ.

III . Hai giai đoạn tu hành

Trong công việc tu hành, phải trải qua 2 giai đoạn:
-  Giai đoạn làm công quả.
-  Giai đoạn luyện đạo.

1 .  Giai đoạn làm công quả.
Làm công quả là làm tất cả công việc có tính cách giúp người giúp đời mà không nhận sự đền đáp bằng tiền bạc hay vật chất nơi cõi trần nầy, mà chỉ mong nhận được kết quả tốt đẹp cho phần linh hồn nơi cõi thiêng liêng.

Trong việc công quả nầy, trước hết là phải lo phổ độ nhơn sanh bỏ ác theo lành, nhập môn vào Đạo, và tiếp theo là lo giúp đỡ nhơn sanh về đời sống vật chất và tinh thần, gọi chung là phụng sự nhơn sanh. Giai đoạn làm công quả nầy còn được gọi là : Ngoại giáo công truyền.

Chúng ta tùy theo khả năng và sở thích, có thể lựa một trong ba cơ quan để làm công quả sau đây :
a) Cửu Trùng Đài :
Chúng ta làm công quả đi từ phẩm thấp nhất là Đạo hữu, lần lần lên Chức việc Bàn Trị Sự. Khi đủ công nghiệp thì cầu phong lên hàng Lễ Sanh, rồi tiếp tục làm công quả để tiến lên hàng Thánh thể của Đức Chí Tôn, sau cùng được thăng lên các phẩm cao cấp là : Đầu Sư, Chưởng Pháp, đứng vào Tiên vị. Làm công quả để tiến hóa như vậy gọi là đi theo phẩm trật Cửu phẩm Thần Tiên hay Cửu Thiên Khai Hóa. Trong số các Chức sắc tiền bối, Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh (1906-1985) đã làm công quả trong hơn 30 năm, đi từ phẩm Đạo hữu, rồi Chánh Trị Sự và sau cùng lên tới phẩm Đầu Sư.

b) Hiệp Thiên Đài :
Nếu chúng ta muốn làm công quả nơi HTĐ thì phải thi tuyển vào phẩm Luật Sự của Bộ Pháp Chánh, rồi dần dần lập công, thăng lên phẩm Sĩ Tải, đi hết 7 phẩm cấp của Bộ Pháp Chánh là đến Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, sau cùng có thể tiến lên phẩm vị Thời Quân khi có công phổ độ một nước, và được ân phong đặc biệt của Đức Chí Tôn.

c) Cơ Quan Phước Thiện :
Nếu muốn lập công nơi CQPT, chúng ta phải xin giấy chứng nhận do Bàn Trị Sự và Tộc Đạo nơi mình ở cấp cho, rồi nạp hồ sơ vào cơ sở Phước Thiện mà mình muốn lập công, làm Tờ Hiến Thân vào Hội Thánh Phước Thiện.

Người mới vào làm công quả nơi cơ sở lương điền hay công nghệ của CQPT thì gọi là Đạo sở. Sau thời gian 6 tháng thì được vào Minh Đức, là phẩm thấp nhứt trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của CQPT. Làm công quả nơi CQPT gọi là tiến hóa theo Thập nhị đẳng cấp th. liêng.
* Ngoài ra những vị Đạo hữu nào có tay nghề chuyên môn đặc biệt như nghề đờn, nghề xây dựng, . . . thì có thể xin lập công quả nơi các cơ quan chuyên môn của Đạo như : Bộ Nhạc Lễ, Ban Kiến Trúc, vv. . . .

2.  Giai đoạn tu luyện.
Khi đã lập công bồi đức đầy đủ rồi thì mới được tuyển vào Tịnh Thất, có Tịnh chủ dạy cho luyện đạo.
Trong phép luyện đạo của Đạo Cao Đài, Tịnh chủ dạy cho cách luyện Tam bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt, để được Tam hoa tụ đảnh, Ngũ khí triều nguơn, tạo được chơn thần huyền diệu, có thể xuất nhập thể xác tùy ý mà vân du đến các cõi thiêng liêng. Ấy là đắc đạo tại thế.
Nhưng làm sao biết được có công đức đầy đủ ?
Đức Phạm Hộ Pháp giải thích : “ Trước khi vào tịnh thì phải có đủ Tam Lập : Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn.
Nơi cửa Đạo đặt ra việc chi đều hữu ích cả, mượn Thể Pháp tượng trưng mới đoạt Bí Pháp. Trước kia Bần đạo Lập Phạm Môn tại Tòa Thánh tượng trưng cửa Phật độ sanh hồn, tức nhiên gọi Phật; Minh Thiện Đàn mở tại Khổ Hiền Trang, Bần đạo khai Thể Pháp tại đó, gọi là Pháp, Phước Thiện ngày nay đã ra thiệt hiện, tức nhiên ra mặt xã hội, gọi là Tăng, thì nó sẽ bành trướng vận chuyển lưu hành cùng khắp xã hội nhơn quần, nghĩa là phải phụng sự toàn thể chúng sanh, tế khổ phò nguy, đi Đầu Họ Đầu Quận làm hậu thuẫn cho Hội Thánh CTĐ, lo cơ tận độ, chỉ có công phổ độ mới giải quả tiền khiên. Ai không xuất thân hành đạo, tức là không có công phổ độ thì không vào tịnh được, vì không đủ Tam Lập.

Trước khi xin vào, phải nạp tất cả giấy tờ hành đạo, lai lịch từ thuở nhỏ đến trưởng thành, ở ngoài Đời không án tiết, trong cửa Đạo cũng vậy, trọn tùng luật pháp Đạo và trường trai mới được, rồi giao cho Pháp Chánh minh tra về Thể Pháp đủ bằng chứng.

Chi Pháp phải giữ hồ sơ của mỗi người, còn nhiều điều trọng yếu về vô vi, không thế gì Chi Pháp biết đặng, chiếu văn kiện thì đầy đủ lắm vậy, Chi Pháp chỉ biết văn bằng hiện hữu về mặt hữu hình mà thôi.

Khi minh tra đủ lẽ, mới giao cho Hộ Pháp cân thần, nếu vị nào đủ Tam Lập thì vào tịnh được, bằng thiếu thì trở lại đi Đầu Họ, Đầu Quận, đi hành đạo nữa.

Nói rõ là phải có Hộ Pháp trục thần khai khiếu mới biết đặng đủ hay thiếu Tam Lập, còn không thì ngồi tịnh, bụng lớn vô ích.” (Trích Diễn Văn và Thuyết đạo ĐHP trang 163)
Chú thích : CÂN THẦN : Cân thần là Đức Hộ Pháp trục chơn thần của một vị công quả để Đức Ngài dùng cặp mắt thiêng liêng xem xét tánh chất của vị công quả đó. Có tất cả 12 tánh chất :
1 . Hạnh            4. Lực                7. Thân         10. Căn
2 . Đức              5. Tinh               8. Tín            11. Kiếp
3 . Trí                6. Thần               9. Mạng        12. Số.

Đức Hộ Pháp chỉ cần 4 tánh chất đầu. Thí dụ nếu có được :
1 . Hạnh : 5 điểm.         3. Trí  :  4 điểm.
2 . Đức   : 6 điểm.         4. Lực : 7 điểm.
Tổng cộng : 22 điểm, chia 4 để lấy trung bình = 5,5 điểm.

Như vậy là đậu, tức là xem như “đủ Tam lập”.
Giai đoạn học Bí pháp luyện đạo trong Tịnh Thất còn được gọi là : Nội giáo vô vi, hay Tâm pháp bí truyền.

IV . Phương pháp tu hành thời Đại Ân Xá

Tuy Đức Phạm Hộ Pháp đã dự bị Tịnh Thất để lo về phần luyện đạo, nhưng trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn, Đức Chí Tôn miễn cho phần luyện đạo, nghĩa là : các môn đệ của Đức Chí Tôn chỉ lo làm công quả, phụng sự nhơn sanh, đến khi thoát xác thì Đức Chí Tôn sẽ căn cứ trên Bộ Công quả của mỗi người (do chư Thần, Thánh biên chép) mà Đức Chí Tôn sẽ ban những phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng.

Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn :
“ Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc đạo phải có công quả. Thầy  đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ.”  (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 17)

Tuy Đức Chí Tôn không nói trắng ra là bỏ môn luyện đạo, nhưng Đức Chí Tôn cấm chúng ta luyện đạo, và lập một trường thi công quả cho chúng ta đắc đạo. Điều nầy đã quá rõ rồi. Cho nên, nếu trong chúng ta có người còn lo ngồi thiền luyện đạo trong thời kỳ Đại Ân Xá nầy thì chỉ mất thời giờ quí báu của đời sống một cách vô ích.

Tùy theo công quả nhiều ít mà Đức Chí Tôn lập ra 4 cấp giải thưởng : Thần, Thánh, Tiên, Phật. Công quả càng nhiều thì phẩm vị càng cao.

Trong thời kỳ nầy, khi chúng ta lo làm công quả phụng sự nhơn sanh thì giống y như là chúng ta ký hợp đồng làm mướn cho Đức Chí Tôn, không phải để lấy tiền, mà là để đổi lấy phẩm vị thiêng liêng, bằng cách phụng sự các con cái của Người về tất cả các phương diện : đời sống vật chất, tinh thần và linh hồn.

Nhưng điều quan trọng trước tiên là phải tìm cách phổ độ, đem con cái của Người từ đường dữ trở lại đường lành, nhập môn vào cửa Đạo, ăn chay hành thiện.

- Về Đời sống vật chất: Đói phải cho ăn, rách phải cho mặc, lạnh phải cho mùng mền, bịnh phải cho thuốc, . . vv . . . Đó là việc làm của các vị công quả trong CQPT.

- Tinh thần đau khổ, buồn chán, thì phải có người  an ủi, vỗ về, giải thích cho biết con người nơi cõi trần phải chịu trong vòng Tứ Khổ và lẽ luân hồi quả báo, cố gắng vượt qua để rồi sẽ gặp điều vui sướng tốt đẹp. Đó là công việc giáo hóa của các Chức sắc CTĐ.

Hai phần trên gọi là Độ Sanh, tức là cứu giúp về phần đời sống của thể xác, đến khi chết còn phải Độ Tử nữa, tức là cứu giúp phần linh hồn.

- Khi nhơn sanh có người chết thì Bàn Trị Sự hương  đạo và bổn đạo làm công quả phải lo kinh kệ độ hồn, cầu siêu, làm các phép bí tích, vv . . . rồi phải lo chôn cất, xong rồi phải làm Tuần cửu, Tiểu tường và Đại tường mãn tang.

Lo cho các con cái của Đức Chí Tôn được như vậy mới là trọn vẹn, và chắc chắn Đức Chí Tôn sẽ trả công cho chúng ta rất xứng đáng.

V . Cách lập Thiên vị : tu Tam lập

Thiên vị là phẩm vị nơi cõi Trời, tức là phẩm vị nơi cõi thiêng liêng hằng sống.

Tam lập là ba điều lập nên, không bao giờ hư hoại, nên được gọi là Tam bất hủ, được truyền mãi về sau.
“ Con người sanh ra trên mặt địa cầu nầy mà không có Tam lập (Lập đức, Lập công, Lập ngôn) thì giá trị con người không có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã hội nhơn quần được.

Nếu con người không có Đức thì làm sao xử sự trong gia đình và ngoài xã hội đặng.
Người không có Công thì ở với ai cũng không được. Người ta làm ngã ngửa, còn mình ngồi đó hả họng hưởng, không làm gì có nghĩa với người, với đời thì sống với ai ?

Cũng như người ta chơn chất thật thà, hiền lương đạo đức, còn mình thì xảo ngữ, lường gạt, không chút dạ nhơn từ, thì dầu cho người có tài tình đến mấy mà thiếu ba điều đó thì không thể gì sống với ai được hết, như vậy thì địa vị mình tại mặt thế nầy chưa rồi. “ (TĐ.ĐPHP)

Muốn lập phẩm vị cho mình nơi cõi thiêng liêng trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn thì chúng ta phải tu Tam lập. Đức Chí Tôn đã miễn cho môn luyện đạo, nên người tín đồ Cao Đài chỉ cần đủ Tam Lập là đắc đạo.

 Sau khi chấm dứt thời kỳ Đại Ân Xá, tín đồ có đủ Tam Lập phải vô Tịnh Thất luyện đạo thì mới đắc đạo.

Trong Tam Lập, ba Lập ấy tương quan mật thiết với nhau, khó tách rời ra được, vì nếu tách riêng ra thì không thể thi hành. Cho nên, khi nói Lập đức hay nói Lập công thì chúng ta ta ngầm hiểu là phải bao gồm cả Tam lập.

Trong bài Kinh Tụng Cha Mẹ đã qui liễu, có câu :
Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

Chữ Lập đức trong câu kinh nầy, chúng ta phải hiểu bao gồm cả Tam lập : lập đức, lập công, lập ngôn.
Câu kinh trên cho chúng ta biết rằng, một người dù nam hay nữ, nếu quyết chí tu hành, phế bỏ việc đời, hiến thân hành đạo, miệt mài lập đức bồi công, thì nhứt định sẽ cứu được Cửu Huyền Thất Tổ và cứu được cả linh hồn của cha mẹ thoát khỏi cảnh đọa đày và được siêu thăng lên cõi thiêng liêng hằng sống.

Có ba chứng minh sau đây của ba vị : - Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, - Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, - Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu.

1 - Bài Thánh ngôn Đức Chí Tôn dạy Bà Hương Hiếu đi hành đạo, ngày 7-giêng-Bính Dần (1926) :
“ Đức Chí Tôn dạy Bà Hương Hiếu đi hành đạo, phổ độ nhơn sanh. Bà Hương Hiếu bạch với Thầy rằng :
-  Má con mắc ở xa, làm sao con đi độ được ?
Thầy : - Hiếu ! Con biết một lòng tu niệm đạo đức của con đủ cứu Cửu Huyền Thất Tổ rồi, huống là mẹ con, để Thầy định đoạt, con đừng lo buồn.”  (Trích  ĐS. I. 36)

2 - Trong một đàn cơ, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung hỏi Bát Nương :
- Bát Nương vui lòng cho biết : Thân phụ và thân mẫu của Qua có được siêu thăng không ?  Giờ đây ở đâu ?
Bát Nương đáp : - Em chỉ nói bằng thơ, nếu anh giảng trúng thì nói nữa, còn trật thì lui.
Đức Quyền Giáo Tông năn nỉ : - Nếu Qua nói trật thì Em thương tình mà chỉ dẫn để cho Qua học thêm với.
Bát Nương nói :
Bạch Y Quan nay sanh Cực Lạc,
  phụ  cùng  bá mẫu đặng an.

Đức Quyền Giáo Tông nói :
- Như vậy là thân phụ và thân mẫu của Qua trước ở cõi Bạch Y Quan, nay đã sang ở yên nơi Cực Lạc Thế Giới.
- Đúng đó, ấy là nhờ công tu luyện của anh nên bá phụ và bá mẫu siêu thăng nơi Cực Lạc.
3 - Thân mẫu của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu xin phép Đức Chí Tôn giáng cơ để tỏ cho Ngài Hậu biết, nhờ công quả của Ngài mà Bà được siêu thăng lên Đông Đại Bộ Châu.

Ngày 19-2-1929 (âl 10-1-Kỷ Tỵ).  Phò loan : Bảo Pháp-Hiến Pháp.
Mẹ mừng con, Mẹ cám ơn con đó.
Con đâu rõ đặng, ngày nay Mẹ nhờ công con mà đặng thăng cấp. Nay Mẹ đặng vào Đông Đại Bộ Châu. Ấy cũng nhờ ơn của Chí Tôn rất thương mà cho Mẹ vào phẩm ấy. Mẹ chẳng biết lấy chi mà thông công cho hai con và các cháu, nên mới dụng huyền diệu mà Mẹ đã cầu xin Chí Tôn ban cho Mẹ đặng cho con cùng cháu hay rằng, Đức Chí Tôn đã giữ lời hứa cùng con. Nay Mẹ đến khuyên hai con khá lo sao cho tròn phận sự, ngày thêm vun đắp nền Đạo đặng báo đáp Ơn Trên đã hết lòng vì cả nhà ta. Nếu con có lòng ấy thì Mẹ rất vui lòng đó, con hiểu...
Mẹ rất vui thấy lòng con nên Mẹ mới xin phép Chí Tôn đến đây tỏ ít lời cho con hiểu. Vậy con khá an lòng mà lo Đạo, chớ nên vì việc nhỏ mà nao chí nghe !
Tôi chào nhị vị Thánh (nói với Nghĩa và bác vật Lang). Tôi chẳng biết lấy chi cám cảnh cho bằng dùng vài lời nhắc đây : Xin nhị vị khá hết lòng lo hiệp tác mà nâng cao địa vị mình càng ngày cho tột phẩm.

Tôi đây chẳng chi xứng phận mà cũng nhờ ơn Chí Tôn thương tưởng thay ! Ấy cũng nhờ sức con mới đặng vậy, không thì biết sao mà kể xiết.

Ấy đó, công của nhị vị càng dày thì Chí Tôn càng yêu dấu. Xin khá để hết tâm chí mà hành phận sự. Ấy là lời tôi xin nhị vị khá để ý.  (Hỏi về việc ông thân tôi, Ngài Bảo Pháp hỏi.)
- Mẹ không dám nói. Thôi Mẹ lui.
(Trích Thánh Ngôn chép tay của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu)

Ba câu chuyện của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu đã minh chứng câu : “ Nhứt nhơn đắc đạo Cửu Huyền thăng.” (một người tu hành đắc đạo thì Cửu Huyền Thất Tổ của người đó đều được siêu thăng).
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng giải về Tam Lập,  trích ra sau đây :
" - Mình học để biết Đạo là Lập Đức, nói Đạo cho thân tộc mình biết là Lập Công, độ toàn nhơn loại là Lập Ngôn. Có làm đủ ba điểm đó mới về được với Đức Chí Tôn bằng con đường Cửu Thiên Khai Hóa."
" - Lập Đức thì phải nhớ đạo lý. Lập Công thì phụng sự nhơn sanh. Lập Ngôn thì để hết trí óc tìm hiểu về triết học tinh thần, tìm tòi mọi lẽ cao sâu để thuyết minh Chánh giáo."
" - Phương pháp Tam Lập, nói rõ ra là chỉ đem mảnh thân nầy làm tế vật cho Đức Chí Tôn đặng phụng sự nhơn loại. Nếu giải rõ rất nhiều chi tiết, để có dịp Bần đạo sẽ thuyết minh hoặc viết sách in ra cho học hỏi."
" Còn mấy em đây là trung phẩm chi nhơn, giáo nhi hậu thiện, mấy em tạo thiện đức được là biết nghe lời Hội Thánh. Người ta có tài thì làm việc hay, còn mình dở thì làm việc thường.

Bần đạo tỉ dụ một việc thường để cho mấy em dễ hiểu. Phận mình dốt thì làm theo dốt. Muốn tạo thiện đức, thiện công, thiện ngôn, là như vầy :

Mình nghe đâu có cất chùa, thì mình tự tính đi đến đó xin làm công quả. Mình nghe đâu đó bị tai nạn khốn khổ thì trong đêm ấy nằm tính và thương xót, nghe chỗ đó bị tai nạn, mình định sáng ngày mai, rủ anh em hay tự mình đi, dầu sáng ngày tằm sắp chín hoặc có mối lợi gì đó cũng bỏ đi, để đến trợ giúp tai nạn. Đó là thiện đức, nghĩa là khi mình tính.

Khi đến, mình nói như vầy: “Thưa anh, tôi nghe anh bị tai nạn, tôi đến để xin phép giúp anh một ngày, hoặc là vác một cái cây, hoặc giúp một đồng bạc, vậy thì anh vui lòng cho tôi giúp với một nghĩa mọn.” Khi mình nói là Thiện ngôn, khi mình làm là Thiện công. Chớ không phải ỷ có tiền rồi nói sổ sàng: “Đây tôi cho anh một đồng mua gạo ăn đỡ đói.” Như vậy là chưa Thiện ngôn.

Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài, trong buổi đầu là thời kỳ Đại Ân Xá, nên Đức Chí Tôn lập một trường thi công quả (hay trường thi công đức) cho nhơn sanh đắc đạo. Đức Chí Tôn miễn cho môn thi luyện đạo vì môn nầy rất khó, chỉ cần có đủ công quả là Đức Chí Tôn cho đắc đạo.

Việc lập công quả hay công đức là thuộc về Tam Lập, vì Lập đức, Lập công và Lập ngôn gắn liền nhau, không thể tách rời ra từng phần được. Do đó, thi Lập công quả hay thi Lập công đức chính là thi Tam Lập.

Người tín đồ Cao Đài là những sĩ tử tham dự kỳ thi nầy, nên cần phải luyện tập ba môn thi nói trên cho hay cho giỏi. Làm bài trúng, được điểm cao, được chấm đậu thì Đức Chí Tôn ban thưởng cho các phẩm vị tương xứng.

Nếu các sĩ tử không lo rèn luyện các môn thi chánh thức nầy, lại xem thường nó, rồi rèn luyện các môn khác không sử dụng trong kỳ thi như môn Luyện đạo, thì rất uổng phí thời gian cho một kiếp sanh may duyên gặp Đạo.

Trong kiếp sanh nầy, muốn đắc đạo tức là thi đậu thì phải lo học tập và thực hành Tam Lập. Việc nầy cũng rất khó khăn, nhưng không phải không làm được, muốn thực hiện thì phải có một quyết tâm lớn, một ý chí kiên cường nhẫn nại và một tấm lòng hy sinh.
- Quyết tâm là để không lùi bước trước khó khăn, vượt qua các thử thách do bọn Tà quyền gây nên.
- Ý chí kiên cường nhẫn nại là để thắng dục vọng thấp kém, tình cảm yếu hèn của mình, kềm hãm lục dục thất tình, hướng chúng vào đường cao thượng.
- Lòng hy sinh là để thắng cái Ta hẹp hòi ích kỷ. Hy sinh là để hiến dâng tất cả những gì quí báu của đời mình cho Đạo pháp, cho nhơn sanh. Sự hy sinh đó sẽ làm dứt hết các phiền não, đem lại cho tâm hồn sự an lạc nhẹ nhàng.

TNHT:  ĐĐTKPĐ chẳng khác chi một trường thi công quả. Nếu biết ăn năn trở bước lại con đường sáng sủa, giồi tâm, trau đức, đặng đến hội diện cùng Thầy thì mới đạt đặng địa vị thanh cao trong buổi chung qui đó. (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 48)

VI . - Lập Đức * Lập Công * Lập Ngôn
1) . Lập Đức
Nói riêng về việc Lập đức, trong Đạo Cao Đài, muốn lập đức cho được trọn vẹn thì phải theo con đường Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện.

Trong Con Đường thiêng liêng hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng giải như sau :
“ Lập vị mình theo Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, tức là theo Hội Thánh Phước Thiện. Nơi đây, ngoài việc ăn chay, giữ gìn luật đạo, tùng theo chơn pháp của Đức Chí Tôn, còn phải dùng đức để lập vị mình.
Muốn lập đức, phải đi từ Minh Đức, Tân Dân, Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Chí Thiện, vv. . .
Lập đức là gì ? là dùng sự thương yêu để cứu độ chúng sanh, mà Đức Chí Tôn đã có nói : “ Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh”.
Các đẳng chơn hồn tái kiếp đang chơi vơi trong Tứ Khổ. Muốn thoát khổ, họ phải thọ khổ, có thọ khổ mới thắng khổ. Người tu đi theo Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng là dạy người ta thọ khổ để thắng khổ. Muốn dạy người ta thọ khổ, trước hết mình phải thọ khổ đã. Muốn thọ khổ thì không gì hay hơn là dùng đức thương yêu. Cho nên bậc thứ nhứt của Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng là Minh Đức. Có thương yêu mới thọ khổ được. Ta thương cha mẹ ta, ta mới chịu khổ mà bảo dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, ta thương con ta, ta mới lo tảo lo tần nuôi nó khôn lớn, ta thương những người cô thế tật nguyền, ta mới tầm phương giúp đỡ họ, mà tầm phương giúp đỡ họ là thọ khổ đó vậy.

Thọ khổ rồi mới thắng khổ. Thọ khổ không phải một ngày một bữa, mà phải thọ đến nơi đến chốn, nghĩa là nuôi cha mẹ cho đến tuổi già, lo cho con từ bé cho tới lúc nó tự lo cho nó được. Hai điều đó còn dễ, đến lo cho thiên hạ hết khổ mới khó, vì khi lo cho người nầy thì lại đến người khác, và cứ như vậy, trọn kiếp sanh mới gọi là thắng khổ.
Có thắng khổ mới về được với Đức Chí Tôn bằng con đường Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng.”

 Có học mới biết phương Lập đức. Đức có Đại đức và Tiểu đức. Đại đức như nước biển cả, thấm đều khắp muôn vật. Tiểu đức như nước trong ao, thấm có giới hạn. Tiểu đức chỉ cảm hóa ít người; Đại đức bao trùm cả thiên hạ.
Muốn Lập đức thì nên lấy bố thí làm phương tiện.
Bố thí gồm : thí tài, thí công, thí ngôn, thí pháp.
. Thí tài là đem tiền của ra giúp khó trợ nghèo.
. Thí công là đem sức lực ra làm việc giúp người.
. Thí ngôn là đem lời nói mà giúp ý kiến hay cho người để giải quyết những khó khăn của người.
. Thí pháp là đem lẽ Đạo thuyết minh để cảm hóa, giáo dục người trở nên lành. Những cách bố thí trên, chỉ có Thí pháp là có nhiều công đức hơn cả.

Giúp người đói, giúp người hết khổ hay thoát khỏi tai nạn, cũng chỉ qua một thuở mà thôi, duy chỉ có đem đạo lý ra hóa độ người dữ ra hiền, người mê muội ra giác ngộ, lo  tu hành để thoát vòng sinh tử luân hồi thì công đức ấy đời đời chẳng mất.

Lập đức phải đứng trên quan điểm VÔ NGÃ, tức là quên mình mà lo cho người, chẳng cầu người trả, chẳng nghĩ đó là công đức do ta làm.
Muốn lập đức trên phương diện Thí pháp, cần phải có quyết tâm lớn trên đường tu học. Phải học cho thông, phải hiểu cho rành, quán thông từ Nhơn đạo đến Thiên đạo. Phải cầu bậc cao minh mà thọ giáo. Chớ nên tự mãn, mới học nhom nhem nửa câu mà tự cho rằng mình biết hết, rồi đem cái biết thô thiển đó truyền thụ cho người thì tai hại vô cùng, không lập đức được mà lại còn tổn đức.

Ngày nào học thông chánh lý, lòng thông suốt, trí hiểu rành, chẳng còn gì trái với chơn ý của Thánh nhân, ấy là thể theo Thánh nhân mà nói lại lời của Thánh nhân.

Nếu là kẻ mê tín thì ta lấy Chánh tín mà độ họ; nếu là kẻ tư dục thì ta đem công lý giải bày; nếu là kẻ tham lam thì ta đem việc Thí tài mà giảng giải; nếu là kẻ sân hận thì ta đem pháp nhẫn nhục mà độ; nếu gặp kẻ chẳng may lạc vào Tả đạo Bàng môn thì ta đem Chánh đạo mà khai hóa; nếu là người si mê thì ta đem Chánh lý mà mở mang trí tuệ cho họ.

Giáo dục có nhiều phương pháp, phải tùy duyên mà hóa độ, tùy bệnh mà lập phương trị liệu, bệnh nào thuốc nấy. Chữa bệnh về thân xác thì có lương y; chữa bệnh về Tâm thì chỉ có Thánh nhân. Thánh nhân chữa cả Tâm lẫn thân, thân tâm hiệp trị. Nếu thân chưa trị thì Tâm khó trị. Vì vậy nên thân Tâm phải hiệp trị.

Khi lập đức thì phải lập từ đức nhỏ đến đức lớn.
Đức nhỏ là hóa độ người trong nhà. Đức lớn là cảm hóa nhiều người trong thiên hạ. Đức lớn là đức của bậc Thánh nhân, đức nhỏ là đức của bậc Sĩ, bậc Hiền.

Đức lớn sáng soi khắp Trời Đất, chói lọi như ánh Thái dương, nên gọi là Minh Minh Đức. Có Minh Minh Đức mới xây dựng được một thế hệ tươi đẹp, mới đào tạo được giống dân mới gọi là Tân Dân. Tân Dân cũng là thân dân, là thương người như thương mình hay như thương người thân của mình. Vua Nghiêu hằng nói với quần thần : “ Các Khanh hãy thương yêu dân như thương yêu Trẫm, dân đói là Trẫm đói, dân rét là Trẫm rét.”

Như vậy, đời sao không thạnh trị ?  Quần thần khi nghe lời nói của Đấng Minh quân như thế thì ai mà chẳng xúc động. Toàn thể quốc dân nghe được lời nói của vua như thế thì ai mà chẳng động lòng. Động lòng vì Đức cả, Nhân lớn, nên cả thảy đều lo tích Đức tu Nhân, mọi người đều no cơm ấm áo. Chẳng còn nghèo, chẳng còn đói, thì đâu còn cảnh trộm cướp, mà chỉ đua nhau làm Nhân, làm Nghĩa, nên nhà nhà  không đóng cửa, ngoài đường không ai lượm của rơi, người người thảnh thơi mà an hưởng cảnh thanh bình trời Nghiêu đất Thuấn.

2) . Lập Công :
Lập Công là đem sức lực và sự hiểu biết của mình ra làm việc phụng sự nhơn sanh.
Việc Lập Công chia làm 3 phần : Công phu, Công quả, Công trình.
Phần Công quả là quan trọng hơn cả, vì Đức Chí Tôn có nói nhiều lần rằng : Đức Chí Tôn mở ĐĐTKPĐ là lập một trường thi công quả cho nhơn sanh đắc đạo. Đắc đạo cùng chăng là do công quả. Muốn làm giàu thì phải tìm cách làm ra của cải cho nhiều, muốn làm Tiên Phật thì phải có công quả.

Công quả muốn được chánh danh và đúng nghĩa thì phải là công quả xuất phát từ lòng tự giác tự nguyện, thiết tha với nó, xem nó là nguồn sống,là mục đích của đời mình.

Mỗi người tùy theo khả năng chuyên môn mà làm công quả. Trong đạo có biết bao nhiêu công việc, đủ mọi ngành nghề, đủ mọi trình độ, từ lao động trí thức cho đến lao động chân tay, ai có sở trường trong công việc nào thì xin vào làm công việc đó cho đạt được mau chóng nhiều kết quả tốt đẹp.

TNHT: " Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào có trí lực bao nhiêu, khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng cái điểm linh quang của Thầy ban cho các con lắm." (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 74)

Và Đức Chí Tôn cũng có hứa rằng : " Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần."
Hành đạo nơi CTĐ chủ yếu là Lập công để lập Thiên vị của mình nơi cõi thiêng liêng. Muốn Lập công cho kết quả mỹ mãn, người tín đồ cần lưu ý các điều sau đây :

- Thứ nhứt, tự rèn luyện khả năng hiểu biết đạo lý để dẫn dắt người chưa biết đạo hay chưa hiểu đạo đi vào con đường đạo đức như mình. Đó là tự giác nhi giác tha, tức là mình tự giác ngộ lấy mình rồi sau giác ngộ người khác.

- Thứ nhì, phải gìn giữ sức khỏe cho được tráng  kiện, dẽo dai, để làm điều thiện không mệt mỏi, phụng sự Đạo và nhơn sanh không ngừng nghỉ và đắc lực.

Nếu đau ốm liên miên, chẳng những mình không lập công được mà lại để cho nhơn sanh giúp lại mình, tự nhiên mình phải mất phần công đức hay mang nợ nhơn sanh.

1 . Công phu : Phần Công phu gồm hai việc :
- Học tập kinh sách để thông hiểu giáo lý và luật pháp của Đạo.
- Cúng Đức Chí Tôn vào Tứ thời : Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu.

a. Học tập kinh sách  Đạo :
.  Kinh thì có Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.
. Luật thì có Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Bát Đạo Nghị Định, Đạo Luật năm Mậu Dần, Luật Hội Thánh.
. Giáo lý thì có các sách : TNHT 1 và 2, Thánh Ngôn Sưu tập, Thuyết Đạo của Đức Phạm Hộ Pháp, Giáo lý của Tiếp Pháp Trương Văn Tràng, Thiên Đạo của Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, Chánh Trị Đạo của Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, vv. . .
Việc học tập kinh sách có mục đích mở mang thể Trí của tín đồ.

b . Cúng Đức Chí Tôn vào Tứ thời :
Chúng ta cố gắng cúng Đức Chí Tôn nơi Thiên bàn tại nhà chúng ta vào Tứ thời : Tý, Mẹo, Ngọ, Dậu. Nếu còn bổn phận lo lắng nhiều về công quả thì cũng phải ráng cúng mỗi ngày được 2 thời.

Việc Tứ thời Công phu nầy rất quan trọng, vì lúc đó chơn thần chúng ta hấp thụ thanh điển của Trời.
Như vậy, việc công phu hằng ngày giúp cho người tín đồ sớm mở được Trí huệ, tức là cái trí càng ngày càng thêm sáng suốt.

2 . Công quả :
Tấùt cả việc làm giúp người giúp đời mà không nhận sự đền đáp, phụng sự Đạo, phụng sự nhơn sanh, dù phạm vi nhỏ hay lớn, đều gọi là Công quả, vì những việc nầy tạo ra kết quả tốt đẹp cho linh hồn nơi cõi thiêng liêng.

Công quả muốn được chánh danh và đúng ý nghĩa của nó thì phải là công quả phát xuất từ lòng tự nguyện,  thiết tha với nó, xem nó là mục đích của đời mình.

Thường thấy nơi thế gian nầy có những thứ công quả mà người có tiền mượn làm, người không tiền đi làm giùm. Nếu giá trị công quả ấy đúng với lẽ công bình của Tạo hóa thì Thái tử Sĩ Đạt Ta ngày xưa có thể mở kho đem các vật báu ra mượn người khác làm giùm cho mình đắc đạo, cần chi phải bỏ ngôi Thái tử, đi chu du thí pháp.

Cái giá trị của Công quả là phải từ tận đáy lòng, thiết tha phát khởi mà làm, dầu có phương tiện hay hoàn cảnh giàu sang, dầu trong cảnh nghèo nàn túng bấn, mà tận đáy lòng mình thiết tha với công quả thì công quả ấy mới có giá trị cao và bền vững.

Điều cần nhứt trong việc lập công quả là không nên khoe khoang cho người ngoài biết, nên làm việc âm thầm để công quả ấy là âm chất hay âm công thì người làm mới hưởng được trọn vẹn nơi cõi thiêng liêng.

Mình phải vừa làm công quả, vừa kêu gọi người khác làm chung với mình, chớ không phải đưa ra giải pháp cho người khác làm, trong lúc đó mình đi làm việc khác.

Làm công quả phụng sự nhơn sanh là thể hiện đức tánh Từ Bi. Càng làm công quả thì thể Bi trong mỗi người chúng ta càng phát triển và phải tiếp tục làm cho nó phát triển mãi, để cuối cùng hòa nhập được vào khối thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn.

3 . Công trình :
Công trình là việc lập hạnh tu hành, bao gồm việc gìn giữ giới luật như : Ngũ Giới Cấm, Tứ Đại Điều Qui, Thế Luật, việc ăn chay kỳ hay ăn chay trường.

Việc lập hạnh đòi hỏi người tu phải có ý chí mạnh mẽ, hùng dũng mới thắng nỗi những sự yếu hèn và ham muốn của thể xác, do lục dục và thất tình xúi giục gây ra. Thể xác lúc nào cũng muốn tự tung tự tác, sung sướng thoải mái, chớ đâu chịu bó mình trong Giới luật.

Do đó, việc lập hạnh tu hành là thể hiện cái Dũng của con người. Cần phải dũng cảm chiến thắng sự đòi hỏi buông lung của thể xác. Không có chiến thắng nào vẻ vang hơn chiến thắng được dục vọng của mình.
Tóm lại :  -  Công quả là thể hiện đức BI,
     -  Công phu  là thể hiện đức TRÍ,
     -  Công trình là thể hiện đức DŨNG.

Tam công : công phu, công quả, công trình, liên hệ mật thiết nhau, quan trọng như nhau, giống như Bi, Trí, Dũng, không thể tách rời, không thể bỏ sót phần nào được, mà phải phát triển song song nhau thì sự tiến hóa tâm linh mới nhanh chóng và mau đắc quả.

3)  .  Lập Ngôn :
Lập Ngôn là nói lời chơn thật, chánh đáng, có đạo đức để người nghe phát tâm theo đạo tu hành.
Lời nói thốt ra từ cửa miệng gây ra Khẩu nghiệp.
Trong Tam nghiệp : Thân nghiệp, Ý nghiệp, Khẩu nghiệp, thì Khẩu nghiệp dễ mắc phải nhứt, vì lời nói không mất tiền mua, nên người ta cứ phát ngôn bừa bãi. Nhưng người tu nên nghĩ rằng : lời nói không tốt sẽ gây ra Khẩu nghiệp, cũng nặng nề như Thân nghiệp và Ý nghiệp.

Cho nên khi nói ra lời nào, phải suy nghĩ cho cẩn thận, xem lời nói đó có chơn thật không, có gây thiệt hại hay phiền giận cho ai không.

Bên Tây phương có một câu cách ngôn làm lời khuyên rất quí báu : "Trước khi nói hãy uốn lưỡi bảy lần." (Il faut tourner sept fois sa langue dans sa bouche avant de parler)

Nho giáo có dạy rằng: “Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, nhứt ngôn khả dĩ táng bang”. (Một lời nói có thể làm nước hưng thịnh, một lời nói có thể làm nước mất). Câu nói nầy để cảnh giác các vị vua khi nghe lời tâu cáo của quần thần, phải phân biệt lời nào trung quân ái quốc xây dựng đất nước, lời nói nào sàm nịnh của kẻ gian thần hại nước.

Nhứt tinh cho hỏa năng thiêu vạn khoảnh chi sơn, bán cú phi ngôn ngộ tổn bình sanh chi đức. (Một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy muôn khoảnh núi rừng, nửa câu nói bậy làm hại cả cả đức bình sanh).

Đức Chí Tôn cũng thường dạy: "Thầy dạy các con phải cẩn ngôn cẩn hạnh, thà là các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể." (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 144)

Người tín đồ Cao Đài muốn Lập Ngôn đúng đắn thì phải nghiêm chỉnh tuân theo giới cấm thứ 5 trong Ngũ Giới Cấm : Ngũ bất vọng ngữ.
 “ Ngũ bất vọng ngữ là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng thô tục, chửi rủa người, hủy báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa."

Tóm lại, muốn tạo được ngôi vị thiêng liêng cho mình thì chúng ta phải tu Tam lập, tức là phải Lập đức, Lập công, Lập ngôn, rồi lo công phu, công quả, công trình, nói tóm một lời là : Lập thân hành đạo, Xả thân giúp đời.

Việc xả thân giúp đời có hai sở dụng :
- Trả quả : trả dứt hết các món nợ oan nghiệt mà mình đã gây ra từ nhiều kiếp trước.
- Lập vị thiêng liêng : công quả càng dày thì địa vị thiêng liêng càng cao trọng.

Tu Tam lập là phương pháp tu cốt yếu của Đạo Cao Đài trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn.

Khi chúng ta tụng Ngũ Nguyện trong mỗi thời cúng Đức Chí Tôn là chúng ta nguyện tu Tam lập :
- Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai : Muốn hoằng khai Đại Đạo thì phải thuyết giảng giáo lý, viết sách truyền bá cho mọi người biết, đó là Lập ngôn.
- Nhì nguyện phổ độ chúng sanh: đó là Công quả.
- Tam nguyện xá tội đệ tử : Muốn được Đức Chí Tôn xá tội thì phải lập hạnh gìn giữ giới luật tu hành nghiêm chỉnh để không gây thêm tội lỗi mới, đó là Công trình.
- Tứ nguyện thiên hạ thái bình : Chúng ta thành tâm cầu khẩn Đức Chí Tôn và Phật Mẫu ban ơn cho thế giới được hòa bình, nhơn sanh an lạc, đó là Công phu.
- Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh : Muốn được an ninh thì chúng ta phải hành động thế nào cho hợp lòng người, thuận đạo Trời, đó là Lập đức.

Chương 16

LUẬT CÔNG BÌNH
thiêng liêng

I . Nhân Quả : Luật công bình thiêng liêng
Nhân hay Nhơn là cái nguyên do, cái cớ; Quả là cái trái, kết quả. Nhơn Quả là Nhân nào thì  Quả nấy.

Nhân ví như cái hột, Quả ví như cái trái. Hễ gieo hột dưa thì mọc lên cây dưa, cho ra trái dưa; gieo hột đậu thì mọc lên cây đậu chớ không thể mọc lên cây dưa, rồi cây đậu sanh ra trái đậu.

Cho nên sách Nho nói : Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu (Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu). Luật ấy không bao giờ sai chạy, đó là Luật Nhân Quả.

Một cái nhân tạo ra cái quả, quả nầy tạo ra nhân mới, nhân mới lại tạo ra quả mới, cứ thế tiếp diễn mãi. Nếu như muốn không có quả thì đừng tạo nhân.

Luật Nhân Quả thể hiện sự công bình của Trời Đất.
Đấng Thượng Đế chí công vô tư, không vì thương mà thưởng, không vì ghét mà phạt. Đấng ấy lập ra Luật Nhân Quả và cầm cây cân Công bình thiêng liêng để cho Luật Nhân Quả tác động một cách chính xác công bình.

Trong sách Minh Tâm Bửu Giám có viết:“ Thiên địa vô tư, Thần minh thì sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, bất vị thất lễ nhi giáng họa.”  Nghĩa là: Trời Đất không riêng (công bình), chư Thần sáng suốt thường xem xét, chẳng vì hưởng tế lễ mà ban cho điều tốt lành, chẳng vì thất lễ mà gieo xuống tai họa.

Thượng Đế và các Đấng thiêng liêng là những Đấng chí công vô tư, không đem phước đến cho ai, cũng không đem họa đến cho ai. Các Đấng ấy chỉ giữ Luật Nhân Quả làm Luật công bình thiêng liêng, cho thể hiện một cách đúng lẽ công bình đi từ Nhân tới Quả.

Tất cả những sự chi đưa đến cho mình, dầu việc ấy có xấu có tốt, vui buồn, lành dữ, đều là Quả do cái Nhân mà mình đã tạo ra trong quá khứ hoặc xa hoặc gần. Mỗi việc mình làm là Nhân, Nhân lành hay Nhân dữ, trong đó bao gồm cả lời nói, ý nghĩ và hành động, thì cái Quả liền tượng hình ra theo cái Nhân ấy, để đến lúc đúng hạn kỳ thì nó báo đáp phát ra.

Trong Luật Nhân Quả, thời gian đi từ Nhân tới Quả không nhất thiết phải xảy ra ngay, có thể xảy ra một thời gian sau trong một kiếp sống hay có thể xảy ra trong nhiều kiếp, nhưng nhứt định phải xảy ra, Quả luôn luôn tương xứng với Nhân, không bao giờ sai chạy.
- Nếu Nhân và Quả xảy ra ngay trong một kiếp sống thì gọi là : Hiện kiếp Nhơn quả, cũng gọi Báo ứng nhãn tiền.
Một người lúc trẻ làm nhiều việc gian ác, đến khi trở về già thì phải chịu cảnh khốn cùng, tủi nhục, đau đớn ê chề, rồi mới chết. Đó là Báo ứng nhãn tiền xảy ra trong một kiếp.
- Nếu Nhân ở kiếp trước mà Quả báo ứng xảy ra trong kiếp hiện tại thì gọi là Tiền kiếp Nhân quả.
- Nếu Nhân trong kiếp hiện tại mà Quả báo sẽ xảy ra trong kiếp sau thì gọi là Hậu kiếp Nhân quả.
Có Luật Nhơn quả mới có sự Luân hồi, hay nói cách khác, Luân hồi là hệ quả của Luật Nhân quả. Vì gieo nhân trong kiếp trước mà chưa trả được nên phải chịu luân hồi, đầu kiếp trở lại để trả quả.

Trong xã hội, chúng ta vẫn thường thấy có nhiều người giàu sang danh vọng, nhưng họ lại nghinh ngang hống hách, chỉ biết mưu lợi hại người, làm điều gian ác, dối trên lừa dưới, thế mà họ vẫn lên chức đều đều, giàu có thêm lên, mặc cho người đời nguyền rủa.

Đừng nghĩ rằng Luật Nhơn quả sai ! Những người đó được vậy là vì cái Quả lành của họ đã tạo ra từ nhiều kiếp trước vẫn còn để họ hưởng, nhưng họ không biết tô bồi cái Quả lành đó trong kiếp nầy, đến chừng hưởng hết Quả lành thì sẽ bắt đầu trả quả, và sự trả quả đó có thể xảy ra trong những ngày cuối đời của họ hay trong kiếp sau, nhưng nhứt định là phải trả, không trốn tránh vào đâu cho được.

KSH : Người làm phước có khi mắc nạn,
                           Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
                               Ấy là nợ trước còn mang,
                      Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.

TNHT :   Ức lòng dễ tỏ đặng cùng  ai !
                          Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.
                          Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,
                          Cũng là vay trả luật xưa nay.

Các ngoại đạo tà kiến thấy người làm điều thiện mà lại sanh vào đường ác, kẻ làm ác lại sanh vào nẻo thiện, liền cho rằng Nhân Quả đều không, thậm chí còn bài bác và cho rằng tất cả đều không.

Người làm thiện mà phải sanh vào nẻo ác là vì ác quả của đời trước vẫn còn dây dưa chưa dứt nên phải chịu nốt, Nhân thiện hiện tại sẽ sanh Quả thiện tương lai. Đây là đạo lý Tam thế Nhân quả mà Đức Phật đã nói trong kinh Thiện Ác Nghiệp Báo.

Trong kinh Nhơn Quả cũng có viết rằng : Muốn biết cái Nhân đã qua, hãy xem cái Quả hiện tại; muốn biết cái Quả tương lai, hãy xem cái Nhân hiện tại.

Nhơn nào Quả nấy, chắc chắn không bao giờ sai, chỉ có thời gian báo ứng lâu hay mau mà thôi.
Chúng ta là người phàm không bao giờ biết được thời gian báo ứng đó lúc nào xảy ra, cho nên đừng nên lộng ngôn mà phê phán sai lầm, than Trời trách Đất, mà mang trọng tội cùng các Đấng thiêng liêng.

Khi đã biết rõ Luật Nhân Quả rồi, mỗi người muốn cho đời mình được may mắn tốt lành, thì ngay từ bây giờ phải tạo ra cái Nhân lành : Thân làm điều lành, Khẩu nói điều lành, Ý nghĩ trong sạch. Thấy thì dễ nhưng luôn luôn chúng ta bị Tam độc (Tham, Sân, Si) phản kháng, rồi dụ dỗ lôi cuốn chúng ta theo nó để tạo ra Nhân xấu :
- Lòng tham làm giảm giá trị con người, làm tinh thần lụn bại, như tham lam của cải tiền tài, tham công danh sự nghiệp bất chánh, tham mê tửu sắc tài khí. Cái lòng tham ấy mỗi khi dấy động, nó tạo ra lớp mây mù che lấp lương tri, làm cho ta không còn phân biệt phải trái, liêm sỉ, miễn làm sao cho thoả mãn lòng tham dục.
- Tánh sân giận nổi lên thì sanh ra si mê ám muội, xúi giục con người hành động theo lục dục thất tình thấp hèn, tạo ra biết bao nhiêu điều ác.

Cho nên, Đạo Cao Đài đưa ra các giới luật như : Ngũ giới cấm, Tứ đại điều qui, vv... là để ngăn chận không cho Tham Sân Si dấy lên xúi giục ác hành.         

Hiểu biết rõ Luật Nhân quả, chúng ta có được những lợi ích sau đây :
o Không còn mê tín dị đoan, không cầu cúng xin xỏ Thần quyền.
o Tin tưởng mình là tác nhân chủ động tạo ra số phận của mình.
Không chán nãn, trên không trách Trời, dưới không trách người, chỉ nên trách mình.

II . Luân hồi

Luân là cái bánh xe, hồi là quay trở lại. Luân hồi, nghĩa đen là xoay tròn như cái bánh xe, quay đi rồi trở lại, mãi mãi như thế.

Luân hồi là một tín thuyết đã có từ thời thái cổ của nước Ấn Độ, với đạo Bà-La-Môn, cho rằng linh hồn của một sinh vật, sau khi sinh vật chết, linh hồn trở lại đầu thai vào một sinh vật khác và cứ thế tiếp diễn mãi.

Đức Phật Thích Ca mở đạo Phật thời Nhị Kỳ Phổ Độ, lấy thuyết Luân hồi làm giáo lý căn bản.
Đức Phật nói : Kiếp sống của con người sanh ra rồi chết, chết rồi đầu thai trở lại, tức là sanh sanh tử tử cứ thế nối tiếp nhau, như cái bánh xe quay tròn không bao giờ ngừng nghỉ.

Sự Luân hồi chỉ là thể hiện của Luật Nhân quả, có Nhơn thì phải có Quả, hết Nhơn thì hết Quả, dứt luân hồi.

Con người sống nơi cõi trần có ba thể gọi là Tam thể xác thân :
- Xác thân phàm bằng vật chất (thể xác) : Giả thân.
- Xác thân thiêng liêng : Chơn thần hay Chơn thân.
- Một điểm linh quang do Đức Chí Tôn ban cho gọi là Linh hồn để điều khiển chơn thần và thể xác.

Khi một con người nơi cõi trần chết đi, thể xác sẽ tan rã biến trở lại thành đất, còn chơn thần và linh hồn  thoát  ra khỏi thể xác, trở về cõi thiêng liêng, mang theo :
- Những điều học hỏi và kinh nghiệm.
- Những công đức và tội lỗi đã gây ra.

Nơi cõi thiêng liêng, chơn thần và linh hồn được đưa đến trước Minh Cảnh Đài xem lại khúc phim của cuộc đời mình, từ lúc mới sanh cho đến lúc chết, các hành vi thiện ác cùng lời nói đều hiện lên đủ cả, không sót một thứ gì, để nơi đây, cây Cân Công bình thiêng liêng cân tội phước và định phận :
- Nếu công đức nhiều hơn tội lỗi thì linh hồn và chơn thần sẽ được ban thưởng bằng những phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng.
- Nếu công đức ít mà tội lỗi nhiều thì linh hồn và chơn thần bị đưa trở lại cõi trần để đầu kiếp mà trả quả, và cũng để lập công chuộc tội.

Những công đức, tội lỗi và kinh nghiệm học hỏi được trong kiếp sống tạo thành hột giống luân hồi rút vào trong chơn thần, tạo thành cái Nhân, quyết định kiếp tái sinh có đời sống sang hèn, hạnh phúc hay khổ đau, làm quan hay dân, vv... ấy là cái Quả do Nhân tạo ra.

Linh hồn và chơn thần cứ mãi luân chuyển như thế, lên lên xuống xuống, không bao giờ dứt. Đó là Luân hồi.

Muốn thoát khỏi Luân hồi thì phải làm sao ?
- Phải tu, tu để dứt Nhân xấu, tạo Nhân lành: Nhân xấu thì Quả xấu tức là phải Luân hồi, Nhân lành thì hưởng Quả lành tức là đạt được phẩm vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng, ấy là thoát khỏi Luân hồi.

Giáo lý về luật Nhân quả và Luân hồi cho chúng ta lòng tự tin, tự thấy mình là chủ nhân của đời mình, mình làm ra cái gì thì mình hưởng thụ cái đó, không ai giành giựt với mình, mình tạo ra Nhân gì thì mình hưởng Quả nấy, chớ không ai đem họa hay phước đến cho mình.

Chúng ta phải cố gắng kềm hãm lục dục thất tình, xa lìa tam độc, để cho tư tưởng, lời nói, hành động của mình được chơn chánh, thiện lương, tức là mình gieo Nhân lành, thì nhứt định tương lai của mình sẽ hưởng được Quả lành, trái ngọt, đời mình sẽ được sung sướng hạnh phúc.

Còn muốn thoát khỏi luân hồi, chúng ta phải rửa sạch các Nhân xấu từ các tiền kiếp lưu lại, bằng cách chịu đựng các sự trả quả, rồi lo lập công phụng sự nhơn sanh  lấy công chuộc tội, các Nhân xấu lần lần tiêu hết, mà khi Nhân hết thì không có Quả, tức nhiên thoát khỏi luân hồi.
III . Quả báo

Quả báo là cam nhận chịu cái kết quả đau khổ báo đáp lại để đền trả cái Nhân xấu mà mình đã gây ra lúc trước hay trong kiếp trước.

Quả báo còn được gọi là Nghiệp báo.
Nghiệp là cái lực vô hình do cái Nhân sanh ra, để nó thúc đẩy tạo thành cái Quả.

Chúng ta là người phàm nên vô minh, không biết kiếp trước đã tạo ra những Nhân gì, thiện hay ác, nhưng ngày nay trong kiếp sống nầy, khi chúng ta tự nhiên gặp được một việc may mắn bất ngờ, như đang hoạn nạn gặp quí nhân đến giúp đỡ; hoặc là đang sống yên lành bỗng nhiên bị người vu oan giá họa, thì chúng ta phải hiểu rằng : đó là Nghiệp báo từ cái Nhân thiện hay Nhân ác của mình ở trong kiếp trước.

Kinh Cảm Ứng cũng có viết rằng : “ Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình.”  Nghĩa là : Họa và phúc không có cửa, tự nơi người rước lấy, cái quả báo của thiện và ác như bóng theo hình.

Khi gặp Quả báo xấu, chúng ta phải gồng mình chịu đựng, chớ nên than van, vì nó do chính mình tạo ra cái Nhân xấu mà có. Đó là Trả quả.
Sự trả quả nầy hoàn toàn nằm trong Luật Nhân quả, là Luật Công bình thiêng liêng, gieo nhân nào thì gặt quả nấy.
Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy về Trả quả như sau:
LÝ GIÁO TÔNG
Trái oan chưa dứt thuở nào thôi,
Muốn đặng phi thăng, ráng trả rồi.
Cượng lý tu hành cho thoát tục,
Tiền vay nợ hỏi, sổ ai bôi  ?

Đây Lão nhắc về lời của Đức Chí Tôn dạy về cách Trả quả như vầy :
“ Các con ôi ! Phải ráng vui lòng mà chịu điều cực khổ. Hễ Thầy thương các con chừng nào thì hành hạ các con chừng nấy. Bởi vậy khi các con hiến thân hành đạo với Thầy, đã lịnh cho Thần Thánh bắt các con trả quả cho đủ kiếp đặng trừ cho kịp kỳ nầy. Bởi các con phải chịu luật luân hồi, vì cớ mà phải chịu điều khổ sở như vậy, các con chớ than phiền, chính theo lời thề của các con thì Thầy hành các con cho đúng lẽ, vậy mới xứng đáng là môn đệ của Thầy. Có nhiều đứa vì không rõ luật Thiên điều, cứ than van mãi.”

Vậy, chư hiền hữu hiền muội nghe Ơn Trên dạy đành rành, nợ thì phải trả, chớ không chạy đâu được. Dầu cho một vị Đại La mà phạm luật Thiên điều thì cũng phải tái kiếp mà đền bù cuộc trả vay.
* Thế nào gọi là Trả quả ?
- Là nhận chịu cái nợ tiền khiên đã kết nạp nhiều kiếp, chí quyết trả cho xong mà không vay thêm nữa.
* Có hai cách Trả quả :
- Một là quả báo về tinh thần, ở phạm vi tư tưởng, buồn bã, âu sầu.
- Hai là quả báo về xác thịt : tật bịnh, đói rét, khốn nàn.
* Quả lại chia ra  ba ảnh hưởng :
- Một là quả báo các nhân do mình tạo ra.
- Hai là quả báo của chủng tộc do nòi giống tạo ra.
- Ba là quả báo do quần chúng của mỗi người trong xã hội gây ra.

Vậy muốn dứt các dĩ vãng là kết quả của hiện tại âu sầu thống khổ thì phải lấy cái hiện tại mà tạo cái tương lai cho được rực rỡ vẻ vang, rồi lấy cái tương lai đó mà tạo  một cơ sở vững vàng muôn kiếp, tức là đi tới chỗ trường sanh bất tử đó vậy.

IV . Nhồi qua

Nhồi là nhét thêm vô rồi dồi lên dập xuống nhiều lần. Quả ở đây là ý nói cái quả xấu báo đáp lại cái nhân xấu đã gây ra từ nhiều kiếp trước.

Nhồi quả là những nhân xấu nghiệp xấu từ nhiều kiếp trước dồn lại báo đáp trong một kiếp nầy mà thôi.

Đối với người tu hành chơn chánh, lo lập công bồi đức để trả cho dứt các nghiệp xấu cũ của nhiều kiếp trước, lại phải cố gắng giữ mình không gây ra các oan nghiệt mới thì Đức Chí Tôn sẽ cho dồn các nghiệp xấu lại để trả dứt trong kiếp nầy thì mới có thể thoát khỏi cõi trần để trở về cùng Đức Chí Tôn. Cách trả dứt các nghiệp trong một kiếp như vậy gọi là Nhồi quả.

Như trong bài Thánh Ngôn của Đức Lý Giáo Tông, Đức Lý có nhắc lại lời của Đức Chí Tôn : “ bắt các con trả quả cho đủ kiếp đặng trừ cho kịp kỳ nầy”, đó là Đức Chí Tôn cho chúng ta Nhồi quả.

Nhồi quả là một cách trả quả rất nặng nề, nhưng là phương giải thoát. Cho nên người biết đạo nên luôn luôn vui chịu những hoạn nạn tai ương dồn dập đến cho mình.

Nếu thấy một bậc chơn tu nào mà bị hoạn nạn tai ương dồn dập liên tiếp xảy ra rất khổ sở thì chúng ta chẳng nên lấy làm lạ mà phàn nàn, bởi vì người ấy đang chịu nhồi quả để có thể đắc đạo trong một kiếp tu.

Đây là một đặc ân của Đức Chí Tôn trong kỳ Đại Ân Xá nầy, cho nhồi quả đặng mau hết nghiệp để có thể trở về cùng Đức Chí Tôn.

Nếu Đức Chí Tôn không cho nhồi quả trong một kiếp tu thì biết đến bao giờ các môn đệ của Ngài mới trả hết nghiệp, bởi vì nếu để trả quả từ từ thì mỗi kiếp trả quả lại tạo thêm nghiệp mới, thì phải mang nghiệp trần triền miên mà chịu luân hồi mãi mãi.

Chính vì thế mà chúng ta thấy nhiều Chức sắc Thiên phong, càng tu, càng lập công quả thì bản thân và gia đình càng gặp nhiều nỗi éo le ngang trái, điêu đứng khổ sở, hết đau bịnh tới tai nạn, khiến cho người đời biếm nhẻ rằng càng tu càng bị hoạn nạn tai ương.

Nếu tâm đạo vững vàng, một lòng tin tưởng Đức Chí Tôn, cắn răng gánh chịu những quả báo tiền khiên, cầu nguyện Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu ban cho ơn huệ để đủ sức chịu đựng nghịch cảnh, thì dần dần tại nạn cũng giảm bớt, tâm tu tăng tiến và cuối cùng thì trả hết nghiệp, được đắc đạo, trở về cùng Đức Chí Tôn.

TNHT :  Ví muốn tu thân nhồi quả trước,
Gắng công  sau  sẽ đến cùng Ta.
Chúng ta biết có hai trường hợp nhồi quả sau đây :

1 .  Trường hợp Ngài Bảo Đạo Ca Minh Chương.
Đức Chí Tôn cho nhồi quả theo bài thi sau đây của Đức Chí Tôn  ban cho Ngài Ca Bảo Đạo :
Thấy con gia đạo tợ tơ cuồn,
Chạnh đến lòng Thầy dạ ướm tuôn.
Ngặt nỗi vợ nhà đau dã dượi,
Khật khùng con trẻ nói luông tuồng.
Khiến nên mai đảnh khơi màu trắng,
Cho đến tòng lâm trổ sắc buồn.
Công quả đã đành công quả  đủ,
Nay đem ba kiếp dập dồn luôn.

Qua bài Thánh ngôn trên, Đức Chí Tôn cho Ngài Ca Minh Chương nhồi quả ba kiếp khiến Ngài bị bịnh, vợ đau, con gái khật khùng, dồn vào một kiếp nầy đặng trả xong quả, sạch nợ tiền khiên, hầu trở về ngôi vị thiêng liêng.

2 .  Chánh Trị Sự Miên, quê ở Phú Mỹ, Mỹ Tho.
Ông Miên làm Hương Cả ở làng Phú Mỹ, nhập môn vào Đạo Cao Đài, lập công bồi đức, lên được phẩm Chánh Trị Sự. Ông rất hiền, nhưng sau đó, ông bị điên khùng luôn, không ai chữa trị được.
Vợ của ông đưa ông về Tòa Thánh, vô Hộ Pháp Đường cầu xin Đức Phạm Hộ Pháp giải bịnh, được Đức Ngài nhận lời.
Đức Ngài hành pháp giải oan, bệnh ông Miên giảm dần và gần như hết bịnh. Đức Phạm Hộ Pháp dặn ông Miên không được ra ngoài, chỉ ở quanh quẩn trong Hộ Pháp Đường mà thôi.
Vợ ông Miên cũng là một Nữ Chánh Trị Sự, thấy ông Miên hết bịnh, cả mừng, xin cho rước ông Miên về gia đình ở Phú Mỹ để an dưỡng và dễ bề săn sóc.

Đức Phạm Hộ Pháp nói :
- Coi vậy chớ ảnh chưa mạnh đâu, chị có về thì về, cứ để ảnh ở đây một thời gian nữa.
Bà vợ cứ năn nỉ hoài để rước ông Miên về, buộc lòng Đức Ngài phải cho. Bà đưa ông Miên trở về xứ.
Lạ lùng thay, về nhà ở Phú Mỹ một thời gian ngắn thì bệnh của ông Miên tái phát trầm trọng và chết, không thầy thuốc nào trị được.
Gia đình báo tin cho Đức Hộ Pháp. Đức Phạm Hộ Pháp nói với các anh em Phạm Môn :
- Anh Miên trả quả ba kiếp nhồi một đó. Lúc bị bệnh, ảnh thường diễn đạt ba hình thức, mỗi hình thức là một kiếp :

Kiếp thứ nhứt: ông đang đi thì đứng lại, lấy thế rồi cung tay xoay người từ trái qua phải, rồi buông hai tay, giống như là quăng lưới chài cá. Đó là kiếp chài lưới.
Kiếp thứ nhì: một tay như cầm mõ, một tay như cầm dùi, miệng niệm Nam mô, tay làm bộ điệu gõ mõ. Ấy là kiếp thứ  nhì làm thầy chùa.
Kiếp thứ ba: ông hay lượm lá cây, giấy, ngồi vẽ vẽ lên đó, ấy là kiếp làm đồ nho viết liễn.
Nay gặp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, may duyên làm môn đệ Đức Chí Tôn, Đức Chí Tôn cho nhồi quả để trả cho dứt nghiệp mà về, nên mừng cho ổng được giải thoát.
 (Viết theo lời kể của ông Chơn Nhơn Phạm Duy Hoai).

Chương 17

THIÊN ĐẠO & NHƠN ĐẠO

I . Thiên đạo

Thiên là Trời, là Thượng Đế, Đức Chí Tôn. Đạo là tôn giáo. Thiên đạo dịch ra tiếng Việt là đạo Trời.
Chữ Thiên đạo, tùy theo trường hợp mà chúng ta hiểu nghĩa. Chúng ta có thể gặp 3 trường hợp sau đây :
1.  Thiên đạo là đạo do Đấng Thượng Đế lập ra và làm Giáo chủ.
Đạo Cao Đài là Thiên đạo vì do Đức Chí Tôn dùng cơ bút lập ra và Đức Chí Tôn làm Giáo chủ.
Cũng như Thích giáo, là đạo do Đức Phật Thích Ca lập ra và làm Giáo chủ.
2.  Thiên đạo là nói bao gồm các đạo tu hành để giải thoát linh hồn con người ra khỏi luân hồi, đưa linh hồn đến cảnh Cực Lạc Niết Bàn hay cõi TLHS.
Như vậy, Thiên đạo bao gồm Tiên đạo và Phật đạo.
Muốn đạt đến Tiên đạo và Phật đạo thì phải trải qua : Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo. Nhưng Nhơn đạo  là căn bản, bởi vì làm tròn được Nhơn đạo thì mới đạt được Thần vị hay Thánh vị tùy theo mức độ cao thấp.

TNHT : Rằng ở đời thì Nhơn đạo trọn,
Trọn rồi, Thiên đạo mới hoàn toàn.

3 . Thiên đạo là đạo Trời, đứng trên Phật đạo.
Đó là nấc thang tiến hóa cuối cùng để chư Phật tu hành tiến hóa lên thành Thượng Đế và nhập vào khối Đại linh quang của Thượng Đế.

II . Nhơn đạo

Nhơn đạo là đạo làm người, đạo ở đời, nên nó cũng được gọi là Thế đạo.
Đó là những nguyên tắc và bổn phận mà con người phải tuân theo trong đời sống đối với gia đình và đối với quốc gia, xã hội. Nhờ Nhơn đạo, con người mới xứng đáng phẩm người, mới có giá trị là thượng đẳng chúng sanh.

Nếu nói chung cho cả nam và nữ thì Nhơn đạo gồm Bát đức, tức 8 điều : hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ.

Đó chính là Bát bửu trong cái túi Bát bửu nang mà Đức Phật Mẫu giao cho 100 ức nguyên nhân đem theo khi đầu thai xuống cõi trần, và căn dặn rằng : Nếu nguyên nhân nào làm mất một món báu thì không thể trở về với Đức Phật Mẫu đặng.

Nhưng đối với Nho giáo thì phân ra : Nhơn đạo của người nam khác Nhơn đạo của người nữ :
- Nam thì Tam Cang và Ngũ Thường.
- Nữ thì Tam Tùng và Tứ Đức.

Không có tôn giáo nào dạy về Nhơn đạo kỹ lưỡng và chi tiết bằng Nho giáo.
Người là Tiểu linh quang, Trời hay Thượng Đế là Đại linh quang; nên con người là một phần tử nhỏ của Thượng Đế. Thượng Đế cho con người đầu kiếp xuống cõi trần là để học hỏi và tiến hóa, học hỏi mãi mãi và tiến hóa mãi mãi, tới mức cùng tột thì trở thành Thượng Đế và hiệp nhứt vào Thượng Đế.

Muốn đạt được như thế, con người phải trải qua năm cấp tiến hóa :
       - Cấp tiến hóa thứ 1 là Nhơn đạo tiến lên Thần đạo,
       - Cấp tiến hóa thứ 2 là Thần đạo   -      -  Thánh đạo,
       - Cấp tiến hóa thứ 3 là Thánh đạo -      -  Tiên đạo,
       - Cấp tiến hóa thứ 4 là Tiên đạo    -      -  Phật đạo,
       - Cấp tiến hóa thứ 5 là Phật đạo    -      -  Thiên đạo.

Trong năm cấp tiến hóa đó, Nhơn đạo là căn bản. Không hoàn thành Nhơn đạo thì không mong chi bước lên các cấp tiến hóa cao hơn.

Thánh nhơn khi xưa có nói rằng : Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhơn đạo, Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỹ. Nghĩa là : Muốn tu Tiên đạo, trước tu Nhơn đạo, Nhơn đạo không tu, Tiên đạo xa vời lắm vậy.

ĐĐTKPĐ mở ra kỳ nầy là Đức Chí Tôn dựng lên một cái thang 5 nấc để cho người tu từ từ tiến lên mà đoạt vị. Hễ công đức tu hành đạt đến mức nào thì Đức Chí Tôn chấm cho mức ấy với những phẩm vị cao trọng tương xứng.

TNHT: Thầy dạy Nữ phái biết trọng Tam tùng Tứ đức, Nam phái Tam cang Ngũ thường. Hễ Nhơn đạo thành là phù hạp Thiên đạo, nghe à !  (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 104)

TNHT: Buông trôi ví chẳng tròn Nhơn đạo,
Còn có mong chi đến  đạo Trời.

III . Thánh ngôn dạy về Thiên đạo - Nhơn đạo

Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ đêm 25 và 28 tháng giêng năm Nhâm Thìn (dl 20 và 23-2-1952) dạy về Nhơn đạo (tức Thế đạo) và Thiên đạo, trích trong Luật Tam Thể, chép ra như sau : (Xem TNST 3, Bài 107 -108)
“ Đêm nay, Bần đạo giải về Thế đạo là gì ?
Hẳn mấy em đã rõ đại cương về Thế đạo là :
- Nam thì Tam cang, Ngũ thường,
- Nữ  thì  Tam tùng, Tứ đức.
Song đó chỉ là thể của Nhơn đạo hữu hình mà thôi.
Nếu mấy em hằng ngày tâm niệm có bấy nhiêu đó thôi thì làm sao trọn vẹn được.
Trong Thế đạo phải phân tách ra làm hai pháp lý :
- Một là Thể pháp Thế đạo,
- Hai là  Bí pháp  Thế đạo.

Tam cang Ngũ thường, Tam tùng Tứ đức là thể đặng làm sở hành cho mặt Thể pháp Thế đạo mà thôi, lấy đó làm chánh đề mà đi.

Bây giờ muốn giữ TAM CANG, NGŨ THƯỜNG thì phải làm thế nào ?
- Quân Thần cang: Vua là kẻ chăn dân. Vậy bổn phận ấy là phải lập trên những hành tàng để cứu giúp dân cho khỏi điều thống khổ. Ấy là công việc của Cơ Quan Phước Thiện bây giờ đó. Tôi thì phải tỏ dạ trung thành đặng vùa giúp vua mà làm cho bá tánh an cư lạc nghiệp, tức là bổn phận của hàng Thánh thể đó vậy.

- Phụ tử cang : Cha là người thay quyền Chí Tôn trong một tiểu gia đình, tức nhiên là phải biết mình có bổn phận giáo hóa, dưỡng dục, tức nhiên là một Hội Thánh nhỏ trong một gia đình. Vậy con phải trọn hiếu, tức nhiên không làm điều nhục tổ hổ tông, tức là bổn phận của một tín đồ, hay nói đúng hơn là một môn đệ xứng đáng của Đức Chí Tôn đó vậy.
- Phu phụ cang: Chồng là người cầm lèo giữ lái đặng đưa một tiểu gia đình đến chỗ đạo đức thanh bạch, tức nhiên là bổn phận của cơ quan Hành Chánh đó vậy. Vợ là người tùng theo chồng để giúp an sự nghiệp, tạo nên hạnh phúc gia đình, tức là bổn phận của Bảo Cô đó vậy.

Về NGŨ THƯỜNG thì :
- Nhơn : là phải biết nghĩa đồng sanh, biết tình  đồng hưởng ÂmDương chi khí, chẳng để lòng sái loạn chơn truyền, tức phải trọn vâng theo luật Công bình Bác ái.
- Nghĩa : là phải biết trọn phận người để tạo nên danh trọng giá cao, tức là phải giữ phẩm hạnh mà nhìn rõ của chung đồng hưởng.
- Lễ : là giữ hạnh nết đúng đắn để tạo nên một nhơn phẩm, biết nhường biết nhịn, tức nhiên là phải giữ  trọn hạnh đạo đó vậy.
- Trí : là phải thông hiểu việc thế mà đi, không để tên tuổi phải bị lời chê tiếng nhẻ, tức nhiên là phải trọn vâng Luật pháp Chơn truyền đó vậy.
- Tín : là phải đúng lời đúng hẹn, tức là phải danh chánh ngôn thuận, thuyết hành phải được giống in nhau, tức là phải trọn thệ đó vậy.

Đó là mặt Thể pháp Thế đạo.
Còn mặt Bí pháp Thế đạo là phương tầm ra định hướng để vẹn giữ Tam cang Ngũ thường, tức nhiên là trọn phần Nhơn đạo. Ấy là kết quả do Thể pháp mà nên.
Nói chung về Bí pháp Thế đạo, tức nhiên là phương giúp đời an nhàn đạo đức đó vậy.

Về Tam tùng Tứ đức là phận của Nữ phái :
- Tùng phụ : như người con phải trọn giữ tiết trinh, cũng như kẻ tín đồ phải giữ tròn danh đạo.
- Tùng phu : như bóng tùy hình, tức nhiên là phải ví mình như một trong Thánh thể, tùng Hội Thánh vậy.
- Tùng tử : là phải vì đám hậu sanh mà quên mình đặng tạo thành sự nghiệp tương lai cho chúng, tức nhiên là bổn phận của Chức sắc vậy.
- Công, Dung, Ngôn, Hạnh : tức là việc làm cho nhơn sanh thoát khổ, lời nói để đưa đường giáo hóa, hành vi cử chỉ đáng treo gương mặt thế, phải biết nâng cao giá trị của Thánh thể Chí Tôn, nết na đầm thấm, giữ trọn thương yêu, tức nhiên là làm nền móng cho Đại đồng thế giới.

Đó là Thể pháp.
Kẻ đã trọn về mặt Thể pháp, tức nhiên hiểu biết Bí pháp, vì Bí pháp không chi lạ hơn là phương pháp bí yếu để nâng cao giá trị cho Thế đạo. Nói rõ hơn nữa là phương làm cho đời trở nên tận thiện tận mỹ. Nói theo Nhơn sanh Triết lý thì Bí pháp là kế hoạch nâng cao đời sống trong Nhơn Nghĩa đó vậy.”
 “ Đêm nay, Bần đạo giải về Thiên đạo.
Trong Thiên đạo cũng có Thể pháp và Bí pháp của Thiên đạo.

Về Thể pháp của Thiên đạo, tức nhiên là những nơi để học hỏi, để un đúc tinh thần trong khuôn viên Chánh pháp.  Trong Thể pháp của Thiên đạo có ba thời kỳ :
- Thứ nhứt là thời kỳ khai thác
- Thứ nhì   là thời kỳ luyện tập
- Thứ ba    là thời kỳ thi hành.

Trong thời kỳ sau nầy mới thường gặp những cơ khảo đảo đặng thử thách tinh thần.
Về thời kỳ thứ nhứt, là những tạo tác, nơi qui hợp đức tin cho con cái Chí Tôn, tức là các Đền thờ đó vậy. Khi một môn đệ đã nhập môn tùng giáo thì phải do nơi các Đền thờ đặng tụ hiệp đức tin. Đó là bước đầu tiên của Thể pháp Thiên đạo. Do đó, sự cúng kiếng niệm kinh là điều trọng yếu vậy.
Qua thời kỳ thứ nhì, là đem đức tin đã trụ được đặng tập luyện tâm tánh và khởi lập công trừ quả, đặng tự giải khổ cho mình và giúp phương cứu khổ cho toàn nhơn loại. Ấy là phương luyện tánh  thành tâm niệm đó vậy.

Qua thời kỳ thứ ba, là thi thố những đức tin hầu lấy phương giải khổ mà đem gieo truyền hột giống thương yêu. Ấy là phương cứu khổ đó vậy.

Trong lúc nầy, tinh thần hay gặp những chướng ngại, hoặc làm cho nao núng tan rã đức tin, hoặc theo đường quỉ mị, chia phe phân phái mà gầy nên Tả đạo Bàng môn, như  đã xảy ra đó.

Trong ba thời kỳ : thứ nhứt là Lập Ngôn, thứ nhì   Lập Công, thứ ba Lập Đức. Đó là Thể pháp của Thiên đạo.
Khi đã trọn phần Thể pháp rồi, liền bước qua mặt Bí pháp, là phương tu tâm sửa tánh, hầu lập thành chơn khí thanh khiết mà hiệp với chơn thần, đặng tiếp chơn linh, để giải phương cứu khổ thêm bề siêu lý diệu chơn.
Ấy là phương tầm hiểu chơn truyền chánh pháp đó vậy. Khi đã vẹn sạch Tinh, Khí, Thần thì là đắc Pháp đó vậy.
Mấy em đã học về khoa Bí pháp khẩu tụng, vậy khá để tâm học hỏi cho được tâm truyền thì công phu của mấy em đã được phần thưởng vô giá đó.
Nói về Thiên đạo tức là luận về vũ trụ triết lý, tức là nói về Không gian. Còn Thế đạo là luận về nhơn sanh triết lý, tức là nói về Thời gian đó.
Mấy em khá hiểu cho lắm mới được. Phải để tâm suy nghiệm đó nghe ! “

Chương 18

TU THÂN

I . Tu thân theo Nho giáo

Tu là sửa, Thân là thân mình. Tu thân là sửa chữa bản thân mình cho được ngay chánh, hợp theo đạo đức.
Muốn Tu thân thì trước hết phải giữ cái tâm mình cho được ngay chính. Tâm không ngay chính thì làm sao sửa mình cho ngay chánh được.

Trong Bát điều mục của Nho giáo thì Tu thân là trung tâm điểm, nên quan trọng hơn tất cả.

Muốn Tu thân, phải : Cách vật, Trí tri, Thành ý và Chánh tâm. Tu thân được rồi thì mới có thể : Tề gia, Trị quốc và Bình thiên hạ. Bốn điều mục trước là điều kiện để Tu thân, và ba điều mục sau là hệ quả của việc Tu thân.

“ Người quân tử cần phải có học, mà sự học của mọi người là cốt ở sự sửa mình (Tu thân), cho nên sách Đại Học nói rằng : “ Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ Tu thân vi bổn ”. Nghĩa là : Từ vua cho đến dân, ai cũng phải lấy sự Tu thân làm gốc. Muốn sửa mình cho thành người có đức hạnh hoàn toàn thì trước hết phải giữ cái tâm của mình cho chánh (Chánh tâm), cái ý của mình cho thành (Thành ý), rồi mới Cách vật Trí tri được, nghĩa là hiểu rõ các sự vật và biết đến cùng cực cái biết.

Giữ cái tâm của mình cho chánh, là đừng để cho sự tức giận, sợ hãi, sự vui say, ưu hoạn, làm cho cái tâm của mình chếch lệch, làm cho mình không hiểu rõ cái nghĩa lý ngay thẳng. Khi đã bị những sự ấy làm loạn cái tâm của mình thì mắt trông không thấy, tai nghe không hiểu, ăn không biết mùi, bởi thế cho nên bao giờ ta cũng phải giữ cái tâm cho chánh.

Giữ cái ý của mình cho thành tức là mình không dối mình, đối với việc gì cũng cứ thành thật, như ghét mùi thối, yêu sắc đẹp, nghĩa là ý mình thế nào thì cứ thực bày tỏ ra như thế, chớ không dối trá chút nào. Được như thế mới là khoái túc. Bởi thế người quân tử phải giữ cẩn thận tư tưởng của mình trong khi ngồi một mình đối với mình.

Tâm đã chánh, ý đã thành thì tự nhiên cái lương tri lương năng của mình tức là cái Minh đức trở nên mẫn huệ, xem xét điều gì cũng hiểu rõ chỗ sâu xa, làm điều gì hay là đối phó với cảnh huống nào cũng đắc kỳ trung, cũng có điều hòa, có bình hành, rất hợp đạo lý.

Trong việc Tu thân, Khổng giáo lấy sự Thành ý làm trọng yếu hơn cả. Nên Tăng Tử nói : “ Phú nhuận ốc, đức nhuận thân, tâm quảng thể bàn, cố quân tử tất thành kỳ ý.”  Nghĩa là : Giàu thì hiển hiện ra ở nhà, có đức tốt thì hiển hiện ra ở người, trong bụng rộng rãi thì thân thể có vẻ ung dung thơ thới. Bởi thế người quân tử phải giữ cái ý của mình cho thành thật. Cái ý ở trong mà thành thật thì cái đức hiển hiện ra ngoài thân thể.

Việc Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ đều bởi đó mà ra cả.” (Theo Nho giáo của Trần Trọng Kim)

II . Tu thân phải làm gì ?

Trong công việc Tu Thân, nên ghi nhớ các điều :
* Thấy người làm thiện thì xem xét lại mình có thiện không ?  Thấy người làm ác thì cũng phải xem xét lại mình có ác không ?
* Mình không sửa mình để dạy người là nghịch; còn sửa mình cho ngay chính để dạy người là thuận.
* Có lỗi mà không sửa, ấy là người lỗi vậy.
* Vui thấy người thiện, vui nghe sự thiện; vui nói lời thiện, vui làm điều thiện.
* Người nói những điều xấu của ta là thầy ta; kẻ nói những điều hay của ta là hại ta.
* Thuốc hay đắng miệng, lời ngay thật ích lợi cho việc sửa mình.
* Có cha mẹ mà không báo đáp, lại muốn con cái phải hiếu thảo với mình, là không biết lượng xét.

Có anh mà không biết kính trọng, lại đòi em phải vâng lời mình, là không biết lượng xét.
* Muốn xét người, trước phải xét mình; mình nói xấu người tức là mình tự xấu.
* Tự mãn là hỏng, tự kiêu là khờ, tự hại ấy    nhẫn.
* Người không phải chớ giao thiệp, vật không phải nghĩa chớ lấy, giận không phải chỗ chớ nên, việc không phải lễ chớ nói.
* Cẩn thận thì không lo, nhường nhịn thì không nhục, bình tỉnh thì thường yên, tiết kiệm thì thường đủ.

Muốn sửa mình thì phải giữ theo Đạo. Muốn giữ theo Đạo thì phải có lòng Nhân. Nhân là đức căn bản sanh ra các đức tốt khác, là đầu của các điều thiện.

Vào đạo Tu thân, phải xem kinh đọc sách đạo, học tập Thánh ngôn Thánh giáo để thanh lọc tư tưởng, gội rửa tánh xấu, hầu xa lần những ngôn ngữ tổn đức thất nhơn tâm, tránh không làm những điều tội lỗi, tập làm những điều nhân việc thiện, ban đầu hơi ngỡ ngàng đối với người đã quen tánh cũ, nhưng phải cố gắng bền chí thanh lọc ngày ngày tháng tháng trong câu : Nhựt tụ nguyệt tăng, hay Nhựt nhu ngoạt nhiễm.

Dòng nước sông múc vào trong chậu, để yên sẽ được lóng trong phần trên, thải hồi phần cặn cáu. Người tu hành siêng năng bền chí thanh lọc trau sửa bổn tâm bổn tánh, lần hồi sẽ trở nên thuần lương thánh thiện.

Phật Tiên Thần Thánh ngày nay, ngày xưa được trọn lành trọn tốt đều phải trải qua những giai đoạn thanh lọc ấy. Có nhiều bậc Phật Tiên Thần Thánh trước kia cũng mang thể xác làm người, cũng lâm vấp những thói hư tật xấu như ai, nhưng nhờ biết khiêm tốn học hỏi, biết phục thiện để chừa lỗi, thâu nhận lời lành, ý hay, lẽ tốt để trau sửa bổn tâm, rèn luyện bổn tánh, mới có thể tiến hóa lần lần từ kiếp người đến hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Đức tánh khiêm tốn, tinh thần phục thiện là món bửu bối quí giá để giúp người tu thân hành đạo có được những cử chỉ khả ái, tác phong dễ thương, tư cách đức độ, việc làm nhân từ khả dĩ gây được bầu không khí hiền hòa với những người đối diện. Đó là TU vậy.

Tu là sửa đổi từ dữ ra hiền, từ hư được nên, sửa đổi từ xấu thành tốt, từ phàm nhân ra Thánh nhân.
Tu cũng là tu bổ những chỗ hư hỏng thiếu sót để được hoàn mỹ chí thiện chí nhân vậy.

Nếu không sửa đổi cải thiện, nếu không khiêm tốn học hỏi điều lành, nếu không phục thiện để nhận chỗ sai hầu chừa cải thì dầu tu trọn đời mãn kiếp, phàm nhân vẫn là phàm nhân, luân hồi chuyển kiếp vẫn trong vòng chuyển kiếp luân hồi.

III . Đức Chí Tôn dạy về Tu thân

Đức Chí Tôn giáng cơ dạy về Tu thân, phải thực hành hằng ngày hằng bữa và liên tục :
“ Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa và lương tâm có điều chi cắn rứt chăng. Nếu phận sự còn nét chưa rồi, lương tâm chưa được yên tịnh thì phải biết cải hóa, ráng sức chuộc lấy lỗi lầm đã làm thì các con có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh.

Thầy mong mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình thì lấy làm may mắn cho nền Đạo, rồi các con sẽ được thong dong treo gương cho kẻ khác.”  (TNHT 1-2 hợp nhứt,B 69)
Hạnh Đường Huấn Luyện Lễ Sanh đặt ra 10 câu tự hỏi sau đây để giúp cho việc Tu Thân :
“ Vậy mỗi buổi tối, chúng ta nên kiểm điểm sự hành động của ta trong ngày và tự hỏi :
1 . Ta có ích kỷ không ?
2 . Ta có phạm Ngũ giới cấm không ?
3 . Ta có làm việc chểnh mảng không ?
4 . Ta có làm ngơ trước một điều thiện nhỏ nào không?
5 . Ta có làm điều gì phạm danh giá người không ?
6 . Ta có làm hại ai không ?
7 . Ta có xúi giục người làm quấy không ?
8 . Ta có làm gì trái luật nước không ?
9 . Ta có làm gì trái thuần phong mỹ tục không ?
10 . Ta có làm điều gì bất công không ?

Mỗi ngày cứ tập xét mình như vậy mãi, hễ nhận thấy mình đã làm điều chi thuộc 10 câu tự vấn ấy, tức khắc phải lo chừa cải, mỗi ngày cải tiến một ít, lần lần ta sẽ hoàn toàn quay về với lẽ phải.

Ngoài những phương pháp tu dưỡng cao siêu riêng dành cho bực thượng thừa, những qui tắc vừa kể trên đây rất hạp với chư thiện tín, mà vấn đề không có điều chi bó buộc khó khăn và cũng không một mảy may nào gọi là yếm thế, dị đoan, mê tín.”

Chương 19

CÁCH XƯNG HÔ

I . Cách xưng hô

Trong Đạo Cao Đài, cách xưng hô giữa Chức sắc và tín đồ cần phải có tánh cách khiêm tốn và có vẻ đạo, nên   Hội Thánh ban hành Huấn Lịnh dạy rõ sau đây :

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Nhị thập thất niên)
Tòa Thánh Tây Ninh

Số : 211/CV          HUẤN  LỊNH
THÁI, THƯỢNG, và NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ

Gởi cho chư vị Thiên phong Chức sắc, toàn đạo.
Chư  Hiền huynh, Hiền tỷ,
Nhận thấy công văn về mặt Đạo, có một phần ít Chức sắc không mấy rành cách xưng hô cùng nhau cho  y  một khuôn khổ.

Muốn bổ khuyết điều ấy và do nơi sự đề nghị của Hội Thánh, Đức Hộ Pháp đã phê chuẩn Huấn Lịnh nầy, xin chư Hiền huynh, Hiền tỷ do theo các danh từ xưng hô cùng nhau kể dưới đây mà dùng trong các công văn  của  Đạo.
1 . Giáo Tông và Hộ Pháp xưng :   Bần đạo.
2 . Chưởng Pháp và Đầu Sư xưng : Tinh tế.
    Tinh là tinh vi, thuần túy, Tế là tế độ chúng sanh.
3 . Chánh Phối Sư và Phối Sư xưng là : Tiện minh.
    Tiện là tiếng khiêm tốn, ám chỉ là còn thiếu kém tài đức.
    Minh là sáng, minh mẫn, lấy trí khôn mà xét đoán việc hành sự.
4 . Giáo Sư xưng là Tiện hiền.

Chữ Tiện, như đã giải ở trên. Chữ Hiền, là hiền đức, hiền lành. Đức Chí Tôn đã ban cho 72 Giáo Sư  là Thất thập nhị Hiền thì tính cách xưng hô của Giáo Sư  có chữ Hiền, hiểu nghĩa trắng, thiết  tưởng cũng không quá đáng.
5 . Giáo Hữu xưng là Tiện đệ.
Chữ Tiện, như đã giải ở trên. Chữ Đệ là em, mà có nghĩa trong số Tam thiên Đồ đệ của Đức Chí Tôn ban cho.
6 . Lễ Sanh xưng là Thiểu phẩm.
Thiểu là ít, là nhỏ, xưng là chức nhỏ một cách khiêm cung. Lễ Sanh là người có hạnh đức hơn hết trong chư môn đệ của Đức Chí Tôn mà dùng chữ khiêm tốn xưng mình thì giá trị càng cao.

Luận một cách tổng quát, Chức sắc nhỏ đối với Chức sắc lớn hơn, có thể gọi là Hiền huynh, còn mình tự xưng là Tiện đệ, còn bề trên xưng với cấp dưới thì tự gọi là Tiện huynh, kêu  em là Hiền đệ.

Luận về hai tiếng : Ông và Ngài hay dùng thường thức trong Đạo :
- Từ  Tín đồ đến Giáo Hữu thì dùng chữ  ÔNG.
- Từ  Giáo Sư  trở lên mới dùng chữ  NGÀI.
- Trong việc liên quan giữa gia đình thân thuộc thì cứ  giữ tiếng xưng hô như xưa nay : cô, bác, cậu, dì, anh, chị, em, cháu, . . . .
Đặc biệt, riêng về Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp thì phải để trên các văn kiện :
Bạch Đức Giáo Tông hay
Bạch Đức Hộ Pháp,
Kế đó là : Bạch Đức Ngài, dài theo câu chuyện nếu lập đi lập lại thì đề  Bạch Đức Ngài  luôn.
Trên văn kiện chánh thức gởi cho Chức sắc cấp trên thì phải để chức phẩm.
Thí dụ như : Giáo Hữu mà gởi cho Quyền Ngọc Chánh Phối Sư thì đề :
Giáo Hữu Thượng Vinh Thanh, Khâm Châu Đạo Cần Thơ,
Kính gởi : Ngài Quyền Ngọc Chánh Phối Sư.
Hàng dưới cách khoảng thì đề :
Kính Ngài Quyền Ngọc Chánh Phối Sư,

Rồi trong văn kiện thì xưng hô như cách đã chỉ trên, hoặc dùng tiếng chung mà gọi người là Hiền huynh, xưng là Tiện đệ.

Bên nữ phái, trên đối với dưới thì xưng là Tiện tỷ, gọi em là Hiền muội, dưới đối với trên thì gọi bề trên là Hiền tỷ, xưng mình là Tiện muội.

Vậy, từ đây, xin chư vị Chức sắc nam nữ tuân theo Huấn Lịnh nầy, tùy giai cấp mà xưng hô cùng nhau và ban hành cho toàn Đạo đặng rõ.

Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 15-7-Nhâm Thìn (dl 3-9-1952).
Nữ Chánh Phối Sư      Q.Thái CPS        Q.Thượng CPS          Q. Ngọc CPS
 (ấn ký)                            (ấn ký)                (ấn ký)                           (ấn ký)
 Hương Hiếu.        Thái Khí Thanh.    Thượng Sáng Thanh.     Ngọc Non Thanh

II . Hạnh khiêm nhượng

“ Khiêm nhượng là hạ mình để nhường người, để tặng người trên mình.
Kẻ tài sơ mà biết khiêm nhượng, người tài giỏi mới vui dạ dắt dìu chỉ bảo. Người học giỏi biết khiêm nhượng, kẻ tài sơ mới đem lòng mến phục. Nên biết rằng dầu mình tài cao trí sáng bực nào cũng có người khác giỏi hơn mình.

Vả lại, nếu đem cái học lực hữu hạn của ta mà so sánh với biển Thánh mênh mông, rừng nhu thăm thẳm thì có thấm tháp vào đâu mà hòng tự đắc ?

Vì vậy mà Thánh hiền xưa đã nói : Học chừng nào càng thấy mình dốt chừng nấy.
Thánh hiền xưa thì vậy, còn người đời nay phần nhiều hễ mở miệng ra là khoe mình giỏi, không đợi ai khen. Cái tánh tự kiêu ấy làm cho con người như mù quáng, nên hễ việc chi của mình làm, lời chi của mình nói, đều cho là phải cả, rồi hiu hiu tự đắc. Người như vậy không bao giờ thấy chỗ lỗi của mình mà sửa đổi, hoặc chỗ dở của mình mà học hỏi cho hay.

Người tài giỏi chẳng cần khoe khoang, người ta cũng biết; kẻ dở mà cố khoe khoang, người ta đã không mến phục lại còn khinh bỉ là khác.” (Trích B 12 Huấn Luyện Lễ Sanh)
“ Đức Chí Tôn hằng dạy môn đệ của Ngài qua một đoạn Thánh giáo như sau :
Các con coi bực Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là thế nào !  Vì vậy mà nhiều kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ.

Hạnh khiêm nhượng là hạnh của mỗi đứa phải noi theo gương Thầy, mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhượng sao cho bằng Thầy.

Đức Khổng Thánh hằng dạy chư môn đệ :
Dầu mình có thông minh đến bực nào cũng phải xem mình như ngu dốt; dầu mình có công cao hơn thiên hạ cũng phải nhường người; dầu mình có sức mạnh hơn đời cũng coi mình như mềm yếu; dầu mình giàu có đầy bốn biển cũng coi mình như nghèo nàn vậy.

Ấy là hạnh khiêm nhượng của các bậc cổ nhân như thế là phương hay để giữ gìn thực lực của mình, không để cho tánh kiêu sa phóng túng, tính tự đắc tự kiêu là cái nhược điểm của tâm lý thường tình xô đẩy vào nẻo quấy, có hại cho tinh thần đạo đức.

Phàm làm người có tài năng là nhờ có tâm đức trước hết, nếu không khéo giữ gìn được tâm đức mà tự đắc tự kiêu thì tài năng quán thế cũng trở nên tối tăm tiêu tán, lắm khi còn đưa mình đến nơi hoạn nạn là khác. . . . . . .

Chỉ có tinh thần đạo đức là đáng cho chúng ta trông cậy mà khỏi sợ bị lầm lạc. Tinh thần đạo đức lấy nhỏ nhoi, khiêm nhượng làm cốt yếu.

Thế nên qua các giáo điều của Thánh nhân lưu truyền giác thế đều khuyên dạy nên học tánh khiêm cung hòa nhã để làm phương hay xử thế, tiếp vật cho được ôn nhu dè dặt, mới tránh khỏi sai lầm.

Ví bằng tự kiêu tự đắc, tức là buông trôi theo mặt sóng của thế tình, sao cho khỏi vùi dập mảnh thân phàm mà nhiều phen khốn đốn.

Hạnh khiêm nhượng là hạnh bảo vệ thân tâm quí báu nhứt, vì hễ làm người bắt đầu tự kiêu là bắt đầu bước trên đường nguy vong đó vậy.

Đời sống khiêm tốn là đời sống thanh cao khoáng đạt nhứt, có thể bảo tồn được thân tâm dù trải qua bao nhiêu sự tàn phá của thời gian. . . . . . .

Vì vậy, đức tánh khiêm nhượng là đáng cho ta quan tâm hơn hết.” (Trích Hạnh đường Huấn luyện Lễ Sanh)

Chương 20

MA KHẢO

I. Khảo thí

Khảo là thử thách khả năng để xem xét trình độ. Thí là thi. Khảo thí là mở ra một cuộc thi để xem xét khả năng và trình độ của thí sinh.
1 . Trường thi công quả :
TNHT : “ Một trường thi công quả, các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi.”

Có trường thi công quả tất có cơ khảo thí theo phép công bình thiêng liêng. Nếu muốn đoạt thủ địa vị nơi trường thi ấy, người hành đạo phải có công quả xứng đáng và đức hạnh hoàn toàn. Chịu thử thách mà không sa ngã mới đáng đứng và hàng Tiên Thánh.

Đức Chí Tôn mở trường thi công quả và giao cho Đức Di-Lạc Vương Phật làm chủ khảo chấm thi đậu rớt.

Cho nên, mỗi tín đồ Cao Đài đều có một cuốn Bộ công quả, mỗi khi làm được một công quả nào thì chư Thần Thánh biên chép vào cuốn Bộ ấy, để sau khi qui liễu, Đức Di-Lạc xem xét Bộ công quả mà chấm thi đậu rớt.

Kinh Tiểu Tường có câu :
Bộ công  Di-Lạc  Tam Kỳ  độ sanh.
Ấy là khảo thí về công quả.

Ngoài ra Đức Chí Tôn còn khảo thí về đạo đức, hay hạnh đức của tín đồ nữa, bởi vì muốn được vào Tiên tịch thì phải có hai điều kiện :
- Công quả xứng đáng,
- Hạnh đức hoàn toàn.

2 . Trường thi đạo đức :
TNHT : “ Thầy đã nói : Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, nó hằng thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp,  chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.

Thầy lại khuyên các con gìn giữ bộ thiết giáp cho đến ngày hội hiệp cùng Thầy.”  (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 26) 

Cuộc khảo thí nầy là về phần đạo đức, Đức Chí Tôn giao cho bọn Ma vương làm giám khảo, mà Đức Chí Tôn nói bọn nó là lũ hổ lang.

Cho nên, cuộc thi nầy rất khó khăn, bởi vì lũ Ma vương luôn luôn ở kế cận thí sinh, ý muốn đánh rớt thí sinh hơn là muốn cho thí sinh thi đậu, nên bày ra nhiều thứ cạm bẫy để lừa gạt thí sinh.

Luật công bình thiêng liêng không để thầy làm giám khảo cho trò, vì e ngại thầy thương trò mà nương tay không nỡ đánh rớt, nên phải giao cho người khác.

Đức Chí Tôn đã dạy dỗ chúng ta đủ các môn học, rèn luyện chúng ta cho hay cho giỏi, để rồi đến kỳ thi thì giao cho :
-  Đức Di-Lạc làm giám khảo chấm thi công quả.
-  Ma Vương làm giám khảo chấm thi đạo đức.

Có như vậy, việc chúng ta thi đậu mới có giá trị cao, mới xứng đáng làm môn đệ của Đức Chí Tôn, mới được Đức Chí Tôn ban thưởng cho những phẩm vị cao quí thiêng liêng.

II . Ma khảo

Ma khảo là ma quỉ thử thách tâm đức, phẩm hạnh của người tu để xem có xứng đáng đắc đạo cùng chăng.

Thường thì Chánh Tà tương khắc. Hễ Đạo khai thì Tà khởi. Đạo không ma khảo, Đạo khó thành; ma không Đạo khai, ma không được dịp mở cơ  thạnh vượng.

Ma khảo có nhiều cách, đại khái như :
- Mạo danh Tiên Phật, dối ban huyền diệu cốt mê hoặc người tu phải xa đường chánh giáo.
- Giục người thấy sắc đẹp mê sa, thấy tiền bạc hay danh lợi thì ham muốn.
- Hóa ra nhiều việc lạ lùng quái gở làm cho người tu sợ hãi mà bỏ dở công  phu.
- Chiếu theo sở dục của con người mà cám dỗ, tức là đánh ngay chỗ yếu của mỗi người.
- Bày bố những khó khăn gay cấn nguy hiểm làm cho người tu thối chí ngã lòng.

Các Đấng Tiên, Phật đều nói trước rằng : “Vô ma khảo bất thành Đại Đạo, Đạo bất khảo bất thành Phật.”

Xưa, Đức Chúa Jésus, Đức Phật Thích Ca, trước khi thành đạo, phải chịu cho Satan, Quỉ vương, khảo đảo đủ cách, khi không lay chuyển được thì Quỉ vương mới chịu phục và các Đấng ấy mới thành đạo.

Đức Khổng Tử cũng bị khảo đảo 7 ngày giữa biên giới nước Trần và nước Thái. Đường Tam Tạng và ba đồ đệ cũng bị 81 tai nạn khảo đảo mới được thành Phật.

Vượt qua được một lần khảo đảo là trình độ tâm linh tiến hóa lên một bực. Cho nên, nhờ Ma khảo mà các Đấng định phẩm vị cho người tu hành.

Từ cổ chí kim, chư Phật, Tiên, Thánh đều phải trải qua con đường Ma khảo mới chứng được Đạo. Người tu mà chưa biết Ma khảo thì chưa biết giá trị tu hành.

Chúng ta tin chắc rằng, mỗi lần bị khảo mà không ngã là mỗi lần chúng ta được lên một nấc thang tấn hóa đó, nhưng không phải chỉ bị Ma khảo một hay hai lần là đủ, mà chúng ta sẽ bị Ma khảo nhiều lần, bởi vì con đường tấn hóa của chúng ta có nhiều cấp bực.

Mặt khác, thời ĐĐTKPĐ, cửa Đạo mở rộng, nhưng chân giả khó phân. Có người chơn tu, có người mượn danh Đạo tạo danh đời, làm cho những người chơn tu bị mắc oan. Cho nên các Đấng thiêng liêng cho Ma khảo để lựa chọn người chơn tu, loại ra những kẻ giả tu. Kẻ giả tu, sau cơn thử thách thì họ đều hiện rõ cái nguyên hình giả tạo.

Đức Chí Tôn cũng đã có nói trước rằng : “ Thầy làm ra mặt các con coi ”.
Cho nên, nếu không có Ma khảo thì làm sao phân biệt hai điều chơn giả, chánh tà ?
Vậy người tu hành phải chịu luật khảo thí và phải kiên tâm trì chí lướt qua mọi cơn thử thách.
Về  Ma khảo, có thể chia ra 4 cách khảo :
- Nội khảo,      - Ngoại khảo, 
- Thuận khảo,  - Nghịch khảo,

1 .  Nội khảo :

Khi cầu đạo rồi, quyết tâm từ bỏ đường đời để lập thân hành đạo thì người tu thường bị tai nạn, hay bịnh hoạn, . . . Do đó, nhiều người rất sợ, không muốn vào Đạo và lại còn biếm nhẻ rằng, người tu hành đạo đức mà sao bị tai nạn liền liền !  Điều nầy không có gì là nghịch lý, khi chúng ta hiểu Đạo thì sẽ thấy rất rõ ràng.

Đức Chí Tôn cũng có dạy trước rằng :
Ức  lòng  dễ  tỏ  đặng cùng  ai,
Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.
Lão  nói  tỏ  tường cho đó hiểu,
Cũng là  vay  trả  luật xưa nay.  (TNHT)

Chúng ta tự hỏi tại sao có chuyện kỳ lạ như vậy ?
Bởi vì các chủ nợ oan nghiệt thấy vị nầy tu hành rồi, e sau nầy đắc đạo thì rất khó đòi được nợ, nên xúm nhau đến đòi nợ liền liền.

Người tu cần phải lập chí nhẫn nại, cam lòng chịu đựng, không trách móc than van, không oán hờn, vì các món nợ oan nghiệt ấy là của mình và do mình gây ra từ nhiều kiếp trước. Chúng ta cần trụ vững đức tin nơi Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, ráng lo lập đức lập công để tiêu trừ bớt oan khiên nghiệp chướng, vượt qua các cơn khảo đảo. Dần dần, các oan nghiệt sẽ bớt đi, và con đường đạo sẽ được êm chơn tiến bước.

2 .  Ngoại khảo :
Khi mới bước chân vào đường Đạo thì thường bị  thân nhân phản đối, bạn bè hủy báng, hàng xóm chê cười, vv . . . đều thuộc ngoại khảo. Có khi bị người lấy oán báo ơn, bị xuyên tạc, bị hàm oan, bị vu khống, vv. . . khiến người tu không đủ kiên nhẫn để nhịn nhục, nên nổi giận chống đối quyết liệt.

Người tu phải ráng giữ vững đức tin, dùng sự ôn hòa và tận tụy giúp đỡ mọi người, nhứt là những người chỉ trích mình hay làm hại mình, cầu xin Ơn Trên hộ trì giúp sức cho mình sớm vượt qua cơn khảo đảo.
Đức Chúa đã nói : Kẻ nào đánh vào má bên trái của ta, ta đưa má bên phải cho nó đánh luôn một thể.
Đức Phật Di-Lạc cũng có nói : Có người chửi vào mặt Lão chuyết, Lão chuyết cười hì hì; nếu nhổ nước miếng vào mặt ta, cứ để vậy cho nó khô, khỏi cần phí công lau chùi, làm cho kẻ nhổ cũng được vui.

3 .  Thuận khảo : 
Có hai mặt : Thánh và phàm.
- Mặt Thánh : Được bậc bề trên khen thưởng, được kẻ hậu học ủng hộ, dần dần trở nên đắc ý, hợm mình, rơi vào con đường danh của Đạo mà trở thành ngạo mạn, bỏ quên phần đạo tâm ở phía sau lưng.

Khi được bậc trên thương yêu, hậu học xem trọng, thì càng phải tự cảnh tỉnh lấy mình. Tài bao nhiêu, đức bao nhiêu mà được ân sủng như vậy ? Trong lòng phải luôn luôn cảm tạ ơn đề bạt của các bậc huynh tỷ bề trên, thương yêu đoái hoài đến đàn hậu học, khiêm tốn nhúng nhường, nâng đỡ đàn hậu học, làm gương mẫu cho đàn em noi bước. Đó là cách biến Thuận khảo thành bậc thang tiến hóa của tâm hồn.

- Mặt phàm : Buôn bán phát đạt, thăng quan tiến chức, thành công mọi mặt, vợ chồng nặng tình ân ái khó lìa. Trong hoàn cảnh hân hoan đắc ý như thế, người tu dần dần trọng phàm khinh Thánh, biến tu đạo thành tu đời, mà quên đi lời Minh thệ lúc ban đầu.

Muốn thoát vòng tục lụy nầy, người tu phải biết rằng, những cái thành công đắc ý đó là do cái nhân tốt mà mình đã gây ra trong kiếp trước. Nếu không lo vun trồng cái nhân tốt ấy, thì chỉ hưởng một thời gian rồi hết. Cho nên càng đắc thế càng giàu sang thì càng phải lo lập công đức, tôn kỉnh Thần Thánh, giúp đỡ mọi người về vật chất hay về tinh thần trong một tình thương yêu chơn thật.

4 .  Nghịch khảo :
Có hai mặt : Thánh và phàm.
- Mặt Thánh : Người tu gặp các bậc bề trên vô tình, có công không được thưởng, vô cớ bị phiền trách, đối với cấp dưới thì không được hậu học kính trọng. Bao lâu khổ công hy sinh lo cho Đạo nghiệp, nay bị nghịch cảnh khảo duợt, làm người tu nản lòng thối chí.

Khi gặp Nghịch khảo như thế, chớ nên sanh lòng căm hờn, mà nên luôn luôn xét lấy mình, vì Đạo thuộc vô vi, tấm lòng son sắt có Trời cao soi xét, việc khen thưởng hay chê bai nơi cõi trần nầy là không đáng kể. Luôn luôn giữ lòng trong sạch không đổi, càng bị hàm oan, càng chịu đựng trong quyết tâm tu hành thì càng được cao thăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.

Gương xưa như nàng Thị Kính, rồi sãi Kỉnh Tâm, chịu hàm oan khổ nhục biết bao nhiêu mà kể, nhưng vẫn âm thầm chịu đựng, không than không oán, vẫn quyết lòng tu niệm, mới đắc thành Phật vị.
- Mặt phàm: Khi phát tâm hành đạo, cha mẹ không thích, vợ con ngăn cản, . . . , việc làm không thuận, cấp trên khinh khi, cấp dưới lờn mặt, đó là Nghịch khảo.

Gặp cảnh nầy, ta phải an phận, kiên nhẫn lấy đức cảm hóa mọi người, rồi dần dần hoàn cảnh cũng thay đổi, trở nên thuận bề vui vẻ.

Sau khi cầu đạo lo việc tu hành thì việc làm ăn thất bại, vợ chồng gây gổ, con cái bất bình, . . . đều thuộc về Nghịch khảo.

Người tu phải hiểu thấu suốt lý nhơn quả. Vợ chồng hay con cái đều là duyên nợ, duyên tốt hay xấu, dài hay ngắn, đều là nhân đã kết tập từ kiếp trước. Tiền tài, nhà cửa, ruộng đất, chỉ là thân ngoại vật, sinh ra không mang đến, chết rồi cũng không mang theo được.

Hiểu rõ như thế, thì sự vinh hoa, đắc thất như một giấc chiêm bao. Trong lòng cứ thản nhiên như đám mây bay trên trời, hay như  dòng nước chảy.

Đường đạo đã trải qua, chúng ta thấy rõ việc tu hành gặp không biết bao nhiêu trở lực, nào là người hữu ý hay vô tình kích bác, cho đến bà con cật ruột cùng bạn thân yêu buổi trước mà nay thấy chúng ta tu hành, họ cũng đem lòng nhạo báng, nào là kẻ gây điều khó dễ mong phá hoại việc tu.

Chúng ta lại gặp nhiều nghịch cảnh : tiền tài thiếu thốn, tật bịnh triền miên, hoặc những nỗi bất bình, những điều thống khổ, để khiến chúng ta ngã lòng thối bước, nếu không nhẫn nại và vững đức tin.

Phần trên vừa trình bày chi tiết tất cả hình thức Ma khảo người tu, nhưng không phải người tu nào cũng bị Ma khảo như các trường hợp kể trên. Ma chỉ khảo chỗ nào yếu kém của người tu mà thôi. Đây có thể xem là cái tài giỏi của Ma vương, vì nó biết người tu nầy yếu chỗ nào, người tu kia yếu chỗ kia, để mà khảo đúng ngay chỗ đó cho người tu dễ rớt.

Trong các đề tài : danh, lợi, quyền, nộ, ố, ai, dục, tửu, sắc, tài, khí, người tu yếu về chữ nào thì nó biết nó khảo ngay thứ đó. Người tu nào còn ham tiền thì nó dùng tiền vàng để thử, người tu nào còn ham sắc thì nó dùng sắc đẹp để thử, người tu nào còn háo danh thì nó dùng chức nầy tước nọ để thử, vv . . .

Ma không hình tướng, tùy theo lòng ham muốn của người mà nó hiện ra, nếu thấy sắc dậy lòng tà thì bị con ma sắc thừa cơ làm hại. Nếu chưa làm chủ được tánh nộ thì mỗi khi phát nộ, nghiến răng trợn mắt, đỏ mặt tía tai, nói năng bẩu lẩu, . .thì đó là hiện thân của con ma nộ vậy.

Con người nơi cõi trần tiêm nhiễm quá nhiều vật chất qua nhiều kiếp, nên lục dục thất tình luôn luôn dấy động. Nhờ Ma khảo mà biết được chỗ yếu kém của mình để cố gắng sửa đổi, dần dần bản tánh hóa thuần mà hợp với Thiên tánh.

Mỗi khi bị khảo, không nên sanh lòng oán hận, mà phải thuận tùng tiếp nhận, nhẫn nại vượt qua, vì mỗi lần khảo là mỗi lần bớt được một số nợ oan nghiệt của kiếp trước. Một khi đã vượt qua một cơn khảo đảo thì đường Đạo dễ đi hơn.

Tóm lại, cơ Đạo có Nội khảo, Ngoại khảo, Nghịch khảo, Thuận khảo, là những phương pháp trui rèn lòng người tu hành cho ra cao thượng. Vàng không trui lửa, ai biết vàng cao; ngọc chẳng giồi mài, ai hay ngọc quí.

Trong các cơn khảo đảo, người tu cần phải giữ hai điều cốt yếu sau đây :
- Giữ vững đức tin, tin tưởng mạnh mẽ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, là hai Đấng Cha Mẹ chung thiêng liêng.
- Giữ chặt cái tâm, không vọng động, cho an nhiên thanh tịnh, không ham không muốn, không gì hết ráo, thì mọi sự thử thách của quỉ ma chỉ như luồng gió thoảng.

Mỗi lần bị Ma khảo, mỗi lần vượt qua là mỗi lần đạo tâm tiến lên một bực cao hơn, và lần lần tiến hóa lên những bực cao dần, cuối cùng thì được trở về ngôi vị cũ nơi cõi TLHS.

Chương 21

NHƠN SANH QUAN

Nhơn sanh quan (Nhân sinh quan) là một hệ thống tư tưởng triết học xem xét về nguồn gốc của con người, sự sống sự chết, mục đích và ý nghĩa của đời sống con người.

Nhân sinh quan của Đạo Cao Đài thuộc về triết học Duy Linh Duy Nhất, vượt lên trên triết học Duy Tâm và Duy Vật, mà còn dung hợp được hai quan niệm nầy.

Nhân sinh quan của Đạo Cao Đài sẽ giải đáp một cách minh bạch các vấn đề sau đây :
-   Nguồn gốc của loài người. Con người từ đâu tới ?
-   Con người có Linh hồn không ? Linh hồn là gì ?

  Khi thể xác chết đi, Linh hồn xuất ra đi đâu ?
-   Con người đầu thai xuống cõi trần bằng cách nào ?
-   Thượng Đế là ai ?  Thượng Đế và con người.
-   Quỉ vương là ai ?  Thiên đàng và Địa ngục.
Mục đích cuộc sống của con người.

I . Nguồn gốc của loài người.
Đạo Cao Đài xác nhận rằng, loài người nguyên thủy có được là do sự tiến hoá của loài khỉ vượn thuộc lớp động vật cao cấp mà thành. Điều nầy được chứng minh bằng Định luật Tiến hóa của chúng sanh và của Bát hồn.
1 - Luật Tiến hóa của chúng sanh.
Chúng sanh là các loài sanh vật, tức là các loài vật có sự sống được sanh ra trên mặt Địa cầu nầy, gồm : Vật chất Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại.

Khởi thủy, quả Địa cầu của chúng ta chỉ là một khối lửa văng ra từ Mặt Trời. Theo thời gian, khối lửa ấy nguội dần, tạo ra một lớp vỏ đất đá bao bọc bên ngoài. Đến lúc nhiệt độ hạ xuống khá thấp, lớp hơi nước được tạo thành bao bọc chung quanh Địa cầu, gây ra những đám mưa lớn rơi xuống, tạo nên các sông ngòi và biển cả.

Nước của sông và biển làm ổn định nhiệt độ của Địa cầu, nên sanh vật bắt đầu  xuất hiện trong nước.
Sanh vật đầu tiên là loài Thảo mộc đơn giản chỉ có một tế bào (đơn bào). Dần dần nó sanh sản thêm bằng cách phân bào, rồi tiến hóa lên thành các loại nấm, rong rêu, tiến hóa tiếp thành cây cỏ và cây cối. Càng tiến hóa, Thảo mộc càng to lớn, rắn chắc  và phức tạp.

Một thời gian dài tiếp theo, loài động vật bắt đầu  xuất hiện. Động vật đầu tiên xuất hiện trong nước, có cơ cấu đơn giản chỉ một tế bào (đơn bào). Dần dần nó sanh sản và tiến hóa lên thành các loài sứa, loài cá, rồi tiến hóa thành các loài động vật sống trên cạn có chân, tiến hóa lên nữa thành loài thú chạy, thú bay. Loài động vật có trình độ tiến hóa cao nhất là giả nhân thuộc loài khỉ vượn.
Trong loài khỉ vượn, ở cấp thấp chúng có thân hình nhỏ và có đuôi. Chúng tiến hóa lên thành loài khỉ vượn cao cấp gọi là giả nhơn, có thân hình to lớn không đuôi.

Một thời gian dài tiếp theo, loài giả nhơn tiến hóa lên thành loài người nguyên thủy. Giả nhơn còn di chuyển bằng bốn chi, tiến hóa lên thành người nguyên thủy thì đi bằng hai chân sau, hai chi trước trở thành hai tay để cầm bắt và hái lượm trái cây. Hình vóc cũng  lần lần biến đổi, tướng đi đứng thẳng, lông trên thân thể rụng dần, cái đầu nở to, bộ óc phát triển lớn dần.
Chúng ta có thể tóm tắt sự tiến hóa của chúng sanh bằng hình vẽ sau đây :

(hình vẽ sự tiến hóa của chúng sanh với 3 nguyên hồn)

- Loài Kim thạch có sự sống chưa thể hiện rõ rệt, nó chỉ là sự liên kết của các tế bào tạo thành tinh thể rắn chắc. Loài kim thạch hoàn toàn không có tri giác.
- Loài Thảo mộc, được Thượng Đế ban cho một điểm nguyên hồn để làm Sanh hồn, tạo nên sự sống. Điểm nguyên hồn nầy được Đấng Thượng Đế rút ra từ khối Đại hồn (Đại Linh Quang) của Ngài.

Loài Thảo mộc chỉ có sự sống mà chưa có tri giác.
Loài Thảo mộc cấp cao thì lá biết khép lại khi đêm xuống hay khi bị đụng chạm, như cây su đủa, cây mắc cở; vài loại Thảo mộc có cánh hoa phát ra mùi thơm để dụ côn trùng bay đến rồi khép các cánh hoa ấy lại đặng bắt côn trùng mà hút thịt và máu. Như thế, chúng đã có chút ít tri giác nhưng rất thô sơ, gần như chỉ là những phản xạ tự nhiên.
- Tiến lên là loài Động vật, được Thượng Đế ban thêm cho một điểm nguyên hồn nữa để làm Giác hồn, tạo ra sự hiểu biết, như đau đớn biết la, sợ hãi biết chạy trốn, biết đi tìm thức ăn thích hợp, biết tìm chỗ ẩn trú an toàn, biết nuôi con, có chút ít trí nhớ nhưng rất sơ sài.
- Tiến lên đến phẩm Nhơn loại, là đẳng cấp cao nhứt của chúng sanh, được Thượng Đế ban thêm cho một điểm nguyên hồn nữa để làm Linh hồn, lúc đó sự hiểu biết  mới được hoàn toàn.
Nhờ linh hồn, con người có được sự hiểu biết, sự suy nghĩ, phán đoán, biết được lẽ phải trái và có tánh linh.
Đến đây, con người có đủ Tam Hồn : Sanh hồn, Giác hồn và Linh hồn.

Những con thú mới tiến hóa lên làm người thì còn khờ khạo ngu ngây, độc hiểm, hình dáng thô kệt xấu xí, nếu chịu học hỏi tiến hóa thì chuyển kiếp đôi ba chục lần cũng đặng minh mẫn khôn ngoan và có thân hình tốt đẹp.

2 -  Luật Tiến hóa của Bát hồn :
Tất cả chơn linh trong CKVT, gọi là Vạn linh, được chia làm 8 bực tiến hóa cao thấp khác nhau, gọi là Bát hồn hay Bát phẩm Chơn hồn, kể từ thấp lên cao :
1. Kim thạch hồn.                    5. Thần hồn.
2. Thảo mộc hồn.                     6. Thánh hồn.
3. Thú cầm hồn.                       7. Tiên hồn.
4. Nhơn hồn.                            8. Phật hồn.

- Sự Tiến hóa trong giai đoạn đầu từ Kim thạch hồn lên Nhơn hồn là sự Tiến hóa tự nhiên, do sự thúc đẩy Luật Tiến hóa, và sự tiến hoá đi lên dần dần theo từng cấp bực, không có sự nhảy cấp và cũng không có sự thoái cấp.
- Sự Tiến hóa trong giai đoạn tiếp theo, từ Nhơn hồn lên đến Phật hồn là do sự tu luyện của Nhơn hồn, nên Nhơn hồn có thể tiến hóa rất nhanh, một kiếp tu có thể vượt lên hai cấp, ba cấp hay bốn cấp, để đến Phật hồn; nhưng cũng có thể thoái hóa xuống loài Cầm thú khi Nhơn hồn không tu mà lại phạm vào tội đại ác.
*  Con người nhờ có trí não khôn ngoan hiểu biết, phân biệt được điều hay lẽ dở, thiện ác, chánh tà, có lương tâm kềm chế, có lục dục thất tình xúi giục. Nếu biết bỏ ác theo lành, cải tà qui chánh, chế ngự lục dục thất tình và chuyển hóa chúng theo đường Thiên lý thì con người sẽ tiến hóa đi lên, tùy theo công đức nhiều ít mà đạt được các phẩm : Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.
Luật tiến hóa của Bát hồn

* Nếu ngược lại, con người bỏ chánh theo tà, bỏ lành làm ác theo vật dục thấp hèn thì Nhơn hồn bị thoái hóa xuống Cầm thú, mang lông đội sừng mà đền tội lỗi.

Sự Tiến hóa đi lên của Nhơn hồn, khi đã đến Phật hồn rồi thì chưa phải là đến mức tối cao của nấc thang tiến hóa. Phật hồn còn phải tiếp tục tu luyện để tiến hóa lên mức tối cao là Thiên hồn, tức Đại hồn của Thượng Đế.

Tới đây là đi giáp một chu trình tiến hóa của Bát hồn, bởi vì Bát hồn xuất phát từ Thiên hồn (Đại hồn, Đại Linh Quang), đi chu du giáp một vòng tiến hóa, nay trở về hiệp nhập vào Đại hồn.

Sự tiến hóa từ loài khỉ vượn cao cấp (giả nhơn) lên phẩm người, phù hợp với sự khám phá của các nhà khoa học và khảo cổ với chứng tích là các bộ xương hóa thạch của vượn-người, rồi người-vượn, và sau cùng tiến hóa thành người nguyên thủy, thủy tổ của nhơn loại.

Nhiều người phủ nhận nguồn gốc con người là sự tiến hóa từ loài vượn cao cấp, cho rằng như vậy là hạ thấp phẩm giá của con người, nhưng đây là sự thật đúng theo luật Tiến hóa của Càn Khôn, đúng theo Luật Tiến Hóa của Bát Hồn.
3 -  Con người từ đâu tới ?  Ba hạng người.
Nhơn loại được chia làm ba hạng người, căn cứ theo nguồn gốc : đó là Nguyên nhơn, Hóa nhơn, Quỉ nhơn.
a . Hóa nhơn :
Hóa nhơn là những người do sự tiến hóa đi lên từ loài Thú cầm. Đa số trong nhơn loại đều là Hóa nhơn. Tuy Hóa nhơn có đủ Tam hồn, nhưng ý thức còn rất ngu khờ, lại mới thoát ra từ Thú cầm, nên tánh tình còn hung dữ thô lỗ, hình dáng còn thô kệch xấu xí, chưa đủ khôn ngoan và kinh nghiệm để xây dựng đời sống tiện nghi tốt đẹp.
Đó là loài người nguyên thủy, còn trong tình trạng ăn lông ở lỗ. Thời gian nầy kéo dài khá lâu.
ThượngĐế thấy vậy mới cho các Nguyên nhơn khôn ngoan và tốt đẹp giáng trần để khai hóa các Hóa nhơn.

b. Nguyên nhơn :
Thượng Đế cho các Nguyên nhơn đầu kiếp xuống trần, nhập vào bào thai của các Nữ Hóa nhơn, để được  sanh ra làm người, gọi là Nguyên nhơn.

Các Nguyên nhơn lớn lên có hình dáng tốt đẹp, giữ được Thiên tánh, chưa nhiễm trược trần, trí não thông  minh sáng suốt, đứng ra lãnh đạo và giáo hóa các Hóa nhơn cho được hiểu biết, tiến bộ, thoát khỏi đời sống dã man ăn lông ở lỗ, xây dựng một xã hội trật tự  tiến bộ.

Theo sử sách xưa để lại, chúng ta biết :
- Hữu Sào dạy dân kết cây làm tổ để ở, tránh nguy hiểm do thú dữ gây ra.
- Toại Nhân dạy dân khoan cây lấy lửa, dùng lửa nấu chín thức ăn.
- Phục Hy dạy dân nuôi thú vật để sai khiến làm lụng, chế ra lưới để bắt cá bắt chim, chế đàn cầm đàn sắt để dạy dân lễ nghĩa, qui định phép gả cưới để tạo thành gia tộc, chế ra Bát Quái để chỉ cái lẽ Âm Dương biến hóa của Trời Đất cho dân biết thuận tùng Thiên lý.
- Thần Nông dạy dân làm cày bừa, phát triển nghề nông, gieo trồng Ngũ cốc, tổ chức chợ búa để dân hội họp trao đổi hàng hóa, chế ra lịch để dân biết năm tháng mà gieo cấy, nếm thử các thứ cây cỏ để chế thuốc trị bệnh.
- Huỳnh Đế (Hoàng Đế) chế ra xe thuyền để đi lại và vận chuyển hàng hóa, chế ra áo mão để phân định tôn ti trật tự, chế ra văn tự để ghi chép.

Những vị kể trên chỉ là điển hình của các Nguyên nhơn có công giáo hóa dân chúng, đem lại nhiều lợi ích cho nhơn sanh, nên được nhơn sanh biết ơn, tôn lên làm vua.

Theo Thánh giáo thì Thượng Đế cho tất cả 100 ức Nguyên nhơn giáng trần ở khắp nơi trên thế giới, trong đủ các sắc dân. Đã có 8 ức Nguyên nhơn làm xong nhiệm vụ, giữ được bổn tánh thiên lương, nên đã trở về cùng Đức Chí Tôn, còn lại 92 ức Nguyên nhơn bị nhiễm nhiều thứ ô trược nên vẫn còn trầm luân nơi cõi trần.
(1 ức = 100 ngàn;  92 ức = 9 triệu 200 ngàn)

c . Quỉ nhơn :
Những Hóa nhơn và những Nguyên nhơn ác hành, phạm Thiên điều, linh hồn bị đọa vào Quỉ vị, thành ra các Quỉ hồn. Các Quỉ hồn đầu kiếp lên làm người nơi cõi trần  để trả quả, được gọi là Quỉ nhơn.

Vậy, nhơn loại đến Địa cầu nầy có 2 nguồn gốc :
- Một là Thú cầm tiến hóa lên làm Người, gọi là Hóa nhơn, đó là người nguyên thủy, Thủy tổ loài người.
- Hai là từ cõi Trời, được Thượng Đế cho giáng sanh xuống làm Người nơi cõi trần, gọi là Nguyên nhơn.

Phần lớn trong nhơn loại đều là Hóa nhơn. Số Nguyên nhơn hiện nay còn lại nơi cõi trần là 92 ức. Số  Quỉ  nhơn trong nhơn loại cũng khá nhiều, vì đây là thời Mạt Kiếp sắp chấm dứt để bước vào Đại Hội Long Hoa, nên Đức Chí Tôn cho tất cả các Quỉ hồn đầu kiếp để thực hiện sự trả quả gấp rút và rốt ráo.

II . Con người có linh hồn không ?
Ba Thể của con người :
Con người khi mới được sanh ra, hài nhi biết tìm vú mẹ để bảo tồn sự sống, khi đau biết khóc, khi đói biết la, khi khát biết uống; lớn lên một chút thì khi vui biết cười, khi giận biết la hét. Cái hiểu biết tự nhiên đó, không ai dạy mà biết, là do linh hồn của đứa bé mà Thượng Đế đã ban cho. Nếu phủ nhận linh hồn thì cái hiểu biết tự nhiên đó của hài nhi do đâu mà có ?

Khi lớn lên hơn nữa, đứa trẻ nhờ sự thông minh sáng suốt mà biết được lẽ phải quấy, lẽ thiện ác; khi làm điều thiện thì nó vui vẻ, khi làm điều ác thì nó bị lương tâm cắn rứt. Cái lương tâm ấy do đâu mà có ? Nó chính là sự thể hiện của linh hồn đứa trẻ và cái sự thông minh sáng suốt ấy cũng là do linh hồn của nó mà ra.

Khi đứa trẻ vào trường, học những điều khôn ngoan của người xưa truyền lại, nhờ có trí nhớ, nó thu thập được các điều đó để trở nên khôn ngoan hiểu biết thêm, trí não mở mang. Cái hiểu biết do học tập mà có là của trí não, thuộc về Chơn thần, một thể trung gian giữa Thể xác và Linh hồn.

Mặt khác, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nầy bằng cách dùng huyền diệu cơ bút để thông công giữa Ngài và nhơn loại ở thế giới hữu hình. Ngài muốn cho nhơn loại thấy rằng,  ngoài  thế  giới vật chất hữu hình, còn có một thế giới siêu tuyệt hơn, thuộc về vô hình của các Đấng Thần Thánh Tiên Phật.

Hiện tượng Thông Linh học đã được nhơn loại khám phá từ  giữa thế kỷ 19 với việc xây bàn nói chuyện với các Vong linh người chết của văn hào Victor Hugo tại đảo Jersey của nước Anh.

Ở Việt Nam, trong giới bình dân, người ta biết dùng một mảnh ván hòm để xây cơ ma, nói chuyện với các vong linh người đã chết. Việc làm nầy rất dễ dàng, ai nghi ngờ không có Linh hồn, đều có thể thử nghiệm được.

Nhưng một số người vẫn ngoan cố nói rằng Linh hồn ở đâu mà họ không thấy ?

Vậy, chúng ta cũng hỏi lại rằng : Chúng ta có thấy được nguyên tử không ? Có thấy con vi khuẩn không ? Chắc là chưa ai thấy được, nhưng chúng ta tin chắc rằng có nguyên tử, có vi khuẩn, bởi vì các nhà bác học đã nghiên cứu tìm ra được nó, với những hệ quả rõ rệt của nó và công bố lên cho mọi người đều biết.

Tương tự như thế, vấn đề Linh hồn cũng không ai thấy được, nhưng các nhà khoa học về Thông Linh đã nghiên cứu phát hiện ra với các hệ quả rõ rệt, và các nhà tu luyện có huệ nhãn đã thấy biết được rõ ràng, nên công bố lên cho mọi người đều biết, thì đương nhiên chúng ta phải tin đó là sự thật.

Trong Giáo lý của Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn dạy chúng ta biết rằng, con người có ba Thể :
- Thể xác, thuộc về vật chất hữu hình.
- Linh hồn, thuộc về vô vi vô hình.
- Chơn thần, thuộc về bán hữu hình, làm trung gian cho Linh hồn và Thể xác.
1 . Thể xác : Đệ nhứt xác thân, Xác thân phàm.
Thể xác con người được gọi là Đệ nhứt xác thân, hay Xác thân phàm, do tinh huyết của cha mẹ phàm trần tạo nên, lớn lên và được nuôi dưỡng bằng thực phẩm vật chất. Đến khi già nua, tế bào không còn hoạt động được nữa thì chết, thể xác thúi rã biến thành vật chất trở lại.

Như thế, thể xác phàm không bền, chỉ sống được một khoảng thời gian rồi chết, nên gọi nó là Giả thân, xác thân giả tạm. Phật giáo cho rằng, xác thân phàm do Tứ đại giả hiệp, nên nó là huyễn, chỉ tồn tại một thời gian rồi phải rã tan để trở về cát bụi.

2 . Chơn thần : Đệ nhị xác thân,
Xác thân thiêng liêng.
“ Chơn thần là gì ?  Là Nhị xác thân (Périsprit), là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm níu kéo.

Cái Chơn thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật, là huyền diệu vô cùng, bất tiêu bất diệt. Bậc chơn tu, khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái Chơn thần ấy  mới đặng phép đến trước mặt Thầy. “ (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 2)

“ Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân : Một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra, nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.... Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh của xác phàm như  khuôn in rập.” (TNHT 1-2, B 20)

Cái Chơn thần của mỗi người có được là do Đức Phật Mẫu lấy hai nguyên khí Âm quang và Dương quang nơi Diêu Trì Cung, kết hợp tạo thành.

Còn Linh hồn là điểm Linh quang do Đức Chí Tôn ban cho. Đức Phật Mẫu thâu điểm Linh quang nầy, rồi tạo ra cho nó một Chơn thần (Xác thân thiêng liêng) bao bọc Linh hồn, tạo thành một con người nơi cõi thiêng liêng. Như vậy, một người nơi cõi thiêng liêng có hai thể : Linh hồn và Chơn thần.

Khi một người nơi cõi thiêng liêng được phép đầu kiếp xuống cõi trần thì Chơn thần và Linh hồn đi xuống nhập vào hình hài đứa bé vừa lọt khỏi lòng mẹ, làm cho đứa bé giựt mình phát ra tiếng khóc chào đời. Chơn thần sẽ làm khuôn viên cho thể xác đứa bé lớn lên, còn Linh hồn tạo ra sự hiểu biết và bảo tồn sự sống cho đứa bé.

Do đó, hình ảnh của thể xác đứa bé là hình ảnh của Chơn thần đứa bé, từ khi ấu thơ đến khi trưởng thành hay đến lúc già.

Khi thể xác chết thì Chơn thần và Linh hồn xuất ra khỏi thể xác, bay trở về cõi thiêng liêng. Chơn thần mang lấy hình ảnh của thể xác như  khuôn  in  rập.

Cái Chơn thần của người chết có khi hiện hình cho người phàm thấy được, thường gọi đó là Ma hay Hồn Ma, khi thì biến mất, nên Chơn thần thuộc về bán hữu hình, nghĩa là có thể thấy được và có thể không thấy được.

Chơn thần được Đức Phật Mẫu tạo ra bằng hai nguyên khí Âm quang và Dương quang, nên Chơn thần có thể đi xuyên qua vật chất, không có gì cản trở được nó. Ánh sáng còn bị vật chất cản trở, nhưng Chơn thần thì giống như từ trường, đi xuyên suốt qua vật chất dễ dàng.

Đối với người sống, Chơn thần ẩn trong thể xác phàm, trung tâm của nó là óc (não bộ), và cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, tức là Nê Huờn Cung.

Chơn thần liên hệ thể xác qua 7 dòng từ điện. Nhờ 7 dòng từ điện nầy, Chơn thần ra lịnh điều khiển thể xác, cũng do nơi đó, thể xác đòi hỏi Chơn thần làm cho nó thỏa mãn, khiến nên thể xác gây ra nhiều mối oan nghiệt, nên 7 dòng điện từ nầy được gọi là 7 Dây Oan nghiệt.

Đức Chí Tôn ban cho phép Đoạn căn là để cắt đứt 7 Dây Oan nghiệt nầy, để Chơn thần bứt ra khỏi thể xác, không còn bị thể xác níu kéo, mà trở về cõi thiêng liêng.

3 . Chơn linh : Linh hồn, điểm Linh quang.
“ Thầy đã nói rằng, nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một Chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn.  Thầy tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng : Đấng Chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần Thánh Tiên Phật và các Đấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán xét. Bởi vậy, một mảy không qua, dữ lành đều có trả; lại nữa, cái Chơn linh ấy có tánh Thánh nơi mình, đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn là Lương tâm đó .” (TNHT 1-2 hợp nhứt, B144)

“ Các con đừng vì tư lợi mà làm mất nhơn cách thì rất uổng cái điểm Linh quang của Thầy để vào Xác thân của các con lắm. Các con nghe à ! “ (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 108)

Chơn linh, tức là Linh hồn, là điểm Linh quang của Thượng Đế chiết ra từ khối Đại Linh quang của Ngài, ban cho mỗi người để tạo nên sự sống, gìn giữ sự sống, tạo ra sự hiểu biết và tánh linh.

Con người có đủ Tam hồn : Sanh hồn, Giác hồn, Linh hồn. Cái Linh hồn ấy mới quan trọng hơn cả, vì nhờ nó mà phân biệt con người với thú cầm.

Chơn linh (Linh hồn), ngự trong Chơn thần, Chơn thần ở trong Xác phàm và rập khuôn theo Xác phàm.

Đối với một người đang sống nơi cõi trần, Chơn linh ngự tại Tim (Tâm), bởi vì trái tim là nơi điều hành và ban phát sự sống cho toàn cơ thể. Do đó, Chơn linh được gọi là Lương tâm, Phật giáo gọi Chơn linh là Tâm, cũng do đó.

Khi Chơn linh và Chơn thần xuất ra khỏi thể xác thì trái tim ngưng đập, thể xác chết.

Khi đó, Chơn thần và Chơn linh bay trở về cõi thiêng liêng, trở thành một người nơi cõi thiêng liêng.

Vậy, một người nơi cõi thiêng liêng chỉ có 2 thể :
* Một là Chơn thần, tức là Xác thân thiêng liêng.
 * Hai là Chơn linh, ngự trong Chơn thần điều khiển Chơn thần.

Còn đối với một người sống nơi cõi phàm thì ngoài hai thể trên, còn có một thể nữa là : Xác thân phàm.
Vậy một người nơi cõi phàm trần có 3 thể :
- Thể xác phàm, Đệ nhứt xác thân, do cha mẹ phàm sanh ra, được nuôi dưỡng bằng thực phẩm vật chất phàm trần.
- Chơn thần, Đệ nhị xác thân, Xác thân thiêng liêng do Đức Phật Mẫu tạo nên. Do đó, Đức Phật Mẫu là Mẹ Chơn thần của toàn nhơn loại, nên gọi Đức Phật Mẫu là Đại Từ Mẫu.
- Chơn linh, Linh hồn, điểm Linh quang, do Đức Chí Tôn ban cho để tạo sự sống, sự khôn ngoan hiểu biết. Do đó, Đức Chí Tôn là Cha Chơn linh của nhơn loại nên gọi là Đại Từ Phụ.

Tóm lại, Chơn linh ngự trị trong Chơn thần, Chơn thần ẩn trong thể xác và làm khuôn cho thể xác.
Chơn linh điều khiển Chơn thần, Chơn thần điều khiển thể xác qua 7 dòng điện từ gọi là 7 Dây Oan nghiệt. Thể xác thường hay đòi hỏi Chơn thần làm cho nó thỏa mãn và xúi giục Chơn thần đi vào đường vật chất, cũng do theo 7 Dây Oan nghiệt nầy.

Chơn linh thường ngăn cản không cho Chơn thần chiều theo các đòi hỏi của Thể xác, nhưng nếu Chơn linh yếu đuối không đủ sức kềm chế Chơn thần, để Chơn thần nghe theo sự lôi cuốn của Thể xác, lúc đó con người đi vào vòng vật dục tội lỗi. Khi Thể xác chết, Chơn linh và Chơn thần phải bị đày đọa theo Luật Nhân Quả.

III . Con người khi chết đi về đâu ?

Như phần II vừa trình bày, con người chết không phải là hết, chỉ có thể xác chết, còn Linh hồn và Chơn thần thì bất tiêu bất diệt, xuất ra khỏi thể xác trở về cõi thiêng liêng, vì nơi đây là cõi chơn thật của Linh hồn.

Để giải đáp vấn đề : Con người khi chết đi về đâu ?
Chúng ta phân ra 3 trường hợp với 3 nhóm người :
-  Người không có tín ngưỡng tôn giáo.
-  Người tín đồ Cao Đài giữ đúng Luật Đạo                                                                           
-  Người tín đồ của các tôn giáo khác.
1. Đối với người không tín ngưỡng :
Trong TNHT, Đức Chí Tôn dạy như sau :
“ Các con đã sanh tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy. Thầy hỏi : Các con chết rồi, các con ra thế nào ? Các con đi đâu ? Chẳng một đứa nào hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy.

Thầy dạy : Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người, phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn năm, muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.

Nhơn phẩm nơi thế nầy lại còn chia ra phẩm giá  mỗi hạng. Đứng bực Đế Vương nơi trái Địa cầu nầy, chưa đặng vào hạng chót của Địa cầu 67. Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy.

Cái quí trọng của mỗi Địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Đệ nhứt cầu, Tam thiên Thế giới  thì mới đến Tứ Đại Bộ Châu, qua Tứ Đại Bộ Châu mới vào đặng Tam thập lục Thiên; vào Tam thập lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa, mới đặng đến Bạch Ngọc Kinh, là nơi đạo Phật  gọi là Niết Bàn đó vậy.

Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị.

Vậy Thầy lại dặn các con : Nếu kẻ không tu, làm đủ bổn phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào đặng hội hiệp cùng Thầy.

Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng.” (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 65)

Những người không có tín ngưỡng tôn giáo, khi chết đi, Linh hồn và Chơn thần chưa thể xuất ra khỏi thể xác được vì bị 7 Dây Oan nghiệt ràng buộc níu kéo, phải chờ đợi một thời gian để cho thể xác tan rã, Chơn thần mới bứt rời các sợi Dây Oan nghiệt, để cùng Linh hồn bay lên cõi Trung giới. Tại đây có Minh Cảnh Đài hay Đài Chiếu Giám để Linh hồn và Chơn thần nhìn vào tấm kiếng huyền diệu, xem lại tất cả hành vi lời nói của mình trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, để định rõ tội và phước, có cây Cân Công bình thiêng liêng và các Đấng cân phân tội phước cho  mỗi Linh hồn.

-  Nếu phước nhiều tội ít thì được chuyển kiếp lần lượt theo các nấc thang tiến hóa mà Đấng Thượng Đế đã dạy trong bài Thánh ngôn nêu trên, tức là tiến hóa theo Thất thập nhị Địa, lên Tam thiên Thế giới, rồi Tam thập lục Thiên, vv...

- Nếu phước ít tội nhiều thì Chơn thần và Linh hồn được đưa đến cõi Âm Quang để tịnh tâm xét mình, thấy được các tội lỗi mà mình đã gây ra để ăn năn sám hối.

Cõi Âm Quang mới được lập ra trong thời ĐĐTKPĐ thay thế cõi Địa ngục, bởi vì cõi Địa ngục trước đây là nơi giam giữ và hành phạt các tội hồn, nay  Đức Chí Tôn thể lòng từ bi ra lịnh đóng Địa ngục, ân xá các tội hồn, không cho hành phạt các tội hồn nữa, mà đưa đến cõi Âm Quang để học đạo. Nơi đây, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các nam tội hồn, và Thất Nương Diêu Trì Cung giáo hóa các nữ tội hồn. (Xem : Cõi Âm Quang).

Những tín đồ Cao Đài thất thệ, không giữ tròn Luật Đạo, hoặc những tín đồ của các tôn giáo khác mà không giữ giới luật tu hành thì cũng được đưa đến cõi Âm Quang để học đạo, tịnh tâm xét mình. Khi đã biết ăn năn sám hối, các Đấng sẽ cho đầu kiếp trở lại cõi trần để trả quả và cũng để lo tu hành, lập công bồi đức mà trừ tội lỗi.

2 . Đối với các tín đồ Cao Đài :
Đối với các tín đồ Cao Đài giữ tròn lời Minh Thệ, gìn giữ Luật Đạo, ăn chay được 10 ngày mỗi tháng, sau khi chết, Linh hồn và Chơn thần được hưởng ơn huệ của Đức Chí Tôn trong Đại Ân Xá kỳ ba nầy.                 

Linh hồn và Chơn thần hưởng được các phép Bí tích như : phép Xác và phép Đoạn căn cắt đứt 7 dây Oan nghiệt. Do đó, Chơn thần và Linh hồn xuất ra khỏi thể xác dễ dàng, được hướng dẫn đi vào Cửu Trùng Thiên, từ từng Trời thứ nhứt lên đến từng Trời thứ chín, do Cửu vị Tiên Nương DTC hướng dẫn đưa đi, đúng y theo 9 bài kinh Tuần Cửu. Ở mỗi từng Trời đều có các Đấng đón tiếp, giảng giải đạo lý.

Khi đến từng Trời thứ 9 là Tạo Hóa Thiên thì được vào DTC bái kiến Bà MẸ thiêng liêng là Đức Phật Mẫu.
Đến Tiểu Tường thì Chơn thần và Linh hồn được đưa lên từng Trời thứ 10 là Hư Vô Thiên, vào Ngọc Hư Cung bái kiến Đức Chí Tôn, rồi đến Tòa Tam Giáo thiêng liêng để cây Cân Công bình cân tội phước. Nếu phước đức nhiều thì được Đức Chí Tôn ban cho phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật tương xứng, nếu tội nhiều thì cầu xin Đức Chí Tôn cứu vớt để ở lại cõi thiêng liêng tu luyện thêm, hoặc cho tái kiếp xuống trần để trả cho xong nghiệp quả.

“ Nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi, thì cũng lánh xa khỏi cửa Âm Quang, lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn, là các chơn hồn đặng tự hối hay đặng giáo hóa mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ, hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi.”(TNHT 1-2 B 165)

3 .  Đối với tín đồ các tôn giáo khác :
Đối với các tín đồ của các tôn giáo khác thuộc Nhị Kỳ Phổ Độ, con đường tiến hóa do các vị Giáo chủ thời đó đặt ra nay đã bị bế lại, vì đã chuyển qua thời ĐĐTKPĐ.

Đối với các tín đồ nầy, họ sẽ đi theo con đường tiến hóa qua Thất thập nhị Địa và Tam thiên Thế giới. Công đức tu hành của họ đạt được mức nào thì họ sẽ được đưa thẳng lên đẳng cấp tiến hóa tương xứng. Vì họ có công tu luyện nên họ được vượt cấp tiến hóa, chớ không phải đi từ từ lên từng cấp bực như những người không có tín ngưỡng và tu hành.

Tóm lại, dù Linh hồn đi theo con đường tiến hóa nào, qua Cửu Trùng Thiên hay qua Thất thập nhị Địa, điểm cốt yếu vẫn là công đức lập được trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, chính cái công đức nầy mới định đoạt phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật cho Linh hồn.

Các Linh hồn tội lỗi chất chồng, dù đi trên đường tiến hóa nào, dù được hưởng nhiều ân huệ, được cầu siêu nhiều lần, dù có được làm đám tang lớn lao, ngôi mộ xinh đẹp to lớn bao nhiêu đi nữa, rốt cuộc cũng phải đến cõi Âm Quang mà thôi.

 Chỉ có tu hành chơn thật, trau tâm sửa tánh, lập đức bồi công, thì mới có thể vượt đẳng cấp tiến hóa, sớm trở về cùng Đức Chí Tôn.

Đặc biệt trong thời Đại Ân Xá kỳ ba nầy, Đức Chí Tôn cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Đức Chí Tôn đặng.

IV . Đầu thai và Chuyển kiếp

1. Sự giáng trần của Nguyên nhơn :
Một điểm nguyên hồn do Đức Chí Tôn chiết ra từ Đại hồn của Ngài, chưa phải là một Nguyên nhơn, vì chưa có xác thân thiêng liêng (chơn thần). Điểm nguyên hồn nầy phải được Đức Phật Mẫu thâu nhận, rồi Phật Mẫu dùng hai nguyên khí Âm quang và Dương quang nơi DTC tạo ra cho nó một chơn thần bao bọc nguyên hồn thì mới trở thành một Nguyên nhơn nơi cõi thiêng liêng.

Như thế, một Nguyên nhơn nơi cõi thiêng liêng phải có hai thể : Linh hồn và Chơn thần.
Khi Nguyên nhơn được lịnh giáng sanh xuống cõi trần, Nguyên nhơn được hướng dẫn đi xuống, qua các từng trời thấp dần. Ở mỗi từng trời, Nguyên nhơn dùng tinh khí của từng trời đó làm một lớp bao bọc thêm bên ngoài Chơn thần để Chơn thần nặng hơn thì  mới đi tiếp xuống các cõi thấp hơn được.

Khi đến cõi trần, Nguyên nhơn sẽ đến với một bà mẹ đang mang thai và chờ đợi ở đó. Sự đến của Nguyên nhơn với bà mẹ theo luật hấp dẫn Đồng Khí tương cầu, nghĩa là bà mẹ đạo đức thì mới hấp dẫn được các Chơn linh đạo đức.

Khi bà mẹ vừa sanh hài nhi lọt khỏi lòng mẹ, Linh hồn và Chơn thần của Nguyên nhơn liền nhập vào thể xác hài nhi, làm cho hài nhi rung động mạnh, phát ra tiếng khóc và bắt đầu hít thở không khí. Chơn thần sẽ làm khuôn viên định hình hài cho đứa bé và cùng lớn lên với hình hài ấy, còn Linh hồn thì tạo sự sống cho hài nhi, và những hiểu biết để hài nhi bảo tồn sự sống.

2 . Chuyển kiếp đầu thai :
Một người nơi cõi trần, khi thể xác chết thì Linh hồn và Chơn thần xuất ra, rời bỏ thể xác, đi trở về cõi thiêng liêng. Nơi đây, Linh hồn và Chơn thần được xem xét tội phước và định phận.

Nếu được cho chuyển kiếp đầu thai trở lại cõi trần  thì diễn tiến như sau :
Trước hết, các vị Phật nơi từng Trời Tạo Hóa Thiên như : Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, vv . . . lãnh nhiệm vụ nơi Đức Phật Mẫu, dùng Chơn thần cũ của người đó làm chất liệu để nắn đúc ra một Chơn thần mới với hình ảnh tốt đẹp hay xấu xí tùy theo cái nghiệp của Chơn thần cũ và trình độ tiến hóa của Linh hồn. Nếu Linh hồn đã tiến hóa cao thì hình ảnh của Chơn thần mới tốt đẹp, trái lại, nếu Linh hồn kém tiến hóa thì hình ảnh của Chơn thần mới xấu xí.

Chúng ta lưu ý rằng, Linh hồn chỉ là một điểm Linh quang nên không thay đổi, còn Chơn thần thì có hình ảnh thay đổi tùy theo trình độ tiến hóa của Linh hồn.

Linh hồn và Chơn thần được đưa xuống cõi trần, đến với một bà mẹ đang mang thai theo luật hấp dẫn đồng khí tương cầu. Khi hài nhi vừa được sanh ra khỏi lòng mẹ, Linh hồn và Chơn thần liền nhập vào thể xác hài nhi qua cái cửa Nê Huờn Cung, nơi mỏ ác, làm cho thể xác của hài nhi rung động, bật ra tiếng khóc, bắt đầu hít thở không khí, và cũng bắt đầu  một kiếp sống  mới nơi cõi trần.

Kể từ đó, Thể xác, Chơn thần và Linh hồn đứa bé có đời sống độc lập đối với bà mẹ và lớn lên dưới sự điều khiển của Linh hồn.

Trong Thuyết đạo, Đức Phạm Hộ Pháp giảng về Bí Pháp, có nói :
“ Con dương trùng (tinh trùng) của cha nhập vô ôm khít với âm trùng (noãn châu) của mẹ, dương trùng của cha tạo biến hình hài xương cốt chúng ta, còn âm trùng của mẹ biến ra máu thịt của chúng ta đó vậy. Hai con vi trùng ấy ôm khít lại với nhau thành tượng biến hình hài. Hai tinh trùng hiệp lại khác hẳn với cái hình tướng tinh trùng đơn sơ, khi nhập vào, hai con làm thành một.

Buổi tượng hình chúng ta thì Chơn thần của chúng ta còn ở ngoài thân, ngoài cốt hài của chúng ta. Nó vơ vẩn hoặc là quanh theo bà mẹ, ở dựa bên, nhứt là bà mẹ đi nơi nào, nó đều theo nơi đó. Chơn thần theo người mẹ có chửa. Nếu người mẹ có đạo đức, dám chắc đi đâu chưa có sự gì rủi ro đến thiệt hại. Bởi cớ cho nên đứa con theo mãi, theo cho đến khi tượng hình chúng ta ra khỏi lòng bà mẹ,  Chơn thần ấy  mới nhập vô ảnh hài đó, làm khuôn viên cho ảnh hài đó.”

“Ngộ nghĩnh thay, nếu chúng ta ngó thấy tinh thần chúng ta đầy đủ đạo đức chừng nào thì Chơn thần ảnh hài càng ngày càng đẹp, càng tăng tiến.”

Một vấn đề đặt ra là khi đứa bé lớn lên, tại sao nó không nhớ được các việc trong tiền kiếp của nó ?
Việc ghi nhớ các việc đã qua trong kiếp sống là do nơi trí não thuộc về Chơn thần.
Như đã trình bày ở trên, chư Phật nơi Tạo Hóa Thiên dùng cái “Chơn thần cũ” nắn đúc lại thành cái “Chơn thần  mới”, rồi phủ lên đó một tấm màn bí mật che lấp hết các ký ức cũ. Các ký ức cũ vẫn còn đầy đủ, không bao giờ mất, rút vào trong bộ nhớ ở trong Chơn thần, nhưng bị che kín bởi một màn bí mật, làm cho đứa bé không thể nhớ được tiền kiếp của nó. “Chơn thần mới” chỉ là biến tướng của “Chơn thần cũ” do phép huyền diệu của Phật Mẫu tạo ra để che giấu những sự việc trong tiền kiếp, đồng thời định ra hình ảnh mới cho thể xác trong kiếp sống mới thích hợp với trình độ tiến hóa của Linh hồn.

Khi đứa bé trưởng thành, nếu biết cách công phu tu luyện thì nó có thể mở được tấm màn bí mật nói trên, sẽ biết rõ tiền kiếp của mình. Được như thế gọi là đạt được trí huệ,  tức nhiên đắc đạo tại thế.
V . Địa vị của con người trong vũ tru

Thượng Đế đã tạo ra con người với một hình ảnh tốt đẹp thiêng liêng. Cho nên, mỗi một con người nơi cõi trần  nầy đều là một Tiểu Thượng Đế.

Trời có gì thì con người có nấy. Trời là Đại Vũ trụ thì người là Tiểu Vũ trụ, Trời là Đại Thiên Địa thì người là Tiểu Thiên Địa, Trời là Đại Hồn thì người là Tiểu Hồn, Trời là Đại Linh quang thì người là Tiểu Linh quang. Cho nên, con người đứng vào hàng Tam Tài (Thiên, Địa, Nhơn) cùng với Trời Đất.

Địa vị của con người rất quan trọng trong vũ trụ. Nếu vũ trụ không có con người thì vũ trụ không hoàn toàn, bởi vì vũ trụ là một đại hòa điệu của Thiên Địa Nhơn, nếu thiếu một yếu tố thì sự hòa điệu không còn nữa.

Tam Tài là gốc của muôn vật : Trời sanh ra, Đất nuôi dưỡng, Người làm nên.
Một Nhất Nguyên sinh thành là Trời, là Thượng Đế, nhưng Tam Tài đồng nhất thể. Như thế đủ thấy địa vị con người trong CKVT rất là trọng đại, rất là cao cả.
“ Khai Thiên Địa là Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy. Thầy đã nói, một Chơn thần mà biến ra càn khôn thế giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.

Có Thầy rồi  mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần Thánh Tiên Phật. “ (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 44)

Con người cần phải biết rõ địa vị quan trọng và cao cả của mình trong CKVT, để xây dựng một đời sống cao thượng xứng đáng với phẩm vị mình, thuận tùng Thiên lý để được tiến hóa nhanh.

VI . Quan niệm về Thượng Đế

Dù phủ nhận hay nhìn nhận sự hiện hữu của Thượng Đế, thì Thượng Đế vẫn là Chơn lý tuyệt đối, tối thượng, hằng hữu, là nguyên lý độc nhất tạo dựng CKVT và vạn vật. Ngài là Đấng Chí Tôn tối cao tối đại, toàn tri toàn năng, toàn giác, toàn thiện toàn mỹ.
*  Thượng Đế là vua của Nhựt, Nguyệt, Tinh, là Đấng sáng tạo ra càn khôn vũ trụ và vạn vật, nên gọi Ngài là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế.
*  Thượng Đế là chủ của chư Thần Thánh Tiên Phật. Ngài là vị Phật lớn nhứt trong các vị Phật, là vị Tiên lớn nhứt trong các vị Tiên, là vị Thánh lớn nhứt trong các vị Thánh, là vị Thần lớn nhứt trong các vị Thần, nên gọi Ngài là Đấng  Đại Thiên Tôn.
*  Thượng Đế là CHA của vạn linh, tức là Cha của Bát hồn. Do đó, vạn linh gọi Thượng Đế là Đại Từ Phụ; còn Phật Mẫu là MẸ của chơn thần vạn linh, nên vạn linh gọi Đức Phật Mẫu là Đại Từ Mẫu.
* Thượng Đế là Chơn lý tối thượng vì “Khí Hư Vô sanh ra    MỘT  Thầy”.  Chỉ    1 Thượng Đế, chỉ có 1 ngôi Thái Cực, nên gọi là tuyệt đối.

Do đó, trong CKVT nầy, không ai lớn hơn Thượng Đế, tất cả đều do Thượng Đế hóa sanh, nên Thượng Đế là Đấng tối thượng, hay tối cao tối đại.

CKVT chịu luật thành trụ hoại không, và khi vũ trụ bị diệt thì Thượng Đế sẽ tái tạo một CKVT mới tiến hóa và tốt đẹp hơn. Nói là CKVT bị diệt chớ thực sự nó không tiêu mất, mà Đấng Thượng Đế chỉ biến đổi hình thể của nó để thích hợp với sự tiến hóa mới.

Toàn tri là biết tất cả, biết đến cùng tận, đủ các phương diện. Toàn năng là làm được tất cả và làm giỏi hơn tất cả.

1 . Con người là một Tiểu Thượng Đế :
Con người là một chiết linh của Thượng Đế, là một Tiểu Linh quang của khối Đại Linh quang. Như vậy, con người chính là một Tiểu Thượng Đế, hay nói nôm na, mỗi người chúng ta là một  Ông Trời Con.

Thượng Đế cho chúng ta xuống trần là để nương theo xác thân phàm mà học hỏi và tiến hóa. Nếu chúng ta tiến hóa nhanh,  tức là thi  đậu sớm thì sẽ trở về sớm; còn nếu chúng ta tiến hóa chậm, hoặc thoái hóa, tức là chúng ta thi rớt, phải học lại để thi lại, thì phải trở về chậm.

Như thế, con người là một Linh tử  trong CKVT, có một đời sống miên viễn bất tận, luôn luôn thay đổi để tiến hóa, tức là chuyển luân qua các cõi giới để học hỏi đủ các thứ bài học mà tiến hóa, và mức tiến hóa cuối cùng là trở thành Thượng Đế để hòa nhập vào Thượng Đế.

2 . Sự bình đẳng giữa Nam và Nữ :
Đức Chí Tôn có triều chánh uy nghi, nên khi chầu lễ Đức Chí Tôn, chúng ta phải mặc phẩm phục áo mão như chốn triều đình. Còn đối với Đức Phật Mẫu là Bà Mẹ thiêng liêng, nên tất cả con cái, dù phẩm tước lớn nhỏ thế nào, cũng đều là con của Mẹ, nên chỉ đến với Mẹ với tư cách là một đứa con mà thôi.

Do đó, khi chầu lễ Đức Phật Mẫu, tất cả Chức sắc nam nữ đều không mặc phẩm phục, chỉ mặc áo dài trắng bình thường, vì ai cũng như ai, đều là con của Phật Mẫu, và chúng ta thấy ở đây có một sự bình đẳng hoàn toàn.

Trong Đạo Cao Đài, sự bình đẳng giữa nam và nữ được thể hiện rất rõ rệt mà không có một nền tôn giáo nào từ trước tới nay có được.

Đối với CTĐ và CQPT, hễ Nam phái có phẩm tước nào thì Nữ phái cũng có phẩm tước đó, quyền hành ngang bằng nhau. Chức sắc Nữ phái chỉ điều hành tín đồ Nữ phái; Chức sắc Nam phái thì điều hành đồ Nam phái. Quyền hành Nam Nữ riêng biệt, không xen lấn nhau.
“ Bao nhiêu Nam tức bao nhiêu Nữ. Nam biết thành Tiên Phật, chớ Nữ lại không sao ? Thầy đã nói : Bạch Ngọc Kinh có cả Nam lẫn Nữ, mà phần nhiều Nữ lấn quyền thế hơn Nam nhiều.”  (Trích trong PCT)

VII . Quan niệm về Quỉ vương

Quỉ vương, hay Ma vương, là vua của loài ma quỉ.
Các linh hồn quỉ vị đều thuộc quyền của Quỉ vương. Những người mà khi sống làm điều đại nghịch, đại ác, phạm Thiên điều thì khi chết, linh hồn bị đọa vào quỉ vị, làm Quỉ hồn, tức là làm tay chưn cho Quỉ vương. Quỉ hồn đầu kiếp lên cõi trần làm người thì gọi là Quỉ nhân.
Quỉ vương còn được gọi là : Kim Quang Sứ, Lucifer phản nghịch; Thiên Chúa giáo gọi là Satan.

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường TLHS, Ngài giải rõ căn cộïi của Kim Quang Sứ, chép ra sau đây:
“ Khi ở Ngọc Hư Cung, Linh Tiêu Điện, Bần đạo đặng Thánh lịnh của Đức Chí Tôn sai qua mở cửa CLTG. Buổi ban sơ ấy, tinh thần của Bần đạo còn hoang mang, không biết sao lại còn có bổn phận đi mở CLTG nữa. CLTG là gì ? Sao lại phải đi mở ? Bần đạo tự hỏi. Tới chừng đi rồi mới biết tình trạng các đẳng chơn linh đã đoạt vị trong CKVT chịu nạn khảo thí do Kim Quang Sứ.

Kim Quang Sứ đã đặng Đức Chí Tôn cho làm Giám khảo kỳ thi Hạ nguơn Tam chuyển, qua Thượng nguơn Tứ chuyển nầy.  Kim Quang Sứ là ai ?

Bên Thánh giáo Gia Tô gọi là Quỉ vương đó vậy.
Kim Quang Sứ là một vị Đại Tiên có quyền hành đem ánh sáng thiêng liêng Đức Chí Tôn chiếu diệu trong CKVT. Vị Đại Tiên ấy đã gấm ghé bước vào Phật vị.......

Vì người hám vọng, tự tôn tự đại, muốn cầm quyền lực để điều khiển CKVT, chưa đoạt đặng, mà Ngọc Hư Cung đã biết tinh thần của Kim Quang Sứ muốn phản phúc, dám đối diện cùng Đức Chí Tôn, mà Ngọc Hư Cung đã biết, cho làm Thống Đốc một thế giới của chúng ta đương thời bây giờ, thế giới địa hoàn nầy, nếu như người không có tự kiêu tự đại, cái chức tước làm Thống Đốc một thế giới cũng không phải là hèn gì, nhưng người không vừa lòng, phản lại, mới bị đọa vào Quỉ vị.

Ngày giờ nầy, Kim Quang Sứ đã đặng ân xá, cũng như các đẳng chơn linh được ân xá, trong Quỉ vị cũng được hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn ân xá. Vì cớ cho nên vị Quỉ Chúa ấy lãnh một phận sự tối trọng tối yếu là làm giám khảo, duợt chư Tiên đoạt phẩm vị Phật.

Vì cớ cho nên, người có giáng cơ buổi Đạo đương bình tịnh, cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đương hòa ái với nhau, không có tâm tánh gì phản động, chưa có một mảy may gì gọi là loạn, họ còn giữ theo nề nếp chơn truyền của Đức Chí Tôn, mà thinh không Kim Quang Sứ giáng cơ cho một bài thi, chẳng khác nào như  tìm đến Thánh Thể của Chí Tôn mà liệng một tối hậu thơ.

Bài thơ ấy như vầy :
Cửu  phẩm Thần Tiên nể mặt Ta,
Thích Ca dầu trọng khó giao hòa.
Cửa  Kinh Bạch Ngọc năng lui tới,
Đường Đạo Tây phương thử chánh tà.
Chỉ đá hóa vàng đon miệng thế,
Treo gươm trí huệ giục phồn hoa.
Lấy chơn thay giả tô Thiên  vị,
Thắng bại phàm tâm liệu thế à !
                                                                         KIM QUANG SỨ

Ngó thấy quyền của người ta như thế đó.
Hại thay, đường đi từ Ngọc Hư Cung qua CLTG buổi nọ bị Kim Quang Sứ ngăn đường không cho đi qua. . . .

Đấng mà dám đưa tay cho kẻ thù định phận, quyền năng dường ấy, để khảo duợt toàn con cái của Người, tức nhiên khảo duợt Người, mà Người không có nao không có sợ, thì chúng ta đủ biết quyền phép của Đức Chí Tôn hơn quyền phép của Kim Quang Sứ nhiều lắm.

Đối với tinh thần nhơn loại đương nhiên bây giờ, đáng lẽ Đức Chí Tôn gìn giữ kỹ càng lắm, nhưng Người không cần để tâm gìn giữ cho kỹ lưỡng điều đó mà chớ.

Bởi cớ cho nên khi mở Đạo tại Từ Lâm Tự, Ngài đến, cầm cơ viết tên của Ngài, rồi Ngài liền thăng. Ngài cho Quỉ đến đặng phá, phá cho tiêu nền chơn giáo của Ngài. Ngài đã cho phép nó làm, nó vẫn thi hành chớ không sợ sệt e  lệ  gì cả.

Kim Quang Sứ đã thi hành trong hai mươi mấy năm, cả Thánh Thể Đức Chí Tôn và toàn con cái của Ngài nam nữ đang bị tay Kim Quang Sứ tàn hại, đủ mưu chước, đặng hại cho thất đạo, không có một điều gì, một mưu chước gì mà nó không dùng, đặng tàn phá Thánh thể Đức Chí Tôn, nhưng  không  phải dễ, dầu quyền lực của Kim Quang Sứ  bao nhiêu đi nữa cũng chưa qua khỏi cái mức mà Đức Chí Tôn đã gạch sẵn cho con cái của Ngài đi, thì chúng ta ngó thấy đủ bằng cớ đoạt đặng.

Ngộ nghỉnh thay, tuy biết hay là không biết, Đức Chí Tôn cho Kim Quang Sứ  thử con cái của Ngài đặng bỏ cái phàm lấy cái Thánh. . . . . . .

Đức Chí Tôn có thể định được cho mình, mà chính mình phải lập quyền do tài đức của mình; Đức Chí Tôn có thể định vị cho mình, mà mình phải lấy đạo đức của mình mà lập phẩm vị, tức nhiên mình phải chịu khảo duợt, phải thi thố cho đậu mới đoạt phẩm vị cao siêu của mình, rớt phải chịu đọa lạc, không thể chối cãi được. Giám khảo ấy rất khó. Huống chi Kim Quang Sứ tự tôn tự đại, không có một chơn hồn nào tới lo lót Kim Quang Sứ đặng cho tôi đoạt được đâu ! “

Trên đây là lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp cho biết lai lịch của Kim Quang Sứ, và vì sao Kim Quang Sứ  bị đọa vào Quỉ vị để làm Chúa Quỉ.

Theo Thiên Chúa Giáo thì Quỉ vương được gọi là Satan. Satan xuất hiện ngay sau khi Thiên Chúa tạo ra Ađam và Êva, mà hình ảnh của nó là con Rắn rất khôn ngoan quỉ quyệt, nhiều mưu chước, nói dối, cám dỗ con người làm điều tội lỗi, chống lại Thiên Chúa. Bà Êva đã bị Satan cám dỗ, hái trái cấm để ăn, rồi chia cho Ađam cùng ăn, nên bị tội đối với Thiên Chúa. Đó là tội Tổ tông.

Đức Jésus, sau khi chịu phép Giải oan với Thánh Jean rồi, Thiên Chúa khiến Ngài đến nơi đồng vắng đặng chịu cho Ma quỉ cám dỗ. Ngài đã kiêng ăn 40 ngày đêm.

Quỉ Satan cám dỗ đến gần Ngài, nói :
Nếu ngươi phải là con của Thiên Chúa thì hãy
khiến đá nầy trở nên bánh đi. Đức Jésus đáp : Có lời chép rằng, người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Thiên Chúa.

Ma quỉ bèn đem Ngài vào nơi Đền Thánh, đặt Ngài trên nóc đền thờ rồi nói : Nếu ngươi phải là con của Thiên Chúa thì gieo mình xuống đi, vì Chúa sẽ truyền các Thiên sứ đến gìn giữ ngươi và đỡ ngươi trên tay. Đức Jésus nói : Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.

Ma quỉ lại đem Ngài lên núi cao, chỉ cho Ngài thấy các nước thế gian cùng sự vinh hiển của các nước ấy và nói : Nếu ngươi quì xuống trước mặt ta mà thờ lạy ta thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy. Ngài liền nói với Ma quỉ : Hỡi Quỉ Satan, ngươi hãy lui ra, vì có lời chép rằng, ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa là Đức Chúa Trời của ngươi và chỉ hầu việc một mình Thiên Chúa mà thôi.

Ma quỉ bèn bỏ đi. Thế là Đức chúa Jésus đã thắng mọi cám dỗ của Quỉ vương Satan. Liền đó có các Thiên Thần đến hầu việc Ngài.

Sau đó, Đức chúa Jésus khởi làm nhiệm vụ của Ngài là đi rao truyền Đạo Thánh và thâu nhận 12 Thánh Tông Đồ, phổ độ và giảng dạy giáo lý của Đạo Thánh.

Thật ra, Kim Quang Sứ, Satan hay Quỉ vương cũng do nguơn linh của Đức Chí Tôn mà xuất hiện ra, nhưng vì phản phúc, tự tôn tự đại và ác hành mà bị đọa vào Quỉ vị.
Tài phép của Quỉ vương cao cường lắm, chỉ kém hơn chút ít quyền năng của các Đấng Tiên, Phật mà thôi.

Đức Chí Tôn có Tam thập lục Thiên thì Quỉ vương lập thành Tam thập lục Động, rồi nó biến Tam thập lục Động giả làm Tam thập lục Thiên để dối gạt người tu, các danh hiệu Thần, Thánh, Tiên, Phật, cả đến danh hiệu của Đức Chí Tôn, Quỉ vương đều mạo nhận hết, duy chỉ có cái ngai của Đức Chí Tôn là nó không dám lên ngồi mà thôi.

Sở dĩ Quỉ vương được như thế là vì Đức Chí Tôn ban cho nó cái quyền to tát ấy để nó làm Giám khảo, khảo duợt và thử thách tất cả chơn linh đang đi trên con đường tu hành tiến hóa, để chấm thi đậu rớt. Như vậy người thi đậu mới vẻ vang, xứng đáng được ban thưởng các phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật, còn nếu rớt thì phải tái kiếp luân hồi, học lại các bài học ấy, tới chừng nào thi đậu mới thôi.

Quỉ vương thuộc khối ác trược, còn Tiên Phật thuộc khối thiện thanh, cả hai khối đối nghịch nhau, cũng như Âm với Dương, một bên có khuynh hướng trì xuống, một bên có khuynh hướng kéo lên, cả hai bên tạo thành hai lực đối kháng rất cần thiết để thúc đẩy sự tiến hóa của CKVT.

Hai khối đó sẽ hiện hữu mãi mãi, miên viễn bất tận với Định luật Tiến hóa của Càn Khôn, vì nếu một trong hai khối mất đi, sự cân bằng lực không còn nữa thì Luật Tiến hóa không thể hoạt động được, thì đó là sự sụp đổ và hủy diệt của CKVT.

VIII . Thiên Đàng - Địa Ngục - Cõi Âm quang

- Thiên đàng hay Thiên đường là cõi Trời, cõi có đầy đủ các sự tốt đẹp và an lạc, hạnh phúc, nơi đó con người sống vui vẻ đời đời, không có sự chết, không có sự lo âu phiền não, nên cũng gọi là cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Đây là cõi để cho các Linh hồn mà trong kiếp sống nơi cõi trần đã lập được nhiều công đức, trở về nơi đó để an nghỉ và vui hưởng.

Cõi TLHS có rất nhiều từng lớp từ thấp lên cao, càng lên cao thì càng thanh nhẹ và tốt đẹp.
Trong cõi TLHS, bên dưới là Cửu Trùng Thiên gồm 9 từng Trời dành cho Cửu phẩm Thần Tiên, tiếp lên trên là từng Trời thứ 10 : Hư Vô Thiên, từng Trời thứ 11 : Hội Nguơn Thiên, từng Trời thứ 12 : Hỗn Nguơn Thiên.

Ba từng Trời nầy gọi chung là cõi Phật, cõi Niết Bàn, nơi đó có CLTG mà thời Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Phật A-Di-Đà làm Giáo chủ. Lên cao tiếp tục, ta có Tam thập lục Thiên, tức là 36 từng Trời và cao nhất là Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. (Xem chi tiết trong phần Vũ trụ quan nối tiếp phía sau).
- Địa Ngục, theo quan niệm xưa, là nhà ngục ở dưới đất để giam giữ và trừng phạt các tội hồn. (Tội hồn là những linh hồn của những người mà trong kiếp sanh nơi cõi trần  đã phạm nhiều tội ác). Nơi cõi Địa ngục có những hình phạt rất ghê gớm, đọc trong Kinh Sám Hối thì rõ.

Nhưng hễ có thưởng thì phải có phạt, luật công bình định vậy. Hễ có Thiên đường thì phải có Địa ngục. Thiên đường và Địa ngục là thể hiện sự thưởng phạt công bình trong Luật Nhân Quả.
Có công đức thiện lành thì được thưởng bằng những phẩm vị cao trọng nơi cõi Thiên đường, còn tội lỗi gian ác thì bị phạt tù đày nơi cõi Địa ngục.
Thiên đường và Địa ngục là hai đối trọng cần thiết trong cán cân công bình thiêng liêng của Tạo hóa và cũng là hai thế lực cần thiết, giống như hai khối ác trược của Quỉ vương và khối thiện thanh của Tiên Phật, để thúc đẩy sự tiến hóa của vạn vật trong CKVT.

Nhưng từ khi mở Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn đại khai Ân Xá, Đức Chí Tôn cho đóng cửa Địa ngục, không cho hành phạt các tội hồn, lại mở rộng cửa Trời để đón tiếp những người đầy đủ công đức đắc đạo trở về.

Đối với các tội hồn thì Đức Chí Tôn lập ra cõi Âm Quang ở giữa Thiên đường và Địa ngục để đưa các tội hồn đến cõi Âm Quang học đạo, định tâm tỉnh trí xét mình, nhìn lại những hành động sai trái lỗi lầm của mình trong lúc sống nơi cõi trần mà ăn năn sám hối.

Nơi cõi Âm Quang có các Đấng Phật Tiên đến đây để giáo hóa, an ủi các tội hồn, giảng giải cho biết rõ hai đường thiện ác, chánh tà. Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát lãnh phần giáo hóa các nam tội hồn,  Thất Nương Diêu Trì Cung lãnh phần giáo hóa các nữ tội hồn.

Tại cõi Âm Quang chỉ có giáo hóa chớ không có trừng phạt, khác hẳn cõi Địa ngục trước đây, vì hưởng được thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn.

Thất Nương giảng giải về cõi Âm Quang như sau :
“ Em nên nói rõ Âm Quang là gì trước đã, rồi thì mấy chị mới hiểu đặng. (Em là tiếng tự xưng của Thất Nương)
Âm Quang là nơi Thần Linh Học gọi là Trường Đình của chư hồn giải thể hay nhập thể. Đại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là “Tịnh Tâm Xá”, nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm xét mình coi trong kiếp sanh có bao nhiêu phước tội. Vậy nơi ấy là nơi xét mình. Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì  tự nhiên tránh khỏi Âm Quang.

Nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình, mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi, thì cũng lánh xa khỏi cửa Âm Quang, lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn, là các chơn hồn đặng tự hối hay là đặng giáo hóa mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi.

Ôi ! Tuy vân, hồng ân của Đại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đọa hằng hà, mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại thiếu kém đức tin và lòng trông cậy nơi Thầy. Đó là mấy đạo hữu tín đồ thất thệ. Em trông thấy bắt đau lòng, phái Nữ lại là phần đông hơn hết.”
“ Thưa cùng mấy chị, Em xin nhắc nhở điều nầy :

Ngày Hội Ngọc Hư đặng lo tiếp pháp của Tây phương Cực Lạc, Em đã đặng nghe thấy những lời của Địa Tạng Vương Bồ Tát than thở rằng : Ngài là Phật, nên khó gần gũi các hồn Nữ phái mà khuyến giáo cơ giải thoát mê đồ. Bởi cớ, nơi Âm Quang, Nữ hồn còn bị luyện tội nhiều hơn Nam phái bội phần.

Em lại nghe Người ước rằng : Chớ  chi có một Đấng Nữ Tiên dám đảm đương đến phổ tế mới mong tận độ chư vong linh của Phong Đô thoát kiếp.

Em  mới để dạ lo lường, cả lòng lân ái đến đó.
Em đã chán thấy nhiều tội tình chẳng trọng hệ, song có hồn chịu sầu thảm lạ thường. Em đã liệu nhiều phương thế cho từ đây mấy chơn hồn có bề dễ tránh khỏi cửa Âm Quang hãm tội.” (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 165)

Nói tóm lại, khi Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm Bính Dần (1926) thì Đức Chí Tôn Đại khai Ân Xá, cho đóng cửa Địa ngục, giải phóng hết các tội hồn nơi đó, cho đi đầu kiếp nơi cõi trần để trả quả, đồng thời Đức Chí Tôn cho mở riêng một cõi giữa Thiên đường và Địa ngục, gọi là cõi Âm Quang thuộc DTC, để cho các linh hồn tội lỗi đến đó định tâm định trí, xét nét lỗi lầm của mình, mà ăn năn sám hối, cầu xin Đức Chí Tôn độ rỗi. Nơi đây chỉ có giáo hóa chớ không có hình phạt, để các chơn hồn giác ngộ, thấy rõ  thiện ác, chánh tà.

Nơi cõi Âm Quang, các chơn hồn nào biết ăn năn sám hối tội tình, biết lẽ thiện ác, chánh tà thì được cho đi đầu kiếp để trả cho xong nghiệp quả và lo tu hành để lập công trừ tội.

IX . Quan niệm đúng đắn về cuộc sống

Một con người nơi cõi thiêng liêng có một điểm Linh quang gọi là Chơn linh hay Linh hồn do Đức Chí Tôn ban cho và một Xác thân thiêng liêng gọi là Chơn thần, do Đức Phật Mẫu tạo thành. Do đó, nguồn gốc căn bản của con người là ở nơi cõi thiêng liêng, và cõi thiêng liêng nầy mới chính là cõi sống chơn thật của con người.

Khi con người được phép đầu thai xuống cõi trần thì có thêm một xác thân phàm do cha mẹ phàm trần tạo ra để có một đời sống nơi cõi phàm trần.

Như vậy, cuộc sống toàn thể của một con người trong CKVT gồm có hai giai đoạn nối tiếp luân phiên mãi mãi với nhau cho đến bất tận :
- Thời gian đầu, con người sống nơi cõi thiêng liêng an nhàn tự tại, tiêu diêu cực lạc. Nhưng vì nhu cầu học hỏi tiến hóa, người đó làm một chuyến du học xuống cõi trần.
- Người đó sẽ được cha mẹ phàm trần tạo ra một xác thân phàm để được sống nơi cõi phàm trần mà học hỏi, làm việc, chứng nghiệm, tiến hóa.

Nơi cõi phàm trần, các nền tôn giáo là những trường Đại học đạo đức, cõi đời là trường thi công quả, giải khổ và thoát khổ là đề tài luận án của Phật Tiên.

Khi xác phàm đã già nua, không hoạt động được nữa, đến lúc sắp hư hoại thì người đó (Chơn thần và Linh hồn) rời bỏ xác phàm, trở về cõi thiêng liêng là nơi quê cũ, chấm dứt một chuyến đi du học xa đầy hấp dẫn.
- Linh hồn và Chơn thần trở về, đến trình diện với hai Đấng CHA MẸ thiêng liêng, để báo cáo thành quả đạt được trong chuyến du học, trình ra những cấp bằng đạt được. Đức Chí Tôn sẽ khen thưởng bằng cách ban cho những phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật tương  xứng.

Còn nếu Linh hồn và Chơn thần thi rớt, không đạt được bằng cấp nào, lại còn mắc nhiều món nợ nơi cõi trần  thì Linh hồn và Chơn thần được lưu lại cõi thiêng liêng một thời gian để quán xét, suy nghiệm những việc thất bại đã qua, rút kinh nghiệm, để rồi được trở xuống cõi trần một chuyến du học nữa, học lại các bài học cũ, thi cho đậu, và lo trả xong các món nợ đã vay trong chuyến trước.

Đời sống của con người nơi cõi thiêng liêng mới thật là đời sống chánh thức, thiệt thọ, còn đời sống nơi cõi trần chỉ là một giai đoạn ngắn (để du học, công tác) trong toàn thể cuộc sống bất tận của con người.

Đó mới thật là một quan niệm đúng đắn duy nhứt về cuộc sống của con người trong CKVT, vì nó đứng trên cái nhìn toàn diện, sinh động và rốt ráo.
* Đời sống nơi cõi thiêng liêng là để nghỉ ngơi, an hưởng, hay để suy nghĩ, và sắp đặt kế hoạch cho một chuyến công tác hay du học  mới sắp tới.
* Đời sống nơi cõi phàm trần là để học hỏi, làm việc, kinh nghiệm, thử thách và tiến hóa.

Tại sao con người cần phải xuống cõi phàm trần nầy để học hỏi và tiến hóa ? Không thể ở cõi thiêng liêng học hỏi và tiến hóa được sao ?

Bởi vì nơi cõi trần nầy có đủ các bài học từ trược đến thanh, từ ác đến thiện, từ tà mị gian dối đến chánh trực chơn thật, con người sẽ được học đầy đủ và chiêm nghiệm. Vả lại, nơi cõi trần,  khí ô trược có đến hai phần, còn khí thanh khiết chỉ có một phần, nên xu hướng vật chất mạnh gấp đôi xu hướng tinh thần, mà nếu con người biết đè nén lòng vật dục để lo phụng sự nhơn sanh thì sẽ đoạt được công quả rất lớn, nhứt định sẽ tiến hóa vượt bực mau chóng.

Do đó, đời sống của con người nơi cõi phàm trần có bốn mục đích chánh yếu sau đây :
1 . Học hỏi : Học sao cho thông hiểu tất cả những gì mà Đức Chí Tôn đã bày ra nơi cõi trần  để làm nấc thang tiến hóa cho các đẳng chơn hồn.
2 . Lập Công quả : Nhìn thấy các bạn đồng sanh đang sống lạc hướng, lặn ngụp trong sông mê bể khổ, chìm đắm trong chốn danh lợi quyền, mải miết đi trên đường vật dục, thì ta phải làm thế nào để giúp cho các bạn ấy thức tỉnh và giác ngộ, hiểu biết như ta, để trở lại con đường chơn chánh, đi đúng mục tiêu tiến hóa. Ta phải đem hết khả năng của mình ra để giúp đỡ  và dẫn dắt họ.
3 . Trả nợ : Nếu trong kỳ du học trước, ta đã gây ra nhiều nợ nần oan trái, thì trong kỳ du học nầy, nhứt định ta phải trả cho xong các nợ cũ dù phải đau khổ hy sinh.
4 . Không gây nợ mới : Kinh nghiệm về sự trả nợ rất đau khổ, ta không nên gây thêm một món nợ oan nghiệt nào hết. Các điều răn cấm, các giới luật tu hành là những rào chắn rất hiệu quả để ngăn chận không gây thêm nợ.

Thực hiện được bốn điều trên đây, thì chuyến du học nầy chắc chắn đạt được thành công mỹ mãn.
Hai Đấng CHA MẸ thiêng liêng chắc chắn sẽ rất hài lòng và các bạn thiêng liêng sẽ đón tiếp ngày trở về của ta thật vinh hiển huy hoàng.

X . Phần kết

Nhơn sanh quan của Đạo Cao Đài đã giải quyết được các điểm chánh yếu mà từ xưa tới nay, các phái Triết học Duy Tâm và Duy Vật đã tốn nhiều thời giờ và giấy mực bàn cãi rất nhiều mà chưa đạt được một kết luận dứt khoát hợp lý  nào thỏa mãn được các phái.
* Về nguồn gốc của loài người, con người từ đâu tới?
Người nguyên thủy (Thủy tổ loài người) là các Hóa nhân do loài vượn cao cấp (vượn-người) tiến hóa mà thành.

Cái nguồn gốc nầy không có gì để làm cho chúng ta xấu hổ, vì mọi vật  từ  cõi thiêng liêng đến cõi phàm  trần  đều nằm trong Luật Tiến hóa của Thượng Đế.

Chính Đức Phật Thích Ca mà ai ai cũng đều sùng bái, có những kiếp là Hóa nhân. Đức Phật có thuật lại, tiền thân của Đức Phật trong nhiều kiếp là loài cầm thú.

Hóa nhân xuất hiện trước, lần lần đông đảo rồi Thượng Đế cho một số Nguyên nhân đầu kiếp xuống trần, do các Nữ Hóa nhân sanh ra, để khai hóa các Hóa nhân.

Nguyên nhân là những người được Đức Thượng Đế và Đức Phật Mẫu tạo ra từ lúc Khai Thiên, được Đức Chí Tôn cho đầu kiếp xuống trần, ngoài nhiệm vụ khai hóa các Hóa nhân, Nguyên nhân còn phải lo học hỏi và tiến hóa.

*  Con người có Linh hồn không ?
Điều nầy không còn gì để nghi ngờ nữa, bởi vì khoa Thần Linh học hiện nay trên thế giới đã chứng minh sự hiện hữu của Linh hồn trong  mỗi con người.

Hiện tượng xây cơ ma trong giới bình dân cũng chứng tỏ được người chết không phải là hết, mà Linh hồn người chết vẫn tồn tại, nên người chết có thể nói chuyện được với người sống qua trung gian của cây cơ.

Trong Đạo Cao Đài, hiện tượng Cơ Bút chứng tỏ rằng có Đấng Thượng Đế, có các Đấng Thần Thánh Tiên Phật, có thế giới  vô hình rất huyền diệu mà trí não phàm tục  của con người không thể hiểu thấu được.

Con người có ba thể : Thể xác (hữu hình), Chơn thần (bán hữu hình) và Linh hồn (vô hình). Chơn thần làm trung gian cho Thể xác và Linh hồn.

Đấng Thượng Đế đã dạy cho chúng ta biết rõ về Chơn thần. Đây là điểm rất mới trong Giáo lý của Đạo Cao Đài, nhờ đó có thể giải rõ các hiện tượng của con người từ vật chất đến tinh thần, từ hữu hình qua vô hình.

Con người nơi cõi thiêng liêng (vô hình) chỉ có hai thể : Linh hồn và Chơn thần.

*  Con người khi chết đi về đâu ?
Khi Thể xác chết, nó sẽ thúi rã và lâu ngày sẽ trở thành đất, còn Chơn thần và Linh hồn sẽ xuất ra khỏi thể xác để đi về cõi thiêng liêng, đến trình diện với hai Đấng Phụ Mẫu thiêng liêng là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

Đức Chí Tôn xem xét các việc làm phước và tội mà Linh hồn và Chơn thần đã gây ra trong kiếp sống nơi cõi trần để khen thưởng hay bắt đi đầu kiếp mà trả quả.

Chừng nào Linh hồn và Chơn thần làm được những việc hoàn toàn tốt đẹp nơi cõi trần, xứng đáng là một Tiểu Thượng Đế thì khi trở về, Đức Chí Tôn sẽ khen thưởng xứng đáng và được hội hiệp cùng Đức Chí Tôn.

Con người là một Linh tử trong CKVT, có một đời sống miên viễn bất tận. Đời sống nầy bao gồm hai giai đoạn nối tiếp luân phiên nhau mãi mãi đến vô cùng :
-  Đời sống nơi cõi thiêng liêng để nghỉ ngơi, an hưởng và suy nghiệm.
-  Đời sống nơi cõi phàm trần là để học hỏi, lập công quả, tu luyện, để được tiến hóa nhanh.

Như thế thì mục đích của đời sống con người là để học hỏi và tiến hóa, tiến hóa mãi không ngừng, để cho Càn khôn cùng tiến hóa mãi mãi như các sự vận chuyển của các tinh cầu trong CKVT.

Chương 22

VŨ TRỤ QUAN

Vũ trụ hay Võ trụ có nghĩa bao gồm cả không gian và thời gian. Thường nói : Càn khôn vũ trụ (CKVT) nghĩa là khắp Trời Đất, khắp không gian và thời gian suốt từ xưa đến nay.

Mỗi vũ trụ gồm nhiều thế giới, mỗi thế giới là một địa cầu. Địa cầu của nhơn loại chúng ta đang ở chỉ là một phần rất bé nhỏ trong toàn cả CKVT bao la của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Vũ trụ quan là một hệ thống tư tưởng trình bày về sự hình thành của vũ trụ, và những biến đổi của nó.

Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài giải đáp một cách minh bạch các vấn đề về vũ trụ sau đây :
- Sự hình thành của vũ trụ hiện hữu như thế nào ?
- Vũ trụ hiện hữu có giới hạn không ?  Gồm có bao nhiêu ngôi sao ?
- Vũ trụ có vô thỉ vô chung không ?
- Những khám phá của khoa học ngày nay có phù hạp với Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài không ?
- Địa vị của Địa cầu nhơn loại chúng ta trong CKVT.
Đó là những vấn đề then chốt về Vũ trụ mà Triết lý Cao Đài sẽ đề cập đến với nhiều mới lạ chưa từng thấy.
Theo Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài thì Vũ trụ hiện hữu của chúng ta có hai phần :
-  Phần Hữu hình thấy được.
- Phần Vô hình không thấy được.

Phần HỮU HÌNH của VŨ TRỤ

1 . Sự hình thành Vũ trụ

Sự hình hành Vũ trụ được Đức Chí Tôn giảng dạy, tóm gọn trong hai đoạn Thánh Ngôn sau đây :
“ Thầy đã nói với các con rằng : Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng, mới lập ra Càn khôn Thế giới. Thầy lại phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm, gọi là chúng sanh.” (TNHT hợp nhứt, B 140)

“ Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn khôn Thế giới nầy, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy.” (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 22)

Khởi thủy của CKVT là khoảng không gian mịt mịt mờ mờ với khí Hông Mông hỗn độn, gọi là thời kỳ Hỗn Nguyên. Không gian ấy là Vô Cực và khí Hồng Mông ấy là Hư Vô chi khí hay khí Hư Vô.

Trong Vô Cực ấy có một cái Lý thiên nhiên vô cùng huyền diệu, rồi lại có thêm một cái Khí tự nhiên nữa. Lý với Khí ấy như là âm với dương trong buổi Hồng Mông.

Lý Khí ấy lần lần ngưng kết với nhau mà đông tụ lâu đời nhiều kiếp, thành ra một khối tinh quang rất đầy đủ các sự tốt đẹp. Chừng đúng ngày giờ, khối ấy nổ tung ra một tiếng vang lừng dữ dội, rúng động cả không gian, liền có một khối Đại Linh Quang từ trong tiếng nổ ấy sanh ra lăn lộn quây quần giữa chốn không trung, bắn tủa hào quang chiếu diệu rạng ngời, trùng trùng điệp điệp, rực rỡ chói lòa khắp cả mọi nơi.

Khối Đại Linh Quang ấy chính là Chúa Tể của CKVT đã được biến hóa ra và ngôi của Ngài là Thái Cực.

Vũ trụ từ đây mới bắt đầu có Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô tận vô cùng, nắm trọn quyền hành thống chưởng cả CKVT, lấy cơ thể âm dương mà phân thanh lóng trược, làm máy động tịnh để gom tụ khí Hư Vô, hóa sanh muôn loài vạn vật. Máy âm dương ấy cứ vần vần xoay chuyển, không ngưng nghỉ, để dưỡng dục chúng sanh, bảo tồn Thiên Địa.

Khắp trong Vũ trụ, có biết bao là quả tinh cầu, có quả trược, có quả thanh, có bực cao bực thấp, cái sáng cái tối, thảy đều tuân theo máy Thiên Cơ mà chuyển xoay trật tự : cái lại cái qua, cái lên cái xuống, không bao giờ ngưng nghỉ đặng. Tinh cầu nào cao thanh khinh phù thì vượt qua mấy cõi khác mà lên ngất trên thượng từng không khí.

Địa Cầu của nhơn loại là Địa Cầu vật chất hữu hình

trọng trược, nhưng cũng còn thuộc bực khá, vì bên dưới còn có nhiều Địa Cầu trọng trược hơn nữa. Những Địa Cầu nầy nặng chìm xuống đáy sâu của Vũ trụ, nên rất tối tăm mờ mịt, âm khí nặng nề, thảm sầu buồn bã gớm ghê !

1 - Hư Vô chi Khí :
Thời nguyên thủy, cả không gian có một chất khí Hồng Mông hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, hiện hữu mà không biết được nguồn gốc có từ hồi nào và do đâu. Khí ấy được gọi là Hư Vô chi Khí tức là  Khí Hư  Vô.

Khí Hư Vô ấy còn được gọi bằng nhiều danh từ khác nữa : Khí Hồng Mông, Khí Vô Vi, Khí Tiên Thiên, Khí Hạo Nhiên.
Phật giáo gọi Khí Hư Vô là Chơn Như.
Lão giáo gọi khí ấy là Đạo.
Nho giáo gọi khí ấy là Vô Cực.

2 - Thái Cực :
Khí Hư Vô  lần lần ngưng kết, đông tụ lại với nhau lâu đời nhiều kiếp, chừng đúng ngày giờ thì nổ ra một tiếng lớn rúng động cả không gian, sanh ra một khối Đại Linh Quang phát ra hào quang chiếu diệu.

Khối Đại Linh Quang ấy là Đại Hồn của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, tuyệt diệu tuyệt huyền, biến hóa vô cùng, nắm trọn quyền hành tạo hóa. Khối Đại Linh quang ấy cũng được gọi là Thái Cực. Vũ trụ từ đây mới bắt đầu có ngôi Thái Cực, tuyệt đối, duy nhất.

3 - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái :
Ngôi Thái Cực lấy cơ thể của mình mà phân định ra Lưỡng Nghi : Nghi Âm và Nghi Dương. Hai Nghi ấy chính là Khí Dương quang và Khí Âm quang, là hai khối năng lượng vĩ đại vô cùng vô tận mang hai tánh chất đối nghịch nhau, nhưng lại có ái lực với nhau.

Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế chưởng quản khí Dương quang, còn khí Âm quang chưa có ai chưởng quản, vì lúc bấy giờ chỉ có duy nhứt một Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế được hóa sanh ra trước tiên mà thôi.

Ngài liền hóa thân ra Đức Phật Mẫu và giao cho Đức Phật Mẫu chưởng quản khí Âm quang.
Vũ trụ từ đây bắt đầu có hai khí: Dương quang và Âm quang do hai Đấng đầu tiên chưởng quản là Đức Thượng Đế và Đức Phật Mẫu. (Đức Phật Mẫu chỉ là một hóa thân của Đức Thượng Đế).

Trong công cuộc sáng tạo ra CKVT, Đấng Thượng Đế làm tới đâu và cần người chưởng quản thì Ngài dùng quyền pháp vô biên của Ngài mà hóa thân ra người ấy để làm nhiệm vụ do Ngài sắp đặt.

Hai khí Dương quang và Âm quang xoay chuyển không ngừng, đun đẩy cho rộng lớn thêm ra mãi để tạo thành Tứ Tượng. Tứ Tượng là bốn tượng : Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm.

Tứ Tượng tiếp tục xoay chuyển, càng rộng ra thì tốc độ xoay chuyển càng lớn, tạo thành Bát Quái gồm : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Bát Quái tiếp tục xoay chuyển, càng rộng thêm ra, tốc độ quay càng lúc càng lớn, để rồi đun đẩy va chạm nhau, phát sanh nhiệt độ rất lớn, hàng triệu độ, tạo nên một áp lực bên trong vô cùng to lớn, càng lúc càng tăng, rồi phát ra tiếng nổ dữ dội, bắn phá ra chung quanh các quả cầu lửa to lớn bay khắp không gian, quay cuồng dữ dội, tạo ra các Mặt Trời.

4 - Mặt Trời - Địa Cầu - Mặt Trăng :
Các quả cầu lửa là các Mặt Trời tiếp tục cháy sáng và quay tròn dữ dội, rồi tiếp tục bắn phá ra chung quanh các quả cầu lửa nhỏ hơn, quay quanh Mặt Trời, để rồi nguội dần, tạo thành các Địa cầu. Các Địa cầu nầy là những Hành tinh của Mặt Trời.

Có những Địa cầu lớn, lúc chưa nguội, lại quay nhanh, văng ra các quả cầu nhỏ hơn nữa, rất mau nguội, tạo thành các Vệ tinh hay còn gọi là Mặt Trăng, quay chung quanh Địa cầu.

Tóm lại :
-  Các Mặt Trăng quay quanh Địa cầu, tức là Vệ tinh quay quanh Hành tinh.
-  Hệ thống Địa cầu và Mặt Trăng (Hành tinh và Vệ tinh) cùng quay chung quanh Mặt Trời.
-  Hệ thống gồm Mặt Trời, các Địa cầu, các Mặt trăng được gọi là Thái Dương Hệ. Các Thái Dương Hệ đều quay quanh một Tâm điểm, gọi là Tâm của Vũ trụ.

Theo Khoa Học Thiên Văn, Thái Dương Hệ của chúng ta gồm có 9 Hành tinh quay chung quanh Mặt Trời. (Khi Hành tinh quay thì nó vẫn mang theo các Vệ tinh quay theo).
Sau đây là thứ tự và khoảng cách của Hành tinh với Mặt Trời từ gần đến xa :

(Khoảng cách từ Mặt Trời đến Địa cầu của chúng ta là 150 triệu kilômét, được dùng làm đơn vị Thiên văn, viết tắt đvtv, để đo khoảng cách từ các Hành tinh khác đến Mặt Trời : 1 đvtv = 150 triệu km)

Theo tài liệu trong quyển“ Tìm hiểu Hệ Mặt Trời”, chúng ta có bảng sau đây :

2 . Vũ trụ của Đức Thượng Đế

Trong khoảng không gian bao la vô cùng tận, có rất nhiều vũ trụ được hình thành, mà Vũ trụ của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế chỉ là một phần tử.

Vũ trụ nầy được tượng trưng bằng Trái Càn Khôn thờ nơi BQĐ của TTTN, mà Đức Thượng Đế dạy Ngài Giáo Sư Thái Bính Thanh làm, trong bài Thánh Ngôn sau đây :
“ Bính ! Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không ? Cười . . . Một trái như Trái Đất tròn quay, hiểu không ?  Bề  kính  tâm 3 thước 3 tấc, nghe con, lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, sơn màu xanh da trời, cung Bắc Đẩu và Tinh tú vẽ lên Càn khôn ấy.

Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Địa và Tam thiên Thế giới đều là Tinh tú. Tính lại 3072 ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ.

Con giở sách Thiên văn tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu  cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Đẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu  chăng ?

Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng. Ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới đó, nhưng mà làm chẳng kịp thì con tùy tiện làm thế nào cho kịp Đại Hội, nghe à !”  (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 33)

Theo bài Thánh Ngôn trên đây, Vũ trụ của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm có hai phần : phần Vô hình và phần Hữu hình.
-  Phần Vô hình gồm : Tam thập lục Thiên (36 từng Trời) và Tứ Đại Bộ Châu (4 Bộ Châu lớn) ở không không trên thượng từng không khí. (Xem chi tiết nơi phần sau)
-  Phần Hữu hình gồm : Thất  thập nhị Địa (72 Địa cầu) và Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới), tổng cộng là 3072 ngôi sao. (Bởi vì khi chúng ta nhìn lên bầu trời thấy các Hành tinh, Vệ tinh và các thế giới đều là những ngôi sao)

Địa cầu mà nhơn loại chúng ta đang ở là Địa cầu số 68 trong Thất thập nhị Địa.
Mặt khác, các nhà Thiên văn trên thế giới đã dùng các kính Viễn vọng, kính Thiên văn quang phổ, . . . đã tìm thấy hàng triệu ngôi sao ở trong nhiều dãy Thiên hà.

Vậy, Vũ trụ của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế có 3072 ngôi sao thì chỉ là một phần tử trong khoảng không gian bao la vô tận mà khoa Thiên văn đã khám phá được.

Như thế thì bên ngoài Vũ trụ của chúng ta còn có biết bao Vũ trụ khác, có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn so với vũ trụ của chúng ta.

3 . Vũ trụ có Vô thỉ Vô chung không ?
Vô thỉ hay Vô thủy là không có chỗ bắt đầu, tức là không có nguồn gốc. Vô chung là không có chỗ tận cùng.

Vũ trụ là một thực thể nên cũng phải nằm trong Định luật : thành, trụ, hoại, không, giống y như các thực thể khác. Hễ có sanh thành ắt phải có lúc hoại diệt trở về không, để rồi sau đó được tái tạo trở lại, rồi sau một thời gian thì bị hủy diệt, và cứ thế tiếp diễn mãi trên con đường tiến hóa vô cùng tận. Nhưng trong khoảng thời gian từ lúc sanh thành cho đến lúc bị hoại diệt, lâu hay mau là tùy theo thực thể.

Đối với một Vũ trụ thì khoảng thời gian ấy rất dài, có thể đến hằng tỷ năm, khó có thể tưởng tượng nổi, nên  có nhiều người cho rằng Vũ trụ nầy là Vô thỉ Vô chung.

Thật ra, như trong phần trình bày trên, Vũ trụ có khởi đầu, và mức khởi đầu đó là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức là Thái Cực, bởi vì chính Đấng Thượng Đế ấy đã tạo hóa ra CKVT và vạn vật hiện hữu.
Lại hỏi : Ai sanh ra Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế ?
Đáp : Khí Hư Vô sanh ra Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Đến đây, sự tìm hiểu của chúng ta phải dừng lại, vì nếu tiếp tục hỏi nữa thì không có cách nào giải đáp được.
Chúng ta, cả Vũ trụ của chúng ta đang đi trên con đường tiến hóa, tiến hóa mãi cho đến vô tận vô biên, chớ  không phải chúng ta đi trên con đường tròn, không có điểm đầu tiên và không có điểm cuối cùng, vì khi đi trên vòng tròn thì không phải là tiến hóa, mà chỉ là sự biến hóa tuần hoàn theo một chu kỳ nhứt định.
Khác nhau ở chỗ Tiến hóa chớ không phải Biến hóa.

SỰ HỦY DIỆT VŨ TRỤ :

Trong Vũ trụ, ánh sáng phát ra từ các Mặt Trời do các phản ứng nhiệt hạch của vật chất trong Mặt Trời bức xạ ra ngoài. Ánh sáng nầy sưởi ấm các Hành tinh, được các Hành tinh, các Vệ tinh chung quanh và vạn vật hấp thụ, tạo ra các phản ứng sinh hóa duy trì sự sống.

Sự phát xạ ánh sáng liên tục của Mặt Trời làm khối lượng Mặt Trời giảm dần theo thời gian, đến lúc nào đó, hàng tỷ năm sau, Mặt Trời cũng phải tắt. Nhiệt độ trong Thái Dương Hệ sẽ giảm xuống rất nhanh đến Không độ tuyệt đối (O o K) tức là 273 độ âm dưới Không độ bách phân.
(O o K =  - 273 o C)

Các Thái Dương Hệ khác cũng ở trường hợp tương  tự, sẽ lần lần tắt hẳn. Cả bầu Vũ trụ chìm trong cảnh vô cùng tối tăm và lạnh lẽo, nhiệt độ hạ xuống rất nhanh, tất cả sinh vật đều chết hết, biến thành vật chất đông lại thành những khối cứng. Đó là một cuộc Đại Tận thế của Vũ trụ. Nó nằm trong Định luật tự nhiên, hễ có tạo thành thì ắt phải có lúc bị hủy diệt.

Sau khi nó bị hủy diệt thì nó lại bắt đầu hình thành một Vũ trụ  mới, đó là sự tái tạo Vũ trụ.

Đời sống của một Vũ trụ rất lâu dài, kể từ lúc nó được hình thành cho đến khi nó bị hủy diệt, kéo dài đến hàng tỷ năm, trong lúc đó, đời sống của một đời người nơi cõi trần lấy 100 năm làm kỳ hạn thì  chẳng đáng kể gì.

SỰ TÁI TẠO VŨ TRỤ :

Khi các Mặt Trời của Vũ trụ tắt hẳn, nhiệt độ hạ xuống đến Không độ tuyệt đối hay thấp hơn nữa, vạn vật đông cứng và co lại làm cho trường hấp dẫn vạn vật giữa các hệ thống vật chất tăng lên gấp nhiều lần, khiến cho chúng hút nhau rất mạnh.

Các Vệ tinh bị hút rơi vào Hành tinh, các Hành tinh bị hút mạnh rơi vào Mặt Trời, các Mặt Trời đã tắt bị hút mạnh rơi vào Tâm Vũ trụ. Càng đến gần, lực hút trở nên rất mạnh, (vì lực hút tỷ lệ nghịch với bình phương của khoảng cách), làm cho vận tốc rơi càng lúc càng tăng, lớn đến mức khủng khiếp, bằng vận tốc của ánh sáng (300 ngàn cây số trong 1 giây).

Các Hệ thống va chạm vào nhau vô cùng mãnh liệt, tạo ra một sức nóng khủng khiếp, nhiệt độ tại trung tâm vũ trụ tăng lên đến hằng triệu độ, mọi thứ vật chất đều bị đốt cháy biến thành hơi tức là biến thành chất khí, chúng quay cuồng hỗn độn, tạo ra một áp lực vô cùng lớn, đến một lúc nào đó thì gây ra tiếng nổ ghê gớm, làm bắn phá từ trung tâm vũ trụ ra chung quanh  những quả cầu lửa to lớn, để tạo thành các Mặt Trời mới. Các Mặt Trời mới lại tiếp tục bắn phá ra chung quanh, tạo ra các Hành tinh mới quay quanh Mặt Trời mới. Các Hành tinh lớn lại bắn phá ra tạo nên các Vệ tinh quay quanh Hành tinh.

Thế là một Vũ trụ mới được thành hình và bắt đầu  hoạt động trong một vận hội mới với trình độ tiến hóa mới, một đời sống mới.

Các Vệ tinh có kích thước nhỏ thì nguội trước, kế đó là các Hành tinh nguội dần, vật chất bên ngoài đông tụ lại thành lớp vỏ cứng bao bọc hành tinh. Khi nhiệt độ hạ xuống đến mức thích hợp, hơi nước bao quanh hành tinh tạo ra các trận mưa dữ dội, nước mưa rơi xuống thành sông ngòi và chảy vào những chỗ trũng thấp tạo thành biển.

Trên Hành tinh Địa cầu, khi có nước và ánh sáng Mặt Trời rọi đến thì xuất hiện sự sống, các sinh vật bắt đầu nảy sanh. Đầu tiên là các sinh vật đơn giản chỉ có một tế bào xuất hiện trong nước, lần lần tiến hóa lên cấp cao hơn và phức tạp hơn, theo Định luật Tiến hóa của Vũ trụ : Vật chất Kim thạch tiến hóa lên loài Thảo mộc, Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, Thú cầm tiến hóa lên nhơn loại. Rồi loài người lo tu hành, giúp người giúp đời, lần lần tiến hóa lên các phẩm Thần Thánh Tiên Phật.

Tóm lại, Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài quan niệm rằng Vũ trụ không phải là Vô thỉ, vì nó có khởi đầu. Điểm khởi đầu đó là Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, vì Đấng ấy đã tạo dựng ra CKVT và vạn vật.

Vũ trụ cũng không phải là Vô chung (không có mức cuối cùng), vì Vũ trụ có lúc tự hủy diệt và mức cuối cùng của nó là cuộc Đại Tận thế, để rồi sau đó được tái tạo, khởi đầu hình thành một Vũ trụ mới tiến hóa hơn, và cứ thế tiếp diễn mãi trên con đường Tiến hóa vô cùng tận.

4 . Địa vị Địa cầu chúng ta trong CKVT
Vũ trụ Hữu hình gồm có : Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới ) và Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu).

Tam thiên Thế giới thanh nhẹ hơn Thất thập nhị Địa, nên chiếm phần trên của Vũ trụ, Thất thập nhị Địa trọng trược hơn nên ở phần dưới của Vũ trụ.

Trong Tam thiên Thế giới cũng như trong Thất thập nhị Địa, các quả tinh cầu thanh nhẹ thì ở bên trên, các quả nặng trược thì ở bên dưới. Càng lên cao thì càng thanh nhẹ trong sáng, càng xuống thấp thì càng nặng trược tối tăm.

Các Địa cầu trong dãy Thất thập nhị Địa được đánh số từ 1 đến 72, số 1 thì thanh nhẹ nhứt và số 72 thì nặng trược nhứt. Điïa cầu của nhơn loại chúng ta là Địa cầu 68.

Phía dưới Địa cầu 68 của chúng ta có 4 quả Địa cầu : 69, 70, 71, 72  rất trọng trược, chìm đắm trong cảnh tối tăm nên được gọi là U Minh Địa. Trình độ tiến hóa của 4 Địa cầu nầy còn rất kém so với Địa cầu 68 của chúng ta.

Nhưng trình độ tiến hóa của Địa cầu 68 lại kém xa so với Địa cầu 67.  Càng đi lên thì càng tiến hóa.
“ Đứng bực Đế Vương nơi trái Địa cầu 68 nầy, chưa đặng vào bực chót của Địa cầu 67. Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của  mỗi Địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Đệ nhứt cầu (Địa cầu số 1),  Tam thiên thế giới, vv...” (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 65)

Sự tiến hóa đi lên hết dãy Thất thập nhị Địa thì lên Tam thiên Thế giới, và cũng tiến hóa dần từ thấp lên cao.

Địa cầu 68 của chúng ta chỉ có 1 phần thanh, mà lại có 2 phần trược, nên Phật giáo gọi Địa cầu 68 là cõi Ta-bà, vì cõi nầy có nhiều ác trược, người tu phải nhẫn nhịn tối đa, nhưng nếu tu hành được thì rất mau đắc quả.

Trong Vô Lượng Thọ Kinh, Đức Phật nói rằng :
“Ở cõi Ta-bà nầy mà làm lành một ngày đêm, hơn làm lành một trăm năm nơi cõi của Phật A-Di-Đà. Tại sao vậy ? Vì cõi Phật A-Di-Đà là vô vi tự nhiên, chứa đủ sự lành, không có một sự dữ nào dù nhỏ xíu như mảy lông sợi tóc.”

Phần VÔ HÌNH của VŨ TRỤ

Như trong các phần vừa trình bày trên, Phần Hữu hình của Vũ trụ Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm có : bên trên là Tam thiên thế giới (3000 thế giới), bên dưới là Thất thập nhị Địa (72 địa cầu). Tổng cộng có tất cả là : 3072 ngôi sao.

Vũ trụ Hữu hình được tượng trưng bằng Trái Càn khôn thờ nơi Bát Quái Đài của Tòa Thánh Tây Ninh.

Sự xoay chuyển của Tam thiên thế giới và Thất thập nhị Địa luôn luôn được đều hòa, không ngừng nghỉ, cái lên cái xuống, cái qua cái lại, không bao giờ va chạm nhau. Có được như thế là do sự điều khiển của các Đấng vô hình.

Các tinh cầu và các quả Địa cầu luôn luôn được Đấng Thượng Đế ban cho thần lực (tức là năng lượng thiêng liêng) vừa đủ để giúp cho sự chuyển động duy trì điều hòa, ổn định và không ngừng nghỉ.

Cũng giống như một cái đồng hồ điện tử, cục pin cung cấp năng lượng điện cho nó chạy đều hòa và không ngừng nghỉ. Nếu pin còn điện quá yếu hay hết điện thì nó không đủ cung cấp cho đồng hồ thì đồng hồ phải chạy chậm lại hay ngừng hẳn. Cho nên, nếu Đấng Thượng Đế cung cấp thần lực cho các tinh cầu và các Địa cầu một cách không đều hòa và liên tục thì các quả cầu ấy sẽ chuyển động rối loạn hay ngừng quay, đó cũng là một cuộc Đại hủy diệt vậy.

Để điều khiển sự vận chuyển của các tinh cầu và Địa cầu chuyển động điều hòa, cũng như điều khiển cuộc tiến hóa của cả Càn khôn, Đức Thượng Đế phải lập ra một guồng máy vô hình, gồm nhiều cơ quan là các từng Trời và các Đấng Thần Thánh Tiên Phật để giúp tay Thượng Đế.

Phần Vô hình của CKVT không thấy được mà chúng ta biết là do Đức Thượng Đế giảng dạy qua cơ bút, gồm có :
- Tam thập lục Thiên.
-  Cửu Trùng Thiên và Thập nhị Thiên.
-  Tứ  Đại Bộ Châu.

1 . Tam thập lục Thiên :
Tam thập lục Thiên là 36 từng Trời.
Ngôi Thái Cực ở tại Bạch Ngọc Kinh, nơi ấy là trung tâm của CKVT. Thái Cực biến hóa ra Lưỡng Nghi : Âm quang và Dương quang.
Thái Cực và Lưỡng Nghi hợp thành 3 Ngôi Trời, gọi là Tam Thiên Vị, chiếm 3 từng Trời tại trung tâm CKVT.
Dưới Tam Thiên Vị là 33 từng Trời (Tam thập tam Thiên). Nhập chung lại thì đủ 36 từng Trời.
Nơi Tam thập lục Thiên là ngôi vị của chư Thần Thánh Tiên Phật..

2 . Cửu Trùng Thiên - Thập nhị Thiên :
Thập nhị Thiên là 12 từng Trời.
Cửu Trùng Thiên là 9 từng Trời.
Dưới Tam thập lục Thiên là Thập nhị Thiên.
Trong Thập nhị Thiên, bên trên có 3 từng Trời, là :
- Hỗn Nguơn Thiên
- Hội Nguơn Thiên
- Hư Vô Thiên.

Hai từng Trời Hỗn Nguơn Thiên và Hội Nguơn Thiên do Đức Phật Di-Lạc chưởng quản.
Hư Vô Thiên do Đức Phật Nhiên Đăng chưởng quản.
Trong từng Trời Hư Vô Thiên có Ngọc Hư Cung, là nơi họp triều đình của Đức Chí Tôn, để điều hành toàn cả các hoạt động trong CKVT. Tại đây, các Đấng Thần Thánh Tiên Phật họp Đại Hội để lập Thiên Điều cai quản CKVT.
Dưới 3 từng Trời nầy là Cửu Trùng Thiên, kể ra :
- Từng Trời thứ 9 : Tạo Hóa Thiên
- Từng Trời thứ 8 : Phi Tưởng Thiên
- Từng Trời thứ 7 : Hạo Nhiên Thiên
- Từng Trời thứ 6 : Kim Thiên,
- Từng Trời thứ 5 : Xích Thiên,
- Từng Trời thứ 4 : Huỳnh Thiên,
- Từng Trời thứ 3 : Thanh Thiên,
- Từng Trời thứ 2  có Vườn Đào Tiên,
- Từng Trời thứ 1  có Vườn Ngạn Uyển.

Từng Trời thứ 9 do Đức Phật Mẫu chưởng quản.
Từng Trời thứ 8 do Đức Từ Hàng Bồ Tát chưởng quản.
Từng Trời thứ 7 do Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát chưởng quản.

Thập nhị Thiên gồm : 3 từng Trời bên trên và Cửu Trùng Thiên bên dưới, là nơi làm việc của chư Đấng Thần Thánh Tiên Phật, có nhiệm vụ cai quản và điều hành tất cả các hoạt động của CKVT và sự tiến hóa của Vạn linh.

3 . Tứ Đại Bộ Châu :
Có 2 Tứ Đại Bộ Châu : trên và dưới.
-  Tứ Đại Bộ Châu Trên cai quản Tam thiên Thế giới, gọi là Tứ Đại Bộ Châu Thượng, gồm :
. Bắc    Đại Bộ Châu
. Đông  Đại Bộ Châu
. Nam   Đại Bộ Châu
. Tây    Đại Bộ Châu.

-  Tứ Đại Bộ Châu Dưới cai quản Thất thập nhị Địa, gọi là Tứ Đại Bộ Châu Hạ, gồm :
. Bắc Cu Lư Châu
. Đông Thắng Thần Châu
. Nam Thiệm Bộ Châu
. Tây Ngưu Hóa Châu.

Địa cầu 68 của nhơn loại chúng ta ở trong Nam Thiệm Bộ Châu.

TỔNG KẾT về Vũ trụ quan

Vũ trụ của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm có hai phần : Hữu hình và Vô hình.
- Phần Vô hình rất quan trọng vì nó điều khiển toàn bộ các hoạt động của Phần Hữu hình.
Phần Vô hình ở tại Trung tâm của Vũ trụ.
- Phần Hữu hình nằm bên ngoài Phần Vô hình,  luôn luôn chuyển động xoay tròn đều hòa và liên tục, không bao giờ ngừng nghỉ.

Phần Vô hình gồm :
- Tam thập lục Thiên (36 Từng Trời),
- Thập nhị Thiên (12 Từng Trời),
- 2 Tứ Đại Bộ Châu Thượng và Hạ.

Phần Hữu hình gồm 3072 ngôi sao, chia ra :
- Tam thiên thế giới (3000 Thế giới) ở bên trên,
- Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu) ở bên dưới.

Trong khoảng không gian bao la không cùng tận, Càn khôn Vũ trụ của Đức Chí Tôn là một khối cầu vĩ đại, trong đó có chứa 3072 ngôi sao.

Để có thể hình dung được các thành phần của Vũ trụ nầy, chúng ta tưởng tượng và so sánh với cái hột gà:
- Cái ngòi giữa tròng đỏ hột gà là Trung tâm Vũ trụ.
- Phần tròng đỏ hột gà là Phần Vô hình của Vũ trụ.
- Phần tròng trắng hột gà là Phần Hữu hình Vũ trụ.
- Vỏ của hột gà là biên giới của Vũ trụ
 Home      [  1  ]  [   ]  [  3  ]  [  4  ]  [  5  ]  [  6  ]  [  7  ]  [  8  ]  Đến Hạnh Đường

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét