Của Ngài Chưởng Ấn HTĐ
Nguyễn Văn Hội
Bộ Pháp Chánh Toà Thánh
Tây Ninh
Kính thưa quí chư tôn liệt
vị
Người đời thường nói, hùm
chết để da, người ta chết để tiếng .
Các đấng anh hùng liệt sĩ
khai quốc công thần, đứng về phương diện quốc gia thanh danh vẫn lưu truyền thế
đại
huống chi các bậc giáo chủ khai nguyên nền Đạo, đem triết lý nhiệm mầu làm ngọn đèn chân lý soi sáng ngàn đời cho nhơn loại Đại Đồng há chẳng là những bậc vạn thế sư được mãi tôn sùng ?
huống chi các bậc giáo chủ khai nguyên nền Đạo, đem triết lý nhiệm mầu làm ngọn đèn chân lý soi sáng ngàn đời cho nhơn loại Đại Đồng há chẳng là những bậc vạn thế sư được mãi tôn sùng ?
Như Đức Thượng Phẩm Cao
Quỳnh Cư đây là người tiền bối đứng vào đứng vào bậc tam đại vĩ nhân cùng Đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang, đầu công khai sáng nền
Đạo Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Quyền tiểu sử Đức Thượng
Phẩm Cao Quỳnh Cư được ông Hiền Tài Trần Văn Rạng trưởng nhiệm giáo lý Ban Thế
Đạo soạn khảo rất công phu gồm nhiều đoạn và được xem như phần tổng quát trên
bước đường đời cũng như đường Đạo của một bậc vĩ nhân tiền hiền của Đạo.
Đức Cao Thượng Phẩm là một
đấng siêu phàm, tự giác trong kiếp mộng trần được Đức Chí Tôn thâu dụng đứng
hàng đầu trong Thánh Thể Đức Chí Tôn về Hiệp Thiên Đài, Đức Ngài rất dài công
khai cơ phổ độ, lập Đạo từ lúc sơ khai, là một ân nhân của toàn Đạo, đã chẳng
màng khổ hạnh chấp nhận cơ hàn đặt chơn trước nhứt nơi khí độc rừng thiêng để
khai mở ngôi Thánh Địa ngày nay, đã trở thành nơi Tổ Đình nền chơn giáo lưu
truyền vạn đại.
Đã gọi là tiền sử, dầu
chưa hẳn đầy đủ kỳ công và đức độ của một vị Thiên quân Thượng phẩm nhưng cũng
tạm đủ cho chư quí đọc giả và chư tín hữu Cao Đài được ghi khắc công ơn cao dày
của bậc đàn anh trót hy sinh phụng sự cho Đạo.
Tôi xin có lời giới thiệu,
Toàn chư quí đạo tâm có lòng hoài cổ ân sâu các bậc tiền hiền khai cơ lập Đạo,
cho chúng ta và chúng sanh đời đời sùng ngưỡng.
Toà Thánh, ngày
mùng 9 tháng giêng năm Nhâm Tý
(23-2-1972)
Chưởng Ấn HTĐ
Nguyễn Văn Hội
THAY LỜI TỰA
Thuở bà Nữ Đầu Sư Nguyễn
Hương Hiếu còn sinh tiền, tôi thường hay tới Nữ Đầu Sư Đường để học hỏi việc
đạo và tìm hiểu về thời khai nguyên của Cao Đài giáo, vì bà là chứng nhân hiếm
có, am tường nhiều sự việc và bí pháp của Đạo.
Trong những chức sắc Đại
Thiên Phong mà tôi đã gặp, phải nhận nơi bà có một tấm lòng nhiệt thành và
cường lực tin tưởng vào các Đấng ở cõi Thiêng liêng. Bà thuật chuyện một cách
khẳng định, coi như đương nhiên những sự việc có thật, xảy ra thật, dù là người
ngoại đạo cũng nhận ý chân thành.
Những sự việc ấy, tôi góp
nhặt viết thành quyển Đại Đạo Bí Sử đã phổ biến rất hạn chế, theo ý muốn của bà
hôm 13-9-Canh Tuất (12-10-70) tôi đến thăm bà và ngỏ ý xin xuất bản quyển tiểu
sử Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư. Bà tỏ vẻ hài lòng vì có người còn nhớ đến người
bạn đời của Bà, nhưng muốn tôi nên gát lại, đến khi nào bà qui sẽ cho ấn hành,
rồi bà kể cho tôi nghe vài đoạn đời của Đức Thượng Phẩm. Đoạn bà tặng tôi một
quyển “SƠ GIẢI SỰ TÍCH XÂY BÀN” bằng hình ảnh với bút tích của bà và nói : “Em
nên viết theo quyển này”.
Trong Pháp Chánh Truyền
ghi rõ : “Thượng Phẩm lo về phần Tịnh Thất …Các Tịnh Thất đều về quyền của
Thượng Phẩm cai quản”. Thế nên, Đức Ngài lập Tịnh Thất đầu tiên năm 1927 và
được bà Thất Nương giáng ban danh hiệu là Thảo Xá Hiền Cung. Nhưng Đức Ngài sớm
qua đời, nên Đức Hộ Pháp được Đức Phật Mẫu ban cho “Vẹn toàn Bí Pháp” tịnh luyện
(xem thêm Chân Dung Hộ Pháp Phạm Công Tắc). Dù vậy, Đức Cao Thượng Phẩm vẫn
luôn ưu ái chư tín đồ, nên giáng cơ ban cho Luật Tam Thể để hành giả coi theo
đó mà tu luyện cho đạt thành chánh quả. Thế nên, việc phổ độ và tịnh luyện song
hành trong dòng chảy của nền Đạo, bất phân ly.
Thỉnh giáo người xưa, sau
khi sửa chữa và tăng bổ, tôi mạo muộn cống hiến đọc giả quyển Cao Thượng Phẩm
và Bà Đầu Sư Hương Hiếu nầy ,với tâm thành hoài niệm các danh nhân Đại Đạo.
Toà Thánh, ngày
21-9-Tân Hợi
(dl 8-11-1971)
Hiền tài: TRẦN VĂN
RAÏNG
Trưởng Nhiệm Giáo
lý B.T.Đ
PHẦN THỨ NHỨT
ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM
Chương I
MỘT NGƯỜI ĐỨC HẠNH
(1887-1924)
Miền sông dài núi thẩm Tây
Ninh được Đại Nam Nhất Thống Chí ghi là : Tứ tân phù khánh, giang thủy đắc
chung, một miền rất thuận cho đạo pháp và có mầu nhiệm phát sinh.
Vào mùa thu năm Mậu Tý
(1887) một chơn linh do khí thiêng chung đức giáng phàm. Đó là Cao Quỳnh Cư hạ
trần vào năm Đồng Khánh thứ hai, bên nhánh sông Vàm Cỏ Đông, chảy về làng Hiệp
Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Ngài là con ông Cao Quỳnh
Tuân và bà Trịnh Thị Huệ (đắc phong Giáo sư, một cấp chức sắc của Cao Đài giáo,
năm 1927). Cụ ông là Cai Tổng Hàm Ninh Thượng (qui vị trước khi Ngài Cao Quỳnh
Cư ngộ đạo). Nhờ đó, Ngài thọ bẩm khí chất của thân sinh nên tính tình điềm
đạm, nho phong, "nối dòng trâm anh, vốn nhà thi lễ, phẩm hạnh mực thước,
tính chất siêng năng, học hỏi thông minh, thành danh khi tuổi trẻ. Lúc ở thế xử
tròn nhân đạo" (Theo bia kỷ niệm Đức Cao Sĩ Thượng Phẩm). Bởi lẽ, Ngài đối
xử rất khoan hòa tử tế với các bạn đồng sở, việc nào có thể giúp được là giúp
ngay, không câu nệ, rất mực thương yêu bằng hữu, không khinh thường ai. Dù có
một người nào làm phật lòng Ngài hoặc sai lệch ý kiến của Ngài, Ngài từ tốn
giải bày hoặc cười nhẹ nếu thấy không cải sửa được.
Vào năm 1907, Ngài thành
lập gia đình với bà Nguyễn Thị Hiếu (thọ phong Giáo Sư năm 1927, thăng lên Đầu
Sư năm 1968, chức sắc cao nhất bên Nữ phái và qui vị ngày 3-6-1971. Nếu phải kể
Đầu Sư chánh vị lúc còn sanh tiền thì bà là người thứ nhứt, vì bà Đầu Sư Lâm Hương
Thanh lúc qui vị rồi mới được Đức Chí Tôn ân tứ, còn bà Hương Lự chỉ là Đầu Sư
hàm phong). Hai năm sau khi lập gia đình bà sanh được 1 người con trai là Cao
Quỳnh An. Cậu An khi trưởng thành du học tại Pháp, nhưng chưa thành danh thì
qua đời.
Năm 1915, Ngài vào làm thư
ký Sở Hỏa Xa Sài Gòn và đưa gia đình xuống ngụ ở 134 Bourdais (nay là calmette,
Sài Gòn). Đời công chức xuôi dòng trên 10 năm lên đến ngạch cò mi, được triều
đình Huế ban cho huy chương Kim Tiền đệ tam hạng (sapèque d'honneur) năm 1925,
thì ngộ đạo, rồi có ý định bỏ sở làm. Các bạn đồng sở thấy Ngài chưa tới tuổi
hưu trí, nếu đi hành đạo lấy tiền đâu để chi dụng, mới khuyên Ngài :
-Thầy tư, sao thầy quá tin
dị đoan, con còn đang học bên Pháp, mà Thầy đi như vậy thì việc học của con
phải dở dang sao ?
Đã quá suy tư giữa hai con
đường đời và đạo phải chọn một. Kiếp phù sinh có bao nhiêu, tạo tiền tài danh
vọng thì phải bất chánh, càng chồng chất thêm tội lỗi, lúc chung qui vẫn trắng
tay. Ngược lại đường đạo an ủi vỗ về tinh thần con người thơ thới khỏi bon chen
trục danh cầu lợi, lại là cơ cứu khổ siêu độ cho toàn thể nhân loại : hơn là
quanh quẩn với đầu óc hẹp hòi chỉ nghĩ đến tư lợi cho cá nhân và gia đình. Tất
nhiên Ngài chọn con đường vĩnh cửu, loại bỏ cái hào nhoáng nhất thời của thế sự,
thế nên Ngài lẳng lặng không đáp, chỉ nghe theo tiếng gọi của thiêng liêng, dù
một mai bị khảo đảo ngần nào cũng không thối thân lui bước.
Chương II
NGỘ ĐẠO VÀ ĐẮC PHONG THƯỢNG PHẨM
(1925-1926)
Năm Ất Sửu
(1925) là năm việc xây bàn hay "sai ma" rất thịnh hành trong các giới
tại miền Nam Việt Nam, nhất là tại Thủ Đô Sài gòn.
Trước hết, vì sự háo kỳ
mà ba ông bạn chí sĩ Cao Quỳnh Cư (sau đắc phong Thượng Phẩm), Phạm Công Tắc (sau
đắc phong Hộ Pháp) và Cao Hoài Sang (sau đắc phong Thượng Sanh) mới nghĩ ra
việc xây bàn để tiếp chuyện với những người khuất mặt, thế giới bên kia. (Theo
Đạo Sử cơ bút của Trương Hiến Pháp).
Do đó, vào ngày 25/7/1925
(ngày 5/6/Ất Sửu) hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến nhà Ngài Cao Hoài
Sang bên cạnh chợ Thái Bình (phố hàng dừa Sài Gòn) để thăm viếng và hàn huyên
tình đời thế sự. Càng lúc càng khuya, vì thần linh thúc giục, các Ngài mới nghĩ
đến việc xây bàn. Ba Ngài đem ra trước hiên nhà một cái bàn vuông bốn chân (bàn
này hiện để tại Nữ Đầu Sư Đường) kê cho 1 chân hỏng đất rồi đồng để tay lên bàn
khấn vái. Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, ba vị đốt nhang khấn nguyện từ 21 giờ
tối đến 2 giờ đem, có nhiều vong linh nhập bàn viêt tiếng Anh, Pháp và Hoa ngữ,
cũng có một vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng quốc ngữ. Cái bàn gõ khi chững
chạc, khi lựng khựng, dường như có nhiều vong linh tranh nhau để nói chuyện. Do
đó, các Ngài nản lòng ngưng xây bàn.
Việc xây bàn thật vất vả
vì chỉ có khẩu ước với các Đấng vô hình trong vần quốc ngữ. Như nhịp 1 cái là "A", hai cái là
"Ă" và ba cái là "Â" … Khi chân bàn ngừng lại chỗ nào thì
người ngồi biên chữ ấy (người ngồi ngoài lúc bấy giờ là bà Nguyễn Thị Hiếu) rồi
nhiều chữ ghép lại thành 1 tiếng, nhiều tiếng mới ghép lại thành lời văn hay
câu thơ. Nhưng về sau nhờ thuần điển và quen việc nên sự tiếp chuyện với các
Đấng Thiêng liêng càng mau lẹ và dễ dàng.
Qua đêm thứ nhì
(26-7-1925), ba Ngài lại xây bàn, đúng 24 giờ có một vong linh nhập bàn, nhập
bàn ráp thành bài thi bát cú Đường luật.
THI
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng người.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép
Tình thương căn dặn gắng tâm đời
Bên màn đôi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Ký tên CAO QUỲNH
TUÂN
(Thiên đình)
Cụ Cao Quỳnh Tuân là thân
phụ của Ngài Cao Quỳnh Cư qua đời đã 25 năm, Ngài đọc tới câu thứ 7 quá ngậm
ngùi, nên thưa :
Thưa Thầy, ngày mai con
xin nấu mâm cơm cúng, con kính thỉnh Thầy về chứng lòng thảo của con.
Vong linh của cụ Tuân liền
chuyển cái bàn gõ hai cái, tỏ ý nhận lời.
Đến đêm 30/7/1925 (10-6-Ất
Sửu), ba Ngài lại họp nhau tại nhà Ngài Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn. Hôm ấy
có 1 nữ vong linh giáng bàn cho thi :
THI
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư quằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai ?
Ký tên ĐOÀN NGỌC
QUẾ
Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi :
- Hồi tại thế xứ ở đâu ?
- Ở chợ Lớn.
Ngài Phạm Công Tắc hỏi :
- Cô học ở đâu ?
- Học trường Đầm.
Tên Đoàn Ngọc Quế chỉ là
tên mượn (tá danh) tên thật của cô là Vương Thị Lễ, cháu ông Vương Quan Kỳ
(theo Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống). Nhưng tầm nguyên còn nhiều bí hiểm hơn
nữa.
Theo lời của Đức Hộ Pháp
thuật lại thì tiền kiếp của cô Quế là một vị công chúa con một vị vua. Trong
triều có một vị quan thầm yêu cô nhưng thấp hèn, vì lẽ môn đăng hộ đối không
được ngôi phò mã nên cô thất tình sầu muộn mà chết.
Đến kiếp này, cô đầu thai
vào gia đình Tổng Đốc Phương là bên ngoại của cô. Đến tuổi cập kê cô lâm bịnh
trầm kha, chạy đủ thầy đủ thuốc mà không hết bịnh. Thân mẫu cô mới nói, ai cứu
được cô thì bà gã cô cho.
Lúc bấy giờ một ông thầy
thuốc Tây học ở hà Nội (Médecin Indochinois) chưa vợ mới bổ đến Sài gòn. Gia
đình cô rước đến chữa bệnh cho cô. Thoạt nhiên, cô mạnh. Nên biết vị lương y
này là ông quan trẻ tuổi thầm yêu cô trước kia vì tiền duyên mà hai người cùng
đi đầu kiếp để nên nghĩa đá vàng.
Nào ngờ, thân mẫu cô quên
lời hứa cũ, chỉ trả tiền cho người thầy thuốc rồi thôi. Còn cô giữ dạ keo sơn
âm thầm nhớ thương vị lương y mà "phủi nợ xuống tuyền đài".
Ba người đều có họa bài
thi trên, riêng bài của Ngài Cao Quỳnh Cư như vầy :
HỌA VẬN
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai,
Mộ người quốc sách lẫn thiên tài.
Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các
Xót bạn tri âm cõi dạ đài.
Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước.
Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai.
Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai.
Cũng đêm đó, Ngài Cao
Quỳnh Cư hỏi cô bệnh chi mà chết, cô đáp bằng hai bài thi như vầy :
THI
Trời già đành đoạn nợ ba sinh
Bèo nước chia hai một gánh tình
Mấy bữa nhăn mày lăm chước quỉ
Khiến ôm mối thảm tại Diêm Đình.
Người thời Ngọc mà với Kim đàng
Quên kẻ dạ đài nỗi thảm mang
Mình dặn lấy mình, mình lại biết
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.
Nhờ tìm được mộ cô Vương
Thị Lễ nên ba Ngài càng tin (1). Hôm sau Ngài Cao Quỳnh Cư mời hai Ngài Phạm
Công Tắc và Cao Hoài Sang qua tư gia mình để xây bàn, mời cô Đoàn Ngọc Quế về
dạy làm thi. Nhân tiện ba Ngài hỏi cô Quế về Thượng giới, cô tiết lộ đôi điều
khiến các Ngài thêm mê học hỏi. Rồi cô gọi Ngài Cao Quỳnh Cư là anh cả, Ngài
Phạm Công Tắc là Nhị ca, Cao hoài Sang là Tam ca, còn cô là Tứ muội.
Đến ngày 3/8/1925 (15/7/Ất
Sửu) thiết đàn xây bàn, các Ngài được cô Đoàn Ngọc Quế báo tin có một Đấng đến
tiếp xúc.
( Chỉ có mộ cô Lễ chớ không có mộ cô Quế vì Đoàn Ngọc Quế là tên mượn.)
THI
Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại
Aân bòn chẳng chịu tấp theo ai.
A-Ă-Â
Ngài Phạm Công Tắc nghe
dứt bài thơ lấy làm khó chịu. Ngài Cư hiểu ý liền nói với Ngài Phạm Công Tắc
rằng :
- Ấy, em ngồi lại cho qua
hỏi, vị nầy không phải tầm thường đâu em.
Ngài Cao Quỳnh Cư liền hỏi
:
- Ông A-Ă-Â mấy chục tuổi ?
Đấng A-Ă-Â gõ bàn hoài
không ngừng, đếm đến mấy trăm cái mà cũng không thôi. Ngài Cao Quỳnh Cư sợ
không dám hỏi nữa. Ngài Phạm Công Tắc hỏi ông ở đâu, thì được cho bài thi :
THI
Tròi trọi một mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náo nương chân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần,
Bố hóa người đời gây mối đạo
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân
Chừng nào đất dậy trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.
Đến 18/8/1925 (1/8/Ất Sửu), cô Đoàn Ngọc Quế
giáng bàn, các Ngài hỏi rằng:
- Em còn có chị em nào nữa
biết làm thi, xin cầu khẩn đến dạy ba anh em qua làm thi.
Cô Đoàn Ngọc Quế nhịp bàn
trả lời :
- Có chị Hớn Liên Bạch,
Lục Nương, Nhứt Nương làm thi hay lắm. và cô lại thêm:
- Ba anh muốn cầu thì ngày
đó : ba anh phải ăn chay, mới cầu được.
Ba Ngài lãnh ý cô Đoàn
Ngọc Quế , ngày cầu ba ông ăn chay.
Đến ngày 25/8/1925 (8/8/Ất
Sửu), Đấng A-Ă-Â giảng dạy ba ông, vào rằm tháng 8 đó thiết tiệc chay thỉnh Đức
Diêu Trì Kim Mẫu và chư vị Cửu Nương đến dự. Đến 14 âm lịch thì Đức Nhàn Aâm
Đạo Trưởng giáng cho thơ mời các Ngài họa.
THI
Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng
Non sông dạo khắp lối đem xuân.
Ông Cao Xuân Lộc liền giáng họa nguyên vận :
Sống thác từ xưa đã có chừng,
Nơi trần mẫn tính trọn nhơn luân
Đò đưa phút chịu vùi ba tấc,
Tay trắng phủi rồi một tuổi xuân.
Bài của Ngài Cao
Quỳnh Cư họa như vầy :
Cõi thọ là đâu khó độ chừng
Aån tàng lội lạcbậc kinh luân,
Buổi già ước đặng đem thân gởi,
Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.
Đến ngày 15/8/Ất Sửu
(1/9/1925) tại nhà Ngài ở số 134 Bourdais (nay là Calmette, Sài gòn), giữa nhà
lập bàn hương án, chưng các hoa thơm và xông trầm trọn ngày. các Ngài mặc quốc
phục quì trước bàn hương án cầu nguyện xin các Đấng Tiên Nương đến dự tiệc, lễ
bái xong các Ngài ngồi vào bàn tiệc. Bà Nguyễn Thị Hiếu (tức bà Cao Quỳnh Cư)
gắp đồ ăn để vào chén cho chín vị và trên bàn thờ Đức Phật Mẫu. Đó là thể pháp
tượng trưng cho bí pháp của Đạo Cao Đài, mà hằng năm về sau đến ngày tháng này
Tòa Thánh Tây Ninh đều tổ chức lễ Hội Yến Diêu Trì Cung.
Sau đó các Ngài xây bàn,
Đấng A-Ă-Â giáng cho bài thi rồi đến Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương mỗi vị
đều giáng cho thêm 1 bài (1) và mời ba Ngài làm thi liên ngâm.
LỤC NƯƠNG :
Trót đã mang cái nợ đời.
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.
CAO. Q. CƯ :
Oằn vai thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.
PHẠM. C. TẮC :
Thương hải tang điền xem lắm lúc
Công danh phú quí nhắm trò chơi
CAO. H. SANG :
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.
(Xem Đại Đạo Sử Cương quyển I trang
35)
LỤC NƯƠNG :
Ở thế sao chê tiếng thế buồn
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong ?
CAO - Q - CƯ :
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
PHẠM - C - TẮC :
Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy
Phồn hoa mờ mệt giấc quỳnh lương
CAO - H - SANG :
Bờ đương chừ đặng phong trần rảnh
Quảy gánh thơ đờn dạo bốn phương.
Nhờ tình thân mật đó Lục
Nương cho ba vị biết cô Đoàn Ngọc Quế là Thất Nương Diêu Trì Cung.
Đêm 14/9/1925 (29/8/Ất
Sửu), khi xây bàn, Đấng A-Ă-Â giáng, ba vị hỏi sao lâu quá không đến. Ngài đáp
rằng vì tiết lộ thiên cơ cho ba vị nên bị Ngọc Hư bắt tội. Ba Ngài phải lập
hương án giữa trời để chịu tội thay cho Đấng A-Ă-Â. Ngài Cao Thượng Phẩm có làm
bài thi đọc trước hương án như vầy :
Vái van xin quí Cửu Thiên Nương,
Tâu với Ngọc Hư rõ ngọn nguồn
Vì nghĩa Ă-A mang trọng tội,
Nghĩ tình đồng đạo để tình thương.
Đến ngày rằm năm đó Đấng
A-Ă-Aâ giáng cho một bài thi :
THI
Một tòa thiên các ngọc làu làu
Liên bắc cầu qua nhắp nhóa sao.
Vạn trượng then cài ngăn Bắc Đẩu
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi.
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.
Việc xây bàn của các Ngài
lan rộng trong quần chúng kẻ hiếu kỳ đến xem cho biết, người không tin muốn thử
coi chân giả. Một phật tử hỏi Đấng A-Ă-Â làm thế nào để phân biệt thiệt giả.
Đấng A-Ă-Â nhịp bàn cho thi :
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng để mũi gần chẳng biết hương
Hiền ngõ rủi sinh thời bạo ngược
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.
Người Phật tử ấy hỏi tiếp
: "Làm sao biết được chánh tà?". Đấng A-Ă-Â đáp :
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà,
Chánh tà hai lẽ đoán sao ra
Sao Tiên Phật người trần tục
Trần tục muốn thành phải đến ta.
Cũng hôm ấy (14/11/1925)
ông Nguyễn Trung Hậu (Sau đắc phong Bảo Pháp) đến tìm hiểu hư thực, được Đấng
A-Ă-Â giáng cho thi :
THẦN văn chất ĐỨC tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Gặp thời búa Việt, giục cờ Mao.
Ông Trương Hữu Đức (sau
đắc phong Hiên Pháp) cho các bạn thơ cố ý giả ngộ chơi. Thế nên về nhà đem bàn
ra một mình đặt tay lên, miệng vái các chơn hồn ứng hiện. Tức khắc có vong linh
của lịnh huynh ông giáng cho hai vị thuốc trị ông lành bịnh. Rồi có vị Minh
Nghĩa Tiên Ông giáng cho thi :
THI
Minh đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn ao ước cái không hay.
Mừng câu Aâu Á càng thêm mặt,
Mừng cậu côn đồ đã chịu chay.
Từ đó ông Đức hết sức tin
tưởng và ăn chay trường luôn. Còn ông Hậu vì điểm danh đúng bút hiệu nên xin
làm đệ tử Đấng A-Ă-Â.
Đến ngày 12-12 năm đó
(27/10/Ất Sửu), Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng dạy :
"Mùng 1 tháng 11 này
tam vị đạo hữu VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO"
Bà thăng rồi, ba Ngài hội
ý vẫn không hiểu cầu đạo là thế nào. Thế nên hôm ba Ngài mới cầu Thất Nương
hỏi.
- Thất Nương dạy dùm cầu
đạo là gì ?
Thất Nương đáp :
- Không phải phận sự của
em, xin hỏi ông A-Ă-Â giáng dạy.
"Ngày 1/11 này
(16/12/25) tam vị phải VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO.
Tắm gội cho tinh khiết, ra
quì giữa trời cầm chín cây nhang mà vái rằng : ba tôi là
- Cao Quỳnh Cư
- Phạm Công Tắc
- Cao Hoài Sang
Vọng bái Cao Đài Ngọc Đế,
ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.
Tịnh tâm quỳ đến tàn hết
chín cây nhang mới vào, rồi đến nhà (ông) Tý mượn đại ngọc cơ, học cách dùng để
Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng.
Thế là việc xây bàn đến
đây chấm dứt và việc cầu cơ bắt đầu để khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nghĩa là
thời khai nguyên dẫn dắt vào đường Đạo đã cáo chung.
Khi ba Ngài Vọng Thiên cầu
đạo, ngoài đường kẻ qua người lại dập dìu, nào xe cộ lượn qua, nào người người
đi coi hát về, họ hiếu kỳ DỪNG CHÂN LẠI COI BA Ngài cúng vái ai mà quì ngoài
sân. Bỗng đâu có thi sĩ Bồng Dinh (tức Giáo Sỏi) đến vịn cái bàn chỗ ba Ngài
quì mà ngâm thi. Mọi người càng đến coi đông hơn. Nhưng các Ngài cũng tâm
nguyện, chờ cho 9 cây nhang tàn mới vào nhà, đoạn thiết đàn cầu cơ :
Đấng Cao Đài giáng viết :
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết
Cao Đài Tiên Oâng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát giáo Đạo Nam Phương.
THI
Thiên đàng nhứt thế biến lôi âm
Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm,
Chánh giáo phát khai thiên thế mỹ,
Thâu hồi hiệp nhứt đạo tam kỳ.
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ
Các Ngài không thông suốt
được bài thi nên thỉnh Đấng A-Ă-Â xin giải nghĩa, được giải như vầy : Ngọc
Hoàng Thượng Đế là Trời, viết là dạy rằng : Cao Đài chỉ Nho giáo, Tiên ông chỉ
Đạo giáo, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Thích giáo, giáo đạo Nam Phương là dạy Đạo ở
phương Nam. Nghĩa là Trời giáng trần qui Tam giáo Nho Thích Đạo dạy Đạo ở
phương Nam".
Vì có nhiều vị chưa vững
đức tin đêm mồng 8/11/Ất Sửu (23/12/1925), Lục Nương giáng giải đáp thắc mắc
cho các Ngài. Sở dĩ chỉ có Thất Nương, Lục Nương và Bát Nương thường giáng đàn
là vì các Tiên Nương khác có nhiệm vụ riêng (1). Sau đó Huệ Mạng Trường Phan
(thầy tu núi Bà Đen) giáng :
1/ - Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy
Nào dè có đặng buổi hôm nay
Gìn lòng tu niệm cho bền chí
Đông đảo ngày mai đặng hiệp vầy.
2/ - Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn
Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn,
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.
- Xin chư vị gắng tu, thấp
thỏi như tôi nhờ trọn tin Trời Phật, còn được ân thưởng Huệ mạng Kim Tiên,
huống hồ chơn linh cao trọng như quí vị, nếu chịu tu ngày sau phẩm vị còn cao
đến bực nào.
Lời báo tin mai của Huệ
Mạng làm, cho các ông nửa mừng nửa sợ, nên đêm sau thiết đàn để thỉnh Đấng
A-Ă-Â về giáng dạy. Lục Nương giáng đàn báo phải chỉnh đàn nghiêm để rước Đấng
Cao Đài Thượng Đế.
THI
Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên
Đạomầu rưới khắp nơi trần thế
Ngàn tuổi muôn tên giữa trọn biên.
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ
"Đêm nay, 24 Décembre
phải vui mừng vì là ngày Ta xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe).
"Ta rất vui lòng mà
độ đệ tử kính mến ta như vậy. Nhà này (nhà ông Cư) sẽ đầy ơn ta, giờ ngày gần
đến đơi lịnh Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính Ta hơn nữa".
(Xem "Công đức Đức Phật Mẫu và
Cửu Vị Nữ Phật")
Nên biết thưở đầu việc xây
bàn cầu cơ phần lớn thiết lập ở nhà Ngài Cao Quỳnh Cư. Vì thế, khi đi làm việc
về, Ngài Phạm Công Tắc thường ghé luôn ở đây ăn cơm xong rồi cầu cơ thỉnh Tiên.
Các Ngài muốn mau biết việc Thượng giới nên đi làm việc chỉ mong mau tối để về
thiết đàn.
Cũng đêm ấy, Đức Lý Thái
Bạch giáng đàn cho thi :
Đường trào hạ thế hưởng ma quan,
Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.
Chén rượu trăm thi đời vẫn nhắc
Non tiên vạn kiếp thế chưa tàn.
Một bầu nhựt nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan
Bồng đảo còn mơ khi múa bút,
Tả lòng thế sự
vẽ giang san.
THÁI
BẠCH TIÊN TRƯỞNG
Đêm 31/12/1925 (15/11/Ất Sửu) Đấng A-Ă-Â giáng:
Ba con thương Thầy lắm hả
?
Con thấy đặng sự hạ mình
của A-Ă-Â như thế nào chưa ? Con thấy thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa ?
Người quyền thế lớn nhất như vậy có thể hạ mình bằng A-Ă-Â chăng ?
A-Ă-Â là Thầy, Thầy đến
các con thế ấy, con thương Thầy không ?
Sự nhỏ nhẹ của Thất Nương
đó, con bằng mảy múng gì chưa ? Học hỏi sự nhỏ nhẹ ấy.
Sự cao kỳ của Lục Nương,
con có đặng mảy múng gì chưa ? Học sự cao kỳ ấy.
Sự nhân đức của Thất
Nương, con có chút đỉnh gì chưa ? Phải học sự nhân đức của Thất Nương.
Tình nghĩa yêu mến của các
con có bằng Bát Nương không ? Phải hocï.
Phải học tình nhân ái,
trung tín cứu giúp của Cửu Thiên Nương (tức Đức Phật Mẫu) ba con có đặng như
vậy chăng ? Phải học gương.
Sự kính nhượng của ba con
bằng Cửu Nương chăng? Phải học.
Hạ ngươn tận diệt, Thầy
sai Thần Thánh, Tiên Phật và chính mình Thầy, vì thương chúng sanh cũng hạ mình
đến với các con, mượn việc xây bàn đùa giỡn với các con, để các con vui mà học
Đạo, hầu khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt chúng sanh"
Tuyên ngữ Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ đến nay mới được khải chúng. Năm 1920, Đấng Thượng Đế đến dạy Đạo ông
Ngô Văn Chiêu ở Phú Quốc chỉ xưng là Cao Đài Ngọc Đế. Nhưng các Ngài lúc bấy
giờ chưa rõ mối Đạo lớn thế nào và giáo lý ra sao hay lấy giáo lý các tôn giáo
đã có.
Thế nên, đêm 2/1/1926 (13/11/Ất Sửu) Đấng Cao Đài
Thượng Đế giáng dạy :
"Cư, Tắc hai con đừng
lấy làm việc chơi nghe. Thầy dặn hai con một điều : nhứt nhứt phải đợi lịnh
Thầy, chẳng nên lấy tư riêng mà phán đoán nghe.
Phận sự hai con, trách
nhiệm hai con Thầy đã định trước, song ngày giờ chưa đến, phải tuân lời Thầy
nghe. Từ đây Thầy khởi sự dạy Đạo".
Ngày 2/1/1926 là ngày lịch
sử trong khoảng đời tâm linh của Ngài Phạm Công Tắc và Cao Quỳnh Cư, vì từ đây
Đức Chí Tôn mới thực sự dạy Đạo cho Ngài. Vì vậy các Ngài gặp điều gì khó khăn
thì triệu thỉnh các Đấng Thiêng liêng. Đêm mồng 4 tháng đó, Đức Chí Tôn giáng
cơ quở rằng :
"Thầy đã nói A-Ă-Â là
Thầy, còn cung Diêu Trì là cung Diêu Trì, các Thánh đều có quả. Ấy là những
Đấng Thầy sai đến dạy dỗ mấy con, đừng triệu thường vì mỗi vị đều có phận sự
riêng.
Chư Tiên và chư Thánh đều
có quả, song đừng triệu về mà chơi, kỳ dư có điều gì học hỏi".
Đến ngày 9/1/1926 (25/11/Ất Sửu), Đấng Thượng Đế
giáng cơ dạy các Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến đường Quai Testard (Chợ
Lớn) độ ông Lê Văn Trung, Ngài Phạm Công Tắc có vẻ không bằng lòng vì :
"Buổi nọ ông Lê Văn Trung
làm Thượng Nghị Viện Hội Đồng Thượng Nghị viện đời Pháp lớn lắm. Ông là người
Nam làm đến bực đó thôi. Ông là người quá sức đời, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm
(tức ông Cao Quỳnh Cư) không hạp chút nào. Tôi kỵ hơn hết, nhứt định không làm
điều đó được. Một ông quan trong thời mất nước không thể tả hết.
"Khi chúng tôi ôm cái
cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ. Mục đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo
đâu làm đó vậy thôi. Khi vô tới nhà thú thật Ngài rằng : "Chúng tôi được
lịnh Đức Chí Tôn đến nhà anh Phò loan cho Đức Chí tôn dạy Đạo". Ông biết
Đấng đó hơn chúng tôi (1). Lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn buổi phò loan, rồi bắt
ông nhập môn.
"Trong nhà có 1 người
con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12 tuổi, hai cha con kiếm được cơ đâu không
biết, vái rồi cầu cơ. Khi phò loan thằng nhỏ ngũ, ông thì thức. Cơ chạy hoài
ông hỏi thi Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Từ đó
ông mới tin có Đức Chí Tôn". (Theo bài thuyết Đạo đêm Giáp Ngọ của Đức
Phạm Hộ Pháp)
Dù đã theo học Đạo với
Thầy Trời, nhưng tấm lòng thương dân yêu nước vẫn chưa nguôi. Khi chánh quyền
Pháp đàn áp các phần tử ái quốc, dòng máu cách mạng của Ngài lại bừng sôi. Bà
Thất Nương giáng cơ đêm 27/1/1926 (13/12/Ất Sửu) khuyên:
"Em xin quý anh coi
lại đời là thế nào ? Bông phù dung sớm còn tối mất còn hơn kiếp con người. Vì
dù nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà lúc sống còn có cái sắc, chớ đời người
sanh ra chỉ để khổ mà thôi, dù sống trăm tuổi chưa 1 điều đắc chí, rồi chết.
Cái đời này đúng là 1 khổ hải.
"Em xin quí anh coi
sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nỡ bỏ
đi. Em tiếc dùm đó thôi.
"Đã vào đường chánh,
cứ do đó, theo đó bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng".
( Vì vào 15/5/Ất Sửu (6/6/1927), tại Chợ Gạo (Chợ Lớn) có thiết đàn thỉnh
Tiên, ông Nguyễn Hữu Đắc cố đưa ông Lê văn Trung đến hầu đàn nhiều lần. Khi ông
Trung ngộ Đạo thì Chợ gạo bị bế. Nghĩa là dù ai có cầu các Đấng vẫn không
giáng).
Từ lúc chấm dứt việc xây
bàn thay vào phò cơ thì hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc làm đồng tử, nên
tất cả những bài từ trước của các Đấng giáng cho đều do cặp nguyên thủy này
viết ra. Vì vậy, Ngài Cao Hoài Sang thấy mình hơi thừa, rồi lần lần ít chịu đi
hầu đàn. Các Ngài mới xin với Đấng Cao Đài để lời dạy bảo. Đấng Cao Đài Thượng
Đế giáng rằng :
"Nó thật thà, vả lại
nó còn mang xác phàm. Ai dưới thế này đặng trọn vẹn, các con chỉ cho Thầy
coi?"
Các Ngài đã thọ làm môn đệ
Đấng Cao Đài đã lâu nhưng chưa thờ vì chưa biết cách thức thờ thế nào, nên mới
xin cách dạy để thờ, thì Đấng Cao Đài Thượng đế dạy "Đến Chiêu xem cách
thức nó thờ Thầy, bảo nó hiệp một với các con"
Vâng lịnh Đấng Cao Đài,
các Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đến nhà ông Ngô văn Chiêu ở
số 110 đường Bonard (nay là Lê Lợi, Sài gòn) để quan sát cách thờ. Ông Ngô Văn
Chiêu thờ Thầy rất kỹ, tận trên cao và ngay chính giữa nhà, thật kín đáo. Có ai
đến chơi nhà, không chỉ khó mà biết được vì ông là người rất dè dặt không phải
là bạn tu thì không bao giờ chỉ dẫn".
Vào năm 1921 lúc làm chủ
quận Phú Quốc, một buổi sáng lối 8 giờ tối, Đức Chí tôn đã hiện con mắt (Thiên
nhãn) nhiều lần và buộc ông phải thờ. Năm 1924, ông đổi về Sài Gòn thì cũng
tiếp tục thờ Thầy (Thiên nhãn) và tự đơn như trước. Kịp đến khi Đức Chí Tôn
chuyển cơ phổ độ cho nhóm Ngài Phạm Công Tắc thì các Ngài đến đây để quan sát
cách thờ phượng về tuyền bá trong đạo hữu.
Vì nhà Ngài Lê Văn Trung
rộng rãi, ngày 15/12/1Ất Sửu, Ngài thượng Thánh tượng Thiên Nhãn có mời các ông
Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Vương Quan Kỳ,
Đoàn Văn Bản, Nguyễn Văn Hoài, Trương Hửu Đức, Võ Văn Sang, Lê Văn Giảng, Lý
Trọng Quí, Lê Thế Vĩnh … Đấng Cao Đài giáng cơ dạy :
- Thầy vui thấy các con
thuận hòa cùng nhau. Thầy muốn các con như vậy hoài. Ấy là lễ hiến cho Thầy rất
trang trọng.
Chẳng quản đồng tông mới một nhà
Cùng nhau một Đạo tức một cha
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi
Dạy lẫn cho nhau một chữ hòa.
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
Đêm 30/12/Ất Sửu (12/2/1926) quan phủ Ngô văn
Chiêu đi với hai Ngài Cư , Tắc đến nhà một vị đặng mừng xuân. Đến nhà ai thì cặp
cơ Cư -Tắc phò loan, trước hết là nhà ông phán Võ Văn Sang, sau cùng là Ngài Lê
Văn Trung. Mỗi người đều được một bài tứ tuyệt mà bài của Ngài Cao Quỳnh Cư như
vầy :
Sắp út thương hơn cũng thế thường
Cái yêu cái dạy ấy là thương
Thương không nghiêm trị là thương dối
Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.
Khuya mồng 1 Tết, Đấng Cao
Đài giáng dạy : "Hôm nay là ngày trọng đại Thầy chính thức khai Đại Đạo
tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt 92 ức nguyên nhân đang bị đọa trầm luân :
Phụng gáy non Nam Đạo trổ mòi
Trổ mòi nhân vật bốn phương trời,
Trời Aâu, biển Á chờ thay sắc,
Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi.
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ
Đó là ngày Khai Đạo Cao
Đài về cơ Phổ hóa.
Qua đến mồng 9/1 nhằm vía
Đức Chí Tôn, ông Vương Quan Kỳ thiết đàn tại nhà riêng ở số 80 đường Lagrandière
(nay là đường Gia Long). Đức Thượng Đế giáng cơ :
Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức
Bền lòng son sắc đến cùng ta.
Quan phủ Ngô Văn Chiêu xin Đức Thượng Đế lấy
tên mấy người đệ tử mà cho bài thi. Đức Thượng Đế thuận cho :
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
Quờn Minh Mân đáo thủ đài danh.
12 chữ lớn trong ba câu
đầu là tên của 13 vị môn đệ đầu tiên, vì hai ông Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang
điểm chung một tên.
Tùy theo Đạo nhưng các ông
còn ngỡ ngàng trước cách lễ bái, đạo phục, nhất là cách thờ Thiên Nhãn. Ngày
12/1/Bính Dần (24/2/1926), Đấng Cao Đài giáng dạy :
"Thập Nhị khai thiên
là Thầy, chúa tể cả càn khôn thế giái, nắm trọn Thập nhị Thời thần trong tay.
Số 12 là số riêng của Thầy.
"Chưa phải hồi con
biết đặng tại sao phải vẽ Thiên Nhãn mà thờ Thầy. Song Thầy nói sơ lược cho
hiểu chút đỉnh :
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quan chủ tể
Quang thị thần
Thần thị thiên
Thiên giã ngã giã
"Thần là khiếm khuyết
của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này, Thầy cho
Thần hiệp tinh khí đặng hiệp đủ tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập
Thánh".
Lần lần khách bàng quang
hiểu được chủ đích của Cao Đài giáo là qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi, người ta
trích điểm lập chi Đạo mới cho thêm khó khăn phiền toái. Đức Cao Đài giáng dạy
;
"Vốn từ trước Thầy
lập Ngũ chi Đại Đạo là : Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Tùy
theo phong hóa của nhơn loại mà gây chánh giáo, là trước càn vô đắc khán khôn
vô đắc duyệt, thì nhơn loại chỉ có hành Đạo nơi tư phương mình mà thôi.
"Còn nay thì nhơn
loại đã hợp đồng, càn khôn dĩ tận thức thì lại bị phần nhiều Đạo, mà nhơn loại
bị nghịch lẫn nhau nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lạ nữa, Thầy
giao Thánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà lập ra phàm
giáo".
Ông Vương Quan Kỳ bạch :
-Bạch Thầy, anh cả (ông
Ngô Văn Chiêu) bảo Thầy giao cho ảnh làm chủ mối Đạo dạy dỗ chư môn đệ, mà ảnh
không chịu tiếp xúc với chúng con, thì làm sao ?
"Chẳng ai dưới thế
này được phép nói thế quyền Thầy mà trị phần hồn nhơn loại được.
Ai có hạnh lớn mới mong
được Thầy ban thưởng ngôi vị. Chiêu có công tu, lại là môn đệ trước tiên của
Thầy. Thầy định ban chức Giáo tông cho nó, nhưng nó không giữ lời nguyền với
Thầy lại sợ tà quyền mà xua đuổi môn đệ của Thầy, chẳng còn xứng đáng làm anh
cả của các con".
Các Ngài Lê Văn Trung, Cao
Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc … và chư môn đệ đồng quì xuống xin tội cho Ngô Văn
Chiêu.
Đến ngày 25/4/1926 (15/3/Bính Dần) thì thiết lễ
Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, Thầy dạy :
"Cư nghe dặn : con
bảo Tắc tắm rửa sạch sẽ, xông trầm hương cho nó, biểu nó lựa một bộ đồ tây cho
sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón, cười …
"Đáng lẽ nó phải sắm
khôi giáp giống như hát bội mà mắc nó nghèo nên Thầy không bảo. Bắt nó lên đứng
trên ngó mặt vô ngay ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đấp mặt nó lại, biểu
Đức Hậu đứng gần, kẻo nó xuất hồn té tội nghiệp.
"Lịch, con viết một
lá bùa Gián Ma xử cho Tắc cầm. Hai con mặc đồ thường, chừng nào Thầy triệu Ngũ
lôi và Hộ Pháp về rồi. Thầy biểu mặc Thiên phục vô mới mặc, thế mới đặng".
Hôm ấy, có các vị được thọ
phong là Ngài Phạm Công Tắc thọ phong Hộ Pháp, Ngài Cao Quỳnh Cư thọ phong
Thượng Phẩm, Ngài Lê Văn Trung thọ phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ngài Lê Văn
Lịch thọ phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
Các vị sau đây được phong
vị để phò cơ :
Đức, Hậu phong Tiên Đạo
phò cơ Đạo sĩ
Cư phong Tá cơ Tiên hạc
Đạo sĩ
Tắc phong Hộ giá Tiên đồng
Tá Cơ Đạo sĩ.
"Hai ông Thượng Phẩm
và Hộ Pháp hợp thành một cặp đồng tử chấp Cơ Phong Thánh, truyền giáo, lập Pháp
chánh truyền và Tân luật, tức là Hiến chương của nền Đạo hiện giờ.
"Chúng ta phải nhìn
nhận đầu công của hai ông này vào bực nhứt. Trước hết và trên hết, Đức Chí tôn
mượn tay và thần lực của hai ông mà lập thành Đại Đạo cho đến ngày nay. Nếu
không có bàn tay xây dựng của hai ông thì:
- Đâu có Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ
- Đâu có
chức sắc Thiên phong nam nữ
- Đâu có Hội
Thánh và các cơ quan trong Đạo
- Đâu có Pháp chánh truyền
và Tân luật
- Đâu có đại nghiệp hiện
giờ cho nhân sanh thừa hưởng" (theo Đạo sử cơ bút của Trương Hiến Pháp)
Ngoài cặp cơ Cư - Tắc còn
có cặp cơ : Sang - Diêu, Hậu - Đức, Nghĩa - Tràng, Tươi - Chương, Kim - Đãi,
Mai - Nguyên, Mạnh - Phước, Thân - Vĩnh.
Cầu cơ là phò loan gồm có
hai vị đồng tử, ngồi hai bên cái giỏ cơ, tay cầm vào miệng cơ. Một lát sau điển
các Đấng giáng rồi Ngọc cơ tự động mà viết ra. Chính vì đó, người ta có thể nhờ
người bên trái hay bên phải viết ra. Thế nên, cơ bút có thiệt mà cũng có giả.
Người trong cuộc mới hiểu rõ được việc đó.
Dưới đây là danh tánh các
Đấng giáng cơ giúp việc khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, từ năm Ất Sửu đến khi
Ngài Thượng Phẩm được đắc phong.
1/ - Xuất Bộ Tinh Quang,
2/ - A-Ă-Â,
3/ - Cửu Vị Tiên Nương,
4/ - Cửu Thiên Huyền Nữ,
5/ - Thiên Hậu,
6/ - Liên Huệ Tiên,
7/ - Đại Tiến Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký,
8/ - Nhàn Âm Đạo Trưởng,
9/ - Quan Thánh Đế Quân,
10/ - Thần Sơn Quan Diệu Võ Tiên ông,
11/ - Đỗ Mục Tiên,
12/ - Minh Nguyệt Tiên ông,
13/ - Bách Nhẫn Đại Tiên,
14/ - Thánh Pierre,
15/- Huệ Mạng Trường Phan,
16/ - Tả quân Lê Văn Duyệt,
17/ - Quí, Cao,
18/ - Thổ Địa Tài Thần,
19/ - Lý Thái Bạch,
20/ - Ông Môn,
21/ - Cao Xuân Lộc,
22/ - Cao Quỳnh Tuân,
23/ - Cao Hoài Ân.
Vì có nhiều cặp cơ, hơn
nữa Đàn Cầu Kho không cung ứng cho hoàn cảnh, nên có thêm 5 đàn nữa là Chợ Lớn,
Tân Kim (Cần Giuộc), Lộc Giang, Thủ Đức và Tân Định mà cặp cơ Cư - Tắc phò loan
ở đây. Chính đàn này đã thâu được ông Lê Thiện Phước (sau đắc phong Bảo Thế).
Để việc phổ độ chúng sanh
khỏi bị ngăn trở, các Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc … tất cả 28 vị đứng tên
đưa tờ Khai Tịch Đạo lên Thống Đốc Nam Kỳ là ông Le Fol (nhằm triều Bảo Đại)
vào ngày 7/10/1926. vì nằm trong chế độ cai trị của Pháp bấy giờ, Tờ Khai Tịch
Đạo coi như thông báo chánh thức rồi hành giáo và truyền giáo chớ không đợi
phúc văn của Pháp. Thế nên, không có văn kiện nào trả lời hoặc cho phép về Tờ
Khai trên cả.
*
* *
Nơi tu tịnh của Đức Cao
Thượng Phẩm gọi là Thảo Xá Hiền Cung, rút từ cơ của Bà Thất Nương giáng cho năm
1925, sau khi Ngài bị cơn khảo của Tư Mắt (xem chữ Hán nơi trang 51).
Thảo xá tuỳ nhơn ngu muội
bần cùng nghinh nhập thất.
Hiền cung trạch khách
thông minh phú quý cấm lai môn.
Nhà này vốn của cụ Cao
Quỳnh Tuân (đắc vị Xuất Bộ Tinh Quân), thân sinh của Đức CTP. Sau khi dời chùa
Từ Lâm Tự về chùa Mới thì Đức CTP chọn nơi đây làm Tịnh Thất. Sau đó hiến làm
Thánh Thất châu đạo Tây Ninh. Một phần vẫn dùng làm TXHC. Đầu năm 1992, vì tu
sửa nới rộng Thánh Thất Thị xã nên TXHC được tách rời thành một ngôi thờ riêng
biệt.
Chương
III
XÂY DỰNG NỀN TẢNG ĐẠO
(1926-1928)
Sau khi lập tờ Khai Tịch
Đạo với chánh phủ Pháp, thì việc phổ độ các tỉnh bắt đầu từ tháng chín Bính
Dần. Ngài và quí Ngài Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc đi phổ độ trong các tỉnh Vĩnh
Long, Trà Vinh, Cần Thơ (nay là Phong Dinh), Sóc Trăng, Bạc Liêu (nay là Ba
Xuyên), Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá (nay là Kiên Giang). Nhóm thứ
hai truyền đạo các tỉnh Tiền Giang. Nhóm thứ ba các tỉnh miền Đông.
Đêm 14 rạng 15 tháng 10
năm Bính Dần (18/11/1926) là đêm chánh thức khai Đạo Cao Đài tại Gò Kén (Tây
Ninh) và lễ khánh thành Thánh Thất Từ Lâm đầu tiên của nền Đại Đạo. Đêm hôm ấy
vì quá đông, nên cuộc lễ bớt phần trang nghiêm. Khi cầu cơ Đức Chí Tôn chỉ để
ít lời quở trách rồi thăng. Thừa dịp tà quái nhập vào 1 nam và nữ bổn đạo mà
quấy phá. Họ mạo xưng là Tề Thiên Đại Thánh và Quân Aâm Bồ Tát.
Vịn vào việc đó, một số đồ
đệ của Như Nhãn xúi đòi chùa lại. Hội Thánh phải hẹn trong ba tháng (tức đến
ngày 15/1/Đinh Mão) sẽ trả chùa lại. Dù vậy, ngay đêm khai Đạo, Thầy vẫn giáng
cơ lập tịch đạo nữ phái.
Hương tâm nhứt phiến cận càn khôn
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Aâm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.
Đêm 16/10 (20/11/1926) thì lập Pháp Chánh Truyền
(tịch đạo Nam phái cho mồng 9/8/1926 tại Vĩnh Nguyên Tự)
Thanh Đạo tâm khai thất ức niên,
Thọ như địa huyền thạnh hòa thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
Đạo dưới thời Lý Giáo Tông
thì Nam phái lấy chữ Thanh, Nữ lấy chữ Tâm. Khi nào hết tịch đạo thì Đấng Chí
Tôn sẽ giáng cơ cho tịch đạo khác. Lớn nhỏ, trước sau nhờ chữ tịch đạo này mà
phân biệt.
Vào ngày 2/11/Bính Dần (6/12/1926) Đức Chí Tôn ra
lịnh hội chức sắc thành lập Tân luật. Để tiếp cho trọn bộ Pháp Chánh Truyền.
Đến ngày 13/2/1927 (12/1/Đinh Mão), Đức Chí Tôn giáng cơ thành lập Hội Thánh
Hiệp Thiên Đài.
Sở dĩ, việc thành lập các
cơ chế Đạo có nhiều khoảng trống thời gian vì cặp cơ Cư -Tắc còn bận làm việc
tại Sài gòn, ngày nghỉ cùng nhau lên xe Ngài Lê Văn Trung mới về Gò Kén hành
pháp.
Tuy đáo hẹn trả chùa mà
vẫn chưa tìm được đất mới nên chư vị chức sắc được Đức Lý dạy rằng : "mai
này chư hiền hữu lên đường dây thép (tức đường route haute) nhắm địa thế dài
theo cho tới ngã ba Ao Hồ (hồi đó chưa có đường vào trường Nữ Trung Học) coi như
hiền hữu có thấy đặng chăng ?"
Qua ngày sau quý vị lên xe
đi tìm đất, khi chạy tới khoảng cửa số 2 ngày nay, cạnh góc ngã ba có cây vừng,
Đức Cao Thượng Phẩm ngó thấy trên cây này có 1 tấm bảng treo đề tên Cao Văn
Điện, một người bạn học của Ngài thuở nhỏ. Đức Cao Thượng Phẩm nói với chư vị
chức sắc rằng :
- Để tôi đi tìm ông Cao
Văn Điện, nhờ chỉ dẫn giùm chủ đất này.
Ông Điện mới cho biết đất
này của ông Aspar, Kiểm lâm người Pháp. Đêm hôm ấy chư vị cầu Đức Lý thỉnh giái
Đức Lý dạy : "Phải đó tưởng chư hiền hữu không thấy. Lão cắt nghĩa vì sao
cuộc đất ấy là Thánh địa, sâu hơn 30 thước như con sông, giữa trung tâm đất
giáp lại trúng giữa 6 nguồn, làm như 6 con rồng đoanh châu. Nguồn đất ấy trúng
ngay đỉnh núi gọi là lục long phò ẩn. Ngay miếng đất ấy có 3 đầu: một đầu ra
giếng mạch Ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia".
Về khuôn viên Tòa Thánh
tạm thì Đức Lý dạy : "Thánh Thất tạm thời phải cất ngay miếng đất trống.
Còn Hiệp Thiên Đài phải trước Thánh Thất tạm. Đạo hữu phải khai phá đám rừng,
cách miếng đất trống chừng ba thước rưỡi, đóng 1 cây nọc, đo Hiệp Thiên Đài như
vầy, ngoài Bàu Cà Na đo vào chừng 50 thước đóng một cây nọc. Ấy là khuôn viên
Tòa Thánh".
Lúc khởi công để phá rừng,
người Miên, Tà Mun xuống cả ngàn người làm công quả. Viên Chánh Tham Biện người
Pháp nghi ngờ, nên mời Đức Cao Thượng Phẩm ra Tòa bố (tức Tòa hành chánh), hỏi
rằng :
- Ông làm cái gì mà đông
đảo như vậy ?
Đức Cao Thượng Phẩm trả
lời :
- Tôi mua miếng đất đó
đặng trồng cao su.
- Trồng mấy mẫu ?
- Tôi trồng hết sở đất tôi
mua, phá tới đâu tôi trồng tới đó.
Vì lúc đó việc trồng cao
su đang thịnh hành và là một nguồn lợi lớn cho Pháp, nên họ làm lơ. Các cây cao
su còn lại nơi vùng Bá Huê Viên hiện nay là di tích của Đức Ngài.
Đến ngày 20/2 năm đó
(23/3/1927) mới thỉnh Thánh Tượng, Chư Phật về đất mới thuộc làng Long Thành.
Khó khăn nhất là việc di cốt Phật Tổ cỡi ngựa Càn Trắc. Đức Cao Thượng Phẩm
phải tập trung nhiều người để đưa cốt lên chiếc xe bò, kết lại. Viên Chánh Tham
Biện cho một toán lính mặc đồ đen núp ngoài mương ruộng chờ có gì khác thường
là bắn. Khi rõ thật sự thỉnh cốt Phật thì họ rút lui êm.
Đức Ngài đứng trên xe bò
vịn cốt Phật Tổ, khởi hành lúc 18 giờ đến 2 giờ sáng mới đến Thánh Thất tạm.
Khi đến khoảng cửa Hòa viện ngày nay, bị một cái mương lớn quá, Đức Ngài phải
khó nhọc tìm thế lót ván để xe qua, thì đã mệt lữ, Đức Ngài ném mình xuống đống
lá khô trong rừng mà nghỉ. tất cả chức sắc cũng nằm xuống đó. Bà Nguyễn Thị
Hiếu điều động nữ phái khiêng cháo và nước đến cho mọi người ăn để lấy lại sức.
Sau đó, cốt Phật Tổ được an vị giữa hai cụm rừng gần cây ba nhánh (tức chỗ an
vị hiện nay).
Đức Ngài tiếp tục xây cất
Tòa Thánh tạm, nào Hậu điện, Đông lang, Tây lang, trường học, Trù phòng. Tất cả
đều bằng tranh rồi đào giếng nước, tức mấy cái giếng gần Tòa Nội chánh hiện
nay.
Biết được chủ đích việc
làm của Đức Ngài, Viên Chánh Tham Biện làm khó đủ điều. Họ buộc phài rào xung
quanh Tòa Thánh lại, không ai được vào lễ bái. Trong chánh điện chỉ có Lễ sanh
Thượng Xường Thanh hành lễ mà thôi. Ai muốn cúng thì phải quỳ ở ngoài mà lạy vô
bửu điện. Họ còn làm tình làm tội Đức Ngài, gọi ra Tòa bố ngày một. vì lúc này
Đức Ngài đã bỏ sở mà phế thân hành đạo trước nhất. Dù vậy Đức Ngài vẫn một lòng
giữ đạo, yêu sanh chúng. Nhận thấy công phá rừng đau yếu, Đức Ngài cầu nguyện
Đức Chí Tôn ký pháp nước âm dương tạo thành cam lồ thủy trị bịnh cho mọi người.
Tuy bị ngăn cản không có 1 nơi tôn nghiêm để hành pháp các Thổ nhơn đem ve chai
để trên sạp cầu xin nước Thánh. Lạ một điều chỉ có một thứ nước mà trị bá bịnh.
Nhờ sự huyền diệu này , tiếng đồn vang xa, các làng xã, nhơn sanh tấp nập kéo
tới làm công quả, thỉnh nước Thánh càng đông giúp cho việc phá rừng tạo tổ đình
càng được dễ dàng.
Có lẽ vì chuyện này, một
số báo Pháp ngữ xuyên tạc là Cao Đài Tây Ninh lấy nước suối ở núi Điện Bà về
bán. Rồi người này chuyền miệng người kia "tam sao nhất bổn" đem đến
sự khó khăn hành đạo của Đức Ngài về sau.
Chương IV
MÙA PHÁP NẠN
(1928-1929)
Đời hành đạo của Đức Ngài
tuy có kham khổ nhọc nhằn vì phải xây dựng nền tảng đầu tiên cho nền Tân Tôn
giáo, nhưng cũng được an ủi tinh thần qua nét mặt tươi vui của chư tín hữu nhất
là số tín đồ theo đạo ngày càng đông.
Bổng đâu đất bằng sóng
dậy. Vào tháng 3 năm mậu Thìn một nhóm người từ Thủ Đức do ông Tư Mắt tức
Nguyễn Phát Trước dẫn dụ về Tòa Thánh đặt điều nước lã khuấy nên hồ. Họ đuổi
Đức Ngài ra khỏi Tòa Thánh trong 24 giờ, nếu không đi cột trong rừng mà bắn.
Ngài quá uất ức nhưng không thể giải bày cho những người bạo hành rõ được nỗi
oan khiên của mình. Đức Ngài quá buồn, kẻ lo đạo không mấy người, phá đạo lại
đông., thật đúng câu "Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng" Đức Ngài
ngọa bịnh phải về thảo xá Hiền cung (tức Thánh Thất Tây Ninh ngày nay). Nhớ
ngày nào, Đức Ngài nguyện làm con tế vật cho Đức Chí Tôn sai khiến, mà trò đời
quá cay nghiệt để lỡ bước đường hành đạo. Đức Ngài thống khổ mà nảy ra bài tự
thán như sau :
THI
Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng
Nay Bửu đình hiu quạnh lụy nhìn
Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.
Thông cảm được nỗi oan
khiên của Đức Ngài, Đức Cao Thượng Sanh đã họa bài thi trên như vầy :
HỌA VẬN
Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,
Hiu quạnh hôm nay gió rập rình
Trước ngõ lơ thơ vài đạo hữu
Sau hiên meo mốc mấy pho kinh
Rừng xơ vẻ thắm chim không đỗ
Cảnh lợt màu tươi khách biếng nhìn
Xây
dựng là ai, ai phá hoại
Sụt
sùi để bước khó làm thinh.
Thất Nương Diêu Trì Cung cũng giáng cho Ngài bài thi để an ủi :
THI
Nghĩ
giận mà ra bắt nực cười
Nhờ ai an vị lại an nơi
Trăm năm chưa giữ bền thân sống,
Một kiếp đã gây lắm tội đời,
Phẩm Phật ngôi Tiên an dẫn nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời,
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Đến cửa thiêng liêng ngó mặt trời.
Nỗi oan tình đó, không
những Diêu Trì Cung rõ thấu mà thi phàm mắt thịt của toàn đạo bấy giờ ai cũng
biết. Mọi việc là do bà Nguyễn Thị Hiếu (do bà kể lại lúc sanh tiền). Bà thấy
những người công quả bị chói nước, ăn không tiêu, bà có bổ thuốc tiêu để bán
lại cho ngừơi làm công quả phá rừng. Những kẻ ganh tị cho bà làm tiền chư tín
hữu.
Việc thứ hai, một buổi
sáng trên cầu ván nơi Thảo xá Hiền cung bà để một số hàng bông rau cải, để đem
ra chợ bán. Một ít người đi qua thấy không biết cho là hàng bông của chùa.
Việc thứ ba, bà có lấy một
số chai nước tương rỗng đem về Thảo xá Hiền cung để đựng nước cho Đức Cao
Thượng Phẩm uống vì sợ chói nước (Tây Ninh thuở trước nước rất độc). Người ta
cho bà lấy chai còn nước tương.
Ba việc ấy khiến cho kẻ
kém vị tha làm đơn thưa lên Hội Thánh. Việc này chưa ngã ngũ thì một vài người
đưa tin này về Sài Gòn, thêu dệt thêm này nọ. Rồi họ kéo lên Thủ Đức xúm lập vi
bằng. Trong đó có ông Nguyễn Phát Trước tính nóng nảy, nhứt quyết đưa một số
người về Tòa Thánh vấn nạn. Hậu quả của việc bạo hành đó, ông Trước sau khi về
Sài gòn, một thời gian bị đèn Manchon phựt xăng cháy, người ông bị thiêu.
Nguyễn Phát Trước tự Tư
Mắt mà các tay giang hồ thời bấy giờ quen gọi là anh Tư Đại Ca. khi ông được
tin nhà ông Đốc học Đoàn Văn Bản có đàn cơ thỉnh tiên ông đến xem thực giả.
Chính Đàn Cầu Kho này đã thâu nhận ông là môn đệ của Đức Cao Đài (1926).
Một hôm ông viết một cái
khải (sớ không ai được đọc) vái rồi đốt tại Thánh Thất Cầu Kho (nhà ông Bản).
Thình lình có ông Trần Văn Tạ (sau đắc phong Hộ Đàn Pháp Quân) một nhân viên
chính quyền bước vào. Ông Tư Mắt sợ cơ về trả lời bức mật khải thì ông nguy
tính mạng. Vì trong cái khải ấy ông xin giết De la Chevrotière, Thượng nghị
viện đồng thời với ông Lê Văn Trung. Điều lo lắng của ông không xảy ra vì cơ
không đáp mà ông Trần Văn Tạ đã là đạo hữu đến hầu đàn chớ không phải với tư
cách mật thám.
Tính khí ông ngang tàng,
là trùm du đãng vùng Sài gòn - Chợ Lớn, chính quyền Pháp cũng nể vì ông. Cũng
có điều lạ, ông rất sợ Đức Chí Tôn sau khi theo đạo ông lập Thánh Thất Chợ Lớn
tại nhà ông, trên lầu thờ Thầy, dưới dùng làm nhà ở và tiếp khách. Đạo hữu đến
cúng kiến tại Thánh Thất của ông rất đông, có lẽ họ dựa vào ông để được che chở
khỏi bị các tên du đảng bắt nạt hay một lý do huyền nhiệm nào khác. Sau khi
khai đạo ở Gò Kén (15-10-Bính Dần) Ông được ân phong Lễ sanh Mắt Mục Thanh
(phái Thái). Ông vâng mệnh Ngài Thượng Đầu Sư lập Thánh Thất trước Lý Minh Đài.
Tại đây, quyển "Đại Thừa Chơn Giáo" ra đời (1936), làm nền tảng cơ vô
vi gốc từ CĐ phổ độ mà ra.
Vì tính khí ngang tàng mà
nhiều lần ông đã đề nghị với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt với sự hậu thuẫn của
Đạo nổi lên chống Pháp và chiếm phủ Toàn quyền. Vì là một bậc chân tu, Ngài Đầu
Sư từ chối. Ông Tư Mắt tuyên bố hành động một mình, sẽ giết toàn quyền
Alexandre Varenne (1925-1928). Với tính nóng nảy, thiếu kế hoạch và trì chí,
rốt cuộc mọi lời tuyên bố của ông đều trôi qua.
Nghe tin đồn Ngài Cao
Quỳnh Cư lạm dụng, ông vốn nóng nảy bồng bột vội về Tây Ninh bạo hành. Hậu quả
cách đó không lâu Đức Chí Tôn đem ông về. Cái chết của ông thật thê thảm. Lúc
bấy giờ ở Chợ Lớn các nhà sang trọng dùng đèn Manchon treo giữa nhà nhưng cái
bơm hơi chuyền xuống đất, ông lại nằm gần cái bơm hơi này, quấn chăn. Không rõ
vì lẽ nào, cái bơm phát nổ, đèn phựt cháy luồn xuống cái bơm bắt lửa qua cháy
cái khăn. Hạ bộ của ông bị phỏng nặng hỏa nhập, nên vừa đến bệnh viện thì ông
chết (1929).
Ngài Thượng Đầu Sư có đến
phúng điếu và chia buồn cùng bà Nguyễn Phát Trước và có nói câu "Thầy đem
em Tư về sớm là cái hay cho cơ Đạo". Ngay đêm hôm đó, đồng tửTrần Văn
Hoằng (con ông Trần Văn Tạ) chấp bút. Thái Mục Thanh nhập đàn, tỏ vẻ hối tiếc
những việc làm đã qua và ông khuyên gia đình nên tu niệm.
Nhằm tạo một giải pháp
danh dự cho Đức Cao Thượng Phẩm, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt đề nghị bỏ thăm
kín việc ở lại Tòa Thánh hay về Thảo xá Hiền cung của Đức Cao Thượng Phẩm.
Trong 45 chức sắc nam nữ có mặt : 27 thăm chống ở lại, 15 thăm thuận và 3 thăm
trắng. Đức Hộ Pháp tuyên bố : "Dù 3 thăm trắng nhập vào 15 thăm thuận vẫn
ít hơn 27 thăm chống. Vậy Anh Tư nên về TXHC". Chính Đức Hộ Pháp cũng đi
an dưỡng nơi Thánh Thất Thủ Đức, đàn cơ 26/2 Mậu Thìn (1928), Đức Chí Tôn giao
cho Thượng Đầu Sư chưởng quản Tòa Thánh dàn xếp cơ khảo đạo vì Tư Mắt là người
do Ngài Thượng phổ độ nên rất kính trọng Ngài.
Nỗi oan khiên của Đức Cao
Thượng Phẩm được đồng đạo đến thăm và chia xẻ nỗi buồn. Trong số đó có Phồi Sư
Thượng Tông Thanh - người Trung Hoa tặng Đức Ngài hai bức khảm xà cừ có chạm
bài thơ tứ tuyệt. Trong bài thơ có ba chữ "Độc huyên nghiên" (hoa mai
đơn độc) hợp với tâm sự nên Đức Cao Thượng Phẩm cho treo tại TXHC. Nội dung như
sau :
Nguyên văn
Chúng hoa dao lạc độc huyền nghiên
Chiêm đoán phương tình nội tiểu viên
Sơ ảo hoành tà thiểu thanh đạm
Âm hương phù động nguyệt hoàng hôn.
Dịch thơ
Ngàn hoa rơi, đóa hoa đẹp còn vương
Lặng ngắm vườn con tình ngát hương
Bóng nhạt khẽ mơn làn nước lạt
Hương thầm khơi nhẹ trăng chiều hôm.
Bài thơ này của Lâm Bô
(967-1028) đời Tống, nguyên bản là bài Bát cú. Phối sư Tông chỉ chọn 4 câu đầu
có sửa 5 chữ "Chiếm tận phong tình hưởng" và "thanh thiển"
ra "thanh đạm" (xem nguyên bản trang 4)
Một hôm, Đức Ngài cùng Đức
Phạm Hộ Pháp phò loan được Đức Chí Tôn dạy : "Nếu con không rét thì có yếu
như vậy đâu. Con ráng nhịn cơm chừng ba bốn bữa nữa đặng Thầy dùng huyền diệu
pháp mà trị cho con thiệt mạnh, lần này mới dứt bịnh, miễn đừng ăn món chi nó
phạt tì thì thôi". (Đức Ngài đau bao tử).
Một đàn cơ đêm kế, Đức Chí
Tôn cho biết bịnh của Đức Ngài là cơ thử thách : "Phải, con có bịnh vậy
đặng trừ bớt thử thách của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đương lo lập vị của mỗi
đứa."
Thầy thấy con bịnh phổi và
bao tử, nên cho huyền diệu pháp cho con khỏi ăn đôi lúc để thiệt mạnh. Hai cơ
khí ấy vốn là hình chất, nên khó lấy huyền diệu mà trị nó theo lẽ thường Thầy
buộc ngưng phận sự nó đặng tiếp dưỡng hườn nguyên.
Không ăn mà sống. Trong
không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng. Không khí chứa đầy vật chất tiếp dưỡng
(Matières nutritives) của xác trần vì nhờ nó biến hóa chúng sanh đặng.
Vật chất phải tiêu, mà khí
pháp vẫn còn, tỷ như đá núi xay ra bột làm ciment mà khí phách đá vẫn còn giữ
tánh cứng của nó, trộn nước cho đóng khô lại thì nó hườn như đá thường. Thảo
mộc dầu phải chặt rã ra thì khí phách cũng vậy. Con tưởng xác chôn rồi, trong
xác ấy cho hườn nguyên khí phách mà hiệp lại cùng không khí chăng ?
Các khí con hớp hằng ngày
ấy thì như bữa cơm con ăn đó vậy. Thầy chỉ sửa cơ khí phàm các con, nhứt là bao
tử cho nó có huyền diệu pháp mà tiếp cho đặng cái khí phách ra làm vật thực
nuôi nấng lấy mình. Vì vậy, nhiều đứa phàm xác vẫn còn mà đắc Đạo tại thế,
tuyệt cốc xác thân chẳng hại chút nào"
Bịnh của Đức Ngài là tâm
bịnh, từ khi về Thảo xá Hiền cung thân thể ngày càng mòn mỏi, sắc diện âu sầu.
"Sự nhận thức có lẽ Ngài bị bịnh thất chí, vì hành đạo không được y theo sở
nguyện nền đạo trong buổi sơ khai, lo truyền giáo phổ độ chúng sanh, mà Ngài
lại an ổn tại tư gia nên Ngài bực tức vì Đạo vì Thầy mà lo họ ngăn trở bước
đường hành Đạo.
Thiết tưởng, người có đủ
đức tin nơi Chí Tôn, thì dầu có sản nghiệp triệu phú cũng không thể ngồi an
hưởng riêng cho được. Huống chi Đức Cao Thượng Phẩm là môn đệ tin Đức Chí Tôn
Đức Phật Mẫu đầu tiên.
Khi Đức Chí Tôn giáng trần
khai Đạo, cũng giáng huyền diệu cơ bút thâu môn đệ, dạy thờ Thiên Nhãn trước
hết cũng tại nhà Ngài (tức sau khi quan sát cách thờ phượng nhà ông Ngô Văn
Chiêu), nên lòng thành kính Đạo thật đầy đủ. Các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy
Đạo, thì Đức Cao Thượng Phẩm cùng Đức Hộ Pháp phò loan. Hai Ngài lãnh hội giáo
lý nhiều hơn hết.
Đến khi gặp cơn khảo đảo,
bị nhơn sanh bạc đãi buộc phải lui về tư gia, thì dầu đủ nghị lực tinh thần
cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh lương y khó phương điều trị"
(Theo Đạo sử xây bàn của Bà Nguyễn Đầu Sư).
Vì lẽ ấy mà Hội Thánh lập
một Tịnh Thất nơi cụm rừng gần Báo Aân Từ ngày nay, để rước Đức Ngài về tịnh
luyện hầu di dưỡng tinh thần qua cơn khảo đảo. Bảy giờ sáng ngày 15/10/Mậu Thìn
(1928) một đoàn xe hơi gồm chư chức sắc Đại Thiên phong đến Thảo Xá rước Đức
Ngài về nhập Tịnh Thất.
Vào tịnh thất một thời
gian, bịnh trạng không thuyên giảm lại biếng ăn, mất ngủ. Thế nên 18 giờ ngày
26 tháng 12 năm đó, bà Giáo sư Hương Hiếu và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh kêu một
cổ xe ngựa đưa Ngài trở lại Thảo xá Hiền cung, vì Ngài không muốn cho Hội Thánh
hay.
Đến 11 giờ ngày 1-3 Kỷ Tị (1929) Đức Ngài cho mời
Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu (tức bào huynh của
Ngài), Bà Giáo sư Hương Hiếu, Giáo hữu Thiện Trí Thanh, Giáo hữu Thượng Kỳ
Thanh, Lễ sanh Thượng Ngươn Thanh, đức Ngài nhìn Đức Phạm Hộ Pháp mà trối rằng
:
- Nay Qua về chầu Đức Chí
Tôn, em ở lại hiệp với chư chức sắc chung lo nền Đạo của Thầy cho được vẹn toàn
mọi sự.
Kế day qua nói với người
bạn đời của Ngài :
- Anh dầu có nhắm mắt thì
sự mất cũng như sự còn.
Đức Ngài nói xong tuôn hai
hàng nước mắt rồi xuất hồn êm ái, nét mặt cũng như người đang ngủ. Có điều lạ
thường là lời trối của Ngài có hàng có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Chư chức
sắc có mặt đều bùi ngùi cảm động.
Chương V
ĐẮC VỊ KIM TIÊN
(1-3-Kỷ Tỵ)
Thi thể của Đức Ngài được
liệm trong liên đài hình bát quái, quàng tại Thảo xá trong ba ngày. Chư chức
sắc và đạo hữu nam nữ đến tế lễ rất đông.
Trong lúc tang lễ, chư
chức sắc Hiệp Thiên Đài cầu cơ, Đức Ngài giáng đàn tỏ vẻ vui mừng, được bái
mạng Đức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh và Đức Phật Mẫu nơi Diêu Trì Cung. Thiên
đình đã nhận công tròn quả mãn trong buổi đầu khai nguyên của nền Đại Đạo của
Ngài. Đức Ngài cho một bài thi tứ tuyệt.
THI
CAO thanh miệng thế mặc chê khen
THƯỢNG trí màn chi tiếng thấp hèn,
PHẨM cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.
Ngày 3-3-Kỷ Tỵ (1929), Hội Thánh rước liên đài
Đức Ngài về Tòa Thánh, đông đủ chư chức sắc từ Đức Hộ Pháp, Thượng Sanh, chư vị
Thập Nhị Thời Quân đến chức việc đạo hữu đi thỉnh vong dài đặc. Thuyền bát nhã
đến Đền Thánh mà đoạn chót còn ở Thảo xá đường dài trên 4 cây số.
Đến ngày 8 lúc 8 giờ thì
đi lên đài nhập bửu tháp. Đại diện chức sắc Hiệp Thiên Đài đọc ai điếu, đến
Ngài Thượng Đầu Sư Cửu Trùng Đài trạng tỏ công nghiệp, sau hết là điếu văn tỏ
lòng cảm mến của Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, đại diện Nữ phái.
Khi liên đài ra bửu tháp,
Đức Ngài có giáng cho hai bài thi mà ngay nay dùng để thày dâng lễ.
THI
Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,
Thung dung nhờ núp bóng Cao Đài,
Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
Phi thị mặc đời nơi quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách thiên thai.
Ngậm cười
nêu quạt chờ sanh chúng,
Biển khổ ngày qua đếm một ngày.
Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,
Cõi Thiêng mừng đặng dứt dây oan.
Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.
Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt.
Phơi gan chí sĩ
nhuộm giang san.
Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phi,
Để mắt xanh coi nước khải hoàn.
Vào đêm 7-3-Kỷ Tỵ (16-4-1929) Đức Chí Tôn giáng
cơ dạy :
"Thầy đã nói rõ :
Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng hại thay, vì biếng nhác, các con
không đọc Thánh ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.
Đạo vốn vô vi, nếu Thượng
Phẩm không trở lại Thiêng liêng chi vị, thì ai đem các chơn hồn các con vào cửa
Thiên giùm đó con. Lại nữa các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay
mặt cho Thầy nơi thế này về phần đời còn phần Đạo cũng có đôi đứa con mới đặng.
Con đừng phiền mà trách
mấy anh con, nhứt là đừng nói rằng : Chúng nó giết Thượng Phẩm nghe. Vì Thiên
cơ đã định, các con biết chi mà hờn trách lẫn nhau.
Con phải xây cái tháp của
Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day mặt về đông, giống như ngó vào
điện mà hầu Thầy vậy. Song ba từng phải lợp ngói như nóc chùa của Đường nhơn
vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét