2 . Đức Chí Tôn kêu liên hiệp với Ông Ngô văn Chiêu.
Cách ít ngày sau, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy
quí Ông : Lê văn Trung, Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang, Nguyễn
trung Hậu, Trương hữu Đức, phải hiệp với Ông Đốc Phủ Ngô văn Chiêu mà lo mở
Đạo. Đức Chí Tôn còn dặn rằng : Mỗi việc chi đều phải do nơi Ông Chiêu là Anh
Cả.
Đêm 30 tháng Chạp năm Ất Sửu (dl
12-2-1926), tức là đêm Giao thừa bước qua mùng 1 Tết Bính Dần,
Đức Chí Tôn dạy
quí Ông đến thăm từng nhà, thăm mỗi môn đệ (lúc đó có được 13 môn đệ có tên
trong Bài Thi tứ tuyệt của Đức Chí Tôn : Chiêu Kỳ Trung..), đem Ngọc cơ theo để
cầu Thầy. Khi phái đoàn đến nhà Ông Tắc, Đức Chí Tôn giáng cho 4 câu thi, mà
sau nầy Đức Phạm Hộ Pháp thuật lại như sau:
"Bần đạo nhớ lại hồi
ban sơ mới Khai Đạo, thật ra Bần đạo không có đức tin gì hết, không có đức tin
đến nước Đại Từ Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần đạo cuối năm Ất Sửu, dạy cả mấy
anh lớn ngày nay là Chức sắc của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến
thăm viếng mọi con cái của Ngài. Bần đạo không có đức tin gì hết, nghe nói Tiên
giáng thi, theo nghe thi chơi, làm cho Đại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho bài
thi ai nấy cũng tốt, duy có bài thi cho
Bần đạo thì rất dị hợm, như vầy:
Ngao ngáo không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.
Đại Từ Phụ còn thêm hai chữ : Nghe con ! "
(Thằng Áp út là Đức Chí Tôn gọi Ông Phạm công
Tắc, vì Ông là con trai Áp út trong gia đình).
3 . Thiên phong Hộ Pháp :
* Đêm 11 rạng 12 tháng 3
âl năm Bính Dần (dl 22/23-4-1926), tại chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc, Đức Chí
Tôn sắp đặt cuộc Thiên phong quí Ngài :
- Lê văn Trung, Thiên
phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.
- Lê văn Lịch, Thiên phong
Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
- Trục Chơn thần của Ngài
Phạm công Tắc.
TNHT. I. 16 : " Cư,
nghe dặn : Con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ (xông hương cho nó), biểu nó lựa một bộ
quần áo tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón. . . .
Cười . . . Đáng lẽ nó phải
sắm khôi giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo, Thầy không biểu.
Bắt nó lên đứng trên, ngó
mặt vô ngay ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đắp mặt nó lại.
Lịch viết một lá phù
(Giáng Ma Xử ) đưa cho nó cầm."
. . . . . . . . . . . . .
. . . . . . .
" Biểu Tắc leo lên
bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến, rồi mới
tới trước mặt Tắc, đặng Thầy trục xuất Chơn thần nó ra, nhớ biểu Hậu, Đức, xông
hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ."
- Cư, phong vi Tá Cơ Tiên
Hạc Đạo Sĩ.
- Tắc, phong vi Hộ Giá
Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ.
* Ngày 18-5-Bính Dần (dl
27-6-1926), Đức Chí Tôn dạy về Nhạc và Lễ nơi Thánh Thất, có đoạn như sau :
TNHT. I. 25 : " Mấy
đứa con là : Nghĩa, Hậu, Đức, Tràng, Cư, Tắc, Sang, đều mặc đồ trắng, hầu theo
thứ lớp như vầy : Nghĩa, Đức đứng ngoài, là tại Bàn Thờ Hộ Pháp, rồi Hậu, Tràng
đứng cặp kế đó, kế 3 con sau rốt hết : Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái."
* Ngày 16-6-Bính Dần (dl
25-7-1926), Đức Chí Tôn giáng khen Thiên phục của Ngài Phạm công Tắc:
TNHT. I. 32 : " Cười
! Tắc, con coi mặc Thiên phục có xấu gì đâu con ? Một ngày kia, sắc phục ấy đời
sẽ coi quí trọng lắm ! Con ôi ! Con có biết những điều ấy bao giờ !"
Qua các phần Thánh giáo
của Đức Chí Tôn vừa trình bày trên, trích trong TNHT, chúng ta thấy không có
ngày Thiên phong chánh thức cho 3 vị : Phạm công Tắc, Cao quỳnh Cư, Cao hoài
Sang vào 3 chức vụ quan trọng nhất của HTĐ là : Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng
Sanh, mà chỉ thấy kết quả của việc Thiên phong ấy, như về vị trí đứng hành lễ
chầu Đức Chí Tôn, Thiên phục.
Đặc biệt là chỉ có Ngài
Phạm công Tắc là được Đức Chí Tôn trục Chơn Thần. Việc trục Chơn Thần nầy là để
Đức Chí Tôn làm cho Chơn Thần Ngài Phạm công Tắc được thanh khiết và huyền
diệu, để hiệp nhứt với Chơn thần của Ngự Mã Thiên Quân. Cho nên chỉ có Đức Hộ
Pháp Phạm công Tắc là được giáng linh trọn vẹn, còn quí vị khác chỉ là chiết
chơn linh giáng trần. (Xem thêm mục 19 : Nguyên căn của Đức Phạm Hộ Pháp).
4 . Phò loan Phong Thánh :
Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc
và Đức Thượng Phẩm Cao quỳnh Cư được Đức Chí Tôn chỉ định làm cặp Phò loan
Phong Thánh, để Đức Chí Tôn và Đức Đại Tiên Lý Thái Bạch phong thưởng các phẩm
Chức sắc lập thành Hội Thánh.
Nhờ cặp Phò loan Phong
Thánh nầy, Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền cho CTĐ Nam phái, rồi giao cho Đức
Lý lập Pháp Chánh Truyền cho CTĐ Nữ phái. Kế đó, Đức Chí Tôn lập Tịch Đạo cho
Nam phái và cho Nữ phái.
Đức Chí Tôn phong các phẩm
Chức sắc CTĐ : Chưởng Pháp 3 vị, Đầu Sư 3 vị, Chánh Phối Sư 3 vị, nhiều vị Phối
Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu và Lễ Sanh, cả Nam phái và Nữ phái.
Cũng do cặp Phò loan Phong
Thánh nầy, Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài, phong Thập nhị
Thời Quân, và một vài vị Bảo Quân trong Thập nhị Bảo Quân, cơ quan Hàn Lâm Viện
của Đạo Cao Đài.
Như vậy, Đức Chí Tôn lập
Pháp Chánh Truyền là để tạo thành Hiến Pháp, làm căn bản tổ chức Giáo Hội của
Đạo Cao Đài.
Nhờ cặp Phò loan Phong
Thánh nầy, Đức Chí Tôn giáng dạy Đạo lý, lập thành một hệ thống Giáo lý và
Triết lý mới mẻ và đầy đủ, phô diễn được Chơn lý Hằng hữu bất biến của Càn
khôn, dung hợp và bao quát được các giáo lý và triết lý của các nền tôn giáo đã
có từ trước đến nay.
Khi Đức Cao Thượng Phẩm
đăng Tiên ngày 1-3-Kỷ Tỵ (1929), cặp Phò loan Phong Thánh không toàn vẹn nữa.
Lúc đó, khi có Phong Thánh hay lập Đạo Nghị Định thì Ngài Tiếp Đạo Cao đức
Trọng thay thế Đức Cao Thượng Phẩm, ngồi Phò loan với Đức Phạm Hộ Pháp, nhưng
luôn luôn có Đức Cao Thượng Phẩm đến trợ điễn cho Cao Tiếp Đạo nâng loan.
5 . Lập Hội Thánh Ngoại Giáo (1927) :
Khi Đức Chí Tôn ra lịnh tổ
chức Lễ Khai Đạo ngày 15-10-Bính Dần (1926) tại Thánh Thất tạm là Chùa Từ Lâm
Tự, Gò Kén Tây Ninh, thì Đức Phạm Hộ Pháp xin tạm nghỉ làm việc 6 tháng ở Sở
Thương Chánh Sài gòn, để hợp lực với Hội Thánh lo việc Khai Đạo.
Sau khi mãn phép, Đức Phạm
Hộ Pháp bạch hỏi ý kiến của Đức Chí Tôn, có nên xin nghỉ việc luôn để hành đạo
hay không, thì Đức Chí Tôn giáng trả lời là chưa phải lúc cần thiết, cứ đi làm
việc trở lại, sẽ có chuyện hay.
Thế là Đức Phạm Hộ Pháp
trở lại làm việc ở Sở Thương Chánh Sài gòn. Chánh quyền Pháp không muốn để Đức
Phạm Hộ Pháp làm việc ở Sài gòn, sợ Ngài hoạt động mạnh mẽ cho Đạo Cao Đài, nên
họ đổi Ngài lên làm việc ở Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên.
Đức Hộ Pháp lợi dụng hoàn
cảnh mới nầy để mở Đạo tại Kim Biên Nam Vang, xây dựng cơ sở Đạo đầu tiên, để
dần dần thành lập Hội Thánh Ngoại Giáo tại Nam Vang.
Đức Phạm Hộ Pháp có thuật
lại trong bài thuyết đạo :
" Riêng Bần đạo là
công chức, khi vâng lịnh Đức Chí Tôn đến Chùa Gò Kén mở Đạo, Bần đạo có xin
phép nghỉ 6 tháng, đến chừng trở lại làm việc, người ta đổi Bần đạo lên Kim
Biên. Nơi đó, Bần đạo vừa làm việc vừa lo mở Đạo. . ."
Đàn cơ ngày 27-7-1927 (âl
29-6-Đinh Mão) tại Kim Biên, Đ. Chí Tôn ân phong các vị sau đây vào hàng Chức
sắc:
- Giáo Hữu : Thượng Bảy Thanh (Lê văn
Bảy).
- Giáo Hữu : Thượng Lắm Thanh (Nguyễn văn
Lắm).
- Giáo Hữu : Ngọc Sự Thanh (Võ văn Sự).
- Lễ Sanh : Thượng Chữ Thanh (Đặng trung Chữ).
- Lễ Sanh : Thượng Vinh Thanh (Trần quang
Vinh).
- Lễ Sanh : Thái Của Thanh (Phạm kim Của).
- Nữ Giáo Hữu : Hương Phụng (Bà Batrya
Trần kim Phụng).
- Nữ Giáo Hữu : Hương Huê (Vợ của Ông Lê
văn Bảy).
- Tiếp Đạo HTĐ : Cao đức Trọng.
Nhờ số Chức sắc đầu tiên nầy, Đức Phạm Hộ Pháp
thành lập được CƠ QUAN TRUYỀN GIÁO HẢI NGOAÏI, thường gọi là HỘI THÁNH NGOAÏI
GIÁO tại Kim Biên Nam Vang, có nhiệm vụ phổ độ nhơn sanh Ngoại quốc tại đây gồm
: Việt kiều, Hoa kiều, người Pháp và người Cao Miên.
Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh
được cử làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngiại Giáo.
Hội Thánh Ngoại Giáo được
đặt dưới quyền điều khiển thiêng liêng của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor
Hugo) với Chức vụ : Chưởng Đạo, do Đức Chí Tôn phong, và dưới sự bảo trợ hữu
hình của Đức Phạm Hộ Pháp.
6 . Lấy Long Tuyền Kiếm (1930) :
Nước Tàu có số dân vĩ đại,
nhưng lúc nào cũng lo sợ nước VN hùng mạnh. Cho nên các thầy địa lý của Tàu
luôn luôn tìm cách ếm vào các cuộc đất tốt có linh khí kết phát nhân tài của VN
để VN không sản xuất được người tài giỏi tranh đua với họ. Cũng như khi xưa,
sau khi Mã Viện đánh thắng Hai Bà Trưng, ông ta dựng cây cột đồng có ghi hàng
chữ : "Đồng trụ chiết Giao chỉ diệt" là để ếm vào long mạch kết phát
nhân tài của nước ta.
Khoảng năm 1914, bắt đầu
cuộc Thế giới Đại chiến lần thứ I, một người Tàu Triều Châu độ 65 tuổi len lỏi
qua VN, đến làng Phú Mỹ quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, dùng cây kiếm báu Long
Tuyền, ếm vào đỉnh của hòn núi đất vàng sắp nổi lên, mà sau nầy người Tàu biết
là nơi đây, linh khí núi sông sẽ sản xuất nhân tài VN; khi có nhân tài xuất
hiện thì cây kiếm báu nầy sẽ giết chết lúc còn trẻ. Đó là lời thuật lại của các
bô lão hiểu biết ở vùng nầy.
Khi Đức Chí Tôn chọn Miền
Nam VN làm nơi khai sáng mối Đạo của Đức Chí Tôn, thì Đức Chí Tôn ân xá cho dân
tộc VN khỏi các tai ách lớn. Do đó, Bát Nương DTC mách cho Đức Phạm Hộ Pháp
biết để đi xuống làng Phú Mỹ lấy Long Tuyền Kiếm, phá phép ếm của người Tàu.
Ngày 28-3-Canh Ngọ (dl
26-4-1930), Đức Phạm Hộ Pháp dẫn một phái đoàn gồm có Ông Lê văn Trung (CQPT)
và Ông Đinh công Trứ, cùng với một số ít tín đồ vùng đó, từ Thánh Thất Khổ Hiền
Trang, đi xuồng vào chỗ ếm, có Lỗ Ban Sư chỉ dẫn, đào lấy được Long Tuyền Kiếm,
khi lấy kiếm lên, nước trong long mạch phun ra, Đức Phạm Hộ Pháp liền cho đào
một con kinh đi qua chỗ ếm để nước trong long mạch chảy ra hòa vào các con
sông, phá hẳn phép ếm độc hại của thầy địa lý người Tàu, mà còn làm cho dân tộc
VN hưởng được nhiều phước lộc.
Đức Phạm Hộ Pháp nói :
" Ngày nay là ngày kỷ niệm giống dân Lạc Hồng được hưởng Đạo Trời khai, sẽ
gỡ ách cho dân tộc và sẽ cổi ách nô lệ, dòng dõi tổ phụ sẽ phục nghiệp, dân tộc
sẽ xuất hiện nhiều nhân tài, phá tan xiềng xích, chẳng còn lệ thuộc một sắc dân
nào."
7 . Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông
lậïp Bát Đạo Nghị Định :
- Ngày mùng 3-10-Canh Ngọ
(dl 2-11-1930), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ yêu cầu Đức Phạm Hộ Pháp hiệp với
Ngài lập thành 6 Đạo Nghị Định để chỉnh đốn nền Đạo, phân lập quyền hành giữa
các chức vụ lãnh đạo cao cấp của CTĐ và HTĐ.
Trong Đạo Nghị Định thứ
nhì, Đức Lý Giáo Tông giao cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt quyền Giáo Tông
Hữu hình tại thế để điều hành nền Đạo cho được mau lẹ dễ dàng.
- Ngày 16-7-Giáp Tuất (dl
25-8-1934), tức là gần 4 năm sau ngày ban hành 6 Đạo Nghị Định trước, Đức Lý
Giáo Tông lại hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp, lập Đạo Nghị Định thứ 7 và thứ 8, để
trị loạn trong nền Đạo, ngăn cấm việc lập Chi phái và không cho các Chi phái về
Tòa Thánh phá Đạo.
Nhờ Bát Đạo Nghị Định nầy
mà nền Đạo Cao Đài tại Tòa Thánh Tây Ninh dần dần đi vào trật tự, ổn định và
phát triển.
8 . Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài.
Đức Quyền Giáo Tông qui
Thiên ngày 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934), có di chúc giao quyền Giáo Tông Hữu
hình tại thế cho Đức Phạm Hộ Pháp. Lúc đó có rất nhiều sự kiện rối ren xảy ra
trong nền Đạo, bên trong nội bộ của Đạo thì chia rẽ trầm trọng, bên ngoài thì
nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách áp đảo.
Hội Thánh gấp rút triệu
tập Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh để tìm phương củng cố nền Đạo.
Ngày 6-11-Giáp Tuất (dl
12-12-1934), Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh yêu cầu Đức Phạm Hộ Pháp nắm quyền
Chưởng quản CTĐ cho đến ngày có đủ 3 vị Đầu Sư để sớm chỉnh đốn nền Đạo.
Kể từ ngày ấy, Đức Phạm Hộ
Pháp nắm quyền Thống nhứt, Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài : HTĐ và CTĐ. Nhờ quyền
thống nhứt và rộng rãi nầy, Đức Phạm Hộ Pháp lèo lái con thuyền Đạo từ từ qua
khỏi cơn sóng gió và phát triển thêm lên vượt bực.
Việc Đức Phạm Hộ Pháp nắm
quyền Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài là do các Đấng nơi Ngọc Hư Cung ở cõi thiêng
liêng quyết định. Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh nơi cõi trần là để hợp thức hóa
quyết định chuyển pháp của Ngọc Hư Cung mà thôi.
Lục Nương DTC giáng cơ nói
về việc nầy như sau :
TNHT. II. 87 : LỤC NƯƠNG
DTC.
Em chào mấy anh. Em đương
ở Ngự Quan Cung, Bát Nương đến cho hay rằng mấy anh đương ngưỡng nghĩa, nên vội
vã đến hầu.
Khi mơi nầy, Em đặng tin
lành : Ngọc Hư Cung lo chuyển pháp. Cả Thiên Thơ hủy phá, sửa cải Pháp Chơn truyền.
Chư Thần Thánh Tiên Phật vui mừng chẳng xiết, Diêu Trì Từ Mẫu đẹp dạ không
cùng, nhưng vì cái mừng ấy mà làm cho Người đổ lụy, ngâm bài thi nầy:
Vú Mẹ chưa lìa đám trẻ con,
Độ sanh chưa rõ phận vuông tròn.
Quyền
cao Ngự Mã là vinh bấy,
Phận
mỏng Hiệp Thiên biết giữ còn.
Lợt
điểm Thánh tâm trần tục khảo,
Vẻ
tươi bợn thế nét dò đon.
Thà xưa ví bẵng nay gìn vậy,
Lòng
Mẹ ngại ngùng, con hỡi con !
Nhị Ca ôi ! Bài thi làm cho cả Cung Diêu Trì
đều đổ lụy. Mấy anh nên lấy nó làm phép hằng tâm thì bước vinh diệu thiêng liêng
không lạc nẻo."
Chú Thích :
- Ngự Mã : Ngự Mã Thiên
Quân, chơn linh của Đức Phạm Hộ Pháp.
- Hiệp Thiên : Hiệp Thiên
Đài.
- Nhị Ca : Lục Nương gọi
Đức Phạm Hộ Pháp là Nhị Ca, bắt chước theo Thất Nương.
Trong TNHT, phần Thi Văn,
có một bài thi khác, các Đấng cho biết Thiên thơ sửa đổi, bởi vì các Chức sắc
lãnh đạo CTĐ không có phương cách trị an trong Đạo, nên phải chuyển qua cho HTĐ
cầm quyền điều khiển nền Đạo.
TNHT. II. 124 :
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.
Ngày 18-10-Ất Hợi (dl
13-11-1935), Đức Lý Giáo Tông có giáng cơ tại Hộ Pháp Đường nói chuyện với Đức
Phạm Hộ Pháp, xin trích ra một đoạn :
TNHT. II. 97 : " -
Cười ! Lão chẳng nói rõ, Hiền Hữu cũng thấy hiển nhiên rằng từ thử, thảng Lão
có muốn nên cho Đạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội Thánh
hữu danh vô thực như vậy có phải ? May thay ! Thiên thơ do một mặt chẳng chi
dời đổi trở ngăn, nên may ra nữa, từ đây Lão có phương cầm quyền trị thế.
Hộ Pháp bạch: - Thiên thơ
đã đổi, đệ tử xin giao quyền hành của Quyền Giáo Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ
oai cầm Thiên thơ vững chặt.
- Cười ! Lão e cho, một là
Lão đã cho, không lẽ lấy lại; hai là hành pháp thì dễ, hành hình thì khó, không
có nửa quyền trị thế của Lão nơi tay thì Hộ Pháp có thế nào điều hành Hội Thánh
cho đặng. Ấy vậy, cứ để y.
Nghe thi nầy và kiếm hiểu:
Bát Nhã từ đây vững lái thuyền,
Tuông pha khổ hải độ nhơn duyên.
Gay chèo thoát khổ đầy linh cảm,
Rạch nước trừ an đủ diệu huyền,
Thổi thẳng cánh buồm thì Lão thủ,
Nâng an lòng bản cậy Thần Tiên.
Phong ba mấy độ đa ø qua khỏi,
Ném thử Giáng Ma đóng Cửu Tuyền. "
Một bài
Thánh giáo khác của Đức Lý Giáo Tông nói thêm về việc : Tại sao Đức Lý Giáo
Tông giao quyền Giáo Tông Hữu hình cho Đức Phạm Hộ Pháp nắm giữ:
Phò loan :
Hộ Pháp Tiếp Đạo.
Tòa Thánh,
1-12-Quí Tỵ (dl 5-1-1954 ).
LÝ GIÁO TÔNG
. . . . . .
. . . .
- Hiền Hữu
có nghĩ tại sao Lão phải dâng quyền Giáo Tông cho Hiền Hữu đặng trọn quyền Chí
Tôn Hữu hình tại thế chăng?
Hộ Pháp
bạch: - Xin Ngài dạy rõ.
- Thì cũng
do lòng từ bi vô tận của Đại Từ Phụ. Người sợ oai của Lão khi cầm quyền thiêng
liêng mối Đạo quá chấp nê phàm tánh, không dung thứ tội tình cho con cái của Người, nên giao cho
Hiền Hữu là bạn đồng sanh, biết đau đớn, biết khổ cực với mảnh thi phàm, mà
rộng dung cho họ. Cười . .
Quyền Chí Tôn trong tay
Hiền Hữu thì cứ tự dụng đặng định vị cho Thánh Thể của Người. Lão chẳng nên can
thiệp vào đó.
Nầy Hiền Hữu, Lão nói thử,
Hiền Hữu nghĩ coi có lẽ nào Lão cầm cơ thăng vị cho những người như : Kiên,
Chấn, Thạch, Dược.
Cười . . . Hiền Hữu tự
mình định liệu lấy, nếu cần, phò loan nơi Giáo Tông Đường, Lão sẽ đến bàn luận.
Lão xin kiếu. THĂNG.
9 . Cất Tòa Thánh và Báo Ân Từ :
Thánh ý của Đức Chí Tôn
muốn xây dựng tại Tây Ninh một ngôi Tòa Thánh khang trang để tạo thành khối Đức
tin cho toàn tín đồ Đạo Cao Đài. (Thánh ngôn của Đức Chí Tôn : Các con phải
chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh đây mà
thôi).
Đức Lý Giáo Tông muốn xây
dựng Tòa Thánh lớn lao thật nguy nga tráng lệ theo kiểu vở của Thiên đình, xứng
đáng là Bạch Ngọc Kinh tại thế. Do đó, Đức Lý dạy đi mua đất, định hướng, vẽ
kiểu và ra kích thước Tòa Thánh cho Hội Thánh theo đó mà xây dựng.
* Khởi đầu, vào tháng 10
năm Tân Mùi (1931), Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh lãnh trách nhiệm
khởi công cất Tòa Thánh, đào móng, làm Hầm Bát Quái. Sau đó, ngưng lại.
* Kế tiếp Đức Quyền Giáo
Tông Lê văn Trung, hiệp cùng Bà Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh tiếp tục công
trình xây dựng, nhưng không tiến triển được bao nhiêu.
* Tiếp theo nữa, Ngài Tiếp
Thế Lê thế Vĩnh đứng ra vận động tiền bạc mua vật liệu để xây cất, có mướn Bác
vật Phan hiếu Kinh làm Cố Vấn, khởi làm lầu HTĐ, đổ được plafond chút ít rồi
cũng dừng lại, do nền Đạo lúc bấy giờ chinh nghiêng, nội bộ chia rẽ do chánh
quyền Pháp xúi giục.
* Khi Đức Phạm Hộ Pháp nắm
quyền Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài, Đức Ngài mới trù tính kế hoạch xây cất Tòa
Thánh cho đạt kết quả thành công.
Đức Ngài huy động 500 vị
hiến thân Phạm Môn làm lực lượng công thợ nồng cốt, để khởi công tiếp tục công
trình tạo tác Tòa Thánh, vào ngày 1-11-Bính Tý (dl 14-12-1936).
Đức Ngài lại buộc các công
quả công thợ phải lập hồng thệ : trong suốt thời gian xây cất Tòa Thánh, không
được cưới vợ hay lấy chồng, đặng đủ tinh khiết mà tạo tác.
Đức Ngài chỉ thị cho các
Châu Đạo và Tộc Đạo bên Hành Chánh và bên Phước Thiên, nổ lực lo tiền bạc, vật
liệu và lương thực, gởi liên tục về Tòa Thánh để công cuộc xây dựng được liên
tục mau chóng.
Đến ngày 4-6-Tân Tỵ (dl
28-6-1941), sau hơn 4 năm nổ lực làm việc, công việc xây dựng cơ bản đã xong,
chỉ còn phần đắp tô, trang trí và sơn phết, thì một biến cố quan trọng xảy ra,
chánh quyền Pháp vào Tòa Thánh bắt Đức Phạm Hộ Pháp và một số Chức sắc cao cấp
đày đi hải đảo Madagascar, ở Phi Châu, chúng chiếm đóng Tòa Thánh làm chỗ để xe
nhà binh, xua đuổi các công thợ và Chức sắc ra khỏi Nội Ô.
Ngày 4-8-Bính Tuất (dl
30-8-1946), tức là hơn 5 năm sau, qua bao nhiêu biến cố chánh trị, Chánh quyền
Pháp bị bắt buộc phải đưa Đức Phạm Hộ Pháp trở về Tòa Thánh.
Ngay sau đó, Đức Phạm Hộ
Pháp kêu gọi số công quả cất Tòa Thánh khi trước, trở lại tiếp tục công việc,
gấp rút sửa chữa những chỗ hư hỏng do bọn lính Pháp gây ra, rồi lo đắp, vẽ,
trang trí, cho đến cuối năm âm lịch cho hoàn thành.
Ngày 30 tháng Chạp năm
Bính Tuất (dl 21-1-1947), Tòa Thánh được hoàn thành trong nỗi vui mừng của toàn
cả Đạo Cao Đài.
Qua ngày mùng 3 Tết, tức
là ngày 3-Giêng-Đinh Hợi, (dl 24-1-1947), Tổng Giám Lê văn Bàng, các Phó Tổng
Giám, Tá Lý, đại diện các công thợ Nam Nữ xây cất Tòa Thánh làm lễ bàn giao Tòa
Thánh cho Hội Thánh.
Ngày mùng 6-Giêng-Đinh Hợi
(dl 27-1-1947), tức là 3 ngày sau khi giao lãnh Tòa Thánh, Đức Phạm Hộ Pháp
thiết lễ Trấn Thần Tòa Thánh, và ngày mùng 8-Giêng-Đinh Hợi, làm lễ rước Quả
Càn Khôn từ Báo Ân Từ trở về an vị nơi BQĐ Tòa Thánh để khuya hôm đó thiết Đại
Lễ cúng Vía Đức Chí Tôn lần đầu tiên tại Tòa Thánh mới vừa xây cất xong.
Lễ Khánh Thành Tòa Thánh,
mãi đến năm Ất Mùi, nhận dịp Đại Lễ Vía Đức Chí Tôn, ngày mùng 9 tháng Giêng
năm Ất Mùi (dl 01-02-1955), Đức Phạm Hộ Pháp mới tổ chức Lễ Khánh Thành Tòa
Thánh, Báo Ân Từ và các Dinh thự trong Nội Ô. Đây là một cuộc lễ lớn lao và
long trọng nhứt của Đạo Cao Đài từ trước tới nay tại Nội Ô Tòa Thánh.
Tòa Thánh là một công
trình kiến trúc vĩ đại, tượng trưng Đạo Cao Đài và nền Văn minh Cao Đài, tất cả
tín đồ Đạo Cao Đài đều rất hãnh diện, xứng đáng là Bạch Ngọc Kinh tại thế.
Năm 1952, Đức Phạm Hộ Pháp
cho xây dựng Báo Ân Từ để tạm làm nơi thờ phựng Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên
Nương. Điện Thờ Phật Mẫu thiệt thọ sẽ được xây dựng sau nầy. Đức Phạm Hộ Pháp
có dành sẵn một khu đất 4 mẫu ở Ngoại Ô Tòa Thánh, trên đường Bình Dương, tại
Xóm Tà Mun, cách Tòa Thánh khoảng 1000 thước, để xây dựng Điện Thờ Phật Mẫu
Trung Ương. Kiểu vở và kích thước của Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương sẽ được các
Đấng giáng cơ vẽ ra cho biết khi khởi đầu thiết kế xây dựng.
Như vậy, Đức Phạm Hộ Pháp
đã xây dựng thành công 2 Đền Thờ :
- Một là Tòa Thánh để thờ
Đức Chí Tôn, tức là thờ Đấng Thượng Đế, Ngôi Dương.
- Hai là Báo Ân Từ để thờ
Đức Phật Mẫu, tức là thờ Ngôi Âm của CKVT.
Đây là điểm đặc biệt và
mới mẻ trong Giáo lý của Đạo Cao Đài, xứng đáng là một nền Tân Tôn giáo, và Đạo
Cao Đài sẽ nương theo 2 thế lực mạnh mẽ Dương và Âm ấy của Càn Khôn mà phát
triển để cứu độ chúng sanh trong thất ức niên (700.000 năm).
10 . Lập các phẩm Chức sắc HTĐ dưới Thập nhị Thời Quân
:
Năm 1935, có nhiều vị Đạo
hữu dày công cùng Đạo được đem vào Sổ Cầu Phong dâng lên Đức Lý Giáo Tông. Ngài
phê : Để Hiệp Thiên Đài định vị.
Do đó, Đức Phạm Hộ Pháp
cầu hỏi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
Đêm 16-2-Ất Hợi (dl
20-3-1935), Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn góp ý cùng Đức Phạm Hộ Pháp, mở rộng
trường Công quả bên HTĐ, lập ra 7 phẩm Chức sắc dưới Thập nhị Thời Quân, để làm
nhân viên giúp cho chư vị Thời Quân hành quyền Tư Pháp của HTĐ.
7 phẩm Chức sắc đó là :
1 - Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.
2 - Chưởng Ấn.
3 - Cải Trạng.
4 - Giám Đạo.
5 - Thừa Sử.
6 - Truyền Trạng.
7 - Sĩ Tải.
Dưới phẩm Sĩ Tải, Đức Phạm
Hộ Pháp muốn lập thêm một phẩm thứ 8 nữa là Luật Sự, đối phẩm với Chánh Trị Sự
của CTĐ, nên Đức Phạm Hộ Pháp ký Sắc Lệnh số 34/SL ngày 23-5-Bính Tý (dl
11-7-1936) mở khoa thi tuyển chọn những người có khả năng vào phẩm Luật Sự.
10 . Lập Phạm Môn và CQPT :
Khởi đầu, Đức Lý Giáo Tông
lập Minh Thiện Đàn tại nhà Ông Đinh công Trứ ở làng Phú Mỹ quận Châu Thành,
tỉnh Mỹ Tho ngày 15-7-Mậu Thìn (dl 29-8-1928).
Sau đó, ngày 25-2-Kỷ Tỵ
(dl 4-4-1929), Đức Lý Giáo Tông giao Minh Thiện Đàn cho Đức Phạm Hộ Pháp để
Ngài thành lập Phạm Môn, theo tinh thần của 4 Câu thi của Đức Chí Tôn ban cho :
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.
Các cơ sở Lương điền Công
nghệ của Phạm Môn được chánh thức khai mở vào cuối năm Canh Ngọ (1930) tại Tâm
Lạch, xã Trường Hòa (Tây Ninh).
Đầu tháng Giêng năm Giáp
Tuất (1934), sau khi ăn Tết xong, Đức Phạm Hộ Pháp ra lịnh triệu tập khẩn cấp
tất cả các công quả Phạm Môn khỏe mạnh về giữ Tòa Thánh, chống lại lực lượng
của Chi phái kéo về dùng bạo lực đánh chiếm Tòa Thánh.
Ngày 20-Giêng-Giáp Tuất
(dl 5-3-1934), lực lượng Chi phái kéo về Tòa Thánh rất đông, bị các công quả
Phạm Môn chận ngay tại các cổng vào Nội Ô, kiên quyết không cho vào Nội Ô chiếm
Tòa Thánh, khiếm âm mưu của họ bị hoàn toàn thất bại.
Sau đó, nhà cầm quyền Pháp
tìm cách bắt bớ các công quả Phạm Môn, và buộc Hội Thánh đóng cửa các cơ sở của
Phạm Môn.
Năm Mậu Dần (1938), Đức
Phạm Hộ Pháp chuyển Phạm Môn thành Cơ Quan Phước Thiện, trực thuộc Chi Đạo HTĐ,
dưới quyền đặc biệt của Đức Phạm Hộ Pháp, do Đạo Nghị Định số 48/PT ngày
19-10-Mậu Dần (dl 10-12-1938) của Đức Lý Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp đồng ký
tên, qui định 12 phẩm cấp Chức sắc Phước Thiện gọi là Thập nhị đẳng cấp thiêng
liêng, kể ra sau đây :
1 - Phật Tử.
2 - Tiên Tử.
3 - Thánh Nhơn.
4 - Hiền Nhơn.
5 - Chơn Nhơn.
6 - Đạo Nhơn.
7 - Chí Thiện
8 - Giáo Thiện
9 - Hành Thiện
10 - Thính Thiện
11 - Tân Dân
12 - Minh Đức
Phước Thiện là cơ quan bảo
tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt, nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ
cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi, và
giúp tay cho CTĐ tận độ chúng sanh cho tròn trách nhiệm.
12 . Đồ lưu Hải ngoại (1941-1946) :
Từ năm 1940, đến tháng 5
năm 1941, nhà cầm quyền Pháp gây ra nhiều hình thức khủng bố các tín đồ và Chức
sắc Đạo Cao Đài. Họ ra lịnh đóng cửa toàn bộ các Thánh Thất và các Nhà sở Phước
Thiện.
- Ngày 4-6-Tân Tỵ (dl
28-6-1941), lính Mật Thám vào Tòa Thánh bắt Đức Phạm Hộ Pháp.
- Ngày 17-6-TânTỵ (dl
11-7-1941), lính Mật Thám lại vào Tòa Thánh bắt thêm 4 vị Chức sắc nữa là :
Phối Sư Ngọc Trọng Thanh, Giáo Sư Thái Gấm Thanh, Giáo Sư Thái Phấn Thanh, Sĩ
Tải Đỗ quang Hiển, và đồng thời ở Sài gòn, chúng đến bắt Ngài Khai Pháp Trần
duy Nghĩa.
- Ngày mùng 4-6 nhuần-Tân
Tỵ (dl 27-7-1941), chánh quyền Pháp đưa Đức Phạm Hộ Pháp và 5 vị Chức sắc lưu
đày ở hải đảo Madagascar bên Phi Châu, trên chiếc tàu Compiège.
(Chúng ta lưu ý rằng, trong năm âm lịch Tân Tỵ
có 2 tháng 6 : một tháng 6 trước và một tháng 6 nhuần. Ngày Đức Phạm Hộ Pháp bị
bắt là ngày mùng 4 tháng 6 trước của năm Tân Tỵ; ngày Đức Phạm Hộ Pháp bị đưa
đi đày là ngày mùng 4 tháng 6 nhuần năm Tân Tỵ, hai ngày ấy cách nhau 1 tháng).
Trong những năm tháng bị
lưu đày khổ sở, Đức Phạm Hộ Pháp luôn luôn được các Đấng thiêng liêng che chở,
thoát khỏi được nhiều tai nạn hiểm nghèo, mà người Pháp muốn dùng cách đó để
gián tiếp giết chết Đức Phạm Hộ Pháp.
Khi Đức Ngài cầm một que
nhỏ và tay kia khỏa cát cho bằng thì liền có một Đấng giáng bút để an ủi, và
báo tin cho biết tình hình chuyển biến của thế giới và VN, và cũng có tiên tri
như bài thi sau đây của Linh Sơn Thần Nữ núi Bà Đen, vâng lịnh Thất Nương đến
thăm Đức Phạm Hộ Pháp :
" Hòn đảo nầy đây trước nhốt tù,
Mà nay làm khám khảo Thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì lũ Tây man Nhựt bổn trừ. "
- Ngày 25-7-Bính Tuất (dl
21-8-1946), Đức Phạm Hộ Pháp cùng 3 vị Chức sắc: Khai Pháp Trần duy Nghĩa, Phối
Sư Ngọc Trọng Thanh, Giáo Sư Thái Phấn Thanh (còn 2 vị kia là Giáo Sư Thái Gấm
Thanh và Sĩ Tải Đỗ quang Hiển đã chết tại đảo, Sĩ Tải Hiển đắc vị Thánh ở Phi
Châu) được chánh phủ Pháp đưa về VN trên chiếc tàu buôn tên là Ile de France,
cặp bến Vũng Tàu, sau đó Pháp dùng máy bay đưa Đức Phạm Hộ Pháp về Sài gòn.
- Ngày mùng 4-8-Bính Tuất
(dl 30-8-1946), Chánh quyền Pháp đưa Đức Phạm Hộ Pháp từ Sài gòn về Tòa Thánh.
Hội Thánh và rất đông đảo tín đồ Cao Đài tổ chức lễ Nghinh Tiếp vô cùng trọng
thể và cảm động đến rơi lệ.
Tính từ ngày Đức Phạm Hộ
Pháp bị bắt 28-6-1941 theo dương lịch, đến ngày Đức Ngài trở về Tòa Thánh
30-8-1946, thì Đức Ngài xa Tổ Đình thời gian 5 năm 2 tháng 2 ngày; còn tính
theo ngày âm lịch, từ ngày 4-6-Tân Tỵ đến 4-8-Bính Tuất, thì đúng 5 năm 2
tháng.
13 . Tái thủ quyền hành, củng cố nền Đạo :
Khi Đức Phạm Hộ Pháp trở
về Tòa Thánh thì Đức Ngài gặp phải nhiều việc khó khăn của Đạo mà Đức Ngài phải
lo giải quyết gấp như sau đây :
- Sự hiện hữu của Quân đội
Cao Đài do Giáo Sư Thượng Vinh Thanh (Trần quang Vinh) thành lập theo sự chỉ
đạo của Đức Lý Giáo Tông, trong lúc Đức Ngài bị đồ lưu nơi Hải ngoại.
- Tòa Thánh còn đang dang
dở ngổn ngang và hư hỏng vì việc xây dựng bị đình chỉ hơn 5 năm nay.
- Hội Thánh và các cơ quan
của Đạo rã rời sau nhiều cuộc đàn áp và khủng bố của bạo quyền.
Đức Ngài không có thời
gian để nghỉ ngơi sau những ngày lao khổ, liền bắt tay ngay vào việc huy động
trở lại số công quả công thợ xây cất Tòa Thánh trước đây, gấp rút hoàn thành
Tòa Thánh, cho có chỗ đẹp đẽ trang nghiêm cúng bái Đức Chí Tôn và các Đấng
thiêng liêng. Sau gần 4 tháng tích cực làm ngày làm đêm của các công thợ, Tòa
Thánh được hoàn thành, đắp vẽ đầy đủ, sơn phết trang trí rực rỡ.
Ngày mùng 6 tháng Giêng
Tết Đinh Hợi (dl 27-1-1947), Đức Phạm Hộ Pháp làm lễ Trấn Thần Tòa Thánh. Kế
đó, sáng ngày mùng 8 tháng Giêng thì rước Quả Càn Khôn từ Báo Ân Từ trở về an
vị nơi BQĐ Tòa Thánh, kịp cúng Đại lễ Vía Đức Chí Tôn vào thời Tý.
Mặt khác, Đức Phạm Hộ Pháp
lo tổ chức Đại Hôïi Nhơn Sanh, Đại Hội Phước Thiện để thăng thưởng Chức sắc và
Chức việc đã đầy đủ công quả hành đạo, bổ nhiệm các Chức sắc vào các cơ quan từ
Trung ương đến địa phương, để củng cố và phát triển nền Đạo.
Ngày 1-12-Bính Tuất, ĐHP khai
Đại Hội Nhơn Sanh.
Ngày 15-12-Bính Tuất, ĐHP
khai Đại Hội PT.
Ngày 15-10-Đinh Hợi, ĐHP
khai Đại Hội Hội Thánh CTĐ.
(Viết tắt : ĐHP : Đức Phạm
Hộ Pháp; PT : Phước Thiện.)
Về Quân Đội Cao Đài, Ông
Giáo Sư Đại Biểu Trần quang Vinh đã thành lập sẵn rồi, Đức Ngài chỉ thị cho
Quân Đội Cao Đài thực thi chủ trương : Bảo Sanh - Nhơn Nghĩa - Đại Đồng, phải
là một quân đội nghĩa hiệp và gương mẫu, bảo tồn nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn và
các tín đồ.
14 . Xây dựng 3 Cung 3 Động :
Đức Phạm Hộ Pháp cho xây
dựng 3 Cung 3 Động, để dự bị sau nầy làm Tịnh Thất khi có lịnh Đức Chí Tôn cho
phép truyền Bí pháp cho các vị tu chơn luyện Đạo:
* Trí Huệ Cung ở trong
Thiên Hỷ Động được xây dựng cách Tòa Thánh khoảng 5 cây số, về hướng Đông Nam.
Trí Huệ Cung là một tòa nhà vuông vức 3 từng, mỗi bề 12 thước, từng trệt ngầm
dưới đất. Nơi đây sẽ được dùng làm Tịnh Thất cho Nữ phái.
* Trí Giác Cung ở trong
Địa Linh Động, được xây dựng trên đường đi từ Tòa Thánh đến Trí Huệ Cung, cách
Tòa Thánh chừng 3 cây số. Trước khi Đức Phạm Hộ Pháp lập thành Trí Giác Cung
thì nơi đây là Trường Qui Thiện do Ông Đinh công Trứ và các bạn Đạo hữu trong
Minh Thiện Đàn từ Phú Mỹ qui tụ về đây xây dựng làm cơ sở tu hành.
* Vạn Pháp Cung ở trong
Nhơn Hòa Động, sẽ được xây dựng tại Sở Sơn Đình, chân núi Điện Bà, về phía Bắc
Tòa Thánh, cách Tòa Thánh chừng 10 cây số. Vạn Pháp Cung dùng làm Tịnh Thất cho
Nam phái.
Chờ đến ngày giờ Đức Chí
Tôn định, 3 Cung nầy là 3 Tịnh Thất tiếp nhận các bực tu Thượng thừa đã có đủ
Tam lập, vào đây thọ Tâm pháp bí truyền để luyện đạo thành Tiên Phật tại thế.
Khi Đức Phạm Hộ Pháp trấn
pháp Long Tu Phiến và Cây Kim Tiên nơi Thiên Hỷ Động Trí Huệ Cung, Đức Ngài có
nói : " Ngày nay là ngày vui mừng của Bần đạo hơn hết, là Bần đạo còn sức
khỏe đầy đủ, cầm Bí pháp của Đức Chí Tôn đã giao phó, ấy là phận sự đặc biệt
của Bần đạo vậy."
15 . Cất Chợ Long Hoa và mở mang vùng Thánh địa.
Kể từ năm 1947 trở về sau,
chiến tranh giành độc lập giữa quân đội Việt Minh và quân đội Pháp lan rộng
khắp nơi, khiến cho các tín đồ Cao Đài từ khắp các nơi đổ dồn về vùng Thánh địa
lập nghiệp càng lúc càng đông. Do đó, Đức Phạm Hộ Pháp cho xây dựng Chợ Long
Hoa, có nhà lồng chợ 4 cánh hình chữ Thập, chung quanh Chợ có 8 cửa, hướng ra 8
con đường, với ý nghĩa là : Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái, theo Vũ Trụ quan
của Đạo Cao Đài. Cho nên Đức Phạm Hộ Pháp cho đây là cái Chợ Chuyển Thế.
Ngày 5-6-Tân Mão (dl
8-7-1951), Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần và ban Phép lành Chợ Long Hoa, có nói
rằng :
" Càng ngày nhơn sanh
qui tụ càng đông, vì thế nguồn sanh sống càng bị bóp nghẹt, nên Bần đạo cho lập
gắp cái Chợ nầy để tạo lại nguồn sanh sống dễ dàng cho nhơn sanh.
Ngày giờ nầy, tuy là nhìn
thấy cái Chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng
hơn, mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần đạo
dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì là cái Chợ Chuyển thế và huyền
diệu thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy."
Để mở mang vùng Thánh địa
cho có qui củ, Đức Phạm Hộ Pháp thiết lập Phòng Kinh Lý Họa Đồ, phóng các con
đường thẳng tắp thẳng góc nhau như trong bàn cờ, phân đất ra thành từng lô để
cấp phát cho bổn đạo từ các nơi về đây lập nghiệp, định nơi cất Trường học, Nhà
Thương (Bệnh viện), Chợ búa, Sân máy bay, Nghĩa địa, vv. . .
Đức Ngài khuyến khích bổn
đạo khai phá đất rừng thành ruộng rẫy, tạo lương thực cho vùng Thánh địa được
sung túc. Đức Ngài còn buộc các con em nhà đạo phải đến trường do Đạo mở ra để
học chữ nghĩa.
Dần dần vùng Thánh địa mở
mang rộng đến hơn 200 cây số vuông, bao bọc luôn cả Núi Điện Bà.
16 . Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông
lập Ban Thế Đạo.
Ngày 3-12-Quí Tỵ (dl
7-1-1954), trong một đàn cơ tại Giáo Tông Đường, Phò loan : Hộ Pháp - Tiếp Đạo,
Đức Lý Giáo Tông giáng cơ hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp lập Ban Thế Đạo với 4 phẩm
Chức sắc :
" Khi hôm qua, đã có
luận về Thế Đạo, nên căn dặn Phò loan đặng Lão giải nghĩa điều ấy.
- Hộ Pháp đã hiểu tổ chức
của Hội Thánh Thiên Chúa giáo, có Chức sắc Thế Đạo, pháp văn gọi rằng :
Dignitaires laiques. Hiền Hữu đã có phong phẩm HIỀN TÀI, sao không thêm 3 phẩm
trên nữa cho đủ như của họ.
Hộ Pháp bạch : - Xin Ngài
chỉ rõ.
- Thêm vào 3 phẩm Thế Đạo
nầy : QUỐC SĨ, ĐẠI PHU, PHU TỬ."
Bản Qui Điều của Ban Thế
Đạo mãi đến khi Đức Phạm Hộ Pháp qui Thiên rồi mới được Hội Thánh HTĐ soạn
thảo, dâng lên Đức Phạm Hộ Pháp, và ngày 9-2- Ất Tỵ (dl 11-3-1965), Đức Ngài
giáng cơ chấp thuận. Đức Thượng Sanh lúc đó cầm quyền Chưởng quản HTĐ ban hành
ngày 28-2-Ất Tỵ (dl 30-3-1965).
Đàn cơ tại Giáo Tông
Đường, đêm 4-7-Kỷ Dậu (dl 16-8-1969), Phò loan : Hiến Pháp - Khai Đạo, Đức Phạm
Hộ Pháp giáng cơ nói về Ban Thế Đạo :
" Đức Lý Đại Tiên có
thảo luận với Bần đạo về việc tuyển Chức sắc cao cấp CTĐ thì nên tìm kiếm nhân
tài trong hoặc ngoài Ban Thế Đạo, sẵn lòng tình nguyện hiến thân phục vụ cho
Đạo, thì các bạn nên mời về tham khảo ý kiến, nếu được thì Đức Lý đặc cách ân
phong quyền tước để phụng sự có hiệu lực hơn. Các bạn đồng ý chăng ? "
17 . Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong sang Cao Miên.
Sau Hiệp Định Genève ngày
20-7-1954, nước VN bị phân chia thành 2 miền Nam, Bắc, lấy sông Bến Hải làm
ranh giới. Miền Bắc chịu ảnh hưởng của khối thế lực Cộng Sản, Miền Nam chịu ảnh
hưởng của khối thế lực Tư bản.
Đức Phạm Hộ Pháp thấy rõ
sẽ có cuộc nội chiến tương tàn tương sát giữa 2 Miền Nam Bắc, nên Đức Ngài đưa
ra chánh sách Hòa bình Chung sống, hòa giải 2 Miền, thống nhứt với nhau bằng
thương thuyết tương nhượng, nhưng không được chánh phủ 2 Miền ủng hộ, nhứt là
Ngô đình Diệm ở miền Nam dựa thế lực của nước Mỹ nhứt định đánh Cộng Sản. Do
đó, Ngô đình Diệm tìm mọi cách khủng bố Đức Phạm Hộ Pháp và trấn áp Đạo Cao
Đài.
Đức Ngài bị cầm lỏng trong
Hộ Pháp Đường suốt 4 tháng rưỡi, nhận thấy không có cách nào khác hơn được nữa,
nên Đức Ngài quyết định lưu vong sang thủ đô Nam Vang của nước Cao Miên.
Đúng 3 giờ sáng ngày mùng
5-Giêng-Bính Thân (dl 16-2-1956), Đức Phạm Hộ Pháp cùng vài vị Chức sắc thân
cận, lên xe hơi đi lên Nam Vang theo ngã Gò Dầu. Tuy Đức Ngài bị canh chừng
nghiêm nhặt, lính tráng của phe Ngô đình Diệm đứng gác đầy đường, nhưng nhờ
huyền diệu thiêng liêng che chở, xe hơi của Đức Ngài chạy đi không ai hay biết,
tới chừng chúng phát giác được thì xe của Đức Ngài đã qua khỏi biên giới VN và
đã đến đất Cao Miên.
Đức Ngài xin Hoàng Thân
Sihanouk cho tị nạn tại Cao Miên , và xin ở tại Thánh Thất Kim Biên, Nam Vang.
18 . Đức Phạm Hộ Pháp qui Thiên.
Trong thời gian lưu vong
tại Nam Vang, Đức Phạm Hộ Pháp cố gắng vận động thực hiện Chánh sách Hòa bình
Chung sống của Đức Ngài, nhưng lãnh đạo của mỗi Miền VN đều có đường lối và
tham vọng riêng, nên tiếng kêu của Đức Ngài không được hưởng ứng.
Đức Ngài vì tuổi già sức
yếu, quá lao tâm lao lực với nền Đạo, lại bị đày đọa quá khổ cực trong hơn 5
năm đồ lưu nơi hải đảo, ngày nay lại mang tâm bịnh nơi lòng, Đức Ngài cảm thấy
giờ qui Thiên sắp tới, nên Đức Ngài làm một văn thư thỉnh cầu gởi Hoàng Thân
Sihanouk, cho Đức Ngài tạm gởi thi hài nơi đất Miên dưới sự bảo vệ của Hoàng
gia Miên, đồng thời, Đức Ngài cho gọi các Chức sắc và bổn đạo tới bên giường
bịnh để Đức Ngài di chúc:
" Bần đạo qui Thiên,
tạm gởi thể xác nơi đất Cao Miên một thời gian. Ngày nào nước nhà độc lập thống
nhất hoặc thực hiện đúng theo đường lối Hòa bình Trung lập, sẽ di liên đài về
Tòa Thánh Tây Ninh."
Ngày mùng 10-4-Kỷ Hợi (dl
17-5-1959), lúc 13 giờ 30 phút, Đức Phạm Hộ Pháp thoát xác qui Thiên, để lại
bao mối tiếc thương trong lòng người tín đồ Cao Đài, trước một bậc vĩ nhân đã
hiến trọn đời mình khai sáng và xây dựng nền Chơn giáo của Đức Chí Tôn.
Đức Ngài hưởng thọ được 70
tuổi. Thể xác được liệm vào liên đài, nhập Bửu tháp tạm, xây ngay phía sau
Thánh Thất Kim Biên, Nam vang.
Kể từ ngày Đức Ngài lưu
vong sang Cao Miên, ngày 5-Giêng-Bính Thân (dl 16-2-1956), cho đến ngày Đức
Ngài qui Thiên, 10-4-Kỷ Hợi (dl 17-5-1959), Đức Ngài ở nơi đất cao Miên được 3
năm 3 tháng.
Đêm mùng 10-4-Kỷ Hợi, lúc
10 giờ 45, Ngài Bảo Đạo Hồ tấn Khoa và Sĩ Tải Bùi quang Cao phò loan, Đức Phạm
Hộ Pháp giáng cơ, dặn dò công việc tế lễ và cho bài thi tạm làm bài Thài hiến
le :
Ba năm xa cách để chờ may,
Vạn sự do Thiên đã sắp bày.
Chí muốn cao bay trong một kiếp,
Giờ đây nhờ cậy các anh tài.
Đã đành danh phận còn xa thẳm,
Nhưng đứng mày râu
chẳng mảy may.
Một kiếp vì đời tua gắng trả,
Cho rồi nợ thế khỏi ai hoài.
Đêm 13-4-Kỷ Hợi, Ngài Hồ
Bảo Đạo và Sĩ Tải Cao phò loan, Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ cho bài Thài khác,
thay bài Thài trước, dùng hiến lễ Đức Ngài mãi về sau nầy :
Trót đã ba năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi
cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm Chơn pháp,
Tô điểm non sông, Đạo lẫn Đời.
Ngay sau khi Đức Phạm Hộ Pháp qui Thiên, ở
bên nước Pháp, Nữ Đồng Tử Sarah Barthel tại thủ đô Paris, đã nghe được tiếng
nói từ cõi thiêng liêng về sự liễu đạo của vị Giáo Chủ Đạo Cao Đài. Bà ghi lại
trong Bài Chứng Nghiệm, đăng trên báo Le Lien des Cercles d'Etudes số 4 tháng
5-6 năm 1959, xuất bản tại Paris, được dịch ra sau đây :
SỰ QUI THIÊN của
VỊ GIÁO CHỦ HOÀN CẦU
của ĐẠO CAO ĐÀI :
HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC.
Để liên hiệp tất cả đệ tử
Thần Linh Thế giới,
Chúng ta hãy than khóc,
nhưng vẫn hy vọng !
Hỡi các đệ tử Thần Linh
Tây phương ! Đối với anh chị em ta bên phương Đông và Viễn Đông, chúng ta có
bổn phận là hiệp tinh thần trong việc hợp tác huynh đệ để tìm biết về Vô hình.
Một tiếng nói trên không
trung nói với tôi :
"Sở dĩ đạo đức đưa
tới một đời sống hạnh phúc là vì đạo đức là một tình thương yêu cao cả và tình
yêu nầy chỉ là một với tình yêu cả nhơn loại lẫn vũ trụ.
Tiếng nói ấy là tiếng nói
nào mà nó thoát ra ngoài vật thể và nó ở ngàn chỗ trên thế giới địa hoàn để cho
tâm hồn yên lặng và mở rộng đều có thể nghe được, dầu họ ở phương Đông cũng như
phương Tây, hoặc ở phương Bắc, cũng như phương Nam, họ chờ đợi tiếp nhận những
lời Thánh giáo giống nhau, trạng tỏ rõ sự thỏa hiệp của tâm hồn.
Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc
vừa qui Thiên ngày 17-5-1959 hồi 13 giờ 30 phút (giờ Cao Miên) tại Chùa Tual
Svay Prey, ở hộ đệ ngũ thuộc Châu thành Nam Vang . . .
Đúng giờ đã định, những vị
Thiên Thần cầm cây tàn vàng tới đón rước Ngài, và các Hung Thần bị xua đuổi ra
xa tít, họp thành một lằn đen xa thẳm, như đóng khung không hẹn mà nên cho một
cảnh giới thiên nhiên càng mở rộng thêm mãi.
Những Đấng đã liễu đạo,
lớp mặc Thiên phục đỏ, lớp Thiên phục xanh dương, lớp nữa Thiên phục vàng, và
cũng còn hàng ngàn mặc Thiên phục trắng.
Những vị Thiên phong sắc
phục trắng nói rằng : Tiết độ là mối tình thương yêu làm chúng ta gìn giữ trong
sạch những gì mà chúng ta yêu mến.
Những vị Thiên phong sắc
phục xanh dương nói : Thận trọng là mối tình thương yêu, phân biệt điều gì đưa
đẩy chúng ta đến chỗ thiện và điều gì có thể lôi kéo chúng ta đi xa chỗ thiện.
Những vị Thiên phong sắc
phục vàng lúc bấy giờ nói : Công bình là tình thương yêu đặt chúng ta vào con
đường phục vụ cho tình bác ái.
Sau chót, những vị Thiên
phong sắc phục đỏ cũng tuyên bố : Dũng lực là tình thương yêu giúp ta đảm nhiệm
mọi khó khăn cho cái gì chúng ta yêu mến.
Bốn lớp người nói xong thì
tiếng nói của Đấng Thượng Đế, tiếng nói ở trong Tâm của mỗi người, dầu ở Thiên
giới hoặc Địa giới, hay ở Trung giới, tiếng nói ấy đã phán :
" Trong 4 màu hiệp
lại thành một, con đã xuống thế, hạ mình một cách cao cả, làm một vị Giáo chủ
tốt. Hộ Pháp Phạm công Tắc, con hãy trở về trong lòng TA và góp giữ phần trong
lời Thánh Huấn của TA, tiếng nói của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế."
Ngày 17-5-1959, hồi 7 giờ,
trong toàn Địa giới, Trung giới, yên tịnh hay phiêu lãng, tất cả những người
Nam Nữ trong Đại Cơ quan Đồng tử đều được nhìn thấy và nghe rõ tất cả những sự
việc mà tôi ghi chép y như trên.
Nữ Đồng tử Sarah Barthel
20 đường Alibert, Paris X
ème
(Trích trong quyển Hình ảnh Đức Hộ Pháp Phạm
công Tắc qui Thiên do soạn giả Nguyễn văn Hảo xuất bản năm 1967)
Tổng kết :
Tiểu sử của Đức Phạm Hộ
Pháp gần như là lịch sử của Đạo Cao Đài trong 31 năm đầu tiên, kể từ lúc sơ
khởi nền Đạo năm 1925 cho đến năm 1956 khi Đức Phạm Hộ Pháp, rời khỏi Tòa
Thánh, lưu vong sang Cao Miên.
Đức Ngài là một trong
những môn đệ yêu ái nhứt đầu tiên của Đức Chí Tôn, lại là người trẻ tuổi được
Đức Chí Tôn đặt vào phẩm vị cao quí nhứt của HTĐ, 37 tuổi đắc phong Hộ Pháp, và
kể từ năm đó, Đức Ngài xả thân hành đạo cho đến ngày sức mỏn hơi tàn, trở về
thiêng liêng vị.
Cho nên công nghiệp của
Đức Ngài đối với Đạo Cao Đài vĩ đại nhứt so việc tất cả các Chức sắc cao cấp
cầm quyền điều khiển nền Đạo thuở ban đầu.
Trong Nội Ô Tòa Thánh,
cũng như trong khắp Châu Thành Thánh địa Tây Ninh, từ những Đền thờ đến các
Dinh thự, từ những con đường lớn nhỏ đến các cây cầu, từ những ngôi chợ đến các
khu nhà ở trật tự khang trang, từ những ngôi trường dạy trẻ em nhà đạo cho đến
các Y viện, Dưỡng Lão, Cô nhi Viện, vv. . . đâu đâu cũng đều thấy có những dấu
tích nhắc nhở công nghiệp vĩ đại của Đức Ngài.
Thể xác của Đức Ngài tuy
đã mất, hình bóng của Đức Ngài tuy đã khuất, nhưng trong lòng của mỗi tín đồ
Cao Đài trong nhiều thế hệ vẫn ghi khắc hình ảnh sống động của Đức Ngài. Đức Ngài là bậc vĩ nhân của Đạo Cao Đài,
và cũng sẽ như Đức Chúa Jésus hay Đức Phật Thích Ca, Ngài sẽ là vĩ nhân của
toàn thể nhơn loại.
19 . Nguyên căn của Đ. Phạm Hộ Pháp.
* Theo tài liệu của Thừa
Sử Phạm ngọc Trấn viết lưu lại, Đức Phạm Hộ Pháp có kể cho Ông nghe, thuở nhỏ,
Đức Ngài có lần nằm mê xuất Chơn thần về Bạch Ngọc Kinh nơi cõi thiêng liêng
gặp Đức Chí Tôn.
" Thuở nhỏ, Đức Hộ
Pháp còn đi học, có một lần nằm mê luôn 2 ngày. Lúc xuất Thần ra đi, Ngài có
một người Em thiêng liêng vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống rước Ngài về. Ngài cùng
đi với người Em đến cửa Bạch Ngọc Kinh thì thấy 8 con gì như con chó xù, to lớn
mạnh mẽ coi đáng ghê sợ, có con nằm đưa bàn chơn trước ra ngang ngửa giữ cửa,
người Em bước lên trên chơn nó thì nó nâng lên đưa vào cửa, còn Ngài thì sợ,
đứng lại. Người Em ngó ngoái lại thấy sao Ngài không vào, nên cười và nói : Anh
cứ vào, Anh đi không bao lâu mà lạ, rồi Ngài liền bước lên trên chơn con chó xù
đó thì nó cũng đưa Ngài vào trong cửa Bạch Ngọc Kinh.
Người Em nói : Anh chờ một
chút, Em vào bạch với Đức Chí Tôn. Ngài ngồi xem cung điện rất nguy nga tráng
lệ, thấy toàn bằng trân châu báu ngọc, dưới lót bằng hào quang sáng đẹp vô
cùng.
Chờ hồi lâu, Ngài kêu lớn
lên thì người Em chạy ra nói : Anh đừng sợ, chờ tôi một chút.
Bỗng thấy Chí Tôn phán
rằng : Con có đói không ?
Ngài đáp : Thưa Thầy con
đói.
Đức Chí Tôn biểu người Em
Ngài đem ra 3 cái bánh ếch trần. Ngài ăn 2 cái thì vừa no, còn cái thứ ba Ngài
nghẹn, nuốt không vô, Ngài muốn liệng nhưng vì sợ lấm cung điện, Ngài ráng nuốt
cho được nhưng ngán lắm.
Đức Chí Tôn hỏi : Con còn
đói không ?
Ngài bạch :
Con no lắm rồi.
Đức Chí Tôn
hỏi : Con có khát nước không ?
Ngài đáp :
Bạch Thầy con khát.
Đức Chí Tôn
dạy đem một tô nước trong thật đầy. Ngài uống ngon lắm. Khi uống vào, Ngài thấy
nhẹ nhàng lại như cũ.
Đức Chí Tôn bảo người Em
Ngài đưa Ngài trở về.
Trước khi ra về, Ngài bạch
: Thưa Thầy, cho con xin một con chó xù đem về giữ nhà.
Đức Chí Tôn bảo : Con về
trước đi, Thầy sẽ cho nó xuống sau."
* Ngày 15-8-Bính Thân (dl
19-9-1956), tại Báo Ân đường Kim Biên, Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ (Trạng Trình Nguyễn
bỉnh Khiêm, Sư Phó Bạch vân Động nơi cõi thiêng liêng) giáng cơ, Phò loan : Đức
Phạm Hộ Pháp và Hồ Bảo Đạo, nói với Đức Phạm Hộ Pháp : (Đức Thanh Sơn tự xưng
là Bần tăng, gọi Đức Phạm Hộ Pháp là Thiên Tôn)
" Nhiều điều Thiên
Tôn hỏi thì Bần tăng khó trả lời đặng, duy Nguyệt Tâm (Chơn Nhơn) đảm đương
Thiên vụ, người hiểu biết rõ hơn Bần tăng, vậy Thiên Tôn nên hỏi nơi người. Chỉ
có bài thi của Bần tăng có hơi huyền bí tiên tri, nên Bần tăng có thể giải đáp.
Thiên Tôn nhớ lại khi lập
thành Phong Thần Bảng, những người đứng vào hàng Thất Thánh là ai? Hộ Pháp đáp:
Lý Thiên Vương, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử.
- Phải, thì trước đầu kiếp
vào nhà họ Vi, còn nay vào nhà họ Phạm. Điều đó có chi khó hiểu mà phỏng đoán.
Tiên tri của Bần tăng đã nhiều và chỉ rõ VN xuất Thánh thì đã hẳn rồi, còn cho
không rõ rệt, hơn nữa lại còn một điều trọng hệ hơn là Di- Lạc giáng linh thì
Thiên Tôn đã thấy rằng tiên tri vốn không sai sót đủ điều."
* Ngày 15-3-Bính Dần, Đức
Chí Tôn phong Ngài Phạm công Tắc là : Hộ giá Tiên Đồng Tá cơ Đạo Sĩ. (có chữ Hộ
giá, nghĩa là hộ vệ Đức Chí Tôn khi xuất hành).
* Đức Lý Giáo Tông thố lộ
về nguyên căn của Đức Phạm Hộ Pháp và quyền năng của Ngài trong bài thi khoán
thủ dưới đây;
1 . Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ,
2 . Pháp luân thường chuyển máy Thiên thơ.
3 . Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi vị,
4 . Quản suất Càn khôn định cõi bờ.
5 . Nhị kiếp Tây Âu cầm máy Tạo,
6 . Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ.
7 . Hình hài Thánh Thể chừ nên tướng,
8 . Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ.
(Khoán thủ : Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu
Hình Đài)
GHI CHÚ :
Câu 1 : cho biết Đức Ngài
là Ngự Mã Thiên Quân hộ giá Đức Chí Tôn từ trước đến nay.
Câu 2 : cho biết Đức Ngài
nắm về Pháp, xoay chuyển cơ Trời theo Thiên thơ đã định.
Câu 3 : Đức Ngài nắm quyền
phân định ngôi vị nơi cõi CLTG. (Chính Đức Ngài được Đức Chí Tôn sai đi mở cửa
CLTG bằng bửu pháp Giáng Ma Xử cho các chơn linh đạo đức nhập vào CLTG).
Câu 4 : Đức Ngài sẽ thay
mặt Đức Chí Tôn cầm quyền cai trị CKTG. Câu nầy kết hợp với bài Kinh Đại Tường
cho chúng ta biết rằng, Đức Hộ Pháp sẽ giáng trần là Đức Di-Lạc Vương Phật,
thay mặt Đức Chí Tôn cai trị CKTG.
Câu 5 : cho biết kiếp
giáng sanh xuống trần lần thứ nhì là Đức Chúa Jésus, mở Đạo Thiên Chúa ở Do
Thái rồi truyền qua Âu Châu, cứu độ các sắc dân Âu Châu.
Câu 6 : Kiếp nầy Ngài
giáng sanh xuống nước VN làm Hộ Pháp chưởng quản HTĐ, nắm giữ Thiên điều.
Câu 7 : Nhờ Ngài mà hình
thể của Đức Chí Tôn tại thế (tức là Hội Thánh CTĐ) được nên hình tướng.
Câu 8 : Phẩm vị của Ngài
rất cao trọng, nhơn sanh gắng cậy nhờ hồng ân của Ngài.
Chúng ta với trí não phàm
phu thô thiển, không thể hiểu rõ huyền diệu của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng
liêng, nhưng qua các tài liệu vừa nêu trên, chúng ta có thể nêu lên một thuyết
về Nguyên căn của Đức Phạm Hộ Pháp :
Nguyên căn của Đức Phạm Hộ
Pháp là : Ngự Mã Thiên Quân, Hộ Giá Đức Chí Tôn.
- Kiếp giáng trần thứ nhứt
là Vi Hộ, với bửu pháp là Giáng Ma Xử, một trong Thất Thánh vào thời Phong
Thần. (Thời Phong Thần, cuối Nhà Thương, khởi đầu Nhà Châu, trước kỷ nguyên Tây
lịch chừng 1100 năm). Vi Hộ sau khi giúp mở ra nhà Châu xong thỉ trở về núi tu
luyện, đắc quả Phật Hộ Pháp, gọi là Phật Vi Hộ Pháp.
- Kiếp giáng trần lần thứ
nhì là Đức Chúa Jésus mở Đạo Thánh Thiên Chúa giáo bên Âu Châu.
- Kiếp giáng trần thời Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc.
- Đức Ngài sẽ giáng sanh
xuống trần lần nữa là Đức Di-Lạc Vương Phật, làm Giáo Chủ Hội Long Hoa, mở ra
đời Thượng Nguơn Thánh đức.
Thượng pho tượng của Đức
Phạm Hộ Pháp lên Ngai Thất Đầu Xà
Vào ngày 15-12-Quí Mão (dl
29-1-1964), Hội Thánh tổ chức một buổi lễ long trọng thượng pho tượng Đức Phạm
Hộ Pháp lên Ngai Thất đầu Xà tại HTĐ Tòa Thánh.
Đây là nguyện vọng của Hội
Thánh và toàn đạo khắp nơi, mong ước đã lâu nhưng vì thời cuộc, đành phải nén
sự đau buồn từ mấy năm qua.
Hôm nay, pho tượng Đức Hộ
Pháp sắp thượng lên Ngai Thất đầu Xà, toàn đạo tưng bừng hân hoan biết bao !
(Trích trong Đại Đạo Nguyệt san số 1 trang 32).
20 . Kinh sách và Thi văn :
Đức Phạm Hộ Pháp lấy bút
hiệu là Ái Dân, có trước tác 2 quyển sách : 1 quyển Phương Tu Đại Đạo gồm 2 tập
và 1 quyển Thiên Thai Kiến Diện.
- Quyển Phương Tu Đại Đạo,
viết theo thể thơ đặc biệt, mỗi câu có từ 7 đến 8 chữ hoặc 9 chữ, khi dùng cước
vận, khi dùng yêu vận, trường thiên, nội dung dạy về phần Nhơn Đạo cho các tín
đồ Nam Nữ.
Xin trích ra đây một đoạn
ngắn tượng trưng :
PHẬN LÀM CHA
Cha mẹ rủi sanh con hung bạo,
Tội dưỡng nhi bất giáo đã đành.
Với hình hài mình đã sanh thành,
Thì chữ Đạo chữ Tình cân đúng giá.
Cơ chuyển thế nơi tay đã quả,
Thay mặt cho Tạo Hóa dựng đời.
Vật tối linh thiên hạ là người,
Cha mẹ vốn là Trời phần xác thịt.
Phận nuôi dưỡng tuy vân cần ích,
Phải dạy răn kẻo nghịch lòng Trời.
Đã lập Đời ắt phải dạy Đời,
Đừng dưỡng ác hại người mang nghiệp chướng.
. . . . . . . . . . . . . . . . .
- Quyển Thiên Thai Kiến
Diện, gồm 77 bài thơ Thất ngôn Đường luật, thuật lại những điều mà Đức Ngài
thấy tận mắt khi xuất Chơn thần lên viếng cảnh Thiên Thai nơi cõi TL. Xin chép ra sau đây bài thi số 1 mở đầu :
1 .
Ngoài áng Đào Nguyên sấn bước vào,
Thiên Thai Tiên cảnh trước cao cao.
Mây lành phủ động ra khuôn cửa,
Tòng rậm bao quanh giống mặt rào.
Hạc đạo đón đưa bay xạo xự,
Nai tăng tiếp rước chạy lao xao.
Lừng trời lửng đửng ngàn muôn kẻ,
Cười nói mừng vui đến miệng chào.
Đức Phạm Hộ Pháp thường
xuyên thuyết đạo trong mỗi kỳ đàn cúng, suốt mười mấy năm, kể từ năm 1946, năm
Đức Ngài hồi loan từ Mã đảo (đảo Madagascar ở Phi Châu), cho đến khi Đức Ngài
qui Thiên.
Đức Phạm Hộ Pháp muốn
"Cậy phương thuyết giáo vẽ thành Kinh Chơn" (KNH)
Những bài thuyết đạo nầy
được Ban Tốc Ký ghi chép lại, tập hợp theo từng năm, và theo từng đề tài, tạo
thành được 8 quyển Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp, in được 4 cuốn, còn 4 cuốn chưa
in. Hai quyển có đề tài đặc biệt là:
- Bí Pháp.
- Con đường Thiêng liêng
Hằng sống.
Đây là những tài liệu rất
quí báu cho người học Đạo và nghiên cứu về Giáo lý và Triết lý của Đạo Cao Đài.
Đức Phạm Hộ Pháp cũng rất
sính thơ. Đức Ngài làm rất nhiều bài thơ đường luật, xướng họa cùng các thi hữu
nơi HTĐ và các Đấng Nữ Tiên DTC.
Xin chép ra sau đây vài
bài tượng trưng :
Đức Hộ Pháp họa vận trả
lời Bát Nương :
Hành tàng hư thiệt tại Cha Trời,
Đông Mậu năm hồ hỏa khắp nơi.
Châu ngũ khí hòa tan ác nghiệt,
Thất sơn dấy động Thất sơn dời.
Thế tiêu xuân Kỷ Long Hoa trổ,
Thưởng phạt cuối cùng Thánh đức thôi.
Long Mã ban vương tiêu trận kỵ,
Cù phi hải sụp lý thay Trời.
Bắc Du cảm tác
Non nước hồn thiêng đã tỉnh dần,
Xuân Thu xưa nay đổi Thu Xuân.
Nam phong đỡ vững xa thơ Hán,
Bắc tục xô nghiêng đảnh nghiệp Tần.
Bác ái là đề thi tiến hóa,
Nghĩa nhân ấy mục định duy tân.
Thiên thời Địa lợi đôi điều sẵn,
Chỉ thiếu hòa Nhân để hợp quần.
Đức Thượng Phẩm
CAO QUỲNH CƯ
Ngài Cao quỳnh Cư, hiệu là
Bội Ngọc, sanh năm Mậu Tý (1888) tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh
Tây Ninh.
Thân phụ của Ngài là Ông
Cao quỳnh Tuân, làm Cai Tổng Hàm Ninh Thượng. Ông Cao quỳnh Tuân mất lúc Ngài
Cao quỳnh Cư được 10 tuổi. Đức Chí Tôn cho biết, Ông Cao quỳnh Tuân là Xuất Bộ
Tinh Quân ở Thượng giới giáng trần.
Thân mẫu của Ngài Cư là Bà
Trần thị Huệ (đắc phong Nữ Giáo Sư ngày 14-Giêng-Đinh Mão, dl 15-2-1927, do Đức
Chí Tôn ân phong trong kỳ Phong Thánh Nữ phái lần thứ I)
Bào huynh của Ngài Cư là
Ông Cao quỳnh Diêu (Ông Diêu thứ ba, Ông Cư thứ tư trong gia đình). Ông Cao
quỳnh Diêu về sau đắc phong Tiếp Lễ Nhạc Quân năm 1927, và Bảo Văn Pháp Quân
năm 1929. (Xem Tiểu sử của Ông Cao quỳnh Diêu trong Phần thứ ba : Danh Nhân
Thập nhị Bảo Quân).
Năm 1907, Ngài Cao quỳnh
Cư lập gia đình với Cô Nguyễn thị Hiếu ở Sài gòn (sau đắc phong Nữ Giáo Sư
trong kỳ Phong Thánh Nữ phái lần thứ I, và sau cùng đắc phong Nữ Đầu Sư năm 1968).
(Xem Tiểu sử : Nữ Đầøu Sư Nguyễn Hương Hiếu, trong Phần thứ nhứt : Danh Nhân
CTĐ).
Người con trai duy nhứt
của Ngài Cư và Bà Hiếu là Cao quỳnh An, đi du học bên Pháp và mất ở bên đó.
Năm 1915, Ngài Cao quỳnh
Cư làm Thơ ký tại Sở Hỏa Xa Sài gòn, sau được lên ngạch Còm-mi, ngụ tại nhà số
134 đường Bourdais , nay là đường Calmette Quận I Sài gòn.
I . Thời kỳ Xây Bàn :
Vào hạ tuần tháng 7 năm
1925, nhằm tối Thứ sáu ngày 24-7-1925 (âl 4-6-Ất Sửu), quí Ông Cao quỳnh Diêu,
Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang, cùng một vài người nữa trong gia
đình, tổ chức xây bàn theo cách thức của Thần Linh Học Tây phương, tại nhà Ông
Sang, ở dãy phố hàng dừa, bây giờ là đường Cống Quỳnh, gần Chợ Thái Bình, Sài
gòn. Buổi xây bàn đầu tiên không đạt kết quả.
Đêm sau, quí Ông hẹn nhau,
xây bàn thử lại lần nữa. Quí Ông đốt nhang khấn vái, rồi ngồi quanh một cái bàn
tròn 3 chưn, đặt nơi hàng ba trước nhà, 2 bàn tay của mỗi người đều úp lên mặt
bàn, ngồi lẳng lặng định thần một lát thì cái bàn dao động, chưn bàn nhịp nhẹ xuống
nền gạch phát ra tiếng. Các Ông biết là có vong linh nhập bàn.
Để có thể nói chuyện với
vong linh, Ông Cư lên tiếng :
- Xin khoan đi, để cho tôi
nói ít lời. Bây giờ chưa có cách chi để hiểu nhau, duy có gõ 2 tiếng là ừ,
chịu, có, phải; còn gõ 1 tiếng là không, chẳng phải.
Vong linh liền làm chưn
bàn nhịp xuống gạch 2 tiếng, tỏ ý chịu. Đọan Ông Cư nói tiếp :
- Ta hiểu theo đây thì có
thể nói chuyện được với nhau tiện hơn. Nếu tôi hỏi chi, vong linh muốn trả lời,
cứ theo thứ tự vần quốc ngữ mà gõ, mỗi chữ mỗi gõ, đến chữ nào dùng thì ngưng
lại, nghĩa là lấy chữ chót, rồi bắt đầu trở lại mà gõ chữ khác, xong rồi sẽ ráp
lại mà đọc, giống như đánh giây thép vậy.
Vong linh liền gõ 2 tiếng
: Ừ, chịu.
Qui ước với nhau xong rồi,
Ông Cư liền đọc theo vần quốc ngữ : a ă â b c d đ e ê g h i k l, tới chữ L thì
bàn dứt gõ, nghĩa là lấy chữ L.
Ông Cư bắt đầu đọc vần trở
lại : a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư , tới chữ Ư thì bàn
dứt gõ, nghĩa là lấy chư Ư.
Cứ thế tiếp tục, cuối cùng
Ông Cư ráp lại được 3 chữ : LƯỢNG CAO QUỲNH.
Ai nấy đều rất vui mừng vì
thấy có kết quả.
Ông Cư hỏi : - Như có phải
là Cao quỳnh Lượng thì chắc biết tên những người ngồi đây. Vậy cứ gõ tên từng
người xem có trúng không ?
Ông Cư bắt đầu đọc : a ă â
b c d đ e ê g h i k l ..... và bàn tiếp tục gõ. Lần nầy thì việc làm có vẻ như
quen dần, việc ráp chữ có phần nhanh hơn. Khi ráp xong các chữ thì đúng là tên
của những người đang ngồi xây bàn. Cả thảy đều vui mừng cười rộ lên, còn cái
bàn thì dỡ hỏng lên một chưn lắc qua lắc lại, dường như cũng vui cười theo vậy.
Khi đó Ông Cao quỳnh Diêu
biết chắc là Cao quỳnh Lượng, con trai của Ông đã chết cách đây mấy năm, nên
lên tiếng hỏi rằng :
- Con có hầu Ông Nội không
?
Bàn gõ trả lời : - Có.
- Mời Ông Nội đến đây tiện
không ?
Bàn gõ trả lời : - Đặng.
Sau đó thì cái bàn dỡ lên
rồi để xuống luôn, không còn dao động như trước nữa. Quí Ông biết là vong linh
đã xuất ra, nên buông tay ra nghỉ xả hơi.
Trước một việc lạ lùng và
linh hiển như thế, quí Ông bàn tán dữ lắm mà chưa ra lẽ. Kế thấy nghỉ được nửa
giờ rồi, quí Ông trở lại ngồi xây bàn như lúc nảy.
Tịnh thần một lát thì bàn
dao động, bắt đầu gõ. Ông Cư ráp lại thì được chữ : CAO QUỲNH TUÂN. Đó là thân
sinh của 2 Ông : Diêu và Cư. Ông Cư nói :
- Vì buổi Thầy quá vãng,
anh em con vẫn còn nhỏ dại, cho đến nỗi anh cả con đã trọng mà còn không nhớ
đặng hình ảnh của Thầy, huống chi là con còn nhỏ quá, duy buổi lớn khôn nghe
người truyền ngôn lại cái hạnh đức của Thầy mà thôi. Nếu có thể tiện, xin Thầy
dùng dịp nầy cho anh em con một bài thi tự thuật hầu để roi truyền ngày sau cho
con cháu thờ làm kỷ niệm.
Vong linh Ông Cao quỳnh
Tuân liền gõ bàn, cho bài thi :
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màn đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen được thảnh thơi.
Xét nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Thầy xin kiếu.
Khi bàn gõ xong chữ "
kiếu " thì bàn dỡ lên rồi để xuống nhẹ hều, không còn dao động nữa. Vong
linh đã xuất.
Đó là buổi xây bàn có kết
quả đầu tiên. (Viết theo Đại Đạo Truy Nguyên của Huệ Chương).
Qua buổi xây bàn có kết
quả lần đầu tiên, các Ông suy nghĩ nhiều lắm, nhưng chưa giải đáp được, chỉ
biết chắc chắn rằng có sự hiện hữu của các vong linh nơi cõi vô hình.
Cả ngày hôm sau là Chúa
nhựt, nghỉ làm ở Sở, các Ông vẫn bàn tán mãi, đến khi mệt nằm ngủ vùi. Lật bật
đến gần tối, quí Ông lo tắm rửa và cơm nước, xong cùng tựu lại nhà Ông Cao hoài
Sang để tiếp tục xây bàn nữa.
Đêm nay, quí Ông sửa soạn
trang nghiêm hơn đêm qua nhiều lắm. Đến 9 giờ tối, quí Ông đem bàn ra, đốt
nhang khấn vái. Xong rồi thì vào ngồi quanh chiếc bàn.
Ngồi tịnh thần một lát thì
bàn dao động nhẹ nhàng, khoan thai, gõ bàn xưng danh là Đoàn ngọc Quế, con gái,
rồi Cô cho một bài thi Tự Thuật :
THÁC VÌ TÌNH
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sanh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư quằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai.
ĐOÀN NGỌC QUẾ
Bài thi nầy rất hay, làm
cho quí Ông thích thú, mỗi người làm thi họa lại, khiến cho quí Ông mê mẩn việc
xây bàn. Ban ngày thì đi làm, mong cho tới tối đặng họp nhau lại xây bàn. Sau
đó, có Ông thân sinh của Ông Cao hoài Sang về nhập bàn, rồi có Ông Ách Đồng về.
(Ông Ách Đồng là anh ruột của Ngài Phạm công Tắc).
Vào tối thứ bảy ngày
8-8-1925 (âl 19-6-Ất Sửu), 3 Ông Cư, Tắc, Sang hiệp nhau xây bàn, Ông Diêu bận
việc nên vắng mặt. Cô Đoàn ngọc Quế giáng bàn, nói chuyện một hồi, rồi 3 Ông
xin kết nghĩa anh em với Cô.
Cô bằng lòng, gọi :
. Ông Cao quỳnh Cư là
Trưởng Ca (Anh cả),
. Ông Phạm công Tắc là Nhị
Ca (Anh hai),
. Ông Cao hoài Sang là Tam
Ca (Anh ba),
Phần Cô là Tứ Muội (Em gái
thứ tư).
Rồi Cô chỉ rõ mồ mả của Cô
ở trong nghĩa trang Bà Lớn tại Ngã Bảy (Bà Lớn là Bà Tổng Đốc Phương, đó là Bà
Ngoại của Cô).
Cô tên thật là Vương thị
Lễ, còn tên Đoàn ngọc Quế là tá danh, là con gái của Ông Đốc phủ Vương quan
Trân, Cô kêu Ông Vương quan Kỳ bằng Chú ruột. Cô là Nữ Tiên Thất Nương ở Cung
Diêu Trì. Cô có nhiệm vụ dùng văn chương thi phú dẫn dắt quí Ông vào đường đạo
đức. "Chiêu tập hồn thi bước Đạo dìu".
Quí Ông mê say việc xây
bàn để tìm hiểu về thế giới Vô hình. Đêm nào cũng thức xây bàn đến khuya, sáng
lại đi làm việc ở Sở cho đến chiều mà không cảm thấy mệt mỏi.
Rất nhiều Đấng Vô hình
giáng bàn cho thi, để lần lần dẫn dắt quí Ông vào đường Đạo.
Ngoài Cô Vương thị Lễ
(Thất Nương), còn có : Cô Hớn Liên Bạch (Bát Nương), Cô Lục Nương, Thi sĩ Huỳnh
Thiên Kiều hiệu là Quí Cao, Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng, Thanh Sơn Đạo sĩ (Trạng
Trình Nguyễn bỉnh Khiêm), Đại Tiên Lê văn Duyệt, vv . . . .
Quí Ông xây bàn lúc nầy
phân làm 2 nhóm nhỏ : Ông Diêu và Ông Sang xây bàn mỗi đêm tại nhà Ông Sang ở
phố hàng dừa; Ông Cư và Ông Tắc thì xây bàn tại nhà Ông Cư ở đường Bourdais.
II . Đấng AĂÂ :
Đấng A ĂÂ đến với nhóm Xây
Bàn lần đầu tiên vào hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925). Ba Ông : Cư, Tắc, Sang,
thỉnh bàn ra tính xây bàn để cầu Cô Đoàn ngọc Quế về làm thi. Ba Ông vừa đặt tay
lên bàn thì có một Đấng giáng bàn, cho bài thi :
Ớt cay, cay ớt, gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.
Ông Cư thấy bài thi có ý
rất lạ, liền hỏi tên họ là gì, thì vị giáng bàn xưng là AĂÂ. Ông Cư hỏi Ông AĂÂ
bao nhiêu tuổi ? Ông AĂÂ gõ bàn trả lời đếm hoài tới mấy trăm cái mà bàn vẫn
tiếp tục gõ. Ông Cư nói chắc là Ông AĂÂ nầy lớn tuổi lắm và không dám hỏi nữa.
Kể từ buổi đó, Đấng AĂÂ
thường nhập bàn giảng dạy cho 3 Ông biết nhiều điều rất thâm thúy. Những điều
gì quá khó khăn mà không ai giải thích nổi thì 3 Ông cầu Ông AĂÂ về thì Ông AĂÂ
giáng bàn giải thích rất rõ ràng, khiến mọi người đều kính phục.
Một hôm, Ông AĂÂ giáng
bàn, Ngài nói rằng :
"Nếu muốn cho Bần đạo
đến thường thì 3 vị nạp mấy lời yêu cầu sau đây của Bần đạo :
- Một là đừng kiếm biết
Bần đạo là ai.
- Hai là đừng hỏi đến quốc
sự.
- Ba là đừng hỏi việc
Thiên cơ. "
Cả 3 Ông : Cư, Tắc, Sang
đều ưng thuận. Kể từ đó, 3 Ông thường cầu Đấng AĂÂ về để học hỏi về thi văn.
Mấy hôm sau nữa, Đấng AĂÂ
giáng bàn nói với 3 Ông rằng : "Nếu muốn cho Ta tận tâm truyền dạy Đạo lý
thì hết thảy phải kỉnh Ta làm Thầy, cho tiện bề đối đãi."
Ba Ông mừng lắm, liền vâng
chịu, và bắt đầu thọ giáo học Đạo cùng Đấng AĂÂ.
Và kể từ đây, Đấng AĂÂ
giáng bàn, xưng mình là Thầy và gọi 3 Ông là môn đệ.
III . Thời kỳ phò Ngọc cơ :
- Hội Yến Diêu Trì Cung.
- Vọng Thiên cầu Đạo.
Đến thượng tuần tháng 8 âm
lịch, 3 Ông Cư, Tắc, Sang, được Thất Nương tiết lộ cho biết chút ít về Diêu Trì
Cung nơi cõi Thiêng liêng : Trên hết có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có
Cửu vị Tiên Nương mà Cô đứng hàng thứ 7 gọi là Thất Nương, Hớn Liên Bạch đứng
hàng thứ 8 gọi là Bát Nương, . . .
Ba Ông xin Cô cho biết
cách cầu Đức Cửu Thiên Nương Nương. Thất Nương bảo 3 Ông phải trai giới 3 ngày
và tìm cho đặng Ngọc cơ thì cầu Lịnh Bà mới được.
Quí Ông không hiểu Ngọc cơ là gì. Cô mới
mô tả Ngọc cơ, giải rõ căn cội buổi xưa lấy hình dạng của sao Bắc Đẩu mà tạo
thành, lại dạy cách phò cơ. Thất Nương cũng dặn mỗi người phải làm sẵn một bài
thi đón mừng Nương Nương, dự bị sẵn đó. Cô cũng chỉ dẫn cách sắp đặt bàn ghế,
giữ trang nghiêm tinh khiết để cầu Cửu Thiên Nương Nương giáng phàm mới đặng.
Ba Ông không biết tìm mượn
Ngọc cơ ở đâu. Như có linh tính xúi giục, Ông Cư qua nhà người bạn láng giềng
là Ông Phán Tý chơi và luôn tiện hỏi thăm thì Ông Tý liền cho biết, Ông có một
cây Ngọc cơ, và đang cho Ông Âu Kích ở Chùa Minh Lý mượn, Ông hứa đi lấy về cho
Ông Cư mượn.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét