Trong dịp Lễ Đại Tường của
Ngài Khai Pháp Trần duy Nghĩa, tại Bửu tháp, Đức Phạm Hộ Pháp nhắc lại công
nghiệp khổ hạnh của Ngài Trần Khai Pháp như sau:
" Thưa cùng chư Viên
quan, chư Chức sắc, cùng mấy em Nam Nữ,
Hôm nay là ngày Lễ Đại
Tường của Đức Khai Pháp Chơn Quân, Bần đạo không cần minh tả, tưởng toàn thể
con cái Đức Chí Tôn mến tiếc Ngài là một
vị Chơn linh nguyên nhân của Đức Chí
Tôn đã định.
Nhắc lại công nghiệp của
Ngài, Bần đạo cảm giác vô cùng. Sự cảm giác của Bần đạo đối với Ngài, không giờ
phút nào Bần đạo quên được cái công cực khổ đáo để của Ngài đối với Bần đạo.
Bần đạo chắc chắn rằng, trong Chức sắc HTĐ, Bần đạo chỉ nhờ Đức Khai Pháp nhiều
hơn hết. Đó là bằng chứng hiển nhiên.
Ngày nay, Ngài đã qui
Thiên, thì nền Đạo đã bớt hết một cánh tay gánh vác sự nghiệp thiêng liêng vĩ
đại của Đức Chí Tôn tại mặt thế nầy.
Bần đạo thấy cái sống ở
đời của Đức Trần Khai Pháp trong buổi sanh tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú
vị gì cả. Sự nghiệp giàu sang, vinh hiển cũng không màng, chỉ nguyện đem cái
xác thân nầy hiến trọn vẹn nơi cửa Đạo.
Đức Chí Tôn đã lựa sắm hồi
nào mà chính mình Đức Chí Tôn lựa sắm thật là xứng đáng.
Trong buổi đầu, Đức Chí
Tôn dạy :
" Con muốn ra gánh
vác sự nghiệp thiêng liêng , lập nền Quốc Đạo, trước hết con phải lập Pháp cho
xong thì Đạo mới vững bền được."
Buổi nọ, Bần đạo để trọn
vẹn cho Đức Chí Tôn lựa, chớ không phải phàm lựa.
Khi được cơ bút dạy đi tìm
Khai Pháp tại tỉnh Gò Công, Bần đạo chưa từng đến, mà cũng không làm bạn với
một người nào nơi tỉnh ấy, nhưng cũng vâng lịnh đến tìm, hỏi thăm , thì đã
trúng ngay nhà Ông Trần duy Nghĩa.
Vừa gặp người đứng trước
thềm nhà, hỏi thăm thì người nói : "Tôi là Trần duy Nghĩa". Nói rồi,
mời Bần đạo vào nhà.
Bần đạo không ngần ngại và
để đức tin nơi quyền thiêng liêng, bèn tả hết công việc, thì Ngài hứa tình
nguyện. Một điều là hủy cái đời giàu sang vinh hiển để nạp mình vào nơi cửa
Đạo.
Bần đạo chưa tin, còn hồ
nghi bị chúng gạt. Khi về đến Sài gòn, Ngài chỉ xách theo một gói đồ trên tay
và không trở về gia đình lần nào.
Bần đạo đưa bài Thánh giáo
của Đức Chí Tôn bảo đi tìm Ngài, thì Ngài nói với Bần đạo 2 câu làm cho Bần đạo
kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với mình
gánh vác nổi sự nghiệp của Đức Chí Tôn giao phó.
Ngài nói rằng : "Tôi
tưởng dòng dõi dân tộc VN bốn ngàn năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn
định lập Quốc Đạo, thì chắc chắn rằng, đất nước VN sẽ sống lại được mà cứu Tổ
quốc và giống nòi VN cổi ách nô lệ giữa thời Pháp thuộc bạo hành."
Kể từ đó, Ngài vẫn cương
quyết lo giúp Bần đạo với một sự kính nể đáo để, không giờ phút nào Ngài xa Bần
đạo. Không nhắc đến thì thôi, mà nhắc đến làm cho giọt lệ của Bần đạo tuôn chảy
không ngừng.
Chẳng phải riêng Bần đạo
mất một người ân trọng nghĩa thâm, mà toàn đạo Nam Nữ thảy đều mất một người
bạn yêu mến thiêng liêng đó vậy.
Nhớ lại lúc chánh quyền
Pháp đày ra hải đảo Madagascar, trong đó có nhiều Chức sắc Thiên phong cùng
chung chịu ảnh hưởng, Bần đạo chỉ thấy một Đức Ngài và em Thánh Hiển hết lòng
phụng sự Bần đạo, còn bao nhiêu vì quyền lợi mà xua đuổi hành phạt Bần đạo đáo
để. Có người dựa quyền lợi theo thuyết Cộng sản, dùng sức mạnh trở lại khổ khắc
Bần đạo mà chưa vừa lòng. Họ còn xúi giục chánh quyền đày Bần đạo lên nguồn cao
nước độc để giết Bần đạo một cách gián tiếp. Nếu chẳng nhờ quyền năng thiêng
liêng giúp sức thì Bần đạo không thể trở về Tổ quốc Thánh địa nước VN ngày nay.
Tội nghiệp em Thánh Hiển
với Ngài Khai Pháp, thấy vậy cũng xin đi theo, đã bị chúng đuổi đánh, cũng tính
kế đi theo nuôi dưỡng Bần đạo cho được.
Thánh Hiển, vì đi theo Bần
đạo uống nước độc mà bỏ mình nơi rừng sâu núi thẳm, chỉ còn Bần đạo và Ngài.
Ngài ôm Bần đạo mà khóc,
chỉ van vái một điều là cầu xin Đức Chí Tôn đem về đất Thánh cổi xác mà thôi.
Thật quả nhiên như lời nguyện không sai.
Khi trở về Thánh địa, Bần
đạo gượng làm vui, chớ kỳ thật riêng Ngài Khai Pháp và Bần đạo, không giờ phút
nào quên cảnh tù đày lao khổ. Bần đạo thấy con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về
việc đó, nhưng Bần đạo ôm lòng nín chịu, căn dặn Ngài không thốt ra lời nói gì
cả. Bần đạo sợ nói ra đây, gây oán chuốt hờn thêm cho Đạo. Nếu Bần đạo nói ra,
chắc không bút mực nào tả hết, lại gây thêm xung đột.
Kể từ ngày về Thánh địa,
Ngài Khai Pháp thường than thở với Bần đạo, vì sợ e gây cảnh nồi da xáo thịt,
bên ngoài thì Pháp, bên trong thì VN, ở giữa thì Quân đội Cao Đài. Ai vui
hưởng, chớ riêng Ngài không có ngày nào không lo sợ, sợ đổ máu giết chóc lẫn
nhau, lần đến tương tàn cốt nhục của nòi giống VN ta nữa mà chớ.
Sau ngày Trung Tá Trấn
(Truyền Trạng Phạm ngọc Trấn) Thánh Vêï Trưởng bị quân đội Thành ám sát , Ngài
thường đến Trí Huệ Cung ôm Bần đạo vào lòng, khóc và than rằng : " Thầy ôi
! Cái sợ của tôi ngày nay đã đến rồi. Tôi hằng than thở với Thầy từ nơi hải
đảo, là nơi chúng đày khổ thân, Thầy trò mình tưởng về đất Thánh địa được yên
vui, nào dè có quân đội, cho nên mới ra nỗi nầy,"
Than rồi khóc, rồi Ngài
vịn níu lấy Bần đạo mà nói :
" Thầy ôi ! Vì lời
khuyên xưa kia, Thầy trò mình mới về dìu dắt con cái Đức Chí Tôn mà họ đâu thấu
đáo tâm trạng, nay Trấn đã chết rồi thì tôi thấy còn nhiều thảm họa dẫy đầy, tự
gây phản bội mà làm ly tán, thì bầy con dại của Đức Chí Tôn phải sống nơi nào
cho an phận.
Thưa Thầy ! Thà Thầy trò
mình ở lại vùi thân nơi chốn tù đày hải đảo rừng xanh nước độc, còn thú vị hơn
về đây thấy cảnh đổ máu không lịch sử, dòng dõi chủng tộc VN phải ly tán, tiền
đồ Tổ quốc không dựng lại, mà nhơn loại phải chịu cảnh sắp điêu tàn, nền Đạo
chinh nghiêng bởi cảnh đó."
Nghe qua những tiếng nói
thảm thiết, làm cho giọt lệ Bần đạo đã chảy theo không ngừng, nhưng Bần đạo cố
gượng cho khuây khỏa. Hồi nghĩ lại, Bần đạo gượng làm vui, mượn cớ cho Ngài bớt
buồn rầu đau thảm.
"Không anh à ! Mấy em
nó vì đầu óc thanh niên, không phải như mấy anh lão thành vậy đâu. Vì máu nóng
còn đua tài, chác lợi, quyền trọng tham danh, chớ buộc cả thảy như quí anh sao
được."
Bần đạo thấy Ngài buồn,
kiếm chước cho vui đỡ, và lần lượt kiến tạo Trí Giác Cung, đặng khuyên Ngài vào
ở đó cho yên tịnh, cho bớt thấy cảnh thảm họa trêu diễn trước mắt hằng
ngày."
Trong thời gian Ngài Khai
Pháp Trần duy Nghĩa cầm quyền Chưởng quản Bộ Pháp Chánh, Ngài có biên soạn
những bài giảng về Chánh Trị Đạo để dạy Hạnh đường, sau cùng Ngài tập hợp các
bài giảng ấy, lập thành quyển sách tựa đề : "CHÁNH TRỊ ĐẠO", giải
thích rõ ràng nền Chánh Trị Đạo của Đạo Cao Đài, để người đời khỏi lầm tưởng
Đạo Cao Đài là một tổ chức chánh trị, như các đảng phái chánh trị ngoài đời.
Danh từ PHÁP CHÁNH cũng do
Ngài Khai Pháp đặt ra để thay thế danh từ Tòa Đạo đã dùng khi trước.
Quyển sách nầy gồm 5 Phần
chính :
* Phần I nói về nền tảng Chánh Trị Đạo của
Đạo Cao Đài gồm 4 cơ quan :
- Hành Chánh, thuộc CTĐ.
- Phổ Tế, thuộc CTĐ.
- Pháp Chánh, thuộc HTĐ.
- Phước Thiện, thuộc HTĐ.
* Phần II nói về Quyền Lập Pháp của Đạo
thuộc về 3 Hội : Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh, Thượng Hội.
* Phần III nói về Quyền Hành Pháp, thuộc
về CTĐ.
* Phần IV nói về Quyền Tư Pháp, thuộc về
HTĐ.
* Phần V, so sánh Chánh Trị Đạo và Chánh
Trị Đời.
Sau đây, xin chép lại một bài giáng cơ của
Ngài Trần Khai Pháp, nói chuyện cùng Ngài Bảo Thế Lê thiện Phước.
Phò loan : Giám Đạo Nguyễn
văn Hợi, Thừa Sử Nguyễn văn Kiết
Hầu đàn : Chư Chức sắc
HTĐ.
Đàn cơ đêm mùng 2-12-Giáp
Thìn, (dl 4-1-1965)
tại Giáo Tông Đường, hồi 8
giờ 40.
KHAI PHÁP
Chào Hiền huynh Bảo Thế và
các em.
Tiện đây, Bần tăng đàm đạo
cùng Bảo Thế.
Ngày Bần tăng về Chí Tôn
mới rõ quyền năng Thiên Triều vô biên. Chính Bần tăng rón rén bước vào Bạch
Ngọc Kinh, phải nhờ Chơn Linh VI HỘ dẫn tấn. Từ đây mới biết Chí Tôn phần nào
và được thấu đáo nhiệm vụ của Thời Quân, chẳng những nơi thế gian nầy mà còn
nơi cõi Thiên nữa. Như thế mới khiếp sợ với trách vụ mình.
Nếu quí bạn được thấy thì
tưởng không còn muốn ở cõi trần nữa làm gì. Vậy Bần tăng ước mong quí bạn Thời
Quân tìm cách dòm về hướng Chí Tôn để rộng quyền làm tròn Thiên Soái mạng.
Hổm rày, Đức Phạm Hộ Pháp
Chưởng quản HTĐ có nhóm Hội Thánh HTĐ nhiều lần để quyết định tương lai của nền
Chánh giáo. Vì thế mà Bần tăng được chỉ định gần gũi Hiền huynh để ủng hộ và
trao lời của Đức Phạm Hộ Pháp dạy.
Hiền huynh nhớ Đạo Cao Đài
có Chánh Trị Đạo, thì tưởng cũng không đụng chạm ai, Đời họ lo lấy, Đạo mình
mình trị, trong vòng tự do tín ngưỡng, miễn đừng lấn quyền Đời thì thôi.
Hộ Pháp có than lúc nầy
không người kế chí, nhưng Đức Ngài còn tin nơi Hiền huynh, nên chính Đức Ngài
dục tấn Hiền huynh về. Khi còn ở đô thành, có lẽ Hiền huynh còn nhớ Ngài kêu
hôm nào đó. Hiền huynh cứ tiến tới nhiệm vụ của Đức Phạm Hộ Pháp đã giao, tức
bên cạnh có Đức Ngài và chư Thời Quân ám trợ, đừng lo ma hồn quỉ xác gì nữa,
bất quá chúng nó thêm công quả để Hiền huynh đạt đạo cho mau vậy thôi. Hiền
huynh vững đức tin, cuộc thế đã đến kỳ kết thúc, nên Thần Tiên đã lâm phàm,
đồng ngưỡng về Cao Đài Thánh địa, là Tòa Bạch Ngọc Kinh tại thế.
Buổi Phật Di-Lạc Vương trị
vì thiên hạ, cứ tiến tới có ngày vui sắp đến.
Bần tăng tưởng Hiền huynh
đã từng gần Đức Phạm Hộ Pháp thì cũng còn nhớ cách phục nhơn tâm và thâu thiên
hạ là dường nào rồi. Nhờ tâm đức ấy mà Ngài lập đại công, thì Hiền huynh nên đồ
theo đường lối ấy thì ắt thành công trong sứ mạng đó.
À ! Chỉnh giùm chỗ luyện
Tam Bửu : Tay trái bắt Ấn Tý cầm chén bông, còn tay mặt bắt Ấn Hộ Pháp để lên
trên chén. Hôm nọ viết sai.
Xin chào Hiền huynh. Để kỳ
tới sẽ tái ngộ.
THĂNG.
Tiếp Pháp
TRƯƠNG VĂN TRÀNG
Ngài Hiến Pháp Trương hữu
Đức tuyên đọc Tiểu sử của Ngài Tiếp Pháp Trương văn Tràng, xem đây là Bản Tuyên
Dương Công Nghiệp trong ngày Lễ Di Liên đài nhập Bửu tháp nơi đất Ao Hồ.
Sau đây, xin chép lại
nguyên văn Bản Tiểu sử nầy :
" Ông Trương văn
Tràng, sanh ngày 25-10-Quí Tỵ (1893) tại làng Bình Thạnh tỉnh Biên Hòa. Thân
phụ là Trương văn Tịch và thân mẫu là Trần thị Lịnh.
Vốn sanh trưởng trong gia
đình nề nếp Nho phong truyền thống từ mấy đời trước, nên khi lớn lên, phụ mẫu
cho theo người cậu ruột học Hán tự.
Kịp đến nền văn hóa nước
nhà bước sang giai đoạn tiến triển, hầu hết mọi người dân VN đều hưởng ứng
nhiệt liệt, phụ mẫu Ông liền cho tùng học Việt Pháp ngữ tại trường Tổng, kế
tiếp trường Tỉnh.
Sau khi tốt nghiệp ra
trường, phụ mẫu định bề gia thất và cũng bắt đầu từ đó, Ông nhận làm việc tại
Sở Hỏa Xa Đông Dương (Sài gòn).
Tuy sự sanh hoạt cũng gặp
nhiều điều trở ngại, nhưng nhờ lòng kiên nhẫn và chí hy sinh, nên lúc nào cũng
cố gắng phát triển khả năng để phục vụ sở hành theo phương châm Nho giáo, nhứt
là tinh thần Đại Học, Trung Dung "Kính sự như tín", nghĩa là làm việc
phải hết sức chăm chỉ thận trọng.
Nhờ sự tận tâm phục vụ,
nên về sau được liệt vào hàng Thông Phán nhứt hạng rồi hồi hưu, và trước khi
đăng Tiên, Ông vẫn còn hưởng hưu bổng.
Thời kỳ ngộ đạo :
Vào năm 1925, tại nhà Đức
Thượng Phẩm Cao quỳnh Cư ở Sài gòn, mỗi đêm đều có Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc và
Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang đến dùng phương pháp xây bàn để cầu các Đấng Vô
hình xin thi phú và tiêu khiển thời gian, lạc đạo thanh nhàn.
Thời kỳ nầy, Ông không dự được thường
xuyên, vì bận làm việc ở Sở Hỏa Xa và theo học hàm thụ "École par
correspondance de Paris" ở Pháp .
Thời kỳ thọ giáo :
Phong trào xây bàn để cầu
các Đấng cho thi phú tại Sài gòn được Đức Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và
mấy vị Thời Quân lúc đầu xúc tiến có phần kết quả khả quan. Lúc nầy lại được
các Đấng chỉ dạy thêm phương pháp Cầu Cơ, tiện dịp tiếp các Đấng, và cũng vì thế
nên nhận thấy nguyện vọng được thỏa mãn, những vị nói trên lại càng hăng hái
theo đuổi.
Nhân một đêm nọ, đến nhà
Ông Khai Pháp Trần duy Nghĩa thì gặp Hộ Pháp và Thượng Phẩm đang phò cơ cầu các
Đấng. Vì lòng ngưỡng mộ từ lâu, nên gặp dịp, ông vào quì lạy và hầu đàn, thì
được Đức Chí Tôn kêu tên dạy rằng : " Con hãy sửa soạn đi theo mấy anh con
mà hành đạo."
Khi bãi đàn, hỏi ra mới
biết Đức Chí Tôn chính là Thượng Đế giáng cơ lập Đạo tại nước VN.
Từ đó, lòng đạo đức phát
khởi một cách hăng hái. Sau thời gian ngắn, Ông sửa soạn đi hành đạo, được Ơn
Trên chỉ định cùng với Ông Khai Pháp là một cặp phò cơ truyền đạo.
Về sau, bước đường hành
đạo rày đây mai đó, nhưng vẫn một lòng tín ngưỡng, lo xúc tiến việc làm để tròn
sứ mạng Ơn Trên giao phó. Mãi đến năm Đinh Mão (1927), Đức Chí Tôn mới cấm cơ
Phổ độ.
Thời kỳ đắc phong :
Ngày 13-2-1927, được đắc
phong chức Tiếp Pháp tại Chùa Gò Kén Tây Ninh. Mặc dầu đã theo các bậc đàn anh
hành đạo từ năm 1926, nhưng chưa trọn phế đời hành đạo.
Tuy Ông phải làm việc để lo
sinh kế gia đình, dưỡng dục con thơ vì người bạn trăm năm của Ông đã mất, nhưng
bao giờ lòng cũng hoài bão sứ mạng thiêng liêng, luôn luôn lưu tâm về nghiệp
Đạo.
Nhờ vậy, thời gian nầy Ông
trở về xứ sở tại cây Đào thuộc tỉnh Biên Hòa, xin người dì một sở đất và kêu
gọi Đạo hữu địa phương hưởng ứng chung hiệp xây cất một ngôi Thánh Thất. Hiện
nay Hội Thánh làm chủ Thánh Thất nầy và càng ngày nơi đây bổn đạo càng đông.
Thời kỳ phế đời hành đạo :
Năm 1949, khi lo bề Nhơn
đạo xong, Ông được rảnh rang thế sự, liền về Tòa Thánh Tây Ninh xin lãnh phận
sự hành đạo, lúc bấy giờ Đức Phạm Hộ Pháp cầm quyền Chưởng quản Nhị Hữu hình
Đài, Đức Ngài giao cho làm Bí Thơ. Mãi đến năm 1951, kiêm thêm phận sự giúp
Ngài Khai Pháp điều khiển Bộ Pháp Chánh.
Năm 1954, Ngài Khai Pháp
liễu đạo, Ông lên cầm quyền Chưởng quản Bộ Pháp Chánh.
Đến năm 1956, Đức Phạm Hộ
Pháp xuất ngoại, nền đạo bất an, nên Ông trở về nhà tạm nghỉ ít tháng. Qua
tháng 4 năm 1957, ông trở lại tái thủ phận sự cầm quyền Chưởng quản cơ quan
Pháp luật của Đạo.
Trên bước đường hành đạo
qua bao lúc thăng trầm, truân chuyên thân phận, nhưng lúc nào Ông cũng cố gắng
đem hết khả năng phục vụ nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn.
Ngoài thì giờ phụng sự nền
Đạo, lo việc chúng sanh, còn thêm cố gắng học nhiều kinh điển, áp dụng sở hành
theo lối chơn tu, lại cũng vì phận sự kẻ tu hành, tự giác giác tha, nên Ông đem
hết khả năng viết được vài quyển sách :
- Quyển Giáo Lý Đại Đạo,
xuất bản năm 1950, đã được Đức Phạm Hộ Pháp khen tặng và cả Hội Thánh đồng ý.
Sau thời gian ấy, Ông cố
gắng sưu tầm học hỏi, khảo cứu kinh sách thêm, rồi nhuận sắc quyển Giáo Lý Đại
Đạo, được toàn cả Hội Thánh công nhận và cho tái bản năm 1959.
- Vì cuộc đời hy sinh cho
Đạo, phụng sự chúng sanh, nên chẳng quản tiếng đời miệng thế gièm pha, lúc nào cũng
cố gắng tu học liên tục, biên khảo thêm quyển Trên đường Tấn hóa, và được Đức
Thượng Sanh nhìn nhận sự bổ ích cho nền Đạo và cho phép xuất bản năm 1963.
THI RẰNG :
Cõi trần thui thủi tháng cùng năm,
Tu
niệm đòi phen nhỏ lệ dầm.
Chi
quản thế tình đời khinh thị,
Nào mơ cõi tục cảnh thăng trầm.
Con
đường Đại Đạo miên trường tiến,
Cái nẻo Thần Tiên vĩnh cửu thâm.
Giấc mộng trần ai trong cõi tạm,
Việc đời muôn sự nỗi niềm cam.
Xin nói rõ
thêm: Trong mấy năm đầu hành đạo, từ năm 1928 về sau, vừa làm việc vừa làm đồng
tử cho Đức Chí Tôn truyền đạo. Người Pháp có theo dõi hành động của Ông, nhưng
không tìm thấy dấu vết gì có tánh cách chánh trị cả.
Xuyên qua
các thành tích trên đây, Tiếp Pháp Chơn Quân Trương văn Tràng trọn đời thanh
bần hành đạo, không tham gia chánh trị, dốc lòng tu học để rồi đem cái kết quả
của mình gieo rắc cho nhơn sanh chung hưởng, bằng cớ là soạn quyển Giáo Lý Đại Đạo
được tái bản 4 lần, và mỗi lần tái bản được soạn giả nhuận sắc thêm, và cùng
soạn luôn quyển Trên đường Tấn Hóa, hai tác phẩm nầy được sự ủng hộ của Hội
Thánh và toàn đạo, ngoài ra các nhà trí thức như Cụ Nguyễn đăng Thục,
Khoa Trưởng Đại học Văn Khoa Sài gòn, cũng có cho lời tựa.
Đến đây,
chúng tôi xin tóm tắt ghi lại những lời tựa để nhận chân giá trị của tác phẩm :
* Lời phê
của Đức Hộ Pháp :
" Quyển
sách sơ lược, tuy vẫn chưa đem trọn hình ảnh Chơn pháp, nhưng đã giảng giải
đủ mọi phương tu niệm.
Vậy nó sẽ
giúp ích cho học giả sưu tầm Chơn lý đặng bước vào Bí pháp Chơn truyền. Ấy là
chìa khóa mở cửa Hữu hình thông qua thế giới huyền linh vô tả.
Xin để lời cùng cả tín đồ
và Chức sắc nên đọc và đào luyện tinh thần hầu mai hậu hưởng phần siêu thoát.
Cho phép in và ấn
tống."
2 Juin 1948
HỘ PHÁP (ấn ký)
* Đức Thượng Sanh tặng
quyển Giáo Lý :
Giáo Lý Đạo Trời thất ức niên,
Trương Quân biên soạn để
lưu truyền.
Tồn tâm chỉ rõ đường mê
giác,
Dưỡng tánh phân rành nẻo
tục Tiên.
* Lời tựa của Ngài Bảo Thế
trong lúc cầm quyền Đầu Sư CTĐ :
" Huynh Tiếp Pháp
Trương văn Tràng đã dày công soạn quyển Giáo Lý nầy cốt yếu giúp cho các bạn tu
sĩ khỏi lầm lạc trên đường học đạo.
Sách nầy đáng truyền bá
các nơi, dầu nơi gia đình đạo giáo hay gia đình bàng quan, đều nên đọc nó, bất
luận là lúc nào trong đời mình, sẽ thấy nó là nguồn an ủi để sửa mình khi lâm
vấp tội tình, hoặc nó sẽ là kim chỉ Nam để vạch lối cho hành giả, đem cái Ta
giả hiệp trở về cái chơn thật bổn ngã."
30-9-1959
BẢO THẾ (ấn ký)
* Lời tựa của Cụ Nguyễn
đăng Thục, Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Sài gòn (Tái bản lần thứ 4):
" Cũng vì mục đích
giác mê mà Cụ Tiếp Pháp Trương văn Tràng đã cố công soạn ra sách Đại Đạo Tam Kỳ
Giáo Lý nầy rất công phu, có mạch lạc thứ tự giản dị, lại thâm thúy, hơn nữa
tất cả giá trị không ở chương trình nghiên cứu mà còn là kinh nghiệm bản thân
tu luyện suốt một đời của tác giả, thực đáng là những bài học đạo đức sống,
linh động cho kẻ học đạo vậy. . . . "
5-9-1964
NGUYỄN ĐĂNG THỤC (ký)
* Đức Thượng Sanh
tặng quyển Trên Đường Tấn Hoá :
Trên Đường Tấn Hóa bút Trương Quân,
Rừng Đạo thêm hoa thật đáng mầng.
Trau hạnh giúp người vun thiện quả,
Tu tâm dìu khách thoát mê tân.
Rọi đường chơn lý, khêu đèn huệ,
Nâng bước quần sanh tỉnh mộng trần.
Tam giáo sưu tầm rành luận thuyết,
Công phu quí trọng sánh ngàn cân.
24-4-1963
THƯỢNG SANH (ấn ký)
* Lời Phi Lộ của Ngài Bảo
Thế Lê thiện Phước :
" Đạo huynh Tiếp Pháp
Trương văn Tràng góp nhặt tài liệu tinh hoa Tam giáo, soạn thành quyển
"Trên Đường Tấn Hóa" giải rành phương châm Nhập thế và Xuất thế. Cả
hai phương châm đều thích hợp với sở cầu của các giới trong đại chúng, từ bậc ưu
thời mẫn thế, bậc tu sĩ phế đời, đến bậc thường nhơn, không giới nào đọc sách
nầy mà không thỏa chí vui lòng.
Quyển Trên Đường Tấn Hóa
sẽ góp thêm một bửu vật cho kho tàng của tôn giáo."
27-3-1963
BẢO THẾ (ấn ký)
* Lời tán thưởng của Ngài
Hiến Pháp Trương hữu Đức :
" Trong lúc Đạo Cao
Đài đang thiếu sách phổ thông, quyển sách nầy ra đời rất cần ích, cũng như bất
luận sách nào thuộc loại khảo sát về Đạo lý, hà huống tác giả là một Chức sắc
cao cấp trong Đạo thì giá trị của tác phẩm ấy xứng đáng là dường nào."
HIẾN PHÁP (ấn ký)
* Lời Giới thiệu của Cụ
Nguyễn đăng Thục, Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Sài gòn : (6-12-1962)
" Để trình bày cái
Triết lý Tam giáo, ấy là cơ sở của Đạo Cao Đài thì không ai đủ tư cách hơn là
một nhà Tiếp Pháp đã đem đời sống cống hiến cho Đạo, cố thực hiện Giáo lý của
Khổng Tử : Triêu văn Đạo, tịch tử khả hỷ."
Qua cuối mùa thu năm Giáp
Thìn (1964), Tiếp Pháp Trương văn Tràng ngọa bịnh, điều trị tại nhà thương Phạm
hữu Chương Chợ Lớn, kế dời qua nhà thương Grall (Đồn Đất) Sài gòn, và bịnh càng
ngày càng gia tăng mãnh liệt, có thể đi đến tuyệt vọng, nên Ông xin Hội Thánh
cầu một đàn cơ để hỏi các Đấng thiêng liêng xin thuốc chữa bịnh. Hội Thánh chấp
thuận, tức thì thiết một đàn cơ tại Giáo Tông Đường.
Ngài Khai Pháp Trần duy
Nghĩa giáng cơ dạy Hội Thánh xuống nhà thương Grall rước Ông về Tòa Thánh Tây
Ninh, để thi hành đúng theo lời dạy ấy nhằm ngày 4-11-1964.
Sau 7 ngày cầu nguyện và
uống thuốc Đông y, ông lấy lại sự bình phục sức khỏe.
Cũng xin nhắc lại là Ngài
Khai Pháp Chơn Quân Trần duy Nghĩa và Tiếp Pháp Trương văn Tràng là cặp phò cơ
phổ độ từ buổi Khai Đạo, Ngài Khai Pháp đã liễu đạo mà lúc nào Ngài cũng giúp
đỡ dìu dắt bạn đồng môn còn tại thế.
Sau khi bình phục sức
khỏe, Tiếp Pháp có cảm tác 2 bài thi sau đây để tỏ lòng tin tưởng huyền năng
thiêng liêng và tri ân Hội Thánh :
I
Đường đời khúc khuỷu biết đâu lường,
Trên có Quỳnh Nương hết dạ thương.
Khai Pháp Chơn Quân truyền diệu lý,
Quần Tiên rưới phước hộ thiên lương.
(11-1-1965)
II
Trời chiều bảng lảng bóng thiều quang,
Tiếng trống thu không giục khách nhàn.
Đoái lại chúng sanh thiên vạn ức,
Vẫn còn bận bịu với thời gian.
(21-1-1965)
Đây là huyền diệu thiêng
liêng tuyệt đối dành cho người có lòng tín ngưỡng chơn thành mới có thể thụ
hưởng được mà thôi.
Cho hay, thế kỷ 20, khoa
học thực nghiệm cực thạnh, phát minh cơ khí cực kỳ tinh xảo, nhưng Đạo Cao Đài
lại dùng một lòng tín ngưỡng và luôn luôn cầu Trời khấn Phật phổ hóa tâm linh
cho vạn chúng trên đường sanh sống theo Đức Thượng Đế.
Ngài Tiếp Pháp được phục
hồi sức khỏe từ đầu tháng chạp năm Giáp Thìn (1964) đến Rằm tháng Giêng năm Ất
Tỵ (1965) mặc dầu Ơn Trên đã dùng huyền diệu thiêng liêng cứu độ một phần nào,
nhưng cũng không thể cải được Thiên số, thế nên đến ngày giờ đã định thì phải
qui Thiên.
Này Rằm tháng Giêng năm Ất
Tỵ (dl 16-2-1965), lối 5 giờ chiều, Ngài Tiếp Pháp đã thoát ly trần tục. (thọ
73 tuổi)
Trước khi từ trần, Ngài có
cho biết là ngày ấy Ngài sẽ về chầu Đức Chí Tôn, và từ mấy tháng trước, Ngài đã
chuẩn bị sẵn sàng một liên đài để gởi xác thân của Ngài vào đó.
Kính thưa quí vị,
Ngài Tiếp Pháp mất là Đạo
mất một tay rường cột, một vị Chức sắc cao cấp có công xây dựng từ buổi sơ
khai.
Đây là một cái tang chung
của Đạo vậy.
Trước khi dứt lời, tôi xin
thay mặt Chức sắc HTĐ, nghiêng mình trước liên đài của Ngài Tiếp Pháp Chơn Quân
và cầu nguyện vong linh Ngài chứng chiếu lòng thành của chúng tôi và chúng tôi
cũng thành tâm khẩn cầu Đức Từ Phụ, Đức Từ Mẫu, cùng các Đấng thiêng liêng ban
điễn lành cho hương hồn của Ngài được tiêu diêu nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Sau nữa, chúng tôi xin phân ưu cùng tang quyến.
Kính cẩn chào quí
vị.
HIẾN PHÁP Trương
hữu Đức
Đêm 16-Giêng-Ất Tỵ (dl
17-2-1965), hồi 9 giờ đêm, Ngài Tiếp Pháp Trương văn Tràng giáng cơ cho 4 câu
thi để làm bài Thài hiến lễ Ngài :
BÀI THÀI :
TIẾP điễn Trời ban độ chúng sanh,
PHÁP luân thường chuyển rạng Thiên đình.
CHƠN như đắc vị nhàn Tiên cảnh,
QUÂN Thánh Thần minh kiến Đạo thành.
Qua Bài Thài nầy, chúng ta
thấy rõ Ngài Tiếp Pháp Trương văn Tràng đã đắc đạo và đoạt được Tiên vị nơi cõi
Thiêng liêng Hằng sống.
Tóm lại :
Trong 40 năm hành đạo,
Ngài Tiếp Pháp Trương văn Tràng đã lãnh nhiều trọng trách:
- Phò loan cùng Ngài Khai
Pháp Trần duy Nghĩa để Đức Chí Tôn cùng các Đầng thiêng liêng giáng cơ phổ độ
nhơn sanh.
- Bí Thư Văn phòng Đức
Phạm Hộ Pháp.
- Chưởng Quản Bộ Pháp
Chánh.
- Thống Quản Nữ phái CTĐ.
- Cố Vấn Đại Đạo Nguyệt
San.
- Ngài Tiếp Pháp biên soạn
được 2 quyển sách :
- Giáo Lý Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ.
- Trên Đường Tấn Hóa.
Đây là một thiện chí, một
bằng chứng của Ngài thể hiện tình cảm yêu ái nhơn sanh, không nệ thân già khó
nhọc, lăn mình trên đường nghĩa vụ phụng sự nhơn sanh cho đến phút sống cuối
cùng.
Xin mượn lời của Đức
Thượng Sanh Cao hoài Sang trong bài Ai Điếu đọc trước liên đài của Ngài Tiếp
Pháp để làm phần kết:
" Chẳng có lời nào
xác đáng để tỏ hết nỗi tiếc thương của chúng tôi đối với một bạn đồng môn mà cả
đời hành đạo chỉ biết tận tụy với nhiệm vụ. Không hay phô trương, không màng
quyền lợi, sống trong cảnh vật chất với món tiền hưu bổng, Ngài Tiếp Pháp đã
tượng trưng cho một tâm hồn cao siêu của nhà hiền triết.
Tánh tình hòa nhã, lời nói
khiêm cung, giàu chẳng bợ, khó chẳng khinh, thương kẻ bần hàn, giúp người cô
quả.
Suốt 30 năm lăn lóc quan
trường, vì bản tánh thanh cao mà đến ngày hồi hưu, Ngài cũng chỉ còn lại 2 bàn
tay trắng với một chồng sách triết học và đạo lý mà Ngài vẫn thường dùng làm
món ăn tinh thần trên bước đường hành đạo.
Nói đến công trình của
Ngài đối với Đạo thì chẳng khác chi thân tằm, cứ mãi rút ruột nhả tơ để trả ơn
dâu cho đến ngày kiệt sức. "
" Khi về Tòa Thánh
đảm nhiệm phận sự chánh thức, dưới quyền của Đức Phạm Hộ Pháp thì Ngài đã tỏ ra
xứng đáng một tướng soái của Đức Chí Tôn trong mọi phương diện. Ngoài nhiệm vụ
đã được giao phó, trong lúc rảnh rang thì Ngài cặm cụi đem hết trí óc não cân
để sáng tác những sách Đạo với mục đích là giúp Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu
am hiểu Giáo lý Đại Đạo và các tôn giáo cõi Á Đông."
" Toàn đạo đã đặng
thừa hưởng cái công nghiệp phi thường của bạn, và tên tuổi bạn vẫn còn mãi trên
những quyển sách lưu lại ngàn đời cho đàn em trong cửa Đạo.
Rồi đây, nhờ nơi huyền
diệu cơ bút, chúng tôi có thể gặp lại bạn trong lời nói câu văn, để thố lộ tâm
tình cũng như lúc trước, thế thì đối với bạn, sự mất cũng như còn, chết mà vẫn
sống."
Ngài Tiếp Pháp rất ít làm
thơ. Theo tài liệu trong quyển "Văn tịch pháp Nhơn luân chi đạo "của
Ngài Bảo Đạo Hồ tấn Khoa, Ngài Tiếp Pháp có bút hiệu là Huyền QuangTử.
CẢM XUÂN GIÁP NGỌ
(1954)
Đầu cành oanh hót mách Tân Xuân,
Đoái lại trăm hoa sắc sảo mừng.
Mỉm miệng đào thơ cười cợt gió,
Nghiêng mình liễu yếu đón chào trăng.
Non Thần hạc múa Nghê Thường khúc,
Nước trí thi ngâm điệu thoát trần.
Cảnh vật nương mình sang Giáp Ngũ,
Riêng ta hồn xác sạch lâng lâng.
HUYỀN QUANG TỬ
Họa vận bài thi của Đức
Thượng Sanh ngày 12-6-Đinh Dậu (dl 29-6-1957) :
Gót trần thoăn thoắt bước đường nghiêng,
Muốn đến bên kia phải cậy thuyền.
Lèo lái tay gìn tuôn nhược thủy,
Kệ kinh miệng niệm thấu Trùng Thiên.
Chí tâm dắt chúng qui đường chánh,
Lòng vẫn noi gương tạo đức hiền.
Đồng đạo nhắc nhau câu phổ độ,
Cầu cho bá tánh đắc Chơn truyền.
TIẾP PHÁP
Bảo Đạo
CA MINH CHƯƠNG
Trong số Thập nhị Thời
Quân, Ngài Ca Minh Chương lớn tuởi hơn hết, và đăng Tiên sớm hơn tất cả.
Ngài họ Ca, tên Chương,
sanh năm Canh Tuất (1850) tại ấp Thanh Ba, làng Mỹ Lộc Tây, tổng Phước Điền
Trung, quận Cần Giuộc, trong một gia đình thấm nhuần Nho giáo. (Ngài Ca minh
Chương cùng quê với Đức Quyền Giáo Tông).
Ngài được dân chúng làng Mỹ Lộc cử lên
làm chức Hương Bộ trong làng. Sau một thời gian Ngài chán nãn việc làng xã, nên
xin nghỉ và đi dạy học.
Hiền nội của Ngài Ca minh Chương là Bà
Phạm thị Kế (1860-1933), Ông Bà sanh được một người con gái đặt tên Ca thị Thế
(1884-1956).
Đầu năm 1926, ngày 3-4-1926 (âl 21-2-Bính
Dần), Đức Chí Tôn giáng tại Vĩnh Nguyên Tự ban cho Ngài 4 câu thi và thâu nhận
Ngài vào hàng môn đệ :
Thế thượng hề vô bá tuế nhân,
Thất tuần dĩ định vấn Thời Quân.
Ưu tư mạc vọng thường vô lộ,
Nghiệp trái tùy căn định số phần.
Hứa Ca minh Chương.
Khoảng tháng 5 năm Bính Dần (1926), Đức
Chí Tôn cho lập 6 đàn cơ để phổ độ nhơn sanh, trong đó có một đàn cơ lập tại
nhà Ông Cựu Hội Đồng Địa Hạt Nguyễn văn Lai ở Tân Kim quận Cần Giuộc, quan Phủ
Nguyễn ngọc Tương và Ngài Lê văn Lịch thay phiên chứng đàn, hai Ngài Ca minh
Chương và Phạm văn Tươi phò loan, để dân chúng đến hầu đàn, nhập môn cầu Đạo.
Ngày Khai Đạo tại chùa Gò Kén, 14-10-Bính
Dần (dl 18-11-1926), Đức Chí Tôn lập tịch Đạo Nữ phái, có phong cho Cô Ca thị
Thế vào chức Phó Giáo Sư, lấy Thiên ân là Hương Thế. Cũng trong đàn cơ nầy, Đức
Chí Tôn phong Bà Lâm ngọc Thanh là Nữ Giáo Sư, Thánh danh Hương Thanh. (TNHT.
II. 13) [ Trong bài Thánh Ngôn nầy, Đức Chí Tôn gọi Ca thị Thế là Ca thị]
Khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền HTĐ,
ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Ca minh Chương chức
Bảo Đạo, nên người ta thường gọi Ngài là Ca Bảo Đạo.
Đức Chí Tôn có khai khiếu cho Ngài Ca minh
Chương, để Ngài ngồi phò loan cùng Ngài Hiến Đạo Phạm văn Tươi, lập thành cặp
Phò loan truyền đạo trong buổi sơ khai.
Đức Chí Tôn giáng cơ cho Ngài Ca Bảo Đạo
bài thi để an ủi cho hoàn cảnh gia đình bi thảm của Ngài :
Thấy con gia đạo tợ tơ cuồn,
Chạnh đến lòng Thầy dạ ướm tuôn.
Ngặt nỗi vợ nhà đau dã dượi,
Khật khùng con trẻ nói luông tuồng.
Khiến nên mai đảnh khơi màu trắng,
Cho đến tòng lâm trổ sắc buồn.
Công quả đã đành công quả đủ,
Nay đem ba kiếp dập dồn luôn.
Qua bài Thánh Ngôn trên, Đức Chí Tôn cho
biết : Đức Chí Tôn cho Ngài Ca Bảo Đạo nhồi quả 3 kiếp nhập lại trả trong một
kiếp nầy : Ngài bị bịnh, vợ cũng bị bịnh, con bị điên khùng. Nay phải rán chịu
đựng để trả trong một kiếp nầy cho sạch nợ tiền khiên thì mới có thể trở về
thiêng liêng vị.
Ngài Ca Bảo Đạo chỉ hành quyền Bảo Đạo
được một thời gian ngắn sau ngày Thiên phong thì Ngài đăng Tiên, trở về thiêng
liêng vị, ngày 19-10-Đinh Mão (dl 13-11-1927), hưởng thọ 78 tuổi.
Lễ An táng của Ngài được tổ chức rất trọng
thể tại quê nhà của Ngài, và bửu tháp được xây cất tại đây. (Sau nầy Hội Thánh
mới lấy cốt, cải táng, đưa về nhập Bửu tháp tại phần đất dành riêng để xây tháp
cho Thập nhị Thời Quân, ở Ngã Ba Ao Hồ, Châu Thành Thánh địa, Tây Ninh)
Bài Thài tế lễ Ngài Ca Bảo Đạo :
Thủ phận rước hồn kíp phục hồi,
Gạn công tính quả định theo ngôi.
Sạch trong tâm tánh lo trau trước,
Cân tạo công bằng chẳng để lơi.
Bảo Đạo Chơn Quân.
Ngài Ca Bảo Đạo có giáng cơ cho bài thi :
Từ đây ra khỏi chốn nhơn gian,
Thủy tú sơn tinh thích chí nhàn.
Vì bởi lục căn lòng chẳng bợn,
Cho nên mới đặng nhập Tiên bang.
Qua bài thi nầy, chúng ta nhận thấy rõ,
Ngài Bảo Đạo Ca minh Chương đã đắc Tiên vị nơi cõi Thiêng
liêng.
Ngay sau khi Ngài Ca Bảo Đạo đăng Tiên,
Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho bài Thánh ngôn dạy như sau :
Thầy, Các con.
Đại lụy ! Cái thảm trạng chia lìa ngày nay
có thể làm cho các con vì đau đớn mà biết thương yêu nhau chăng ?
Thảm ! Từ thử có một mình Bảo Đạo là niên
cao kỷ trưởng hơn các con hết, mà buộc Thầy phải đem về thì tưởng các con đủ
biết mình là côi cút về đường Đời không ai đủ trí thức hoàn toàn mà bịnh vực
các con nữa, thì mới biết lập mình có đủ khôn ngoan tài tình đạo đức thì địa vị
các con mới trở nên cao đặng.
Thầy đôi phen phải buộc lòng lấy hình phạt
mà làm ra phần thưởng, các con đã hiểu Đạo đặng chút ít, Thầy tưởng chẳng cần
phải cạn lời, Thầy khuyên các con lấy "CHƯƠNG" làm dây thân ái mà
buộc nhau, mới đặng hòa nhã nơi HTĐ.
Thầy cho phép các con làm lễ táng cho nó
long trọng, hầu nêu gương cho hậu tấn.
TẮC ! Phải biểu CƯ xuống cho kịp đặng làm
lễ y như lời Thầy dạy đám táng của THỤ, nhớ đừng bỏ nữa nghe !
Thầy cũng nhắc lại với con rằng : Đủ 3 năm
phải thiêu hài cốt, lên tượng đặng đem nó vào Bát Quái Đài nghe !
Nơi mộ nó phải để quan tài khỏi mặt đất 1
tấc mà đắp xây tháp y như lời Thầy đã dặn. Trên mặt tháp để chữ vàng :
"BẢO ĐẠO CHƠN QUÂN" nhớ à !
(ĐS. II. 314)
GHI CHÚ :
CHƯƠNG : Ngài Bảo Đạo Ca
minh Chương.
TẮC : Đức Hộ Pháp Phạm
công Tắc.
CƯ : Đức Thượng Phẩm Cao
quỳnh Cư.
THỤ : Đức Ngọc Chưởng Pháp
Trần văn Thụ.
Sau đây là Bài Điếu Văn của Đức Quyền Giáo
Tông Lê văn Trung điếu Bảo Đạo Ca minh Chương qui vị ngày 19-10-Đinh Mão (1927)
:
Chư Hiền Hữu, Hiền Tỷ, Hiền muội,
Từ ngày Khai Đạo, lần nầy là lần thứ ba,
tôi vì phận sự nên phải dự vào việc tống chung 3 vị Đại Đức trong Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ : Năm Dần Ông Thượng Tương Thanh, Thượng Chưởng Pháp ly trần ngày
mồng 5 tháng 1 mãn phục; năm nay tháng 3 Đức Nho Tông Chưởng Pháp Trần Đại nhơn
liễu đạo. (Ngọc Chưởng Pháp Ngọc Thụ Thanh)
Ấy là 2 vị Đại Đức bên CTĐ, ngày nay Ông
Ca Minh Chương thọ Thiên ân Bảo Đạo HTĐ qui Thánh.
Theo thế tình, tôi cũng rơi lụy mà tỏ lòng
bi ai nơi mộ phần chưa ráo đây. Con người thây phàm xác thịt ai tránh khỏi sự
yêu thương, tình chồng vợ đầu ấp tay gối, khó giàu có nhau, cang thường nghĩa
trọng, cha con hui hút sớm trưa, công sanh thành dưỡng dục bằng non biển; người
đồng đạo tất con một CHA, tâm hiệp ý hòa, chia vui sớt nhọc, ngảnh lại mấy năm
tình ấy rồi xem cảnh hôm nay, người qui Thánh nương bóng Đức Cao Đài, kẻ còn
lao nhao lố nhố nơi bể khổ sông mê. Ôi ! Gặp cuộc phân ly như thế, không ngăn
giọt lụy cảnh sầu bi nầy làm cho ruột thắt gan bào.
Anh Bảo Đạo ôi ! Thương vì nhớ mấy lúc
cùng nhau hội hiệp, khi thi phú, lúc cờ bàn nơi Tòa Thánh. Nhớ đến tiếng cợt
tiếng cười, thương vì nghĩa, rồi đây xác phàm của anh phải ở đồng trống sương
gieo, thương vì thế, vì bình bồng, có ai giữ mồ trăm năm, lâu rồi cũng là mồ
hoang cỏ loáng, thương nỗi vợ yếu trông chồng nhìn cảnh sầu khuya với ngọn đèn
leo lét, thương cuộc con ngây, bặt vắng lời châu ngọc của cha hiền đức, nhìn
nơi đây đồng không mông quạnh, nhớ tới xác phàm anh ở chỗ như thế thì khó lấp
cơn sầu, mà nghĩ cho kỹ thì Chơn linh vẫn còn , vì anh hữu duyên nên gặp Đạo
Trời, rộng mở Tam Kỳ Phổ Độ.
Mấy năm dư, anh đã mượn nâu sồng lánh tục,
anh vui cùng sanh chúng. Nay hồn lìa khỏi xác, vẹt ngút mây xanh trông vào Cực
Lạc an nhàn, non chiều hạc gáy, động tối qui chầu, nghĩ đến đó lấp đặng mạch
sầu. Nên tôi mới tỏ ít câu sau đây nhắc công nghiệp của anh đối cùng xã hội.
Tôi xin nhắc một ít công lao của Bảo Đạo
trong đường Đời và trong Tam Kỳ Phổ Độ.
Nguyên anh là người nhao rún ở ấp Thanh Ba
làng Mỹ Lộc Tây, tổng Phước Điền Trung, huyện Phước Lộc. Hồi anh còn thiếu
niên, gặp nhiều bậc Nho văn Hiền triết, cư trú trong huyện Phước Lộc, như Ông
Đồ Chiểu, Ông Cống Quỳnh, vv...
Ông Ca minh Chương cũng là chí Thánh, lúc
làm Giáo huấn là lo Nhơn đạo, mà người cũng gần lo Thiên đạo. Anh trường chay
giữ giới thọ giáo đạo Minh Sư, có câu kinh : "Bá niên vạn kiếp nan tao
ngộ", trăm năm muôn kiếp khó mà gặp mối Đạo khai. Ông Ca minh Chương hữu
duyên hữu phần, nên gặp lúc Trời khai Long Hoa Tam Hội.
Tôi xin nhắc lại, năm Bính Dần, Hội Thượng
nguơn, tôi cùng 2 Em : Cư, Tắc, thọ Thánh chỉ đi phổ độ tại huyện Phước Lộc
nầy, khi ấy Ông Ca minh Chương đã có hầu đàn nghe lời châu ngọc của Đấng Đại Từ
Bi. Người hữu duyên mau hiểu lời Thánh giáo, nên người liền nhập môn cầu Đạo.
Qua hạ tuần tháng 2 năm đó, 3 Anh Em tôi thọ Thánh chỉ xuống Vĩnh Nguyên Tự ở
10 ngày học đạo, khi đó Ông Ca minh Chương cũng theo xuống Vĩnh Nguyên Tự.
Có một bữa, Đại Từ Phụ khai khiếu cho Ông
Ca minh Chương.
Hồi mới khai khiếu, 3 Anh Em tôi ngơ ngơ
ngáo ngáo không hiểu chi hết, tưởng là Đạo hữu Chương niên cao kỷ trưởng mắt mờ
nên Đại Từ Phụ khai khiếu cho sáng láng, ngõ hầu khi nào Đại Từ Phụ giáng cơ
viết Hán tự thì Đạo hữu Chương coi đọc cho dễ, té ra không phải vậy, mình bàn
theo trí phàm, thiệt rất lạc lầm.
Đức Chí Tôn khai khiếu cho Ông Chương là
để cho người làm phò loan đặng đi phổ độ. Không bao lâu sau, người cùng Đạo hữu
Phạm văn Tươi, là 2 Chức sắc HTĐ phò loan đặng phổ độ nhiều nơi. Lúc ấy, Ông
Bảo Đạo sức kém lực suy mà nhờ huyền diệu thiêng liêng bảo hộ nên người lập
được công quả.
Nhớ lúc Ông dầm mưa trải nắng, thiệp hải
đăng sơn, sức tuy yếu mà chí chẳng sờn, không kém gì Huỳnh Trung buổi trước,
nghĩ mấy hồi ma khảo, người vô tâm ngăn phá Đạo Trời mà anh cũng thìn một dạ,
thiệt chí hào kiệt, trí tri dễ núng, khiến lụy anh hùng đây. Trước nhờ Đấng Chí
Tôn dìu hồn anh đem về cõi thọ.
Ông Bảo Đạo, lúc gần qui vị, linh quang
anh thiệt tinh tấn, nhớ đến mấy lời châu ngọc anh than cùng tôi, thiệt ruột
dường dao cắt. Anh nhắc những ân anh thọ nọ Bác tôi, khi anh lo việc hương
đảng, anh khiêm từ đến đổi cung tụng, những việc phải của tôi đối đãi với anh
khi anh làm Giáo Thọ, ấy là nhơn nghĩa anh giữ vẹn, thiệt là anh chí Thánh đó.
Anh than cùng tôi, anh buồn lo vì nhiều kẻ tính riêng, người toan tự lập, còn
phận anh thì thủy chung như nhứt, cứ do Tòa Thánh.
Nay anh về Tiên cảnh, xin cũng chung lo
giúp Đạo đặng tâm hòa như một, xin anh chứng lòng thảo của mấy em.
Hôm nay làm lễ tiễn hành, đưa linh hồn anh
về Cực Lạc, an nhàn Bồng Lai.
Huy lụy
THƯỢNG ĐẦU SƯ Thượng Trung Nhựt
Sau đây là Bài Văn Tế của Đức Phạm Hộ Pháp
đọc tại Bửu tháp của Ngài Bảo Đạo Ca minh Chương (nơi sanh quán) :
Ôi ! Cấp Cô Độc vườn thiền quạnh quẽ,
Hội Thanh Vuơng chợ thế dìu hiu.
Dấu xe lìa nước Lỗ đóng rong rêu,
Bầu rượu lạt nhà Nam đầy bụi đất.
Cuộc đời giống huỳnh lương một giấc,
Mà kiếp phù sinh là phướn chiêu Tiên,
Cõi trần là khổ hải muôn phiền,
Song cơ thoát tục là thuyền bát Nhã.
Thất tuần thọ, đời cho rằng lạ,
Ngoài phong vân chưa phải sống bao lăm?
Tam bửu linh Đạo dạy không lầm,
Trong võ trụ, cầu nhàn âu mấy kẻ ?
Nhớ Linh xưa,
Tánh hạnh hiền lương, ngôn từ nhỏ nhẹ,
Trên lớn thương yêu, dưới bé kỉnh nhường,
Nét gia phong cửa Khổng để nêu gương,
Phương hóa chúng, học đường ra huấn giáo.
Công xã hội, công trình ngồi chép Đạo,
Kế hoằng dân, nghĩ đến lắm công lao.
Vẻ quan viên tuy chẳng áo cẩm bào,
Bề đạo đức đáng vào Tòa Bát Quái.
Hỡi ôi ! Vợ già yếu, gái thời ngây dại,
Nối lửa hương, ngó lại vắng người.
Theo linh xa một gái chơi vơi,
Phò giá triệu bóng trời không kẻ đậy.
Kìa gia tộc ruột rà còn đấy,
Sao Anh không ngồi dậy nói đôi điều ?
Để đau thương cho kẻ mến người yêu,
Nhìn niếp tử chín chiều ruột héo.
Từ đây phủi cuộc trần lạnh lẽo,
Phận phàm Tiên hai nẻo khác đường,
Để các em nuốt thảm ngậm thương,
Tình bậu bạn một trường đành cách biệt.
Hay Anh tránh tình đời xảo quyệt,
Nhắm mắt không muốn biết lòng phàm.
Hay Anh xem thế sự đã nhàm,
Đi cho rảnh tiếng tham chung đỉnh.
Hay không thắng đặng đời, Anh phải nhịn,
Về cõi Tiên toan tính phép chiêu hồn.
Hay sợ đời lắm sự dại khôn,
Về cõi thọ bảo tồn câu chánh lý.
Tuy đã
biết tử qui sanh ký,
Câu
biệt ly ai nghĩ cũng đau lòng,
Chữ
đồng môn tình lại mặn nồng,
Ai gan
sắt dạ đồng không đổ luyï.
Trước linh cữu, các em cùng chị,
Cúi đưa Anh an nghỉ giấc ngàn thu.
Nguyện hương hồn bền giữ căn tu,
Miền Cực Lạc ngao du nơi đất Thánh.
Chung rượu lạt, lòng thành xin kính,
Dâng đưa Anh đặng tỏ chút tình.
Hồn linh xin chứng,
Phục vi Thượng hưởng.
PHẠM HỘ PHÁP
Thuở sinh tiền, Ngài Ca
Bảo Đạo rất ít làm thơ.
Sau đây, chúng tôi sưu tập
được một bài thơ đường luật của Ngài, họa vận bài thơ "CHỮ BẦN " của
Ngài Thuần Đức Bảo Pháp Nguyễn trung Hậu, Ngài đề bên dưới bài thơ của Ngài là
: Giáo Chương, tức là thầy giáo Ca minh Chương.
Chi bận trần gian nẻo phú bần,
Dốc tìm đường cả đẩy đưa chân.
Kinh luân chí dễ an thân phận,
Hồ hải tình mong lánh nợ nần.
Vui lại ngổn ngang dòng nước trí,
Buồn về lẩn bẩn khóm non nhân.
Huỳnh Đình mấy cuốn hằng ngâm đọc,
Ngỏ họa thân sau khỏi bợn trần.
Giáo CHƯƠNG
Tại Minh Thiện Đàn ở Phú
Mỹ, Mỹ Tho, Ngài Bảo Đạo Ca minh Chương giáng đàn ngày 25-7-1929, cho 4 câu thi
khuyến tu, khoán thủ "Bảo Đạo Chơn Quân" :
BẢO người ở thế gắng công tu,
ĐẠO đức cao thâm vẹt ngút mù.
CHƠN chất thành tâm thì biện bạch,
QUÂN năng ưu Đạo lập công phu.
THĂNG
Tại Tòa Thánh, ngày 9-10-Kỷ
Sửu (dl 28-11-1949), Ngài Ca Bảo Đạo giáng cơ, xin chép ra sau đây :
BẢO ĐẠO CHƠN QUÂN
Mừng mấy em văn thần võ sĩ
của Chí Tôn,
Hèn lâu, Qua mới gặp đặng
mấy em, vì Qua mắc lo với Đức Cao Thượng Phẩm cho cơ Đạo đặng mau chóng để làm
gương cho mặt thế ngày nay, cho toàn cả nhơn sanh đặng biết nhiệm mầu huyền vi
của Đức Chí Tôn và cả chư Thần Thánh Tiên Phật. Nay đã đến thời kỳ năm Châu
đặng hiểu biết mối Đạo Trời. Vậy mấy em ráng lo sao cho tròn phận sự một người
con hiếu của Chí Tôn.
Từ tạo Thiên lập Địa tới
giờ, biết bao Thần Thánh Tiên Phật thọ lịnh Ngọc Hư xuống trần dạy Đạo, nhưng
vì vật dục sở tế, khí bẩm sở câu, làm cho cả con cái Chí Tôn đều bị nhiễm trần
mà không đặng hồi cựu vị.
Nay các em đã lãnh lịnh
Ngọc Hư mà nỡ để cho sanh linh chịu hồi chìm đắm hay sao ? Mấy em nên cầm cờ
Đạo đi khắp mọi nơi, rồi làm như quan Phương Bá nhà Châu để dựng nền nhơn nghĩa
cho đời rõ thấu.
Có vậy, nhơn sanh hiểu
đặng rồi mới nạp mình vào cửa Thánh. Bằng chẳng vậy thì nhơn sanh lầm đường lạc
nẻo rất nhiều, lại uổng một kiếp sanh đã gặp kỳ khai Đạo, đến lúc lâm chung,
hồn ra khỏi xác rồi mới biết tự hối ăn năn mà phải chịu luật Thiên điều trừng
trị. . . Biết bao phen mới trở về cùng Đức Chí Tôn đặng.
Thôi Qua
mừng chung mấy em. THĂNG.
Ngày
9-Giêng-Giáp Ngọ (dl 11-2-1954), tại Cung Đạo Tòa Thánh, Ngài Bảo Đạo Ca minh
Chương giáng cơ xin với Đức Phạm Hộ Pháp trao quyền Bảo Đạo tại thế cho Ông Hồ
tấn Khoa để HTĐ có đủ chư vị Thời Quân làm việc.
Bài giáng cơ nầy, chép ra như
sau :
CA MINH CHƯƠNG
Chào Hộ Pháp Thiên Tôn,
cùng chư vị Thời Quân HTĐ.
Cùng các bạn,
Thưa Đại huynh Hộ Pháp
Thiên Tôn,
Đệ xin giao nơi tay Ngài
ủy quyền Bảo Đạo đặng Ngài ban lại cho bạn Hồ tấn Khoa và lập Thánh lịnh.
Bổn Quân Bảo Đạo Ca minh
Chương tuân mạng lịnh của Chí Tôn và quyền Ngọc Hư phê chuẩn, giao chức tước
quyền hành Bảo Đạo cho Hồ tấn Khoa thi hành nơi thế về hữu vi nhi trị, còn phần
thiêng liêng về phần Bổn Quân nắm giữ.
Hồ Hiền hữu ! Bổn Quân lấy
làm hữu hạnh đặng hiểu Hiền hữu kế nghiệp thì chỉ mong một điều trọng hệ hơn hết
là trách vụ khó khăn cực nhọc ấy, Hiền hữu cáng đáng kham tất.
Vậy Hiền hữu nên nhớ rằng,
nghiệp thiêng liêng hằng tồn tại mãi, còn quán tục là thừa.
Hiền hữu nên nhớ mãi lời
ký thác của Bổn Quân hầu ngày sau vui gặp nhau nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Bổn Quân xin nhượng cơ cho
Cao Thượng Phẩm. THĂNG.
Tiếp điễn :
CAO THƯỢNG PHẨM
Chào Hộ Pháp và Các bạn.
Hộ Pháp làm ơn trấn thần Thiên phục và ban
Phép Giải Thể cho Hồ Bảo Đạo. Còn Khai Pháp lập Minh Thệ cho người, có Bần tăng
chứng giám. THĂNG .
Nơi Châu Thành Thánh địa
Tây Ninh, Hội Thánh có đặt tên một con đường lớn, chạy cặp theo hàng rào Nội Ô,
thẳng xuống Chợ Long Hoa, là đường Ca Bảo Đạo để kỷ niệm công đức của một Chức
sắc Đại Thiên Phong tiền bối.
Hiến Đạo
PHẠM VĂN TƯƠI
Ngài Phạm văn Tươi, sanh
ngày 17-1-1897 (âl 15-12-Bính Thân) tại quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn thời bấy
giờ.
Thuở thiếu thời, Ngài theo
Tây học, sau khi đậu bằng Tiểu Học Pháp, Ngài thi đậu vào trường Sư Phạm (École
Normale) thời đó, tốt nghiệp rồi được bổ về dạy học tại trường Tiểu học Cần
Giuộc, sau đó lên làm Hiệu Trưởng trường nầy. Về sau, Ngài được đổi về Sài gòn
dạy tại trường Pétrus Trương vĩnh Ký.
Hiền nội của Ngài là Bà
Nguyễn thị Quận, sanh năm 1899 tại làng Long Phụng, quận Cần Giuộc. Hai Ông Bà
có được 7 người con, chỉ có 1 con trai, thứ tư tên là Phạm duy Ninh, sanh năm
1925 và mất ngày 16-6-1990 tại Cần Giuộc.
Ngài Phạm văn Tươi nhập
môn vào Đạo Cao Đài năm 1926, và đắc phong vào phẩm Hiến Đạo HTĐ ngày 12-1-Đinh
Mão (dl 13-2-1927) khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền HTĐ.
Đầu năm 1926, Đức Chí Tôn
mở rộng cơ phổ độ tại Sài gòn, Chợ Lớn, Gia Định, nên cho thiết lập 6 Đàn lệ để
nhơn sanh nhập môn cầu Đạo, trong đó, Đàn ở Tân Kim (Cần Giuộc) thiết lập tại
nhà Ông Cựu Hội Đồng Địa Hạt Nguyễn văn Lai.
Tại đàn nầy, quan Phủ
Nguyễn ngọc Tương và Ngài Lê văn Lịch luân phiên chứng đàn, hai Ông Ca minh
Chương và Phạm văn Tươi làm phò loan; còn việc sắp đặt thờ cúng có quí Ông Lê
văn Tiếp, Nguyễn văn Nhơn, Phạm văn Tỷ và Võ văn Kỉnh.
Ngày 4-3-1933 (âl 9-2-Quí
Dậu), Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung và Đức Phạm Hộ Pháp ra Đạo Nghị Định
giao cho Ngài Thời Quân Hiến Đạo làm Quyền Chưởng Pháp CTĐ trong lúc CTĐ đang
khuyết Chức sắc ở phẩm vị nầy.
Cuối năm Bính Tuất (1946),
Đức Phạm Hộ Pháp thành lập Hội Thánh Phước Thiện, có bổ nhiệm Ngài Hiến Đạo
Phạm văn Tươi làm Thống Quản Cơ Quan Phước Thiện.
Qua đầu năm 1947, Tết Đinh
Hợi, Ngài trở về quê nhà ở Cần Giuộc, rồi vì thời cuộc nên Ngài bị kẹt luôn
không trở lên Tòa Thánh hành đạo được.
Năm Kỷ Dậu (1969), Ngài
Hiến Đạo Phạm văn Tươi được giao nhiệm vụ Phó Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện
Nan Nữ, theo Thánh Lịnh số 20/TLngày 3-7-Kỷ Dậu (dl15-8-1969) của Đức Thượng
Sanh Cao hoài Sang, Chưởng quản Hiệp Thiên Đài.
Năm Tân Hợi (1971), Ngài
Hiến Pháp Trương hữu Đức lên nắm Quyền Chưởng quản HTĐ, có ký Thánh Lịnh số
02/TL ngày 26-5-Tân Hợi (dl 18-6-1971), bổ nhiệm Ngài Hiến Đạo Phạm văn Tươi
vào các chức vụ sau đây :
- Thống quản Phước Thiện
Nam Nữ.
- Thống quản các cơ quan
Tang Tế Sự, Nhạc, Lễ, Giáo Nhi, Đồng Nhi, Ban Tổng Trạo và Ban Thuyền Bát Nhã.
- Thống Quản Trí Huệ Cung.
- Trưởng Ban Cứu Thương và
Ban Phòng Hỏa.
Ngài Hiến Đạo Phạm văn
Tươi lãnh nhiệm vụ hành đạo theo Thánh Lịnh kể trên từ ngày 26-5-Tân Hợi (1971)
cho đến ngày Liễu Đạo.
Ngài Hiến Đạo Phạm văn
Tươi đăng Tiên tại tư gia ở địa chỉ số 21 đường Lý Nam Đế, Quận 5, Sài gòn, vào
lúc 23 giờ đêm mùng 8-4 âl-Bính Thìn (dl 6-5-1976) (nhằm ngày vía Đức Phật
Thích Ca và Bà Nữ Đầu Sư Lâm Huơng Thanh), hưởng thọ 80 tuổi.
Ngài di chúc cho con cái
an táng Ngài tại quê nhà ở xã Qui Đức, quận Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Vì tình hình Đạo Sự năm
1976 có nhiều khó khăn, nên Hội Thánh cũng tuân theo di chúc của Ngài Hiến Đạo.
Hội Thánh cử Ngài Bảo Đạo Hồ tấn Khoa thay mặt Hội Thánh xuống tới gia đình của
Ngài Hiến Đạo, đọc bài Điếu văn tuyên dương công nghiệp của Ngài đối với Đạo và
chia buồn cùng tang quyến.
Sau đây xin chép nguyên
văn Bài Điếu văn nầy : (Tài liệu của Cải Trạng Lê minh Khuyên)
Điếu Văn của Bảo Đạo Hồ
tấn Khoa, Quyền Chưởng quản HTĐ đọc trước phần mộ Cố Hiến Đạo Chơn Quân Phạm
văn Tươi, Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện, ngày 11-4-Bính Thìn (dl 9-5-1976) :
Kính Chư Chức sắc, Chức
việc, Hiệp Thiên,
Cửu Trùng, Phước Thiện, và
chư Tín hữu Nam Nữ,
Kính Quí Đại diện Chánh
quyền Địa phương,
Kính Quí tang gia bửu
quyến,
Kính Thân bằng cố hữu,
Kính Quí vị,
Trước cảnh đau khổ của
toàn đạo trong thời gian có mấy tháng, phải chịu đến 3 cái đại tang trong hàng
Thập nhị Thời Quân, trước là 2 Anh lớn Hiến Pháp và Khai Đạo, và hiện nay lại
đến phiên Anh lớn Hiến Đạo Chơn Quân, thì không có người đạo nào khỏi ngậm ngùi
mến tiếc.
Lẽ ra Hội Thánh phải rước
Thánh hài của Anh lớn Hiến Đạo về Tòa Thánh hành lễ theo hàng Thập nhị Thời
Quân để tri ân một vị Chức sắc Đại Thiên phong có công lớn góp sức xây dựng nền
Đại Đạo buổi sơ khai.
Nhưng với đức độ khiêm tốn
và vì không muốn làm cực khổ và tốn hao cho Hội Thánh trong lúc Đạo đang gặp
cảnh khó khăn. Anh đã di chúc xin để cho gia đình hành lễ đơn giản nơi quê nhà,
nên Hội Thánh không thể làm trái ý muốn cuối cùng của người quá cố.
Vì vậy mà hôm nay, tôi xin
thay mặt toàn Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện Nam Nữ cùng với một
phái đoàn đại diện Hội Thánh tiễn đưa Anh lớn đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Đứng trước Thánh hài của
Anh lớn, tôi xin nghiêng mình kính lễ, trước để tỏ lòng tri ân của toàn đạo đối
với một bậc tiền bối đã dày công gầy dựng nền Đại Đạo và cũng để lời chơn thành
phân ưu cùng tang quyến.
Nhớ buổi xưa, với tài năng
học lực của Anh lớn lúc thi đỗ ra trường, Anh có thể như bao nhiêu bạn khác,
chọn một ngành nào đó có quyền thế hay lợi lộc nhiều, nhưng Anh lại chọn vào Ty
Giáo Huấn là một ngành mà buổi đó tâm lý quần chúng thường coi rẻ và gán cho
danh từ là nghề gõ đầu trẻ. Nhưng với một tinh thần cao thượng, một đức độ khó
bì, một tấm lòng vị tha yêu ái đoàn hậu tấn, nên Anh đem hết kiếp sanh để đào
tạo cho xứ sở đất nước những thanh niên ưu tú, trong số đó có nhiều vị đã từng
tranh đấu giải ách nộ lệ cho dân tộc, xây dựng một nước VN độc lập, dân chủ ,
hòa bình và thống nhứt, và hiện nay đang lo kiến thiết tổ quốc được vinh quang
và giàu mạnh.
Đang lúc Anh đang âm thầm
làm một sứ mạng cao cả mà buổi ấy không ai nghĩ đến, thì vào năm 1926-1927, Đức
Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát đến
mở đạo ở VN thì do đại căn mà Anh được Đức Chí Tôn chọn đi phò loan chung với
Cụ Ca minh Chương, sau đắc phong Bảo Đạo và với Anh lớn Phạm tấn Đãi, sau đắc
phong Khai Đạo để phổ độ chúng sanh.
Nhận thấy huyền diệu
thiêng liêng và đặc biệt tánh cách dân tộc và tinh thần hy sinh phục vụ nhơn
sanh của nền Đại Đạo rất hạp với tánh đức yêu đời, yêu nòi giống của Anh, nên
Anh cùng với các bậc tiền bối khác, không nại gian lao khổ cực, ngày đi dạy
học, tối lại thức sáng đêm đi khắp nơi phò loan phổ độ nhơn sanh. Chỗ xa thì đi
xe, còn chỗ gần thì đi xe đạp hoặc đi bộ, hễ hết giờ làm việc thì lo ăn cơm gấp
rút, rồi lo sửa sang nang thác lên đường cho đến sáng ngày hôm sau mới về nhà,
tắm rửa xong, lại đến trường dạy học, như vậy năm nầy tháng nọ không bao giờ
sờn lòng nãn chí.
Công đức đó không sao tả
xiết và từ nay cho đến ngày sau, những ai núp bóng mát cửa từ bi của nền Đại
Đạo, không bao giờ quên công to đó đặng.
Đến khi tuổi quá 70, lẽ ra
Anh được an nghỉ tuổi già, nhưng Anh lại về Tòa Thánh góp phần gánh vác nghiệp
Đạo với nhiệm vụ Thống Quản Phước Thiện và cơ quan Tang tế Sự, đồng thời điều
hành 3 Cung : Trí Huệ, Trí Giác, và Vạn Pháp.
Những tuởng còn góp sức
già đỡ nâng nghiệp Đạo trong cơn thử thách nầy, nào ngờ cơ thể suy kiệt lần đưa
đến chứng bịnh nan y, mặc dầu chạy chữa đủ phương, Anh phải theo 2 Anh Hiến
Pháp và Khai Đạo, về chầu Đức Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, bỏ lại đàn em bơ vơ như
gà mất mẹ, lưu lại biết bao mến tiếc của toàn đạo và nhớ thương của gia đình.
Vẫn biết theo thế thường,
có chi đau buồn hơn cảnh tử biệt sinh ly, nhưng đối với Anh thì đã làm tròn
Thiên chức, công viên quả mãn, đắc vị thiêng liêng, thì chúng ta cũng tự an ủi
rằng được một người Anh xứng đáng.
Một lần nữa, tôi xin thành
thật chia buồn cùng tang quyến và thành tâm cầu nguyện xin Đức Chí Tôn và các
Đấng ban ơn lành cho Anh đặng cao thăng Thiên vị, thường giáng Chơn linh hộ trì
đàn em hành đạo cho vuông tròn.
Xin Anh hiển linh chứng
chiếu tấm lòng thành của tất cả đàn em đang ngưỡng mộ.
Bảo Đạo Hồ tấn Khoa
Ngài Hiến Đạo Phạm văn
Tươi có lưu lại tập sách mỏng tựa đề "TIẾNG GỌI" do Ông Giáo Hữu
Thượng Tư Thanh, Tổng Quản Văn phòng Hiến Đạo, cùng các nhân viên trực thuộc
tạo thành, bằng cách gom góp các bài giảng đạo, các bài diễn văn và huấn từ của
Ngài trong suốt 3 năm từ 1970 đến 1972.
Ngài Hiến Đạo Phạm văn
Tươi có bút hiệu là Lạc Nhân, nhưng Ngài rất ít làm thơ. Chúng tôi sưu tập được
một bài thơ đường luật của Ngài, họa vận bài thơ Xuân Tân Hợi của Hội Thánh CTĐ
:
Đất nước Xuân về mấy độ
qua,
Toàn dân trông ngóng cảnh bình hòa.
Ruộng dâu hóa bể đầy kinh ngạc,
Dòng nước chưa thanh chảy bến hà.
Thương kẻ tuổi xanh còn nặng nợ,
Xót vì nhiệm vụ phải ly gia.
Ước mong đến buổi hòa ngưng chiến,
Cho vợ gặp chồng, con gặp cha.
HIẾN ĐẠO
(Xuân Tân Hợi
1971)
Trong dịp Lễ Khánh Thành
Thánh Thất Cần Giuộc ngày 21-2-Nhâm Tý (dl 4-4-1972), Ngài Hiến Đạo Phạm văn
Tươi, thay mặt Hội Thánh HTĐ đến dự lễ, có đọc một bài diễn văn, trong đó nhắc
lại lúc Đạo Cao Đài mới mở tại Cần Giuộc, trích ra sau đây :
" Hồi ức lại hơn 45
năm về trước, lúc Đạo mới phôi thai, cố Tri Phủ Nguyễn ngọc Tương, lúc bấy giờ
làm Quận Trưởng Quận Cần Giuộc, là người có trọng trách truyền đạo nơi đây.
Ông Phạm tấn Đãi, Ông
Trương thế Ngộ và tôi được Đức Chí Tôn thâu nhận làm môn đệ, để hiệp cùng Ông
Nguyễn ngọc Tương phổ thông Chơn đạo.
Kế đến Ông Ca minh Chương,
cựu giáo chức, cũng được đứng vào hàng ngũ chúng tôi.
Chính nơi đây, Đạo được
khai mở trước nhứt và thâu nhận một số tín đồ đông nhứt.
Chúng tôi là những trong
giáo giới, ban ngày thì đi dạy học, ban đêm mới rảnh việc, cùng đi với Ông
Nguyễn ngọc Tương khai đàn thượng tượng, thâu nhận tín đồ. Suốt một năm trường,
đêm nào cũng như đêm nấy, chẳng quản gió sương, bùn lầy nước lội, gai gốc cũng
qua, chúng tôi từ xã ấp nầy sang xã ấp kia, một niền tin tưởng mãnh liệt, nghe
theo tiếng gọi thiêng liêng, khuyên nhủ đồng bào theo đường Chánh giáo, mở rộng
Đạo Trời.
Âu cũng là cơ duyên hiếm
có giúp chúng tôi lập được công quả và sớm lập vị mình.
Ngày qua tháng lại, Đạo
dần dần mở rộng như vết dầu loang, từ quận Cần Giuộc đến Rạch Kiến, Rạch Đào,
Rạch Núi, Gò Đen, Cần Đước trong tỉnh Chợ Lớn, rồi tràn qua tỉnh Gò Công, Mỹ
Tho, Bến Tre.
Lẽ cố nhiên chánh quyền
Pháp không muốn Đạo được bành trướng mau chóng với một số tín đồ quá đông, bèn
đặt kế hoạch bài trừ. Một mặt phân tán mấy người có nhiệm vụ trọng yếu trong
Đạo, một mặt khủng bố tín đồ, làm khó dễ trăm bề, hăm he dọa nạt đến điều.
Chúng tôi vốn là công
chức, cùng chung số phận với Ông Quận trưởng Nguyễn ngọc Tương, bị đổi đi xa,
một người một nơi, cách trở gia đình.
Âu cũng là cái may cho
Đạo, hột giống Đạo được đem rải trên đất mới. Thế là Đạo được mở rộng châu vi
hoạt động. Thiệt là "tình cờ chẳng hẹn mà nên".
Rồi bắt đầu từ đó, Đạo
càng ngày càng tiến mãi, mặc dầu gặp nhiều khó khăn trở ngại cũng vượt qua khỏi,
là do tinh thần nhẫn nại và lòng hy sinh vô bờ bến của phần nhiều chư Đạo hữu.
Trải bao nhiêu năm biến
chuyển thăng trầm, Đạo được tô điểm mang sắc thái ngày hôm nay, ấy cũng nhờ các
vị tiền bối đã dày công xây dựng nghiệp Đạo.
Nói đến tiền bối, ở đây
chúng tôi không khỏi bồi hồi nhắc đến Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt,
nơi chôn nhao cắt rún của Đức Ngài cách đây cũng không xa. Đức Ngài buổi sanh
tiền, sau khi được Đức Chí Tôn nhận làm môn đệ, một lòng tin tưởng nơi Đấng Đại
Từ Phụ, tận tụy hành Đạo, đi khắp đó đây gieo hột giống lành, chịu trăm đắng
ngàn cay, nhiều điều hổ nhục, mang tiếng thị phi, người đời mai mỉa. Chúng tôi
còn nhớ hình bóng Đức Ngài, mặc dầu tuổi cao, cũng có lúc cùng chúng tôi, cùng
lặn lội bùn lầy, cùng vày đạp chông gai, để đến tận một nơi xa trong làng mạc,
thiết lễ lập đàn cho thiện nam tín nữ cầu Đạo. Thiệt là một bực Đại Đức có công
to trong nền Đạo.
Còn 2 vị nữa, đối với
chúng tôi, trước là bạn thâm giao, sau là người đồng đạo : Cố Quận Trưởng
Nguyễn ngọc Tương thọ Thiên ân Quyền Thượng Đầu Sư, là một trong những người
rường cột của Đạo lúc ban sơ; thứ đến là Cố Giáo viên Ca minh Chương, tức Bảo
Đạo HTĐ, là người có công buổi đầu trong Đạo. Nay gặp dịp may, chúng tôi trở về
cảnh cũ, chạnh nhớ đến người xưa, tình đồng đạo, nghĩa kim bằng, vắng bóng cố
nhân, lòng nào mà chẳng não lòng."
Khai Đạo
PHẠM TẤN ĐÃI
(1901-1976)
Tiểu sử của Ngài Khai Đạo
Phạm tấn Đãi được Ngài Bảo Đạo Hồ tấn Khoa viết rất rõ trong Bản Tuyên Dương
Công Nghiệp, xin chép nguyên văn ra sau đây :
BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG
NGHIỆP
Hiền Huynh KHAI ĐẠO, Quyền
Chưởng quản HTĐ,
Tòa Thánh Tây Ninh
Kính Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và
Phước Thiện.
Kính Chư Chức sắc Thiên phong, Chức việc
và toàn Đạo Nam Nữ,
Kính Quí vị,
Hiền huynh KHAI ĐẠO CHƠN QUÂN PHẠM TẤN
ĐÃI, Quyền Chưởng quản HTĐ đã qui Thiên lúc 21 giờ 10 ngày 19-2-Bính Thìn (dl
19-3-1976), hưởng thọ 76 tuổi.
Tin đột ngột nầy làm sửng
sờ toàn thể Hội Thánh và bổn đạo vì buổi sáng cùng ngày, Người vẫn còn ngồi
trong thành phần Chủ Tọa Đoàn phiên họp Hội Thánh Lưỡng Đài tại Giáo Tông
Đường, và sau buổi họp, Người chỉ mệt xoàng, rồi đến chiều là trút hơi thở cuối
cùng, nhẹ tách ra đi về chầu Ngọc Hư phục lịnh.
Nhơn danh Hội Thánh HTĐ,
tôi xin trân trọng tuyên dương công nghiệp của Hiền huynh Thời Quân Khai Đạo về
hai mặt Đạo lẫn Đời như sau :
Hiền huynh Phạn tấn Đãi,
tộc danh là Thuộc, và Đạo hiệu là Trí Thanh, sanh ngày 28-7-Tân Sửu (dl
10-9-1901) tại làng Mỹ Lệ, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn.
Thân phụ của Người là Ông
Phạm thành Thiệt, được Thiên phong Giáo Hữu, sau khi nhập môn cầu Đạo, thăng
lần đến phẩm Phối Sư Phái Thượng.
Thân mẫu là Bà Nguyễn thị
Ruộng, cũng được thọ Thiên ân Giáo Hữu, quê quán ở Chợ Trạm làng Mỹ Lệ.
Thuở thiếu thời, Người đã
theo học các trường : Chợ Trạm, Trường Cần Giuộc, Trường Richaud, Trường Xã Tây
Chợ Lớn, Trường Trung học Chasseloup Laubat, và Trường Trung học Nguyễn Xích
Hồng.
Vì lẽ nội tổ không khứng
cho con cháu mình làm việc cho Chánh phủ Pháp, nên sau khi ra trường, Người chỉ
giúp việc cho người chú bà con có nhà máy xay lúa ở Bình Đông Chợ Lớn.
Năm 1920, ông chú qua đời,
Người nghỉ việc và xin phép nội tổ đi dạy học. Được chấp thuận, Người mới xin
vào ngạch Giáo viên, được bổ dạy ở trường Phú Lâm (Chợ Lớn).
Năm 1921, đổi về dạy tại
Cần Giuộc.
Năm 1923, sang dạy ở Rạch
Kiến. Lúc ấy nhằm năm bắt thăm đi lính, Người bị trúng thăm số 1 . Để muốn khỏi
đi lính, Người phải làm tờ giao kèo tình nguyện hành nghề Giáo viên trong 10
năm mới đặng miễn dịch.
Thời gian dạy học, vì có
tánh cương trực, không bợ đỡ, nên bị nhà cầm quyền đổi đi nhiều chỗ, không ở
nơi nào dạy học được trên 3 năm, và rốt cuộc bị đưa về dạy ở vùng xa xôi Đức
Hòa.
Trong lúc ấy, Người thường
có đi dự nhiều cuộc hội họp diễn thuyết của các đoàn thể xã hội, đặng quen biết
với các Ông Phạm văn Tươi Đốc học, Ông Nguyễn ngọc Tương Chủ Quận Cần Giuộc, vv
. . .
Vào ngày thứ bảy,
19-12-1925 (âl 4-11-Ất Sửu), Người được Ông Phủ Tương mời đến dự Lễ Khai Đàn,
có rất đông viên chức đến dự. Đêm ấy, Đức Chí Tôn giáng dạy cho mỗi người một
bài thi 4 câu, và riêng Người thì Đức Chí Tôn cho 4 câu thi như sau :
THI :
Dằn
lòng len lỏi hãy qui y,
Nay
gặp Ta đây đã đến kỳ.
Oanh
liệt hồng trần e phải khổ,
Tầm
đường đạo đức tránh đường nguy.
Và đúng một tuần sau, thứ bảy, ngày 26-12-1925
(âl 11-11-Ất Sửu), các Ông ấy đến tư gia của Người để Khai đàn thượng tượng cầu các
Đấng.
Đêm ấy, Đức Chí Tôn giáng
dạy Đạo và thâu nhận nhập môn, có cho Người một bài thi :
THI :
Nên gầy đạo đức đặng hồi nguyên,
Un đúc trẻ thơ sửa tánh hiền.
Nương bút Thiên cơ lo độ chúng,
Dìu người gắng sức đến rừng thiền.
Và ngày ấy là ngày Người nhập môn cầu Đạo.
Sau ngày nhập môn, Người
cùng Ông Đốc học Tươi tập cầm cơ hằng tháng mới viết ra chữ và thi phú.
Ngày Đức Chí Tôn lập Pháp
Chánh Truyền HTĐ, 12-Giêng-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Phạm
tấn Đãi chức Khai Đạo HTĐ.
Từ ngày ấy, Người cùng Ông
Đốc học Phạm văn Tươi đắc phong Hiến Đạo HTĐ, cầm cơ cho các Đấng thâu nhận
nhơn sanh nhập môn vào Đạo, trong những ngày nghỉ làm việc ở nhà trường : Thứ
năm, Chúa nhựt và dịp bãi trường, có sự chứng đàn của Ông Thượng Chánh Phối Sư
Thượng Tương Thanh, Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, cùng nhiều Chức sắc khác.
Ngày 11-2-1933 (âl
17-Giêng-Quí Dậu), Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp đồng ký tên ra Thông
Tri thăng phẩm Quyền Đầu Sư cho 3 vị Chánh Phối Sư : Thái Thơ Thanh, Thượng
Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh.
Như vậy 3 phẩm Chánh Phối
Sư bị khuyết, nên tạm cử 3 vị Thời Quân HTĐ vào hàng Khai qua CTĐ nắm quyền 3
Chánh Phối Sư (viết tắt CPS) :
" Việc giao quyền
hành Chánh Phối Sư cho 3 Chức sắc HTĐ là việc mà Hội Thánh mới định hôm kỳ nhóm
ngày mùng 9 tháng Giêng, nhằm 4-3-1933. Ba Chức sắc ấy là :
- Khai Thế Thái văn Thâu,
lãnh phận sự Thượng CPS.
- Khai Pháp Trần duy
Nghĩa, lãnh phận sự Ngọc CPS.
- Khai Đạo Phạm tấn Đãi,
lãnh phận sự Thái CPS."
Thời gian ấy, nhà cầm
quyền Pháp làm khó khăn đối với Đạo, nhưng Người vẫn vừa dạy học theo khế ước ,
vừa lặn lội về Tòa Thánh hành đạo trong những ngày nghỉ lễ, cho đến năm 1936.
Ngày 5-4-1945, sau khi
Pháp bị Nhựt bổn đạo chánh, Người về ở luôn Tòa Thánh hành đạo, qui tụ chư Chức
sắc lo sửa chữa các dinh thự bị hư sập.
Cuối năm 1945, Nhựt bổn
đầu hàng Đồng Minh, Pháp trở lại VN, đem quâm chiếm Tây Ninh. Ngài Khai Đạo
hiệp cùng Ông Phối Sư Thái Khý Thanh, người gốc Đường nhơn, lo bảo thủ Tòa
Thánh khỏi sự chiếm đóng của Pháp.
Tháng 8 năm Bính Tuất
(1946), Đức Phạm Hộ Pháp hồi loan. Đức Ngài liền ra Thánh lịnh số 3/TL ngày
17-9-1946 (âl 22-8-Bính Tuất), giao trách vụ Quyền Ngọc Chánh Phối Sư cho Người
và kiêm luôn Thống Quản Cơ Quan PT.
- Thánh lịnh số 10/TL ngày
4-10-1946 (âl 10-9-Bính Tuất) giao nhiệm vụ giao tiếp với nhà cầm quyền Pháp.
- Năm 1949, Thánh lịnh số
17/TL ngày 11-11-1949 (âl 21-9-Kỷ Sửu), giao trả quyền Ngọc Chánh Phối Sư lại
cho CTĐ và trở về HTĐ lãnh nhiệm vụ Giám Đốc Hạnh Đường, hiệp cùng 4 vị Thời
Quân khác lo phần đào luyện Chức sắc.
- Năm 1952, Thánh Lịnh số
37/TL ngày 11-4-Nhâm Thìn (dl 4-5-1952), một lần nữa qua CTĐ lãnh trách vụ
Quyền Ngọc Chánh Phối Sư.
- Năm 1955, Thánh lịnh số
54/TL ngày 27-3-1955 (âl 4-3-Ất Mùi), giao quyền Tam Đầu Chế HTĐ và cuối năm
1955, sau khi xin nghỉ dưỡng bịnh 6 tháng, trở lại hành sự. Người giao trả
quyền Ngọc Chánh Phối Sư lại cho CTĐ.
- Đầu năm 1956, Đức Phạm
Hộ Pháp rời Tòa Thánh đi Kim Biên, và tháng 3 năm 1957, Hội Thánh CTĐ và Phước
Thiện hiệp nhau làm Tờ yêu cầu Đại huynh Thượng Sanh và chư vị Thời Quân về Tòa
Thánh cầm giềng mối Đạo.
- Năm 1957, Đạo lịnh số
1/ĐL ngày 19-4-Đinh Dậu (dl 18-5-1957), phân công mỗi vị Thời Quân lãnh phận sự
HTĐ cùng chư vị Thượng Thống Cửu Viện trao đổi ý kiến giúp hay cho Hội Thánh
CTĐ.
- Đạo lịnh số 4/ĐL ngày
6-5-Đinh Dậu (dl 3-6-1957), tạm cầm quyền Ngọc Chánh Phối Sư, thay thế Ông Ngọc
Non Thanh. Đây là lần thứ 3 mà Người qua cầm quyền Ngọc Chánh Phối Sư bên CTĐ.
- Đạo lịnh số 30/ĐL ngày
27-6-Đinh Dậu (dl 24-7-1957), Hội Thánh HTĐ và CTĐ lập Tờ Ủy quyền cho Ngài
Khai Đạo thay mặt Hội Thánh đứng bộ những bất động sản của Đạo mua.
- Vi Bằng số 28/VB ngày
21-8-1957 (âl 26-7-Đinh Dậu), đề cử Người làm Trưởng Phái Đoàn viếng các địa phương
Nam và Trung Tông Đạo.
- Năm 1958, Đạo lịnh số
29/ĐL ngày 9-6-Mậu Tuất (dl 25-7-1958), giao cho Ngài Khai Đạo điều khiển Cơ
Quan Phước Thiện.
- Đạo lịnh số 30/ĐL ngày
9-6-Mậu Tuất (dl 25-7-1958), giao quyền Đại diện HTĐ giao thiệp với Chánh phủ.
- Năm 1961, Đạo lịnh số
1/ĐL ngày 22-10-Tân Sửu (dl 29-11-1961), giao quyền Thống quản 4 vụ : Hộ,
Lương, Nông (Kinh tế và Kỹ Nghệ) và Chẩn Tế vụ.
- Năm 1962, Đạo lịnh số
29/ĐL ngày 12-8-Nhâm Dần (dl 10-9-1962), giao cho Ngài Khai Đạo chăm lo về mặt
Đạo với quyền hành như sau :
* Ngoài phận sự điều khiển
CQPT, Ông lãnh nhiệm vụ chăm lo về Tịnh Thất và Thánh Thất.
* Người có quyền biện hộ
cho những Chức sắc nào lỡ lầm phạm tội bị đưa ra Tòa Tam Giáo. Ông cũng có phận
sự khuyên lơn, ngăn ngừa những người Đạo vô tình hay cố ý sa ngã vi phạm pháp
luật Đạo.
* Nếu có sự lộn xộn ở địa
phương nào làm tổn thương đến nền Đạo thì Ông sẽ hiệp với Thượng Chánh Phối Sư
thân hành đến đó trấn an nhơn tâm.
* Được thay mặt cho HTĐ
kiểm soát các cơ quan Giáo Huấn Chức sắc CTĐ và PT, vì Giáo Huấn là thuộc quyền
của HTĐ. (Đạo Luật Mậu Dần trang 18, Điều 7 : Về Hạnh đường).
- Đạo lịnh số 30/ĐL ngày
12-8-Nhâm Dần (dl 10-9-1962), giao trọn quyền điều khiển CQPT kiêm luôn các Cơ
quan Lễ, Nhạc, Đồng Nhi và Ban Thuyền Bát Nhã.
- Năm 1963, Đạo lịnh số
11/ĐL, ngày 18-3-Quí Mão (dl 11-4-1963), giao nhiệm vụ Kiểm soát Chương trình
và Bài giảng nơi Hạnh đường.
- Năm 1965, Đạo lịnh số
42/ĐL ngày 12-9-Ất Tỵ (dl 6-10-1965), làm Trưởng ban Kiểm soát Hỗn hợp tài sản
Đạo.
- Năm 1967, Thánh Lịnh số
14/TL, ngày 19-Giêng-Đinh Mùi (dl 27-2-1967), giao nhiệm vụ Thống Quản Hội
Thánh PT Nam Nữ, kiêm nhiệm Trưởng ban Kiểm soát Hỗn hợp tài sản của Đạo.
- Thánh Lịnh số 3/TL ngày
28-11-Đinh Mùi (dl 29-12-1967), làm Giám Đốc Cơ quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo
Lý Đại Đạo.
- Năm 1969, Thánh Lịnh số
13/TL ngày 28-11-Mậu Thân (dl 16-1-1969), Chủ Tọa Tòa HTĐ thay thế cho vị Thời
Quân Bảo Thế.
- Năm 1971, Thánh Lịnh số
6/TL ngày 6-12-Canh Tuất (dl 2-1-1971), làm Trưởng Ban Nghiên cứu kế hoạch xây
cất Đạo Đức Đại Học Đường.
- Thánh Lịnh số 3/TL ngày
26-5-Tân Hợi (dl 18-6-1971) :
. Chưởng quản Bộ Pháp
Chánh.
. Thống quản Vạn Pháp
Cung.
. Trưởng ban Đạo Sử và Thư
Viện.
- Thánh Lịnh số 19/TL ngày
10-10-Tân Hợi (dl 27-11-1971), Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Viện Đại Học Cao Đài.
- Năm 1972, Thánh Lịnh số
33/TL ngày 4-12-Tân Hợi (dl 19-1-1972), Quyền Viện Trưởng Viện Đại Học Cao Đài.
- Năm 1973, Thánh Lịnh số
61/TL, ngày 19-6-Quí Sửu (dl 18-7-1973), làm Chủ Tọa Hội Đồng Kiểm Án HTĐ.
- Đầu năm 1976, sau khi
Đại huynh Hiến Pháp Chưởng quản HTĐ đăng Tiên, trong phiên họp khoáng đại Hội
Thánh HTĐ ngày 21-12-Ất Mão (dl 21-1-1976), toàn thể Chức sắc HTĐ đồng ý với
nhị vị Thời Quân Hiến Đạo và Bảo Đạo, giao nhiệm vụ Quyền Chưởng quản HTĐ cho
Thời Quân Khai Đạo; và do Thánh giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 23-12-Ất Mão
(dl 23-1-1976), Đức Phạm Hộ Pháp đã chấp nhận cho Người lãnh trọng trách nầy.
Lễ Tấn phong Quyền Chưởng quản HTĐ cho Người đã cử hành long trọng tại Đền
Thánh ngày 19-1-Bính Thìn (dl 18-2-1976), và chỉ trong thời gian ngắn ngủi,
tròn một tháng hành quyền Chưởng quản, Người đã trở lại ngôi Thiên, để cả cơ đồ
HTĐ lại cho bao người đang bỡ ngỡ.
Kính thưa Quí vị,
Từ ngày Khai Đạo và suốt
hơn 50 năm liên tục hành đạo, Người đã có mặt hầu hết trong mọi biến chuyển
thăng trầm của cơ Đạo. Với rất nhiều nhiệm vụ khá nặng nhọc kể trên, Người đã
gồng gánh và cố gắng làm tròn sứ mạng đã được phú giao, và những thành quả tốt
đẹp như Viện Đại Học Cao Đài, Cơ quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý, Ban Đạo Sử,
đã nói lên thực tiễn việc làm của Người.
Nhìn sự việc, chúng ta vô
cùng mến tiếc và nguyện dốc sức tiếp tục chung trí hiệp tâm lo xây dựng và bảo
tồn nghiệp Đạo đến ngày thành công rực rỡ, để khỏi phụ lòng các bậc tiền nhân
đã khổ công xây dựng.
Trước khi dứt lời, tôi xin
thành khẩn cầu nguyện Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng ban hồng ân cho Hiền
huynh Khai Đạo được cao thăng Thiên vị và rất mong Hiền huynh niệm tình đồng
đạo, vùa trợ chúng tôi trên bước đường hành đạo.
Tòa Thánh, ngày 22
tháng 2 năm Bính Thìn.
(dl 22-3-1976)
TM. Hội Thánh
BẢO ĐẠO Hồ tấn
Khoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét