Danh Nhân Đại Đạo - 6 / 6 (Đức Nguyên)


Ngài Khai Đạo Phạm tấn Đãi đăng Tiên lúc 9 giờ 10 phút tối ngày 19-2-Bính Thìn (dl 19-3-1976), thì ngay chiều hôm sau, ngày 20-2-Bính Thìn, Ngài giáng cơ tại Giáo Tông Đường, cho bài Thánh giáo sau đây :

THÁNH GIÁO của NGÀI KHAI ĐẠO
giáng tại Giáo Tông Đường ngày 20-2-Bính Thìn.

KHAI ĐẠO
Xin chào Bảo Đạo, Đầu Sư, chư Chức sắc Nam Nữ có mặt nơi đây.
Bần tăng được lịnh về gấp, các bạn chớ thắc mắc về sự qui Tiên gấp của Bần tăng, bởi có lịnh Ngọc Hư. Một điều đáng tiếc là Bần tăng lãnh lịnh của Ngự Mã Quân Hộ Pháp Chưởng quản HTĐ mà chưa thực hành gì cả.
Như vậy, Hiền huynh Bảo Đạo và Hiến Đạo tiếp tục chung tâm hiệp trí lãnh đạo HTĐ y theo lời dạy của Đức Hộ Pháp. Nếu Hiến Đạo vì bịnh không thể thường trực tại Tòa Thánh thì Hiền huynh Bảo Đạo nhận Quyền Chưởng quản HTĐ thế cho Bần tăng và cứ thực hành y theo lời chỉ giáo của Đức Ngài tại Cung Đạo.
Đức Hộ Pháp căn dặn chư Thời Quân còn tại thế cố bảo thủ Chơn truyền và Đạo pháp vì chư Chức sắc Lưỡng Đài hành đạo ngoài lời dạy của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng từ ngày Khai Đạo, vi phạm Thiên điều, bị Thần Thánh lánh xa không ủng hộ, bằng cớ cho Kim Quan Sứ ra lịnh Quỉ Vương cám dỗ và thâu làm môn đệ là khác. Chừng ấy công nghiệp khổ hạnh của chư Chức sắc đều bị phế bỏ hết.
Vậy Bảo Đạo Hiền huynh cần mạnh dạng nhắc nhở Chức sắc HTĐ cố gìn giữ luật pháp, đó là đặc ân đối với Chức sắc Nam Nữ chớ có gì e ngại !
Đức Hộ Pháp dặn Bảo Đạo và Hiến Đạo cố dìu dẫn Hội Thánh PT và bắt buộc họ phải thi hành Phước Thiện theo Đạo luật đã ấn định. Nếu sai lạc chủ nghĩa phước thiện là chư Chức sắc Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng phế vong trách nhiệm, bị Thiên điều trừng trị mà còn bị án bất tuân lịnh của Đức Hộ Pháp mà chớ.
Bần tăng bảo rằng, chúng cố thực hành cho chính chắn, sau nầy sẽ thấy thành công mỹ mãn mà cũng chính Đức Hộ Pháp tuyên dương công nghiệp tại Ngọc Hư Cung đó.
Về bài thài, đợi Bần tăng thương lượng rồi sẽ gởi.
Xin kiếu. Thăng.

Tái cầu :
THÁNH HIỂN
Xin chào chư Hiền huynh Bảo Đạo, Ngọc Đầu Sư, chư Chức sắc Nam Nữ Lưỡng Đài.
Tệ Thánh vâng lịnh Hiền huynh Khai Đạo đem 4 câu thài sau đây :
KHAI mở Cao Đài độ chúng sanh,
ĐẠO mầu giải thoát giống dân lành.
CHƠN truyền cố vẹn, Đạo nhà vững,
QUÂN chủ dân quyền dứt chiến tranh.
                                                                                                 Thăng.

THI VĂN của Ngài KHAI ĐẠO :
Thuở sinh tiền, Ngài Khai Đạo ít làm thơ. Sau đây xin chép vài bài thi của Ngài mà chúng tôi sưu tầm được :

* Họa vận bài thi "CHỮ BẦN " của Ngài Bảo Pháp :
Chịu tiếng thế gian gọi Đạo bần,
Mang bầu quẩy gậy đẩy đưa chân.
Ly gia thưởng thức mùi Đạo sự,
Giải thoát dây oan phủi nợ nần.
Gắng chí dồi mài thành Đạo sĩ,
Bền gan luyện tập đặng hiền nhân.
Khai đường giác thế mong đời tỉnh,
Độ dẫn quần sinh lánh bợn trần.
Khai Đạo Phạm tấn Đãi.
     
* Sau đây là bức thơ của Ngài Khai Đạo gởi Giám Đạo Nguyễn huợt Hải (đã qui vị ngày 26-12-Canh Dần, dl 2-2-1951).

Tòa Thánh, ngày 22-Giêng-Tân Mão (dl 27-2-1951)
 (Năm Đạo thứ 26)
KHAI ĐẠO PHẠM TẤN ĐÃI
Kính gởi : Ngài Giám Đạo Nguyễn huợt Hải.
Cầu xin cho biết rành tiền căn huynh đệ nơi cảnh thiêng liêng, tên mỗi người, coi còn ai nữa trong kiến họ Brahma Vichnou và cầu xin Hiền hữu họa nguyên vận bài thi của Bần sĩ làm để khóc Hiền hữu trong khi ly biệt Âm Dương hai ngã. Có lẽ phải chịu vắng hình vắng bóng, chớ lời lẽ qua lại hãy còn hoài.
THI :
Hiền đệ qui Thiên để mối sầu,
Tiền căn dan díu khóc canh thâu.
Nhớ lời mấy lúc cùng vui hứng,
Nhắn gọi bao lần chỗ thảm sầu.
Khuất bóng thông truyền vì cảnh giới,
Xót xa tiếng luận phải đương đầu.
Lòng ai đoái tưởng xin phò hộ,
Giám Đạo họa cùng mấy giọt châu.
KHAI ĐẠO Phạm tấn Đãi.

Sau đây là bài giáng cơ trả lời của Ngài Giám Đạo Nguyễn huợt Hải :
Phò loan : Nhung-Nguyên.
Ngày 22-1-Tân Mão.
GIÁM ĐẠO NGUYỄN HUỢT HẢI
Cười . . . Lúc nảy Ngài Khai Đạo trông tin trả lời mà mấy "toi" không nói giùm. . . . . . .
Còn việc Ngài Khai Đạo hỏi thì tên của Ông KHÝ và của "moi" ổng đã biết.
Tên của Ông LỢI là Brahma Vhrinich, Cô NHÂM là Brahma Prech, con của vua Brahma Itichnhon vào lúc năm 752, đệ tử của dòng Brahma Darma. Trong kiến họ tại đây không còn ai nữa.
     Nhung, tịnh thêm chút nữa để họa thi :
HỌA :
Cảnh đọa tay chia luống nhớ sầu,
Tình huynh nghĩa đệ mấy trăng thâu.
Canh khuya nhìn ngọn hoa đăng cạn,
Trống nhặt nhỏ hình nhạn bút sầu.
Một thuở tương rau nên hiệp mặt,
Đôi khi muối tuyết đã chung đầu.
Hữu vô hai ngã đành ly biệt,
Đệ trở Thiên Cung bởi lịnh chầu.

Xin nhờ mấy "toi" biên rõ rồi chuyển cho Ngài Khai Đạo giùm. (Tài liệu của Sĩ Tải Huỳnh văn Hưởng).
     Ngài Khai Đạo có họa vận bài Thi của Đức Thượng Sanh, ngày 12-6-Đinh Dậu (dl 29-6-1957) :

Đạo Trời thử thách lúc chinh nghiêng,
Quyết chí tầm phương giữ vững thuyền.
Rán sức trở day theo máy tạo,
Tận tâm chèo chống đáp ân Thiên.
Từ bi nhẫn nại gương Tiên Phật,
Trung thứ khoan dung chí Thánh Hiền.
Mừng thấy thời cơ nhiều thuận tiện,
Muôn năm nghiệp Đạo để lưu truyền.
                                                                                     KHAI ĐẠO


Tiếp Đạo
CAO ĐỨC TRỌNG
(1897-1958)

Ngài Cao đức Trọng, sanh ngày 20-4-Đinh Dậu (dl 21-5-1897) tại làng Ích Thạnh quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định.
 (Ngài là bào huynh của Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang, nên phần gia thế, xin độc giả xem nơi Tiểu sử của Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang ở phía trước).
Năm 1927, lúc Đức Phạm Hộ Pháp qua Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên để mở đạo thì Đức Phạm Hộ Pháp ngụ tại nhà Ngài Cao đức Trọng. Ngài Cao đức Trọng lúc đó đang làm công chức nơi Sở Chưởng Khế tại Nam Vang.
Tại đây, Đức Chí Tôn giáng cơ thâu Ngài Cao đức Trọng và nhiều vị khác vào hàng môn đệ.
Đàn cơ ngày 27-7-1927 (âl 29-6-Đinh Mão), Đức Chí Tôn ân phong Ngài Cao đức Trọng vào chức Tiếp Đạo HTĐ. Ngài là vị Thời Quân được Đức Chí Tôn phong sau cùng trong số Thập nhị Thời Quân HTĐ.
Cũng trong Đàn cơ nầy, Đức Chí Tôn phong nhiều vị khác vào hàng Chức sắc CTĐ, và nhờ số Chức sắc đầu tiên nầy, Đức Phạm Hộ Pháp thành lập được Cơ Quan Truyền Giáo Hải Ngoại, giao cho Ngài Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh (Lê văn Bảy) làm Chủ Trưởng, để rồi sau nầy trở thành Hội Thánh Ngoại Giáo, đặt dưới quyền điều khiển thiêng liêng của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo), với chức vụ Chưởng Đạo.
Từ năm 1938 đến năm 1942, Ngài Tiếp Đạo Cao đức Trọng được Đức Phạm Hộ Pháp bổ nhiệm làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo ở Kim Biên, Nam Vang.
Năm 1942, Đạo Cao Đài bị nhà cầm quyền Pháp khủng bố nặng nề, Tòa Thánh Tây Ninh bị quân đội Pháp chiếm đóng. Còn tại Nam Vang, Thánh Thất Kim Biên bị chiếm đọat, quân Pháp phá quả Càn khôn thờ Đức Chí Tôn, đập phá các Long vị thờ chư Thần Thánh Tiên Phật. Ngài Cao Tiếp Đạo phải lánh nạn sang Thái Lan vào ngày 17-9-Nhâm Ngọ (26-10-1942).
Nhân dịp ở Thái Lan, Ngài Cao Tiếp Đạo phổ độ được một số ít người Thái Lan theo Đạo, gieo được một ít hột Thánh cốc nơi đất nước nầy.
Năm 1944, Ngài trở về VN, ngụ tại Sài gòn, hiệp cùng chư Chức sắc Thiên phong lo cơ phục hưng nền Đạo.
Ngày 4-8-Bính Tuất (dl 30-8-1946), chánh quyền Pháp đưa Đức Phạm Hộ Pháp từ hải đảo Madagascar trở về Tòa Thánh, sau 5 năm 2 tháng lưu đày, và liền sau đó, Đức Phạm Hộ Pháp tái thủ quyền hành, lo củng cố nền Đạo.
Ngài Cao Tiếp Đạo cũng trở về hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh, được Đức Phạm Hộ Pháp cử giữ chức vụ Đổng Lý Văn phòng Hộ Pháp.
Sau đó, Ngài được Hội Thánh tạm cử vào chức vụ Quyền Thượng Chánh Phối Sư CTĐ để triệu tập Đại Hội Nhơn Sanh, tuyển chọn chư Chức sắc và Chức việc hữu công cùng Đạo xin cầu thăng và cầu phong, cho có đủ người hành đạo, mau gầy dựng trở lại cơ nghiệp Đạo.
Năm Quí Tỵ (1953), Thánh Lịnh số 281/TL cử Ngài Tiếp Đạo làm Cố Vấn Hành Chánh Đạo kiêm Nghị Trưởng Hội Đồng Kinh tế Châu Thành Thánh Địa (Thánh Lịnh số 150), và Ngài điều khiển Cơ Quan Truyền Giáo Hải Ngoại.
Năm Giáp Ngọ (1954), Ngài Cao Tiếp Đạo cầm quyền Thống Quản CQPT.
Năm Bính Thân (1956), sau khi Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong qua Nam Vang (thủ đô nước Cao Miên), Ngài Cao Tiếp Đạo được Hội Thánh cử làm Đại diện Hội Thánh giao tiếp với Chánh phủ Ngô đình Diệm, xếp đặt ổn định việc Đạo. Ngài cùng với Ngài Bảo Thế Lê thiện Phước thảo luận với Ông Nguyễn ngọc Thơ, đại diện Chánh phủ Diệm, lập ra Thỏa Ước Bính Thân, qui định các điều khoản hành đạo của Đạo Cao Đài. (Xem chi tiết nơi Tiểu Sử Ngài Bảo Thế Lê thiện Phước)
Ngài Cao Tiếp Đạo được Chánh phủ Ngô đình Diệm ủng hộ và thúc đẩy việc vận động với Hội Thánh rước Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang (đang Ở Sài gòn) về Tòa Thánh Tây Ninh cầm giềng mối Đạo, thay thế Đức Phạm Hộ Pháp đang lưu vong nơi nước Cao Miên.
Với sự ủng hộ của Chánh quyền Ngô đình Diệm, vả lại Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang là bào đệ của Ngài Cao Tiếp Đạo, nên việc vận động nầy thành công dễ dàng.
Tháng 5 năm 1957 (Đinh Dậu), Ngài Cao Tiếp Đạo hiệp cùng Đức Thượng Sanh và một số vị Thời Quân, từ Sài gòn về Tòa Thánh Tây Ninh cầm quyền điều khiển nền Đạo.
Mấy lúc sau nầy, Ngài Cao Tiếp Đạo lâm bịnh nặng, không ăn uống chi được, nên đến ngày 23-5-Mậu Tuất (dl 9-7-1958), Ngài qui vị hưởng thọ 62 tuổi.
Tang lễ được cử hành rất trọng thể tại Tòa Thánh Tây Ninh, theo hàng Thời Quân HTĐ, và liên đài kỵ long mã nhập Bửu tháp ở vùng đất Ao Hồ.
Sau khi qui vị, Ngài Cao Tiếp Đạo giáng cơ cho Bài thài Hiến lễ Ngài :
THI :
Cổi xác phàm vui lại cảnh Tiên,
Độ sanh phỉ hiệp tạo nên giềng.
Trường đời dầu chẳng tròn ân nghĩa,
Nợ đạo rồi xong gác bút nghiên.
Cõi Thánh nhàn xem tranh đảnh Túy,
Chơn mây ngẩn chạnh bạn rừng thiền.
Từ đây dạo khắp trời non nước,
Nâng giúp quần sanh hưởng huệ duyên.

Thuở sinh tiền, Ngài Cao Tiếp Đạo là một nhà thơ lỗi lạc với bút hiệu là Huyền Quang. Năm 1950, Ngài lập Đạo Đức Văn Đàn, qui tụ các Chức sắc và tín đồ yêu mến thơ văn của Đạo, gây được một phong trào thi văn nổi tiếng tại Tòa Thánh Tây Ninh. Phong trào này kéo dài được 2 năm thì có phần chựng lại vì Ngài Cao đức Trọng bận lo việc Đạo. Đến năm 1957, Ngài Bảo Pháp Nguyễn trung Hậu phục hồi sinh hoạt của Đạo Đức Văn Đàn.
Lúc sau nầy, Ngài Cao Tiếp Đạo lấy bút hiệu là Chánh Đức, do Đức Tiêu Diêu Đạo sĩ giáng cơ ban cho, với 2 câu đối nói lên ý nghĩa của bút hiệu nầy :
CHÁNH khí tà gian khủng,
ĐỨC trọng quỉ thần kinh.
Sau đây, xin chép lại một số bài thi của Ngài Cao Tiếp Đạo :
Họa vận bài thi "CẢM TÁC" của Đức Cao Thượng Sanh khi Ngài đến thăm Đức Phạm Hộ Pháp, sau ngày Đức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại :
Màu sen Tây vức ngắm thêm tươi,
Hỏi khách Hỗn Ngươn đặng mấy người?
Ly hận ngày qua non ngó khóc,
Trùng hưng buổi hiện gió reo cười.
Cơ huyền trí định tan rồi hiệp,
Phép tạo tay cầm ngược cũng xuôi.
Tỏ đặng nỗi mừng chia hạnh phúc,
Đá kia cũng gật để nên lời.
CAO TIẾP ĐẠO

Họa vận bài thi của Bát Nương giáng cơ đêm 15-8-Bính Tuất (1946) :
(Thuận Nghịch đọc)
Qua thu bước khổ cảnh thay lần,
Trị quốc điềm đem thấy hiện lân.
Hòa ái chạm gương nêu trước tử,
Nghĩa nhân bia dấu tạc kiều Ngân.
Ca hoàn Việt, lập an ngôi Thánh
Định đảnh Nam, vang tiếng hạc Thần,
Nhà nước Đạo xong gầy hậu phúc,
Hoa tiên bức chép rạng đài vân.

Họa vận bài thi "Tức Sự" của Đức Thượng Sanh :
Đường trần mừng tránh lối nghiêng xe,
Quán tục thanh tâm chẳng rượu chè.
Lướt thế trẻ dong đường dặm liễu,
Xem đời già núp cội cây hòe.
Noi gương Đỗ Phủ vài hàng mực,
Giỏi chí Nghiêm Lăng ít mảnh tre.
Đợi gió xây chiều về động Thánh,
Buồm nhân trở lái cánh loan sè.

SỐNG VỀ ĐẠO
Thuyền từ đưa khách lướt ngàn voi,
Đuốc huệ tay trau đã thấy mòi.
Tỉnh thế cung Trời đưa giọng khánh,
Độ nhân non Thánh trổi hơi còi.
Huyền châu động báu nguồn Tiên chỉ,
Xá lợi đài sen gốc Phật roi.
Lấy mắt vô hình xem vũ trụ,
Máy linh bao khắp ngoại vòng thoi.
Xủ áo phồn hoa tránh ngựa voi,
Riêng vui động Túy đã ra mòi.
Non nhân ngắm lại cành tươi tốt,
Rừng tục xem qua lá cọc còi.
Lục Tổ thọ truyền gương vẫn tạc,
Quan Âm đắc đạo tiếng còn roi.
Nhiệm mầu diệu pháp Ba-la-mật,
Hơn cả muôn vàng ức triệu thoi.
CHÁNH ĐỨC

Bảo Thế
LÊ THIỆN PHƯỚC
(1895-1975)

Vào năm Mậu Thân (1968), Ngài Bảo Thế Lê thiện Phước có tự viết Tiểu sử của Ngài, xin chép ra sau đây :

I . Thế sự :
Sanh ngày 4-6-1895 (Ất Mùi) tại Sài gòn.
- Xuất thân nơi gia đình mô phạm. Thân phụ tôi là Lê văn Dương, cố Giám Đốc trường Tiểu Học Dakao, hiện giờ là trường Tiểu Học Đinh Tiên Hoàng Sài gòn. Thân mẫu tôi là Trần thị Chọn, trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa Thánh Tây Ninh. (Xem Tiểu sử Tiếp Thế Lê thế Vĩnh).
- Có cấp bằng Thành Chung trường bổn quốc Chasseloup Laubat Sài gòn năm 1912.
- Có cấp bằng trường Luật Đông Dương năm 1915.
- Thi đậu vào ngạch Thơ Ký Thượng Thơ (Dinh Hiệp Lý Sài gòn) đời Pháp thuộc.
- Rời quyền môn năm 1927 ra giúp xã hội, đắc cử Hộ Trưởng Quận Tân Định và Hòa Hưng (Đô Thành Sài gòn).
- Huyện danh dự năm 1944.
- Chủ 2 nhà máy xay gạo : một ở Dakao Sài gòn sản xuất 25 tấn gạo trắng 1 ngày và một ở Chợ Lớn, 50 tấn gạo trắng 1 ngày.

II . Đạo sự :
Một khi kia, tôi nghe thiên hạ đồn có cơ bút tại tư thất Ông Nguyễn ngọc Thơ ở Tân Định, tức Thái Đầu Sư thuộc Tòa Thánh Tây Ninh lúc sau nầy, tôi liền đến xem cho biết.
Mỗi người hầu đàn được phép biên tên họ mình để trên bàn thờ rồi chờ Ơn Trên giáng cơ định phận. Tôi được Đức Chí Tôn cho bài thi như vầy :
Cang nhu tình thế lắm đua tranh,
Danh lợi là bia kẻ giựt giành.
Mượn thú điền viên vui tuế nguyệt,
Phồn hoa âu cũng bỏ cho đành.
Đức Chí Tôn dạy tôi tập ăn chay 10 ngày và thượng Thánh tượng thờ Thầy.
Tuân lịnh trên, tôi mời Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Hộ Pháp với vài quan khách đến nhà tôi và chứng thị cho tôi nhập môn cầu Đạo.

   Lập đàn xong, Đức Chí Tôn giáng dạy :
" Vạn thế vô tri tiếp sắc Thiên,
Khả quang chi hậu kiến nhi tiền.
Hậu lai hữu phúc Tam Kỳ hội,
Chỉ tín tâm thành đắc vị Tiên.
Thâu làm môn đệ chót như Cư, Tắc, Sang. "

Chánh thức trọn phế đời về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo năm Bính Tuất (1946). Về Tòa Thánh nhằm lúc Đức Phạm Hộ Pháp rời hải đảo Madagascar qui hồi cố hương.

A . Trách vụ Thừa Quyền Hộ Pháp :
Đức Hộ Pháp tái thủ quyền hành, liền giao cho tôi trách vụ Thừa quyền Hộ Pháp, chiếu Nghị Định của Đức Ngài số 1 ngày mùng 8 tháng 8 năm Bính Tuất (1946).
Trong thời gian hành đạo đầu tiên nầy, tôi làm những việc sau đây :
1) Nâng cao chức vụ Quản Lý và Phó Quản Lý Cửu Viện Nội Chánh lên hàng phẩm Thượng Thống và Phụ Thống, cho thích ứng với trách nhiệm nặng nề và thể thống nhơn vị của chư Chức sắc Đại Thiên phong đảm đương công việc trong hệ trong mỗi Viện.
2) Tạo lập Chợ Quan Âm Các, thay thế Chợ Ngã Năm đang choán một góc ngã tư đường, nơi một vị trí dơ bẩn bùn lầy thiếu vệ sinh luôn cả 4 mùa trong năm (cửa số 4 đi ra).
3) Mở rộng Châu vi Ngoại ô Tòa Thánh bằng cách sáp nhập 4 Hương đạo làm một Phận Đạo. Châu Thành Thánh địa gồm 7 Phận Đạo đặt dưới quyền quản suất của một vị Khâm Thành và nhiều vị Đầu Phận Đạo.
Lần lượt tới hôm nay, Châu Thành Thánh Địa mở rộng từ chơn núi Bà đi vòng ngã Cầu Khởi xuống Bến Kéo, trở về Mít Một.

B . Chức vị Tổng Thơ Ký Chánh Trị Đạo :
Mãn trách nhiệm Thừa quyền Hộ Pháp ngày 1-12- Kỷ Sửu (dl 21-1-1950). Nhận chức vụ Tổng Thơ Ký Chánh Trị Đạo năm Canh Dần (1951), khai thác 4 khu rừng 176, 316, 56 và 55 (Rạch Rễ Dưới) diện tích chung là 2.354 mẫu tây).

C . Thống lãnh Văn Phòng Hộ Pháp :
Lãnh nhiệm vụ Thống lãnh Văn Phòng Hộ Pháp do Thánh Lịnh ngày 7-5nhuần năm Nhâm Thìn (dl 28-6-1952), điều chỉnh Cơ quan Hành Chánh Đạo và Phước Thiện được hoàn mỹ hơn. Giữ gìn cho còn mãi sự tương liên mật thiết giữa Chức sắc CTĐ và Chức sắc Phước Thiện.

D . Phận sự Tam Đầu Chế :
Đứng trong Tam Đầu Chế HTĐ, đại diện chi Thế, do Thánh Lịnh ngày mùng 1-9-Ất Mùi (dl 16-10-1955), hiệp với Hội Thánh CTĐ gìn giữ mối Đạo trong lúc Đức Phạm Hộ Pháp nhập tịnh Trí Huệ Cung.

G . Đại diện Hội Thánh lập Thoả Ước Bính Thân (1956) :
- Tổng Thống Ngô đình Diệm (người Công giáo) làm khó Đức Phạm Hộ Pháp, nên Đức Ngài đi Nam Vang ngừa tai họa. Ngô đình Diệm phái Đặc sứ Nguyễn ngọc Thơ đến Tòa Thánh gặp tôi đặng dàn xếp cho đừng xảy ra mối bất hòa nguy hiểm giữa quyền Đạo và quyền Đời.
Trong dịp nầy mới ra đời Thỏa Ước Bính Thân (1956) mà ai ai đều nhìn nhận là một linh phù khi thấy Đạo được quyền Đời kính nể. Vì kính nể mà Đặc sứ Nguyễn ngọc Thơ gán biệt hiệu cho tôi buổi nọ là Thầy Rùa.
- Thỏa Ước nầy được ký kết giữa Đặc sứ Nguyễn ngọc Thơ, đại diện Chánh phủ VNCH (thời Ngô đình Diệm) với Chức sắc đại diện Hội Thánh HTĐ, CTĐ và Phước Thiện ngày 28-2-1956. (Xem Nội dung Thỏa Ước Bính Thân bên dưới)
- Thay mặt Đức Thượng Sanh trong lúc Đức Thượng Sanh chưa về Tòa Thánh hành đạo (Thánh Lịnh Đức Hộ Pháp số 65/HP ngày 6-5-Bính Thân, dl 14-6-1956).
- Ngày 11-Giêng-Kỷ Hợi (dl 18-2-1959), lãnh phận sự Quyền Đầu Sư, Đạo Lịnh số 15/ĐL ngày 11-1-Kỷ Hợi. Sau khi nghỉ một thời gian ngắn, tái thủ nhiệm vụ Quyền Đầu Sư, Đạo Lịnh số 08/ĐL ngày 8-12-Canh Tý (dl 24-1-1961).
- Sáng lập Bá Huê Viên, diện tích một mẫu rưỡi tây, bên kia Đại lộ Phạm Hộ Pháp, trước Báo Ân Từ.
- Ngày mùng 8-Giêng-Giáp Thìn (dl 20-2-1964) lãnh phận sự Quyền Chưởng quản HTĐ, Vi Bằng Hội Thánh HTĐ số 01/VB ngày 8-1-Giáp Thìn.
- Ngày 14-11-Ất Tỵ (dl 6-12-1965), lãnh phận sự Thừa quyền Thượng Sanh, Thánh Lịnh số 27/TL ngày 14-11-Ất Tỵ (dl 6-12-1965).
- Ngày 21-2- Ất Tỵ (dl 23-3-1965) Trưởng Ban Thế Đạo và Thống quản Đại Đạo Thanh Niên Hội.
- Ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965) Thống quản Nữ phái CTĐ do Hiến Pháp bổ túc ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965), chiếu Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông Nhứt Trấn Oai Nghiêm đêm mùng 9-Giêng-Quí Mão (dl 2-2-1963).
- Ngày 25-Giêng-Giáp Ngọ (dl 14-2-1966) Thống quản CQPT do Thánh Lịnh số 34/TL ngày 25-1-Bính Ngọ.
- Ngày 24-3-Bính Ngọ (dl 1-4-1966) ChủTọa Tòa HTĐ
- Ngày mùng 3-12-Bính Ngọ (1966) lâm trọng bịnh.
- Ngày 19-8-Đinh Mùi (dl 29-9-1967) phục hồi sức khỏe và tiếp tục phận sự như cũ.
- Thánh Lịnh số 04/TL ngày 3-12-Đinh Mùi (dl 2-1-1968) sửa đổi danh từ Trưởng Ban Thế Đạo lại là Chưởng quản Ban Thế Đạo.
- Thánh Lịnh số 10/TL ngày 2-2-Mậu Thân (dl 19-3-1968) tái thủ trách vụ Chủ Tọa Tòa HTĐ.
- Hiện thời đang lo thống nhứt các Chi Phái.
Lập tại TTTN, ngày 8-6-Mậu Thân (dl 3-7-1968).
BẢO THẾ LÊ THIỆN PHƯỚC (ấn ký)
 (Tài liệu của Cải Trạng Lê minh Khuyên)
Sau đây chúng tôi xin chép nguyên văn Thỏa Ước Bính Thân (1957) :

THỎA ƯỚC
Sau các cuộc hội đàm ngày 22, 26 và 28 tháng 2 năm 1956, Đại diện Chánh Phủ VNCH và các đại diện Đạo Cao Đài Tây Ninh đồng đi đến sự thỏa thuận hoàn toàn các điểm sau đây:

I. Đạo Cao Đài Tây Ninh được tự do truyền bá và được tự do hội họp cúng kiếng theo phép Đạo trong khắp nước VN.
     Đạo Cao Đài Tây Ninh do các Chức sắc cao cấp trong Đạo đại diện và dìu dắt trong lúc vắng mặt Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc, nhìn nhận chỉ biết hành đạo mà thôi, không làm chánh trị trên toàn lãnh thổ VN và về mặt pháp lý, chịu hệ thống luật lệ hiện hành của Chánh phủ VNCH do Ngô Tổng Thống lãnh đạo.

II. Những phần đất nào của Đạo Cao Đài ở Tây Ninh đã làm chủ vĩnh viễn bằng cách hoặc khẩn, hoặc mua, hoặc hưởng của cho, thì Đạo Cao Đài đặng toàn quyền sử dụng.
Những đất quốc gia nào trong vùng Tây Ninh, khi trước là rừng cấm hay đất hoang, đã được tín đồ Cao Đài khai phá và được trong Đạo Cao Đài phân chia theo cách tiểu sản, sẽ được hợp thức hóa đúng theo tinh thần chương trình cải cách điền địa của Chánh phủ đang thi hành bằng cách sẽ cấp phát bằng khoán vĩnh viễn đúng theo thủ tục và thể lệ hiện hành cho mỗi người, để cho các tín đồ đóng thuế mỗi năm cho Chánh phủ theo số đất mình sẽ làm chủ.
Trong thời hạn không quá 3 tháng kể từ ngày Thỏa Ước nầy được chấp thuận, Ông Tỉnh Trưởng Tây Ninh và đại diện Cao Đài phải khởi sự hợp thức hóa sự cấp đất và phát bằng khoán vĩnh viễn cho các người choán đất.

III. Trong 6 làng : Long Thành, Hiệp Ninh, Cẩm Giang, Trường Hòa, Phước Hội, Ninh Thạnh, bao trùm 13 Phận đạo hiện hữu, Đạo Cao Đài được cử ra 2 hay là 3 tín đồ tùy theo chỗ để đại diện Đạo và cộng tác với mỗi Ban Hội Đồng Hương chính.

IV. Trừ tiền hỷ cúng của tín đồ, Đạo Cao Đài bãi bỏ những thuế có thâu thuở giờ, hoặc trên đất Đạo làm chủ, hoặc trên đất quốc gia, còn trong vùng ảnh hưởng của Đạo.
Những Chợ hiện hữu trong vùng Đạo thuộc 6 làng kể trên do Đạo Cao Đài tạo ra, dầu trên đất Đạo cũng là nguồn lợi của quốc gia và chỉ có quốc gia mới được phép sắp đặt, sử dụng và hưởng huê lợi. Dầu vậy, Chánh phủ cũng bằng lòng để Đạo Cao Đài thâu những chợ nầy trong khoảng 4 năm liên tiếp (1956, 1957, 1958, 1959) bằng cách đóng góp cho làng sở tại một số tiền mỗi tháng :
     - Năm đầu bằng 1 phần 5 số thâu góp hằng tháng.
      - Năm thứ 2 bằng 1 phần 4 số thâu góp hằng tháng.
      - Năm thứ 3 bằng 1 phần 3 số thâu góp hằng tháng.
      - Năm thứ 4 bằng 1 phần 3 số thâu góp hằng tháng.
     Số tiền thâu góp chợ mỗi ngày hay mỗi tháng do bên Đạo và Ông Tỉnh trưởng Tây Ninh thỏa thuận nhất định một năm 2 lần, trong tháng 6 và tháng 12 dương lịch.
Về phần Chợ Long Hoa, Đạo Cao Đài đang cất, Hành Chánh tỉnh đảm nhận tiếp tục theo bản đồ đã có. Những tổn phí của Đạo Cao Đài đã xuất phát tới ngày nay, Hành Chánh tỉnh chịu trả lại, sau khi được đôi bên xác nhận tánh cách chi phí và số tiền. Số tiền nầy được trả phân kỳ không quá 4 năm, mỗi năm đóng một lần nhằm trong tháng 4 dương lịch.

V. Trật tự an ninh trong 13 Phận đạo theo tổ chức hiện thời của Đạo sẽ đặt dưới hệ thống của Ban Hội Đồng Hương chính của 6 làng nói trên. Các Ban nầy hành sự với những toán, từ 20 đến 30 người "Dân Vệ", gốc người tín đồ Cao Đài, được Ông Tỉnh Trưởng chọn với sự đề cử của Ban Hội Đồng Hương chính.
Những toán Dân Vệ nầy được võ trang và trả lương theo thể lệ hiện hành. Hành Chánh tỉnh cấp súng, công nho làng trả lương.

VI. Cơ Thánh Vệ hiện hữu chỉ có phận sự về nghi lễ, giữ vẻ tôn nghiêm cho Đạo trong các cuộc hành lễ lớn nhỏ trong Nội Ô. Số người có thể lên không quá 160 người do Đạo Cao Đài hoàn toàn chọn lựa và trả lương (nếu không phải làm công quả).
Người trong cơ Thánh Vệ có thể có võ trang nhưng phải xin phép sắm và giữ súng theo luật lệ hiện hành. Súng ống đạn dược do Đạo Cao Đài đài thọ.
Trong Nội Ô, các lực lượng quân sự và cảnh sát quốc gia không được xâm nhập, trừ khi phải can thiệp hoặc để thi hành phận sự theo luật lệ hiện hành hoặc để đem trật tự an ninh lại, hoặc vì xảy ra thường tội hay trọng tội.

VII. Được miễn thuế (đủ các sắc) theo thể lệ hiện hành :
- Những Tu viện, Trường học cùng Dưỡng đường của Đạo Cao Đài Tây Ninh cất ra hoặc trên đất Đạo hoặc trên đất quốc gia.
- Những đất trên đó có những bất động sản nói trên. Hiện hữu những bất động sản có tên trong bản đính theo đây, được miễn thuế.

VIII. Các công trình của Đạo Cao Đài về mặt xã hội, y tế, mở mang hay tu bổ kiều lộ trong vùng Đạo, sau khi giao cho Hành chánh Tỉnh Tây Ninh đảm nhận, thì sẽ được tiếp tục tiến hành với sự hợp tác của các Chức sắc chuyên môn của Đạo Cao Đài.

Làm tại Tây Ninh, ngày 28 tháng 2 năm 1956.
ĐẠI DIỆN CHÁNH PHỦ
VIỆT NAM CỘNG HÒA
(ký tên)
Nguyễn ngọc Thơ

HIỆP THIÊN ĐÀI
Bảo Thế - (ký tên) Lê thiện Phước
Tiếp Pháp - (ký tên) Trương văn Tràng
Hiến Pháp - (ký tên) Trương hữu Đức
Tiếp Đạo - (ký tên) Cao đức Trọng

CỬU TRÙNG ĐÀI
Thái ChánhPhốiSư - (ký tên) Thái Bộ Thanh
Thượng ChánhPhốiSư - (ký tên) Thượng Sáng Thanh
Ngọc ChánhPhốiSư - (ký tên) Thượng Tước Thanh

PHƯỚC THIỆN
Chơn Nhơn (ký tên) - Trịnh phong Cương
Đạo Nhơn (ký tên) - Nguyễn văn Phú
Đạo Nhơn (ký tên) - Trần văn Lợi
Đạo Nhơn (ký tên) - Đỗ văn Viên
Số 337-BNV/VP
CHUẨN Y
Sàigòn, ngày 1 tháng 3 dl 1956.
BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ
(ấn ký)
Bùi văn Thinh

Năm 1960, Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ tại Giáo Tông Đường, có khen Ngài Bảo Thế bằng bài thơ khoán thủ : Bảo Thế Cứu Nước.

BẢO trọng vạn linh hiệp Chí Linh,
THẾ nguy chuyển loạn lập hòa bình.
CỨU đời mở đạo kinh luân sẵn,
NƯỚC Việt trông chờ sách cứu tinh.

Ngày 6-2-Ất Tỵ (dl 8-3-1965) Đức Phạm Hộ Pháp cũng có giáng cho Ngài Bảo Thế bài thi khoán thủ : " Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài Thừa mạng " :
QUYỀN uy nhờ bởi giữ Chơn truyền,
CHƯỞNG đức dụng hiền mộ Thánh Tiên.
QUẢN quán chúng sanh tu cội phúc,
HIỆP hào nhân sĩ hưởng tiền duyên.
THIÊN môn mở rộng nguyên nhân đến,
ĐÀI nội tuyển thăng Thánh đức lên.
THỪA thế chuyển nguy an Thánh địa,
MẠNG Trời đâu để quỉ hành quyền.

Ngài Bảo Thế lúc về già bị bệnh bán thân bất toại, sức khỏe yếu dần và Ngài đăng Tiên vào lúc 6 giờ 30 phút sáng ngày 17-3-Ất Mão (dl 27-4-1975) hưởng thọ 81 tuổi.
Đàn cơ đêm 18-3-Ất Mão (dl 29-4-1975) tại Cung Đạo Đền Thánh hồi 19 giờ, Phò loan : Hiến Pháp - Khai Đạo, Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ cho bài thài tế lễ Ngài Bảo Thế, chép ra sau đây :

HỘ PHÁP
Chào chư Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, PT.
Quí bạn có điều chi hỏi ?
Chưởng Ấn bạch : Xin bài thài tế lễ Ngài Bảo Thế.
- Bài thài chúng ta đã thấy : "Bảo Thế Cứu Nước" đã trúng lúc, vậy cứ dùng bài ấy thài cúng tế Bảo Thế.
- Còn về bài thài mà Hiến Pháp đã cho để cúng tế chung chư vị Thời Quân thì cứ để dùng như vậy trong lễ cúng tế chung.
Bần đạo ban ơn lành cho Hội Thánh và toàn thể. THĂNG

Ngài Bảo Thế giáng cơ, lấy hiệu Vân Phong :
VÂN PHONG vừa đẩy đám mây lành,
Hội hiệp quần sanh bất cạnh tranh.
Phất phướn truy hồn qui lối cũ,
Vén màn mờ ám cứu nhơn sanh.

Ngài Bảo Thế lúc sinh tiền, rất ít làm thơ, may mắn chúng tôi sưu tầm được bài thi của Ngài họa thi Bát Nương :
BÀI XƯỚNG của BÁT NƯƠNG :
Hễ muốn làm sư phải hược trò,
Vụng may thường đổ lỗi người đo.
Nhái duyên Tây tử cười môi méo,
Đoạt điệu Đường phi bước trẹo giò.
Bắt nguyệt lại mò trăng đáy nước,
Theo Tây bợ ngợ viết nhà nho.
Vui chi hơn gặp trang tài tử,
Vẩy lưới chòm cây có cứt cò.

BÀI HỌA của NGÀI BẢO THE Á :
Lố xố lăng xăng mấy chú trò,
Văn chương lá mít của so đo.
Vác mai chạy quấy ngồi rơi lụy,
Múa búa khoe danh chạy bại giò.
Trí thiển dòm Trời bằng cái xịa,
Tài sơ ngóng chữ tợ rừng nho.
May duyên đưa đến mùi Tiên Thánh,
Mừng được bài thi khỏi gắn cò.

Hiến Thế
NGUYỄN VĂN MẠNH
(1894-1970)

Tiểu sử của Ngài Hiến Thế Nguyễn văn Mạnh được Ngài Bảo Đạo Hồ tấn Khoa viết và đọc nhân ngày gia đình Ngài Hiến Thế thiêu hài cốt của Ngài, lấy tro đưa về Tòa Thánh :
Nguyên văn bản Tiểu sử nầy, chúng tôi xin chép ra sau đây :

TIỂU SỬ của HIẾN THẾ Nguyễn văn Mạnh
Đại huynh Nguyễn văn Mạnh, sanh năm Giáp Ngọ (1894) tại làng Tân Niên Trung, tỉnh Gò Công. Cụ thân sinh là Nguyễn văn Chợ, Xã Trưởng và Cụ thân mẫu là Lê thị Liễu, Giáo viên.
Thời thơ ấu, ở với cha mẹ đi học, đỗ bằng Tiểu học ở Gò Công, rồi lên Sài gòn ngụ nơi nhà người cậu là Cụ Đốc Phủ Lê quang Liêm tiếp tục đường học vấn nơi trường Tabert, thi đỗ bằng Trung học Phổ Thông và bằng Tú Tài.
Cũng như bao thanh niên thời ấy, sau khi đỗ đạt rồi thì cũng ra trường làm công chức tại Tòa Tân Đáo tức là Sở Ngoại Kiều ngày nay.
Vốn con nhà thế phiệt trâm anh đạo đức, nên Đại huynh vẫn giữ truyền thống của ông bà và được tiếng là vị công chức chí mực thanh liêm, luôn luôn tận tụy với nhiệm vụ, mau mắn giúp đỡ mọi người, nên Đại huynh được trên quan yêu, dưới dân chuộng, đường hoạn lộ Đại huynh thăng lần lên Thông Phán, Tri Huyện, Tri Phủ.
Được hấp thụ tinh thần đạo đức từ thuở bé, nên Đại huynh không bỏ qua một dịp nào để làm điều âm chất và nhơn nghĩa. Kịp đến năm Bính Dần, Đức Chí Tôn mở Đạo tại Sài gòn, thì Đại huynh là một trong các môn đệ đầu tiên được Đức Chí Tôn giao trọng trách phổ thông Chơn đạo.
Ngày Rằm tháng 3 năm Bính Dần (1926), cùng một lượt với Ông Phạm công Tắc được Đức Chí Tôn phong là Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ, Ông Cao quỳnh Cư là Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ, Đại huynh và chư vị : Đức, Hậu, Nghĩa, Tràng, Tươi, Chương, Kim, Đãi, Mai, Nguyên, Phước đồng được Đức Chí Tôn phong là Tiên Đạo Phò Cơ Đạo Sĩ.
Mặc dầu việc quan ràng buộc, nhưng Đại huynh vẫn tận tụy với nhiệm vụ của Đức Chí Tôn giao phó, nên ngày thì làm việc cho Nhà nước, đêm thì làm việc cho Đạo, phò cơ phổ độ chúng sanh.
Đến ngày 13-2-1927, Đại huynh được Đức Chí Tôn ân phong vào hàng Thập nhị Thời Quân với phẩm tước là Hiến Thế, một lượt với chư vị Thời Quân khác.
Đắc phong Thời Quân, Đại huynh càng hăng say thêm, chẳng quản nhọc nhằn, quên ăn quên ngủ, đêm nào cũng như đêm nấy, thức gần suốt sáng, ôm cơ phổ độ cùng với chư vị Thời Quân khác, khai đường mở lối đến ngày hôm nay, nền Đạo mới đặng huy hoàng đẹp đẽ để cho chúng ta thọ hưởng.
Tiếc một điều là Đại huynh có một thể xác không được tráng kiện mà lại phải quá lao tâm lao lực trong lúc Đạo mới phôi thai, nên Đại huynh thường hay bịnh hoạn, không thể hành đạo một cách liên tục như chư vị Thời Quân khác. Nhưng lúc nào Đại huynh cũng một lòng hoài bảo với sứ mạng thiêng liêng, luôn luôn lưu tâm về đại nghiệp Đạo.
Trong lúc Đức Phạm Hộ Pháp tự lưu vong nơi Cao Miên, nền Đạo chinh nghiêng, thì Đại huynh cùng Đức Thượng Sanh và chư vị Thời Quân khác về Tòa Thánh, hiệp sức cùng nhau để cầm giềng mối đạo. Đại huynh lãnh trách nhiệm điều khiển CQPT với chức vụ Phó Thống Quản CQPT, do Thánh Lịnh số 26/TL ngày 19-8-Ất Tỵ (dl 14-9-1965).
Ít lâu sau, Đại huynh được thăng lên cầm quyền Thống Quản Phước Thiện, do Thánh Lịnh số 47/TL ngày 20-12-Ất Tỵ (dl 11-1-1966).
Nhưng sức người có hạn, cơn bịnh của Đại huynh ngày càng thêm trầm trọng, nên ngày 10-2-1966, Đại huynh phải xin nghỉ một thời gian để đi qua Tích Lan và Thái Lan chữa bịnh, nhưng chỉ thuyên giảm đôi phần.
Trở về Sài gòn, mặc dầu gia đình tận tâm lo đủ phương điều trị về Tây cũng như Đông y, nhưng nhiệm kỳ đã mãn, nên ngày Rằm tháng Giêng Canh Tuất (dl 20-2-1970), Đại huynh đã trở về bái lịnh Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, hưởng thọ 77 tuổi.
Hôm nay, Đại huynh lại hiển linh kêu gọi và thúc giục gia quyến sớm đưa tro xá lợi của Đại huynh về nơi Tổ Đình, vì vậy mới có buổi lễ hôm nay, đi cặp với Lễ kỷ niệm Đức Cao Thượng Phẩm cho đặng thêm trọng thể.
Nhơn dịp nầy, tôi xin toàn thể Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu lưỡng phái thành tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu ban hồng ân cho Đức Cao Thượng Phẩm và Đại huynh Hiến Thế Nguyễn văn Mạnh được cao thăng Thiên vị, thường giáng linh hộ trì cho mỗi chúng ta được thi hành sứ mạng cho được vuông tròn.
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tòa Thánh ngày 1-3-Đinh Tỵ (dl 19-4-1977)
BẢO ĐẠO Hồ tấn Khoa
(Tài liệu của Cải Trạng Lê minh Khuyên)

* Bán Nguyệt San Thông Tin số 18 ngày 10-11-Canh Tuất (dl 8-12-1970) có đăng ngày Tiểu Tường của Cố Hiến Thế Nguyễn văn Mạnh là ngày 1-11-Canh Tuất (dl 29-11-1970). Buổi chiều, lúc 14 giờ 30 phút, Hội Thánh đã hành lễ Tiểu Tường trước Bàn linh của Ngài nơi Báo Ân Từ.

Bài Thài hiến lễ :
HIẾN mình cho Đạo buổi sơ khai,
THẾ cuộc càng xây dạ chẳng nài.
CHƠN chánh quyết tâm lo lập đức,
QUÂN thần vẹn nghĩa cảm bi ai.

* Bán Nguyệt san Thông Tịn số 40 ngày 12-11-1971 có đăng ngày Đại Tường của Cố Hiến Thế Nguyễn văn Mạnh là ngày 10-9-Tân Hợi (dl 28-10-1971).
Lễ Đại Tường được cử hành tại Báo Ân Từ, có tế điện.
Phối Sư Ngọc An Thanh,ThượngThốngLễViện dângsơ.ù
Hiện diện : Hiến Pháp, Hiến Đạo, 3 Chánh Phối Sư, Chơn Nhơn Phạm duy Hoai, chư Chức sắc và Đạo hữu Nam Nữ.
Thượng Thống Lễ Viện hành pháp xả tang.
Gia đình Ngài Hiến Thế Nguyễn văn Mạnh có :
- Hiền nội : Lê thị Biếu.
- Các con : Nguyễn hữu Thìn, Nguyễn văn Thinh, Nguyễn thị Bạch Mai, Nguyễn thị Bạch Cúc.
- Cháu nội : Nguyễn trung Toàn.
- Dâu : Trương thị Hạnh và Trần thị Kim Hoa.

Khai Thế
THÁI VĂN THÂU
(1899-1981)

Ngài Thái văn Thâu, sanh năm Kỷ Hợi (1899) (theo Thẻ Căn Cước thì sanh năm 1900) tại làng Qui Đức, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn.
Thân phụ của Ngài là Ông Thái văn Vá, và thân mẫu là Bà Ngô thị Mai.
Hiền nội của Ngài là Bà Đỗ thị Thoại, sanh năm 1906 tại làng Long Đức Đông tỉnh Chợ Lớn, và mất ngày 12-3-Quí Hợi (dl 24-4-1983) tại xã Qui Đức.
Ngài Thái văn Thâu ở cùng quê với Ngài Hiến Đạo Phạm văn Tươi, thuở nhỏ hai người là bạn học với nhau.
Ngài Thái văn Thâu theo Tây học, đậu bằng Tiểu học Pháp, lên Trung học, đậu bằng Thành Chung (Diplôme). Ngài xin đi dạy học, và làm Giáo Sư tại trường Trung học Pétrus Trương vĩnh Ký Sài gòn, sau đổi xuống dạy tại Collège Mỹ Tho, nay là trường Trung học Nguyễn đình Chiểu, Mỹ Tho.
Đầu năm Bính Dần (1926), một đàn cơ phổ độ tổ chức ở Tân Kim (Cần Giuộc) tại nhà Ông Cựu Hội Đồng Địa Hạt Nguyễn văn Lai, Phò loan là 2 Ông Phạm văn Tươi và Ca minh Chương, Ngài Thái văn Thâu đến hầu đàn và được Đức Chí Tôn thâu làm môn đệ.
Khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền HTĐ, ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Thái văn Thâu vào phẩm Khai Thế HTĐ.
Kể từ đó, Ngài Khai Thế Thái văn Thâu, ngoài các giờ bận việc dạy học, Ngài cùng các vị Thời Quân khác phò cơ cho Đức Chí Tôn phổ độ nhơn sanh.
Ngày 11-2-1933, Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp đồng ký tên, ra một Thông Tri thăng phẩm Quyền Đầu Sư cho 3 vị Chánh Phối Sư : Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh. Như vậy 3 phẩm Chánh Phối Sư bị khuyết, nên tạm cử 3 vị Thời Quân HTĐ vào hàng Khai qua CTĐ đảm nhận 3 nhiệm vụ kể trên. Thông tri ấy có đoạn như sau :
" Việc giao quyền Chánh Phối Sư cho 3 vị Chức sắc HTĐ là việc của Hội Thánh mới định hôm kỳ nhóm ngày mùng 9 tháng Giêng rồi đây, nhằm bữa 4-3-1933.

      Ba Chức sắc ấy là :
     - Khai Thế Thái văn Thâu lãnh phận sự Thượng Chánh Phối Sư.
     - Khai Pháp Trần duy Nghĩa, lãnh phận sự Ngọc Chánh Phối Sư.
     - Khai Đạo Phạm tấn Đãi lãnh phận sự Thái Chánh Phối Sư. "

Năm 1941, Đức Phạm Hộ Pháp và 5 vị Chức sắc cao cấp của HTĐ và CTĐ bị nhà cầm quyền Pháp bắt lưu đày ở hải đảo Madagascar Phi Châu, quân đội Pháp chiếm đóng Tòa Thánh và các cơ quan khác của Đạo, đuổi các Chức sắc và công quả về quê, Ngài Khai Thế Thái văn Thâu rút về quê nhà ở xã Qui Đức và trở lại nghề dạy học.
Sau đó, Ngài bị bịnh tâm thần, phải nghỉ dạy học, an dưỡng tại tư gia. Bịnh tâm thần của Ngài kéo dài, có lúc gần như hết bịnh, nhưng có lúc lại tái phát, nên Ngài không thể trở về Tòa Thánh tiếp tục phận sự của một Thời Quân HTĐ.
Ngài Khai Thế Thái văn Thâu qui liễu tại tư gia ở xã Qui Đức vào ngày mùng 2-6-Tân Dậu (dl 3-7-1981), lúc 5 giờ 30 phút chiều, hưởng thọ 83 tuổi.
Đại diện của Hội Thánh và Ban Cai Quản Thánh Thất Cần Giuộc hay tin, liền đến nơi lo tổ chức Lễ An táng cho Ngài rất trọng thể tại Xã Qui Đức.
Vì hoàn cảnh của Đạo lúc bấy giờ đang hồi biến chuyển rất khó khăn, Hội Thánh và các cơ Đạo bị giải thể, nên không thể liệm thi hài của Ngài vào liên đài và đưa về Tòa Thánh làm Lễ Đạo Táng, nên đành phải mai táng theo nghi lễ bình thường tại phần đất riêng của gia đình Ngài tại xã Qui Đức, quận Cần Giuộc.
Ngài Khai Thế Thái văn Thâu là vị Thời Quân đăng Tiên sau chót trong số Thập nhị Thời Quân HTĐ kỳ đầu tiên của Đạo Cao Đài.

Tiếp Thế
LÊ THẾ VĨNH
(1903-1945)

Ngài Lê thế Vĩnh, sanh năm Quí Mão (1903) tại Sài gòn, xuất thân trong gia đình mô phạm.
Thân phụ của Ngài là Cụ Đốc học Lê văn Dương, Hiệu Trưởng trường Tiểu học Dakao, nay là trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng ở Dakao, Sài gòn.
Thân mẫu là Bà Trần thị Chọn, thọ Thiên phong Nữ Giáo Hữu trong kỳ Đức Chí Tôn phong Thánh Nữ phái lần thứ I ngày 14-Giêng-Đinh Mão (dl 15-2-1927).
Ngài Lê thế Vĩnh là em ruột của Ngài Bảo Thế Lê thiện Phước. Cả hai anh em đều được Đức Chí Tôn ân phong vào hàng Thời Quân HTĐ :
- Ngài Lê thiện Phước (1895-1975), chức Bảo Thế,
- Ngài Lê thế Vĩnh (1903-1945), chức Tiếp Thế.
Hiền nội của Ngài Lê thế Vĩnh là Bà Nguyễn thị Thơm, được đắc phong Lễ Sanh trong kỳ Đức Chí Tôn phong Thánh Nữ phái lần thứ I.
Trước năm Bính Dần, Ngài Lê thế Vĩnh là một ký giả nổi tiếng của các báo tại Sài gòn.
Vào năm 1925, Ngài Lê thế Vĩnh hay tin nhóm của quí Ông Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc và Cao hoài Sang xây bàn thỉnh Tiên về cho thi hay lắm, Ngài tò mò muốn biết thực hư, nên ngày 12-11-1925, Ngài cùng với một người bạn đồng nghiệp là Ông Phạm minh Kiên, tìm đến nhà Ông Cư để quan sát cho rõ ràng, định viết một thiên phóng sự đầy đủ chi tiết cho đăng báo cống hiến các độc giả.
Khi đến nhà Ông Cư thì thấy nhóm của Ông Cư đang xây bàn, có Đấng AĂÂ giáng.
Hai Ông Vĩnh và Kiên cũng bắt chước như các vị khác vào hầu đàn.
Ông Cư xin Đấng AĂÂ cho mỗi Ông một bài thi, Đấng AĂÂ gõ bàn đáp : "Để Bần đạo cho chung 2 người một bài thi mà thôi."
Ai nấy đều lấy làm lạ, nghĩ rằng tâm sự của mỗi người mỗi khác, hai người mà cho chung một bài thi thì làm thế nào được.
Đấng AĂÂ gõ bàn cho bài thi tứ tuyệt như vầy :

THI :
Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang.
Nước nhà ví biết thân là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.

Cho bài thi xong, ai nấy đều khen bài thi có 4 câu mà gồm đủ bộ vận của hai nhà báo.
Bài thi của Đấng AĂÂ diễn tả đúng tâm trạng của hai nhà báo, khiến Ông Lê thế Vĩnh vô cùng khâm phục, nên về sau nầy Ông Vĩnh mới chịu nhập môn cầu đạo.
Khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền HTĐ ngày 12-1- Đinh Mão (1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Lê thế Vĩnh vào chức Tiếp Thế HTĐ.
      Thời gian sau, Ngài Tiếp Thế Lê thế Vĩnh nghỉ nghề viết báo, về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo, làm việc nơi Văn phòng của Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung.

Khi xảy ra vụ Ông Nguyễn phan Long lên Tòa Thánh lập Hội Vạn Linh để vu khống và phỉ báng nhiều vị Chức sắc cao cấp, gây chia rẽ trong nội bộ của Đạo, Ngài Tiếp Thế Lê thế Vĩnh được Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp cử làm đại diện để đối phó với nhóm Nguyễn phan Long.

Vào năm 1945, Ngài Tiếp Thế Lê thế Vĩnh bỗng nhiên bị mất tích, không biết lực lượng nào bắt cóc Ngài, lúc đó, tình hình tại miền Nam VN rất lộn xộn, có rất nhiều đảng phái chánh trị hoạt động có võ trang. Sau đó, người ta tin rằng Ngài Tiếp Thế đã bị hãm hại, nhưng không biết Ngài chết vào ngày nào, và thi thể được chôn vùi ở đâu.
Do đó, Ngài Thời Quân Tiếp Thế Lê thế Vĩnh không có bài thài và cũng không có ngày lễ kỷ niệm hằng năm như các vị Thời Quân khác.

Danh nhân
Thập nhị Bảo Quân

Bảo Văn Pháp Quân
CAO QUỲNH DIÊU
(1884-1958)

Ngài Cao Quỳnh Diêu, hiệu là Mỹ Ngọc, nên thường xưng là Cao Mỹ Ngọc, Đạo hiệu là Cao Liên Tử, sanh năm Giáp Thân (1884) tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh Tây Ninh, trong một gia đình Nho phong thế phiệt. Thân phụ là Ông Cao quỳnh Tuân làm Cai Tổng Hàm Ninh Thượng. Ông Cao quỳnh Tuân mất lúc Ông Diêu được 14 tuổi. Đức Chí Tôn cho biết Ông Cao quỳnh Tuân là Xuất Bộ Tinh Quân ở Thượng giới giáng trần.
Thân mẫu của Ngài Cao quỳnh Diêu là Bà Trịnh thị Huệ, đắc phong Nữ Giáo Sư ngày 14-Giêng-Đinh Mão (dl 15-2-1927) do Đức Chí Tôn ân phong trong kỳ phong Thánh Nữ phái lần thứ I.
Ngài Cao quỳnh Diêu là anh ruột của Ngài Cao quỳnh Cư. Ngài Diêu là anh thứ ba, Ngài Cư là em thứ tư. Cả hai vị đều đắc phong hàng Chức sắc Đại Thiên phong đầu tiên của Đạo Cao Đài :
Ngài Cao quỳnh Diêu đắc phong Bảo Văn Pháp Quân trong Thập Nhị Bảo Quân, Hàn Lâm Viện của Đạo Cao Đài.
Ngài Cao quỳnh Cư đắc phong Thượng Phẩm HTĐ.
Hiền nội của Ngài Cao quỳnh Diêu là Bà Trần thị Lựu, đắc phong Nữ Giáo Hữu trong kỳ Đức Chí Tôn phong Thánh Nữ phái lần đầu tiên, được Đức Chí Tôn giao nhiệm vụ cùng với Nữ Giáo Sư Hương Hiếu (hiền nội của Ngài Cư, đây là hai chị em bạn dâu trong gia đình họ Cao) dạy các Đồng nhi tụng kinh.
Trong TNHT, quyển I trang 44, Đức Chí Tôn bảo :
" Lựu và Hiếu tập một lũ Nữ Đồng nhi chừng 36 đứa đặng mỗi khi Đại lễ nó tụng kinh cho Thầy."
 (Lựu : Nữ Giáo Hữu Hương Lựu, hiền nội Ngài Diêu.
Hiếu : Nữ Giáo Sư Hương Hiếu, hiền nội Ngài Cư.)
Ngài Cao quỳnh Diêu là 1 trong 4 vị (Cư, Tắc, Sang, Diêu) khởi sự xây bàn đầu tiên tại nhà Ông Cao hoài Sang để tiếp xúc với các vong linh nơi cõi vô hình.
 (Trong công cuộc Xây bàn nầy, Ông Cư đóng vai chủ động. Tiếp theo là thời kỳ phò Ngọc cơ tại nhà Ông Cư, với Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung cũng được tổ chức tại nhà Ông Cư, rồi Vọng Thiên Cầu Đạo, cũng tại nhà Ông Cư ở số 134 đường Bourdais Sài gòn, Ông Cư đều chủ động và tổ chức, nên các việc xảy ra trong giai đoạn nầy, xin độc giả xem : I, II, III trong Tiểu sử của Đức Thượng Phẩm Cao quỳnh Cư, sẽ biết rõ các việc của 4 Ông : Cư, Tắc, Sang, Diêu, khỏi phải lập lại nơi Tiểu sử của mỗi Ông).
Sau ngày lễ Hội Yến DTC tại nhà Ông Cư, 4 Ông phân làm 2 nhóm : Ông Cư và Ông Tắc xây bàn tại nhà Ông Cư; Ông Diêu và Sang phò Ngọc cơ tại nhà Ông Sang.
Khoảng tháng 5 năm1926 (Bính Dần), Đức Chí Tôn dạy thành lập 5 đàn cơ phổ độ, trong đó có một đàn ở Chợ Lớn, tại nhà Ông Cựu Thượng Nghị viên Lê văn Trung, Ngài Trung và Ngài Đốc Phủ Lê bá Trang thay phiên nhau chứng đàn, phò loan là 2 Ông : Cao hoài Sang và Cao quỳnh Diêu.
Ngày mùng 6-8-Bính Dần (dl 12-9-1926), Đức Chí Tôn giáng dạy riêng Ngài Cao quỳnh Diêu (hiệu Mỹ Ngọc), sau đó Đức Chí Tôn cho Xuất Bộ Tinh Quân Cao quỳnh Tuân, thân phụ của Ông Diêu và Cư giáng cơ dạy tiếp.
Hai bài Thánh giáo nầy, xin chép ra sau đây (Phò loan : Cao hoài Sang và Cao quỳnh Diêu) : (Xem TNHT. II. 9)

THẦY,
Mừng mấy con,
Mỹ Ngọc, từ đây việc nhà con an ổn, dầu điều chi nhớ để ý rằng có Thầy bên con.
Đặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự buồn vui và sự buồn tủi thường pha lẫn kế cận nhau, còn sự gì phải đến cho con, ấy là tại nó phải vậy, chớ cượng cầu mà nghịch Thánh ý Thầy.
Hãy xem dò theo đây mà day trở trong bước đường Đạo :
Mối Đạo từ đây rán vẹn gìn,
Tu là khổ hạnh khá đinh ninh.
Lòng thành một tấm Trời soi xét,
Gương rạng nghìn thu nguyệt chiếu minh.
Gai gốc lần đường công trước gắng,
Thảnh thơi có lúc buổi sau dành.
Vòng trần chìm nổi từ đây dứt,
Công quả tua bền độ chúng sinh.
               Thầy sẽ cho Xuất Bộ Tinh Quân đến nhập cơ. Thăng.
     Tái cầu :
CAO QUỲNH TUÂN
Mừng mấy con và mấy cháu,
Diêu ! Từ đây Thầy lấy làm vui mà thấy con đặng để bước vào đường Thánh đạo. Vậy hãy rán tu hạnh hầu phục hồi cựu vị.
Thầy rất vui mà thấy Cư và con đã đem tấm nhiệt thành mà cứu độ nhơn sanh khỏi dòng khổ hải. Ấy cũng số phần rất may mắn của lịnh Ngọc Hoàng đã định cho con và Cư, Tắc, Sang.
Vậy thầy có mấy lời thiết yếu cùng con sau đây :
Cựu vị ngày xưa đã có rồi,
Đường về chớ bỏ há con ôi !
Công trình chớ nệ xây nền Đạo,
Phước mỏng đâu hay bởi tứ Trời.
Đức trước hưởng rồi tua trả đức,
Ngôi sau gìn ắt đặng an ngôi.
Từ đây son sắt vì sanh chúng,
Cảnh tịnh mai sau cũng đặng ngồi.

Thầy đã an lòng cho con và Cư, còn ĐỨC, AN, THÂN, thì có lịnh Thượng Đế định phần cho chúng nó. LƯỢNG từ đây phải ở nơi Lôi Âm Tự mà chầu Phật Như Lai và nghe lịnh, chừng có lịnh Thượng Đế đòi sai trấn thì nó sẽ về cùng con đặng.
Thầy kiếu mấy con. Thăng.
GHI CHÚ :
Diêu : Cao quỳnh Diêu, tức Mỹ Ngọc.
Cư : Cao quỳnh Cư. Tắc : Phạm công Tắc. Sang : Cao hoài Sang.
Đức : Cao quỳnh Đức, con thứ hai của Ngài Cao quỳnh Diêu.
An : Cao quỳnh An, con của Ngài Cao quỳnh Cư, mất bên Pháp.
Thân : là Huệ Chương, con của Ngài Cao quỳnh Diêu.
Lượng: Cao quỳnh Lượng, con của Ngài Cao quỳnh Diêu, đã chết.
Năm Đinh Mão (1927), Ngài Cao quỳnh Diêu thọ phong Tiếp Lễ Nhạc Quân, có phận sự sắp đặt Lễ nghi và âm nhạc trong việc cúng tế trong Đạo.
Đầu năm 1929, Ngài Tiếp Lễ Nhạc Quân Cao quỳnh Diêu vâng lịnh của Hội Thánh, đặt ra 3 Bài Dâng Tam Bửu (Bài Dâng Hoa, Bài Dâng Rượu và Bài Dâng Trà), có dâng lên Bát Nương giáng cơ chỉnh văn lại, để thay thế 3 bài Dâng Tam Bửu cũ đã dùng lúc mới mở Đạo do Ngài Ngô văn Chiêu đặt ra.
Năm 1929, trong lúc Ngài Cao quỳnh Diêu còn ở phẩm Tiếp Lễ Nhạc Quân, Ngài viết quyển "NGHI TIẾT ĐẠI ĐÀN TIỂU ĐÀN" có mục đích chỉnh đốn Lễ Nhạc trong các Đàn Cúng Vía Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng cho đúng theo qui cách tốt đẹp, đạt được sự trang nghiêm, để áp dụng thống nhứt trong Đạo Cao Đài, dâng lên Đức Phạm Hộ Pháp duyệt xét rồi chuyển qua Hội Thánh. Hội Thánh xem xét đồng ý và Đức Quyền Giáo Tông ban hành, kể từ ngày 17-6-Canh Ngọ (dl 12-7-1930), áp dụng thống nhứt cho tất cả các Thánh Thất.
Trong quyển "Nghi Tiết Đại Đàn Tiểu Đàn" nầy, Ngài Tiếp Lễ Nhạc Quân Cao quỳnh Diêu, tức Cao Mỹ Ngọc, viết Lời tựa :
" LỄ là một việc rất trọng hệ, vì là cái hình thể của nền Đạo phô bày ra trước mặt người.
Chư Đạo hữu cần phải để công xem sóc nhắc nhở nhau mà gìn giữ tư cách trong mỗi khi hành lễ cho trang hoàng, hầu tỏ tấc lòng thành kỉnh của mình cùng Đức Chí Tôn và chư Tiên Phật Thánh Thần, lại cũng là một phương châm về đường phổ độ nữa.
Mỗi khi chúng ta hành lễ, thì người ngoại Đạo sẵn ý xem vào mà phân biệt Tà Chánh một ít của nền Đạo trong đó, vì Đạo là việc nhiệm mầu huyền bí rất sâu xa, người ngoài nào thấu đặng, duy có chăm nom cách cử chỉ của chúng ta trọng kỉnh các Đấng thế nào, thì đủ cho người vẽ ảnh Đạo ra thế nấy mà thôi.
NHẠC cũng là một việc cần yếu, vì là phương làm cho đầm ấm tao nhã cốt để dìu dẫn giúp cho thành Lễ, ra vẻ long trọng, vì đã che lấp các việc xao động trong cơn hành lễ, trên thì hiến cái vẻ tiêu tao phù trầm cho các Đấng, dưới là làm cho chúng ta, vì nghe đặng cái giọng tao nhã, nhặt khoan, hoặc có lúc vì tiếng nhạc trổi mà lòng ta vẫn hân hoan mà quên bẵng cái mỏi mệt trong cơn hành lễ hoặc có khoản vì cái thức phù ba của giọng đờn mà làm cho ta yên tịnh, mới có thể thiền tâm vọng cầu các Đấng cho thấu đáo.
Có câu phương ngôn của bậc hiền triết miền Âu rằng : "La musique adoucit les moeurs", lại có nói rằng :"Nếu muốn biết sự tấn hóa của một sắc dân, sau sẽ trở nên thế nào, thì duy có xem trong nét văn chương và nghe giọng nhạc của sắc dân ấy cũng đủ hiểu trước." Huống chi Đấng Chí Tôn ra công khó nhọc khai sáng cho ta một nền Đại Đạo như vầy, lại dìu dẫn ta từ bước, mà ta lại chẳng để hết tâm chí chấn chỉnh nghề Nhạc cho hoàn toàn hầu gìn giữ đường tấn hóa cho nền Đạo sao ?

Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 20-4-Kỷ Tỵ (1929)
LỄ NHAÏC QUÂN Cao Mỹ Ngọc
Đầu năm Canh Ngọ (1930), Ngài Cao quỳnh Diêu được thăng lên phẩm Bảo Văn Pháp Quân chánh vị đặng chỉnh đốn Lễ Nhạc cho hoàn toàn, cho tới ngày Thành Đạo.
Năm 1932, Ngài Cao quỳnh Diêu viết bài Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu, cũng được dâng lên Bát Nương DTC chỉnh văn lại, dùng để làm Kinh Cúng Tứ Thời Đức Phật Mẫu.
Đầu năm Giáp Tuất (1934), nền Đạo chinh nghiêng vì có sự chia rẽ trong nội bộ các Chức sắc lãnh đạo cao cấp, để rồi sau đó, một vài Chức sắc cao cấp tách ra lập Chi phái chống lại Tòa Thánh Tây Ninh, đứng đầu là 2 Ngài Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Lê bá Trang). Ngài Bảo Văn Pháp Quân cũng bị Chi phái lôi kéo làm cho Ngài phân vân. May nhờ Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng cơ khuyên nhủ, phân tách cho thấy điều hơn lẽ thiệt, làm cho Ngài thức tỉnh, quyết phụng sự Đạo nơi Tòa Thánh Tây Ninh.
Bài giáng cơ của Đức Thái Thượng ngày16-7-Giáp Tuất (dl 25-8-1934) khá dài, xin trích ra một đoạn :
" Nền Đạo đã chia ba, theo lời Bần Đạo đã nói, Mỹ Ngọc Hiền hữu muốn lập công nơi nào ? Tòa Thánh, Trung Ương, Hậu Giang ?
Mỹ Ngọc bạch : Nơi Tòa Thánh.
- Tòa Thánh là gốc cội của Đạo, nếu muốn lập công nơi đó , vì Thầy đã dạy, thì nên làm đi, cách xây đổi phương lược tùy cơ ứng biến, ấy là cơ nghiệp riêng của mỗi Đạo hữu, Bần đạo không dám dạy, nếu chờ thì phải trễ chăng ? Hiền hữu nên xét, Đời khác Đạo khác, những sự lỗi lầm của mình tạo khổ cho mình mà nguyên nhân vẫn cứ huyền bí, mắt thịt tâm phàm chưa dễ độ đặng, nên xét cho xa." (TNHT. II. 96)
 (Phần công nghiệp hành Đạo của Ngài Bảo Văn Pháp Quân, xin độc giả xem nơi bài Điếu Văn của Đức Cao Thượng Sanh).
Ngài Bảo Văn Pháp Quân đăng Tiên vào ngày mùng 4-9-Mậu Tuất (dl 16-10-1958, tại Văn Phòng Trung Tông Đạo, trong Nội Ô Tòa Thánh, hưởng thọ 75 tuổi.
Hội Thánh tổ chức Lễ Đạo Táng cho Ngài rất trọng thể.

Sau đây là Bài Ai Điếu của Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang, đọc trong Lễ An Táng Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu ngày 6-9-Mậu Tuất (dl 18-10-1958) :
     Kính thưa quí Quan chức,
     Kính thưa quí Quan khách,
     Kính thưa quí Ông, quí Bà,

Thay mặt Hội Thánh HTĐ, tôi xin thành thật để lời cám ơn quí vị không nệ đường sá khó nhọc, có lòng chiếu cố đến dự lễ an tọa liên đài của Đạo huynh chúng tôi là Ngài Bảo văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu, một vị trong hàng Thập nhị Bảo Quân.
Kính thưa Hội Thánh và toàn Đạo Lưỡng phái,
Trước liên đài, tôi xin nhắc lại công nghiệp của Ngài Bảo Văn Pháp Quân, đã hết lòng tận tụy sứ mạng thiêng liêng và trải qua bao nhiêu khổ cực để góp phần xây dựng nền Đại Đạo trong lúc ban sơ.
Hưởng thọ 75 tuổi, Ngài Bảo Văn Pháp Quân sanh trưởng tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, thuộc tỉnh Tây Ninh, trong một gia đình thế phiệt Nho phong.
Cụ thân sinh Ngài có 3 người con trai, mà Ngài là Anh cả, và kế Ngài là Đức Cao Thượng Phẩm của ĐĐTKPĐ.
Ngài là một vị trong Chức sắc HTĐ mà buổi Đạo mới khai, Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng liêng đã đến dìu dắt trước nhứt để giao phó sứ mạng thiêng liêng sử dụng cơ bút đặng độ nhơn sanh nhập vào cửa Đại Đạo.
Đầu năm 1926, tức là năm Bính Dần, một lượt với chư vị Chức sắc cao cấp HTĐ, Ngài đắc lịnh nâng loan, hiệp với Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, lúc đương phẩm Đầu Sư, và các vị Đại Thiên phong CTĐ đi phổ độ khắp các tỉnh, nhứt là các tỉnh trung ương và miền Tây Nam Việt.
Mặc dầu còn giúp việc cho một hãng tư, Ngài không nệ cực nhọc gắng làm tròn nhiệm vụ trong 2 năm Bính Dần và Đinh Mão (1926 và 1927), là 2 năm mà Đức Chí Tôn cho huyền diệu cơ bút, thâu nhập môn gần một triệu tín đồ, đem lại cho nền Đạo một thắng lợi vẻ vang về mặt tinh thần cũng như về mặt phổ thông Chơn đạo.
Ngài thọ phong Tiếp Lễ Nhạc Quân năm Đinh Mão (1927), qua năm Kỷ Tỵ (1929) lối tháng 10, mặc dầu hưởng lương bổng trọng hậu, Ngài phế đời về Tòa Thánh hiến thân lo Đạo, giúp Hội Thánh sắp đặt nội bộ và nhứt là góp công trong việc nâng loan cho Đức Chí Tôn và các Đấng dạy truyền Đạo lý.
Đầu năm Canh Ngũ (1930), được đắc phẩm vị Bảo Văn Pháp Quân, Ngài cố tâm chấn chỉnh Lễ Nhạc, ra công dạy Nhạc cho ban Nhạc sĩ tại Tòa Thánh, từ điệu nghệ cầm roi trống cho tới bài bản Âm nhạc.
Đến cuối năm Canh Ngũ (1930), Ngài rủi bị nạn hỏa tai, cả nhà cửa sự nghiệp bị thiêu hủy, nên vi sinh kế Ngài trở về Phú Nhuận (Gia Định).
Kể một thời gian qua, Ngài hiệp với mấy bạn Thập nhị Thời quân HTĐ để gầy dựng cơ quan tái lập tại Thánh Thất Từ Vân nơi Phú Nhuận, lo chú giải Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và lập Luật điều phụ thuộc, để sau nầy giúp cho Chức sắc dễ thi hành phận sự.
Mãi đến năm Canh Dần (1950), Ngài trở về Tòa Thánh, quyết lòng cộng tác với Chức sắc cao cấp HTĐ lo làm phận sự.
Nhưng từ ấy đến sau, vì tuổi cao sức yếu, Ngài không thể đảm đương nhiệm vụ chung lo với Hội Thánh, hơn nữa Ngài đã phế cả sự nghiệp vì chủ nghĩa của Đạo và bởi đó, Ngài chịu lắm vất vả về mặt vật chất, xác thân càng tiều tụy hao mòn.
Vừa rồi Ngài ngọa bịnh không mấy ngày, bỗng phút vĩnh biệt cố thân, xa miền dương thế.
Hôm nay, Ngài Bảo Văn Pháp Quân đã ra người thiên cổ. Tuy đã biết nợ Đạo rồi xong, tuồng đời chấm dứt, Ngài trả xác thân lại cho gió bụi để về với Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, và rồi đây chúng tôi có thể tiếp xúc với Ngài bằng huyền diệu cơ bút.
Nhưng trước cảnh tử biệt kẻ mất người còn, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi mến tiếc khi nhớ đến bạn đồng thuyền đã cùng chúng tôi chia sớt ấm lạnh mặn nồng và chung lưng đâu cật trót hơn mấy mươi năm để mưu cầu hạnh phúc cho nhơn loại.
Vậy nơi đây là nơi an nghỉ giấc ngàn thu, chúng tôi thành kỉnh nghiêng mình để bái biệt liên đài lần cuối cùng và xin thành tâm cầu nguyện cho Ngài được hưởng đầy ân huệ của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu nơi cõi TLHS.
Tòa Thánh, ngày 6-9-Mậu Tuất (dl 18-10-1958)
Thay mặt Hội Thánh HTĐ
THƯỢNG SANH Cao hoài Sang

Nguyên căn của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu là Liên Huê Tiên, một vị Tán Tiên mà vị Đệ nhứt Tổ Sư là Đông Phương Sóc, Đệ nhị Tổ Sư là Tây Phương Sóc. Trong Truyện Phong Kiếm Xuân Thu, Liên Huê Tiên có phép thuật rất huyền diệu , khi gặp biến thì miệng nhả ra một cái bông sen để chống đỡ. Liên Huê Tiên có theo Đông Phương Sóc xuống trần giúp Liễu Nhứt Chơn Nhơn Tôn Tẫn đánh lại Hải Triều Thánh Nhân.
Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Liên Huê Tiên chiết chơn linh giáng trần là Ngài Cao quỳnh Diêu để làm tướng soái cho Đức Chí Tôn mở Đạo.
Do đó, lúc ban sơ, còn xây bàn năm 1925, Liên Huê Tiên có giáng, kêu ngay Mỹ Ngọc, dặn do:
" Mỹ Ngọc ! Nghe Lão :
Hoành thượng đơn khai chí bách thiền,
Hựu tu chưởng hiệp khởi tranh liên.
Mật đài khánh nhựt khinh hành định,
Cửu tái quang minh đắc cộng niên.
Mật sự khá kiếm hiểu.
" LIÊN HUÊ TIÊN

Thuở sanh tiền, Ngài Bảo Văn Pháp Quân là một thi sĩ có tiếng trên thi đàn. Sau đây xin trích tượng trưng vài bài thi của Ngài :

NGỤ ĐỜI
Tuồng đời mộng ảo có chi mong,
Giàng giựt càng thêm lấm bụi hồng.
Phú quí dường mây treo trước gió,
Lợi danh như bọt nổi trên dòng.
Gặp cơn nước đổ giông tuông đến,
Là buổi mây tan, bọt há còn ?
Nào bẵng lánh mình xa bến tục,
Lần theo Chơn đạo bước thong dong.

TRÒ ĐỜI
Dừng chơn toan hỏi thử trò đời,
Ngảnh lại tuổi đầu đã sáu mươi.
Thấy nẻo công danh thêm chán ngán,
Dòm gương phú quí bắt buồn cười.
Đai cân mượn vẻ như con hát,
Chung đỉnh bày trò ấy chuyện chơi.
Sao bẵng đưa chơn theo hạc nội,
Ven mây lần bước đến thang Trời.

CAO LIÊN TỬ
Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu giáng cơ :
Đêm 12-9-Mậu Tuất (dl 24-10-1958), tức là sau khi Ngài Diêu mất được 8 ngày, Ngài giáng cơ tại Trung Tông Đạo, Phò loan : Huệ Chương và Nữ Giáo Hữu Hương Cường.

BẢO VĂN PHÁP QUÂN CAO QUỲNH DIÊU
Chào tất cả mấy em Nam Nữ và mấy con,
Bần đạo có mấy lời nầy để mấy em và mấy con được hiểu : Bần đạo rất mừng được mấy em và mấy con lo lắng cho Bần đạo. Vậy Bần đạo hết lòng cảm tạ.
Bần đạo được Đức Phật Mẫu ban ân, nên được nhẹ nhàng lo phổ độ vô vi nơi miền Á Đông cùng mấy bạn tiền bối.
Mấy em và mấy con nên vui để lo phận sự tiếp tục. Bần đạo được đặc ân mới được về sớm để tạo nghiệp thiêng liêng, công quả như thế để kịp buổi Long Hoa Đại Hội.
Bà Ngoại con Vân, rán lo phục dược ân cần, chớ nên âu sầu theo thường tình. Bần đạo mất cũng như còn, chớ đâu phải biệt tích mà buồn. Nên tự giải mới là hiểu Đạo đó, có Bần đạo trợ giúp luôn về vô hình. Hiện giờ Bần đạo thơ thới, chớ không phải khổ nhọc như hồi sanh tiền. Nên vui mừng cho Bần đạo đã thoát khổ.
Có Phối sư Thái Hào Thanh ở nhà không ?
Bạch : Ông Phối Sư Hào đã vào nghỉ tại Nội Chánh.
Nói lại, Bần đạo rất cám ơn về sự hết lòng với Bần đạo buổi chung qui, và xin cảm tạ ơn Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng Nam Nữ và Phước Thiện, toàn thể Trung Tông, tất cả Giáo Viên Đạo Đức Học Đường và toàn đạo.
Sự dĩ định của Thiên Thơ đúng theo với thời cơ xây chuyển. Kiếm Thánh giáo cũ xem lại thì thấy rõ. Mấy em và mấy con cần cấp lo bồi đắp công quả thiêng liêng cho kịp buổi, đừng để mất thì giờ, vì cơ mầu nhiệm mắc lắm đó, khó đoán được. THĂNG.

Đàn cơ đêm 26-11-Mậu Tuất (dl 5-1-1959) tại Giáo Tông Đường, Phò loan : Thượng Sanh - Tiếp Pháp. (8 giờ 30)

BẢO VĂN PHÁP QUÂN CAO QUỲNH DIÊU
Chào Hai em Thượng Sanh và Tiếp Pháp, và mấy em.
Cười . . .
Tiếp Pháp ! Bây giờ Bần đạo hết rệu rồi nghe không ! Nhớ lại buổi trước còn nằm dầm tại TrungTông thì chán quá ! Đi ở cũng là sự thường. Đi rồi ngảnh lại thương mấy bạn còn ở phải chịu bao nhiêu nhọc nhằn tâm trí, nhưng đó là nhiệm vụ của mỗi bạn do Đức Chí Tôn sắp đặt.
Bần đạo nhờ từ tâm của Phật Mẫu và Cửu vị Phật Nương DTC nên cũng đặng phần ân huệ thiêng liêng.
Hiện giờ, Bần đạo hiệp với mấy bạn của chúng ta nơi thiêng liêng tiếp tục làm công quả về mặt phổ độ Á Châu.
Bần đạo có lời hiến chư quí bạn :
Đau khổ ném xong cái gánh trần,
Nhẹ nhàng mới toại chí thanh vân.
Đường mây vừa thoát tầm sông lệ,
Cánh hạc vui qua tận đảnh thần.
Công lớn chưa ghi trang sử đạo,
Nghiệp hồng còn tiếp dựng nền nhân.
Giựt mình hối tiếc bao tâm sự,
Nhắn bạn trường tu gắng vẹn phần.
Thượng Sanh cùng cả thảy mấy bạn, Bần đạo xin để lời cám ơn, thôi xin kiếu. THĂNG

Danh Nhân
Cơ Quan Phước Thiện

Phối Thánh
PHẠM VĂN MÀNG
(1888-1933)

Ngài Phạm văn Màng, sanh năm Mậu Tý (1888) tại làng Thanh Phước, quận Gò Dầu Hạ, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là Cụ Phạm văn Nhơn, thân mẫu là Bà Trần thị Tơ, gia đình lễ giáo Nho gia.
Thuở nhỏ, Ông Màng được cha mẹ cho đi học chữ Nho độ 4 năm, sau đó theo học chữ quốc ngữ và chữ Pháp.
Năm 18 tuổi, Ông cưới vợ, Cô Trịnh thị Bền, người cùng làng. Hai vợ chồng sanh đặng tất cả 7 người con, nhưng chỉ nuôi được 1 trai và 3 gái : Một trai tên là Phạm văn Xạnh (về sau đắc phong phẩm Chơn Nhơn, chết), 3 gái tên là : Phạm thị Xia (Giáo Thiện, chết), Phạm thị Hỏi (Giáo Thiện, chết), Phạm thị Xong (Giáo Thiện, hiện được 73 tuổi tính đến năm 1996, có chồng là Lê ngọc Lượm).
Ông Màng được Ban Hội Tề trong làng cử làm Phó Hương Quản.
Ngày 21-12-Bính Dần, Ông Màng đến Thánh Thất tại chùa Gò Kén để tìm hiểu sự huyền diệu của Đức Chí Tôn và Ông thành tâm xin nhập môn vào Đạo Cao Đài ngay hôm đó.
Khi quí Chức sắc Thiên phong vâng lịnh Đức Lý Giáo Tông đi mua đất rừng tại làng Long Thành để cất Tòa Thánh làm nền tảng cho Đạo, Ông Màng liền xin từ chức Phó Hương Quản để trọn hiến thân làm công quả cho Đạo.
Ông được Đức Cao Thượng Phẩm và Phối Sư Thái Bính Thanh cho phép về quê mộ nhân viên công quả lên tiếp sức khai phá rừng, tạo tác xe bò để chuyên chở và làm những lâm cụ cần thiết. Ông đã hoàn thành công tác và cùng với anh em công quả cất một dãy nhà ở Đông Lang bằng cây lợp tranh để Chức sắc và khách thập phương có nơi tạm nghỉ.
Ngài Phối Sư Thái Bính Thanh dạy Ông về làng mộ thêm công quả nữa để tiếp tục khai phá rừng làm những con đường trong Nội Ô. Ông Màng đều hoàn thành tốt đẹp.
Dưới sự chỉ dạy của Đức Cao Thượng Phẩm, Ông Màng đã góp phần đắc lực vào những công việc quan trọng như cất Tòa Thánh tạm, Hậu Điện, Đông Lang, Tây Lang, Phòng Trù, Nhà khách.
Năm 1928, cơ khảo Đạo xảy ra, Đức Cao Thượng Phẩm bị một nhóm người dùng bạo lực đuổi ra khỏi Tòa Thánh, Ông Màng cùng với Lễ Sanh Trịnh Phong Cương phò tá Đức Cao Thượng Phẩm về khu đất của gia đình Đức Ngài ở gần Giếng Mạch Tây Ninh, rồi cùng với một số bạn đạo tạo dựng nơi đây một ngôi nhà, được Đức Cao Thượng Phẩm đặt tên là Thảo Xá Hiền Cung để làm nơi dưỡng tu cho Đức Ngài.
Năm 1929, Đức Cao Thượng Phẩm đăng Tiên. Sau khi lo việc đám táng cho Đức Ngài xong thì 2 Ông Màng và Cương lui về quê nhà. Ông Màng nhận chức Phó Trị Sự để tiếp tục lập công quả.
Đầu năm Canh Ngọ (1930), Đức Phạm Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn lập Phạm Môn để tận độ nhơn sanh. Ông Màng vội thu xếp công việc gia đình, từ chức Phó Trị Sự, trở lên Tòa Thánh hội hiệp cùng các bạn đạo trung kiên buổi trước xin hiến thân trọn đời vào Phạm Môn để lập công quả.
Đức Hộ Pháp giao cho Ông Màng trách nhiệm Cai quản Sở Trường Hòa, điều động 50 anh em công quả, trong đó có một số người Tần (người Miên) khuếch trương Lương điền Công nghệ, tạo nguồn sống khá dồi dào cho Đạo. Ông Màng về điều độ gia đình gồm vợ và 4 đứa con cùng theo Ông lên Tòa Thánh, cùng làm công quả nơi Sở Trường Hòa, và hiến thân trọn đời vào Phạm Môn.
Trong thời gian Ông Màng làm Cai Sở Trường Hoà, Ông bị một số người đứng đơn vu oan Ông gồm 36 khoản tố cáo lên Đức Hộ Pháp.
Đức Hộ Pháp gọi Ông lên để xét hỏi Ông có phạm vào các tội đó không ?
Ông Màng nói : Bạch Thầy, con có các tội đó, con xin nhận chịu và cúi đầu thọ tội.
Đức Hộ Pháp hỏi : Sao em dám phạm tội như vậy ?
Ông Màng cung kính đáp : Bạch Thầy, các anh lớn con, mấy em con, không thương con, nói con như vậy, nếu mà con nói không có thì thành ra mấy anh em con nói không thật với Thầy. Thầy quở phạt anh em con tội nghiệp.
Đức Phạm Hộ Pháp vốn đã rõ oan khúc của Ông, nhưng hỏi thử để xem Ông đối đáp như thế nào, nay nghe Ông Màng nói như vậy thì Đức Ngài nghẹn ngào đổ lụy. Đức Ngài an ủi Ông với một tình cảm thắm thiết giữa thầy và trò, và khuyến khích Ông cứ chí quyết quên mình để phụng sự Đạo pháp.
Ngày mùng 3-Giêng-Nhâm Thân (dl 7-2-1932), Đức Phạm Hộ Pháp lập hồng thệ cho 72 vị công quả Phạm Môn kỳ nhứt tại Sở Trường Hòa. Ông Màng đứng tên trong danh sách với số thứ tự 26, vợ Ông là Trần thị Bền cùng 4 con cũng được lập hồng thệ cùng với Ông. Về sau, Cô Trần thị Bền được Đức Lý Giáo Tông giáng cơ phong vào phẩm Lễ Sanh Giáo Thiện Nữ phái đêm 15-2-Ất Hợi (dl 19-3-1935), sau nầy, Cô được thăng lên phẩm Chí Thiện.
Sau 3 năm cai quản ổn định Sở Trường Hòa, Đức Phạm Hộ Pháp bổ Ông Màng qua làm Cai Sở Bàu Sen để khuếch trương thêm.
Làm Cai Sở Bàu Sen được gần một năm thì Ông Màng lâm bịnh nặng. Đức Hộ Pháp thường đến thăm và tặng thuốc cho Ông uống.
Ngày 27-9-Quí Dậu (dl 14-11-1933), Ông Thần Võ văn Thoàn (một vị công quả trong Phạm Môn đã qui vị trước đây và đắc Thần vị), về cơ bạch với Đức Phạm Hộ Pháp rằng : " Đắc lịnh Trần văn Xương (Thần Hoàng Long Thành), chư Địa Thần lo nghinh tiếp Phối Thánh Phạm văn Màng."
Đúng 12 giờ khuya, tức 00 giờ ngày 1-10-Quí Dậu (dl 18-11-1933) Ông Phạm văn Màng nhẹ nhàng thoát xác tại Sở Quảng Nghệ, hưởng được 46 tuổi.
Linh cữu được quàn tại Sở Quảng Nghệ 3 ngày, Đức Hộ Pháp đứng chủ sự đám táng, hành pháp độ thăng và có thuyết minh cho toàn thể tín đồ tham dự đám táng biết rằng, Ông Phạm văn Màng đã đắc Thánh vị, phẩm Phối Thánh.
13 ngày sau, tại đàn cơ nơi Phạm Nghiệp, Đức Phạm Hộ Pháp và Ngài Bảo Văn Pháp Quân phò loan, vị Thần Võ văn Thoàn về cơ bạch với Đức Phạm Hộ Pháp : Phạm văn Màng đã đắc Thánh vị, và xin tái kiếp hành đạo vì Ông chưa thỏa nguyện công nghiệp hành đạo."
Đức Phạm Hộ Pháp không cho Ông Màng tái kiếp vì e không kịp với Cơ Chuyển thế của Đức Chí Tôn.
Sự đắc Thánh của Ông Phạm văn Màng tỏ ra một cách rõ ràng rằng : dù phẩm vị tại thế gian thấp kém, nhưng công hạnh và tâm đức đầy đủ, trọn vẹn phế đời hành đạo, trọn tâm trọn chí lập công bồi đức thì nhứt định sẽ đạt được phẩm vị cao trọng xứng đáng nơi cõi thiêng liêng.
Đức Chí Tôn đã từng dạy rằng: "Thầy lập cho các con một trường thi công quả, các con muốn đến đặng Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi."
Ngày 15-3-1938, Đức Phạm Hộ Pháp Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng, đã ký Đạo Nghị Định số 7/PT truy phong Ngài Phối Thánh Phạm văn Màng vào phẩm THÁNH NHƠN của Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Hội Thánh Phước Thiện, cùng với một số Chức sắc PT hữu công khác đã qui liễu, cũng được truy phong lên các phẩm Đạo Nhơn, Chí Thiện, vv. . .
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Văn Phòng PHẠM HỘ PHÁP
Số : 7 / PT
ĐẠO NGHỊ ĐỊNH

Chiếu y Pháp Chánh Tuyền ban quyền hành cho Giáo Tông và Hộ Pháp,
Chiếu y Tờ Vi bằng của Đại Hội Phước Thiện ngày mùng 9 tháng Giêng năm Mậu Dần (1938) công cử những vị hữu công cùng Cơ Quan Phước Thiện vào hàng truy phong Nam phái theo kỷ luật Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng.
Chiếu theo hồ sơ công nghiệp của mỗi vị,
Nghĩ vì những vị kể tên dưới đây tận tâm cùng Cơ Quan Phước Thiện từ buổi ban sơ cho đến ngày qui liễu, nên :
NGHỊ ĐỊNH
Điều thứ nhứt : Ban hành cho toàn đạo đều rõ, những vị dưới đây đặng truy phong vào hàng Chức sắc PT :

I . THÁNH NHƠN :
1 . Phạm văn Màng, 46 tuổi, ở làng Thanh Phước, Tổng Mỹ Ninh, Tây Ninh.
II . ĐẠO NHƠN :
2 . . . . . . . . . . . . .
Điều thứ nhì : Trần Khai Pháp HTĐ Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện ĐĐTKPĐ và Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, mỗi vị tùy phận sự của mình, lãnh thi hành Đạo Nghị Định nầy.
Lập tại Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 14-2-Mậu Dần. (Le 15 Mars 1938)
HỘ PHÁP
Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
(ấn ký)
PHẠM CÔNG TẮC

Ngày 14-11-Mậu Tý (dl 14-12-1948), Đức Phạm Hộ Pháp Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài ký Thánh Lịnh cho Hội Thánh hằng năm cử hành Lễ Vía Kỷ niệm Nhị vị Phối Thánh Phạm văn Màng và Bùi ái Thoại, vì công nghiệp của Nhị vị Phối Thánh từ buổi ban sơ đã được Ngọc Hư Cung nhìn nhận, cùng đặc ân của Quyền Chí Tôn ân tứ.
GHI CHÚ : Vị Thần Võ văn Thoàn và Phối Thánh Phạm văn Màng, lúc ở thế là 2 anh em bạn rể, Ông Thoàn vai anh. Cả 2 vị đều là đệ tử của Phạm Môn, được Đức Phạm Hộ Pháp điểm đạo cho lập Hồng Thệ Đào Viên Pháp cùng một lượt tại Sở Trường Hòa ngày 3-Giêng-Nhâm Thân. Ông Thoàn qui liễu trước và đắc Thần vị.
Đức Phạm Hộ Pháp có cho đôi liễn đặt trên Bàn đưa :
VÕ phong trần khổ thoát,
THOÀN pháp cảnh Tiên du.
BÀI THÀI hiến lễ Ngài Phối Thánh Phạm văn Màng :

1 . May sanh trọn kiếp vốn hiền lương,
Nẻo Thánh từ xưa giữ một đường.
Đoạt đạo nhờ Thầy dìu bước tục,
Thiên ân hạnh hưởng phước thuần dương.

2 . Dương trần chạnh nhớ bạn đồng môn,
Khổ nhọc lao lung chịu dập dồn.
Độ thế Thầy nêu cờ cứu khổ,
Chỉ phiền thế tục dốt tầm chơn.

3 . Tầm chơn đã có mặt chơn sư,
Hưởng phước ban cho lại chối từ.
Quyền lợi đổi trao nền hạnh phúc,
Mà ra khổ hải chịu đồ lưu.

Theo sự giải thích của Ông Nhạc Sư Trần thiện Niệm, khi tế Ngài Phối Thánh Phạm văn Màng, trước hết đồng nhi thài bài Tuần Hương : "Nghệ hương hiến, nghệ hương tiền".
- Đến Tuần Hoa thì đồng nhi thài Bài 1.
- Đến Tuần Tửu thì đồng nhi thài Bài 2.
- Đến Tuần Trà thì đồng nhi thài Bài 3.
Phối Thánh Phạm văn Màng rất thường giáng cơ.
Năm 1935, Ngài giáng cơ nói chuyện với 20 vị Lễ Sanh Giáo Thiện đầu tiên, có cho bài thi :

THI :
Trường công thấy bạn những xôn xao,
Nhớ đến tình xưa bắt nghẹn ngào.
Dặm thảm thương ai đang để bước,
Cõi Thiên ôm dạ chịu riêng đau.

Báo Ân Từ, đêm 7-11-Mậu Tý (dl 7-12-1948), Phò loan : Hộ Pháp - Khai Pháp. Phối Thánh Màng giáng cơ :
PHỐI THÁNH PHẠM VĂN MÀNG
      - Bạch Sư phụ, con là Màng đây.
      - Hễ thấy nhau thêm tủi.
      - Xin chào mấy vị Sư thúc, mấy bạn, mấy em.
      - Bạch Sư phụ, khi Sư phụ bị đồ lưu thì con và "Nhượng" vẫn gần bên, Nhượng và con đã chán thấy điều phản phúc của nhiều người. Nếu chẳng quả Thiên Thơ định trấn Thánh thì mấy kẻ ấy đã bị hai con tàn hại. Lẽ định là sanh Thánh chớ không phải tử Thánh. Nhưng Thiên Thơ biến chuyển, ngày nay họ vẫn còn ra vào Ngọc Hư Cung đợi án. Tiếc thay cho một kiếp sanh, đã gặp Phật mà không thấy Phật thì Thiên vị lấy đâu mà định đặng?
Các bạn Phạm Môn ! Khá để ý cho lắm nghe ! Một lời quở của đủ sa đọa, đừng gây tội tình mà khổ đa.
Thưa các bạn, Anh "Lịnh" ngày giờ nầy đã ra thân phận một người phụ nữ, hại nỗi lại tái sanh nơi cửa cướp đảng côn đồ, biết có nhớ thân mà tầm đạo.
Thưa cùng Sư Mẫu rằng : Cô "Bền " đã an phận nơi Bạch Thiên Cung. Còn mấy bạn kia cũng có phần đoạt vị mà cũng có tái kiếp. Chị "Yến" đương hành đạo tại Trung Huê, vì sanh tiền chị đã đại nguyện độ rỗi Đường nhơn. Nói với anh "Tiều" rằng : Con nhỏ đã theo má nó.
Thường thường các bạn tuy không thấy chớ chúng tôi hằng về thăm viếng.
Anh "Thế" còn hầu ở Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, có mảy mún lỗi lầm chẳng chi trọng hệ mà phòng ngại.
Các anh em đã qui liễu thì về chung một chỗ với nhau hết. Mấy anh em đừng lo ngại, chỉ lo TU và theo chơn Sư phụ là đủ. Em nhượng cơ cho Phối Thánh Thoại. Thăng.

Phối Thánh
BÙI ÁI THOẠI
(1909-1946)

Ngài Bùi ái Thoại, tên thật là Bùi văn Dậu, sanh năm Kỷ Dậu (1909) (Theo lời thuật lại của Ông Văn hiếu Liêm ở Phạm Nghiệp, khi Ngài Bùi văn Dậu nhập môn cầu đạo thì Ngài đổi tên là Bùi ái Thoại, (Ái là yêu, Thoại là tiếng lời nói) ý nghĩa là Ngài yêu tiếng gọi của Hội Thánh nên nhập môn và hiến thân làm công quả cho Hội Thánh. Nhưng Sớ Cầu Đạo của Ngài thì ghi tên là : Bùi ái Thại, sanh năm 1913 (Quí Sửu). Hiện ngôi mộ của Ngài tọa lạc tại Nghĩa địa Cực Lạc cũ, bên cạnh Thánh Thất Phận đạo Đệ Tứ, và trên mộ bia lại ghi năm sanh của Ngài là 1908 (Mậu Thân). ) tại làng Hậu Thành, tổng Phong Hòa, quận Cái Bè tỉnh Mỹ Tho. Nghề nghiệp : Thợ vẽ.
Thân phụ là Bùi văn Hên (Đội Trưởng của Nam triều) và thân mẫu là Huỳnh thị Ngà (có chỗ chép là Nguyễn thị Ngà).
Ngài Bùi Ái Thoại nhập môn vào Đạo Cao Đài ngày mùng 7-10-Đinh Mão (dl 1-11-1927) tại Hậu Thành, Cái Bè, và cũng từ ngày nầy, Ông hiến thân làm công quả nơi Sở Lương điền Công nghệ Quận đạo Cái Bè.
Thân phụ của Ngài Bùi ái Thoại xuất thân từ võ quan của triều đình Huế, người miền Trung, vì sanh kế phải vào Nam lập nghiệp, mới gặp thân mẫu của Ngài ở cái Bè, nên nếp sống gia đình chịu ảnh hưởng Nho phong. Ông Bà sanh con đông, nhưng không nuôi được vẹn toàn, chỉ còn Ngài Bùi ái Thoại là con độc nhứt, nhưng Ông Bà lại mất sớm lúc Ngài Bùi ái Thoại còn niên thiếu.
Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng nhờ hấp thụ sự giáo hóa của gia đình nên Ngài Thoại được bà con chòm xóm thương mến, nhất là tánh chất của Ngài rất hiền hòa chơn thật.
Khi Đạo Cao Đài vừa truyền đến quê của Ngài thì Ngài liền nhập môn cầu đạo, rồi làm tờ hiến thân vào Sở Lương điền Công nghệ tại Quận đạo Cái bè. Năm ấy, Ngài được 19 tuổi.
Năm 1933, Ngài Thoại được 25 tuổi, Ngài lập gia đình, vợ của Ngài cũng ở Cái Bè, sanh được một đứa con gái, rồi chẳng may, vợ của Ngài đau bịnh qua đời, để lại gà trống nuôi con. Chẳng bao lâu sau, đứa con gái thân yêu cũng bị bịnh chết. Ngài trở nên bơ vơ một mình, nhưng vẫn đối xử với cha mẹ vợ rất hiếu kỉnh như đối với cha mẹ ruột, hòa mục cùng anh em trong nhà, khiến mọi người đều thương mến, đồng đạo nể vì.
Năm Ất Hợi (1935), có lịnh của Hội Thánh mộ công quả lên Tây Ninh xây cất Tòa Thánh, Ngài liền xin phép cha mẹ vợ để đi lên Tây Ninh hiến thân làm công quả.
Ngài có tức cảnh làm bài thi :
Xót cảnh cuồng phong chiết cội ngô,
Khách trần sống sót bại cơ đồ.
Hai năm thê phụng người tròn tiết,
Thảm đạm hài nhi xót cụm mồ.
Thệ hải lời vàng cam lỗi hẹn,
Than ôi ! Ai lỡ nhịp cầu ô.
Thủ trinh cùng nghĩa duyên trăm nguyện,
Toan tránh đường ba niệm Nẳng-Mô.

Ngài Thọai lên Tây Ninh trình diện Đức Phạm Hộ Pháp, được bổ vào Sở Bò Cạp lập công năm 1936 (Bính Tý).
Đức Phạm Hộ Pháp định khởi công cất Tòa Thánh, nên ra Châu Tri kêu mộ nhơn công của các cơ sở, ai có biệt tài gì thì ra giúp Hội Thánh đặng tạo tác Tổ Đình. Ngài Thoại đến trình diện, và được giao trách nhiệm Tá Lý Sở Đắp Vẽ.
Nhờ được sự chỉ dạy của Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Bùi ái Thoại trở nên là một nhơn tài trong nghề đắp vẽ, trên được yêu mến tín nhiệm, dưới được em út kỉnh vì.
Công việc tạo tác Tòa Thánh mới được chừng 80 % thì có lịnh nhà cầm quyền Pháp bắt đình chỉ.

Ngày mùng 4-6-Tân Tỵ (dl 28-6-1941) nhà cầm quyền Pháp vào Tòa Thánh bắt Đức Phạm Hộ Pháp, mặc dầu trước đó, Đức Ngài đã bày tỏ lập trường và tôn chỉ của Đạo Cao Đài qua Tờ Phúc Trình gởi quan Chủ trưởng Ủy Ban Điều Tra các thuộc địa ngày 12-12-1937, và khi Thế Chiến thứ 2 bùng nổ, Đức Ngài kêu gọi Đạo hữu tùng quân giúp vào đội Công binh của Pháp. Nghĩa cử xem thù là bạn, lấy ơn đáp oán, trong thế kỷ 20 nầy, chỉ có 2 vị siêu nhân của nhơn loại là Thánh Gandhi ở Ấn Độ và Đức Phạm Hộ Pháp ở VN mà thôi. (Ông Gandhi kêu gọi dân Ấn Độ giúp quân đội Anh trong đội Hồng Thập Tự)
Sau khi nhà cầm quyền Pháp bắt Đức Phạm Hộ Pháp và 5 vị Chức sắc cao cấp của Đạo, chúng đe dọa và xua đuổi các Chức sắc, chức việc, và các công quả trong Nội Ô trở về nguyên quán.

Ông Tá Lý Bùi ái Thoại, một dạ trung thành với Đạo, không chịu trở về nguyên quán, mà ở lại tạm trú với anh em trong vùng Thánh địa, chờ ngày yên ổn để trở lại tiếp tục làm công quả nữa.
Ông Bùi ái Thoại ra hiệp với Ông Chí Thiện Lê văn Gấm tạo lập Lò chén thuộc Sở Công nghệ Giang Tân, trước có phương thế lo cho sự sống, sau là dạy nghề cho các công quả hầu đùm bọc nhau trong buổi nền Đạo chinh nghiêng.
Ngày 25-Giêng-Ất Dậu (dl 9-3-1945), quân đội Nhựt đảo chánh Pháp tại Sài gòn, Pháp đầu hàng. Quân đội Pháp phải rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh hoạt động trở lại. Ông Bùi ái Thoại liền và trình diện với Hội Thánh, xin tái thủ phận sự Tá Lý Sở Đắp Vẽ để tiếp tục tái thiết Tòa Thánh.
Trong thời gian quân Pháp chiếm đóng Nội Ô, chúng dùng Tòa Thánh làm nơi để xe, dùng Báo Ân Từ làm Câu lạc bộ, phá phách các dinh thự tan hoang, hư hao nhiều chỗ, nên công việc tái thiết rất vất vả và đòi hỏi nhiều công phu.
Mặc dầu Đức Phạm Hộ Pháp vẫn còn bị đồ lưu nơi Mã đảo, chưa trở về Tổ đình, nhưng Ông Tá Lý Bùi ái Thoại vẫn nhớ rất kỹ những lời chỉ dạy của Đức Phạm Hộ Pháp, những phát họa của Đức Ngài, nên khi Ông Thoại trở lại làm việc thì Ông đều làm đúng như lời Đức Phạm Hộ Pháp, không hề sai chạy. Ông hăng say làm việc ngày đêm, đôn đốc và khuyến khích anh em trong Sở đem hết khả năng tô điểm lịch xinh ngôi Tổ Đình, là khối Đức tin của toàn đạo, trước trả hiếu với Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, sau trọn nghĩa với thầy là Đức Phạm Hộ Pháp, để khỏi uổng phí một kiếp sanh may duyên gặp Đạo.
Ông Tá Lý Bùi ái Thoại, như được Ơn Trên bố hóa tâm trí minh mẫn, tay nghề khéo léo, nên Ông đắp vẽ tượng cốt các Đấng Giáo chủ Tam giáo, Tam Trấn Oai Nghiêm, Đức Chúa Jésus, Đức Khương Thượng, các tượng của Bát Tiên và Thất Thánh trên tấm diềm nơi BQĐ, còn trước mặt tiền Tòa Thánh là tượng Đức Quyền Giáo Tông, Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, tượng Đức Phật Di-Lạc trên nóc HTĐ, và sau cùng là tượng Tam Thế Phật trên nóc BQĐ.
Qua bàn tay khéo léo của Ông Bùi ái Thoại, hình tượng của các Đấng như sống động, uy nghi, vô cùng đẹp đẽ.
Ông Tá Lý Bùi ái Thoại có làm bài thi bày tỏ cảm xúc của mình trước cảnh tang thương của cuộc Đời :
Hè chí thu sang tiết trở đông,
Ướm xuân thoạt nhớ nợ tang bồng.
Quanh năm ngẫm lại buồn cho phận,
Chất tuổi càng thêm thẹn với lòng.
Ơn nước trót đời mang khó trả,
Nợ nhà mãn kiếp tính chưa xong.
Ngùi trông trăm họ vùi chung đỉnh,
Giành giựt giết nhau chẳng tưởng dòng.

Ông Bùi ái Thoại đem hết tâm trí và sức lực vào công cuộc đắp vẽ các pho tượng và trang trí Tòa Thánh, làm việc ngày đêm, nên cuối cùng ông kiệt sức và lâm bịnh nặng.
Ngày 29-Giêng-Bính Tuất (dl 2-3-1946), Ông cổi xác trần trở về cõi thiêng liêng, sống được 38 tuổi, trong có có 19 năm phụng sự cho Đạo. Nhiều người thương tiếc than rằng : Phải chi Ông rán sống thêm mấy tháng nữa thì thấy được ngày Đức Phạm Hộ Pháp hồi loan, để thầy trò sum hiệp vui vầy. (Đức Phạm Hộ Pháp được đưa trở về Tòa Thánh ngày 30-8-1946 (âl 4-8-Bính Tuất).
Năm Đinh Hợi (1947), Bát Nương giáng cơ cho Hội Thánh biết Ông Tá Lý Bùi ái Thoại đã đắc quả Phối Thánh, và nên ghi vào lịch Đạo ngày mất mà thiết lễ kỷ niệm hằng năm, giống như trường hợp Phối Thánh Phạm văn Màng, để nêu gương cho hậu thế.
Thật vậy, người ở thế, nếu Tam Lập (Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn) được hoàn toàn, thì dù ở phẩm bực nào nơi cõi trần, cũng đắc được phẩm vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng. Cân công bình thiêng liêng rất vô tư, hữu công tất đắc.
Trong TNHT, Đức Chí Tôn nhiều lần nói rằng :
" Thầy đến dộ rỗi các con là thành lập một Trường Công Đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn."
Ngài Phối Thánh Bùi ái Thoại thỉnh thoảng có giáng cơ tại Báo Ân Từ, không thường xuyên bằng Ngài Phối Thánh Phạm văn Màng.
Sau đây là Bài giáng cơ của Phối Thánh Bùi ái Thoại, Ngài Phối Thánh Màng giáng trước, tái cầu thì Ngài Phối Thánh Thoại giáng tiếp theo.
Tái cầu :

PHỐI THÁNH BÙI ÁI THOẠI
- Bạch sư phụ, con là Thoại.
Thưa chào chư vị Sư thúc, Sư huynh.
Hèn lâu, con nhớ Sư phụ lắm, mà không biết làm sao !
Khi Sư phụ bị đày, con rầu buồn quá đổi, thêm lo lắng Đền Thánh chưa rồi. Làm ngày làm đêm, mang bịnh nan y nên qui liễu.
Nhờ Chí Tôn thương nên ban lịnh Ngọc Hư Cung cho vào hàng Phối Thánh.
Bạch Sư phụ, làm ơn nói với "Năm Sỏi" và "Sáu Út" rằng "Kỉnh" bị án sa đọa Phong Đô, nhưng nhờ công nghiệp tạo tác Tòa Thánh, Đức Chí Tôn ân xá cho chuyển kiếp luân hồi, mà chưa đi, còn đương kiện Ông "Chữ".
Con gặp "Quân" và "Ngưu" lẩn quẩn nơi Thánh địa đặng đợi dịp trả oán theo Ngọc Hư Cung cho phép. Nhưng Phạm Phối Thánh và con khuyên lơn họ, để cho kẻ tội nhơn phụng sự quốc gia, và nghĩ Thánh tâm, oan gia nên giải bất nghi kết, nên họ cũng an lòng, đặng xem hành tàng của kẻ tội nhơn, hoặc tha hoặc trị.
Con mới dắt Anh "Thiết" kiến diện Sư thúc Thượng Phẩm đặng người điều độ.
Con nhớ mấy anh em con quá ! Khi thấy thờ phượng con, con đau lòng quá !
Sư phụ nói lại giùm, con để lời cám ơn họ.
Nếu con có phước giáng cơ đặng thường, con có nhiều điều nói với họ.
Con kính lạy Sư phụ, con xin kiếu. Thăng.
BÀI THI HOÀI NIỆM đề nơi mộ của Ngài Phối Thánh Bùi ái Thoại :

HOÀI NIỆM
Kính bút truyền ghi bậc đức tài,
Đã dày công buổi Đạo hoằng khai.
Đem thân hiến trọn về cửa Phạm,
Tạo nghiệp Tam Kỳ tiếng hậu lai.
Bởi ý thức đời là giả tạm,
Nên tìm bến Đạo bỏ đường hai.
Quả mãn công viên hồi cựu vị,
Phối Thánh Thiên phong bậc đức tài.


Hiền Nhơn
LÊ VĂN TRUNG
(1902-1976)

BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG NGHIỆP
của Ngài Hiền Nhơn Lê văn Trung được Ngài Hiến Đạo HTĐ, Thống Quản Phước Thiện, đọc tại Giảng Đài Đền Thánh lúc 9 giờ ngày 20-1-Bính Thìn (dl 19-2-1976) sau khi hành pháp Độ Thăng.
Kính Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính chư Chức sắc Thiên phong, Chức việc, các Ban Bộ và toàn Đạo Nam Nữ,

Tôi nhơn danh Hiến Đạo HTĐ, Thống quản Hội Thánh Phước Thiện, tuyên dương công nghiệp của Ông Hiền Nhơn Lê văn Trung, khi sanh tiền, Ông hành đạo, ngày hôm nay đã quá cố.

Lai lịch: Ông Lê văn Trung sanh năm Nhâm Dần (1902), nguyên quán tại Hương Đạo Phú Mỹ, Tộc đạo Bến Tranh, Châu Đạo Mỹ Tho, hiện cư ngụ tại Hương Đạo Thái Hiệp Thạnh, Tộc Đạo Phú Khương, Châu Thành Tây Ninh, nơi nhà lễ giáo Nho phong, thật hành Nhơn đạo, học lực Việt ngữ được thông minh trí tuệ.

Phần Công nghiệp : Sớm nghe Đại Đạo hoằng khai, nhập môn ngày 26-5-Đinh Mão (1927) tại Thánh Thất Phú Mỹ, Mỹ Tho, tùng luật pháp Chơn truyền Đại Đạo lo tu hành, làm lành lánh dữ, được sự tín nhiệm của toàn đạo nơi Hương, đồng công cử Ông lên chức Phó Trị Sự, lo tròn trách nhiệm.
- Năm Mậu Thìn (1928), ngày 15 tháng Giêng, giữ trai giới trường trai. Ngày 15 tháng 7 nhập Minh Thiện Đàn. Đàn nầy do Đức Lý Giáo Tông giáng cơ lập ra dạy đạo, Ông Đinh công Trứ làm chủ đàn, Ông xin nghỉ chức Phó Trị Sự.
- Năm Kỷ Tỵ (1929), ngày 3 tháng Giêng, Đức Quan Thánh Đế Quân giáng cơ lập Đồng Nghĩa Đường tại nhà Ông để nhơn sanh đến lập thệ vào Minh Thiện Đàn, đặng lập cơ sở giúp Đạo. Đến ngày 15 tháng 2, nhơn sanh nhập Minh Thiện Đàn đặng 3400 người, lập 36 Ty, mỗi Ty có 3 Sở Lương điền hoặc Công nghệ, trong 5 tỉnh : Mỹ Tho, Tân An, Vĩnh Long, Long Xuyên, và Châu Đốc.
Ngày 22 tháng 2, Đức Hộ Pháp ở Thủ Đức xuống tại Thánh Thất Phú Mỹ. Đức Lý giáng cơ giao Minh Thiện Đàn cho Đức Hộ Pháp điều khiển. Đức Ngài cho lịnh mời đêm 28 đặng Đức Ngài hành pháp cân thần, hiện diện được 93 vị.
Trưa ngày 29, lúc 11 giờ, đặng tin nhà Bưu Điện cho hay Đức Cao Thượng Phẩm đau nặng, Đức Ngài tuyển chọn trong 93 vị cân thần đặng 24 vị, dạy mời 24 vị 7 giờ tối phải có mặt cả gia đình đặng thọ "Đào Viên Pháp", trong 24 vị có Ông Trung, còn lại bao nhiêu, Đức Ngài hẹn khi khác sẽ hành pháp. Sáng ngày 30, Đức Ngài ra xe về Tòa Thánh.
Ngày 10 tháng 6, Đức Ngài và Đức Quyền GiáoTông cùng đi xuống Thánh Thất Phú Mỹ, cân thần thêm những người Minh Thiện Đàn, kỳ nầy ở 7 ngày, cân thần 647 người, chỉ lựa đặng 48 người.
Sáng ngày 18, Đức Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp trở về Tòa Thánh.
Soạn lại 2 kỳ cân thần, tuyển đặng 72 người.
Khi cúng Lễ Trung Nguơn xong, Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông chứng giấy cho đi hành thiện, đặng cho toàn đạo ở Miền Tây hay biết, mấy vị Chức sắc cao cấp tách ra lập Chi phái, nếu vị Đạo hữu nào muốn hành đạo nơi Tòa Thánh thì biên tên vào danh sách.
Riêng Ông với Ông Đinh công Trứ đi 2 tỉnh Rạch Giá và Long Xuyên, còn hai tỉnh Mỹ Tho và Tân An cứ lưu hành.
Trong thời gian đi hành thiện, 72 người, ai hành đạo theo địa phương nấy, cho đến cuối năm Kỷ Tỵ (1929), làm sổ thống kê tất cả đặng 17.400 người.
- Năm Canh Ngọ (1930), đắc lịnh trở về lo vận động hành lý và gạo lúa cho anh em ở Tòa Thánh đi làm 1000 công ruộng tại núi Sập Long Xuyên. Sau khi về lo việc làm ruộng xong, cứ thay phiên nhau đi trong 2 tỉnh Mỹ Tho và Tân An.
- Năm Tân Mùi (1931), đắc lịnh Đức Phạm Hộ Pháp bổ trách nhiện Chủ Sở Giang Tân, đặng lo kiến tạo cơ sở.
- Năm Nhâm Thân (1932), đời Pháp thuộc, chánh phủ làm khó dễ ngăn đón đủ mọi phương, nhưng Ông vẫn tận tâm len lỏi lo giúp đạo.
- Năm Ất Hợi (1935), Ngày 15 tháng 10, đắc phong Lễ Sanh Giáo Thiện.
- Năm Đinh Sửu (1937), lãnh trách nhiệm Đầu Họ Phước Thiện Gia Định, Đạo Nghị Định số 48/NĐ ngày 16 tháng Giêng.
- Năm Mậu Dần (1938), được bổ Đầu Họ Phước Thiện Tây Ninh, Nghị Định số 181/NĐ ngày 2 tháng 7.
- Năm Kỷ Mão (1939), ngày mùng 4 tháng 10, kiêm nhiệm Thủ Bổn HTĐ.
- Năm Canh Thìn (1940), lãnh trách nhiệm đi quan sát các Họ Đạo Phước Thiện, Nghị Định số 284/NĐ ngày mùng 8 tháng 11.
- Năm Tân Tỵ (1941), lãnh trách nhiệm Đầu Họ Phước Thiện Mỹ Tho, Nghị Định số 04/NĐ ngày 20 tháng Giêng. Đến tháng 6 Đức Phạm Hộ Pháp bị đồ lưu, tháng 10 nhà cầm quyền Pháp ra lịnh cấm, những người đứng bộ tỉnh nào thì về tỉnh đó ở, không đặng ở Tây Ninh nữa. Vì tình thế khó khăn, Ông trở về Sài gòn ở, lâu lâu đi xuống Họ đạo một lần.
- Năm Quí Mùi (1943), Ông hợp tác Hãng tàu Nittinan, cộng sự chung với quí Chức sắc lo cơ chuyển thế. Lúc nầy nhà binh Pháp chiếm Tòa Thánh làm trại lính.
- Năm Ất Dậu (1945), ngày 25 tháng Giêng (dl 9-3-1945), cuộc đảo chánh Pháp thành công, tháng 8 rước Đức Phạm Hộ Pháp về Tòa Thánh.
- Năm Bính Tuất (1946), Đại Hội Phước Thiện cầu thăng được vào phẩm Chí Thiện, toàn hội dâng tờ xin thăng cho Ông lên phẩm Đạo Nhơn, Ông không dám nhận. Kế đắc lịnh bổ nhiệm làm Khâm Châu Phước Thiện tại Sài gòn, Thánh Lịnh số 28/TL ngày 18 tháng Giêng.
- Năm Đinh Hợi (1947), lãnh trách nhiệm Cai quản Trường Qui Thiện, Thánh Lịnh số 84/TL ngày 18 tháng 5.
- Năm Mậu Tý (1948), lãnh trách nhiệm Trưởng ban Kinh Tế Lý Tài, sắc tứ số 606/ST ngày 8 tháng 7.
- Năm Canh Dần (1950), đắc lịnh kiêm ban Trấn định nhơn tâm toàn đạo do Ngài Tiếp Pháp làm Trưởng ban, Thánh Lịnh số 347/TL ngày 27 tháng 6.
- Năm Tân Mão (1951), lãnh trách nhiệm Hội viên Hội Đồng Tối Cao, Thánh Lịnh số 416/TL ngày 4 tháng 7.
- Năm Giáp Ngọ (1954), lãnh trách nhiệm kiêm Hội Viên Ban Hội Đồng miễn dịch thanh niên Cao Đài, do Ngài Tiếp Pháp làm Trưởng Ban.
- Năm Bính Thân (1956), Hội Thánh xét vì Ông đã dày công với Đạo, đủ điều kiện xứng đáng thăng thưởng vào phẩm Đạo Nhơn, Thánh Lịnh số 15/TL ngày 25 tháng 11.
- Năm Đinh Dậu (1957), đắc lịnh Hội Thánh HTĐ thuyên bổ trách nhiệm Chưởng quản CQPT, Đạo Lịnh số 09/ĐL ngày 7 tháng 6.
- Năm Canh Tý (1960), được thăng lên phẩm Chơn Nhơn, Đạo Lịnh số 03/ĐL ngày 13 tháng 11.
- Năm Tân Sửu (1961), lãnh phận sự Cố Vấn Phước Thiện, kiêm Quản Văn phòng Khai Đạo HTĐ, Huấn Lịnh số 30/HL ngày 10 tháng 3 (dl 24-4-1961).
- Năm Nhâm Dần (1962), lãnh trách nhiệm Tổng quản Văn phòng Tiếp Pháp, Thống quảm tam Vụ : Hòa, Lại, Lễ.
- Năm Giáp Thìn (1964), trách nhiệm Chưởng quản Phước Thiện, thay thế Chơn Nhơn Nguyễn văn Phú.
- Năm Nhâm Tý (1972), chiếu Thánh Giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 1 tháng Chạp (dl 4-1-1973), Đức Phạm Hộ Pháp thăng thưởng vị Chơn Nhơn Lê văn Trung lên phẩm Hiền Nhơn, Thánh Lịnh số 07/TL ngày 8 tháng chạp (dl 11-1-173).
- Năm Quí Sửu (1973), lãnh trách nhiệm Cố Vấn HTĐ, kiêm nhiệm Chưởng quản Hội Thánh Phước Thiện Nam phái, Sắc Lịnh số 04/SL ngày 11-6 (dl 10-7-1973) cho đến nay.
Ôi ! Người sanh nơi thế nầy đều phải thọ Tứ khổ là Sanh, Lão, Bệnh, Tử.
Ngày Ông ngọa bịnh cũng thông thường, nhưng vì tuổi cao sức kém, biến chứng nội thương, có đi bệnh viện Sài gòn, Bác sĩ chuyên khoa điều trị có trên tháng trường, nhưng không thuyên giảm, như khuôn thuyền chở khẳm, cả gia đình đều lo sợ, xin chở về nhà.
Nào hay đâu, Thiên số nan đào, Ông trút hơi thở cuối cùng lúc 19 giờ 15 phút ngày 17 tháng Giêng năm Bính Thìn (dl 16-2-1976) tại tư gia.
Tuy sự mất còn là do định mệnh của Đức Chí Tôn, nhưng đối với kiếp sanh của con người có giới hạn, sao khỏi đau lòng lúc tử biệt sanh ly, dầu bậc nào đi nữa, cũng không khỏi rơi châu đổ lụy.
Thánh xưa có câu : Sanh ký tử qui, sống gởi thác về, là lẽ dĩ nhiên Thiên định.
Trước khi dứt lời Tuyên dương, kính chư Chức sắc, chư Chức việc, các Ban Bộ và toàn đạo Nam Nữ, đồng hướng về BQĐ, thành tâm cầu nguyện cho Linh hồn Ông Hiền Nhơn Lê văn Trung được hưởng pháp siêu thăng về Thiên cảnh, an nhàn nơi cõi thọ.
Nay kính.

HIẾN ĐẠO HTĐ
Thống Quản Phước Thiện
(ấn ký)
PHẠM VĂN TƯƠI
Sau đây xin trích vài đoạn trong các bài Điếu văn, nhắc lại công nghiệp của Ngài Hiền Nhơn Lê văn Trung.

* Trích Điếu văn của Hội Thánh Phước Thiện :
" Có lẽ toàn đạo còn nhớ, năm Kỷ Tỵ (1929), tại Tòa Thánh Tây Ninh lúc bấy giờ, cơ đạo chinh nghiêng chia phe phân phái, thì tại Thánh Thất Khổ Hiền Trang, Phú Mỹ, Đức Phạm Hộ Pháp điều khiển Minh Thiện Đàn, giao phó cho Đại huynh cùng Ông Cố Đốc Trường Đinh công Trứ, với 72 người trong Minh Thiện Đàn, có sứ mạng, Đức Hộ Pháp bổ nhiệm cho đi hành thiện khắp trong Lục tỉnh Nam Kỳ, để trấn tỉnh nhơn tâm bổn Đạo và đem được một số tín hữu trở về Tòa Thánh, tổng số thống kê cuối năm Kỷ Tỵ đặng 17.400 người.
Năm Ất Hợi (1935), ngày Rằm tháng 10, Đại huynh được Đức Lý Giáo Tông chấm phong Lễ Sanh Giáo Thiện, được Đức Phạm Hộ Pháp thuyên bổ trách nhiệm Đầu Họ Đạo Phước Thiện các tỉnh Gia Định, Tây Ninh, Mỹ Tho, để lo khai mở CQPT, hầu đem huê lợi về tạo tác Tòa Thánh và các dinh thự trong Nội Ô Thánh địa, ngày nay được nguy nga đồ sộ, ấy cũng một phần công cán của Đại huynh đáng kể.
Qua năm Đinh Dậu (1957), cầm quyền Chưởng quản Phước Thiện, lo phổ hóa nhơn sanh, khuếch trương các cơ sở địa phương, cùng kiến tạo nghiệp đạo Phước Thiện tại Trung Ương Tòa Thánh được tốt đẹp, dìu dắt anh chị em tiến bước trên trường thi công quả của Đức Chí Tôn, hầu thực hành cơ cứu khổ.
Trải qua nhiều giai đoạn gay go thử thách, nhưng Đại huynh tâm không đổi, chí chẳng dời, một lòng nhất quyết giữ lập trường Phước Thiện, hầu dìu dắt đàn em đến nơi bỉ ngạn."

* Trích Ai Điếu của Đại diện Thệ hữu Phạm Môn :
" Về Tiểu sử và công nghiệp, Hội Thánh đã biểu dương nơi Đền Thánh, nên xin miễn lập lại. Đây tôi xin trích lược đôi điều trọng yếu để tỏ nỗi niềm trong tình Thệ hữu trên 45 năm theo thầy học đạo, dưới mái Đạo trường, đồng chung khổ hạnh, chịu đủ điều cay đắng ngọt bùi, hiệp sức chung tâm đắp xây đạo nghiệp.
Nguyên Thệ huynh đây, hồi năm Mậu Thìn (1928) được tin Đức Phạm Hộ Pháp từ Tòa Thánh đến Thủ Đức và sẽ ở nơi đây để lo về Đạo sự, Thệ huynh liền tìm đến yết kiến Đức Phạm Hộ Pháp và xin thỉnh Đức Ngài đến Phú Mỹ (Mỹ Tho) để tìm phương hoằng hóa nền Chánh giáo.
Khi Đức Hộ Pháp đến Phú Mỹ thì ở tại nhà của Thệ huynh, bổn đạo hay tin có Đức Hộ Pháp đến, nên rủ nhau tụ lại để nghe Đức Ngài giảng dạy về Giáo lý và hạt Thánh cốc Minh Thiện Đàn cũng bắt đầu gieo rải từ đây. Mãi đến ngày 28 tháng 9 Tân Mùi (1931), Đức Hộ Pháp mới làm lễ điểm đạo tức là Hồng Thệ tại Khổ Hiền Trang được 24 vị.
Một việc đáng lưu ý hơn nữa là vụ lấy ếm tại Khổ Hiền Trang.
Nguyên hôm nọ, bất ngờ Đức Hộ Pháp đến tại Phú Mỹ cho Thệ huynh biết rằng : Đức Ngài vừa được các Đấng mách bảo là tại đây người ngoại bang ếm không cho nước Việt Nam xuất tướng, nên cần phải lấy cho được cái ếm nầy thì VN mới xuất hiện nhân tài. Liền trong đêm ấy, Đức Hộ Pháp chấp bút nhờ các Đấng thiêng liêng chỉ địa điểm, sáng ngày do Thệ huynh đây hướng dẫn đến địa điểm mà các Đấng đã chỉ, đào sâu xuống đất, lấy vật ếm là : 1 lưỡi kiếm và 6 con cờ tướng.
Đến năm Bính Tý (1936), Thệ huynh thu xếp gia đình về Tòa Thánh hành đạo. Đức Phạm Hộ Pháp định cho Thệ huynh làm Thủ Bổn cho Đức Ngài, quan trọng là số tài chánh tạo tác Đền Thánh thuở đó đều do Thủ Bổn nầy thâu và xuất.
Đến năm Bính Thân (1956), Đức Phạm Hộ Pháp xuất ngoại sang Miên quốc, con thuyền đạo gặp cơn gió dập sóng dồi, Thệ huynh chẳng nệ hiểm nguy gian khổ, lãnh trọng trách lèo lái con thuyền Phước Thiện, nhờ khả năng Thiên phú thấy rộng hiểu xa, nên con thuyền vượt sóng trùng dương cập đến bờ giác ngạn và dìu dẫn đàn em tiến bước trên đường đạo đức."
Theo lời thuật lại của Ông Chơn Nhơn Phạm duy Hoai, các tiền bối cho biết nguyên căn của Ngài Hiền Nhơn Lê văn Trung là Nhạc Phi đời nhà Tống bên Tàu tái kiếp, mà chơn linh của Nhạc Phi lại là Hộ Pháp Thần Kỳ gọi là Đại Bàng Kim Xí Minh Vương, hầu Đức Phật Tổ nơi Lôi Âm Tự cõi CLTG, vì phạm tội giết chết con dơi Nữ Thổ Bức vô phép trước mặt Phật, nên phải đầu kiếp xuống làm Nhạc Phi để trả quả.
Ngài Hiền Nhơn Lê văn Trung có người con trai trưởng nam là Lê thanh Tòng, làm chức Thiếu Tá Quân đội Cao Đài, bị tử trận ngày 26-4-1946, lúc còn rất trẻ, mới 27 tuổi. Đó chính là Nhạc Vân, con trưởng của Nhạc Phi, tái kiếp. Ông Lê thanh Tòng được truy thăng Đại Tá và đắc phong vào hàng Thánh Tử Đạo.
Ngài Hiền Nhơn Lê văn Trung rất ít làm thơ. Chúng tôi sưu tập được một bài thơ của Ngài, đăng trong Bán Nguyệt san Thông Tin, số 58 trang 13, Ngài làm lúc Ngài còn ở phẩm Chơn Nhơn và được 69 tuổi.
TỰ THUẬT
Sáu mươi chín tuổi, Đạo như Đời,
Mây nước từng vui thú thảnh thơi.
Hành thiện dám đâu bì Mạnh Tử,
Chơn nhơn đã hẳn kém Nhan Hồi.
Nêu gương bác ái, sương pha tóc,
Tìm lẽ công bình, muối chát môi.
Tuổi hạc Trời cho tăng nếp sống,
Gieo truyền Phước Thiện khắp nơi nơi.
                                                                                  CHƠN NHƠN Lê văn Trung
Home         1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét