91 Điễn Tích Nơi Hành Lang Báo Ân Từ - 1 / 8 (Kim Hương)


Mặt Tiền Báo Ân Từ
NHỊ THẬP TỨ HIẾU
Nhị thập tứ Hiếu là 24 gương Hiếu thảo.
Đây là 24 gương Hiếu thảo của người xưa bên Tàu. Nhà văn Quách Cự Nghiệp (1277-1367) đời nhà Nguyên sưu tầm và biên soạn, truyền qua nước ta.

Ở Việt Nam, Ông Lý văn Phức (1785-1849),  đậu Cử Nhân, làm quan dưới 3 triều vua nhà Nguyễn : Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, là một nhà Nho chủ trương đạo đức, liền dịch truyện Nhị thập tứ
Hiếu của Quách cự Nghiệp ra thơ song thất lục bát, để truyền bá và răn dạy người đời.

Nho giáo dạy về Nhơn đạo nên lấy chữ HIẾU làn căn bản đạo đức con người (Kinh Nho giáo : Khai nhơn tâm tất bổn  ư  đốc thân chi Hiếu).  Người không hiếu với cha mẹ thì nhứt định không đạo đức, không dùng được.

Đạo Cao Đài vốn chủ trương Nho Tông Chuyển Thế nên luôn luôn đề cao Trung Hiếu và Nhơn Nghĩa. Đức Hiếu làm đầu trong mọi đức tánh khác. Trước hết là phải hiếu với cha mẹ nơi cõi phàm trần, sau đó còn phải hiếu với 2 Đấng CHA MẸ thiêng liêng là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, bởi vì xác thân phàm do cha mẹ phàm sanh ra và nuôi dưỡng, còn linh hồn và chơn thần do Đức Chí Tôn và  Phật Mẫu tạo ra.

Nơi mặt tiền của Báo Ân Từ  trong Nội Ô Toà Thánh Tây Ninh, Hội Thánh cho đắp 24 bức tranh nổi ghi lại sự tích Nhị thập tứ Hiếu, để nhắc nhở các tín đồ Cao Đài không được thất hiếu với cha mẹ.

Thứ tự 24 bức tranh nầy có phần khác với thứ tự trong sách Nhị thập tứ Hiếu của Lý văn Phức. Chúng tôi chép lại sự tích theo thứ tự của 24 bức tranh nầy, kèm theo lời thơ của Ông Lý văn Phức:
                                   Mở đầu
Người tai mắt đứng trong Trời
Ai là không cha mẹ sinh thành ?
Gương treo Đất nghĩa Trời kinh,
Ở sao cho xứng chút tình làm con
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
Thì suy ra trăm nết đều nên.
Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,
Hiếu hai mươi bốn thơm nghìn muôn thu.
                                                           Lý văn Phức
Chú thích : Trời kinh : Cha. Đất nghĩa : Mẹ.

Ngu Thuấn

Ông Thuấn họ Ngu, cha là Cổ Tẩu, mẹ là Ốc Đăng rất hiền đức mà mất sớm. Cổ Tẩu có tánh ương gàn, mê muội, độc ác, cưới vợ kế, sanh được một con trai đặt tên là Tượng. Cảnh mẹ ghẻ con chồng thật là khắc nghiệt. Em Tượng lớn lên lại rất điêu ngoa và hỗn xược. Cổ Tẩu thường nghe lời vợ kế mà đày đọa Thuấn.

Có lần bà mẹ ghẻ xui khiến Cổ Tẩu sai Thuấn đi cày ở đất Lịch Sơn, là nơi có nhiều cọp dữ, mục đích để trừ khử Thuấn. Thuấn nghe lời cha mẹ không chút than van, đến đó cày đất. Lòng hiếu thảo của Thuấn cảm động đến Trời cao, khiến cọp dữ không dám đến gần, voi ra cày đất, chim bay đến nhặt cỏ.

Thấy không hại được Thuấn bằng cách đó, bà mẹ ghẻ lại xúi Cổ Tẩu sai Thuấn đi đánh cá ở đầm Lôi Trạch, là nơi thường có sóng to gió lớn nhận chìm tàu thuyền, không ai dám bén mảng tới gần đó. Thuấn vẫn nghe lời cha mẹ, đến đó đánh cá, sóng gió lặng yên như ngầm giúp cho người con hiếu thảo.

Dù bị hãm hại nhiều lần, nhưng Thuấn không hề oán trách cha và mẹ ghẻ, vẫn thương yêu em Tượng, sống hiền hòa hiếu thuận như không có gì xảy ra, thường lo phụng dưỡng cha mẹ và van vái Trời Phật cho cha mẹ được sống lâu và em Tượng được mạnh khỏe luôn.

Với tấm lòng cao cả của Thuấn, bà mẹ ghẻ hồi tâm, ân hận các việc làm độc ác đã qua, trở lại thương yêu Thuấn.

Tiếng hiếu thảo của Ông Thuấn được đồn vang, đến tai vua Nghiêu đang lo tìm người hiền để truyền ngôi vua. Vua Nghiêu đem 2 người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh gả hết cho Thuấn, và sau đó truyền ngôi lại cho Thuấn

Đức Đại Thánh họ Ngu tên Thuấn,
Buổi tiềm long gặp vận hàn vi.
Tuổi xanh khuất bóng từ vi,
Cha là Cổ Tẩu, người thì ngang ngang.
Mẹ ghẻ lại tánh càng gay gắt,
Em Tượng nên rất mặt điêu ngoa.
Một mình thuận cả vừa ba,
Trên chìu cha mẹ dưới hòa cùng em.
Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt,
Dầu tử sanh không chút biến dời.
Xót tình khóc sớm kêu mơi,
Xui lòng ghen ghét hóa vui dần dần.
Trời cao thẳm mấy từng cũng đến,
Vật vô tri còn mến lựa người.
Mấy phen non Lịch pha phôi,
Cỏ chim vì lượm, ruộng voi vì cày.
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ Thánh,
Mạng trưng dung trao chánh nhường ngôi.
Cầm thi xiêm áo thảnh thơi,
Một nhà đầm ấm trăm đời ngợi khen.

Hán Văn Đế

Vua Hán Văn Đế tên là Hằng, con của Bạc Hậu, vợ thứ của vua Hán Cao Tổ Lưu Bang, em cùng cha khác mẹ với Thái Tử Dinh (sau nầy lên nối ngôi là vua Huệ Đế), con của Lữ Hoàng Hậu. Lữ Hậu không muốn  Hằng và Bạc Hậu ở tại triều đình, vì sợ tranh giành ngôi Thái tử của con Bà. Vua Hán Cao Tổ biết vậy nên đưa Hằng ra làm Thân Vương ở đất Đại. Hán Cao Tổ mất, Thái Tử Dinh lên nối ngôi xưng là Huệ Đế. Huệ Đế mất sớm, Lữ Thái Hậu lập Thiếu Đế lên ngôi và Bà nhiếp chánh chuyên quyền. Thừa dịp Lữ Hậu bệnh nặng, các Đại thần đem binh bắt toàn gia Lữ Hậu giết hết, rước Hằng về nối ngôi, hiệu là Văn Đế.

Vua Hán Văn Đế nổi tiếng là người hiếu thảo, tánh rất hiền hòa, được triều thần và dân chúng mến phục. Vua Văn Đế lấy đức trị dân, bãi bỏ nhục hình, các lễ cống hiến, miễn thuế ruộng đất.

Bạc Hậu thường đau yếu luôn. Văn Đế luôn luôn hầu mẹ ngoài các buổi chầu nơi triều đình, thức đêm canh bịnh cho mẹ. Khi ngự y dâng thuốc, Văn Đế nếm trước rồi mới dâng cho mẹ uống.

Từ quan chí dân, ai cũng biết vua Văn Đế là bậc chí hiếu,  đều bắt chước theo. Cả nước được thái bình thịnh trị.
Kìa Văn Đế vua hiền Hán đại,
Vâng ấn phong ngoài cõi thân vương.
Quên mình chức cả quyền sang,
Phụng thờ Bạc Hậu lễ thường chẳng sai.
Đến khi nối ngôi Trời trị nước,
Vẫn lòng nầy săn sắt như xưa.
Mẹ khi ngại gió kinh mưa,
Ba năm hầu hạ thường như một ngày.
Mắt chong bóng, dám say giấc ngủ,
Áo luôn mình dám sổ đai lưng.
Thuốc thang mắt xét tay nâng,
Nếm tường trong miệng mới dâng dưới màn.
Tiếng nhơn hiếu đồn vang thiên hạ,
Thói thuần lương hóa cả lê nguơn.
Hai mươi năm lẽ càn khôn,
Đã sau Tam Đại hãy còn Thành, Khương.
Ấy hai vị đế vương đời trước,
Chữ Hiếu dành đá tạc vàng in.
Còn ra sĩ thứ đẳng hiền,
Điểm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay ?

Châu Thọ Xương

Châu Thọ Xương, người nước Tống, con của người vợ thứ trong gia đình họ Châu. Năm Ông lên 7 tuổi, người vợ cả đuổi mẹ của Ông đi,  mẹ Ông sang ở đất Tần. Thọ Xương trưởng thành, được ra làm quan cho nhà Tống, nhưng lòng lúc nào cũng thương nhớ đến người mẹ ruột.

Đến đời vua Tống Thần Tông, Ông xin từ quan để đi tìm mẹ. Khi ra đi, Ông thề rằng, nếu không tìm thấy mẹ thì nhứt định không trở về nhà.

Ông đi khắp nơi, may đến đất Đồng Châu thì gặp mẹ. Xa cách nhau năm chục năm, nay mẫu tử đoàn viên. Ông xin rước mẹ về ở chung nhà đặng dễ bề phụng dưỡng

Châu Thọ Xương làm quan Tống đại,
Mẹ sanh ra bảy tuổi lìa lòng.
Bởi vì đích mẫu chẳng dung,
Đem thân bồ liễu bạn cùng nước non.
Muôn ngàn dặm mẹ con xa khuất,
Năm mươi năm Trời Đất bơ vơ.
Sanh con những tưởng cậy nhờ,
Cái thân sung sướng bây giờ mà chi !
Từ quan chức quyết đi tìm tõi,
Nặng lời thề nói với gia đình.
Thân nầy chẳng gặp từ thân,
Thì liều sống thác với thân cho đành.
Trời đâu phụ tấm thành hiếu tử,
Chốn Đồng Châu bỡ ngỡ gặp nhau.
Nét mừng ai vẽ nên đâu,
Mẹ đầu nhuộm tuyết, con đầu hoa râm.
Đã bỏ lúc than ngầm khóc ngậm,
Lại vầy nên trên ấm dưới êm.
Cho hay máu chảy ruột mềm,
Chẳng Trời, ai tưởng còn tìm được đây.

Vương Tường

Vương Tường, sanh đời nhà Tấn, mồ côi mẹ từ nhỏ, sống với cha và bà kế mẫu khắc nghiệt. Bà mẹ ghẻ thường hay thêu dệt nói xấu Vương Tường làm cho cha cũng lần lần ghét bỏ Vương Tường. Dầu vậy, Vương Tường vẫn rất hiền hòa hiếu hạnh.

Vào tiết đông băng giá, mẹ ghẻ đòi ăn cá tươi. Vương Tường đi ra bờ sông, mặt sông đóng băng, ông nằm trên băng tìm kẻ hở để bắt cá. Bỗng nhiên, băng chỗ đó nứt ra, hai con cá chép theo đó vọt lên. Vương Tường mừng quá, túm bắt đem về làm món cá tươi dâng lên kế mẫu.

Kế mẫu cảm động, nhận ra tấm lòng hiếu thảo của Vương Tường, ân hận những điều sai trái do bà gây ra trước đây, nên trở lại thương yêu Vương Tường.

Ngươi Vương Tường cũng là đời Tấn,
Tủi huyên đường sớm ẩn bóng xa.
Mẹ sau gặp cảnh chua ngoa,
Tiếng gièm thêu dệt với cha đủ điều.
Lòng cha chẳng còn yêu như trước,
Lòng con thường chẳng khác như xưa.
Mẹ thường muốn bữa sanh ngư,
Giá đông trời lạnh bây chừ tìm đâu ?
Trên giá đóng quyết cầu cho thấy,
Cởi áo nằm rét mấy cũng vui.
Bỗng đâu giá lở làm hai,
Lý ngư may đặng một đôi đem về.
Bữa cung cấp một bề kính thuận,
Mẹ cha đều đổi giận làm lành.
Cho hay hiếu cảm tại mình,
Dẫu trăm giận, lúc hả tình cũng thôi.

Ngô Mãnh

Ngô Mãnh, sanh vào đời nhà Tấn, mới 8 tuổi đã biết hiếu thảo với cha mẹ. Nhà rất nghèo đến nỗi không tiền mua mùng. Đêm hè nóng nực, muỗi bay nhiều hằng đàn, Ngô Mãnh sợ cha mẹ bị muỗi đốt, mà lại không dám đập muỗi vì sợ cha mẹ nghe động thì thức giấc, nên liền cỡi trần ra, nằm phía ngoài để cho muỗi bay đến đốt mình cho no máu, khỏi bay vào đốt cha me

Tấn Ngô Mãnh tuổi thì lên tám,
Lòng sự thân chẳng dám khi nhàn.
Cực vì một nỗi bần hàn,
Có giường trong đặt, không màn ngoài che.
Trời đương buổi đêm hè nóng nảy,
Tiếng muỗi kêu vang dậy dường mưa.
Xót thay hai đấng nghiêm từ,
Để người chịu muỗi, bây chừ biết sao ?
Nghĩ da thịt phương nào thay lấy,
Quyết nằm trần, muỗi mấy chẳng xua.
Dằn lòng cho muỗi được no,
Để người êm ái giấc hòe cho an.
Tuổi tuy bé mà gan chẳng bé,
Dạ ái thân đến thế thì thôi.
Cho hay phú tính bởi Trời,
Những đau trong ruột dám nài ngoài da.

Hoàng Hương

Hoàng Hương, tự là Văn Cường, người đời Hậu Hán, mới 9 tuổi thì mẹ mất. Hoàng Hương thương nhớ mẹ khóc thảm thiết, thờ cha rất mực cung kính, thức khuya dậy sớm hầu cha, không dám xao lãng.

Vào mùa đông, Hoàng Hương nằm ủ vào chăn chiếu để truyền hơi ấm cho cha khỏi lạnh; đến mùa hè thì quạt mùng gối cho cha được mát mẻ luôn. Nhờ vậy mà người cha sống thoải mái vui tươi, không biết có mùa đông hay mùa hè.

Quan Thái Thú Lưu Hộ ở quận biết Hoàng Hương là người con hiếu nên làm sớ tâu lên vua Hán xin ban thưởng để làm gương tốt cho mọi người.

Đời Hậu Hán Hoàng Hương chín tuổi,
Khuất bóng từ dòi dõi nhớ thương.
Hạt châu không ráo hai hàng,
Tiếng hiền đồn dậy trong làng đều khen.
Thờ nghiêm phụ cần chuyên khuya sớm,
Đạo làm con chẳng dám chút khuây.
Khi trời nắng hạ chầy chầy,
Quạt trong màn gối hơi bay mát dầm.
Trời đông buổi sương đầm tuyết thắm,
Ấp hơi mình cho ấm chiếu chăn.
Nhờ con cha đặng an thân,
Bốn mùa không biết có tuần hạ đông.
Tiếng hiếu kỉnh cảm lòng Quận Thú,
Biển nêu treo chói đỏ vàng son.
Cho hay tuổi trẻ mà khôn,
Ngàn xưa sớm biết đạo con mấy người.

Đường thị

Đường thị, vợ nhà họ Thôi, ở với cha mẹ chồng rất hiếu thảo. Mẹ chồng quá già, răng đã rụng hết, không còn nhai cơm được nữa, Đường thị phải hằng ngày tắm rửa sạch sẽ, rồi cho mẹ bú để nuôi mẹ. Nhờ vậy mà mẹ chồng được sống thọ.

Cám ơn nàng dâu đã hết lòng nuôi nấng, bà mẹ chỉ biết khấn nguyện cùng Trời Phật ban bố cho con cháu nhà họ Thôi sau nầy người nào cũng hiếu thảo như Đường thị.

Dâu họ Thôi ai bằng Đường thị,
Thương mẹ chồng niên kỷ đã cao.
Không răng ăn dễ được nào,
Ngày ngày lau chải ra vào thăm coi.
Lấy sữa ngọt thay mùi cơm cháu,
Mấy năm trời chẳng gạo mà no.
Vì dâu dốc dạ thờ cô,
Da mồi tóc bạc bốn mùa như xuân.
Ơn tình ấy không phần báo lại,
Buổi lâm chung vái với Hoàng Thiên,
Xin nguyền cho đặng như nguyền,
Dâu dâu ngày khác đặng hiền như dâu.
Ai nghe cũng răn nhau hiếu kỉnh,
Cửa Thôi gia hưng thịnh đời đời,
Cho hay gia khánh lâu dài,
Báu nào còn báu hơn người dâu ngoan !

Khương Thi

Khương Thi, sanh vào đời nhà Hán, có vợ là Bàng thị, hai vợ chồng đều rất hiếu thảo với mẹ.
Mẹ chồng muốn uống nước sông, Bàng thị hằng ngày đi gánh nước sông ở thật xa đem về để dành cho mẹ dùng.
Mẹ muốn ăn gỏi cá tươi, Khương Thi không nệ rét mướt, đi bắt cá đem về làm gỏi dâng lên mẹ.

Thấy mẹ ở nhà một mình, sợ mẹ buồn bực, nên thường đến nhờ  quí bà già hàng xóm đến chơi chuyện trò với mẹ cho vui tuổi già.

Về sau, bên cạnh nhà, tự  nhiên sanh ra một dòng suối ngọt, nước suối có mùi vị  y như nước sông và hằng ngày lại có 2 con cá chép từ suối nhảy ra, Khương Thi bắt được, đủ làm bữa gỏi dâng lên mẹ dùng, và Bàng thị khỏi đi gánh nước sông ở xa nữa.

Người ta cho rằng, lòng hiếu thảo của vợ chồng Khương Thi làm cảm động lòng Trời nên Trời khiến sanh ra suối và cá như thế.

Hán Khương Thi nhà còn lão mẫu,
Vợ họ Bàng vẹn đạo chữ tòng.
Mẹ thường muốn uống nước sông,
Vợ từng đi gánh thay chồng hầu cô.
Mẹ thường muốn ăn đồ gỏi cá,
Vợ chồng đều tầm tá đủ mùi.
Lại mời lân mẫu sang chơi,
Để bồi cùng mẹ cho vui bạn già.
Bên nhà bỗng chảy ra suối ngọt,
Với nước sông in một mùi ngon.
Lý ngư ngày nhảy hai con,
Đủ trong cung cấp thần hôn thường lề.
Rày thong thả bỏ khi lận đận,
Cam thỏa lòng dâu thuận con hiền.
Cho hay gia đạo khi nên,
Đã con hiếu lại được hiền cả dâu.

Đinh Lan

Đinh Lan, sanh nhằm đời Hớn, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Lớn lên thành lập gia thất, rồi thuê người tạc tượng  cha mẹ bằng gỗ để thờ, để tưởng nhớ ơn cúc dục cù lao của cha mẹ. Đinh Lan hết lòng thờ kính cha mẹ y như lúc còn sống. Mỗi khi đi và về đều thưa trình hẳn hoi. Ngày dâng 2 bữa cơm, tối đến lo sửa soạn mùng mền chiếu gối y như cha mẹ còn sống vậy.

Phụng thờ như vậy được mười mấy năm, sau người vợ sanh ra giải đãi, lại dùng kim châm vào kẻ tay tượng gỗ xem thử có gì lạ không, không ngờ nơi ấy có máu chảy ra đỏ tươi, vợ Đinh Lan hoảng sợ vô cùng. Đến khi Đinh Lan trở về, vào trình cha mẹ thì thấy 2 tượng gỗ đều chảy nước mắt, kẻ tay lại chảy máu. Đinh Lan gọi vợ để hỏi thì vợ thật tình kễ rõ.

Đinh Lan cho là vợ phạm tội đại bất hiếu  không thể tha thứ được, nên quyết định thôi vợ.

Hán Đinh Lan thuở năm thơ ấu,
Bóng xuân huyên khuất dấu non xanh.
Đến nay tuổi đã trưởng thành,
Cám công sơn hải, thiệt tình trân cam.
Tưởng dung mạo khắc làm mộc tượng,
Cứ bữa thường phụng dưỡng như sanh.
Khi chăn gối, buổi cơm canh,
Mấy mươi năm vẫn lòng thành trước sau.
Bởi người vợ thờ lâu nên trễ,
Thử lấy kim châm kẻ ngón tay.
Bỗng đâu giọt máu chảy ngay,
Ai hay tượng gỗ lâu ngày thiêng sao ?
Khi đến bữa chồng về làm lễ,
Mắt tượng rơi hàng lệ chứa chan.
Xét xem mới biết nguồn cơn,
Nổi bừng lá giận, dứt tan dây tình.
Há phải nhẫn mà đành phụ nghĩa,
Hiếu với tình nặng nhẹ phải cân.
Cho hay thành hẳn nên Thần,
Há rằng u hiển mà phân vong tồn.

Lục Tích

Lục Tích, sanh vào đời Đông Hán, lên được 6 tuổi. Một hôm, Lục Tích theo cha sang Quận Cửu Giang viếng Viên Thuật. Viên Thuật làm tiệc thết đãi, Lục Tích thấy trên bàn tiệc có nhiều quít ngon, bèn lấy 2 trái giấu vào túi áo.

Khi mãn tiệc, đến chào Viên Thuật ra về, Lục Tích vô ý để quít lọt ra ngoài. Viên Thuật thấy vậy nói đùa:
-  Sao cháu lấy quít giấu như thế ?

Lục Tích liền quì thưa rằng :
- Mẹ con thích ăn quít lắm ! Nhân thấy trong tiệc có nhiều quít ngon, con giấu 2 trái đem về biếu mẹ.

Viên Thuật khen ngợi Lục Tích còn nhỏ mà có hiếu.

Hán Lục Tích thuở còn sáu tuổi,
Quận Cửu Giang đến với họ Viên.
Trẻ thơ ai chẳng yêu khen,
Quít ngon đặt tiệc tiểu diên đãi cùng.
Cất hai quả vào trong tay áo,
Tiệc tan xong từ cáo lui chân.
Trước thềm khúm núm gởi thưa,
Vô tình quả quít nẩy lăn ra ngoài.
Viên trông thấy cười cười hỏi hỏi,
Sao khách hiền mang thói trẻ thơ ?
Thưa rằng : Mẹ vốn tánh ưa,
Vật ngon dành lại để đưa mẹ thì.
Viên nghe nói trọng vì không xiết,
Bé con con mà biết hiếu thân.
Cho hay phú giữ thiên chơn,
Sanh ra ai cũng sẵn phần thiện đoan.

Vương Thôi

Vương Thôi, người nước Ngụy thời Tam Quốc. Cha của Vương Thôi là Vương Nghi làm quan cho nhà Ngụy (Tào Tháo, Tào Phỉ), bị Tư Mã Chiêu (con của Tư  Mã Ý) giết chết, diệt luôn nhà Ngụy, diệt luôn nước Ngô (Ngô Tôn Quyền) và nước Thục (do Lưu Bị lập ra), thống nhất sơn hà, mở ra nhà Tấn, gọi là Tây Tấn.

Cha của Vương Thôi bị nhà Tây Tấn sát hại, ông quá thương xót, phủ phục trước mộ khóc mãi. Sách chép rằng : Nước mắt của Vương Thôi nhiều đến nỗi cây trắc trồng bên mộ xanh tươi bỗng trở nên khô héo. Vương Thôi  suốt  đời không  quay mặt về hướng tây để tỏ cái ý chí oán giận nhà Tây Tấn giết chết cha của ông.

Mẹ của Vương Thôi lúc sanh thời rất sợ tiếng sấm. Khi mẹ mất rồi, mỗi khi chuyển mưa có sấm chớp, ông liền chạy ra mộ của mẹ, nằm sấp lên mộ khấn rằng : Có con đây, mẹ chớ kinh sợ.

Nhà Tây Tấn biết Vương Thôi là người hiền nên nhiều lần vời ra làm quan, nhưng Vương Thôi nhất định từ chối. Ông cất nhà ở kế mộ phần của cha mẹ rồi mở trường dạy học.

Khi giảng sách cho học trò, đến chương Lục Nga trong Kinh Thi có câu : Ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao … thì ông nhớ đến cha mẹ, nước mắt dầm dề. Sau học trò của ông bỏ chương Lục Nga không dám đọc nữa.

Ngụy Vương Thôi gặp đời Tây Tấn,
Vì thù cha lánh ẩn cao bay.
Bên mồ khóc đã khô cây,
Trọn đời ngồi chẳng hướng Tây lúc nào.
Khi sấm sét tìm vào mồ mẹ,
Lạy khóc rằng : Có trẻ ở đây,
Bởi vì tánh mẹ xưa nay,
Vốn từng sợ sấm những ngày gió mưa.
Nên coi sóc chẳng từ sớm tối,
Thần phách yên dạ mới được yên.
Trong khi đọc sách giảng truyền,
Tới câu “ Sinh ngã ” lệ tràn như tuôn.
Ngập ngừng kẻ cập môn cũng cảm,
Thiên Lục Nga chẳng dám còn ngâm.
Cho hay thử lý thử tâm,
Sư, sinh, cũng tấm tình thâm khác gì.

Mạnh Tông

Mạnh Tông, tự là Cung Võ, sanh vào đời nhà Ngô (Tam Quốc), quê ở Giang Hạ. Cha mất sớm, Mạnh Tông phụng dưỡng mẹ rất có hiếu.

Một hôm mẹ đau nặng, bỗng bà bảo thèm một chén canh măng. Trời mùa đông giá lạnh buốt xương, trái mùa măng mọc, Mạnh Tông tìm mãi trong rừng tre chẳng có mụt măng nào, buồn quá, chẳng biết làm sao, đành ôm gốc tre khóc ngất. Bỗng đâu có mấy mụt măng màu xám từ đất mọc lên, Mạnh Tông mừng rỡ xắn lấy đem về, nấu ngay một nồi canh măng dâng mẹ. Bà mẹ ăn xong canh măng thì khỏi bệnh.

Về sau có một loại tre cho loại măng màu xám giống y như vậy, được gọi là măng Mạnh Tông.

Ngô Mạnh Tông phụ thân sớm khuất,
Thờ mẫu thân lòng thực khăn khăn.
Tuổi già trằn trọc băn khoăn,
Khi đau nhớ bát canh măng những thèm.
Trời đông tuyết biết đâu tìm được,
Chốn trúc lâm phải bước chân đi.
Một thân ngồi dựa gốc tre,
Ôm cây kêu khóc nằn nì với cây.
Giữa bình địa phút giây bỗng nứt,
Mấy giò măng mặt đất nẩy sanh.
Đem về nấu một bữa canh,
Ăn rồi bệnh mẹ lại lành như xưa.
Măng mùa lạnh bây giờ mới thấy,
Để về sau nhớ lấy cỏ cây.
Cho hay hiếu động cao dày,
Tình sâu cũng khiến cỏ cây cũng tình.

Quách Cự

Quách Cự, tự là Văn Cứ, sanh vào đời nhà Hán, nhà rất nghèo, mồ côi cha, phụng dưỡng mẹ rất hiếu thảo.

Quách Cự  có vợ sanh  một đứa con trai được 3 tuổi. Khi đến bữa ăn, Quách Cự thường thấy mẹ mình nhịn bớt phần cơm, sớt qua cho cháu, nên bị thiếu ăn, lần lần sức khỏe sa sút. Quách Cự bàn với vợ : Vợ chồng mình đang thời sanh đẻ được, mẹ già thì chỉ có một lần, đã chẳng phụng dưỡng mẹ đầy đủ mà lại để cho con mình chia phần cơm của mẹ thì không phải.

Bàn nhau như vậy rồi, hai người ra sau nhà, đào một cái hố để chôn con. Khi đào xuống sâu độ một thước thì gặp một cái hủ, trên nắp hủ có viết hàng chữ “Thiên tứ huỳnh kim Quách Cự hiếu tử, quan bất đoạt, dân bất đắc thủ”. Nghĩa là : Trời ban vàng ròng cho con hiếu Quách Cự, quan chẳng phép đoạt, dân chẳng được lấy. Hai vợ chồng vô cùng mừng rỡ. Nhờ có vàng mà đời sống được sung túc, khỏi phải chôn con,  lo phụng dưỡng mẹ già cho thỏa lòng hiếu đạo.

Hán Quách Cự cửa nhà sa sút,
Thờ mẫu thân chăm chút mọi bề.
Còn con ba tuổi biết chi,
Bữa ăn từ mẫu thường thì bớt cho.
Trông thấy mẹ bữa no bữa đói,
Với hiền thê than nói khúc nôi.
Mẹ già đã chẳng ai nuôi,
Để con xẻ ngọt chia bùi sao yên.
Vợ chồng ta còn phen sanh đẻ,
Mẹ già rồi hầu dễ đặng hai.
Nói thôi giọt vắn giọt dài,
Đào ba thước đất để vùi tình thâm.
May đâu thấy hoàng kim một hủ,
Chữ Trời cho đề rõ rành rành.
Cho hay Trời khéo ngọc thành,
Hiếu tâm đâu để đoạn tình cha con.

Dương Hương

Dương Hương, sanh vào đời nhà Tấn, mới 14 tuổi đã tỏ ra là con chí hiếu. Khi cha đi đâu, Dương Hương cũng theo hầu một bên.

Một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng ở một nơi rất xa, gần vùng rừng núi, giữa đường gặp một con hổ dữ nhảy đến vồ cha. Dương Hương liều mình dùng đôi tay không đánh với hổ, dù bị nhiều vết thương nhưng Dương Hương cứ xông tới, hổ đành phải lui. Hai cha con được thoát nạn.
Tấn Dương Hương mới mười bốn tuổi,
Cha bước ra hằng ruổi theo cha.
Phải khi thăm lúa đường xa,
Chút thân tuổi tác thoắt sa miệng hùm.
Xót con mắt hầm hầm nổi giận,
Nắm tay không vơ vẩn giữa đàng.
Hai tay chặn dọc đè ngang,
Ra tay chống với hổ lang một mình.
Hùm mạnh phải xếp nanh lánh gót,
Hai cha con lại một đoàn về.
Cho hay hiếu mạnh hơn uy,
Biết cha thôi lại biết chi có mình.

Thái Thuận
Thái Thuận, tự là Quân Trọng, người đất Nhữ Nam, đời nhà Hán, mồ côi cha từ  nhỏ, thờ mẹ rất hiếu thảo.

Gặp thời loạn lạc, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, lại

nhằm năm mất mùa, dân chúng thật đói khổ. Thái Thuận phải đi lượm những trái dâu đem về ăn dỡ dạ. Rủi bị giặc Xích My bắt, lục soát trong người thấy có 2 túi đựng trái dâu : một túi đựng dâu đen, một túi đựng dâu vàng. Tra vấn thì Thái Thuận khai rằng : Dâu đen thì chín ngọt dành cho mẹ dùng, còn dâu vàng mới chín còn chua thì để riêng tôi dùng.

      Giặc Xích My khen Thái Thuận là con hiếu thảo, liền đem lòng thương, cấp cho 3 thúng gạo và một đùi thịt trâu đem về nuôi mẹ.

Ngươi Thái Thuận ở sau đời Hán,
Dạ thờ thân thuở loạn không lay.
Đương cơn khói lửa mù bay,
Liền năm hoang liễm ít ngày đủ no.
Nơi rừng rậm kiếm đồ nuôi mẹ,
Nhặt quả dâu chia để làm hai.
Tặc quân trông thấy nực cười,
Hỏi sao bày đặt đôi nơi cho phiền ?
Rằng quả ấy sắc đen thì ngọt,
Dâng mẹ già gọi chút tình con.
Còn là sắc đỏ chẳng ngon,
Cái thân cay đắng dám còn sợ chua.
Giặc nghe nói khen cho hiếu kỉnh,
Bước lưu ly mà gánh cang thường.
Truyền quân của tiễn sẵn sàng,
Vó trâu một chiếc, gạo lương một bầu.
Mừng trong dạ bước mau nhẹ gót,
Về tới nhà miệng tỏ dâng qua.
Cho hay người cũng người ta,
Biết đâu đạo tặc chẳng là lương tâm.

Mẫn Tử Khiên

Mẫn Tử Khiên tên là Tổn (Mẫn Tổn), người nước Lỗ, học trò của Đức Khổng Tử. Mẹ mất sớm, cha cưới vợ kế sanh đặng 2 con. Cảnh mẹ ghẻ con chồng thật là khắc nghiệt, nhưng Mẫn Tử Khiên vẫn giữ một mực hiếu thảo với cha và mẹ kế, hoà nhã với 2 em.

Mùa đông giá rét, 2 con của mẹ ghẻ được mặc áo bông ấm áp, còn Mẫn Tử Khiên thì phải mặc áo lót bông lau không đủ ấm, lại còn phải đẩy xe đưa cha đi dạo chơi. Vì quá lạnh, tay Mẫn Tử Khiên tê cóng, phải rời xe ra. Người cha thấy vậy mới nghĩ lại, biết bà kế mẫu quá hà khắc, liền trở về nhà định đuổi bà đi. Mẫn Tử Khiên khóc lóc xin cha xét lại, đừng đuổi kế mẫu đi, vì nếu kế mẫu còn thì chỉ có mình con chịu rét mà thôi, nếu đuổi kế mẫu thì chẳng những con mà cả 2 em cũng đều phải chịu rét mướt khổ sở nữa.

Người cha nghe theo, về nhà thuật chuyện lại cho kế mẫu của Tử Khiên nghe, khiến bà cảm động. Lòng hiếu thảo của Mẫn Tử Khiên đã cảm hóa được bà, khiến bà sửa mình và trở nên một hiền mẫu.

Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu.
Thờ cha sớm viếng khuya hầu,
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn.
Trời đương tiết đông hàn lạnh lẽo,
Hai em thời áo kép dày bông.
Chẳng thương chút phận long đong,
Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân.
Khi cha dạo theo chân xe đẩy,
Rét căm căm nên xẩy rời tay.
Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay,
Nghiến răng rắp cắt đứt dây xướng tùy.
Gạt nước mắt chơn quì miệng gởi :
“Lạy cha xin xét lại nguồn cơn.
Mẹ còn, chịu một thân con,
Mẹ đi luống để cơ hàn cả ba.”
Cha trông xuống cũng sa giọt tủi,
Mẹ nghe lời cũng đổi lòng xưa.
Cho hay hiếu cảm nên từ,
Thấm lâu như đá cũng rừ lọ ai ?

Tử Lộ

Tử  Lộ, tự là Trọng Do, người ở ấp Biện nước Lỗ, là học trò giỏi của Đức Khổng Tử. Nhà nghèo, Tử  Lộ thường phải đi đội gạo rất xa đem về nuôi cha mẹ mà không nệ hà cực nhọc. Không tiền mua thức ăn, ông đi hái rau lê rau hoắc  nấu canh dâng lên cha mẹ dùng đỡ.

Sau khi cha mẹ mất, ông qua nước Sở được vua Sở trọng dụng, ban cho quan tước và bổng lộc cao sang. Trong cảnh phú quí vinh hoa, ông thường nhắc đến cha mẹ và lấy làm tiếc là cha mẹ không còn sống để cùng vui hưởng cảnh giàu sang, nên Tử Lộ than rằng : Nay muốn ăn rau lê rau hoắc, đội gạo như trước chẳng được nữa, vì cha mẹ đã mất.

Khổng Tử khen Tử  Lộ là người thận trọng và chí hiếu.

Thầy Tử Lộ cũng người nước Lỗ,
Thờ hai thân từng bữa canh lê.
Thường khi đội gạo đi về,
Xa xôi trăm dặm nặng nề hai vai.
Đỉnh huê biểu từ khơi bóng hạc,
Gót Nam du nhẹ bước tang bồng.
Xe trăm cỗ, thóc muôn chung,
Ngồi chồng đệm ghép ăn chồng vạc cao.
Thân phú quí ngắm vào thêm tủi,
Đức cù lao chạnh tới càng đau.
Nào khi đội gạo canh rau,
Muốn còn như cũ dễ hầu được ru !
Lòng thắc mắc nghìn thu vẫn để,
Biết bao giờ cam chỉ đền công.
Cho hay dạ hiếu không cùng,
Dẫu Tam Công chẳng đổi lòng thần hôn.

Lão Lai Tử

Lão Lai Tử , người nước Sở, sanh vào thời Xuân Thu, thờ cha mẹ rất hiếu thảo. Lúc ông được 70 tuổi mà cha mẹ vẫn còn sống rất thọ. Ông sợ cha mẹ buồn khi thấy mình già nên ông thường mặc quần áo sặc sỡ rồi múa hát trước mặt cha mẹ để làm vui cha mẹ; lại có khi bưng nước giả bộ trợt té ngồi khóc oa oa như con nít làm cha mẹ phải bật cười.

Lão Lai Tử đời Châu cao sĩ,
Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi.
Tuổi già đã đúng bảy mươi,
Nói năng chẳng chút hở môi rằng già.
Khi thong thả mẹ cha ngồi trước,
Nhảy lăn vào bắt chước trẻ thơ.
Thấp cao điệu múa nhởn nhơ,
Xênh xang màu áo bạc phơ mái đầu.
Chốn đường thượng khi hầu bưng nước,
Giả làm điều ngã trước thềm hoa.
Khóc lên mấy tiếng oa oa,
Tưởng chừng lên bảy lên ba thuở nào.
Trên tuổi tác trông vào vui vẻ,
Án đình vi gió thụy mưa xuân.
Cho hay nhân tử sự thân,
Trong trăm năm đặng mấy lần ngày vui.

Diễm Tử

Diễm Tử, sanh đời nhà Châu, phụng dưỡng cha mẹ rất hiếu thảo. Khi cha mẹ già, mắt lòa, lại thèm uống sữa hươu từng ngày. Diễm Tử lập kế, lấy da hươu khô may làm quần áo giả làm hươu con, rồi vào rừng lẫn vào đám hươu, đến gần hươu mẹ, vắt sữa hươu mẹ, đem về cho cha mẹ dùng.

Một hôm, bọn thợ săn vào rừng săn thú, thấy Diễm Tử trong lốt hươu tưởng là hươu thiệt, định giương cung bắn chết. Diễm Tử vội la lớn rồi trút bỏ lớp da hươu, giải bày sự việc. Bọn thợ săn mến phục Diễm Tử là người mưu trí và  hiếu thảo.

Châu Diễm Tử làm con rất thảo,
Chiều hai thân tuổi lão niên cao.
Mắt trần khuất nguyệt mờ sao,
Sữa hươu, người vẫn ước ao từng ngày.
Vật khó kiếm không hay thường dõi,
Phải lo phương tìm tõi cho ra.
Hươu khô tìm lấy lột da,
Mặc làm sắc áo để hòa lẫn theo.
Chốn non thẳm tìm vào bầy lứa,
Sẽ dần dà lấy sữa nuôi thân.
Bỗng đâu gặp lũ đi săn,
Rắp buông tên bắn không phân vật người.
Đem tâm sự tới nơi bày tỏ,
Chút hiếu tình nghe rõ cũng thôi.
Cho hay chung một tánh Trời,
Tấm son cũng động được người võ phu.

Đổng Vĩnh

Đổng Vĩnh, sanh vào thời Hậu Hán, nhà rất nghèo, nhưng ở với cha mẹ  rất  hiếu  thảo.  Khi  cha  mất,  trong  nhà không có tiền để lo việc tang cho cha, ông đến nhà một người phú hộ để xin vay tiền và cam kết khi xong đám tang cha thì ông sẽ đến dệt đủ 300 tấm lụa lấy công trừ nợ.

Nhờ số tiền vay nầy, Đổng Vĩnh lo việc tang cho cha xong xuôi tốt đẹp. Ông liền thu xếp công việc để qua nhà người phú hộ dệt lụa trừ nợ. Dọc đường đi, Đổng Vĩnh gặp một người con gái xinh đẹp và thùy mị, cùng hứa hẹn kết nghĩa trăm năm nhưng giao kết sau khi dệt xong 300 tấm lụa. Người con gái nói rằng nàng rất thạo nghề dệt lụa, nên xin theo chàng đến nhà phú hộ giúp chàng dệt cho mau xong.

Nhờ có nàng phụ giúp, Đổng Vĩnh dệt xong 300 tấm lụa rất mau và lụa rất đẹp.

Cả hai cùng trở về nhà, và khi đi ngang qua chỗ gặp nàng trước đây, người con gái nói với Đổng Vĩnh rằng :

- Tôi là Chức Nữ trên Trời, nhơn thấy anh nhà nghèo mà có lòng chí hiếu, nên xuống giúp công cho anh trả nợ, nay chẳng đặng đứng lâu.

Nói dứt thì mây giăng mù mịt, nàng đằng vân bay mất.

Đến đời nay, chỗ đó còn cái giếng giặt tơ làm dấu tích.

Đời Hậu Hán có người Đổng Vĩnh,
Nhà rất nghèo mà tánh rất thành.
Thấu chăng, chăng thấu Trời xanh,
Phụ tang để đó, nhân tình còn chi.
Liều thân thể làm thuê công việc,
Miễn cầu cho thể phách được yên.
Cực người thay nhẽ đồng tiền,
Đem thân hiếu tử băng miền phú gia.
Bỗng gặp kẻ đàn bà đâu đó,
Xin kết làm phu phụ cùng đi.
Lụa ba trăm tấm dệt thuê,
Trả xong nợ ấy mới về cùng nhau.
Đến chốn gặp bỗng đâu thoạt biến,
Là Tiên Cô Trời khiến giúp công.
Cho hay Trời vốn chiều lòng,
Há rằng cao thẳm ngàn trùng cách xa.

Giang Cách

Giang Cách, người đời Hậu Hán, mồ côi cha từ lúc còn bé, thờ mẹ rất hiếu. Gặp lúc loạn lạc, Giang Cách cõng mẹ chạy đi lánh nạn. Giữa đường quân giặc bắt được hai mẹ con. Ông khóc lóc van xin thảm thiết cho được sống để nuôi mẹ già. Quân giặc động lòng tha cho. Giang Cách đưa mẹ qua ở đất Hạ Bì, ngày ngày cố sức đi làm thuê nuôi mẹ cho qua cơn loạn lạc.

Hán Giang Cách cô đơn từ bé,
Bước truân chuyên với mẹ đồng cư.
Đương cơn loạn lạc bơ vơ,
Một mình cõng mẹ ngẩn ngơ dọc đường.
Từng mấy độ chiến trường gặp giặc,
Giặc cố tình hiếp bắt đem đi.
Khóc rằng : Thân mẹ lưu ly,
Tuổi già bóng chiếc biết thì cậy ai.
Giặc nghe nói thoắt thôi chẳng nỡ,
Rồi dần dà qua ở Hạ Bì.
Dấn mình gánh mướn làm thuê,
Miễn nuôi được mẹ quản gì là thân.
Mỗi đồ vật sắm lần no đủ,
Áng xuân phong tươi nét từ nhan.
Cho hay những lúc gian nan,
Thật vàng dẫu mấy lửa than cũng vàng.

Sưu Kiềm Lâu

Sưu Kiềm Lâu, người nước Tề, tánh rất có hiếu, được làm quan lịnh ở huyện Sàn Lăng, đến nhận chức chưa được 10 hôm thì xảy đâu lòng ông kinh hoảng lạ thường, mình đổ mồ hôi như tắm, thì ông biết cha mẹ ở nhà chắc là có việc gì xảy ra chẳng lành. Ông xin từ quan để trở về nhà, mới hay cha bịnh nặng đã 2 ngày. Lương y nói rằng : Nếu muốn biết bịnh khó dễ thì nếm thử phẩn, như có vị đắng thì chữa khỏi, còn có vị ngọt thì rất khó trị. Sưu Kiềm Lâu nếm phân thử thì cảm thấy có vị ngọt, lòng rất lo sợ tánh mạng của cha già,

Đêm đêm, ông đốt hương nhắm sao Bắc Đẩu khấn nguyện cho cha hết bịnh. Sau đó, ông  mơ thấy một người đến đưa ra một cái thẻ vàng có chữ : Sắc Trời cho bình an. Quả nhiên, mấy ngày hôm sau thì cha ông uống thuốc khỏi bệnh.

Quan Thái Thú nghe ông Sưu Kiềm Lâu có lòng hiếu như vậy nên cho ông phục chức quan trở lại.

Sưu Kiềm Lâu có danh Tề quốc,
Huyện Sàn Lăng nhận chức thân dân.
Tới nha chưa được một tuần,
Mồ hôi như dội, tâm thần thường đau.
Treo ấn ruổi vó câu bươn bả,
Về thăm cha bệnh đã hai ngày.
Nếm dơ vâng cứ lời thầy,
Ngọt ngào đầu lưỡi, chua cay trong lòng.
Thấy sách dạy “bệnh trung nguy khổ “
Ước làm sao bệnh đỡ mới cam.
Đêm đêm hướng Bắc triều tam,
Xin đem tánh mạng thay làm thân cha.
Lòng cầu khẩn thấu tòa tinh tú,
Chữ bình an vui thú đình vi.
Cho hay máy động huyền vi,
Thay mình truyện trước còn ghi Kim Đằng.

Hoàng Đình Kiên

Hoàng Đình Kiên sinh vào đời nhà Tống, hiệu là Sơn Cốc, còn có tên là Tăng Trực, làm quan Thái Sử triều vua Nguyên Hựu, thờ cha mẹ rất hiếu thảo. Tuy làm quan chức cao, trong nhà có nhiều tôi tớ, nhưng ông tự mình chăm sóc những thứ đồ dùng để tiểu tiện của cha mẹ, dù dơ bẩn thế nào, ông cũng chính tay lau rửa, không để cho đày tớ làm.

Triều Nguyên Hựu có thầy Tăng Trực,
Là họ Hoàng ngồi chức Sử thần.
Ơn vua đã nhẹ tấm thân,
Phận con vẫn giữ thờ thân như ngày.
Đồ dơ bẩn tự tay lau chuốt,
Việc tầm thường chẳng chút đơn sai.
Há rằng sai khiến không ai,
Đem thân quan trọng thay người gia nô.
Chức nhân tử phải cho cần khổ,
Có mẹ cha mới có thân ta.
Cho hay đạo chẳng ở xa,
Hãy làm hiếu tử mới ra trung thần.

Tăng Tử

Tăng Tử, tên là Sâm, tự là Tử Dư, người ở ấp Vũ Thành nước Lỗ, sanh vào thời Xuân Thu, là học trò giỏi của Đức Khổng Tử, được đời sau tôn là Tông Thánh trong hàng Tứ Phối, truy tặng là Thành Quốc Công. Tăng Tử phụng dưỡng cha mẹ rất hiếu thảo. Bữa ăn nào cũng rán mua đủ rượu thịt cho cha mẹ dùng.  Khi cha mẹ ăn  xong, đồ ăn dư lại, cha mẹ muốn cho ai thì ông vâng lời đem cho người ấy.

Cảnh nhà hàn vi, ông thường vào rừng đốn củi. Có một người khách đến chơi, Mẹ muốn gọi ông về ngay nhưng không biết phải làm thế nào. Trong lúc lúng túng, bà cắn vào đầu ngón tay thật đau. Tăng Tử đang chặt củi trong rừng, chợt cảm thấy lòng quặn đau kỳ lạ, e có việc không hay xảy đến cho mẹ nên vội thu xếp gánh củi trở về nhà. Gặp mẹ mới giải rõ nguồn cơn. Thật là cốt nhục tình thâm tương cảm.

Đời Châu mạt có Thầy Tăng Tử,
Thờ mẹ cha thì giữ chí thành.
Bữa thường rượu thịt ngon lành,
Cho ai vâng cứ đành rành không sai.
Nhà bần bạc thường đi hái củi,
Quãng mù xanh thui thủi non sâu.
Mẹ ngồi tựa cửa bóng sau,
Nhơn khi khách đến trông mau con về.
Rối trong dạ nhơn khi cùng túng,
Cắn ngón tay cho động lòng con.
Trong non bỗng chốc bồn chồn,
Quặn đau khúc ruột bước dồn gót chơn.
Quì dưới gối kề gần thưa hỏi,
Lắng bên tai tỏ rõ nguồn cơn.
Cho hay từ hiếu tương quan,
Non Đồng tuy lở, không hàn tiếng chuông.


PHẦN KẾT :

Bấy nhiêu tích cổ nhơn về trước,
Cách ngàn xưa như tạc một lòng.
Kể chi kẻ đạt người cùng,
Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân.
Buổi công hạ cảm thân dày đội,
Xa hương quan gần cõi Thánh Hiền.
Trông vào những thẹn bóng đèn,
Muốn lưu gia phạm, nên truyền quốc âm.
                                                                                              Dịch giả : LÝ VĂN PHỨC

Nhận xét :
Trong 24 gương hiếu thảo mà Ông Quách Cự Nghiệp chọn ra từ trong các truyện tích xưa, chúng ta nhận thấy có 3 điển tích không được hoàn hảo, xin kể ra :
1 . Ngô Mãnh 8 tuổi để cho muỗi mặc tình hút máu (Số 5).
2 . Lục Tích 6 tuổi trộm quít đem về biếu mẹ (Số 10).
3 . Quách Cự vì mẹ chôn con (Số 13).

* Nếu cho Ngô Mãnh là có hiếu thì cha mẹ của Ngô Mãnh mang tiếng là bất nhơn, không biết thương con, không bảo vệ con lúc con còn bé nhỏ, mới 8 tuổi, để cho con bị muỗi đốt sưng khắp mình mẩy, có thể bị bệnh nguy hiểm.

* Lục Tích, con nít mới 6 tuổi, ăn cắp quít bỏ vào túi, khi bị phát hiện thì nói là đem về biếu mẹ. Nếu cho Lục Tích là có hiếu tức là khuyến khích con nít ăn cắp đồ vật đem về cho cha mẹ.

* Quách Cự, không có cách giải quyết nào khác sao mà phải chôn con ? Sao không làm một mâm cơm riêng dâng mẹ ăn trước, mẹ ăn xong rồi thì vợ chồng con cái mới ăn sau. Nếu cho Quách Cự là có hiếu thì Quách Cự mang tiếng bất nhân, giết con.

Trong kho tàng điển tích xưa, còn rất nhiều gương hiếu thảo khác mà sao Quách Cự Nghiệp không chọn, như : Nhạc Phi, Đề Oanh, Tề Phụ, vv. . . mà lại chọn 3 điển tích vừa kể trên, thật là khó hiểu ! Chúng ta bàn qua để chỉ rằng việc chọn lọc các gương Hiếu thảo của Quách Cự Nghiệp có chỗ thiếu sót.

Chúng ta chỉ nên đề cao cái tinh thần của Nhị thập Tứ Hiếu là làm con phải hiếu thảo với cha mẹ là điều trước tiên, và chỉ nên trích dẫn những điển tích nào hoàn hảo.

TRUYỆN TÂY DU

Tây Du Ký tức là Truyện Tây Du, là một bộ truyện thần thoại của người Tàu, căn cứ trên sự kiện lịch sử có thật là Đại sư Trần huyền Trang đời nhà Đường, pháp danh là Tam Tạng, từ  Trung hoa đi theo đường bộ đến nước Ấn Độ để  thỉnh Tam Tạng Kinh của Phật giáo đem về nước Trung hoa truyền bá đạo Phật.

Truyện nầy do Ông Ngô thừa Ân viết ra theo cốt truyện “Tây Du Ký của Dương chí Hòa”, có chỉnh đốn và thêm thắt nhiều tình tiết dí dỏm, khéo léo hấp dẫn độc giả.

Ngô thừa Ân là một học giả vào thời nhà Minh bên Tàu, tên tự là Nhữ Trung, hiệu là Xạ Dương Sơn nhân, sanh khoảng năm 1500 tại phủ Hoài An huyện Sơn Dương (nay thuộc tỉnh Giang Tô), mất năm 1582, đời vua Thần Tông nhà Minh, niên hiệu Vạn Lịch thứ 10.

Ngô thừa Ân viết Tây Du Ký vào những năm cuối đời của Ông. Có lẽ Ông là một tín đồ rất sùng tín Phật giáo, nên trong nội dung Truyện Tây Du, Ông quá đề cao Phật giáo, mà lại hạ thấp giá trị của Tiên giáo và Đức Thượng Đế.

Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức Thái Bạch Kim Tinh và các vị Tiên, gần như bị ngòi bút của tác giả Ngô thừa Ân phàm hóa, không đủ tài phép để  trị một Tề Thiên Đại Thánh làm loạn Thiên cung, bị Tề Thiên đánh cho chạy dài, phải cầu cứu  Đức Phật Thích Ca ở cõi Cực Lạc Thế giới. Đức Phật sang mới có pháp thuật cao để  trị Tề Thiên Đại Thánh, bắt Tề Thiên  đè dưới Ngũ Hành Sơn  500 năm. Sau đó Đức Quan  Âm  Bồ  Tát  dùng  niền  Kim    giao cho Tam Tạng niền đầu Tề Thiên thì mới điều khiển được Tề Thiên như  ý muốn.

Tây Du Ký của Ngô thừa Ân được nhiều nhà văn VN dịch ra quốc văn, gọi là Tây Du Ký Diễn Nghĩa, gồm 100 Hồi, nhưng Hội Thánh chỉ chọn 9 Hồi tượng trưng, vẽ 9 bức tranh nơi Hành lang Báo Ân Từ (Tòa Thánh Tây Ninh), từ cầu thang tròn bên Nữ phái, vòng qua phía trước, rồi đến cầu thang tròn bên Nam phái, kể ra sau đây :

Hồi 1 : Hoa Quả sơn trứng đá nở Hầu Vương   : Bức tranh I.
Hồi 4 : Hầu Vương xưng Tề Thiên Đại Thánh : Bức tranh II.
Hồi 15 : Tiểu long hóa Bạch mã . . . . . . . . . .  : Bức tranh III.
Hồi 16 : Yêu tinh Hắc Phong trộm  cà sa. . . .  : Bức tranh IV.
Hồi 14 : Tam Tạng cứu Tề Thiên  thoát khỏi
Núi Ngũ Hành và thâu làm đồ đệ. . . : Bức tranh V.
Hồi 19 : Tam Tạng thâu Trư Bát Giái . . . . . . : Bức tranh VI.
Hồi 22 : Tam Tạng thâu Sa Tăng . . . . . . . . .  : Bức tranh VII.
Hồi 41 : Hồng Hài Nhi đốt Tề Thiên . . . . . .  : Bức tranh VIII.
Hồi 48 : Kim Ngư Tinh bắt Tam Tạng . . . . .  : Bức tranh IX.

Hoa Quả Sơn trứng đá nở Hầu Vương

Nơi Đông Thắng Thần Châu, nước Ngao Lai, có một ngọn núi cao mọc nhiều thứ hoa quả lạ, gọi là Hoa Quả Sơn, đứng sừng sững giữa Trời, chung quanh là biển cả. Trên núi ấy có một tảng đá rất lớn được tạo ra từ lúc khai Thiên  lập Địa, trên mặt có 9 lỗ thông Thiên , bốn bên có hang thông ra rừng rậm. Tảng đá ấy hứng lấy 2 khí Âm Dương của 2 vầng Nhựt Nguyệt, lần lần tụ tinh, nứt ra một trứng đá lớn, lâu năm trứng đá tượng hình, rồi gặp  một  trận  gió  lớn,  nở  ra  một  con  khỉ giống hệt hình người, tay chân rất lanh lẹ, trí não thông minh, lại có đôi mắt sáng phát ra 2 luồng hào quang chiếu đến tận Thiên  cung.

Con khỉ ấy sống trong rừng núi, đói ăn hoa quả, khát uống nước suối, lần lần lớn lên nhảy nhót chơi đùa, kết bạn cùng loài khỉ vượn, thân mật với lũ hươu nai.

Một hôm khí trời nóng bức, khỉ đá cùng lũ khỉ rủ nhau xuống suối tắm mát, rồi men theo bờ suối đi lên nguồn, thấy một thác nước trắng xóa. Bọn khỉ vỗ tay thú vị, nói :
- Nước sâu lắm ! Chỗ nầy chắc ăn thông với biển lớn.

Rồi bọn khỉ lại nói :
- Nếu ai chui được vào làn nước để  tìm trong đó có gì mà không bị xây xát mình mẩy thì chúng ta tôn lên làm vua.

Nói xong, chúng rủ nhau hú vang 3 tiếng lớn.
Khỉ đá nhảy ra nói lớn : - Tôi xin đi.
Khỉ đá nhắm mắt, vươn mình nhảy vào giữa thác nước, chui qua khỏi làn nước thì thấy có một cái cầu bằng sắt, dưới cầu nước chảy vào các lỗ đá. Khỉ đá đi qua cầu, thấy dường như có nhà cửa, liền rón rén nhảy vào, thấy một ngôi nhà đá ở phía dưới các thạch nhũ trong động đá, có bếp, có giường bằng đá, chậu đá, chén đá tuyệt đẹp, trước nhà có cây mai, cây trúc, cây tùng. Xem xét hồi lâu mà không thấy có bóng người, khỉ đá trở ra cầu, quan sát 2 bên thấy tấm bảng đá, trên đó có khắc 6 chữ : HOA QUẢ SƠN THỦY LIÊM ĐỘNG.

Nó mừng quá, vội nhắm mắt nhảy ra khỏi làn nước, lội vào bờ, cười khanh khách, nói với lũ khỉ :
- Gặp may rồi ! Trong đó không có nước, có một cây cầu sắt, bên trong là một cơ nghiệp Trời xây dựng nên.
Lũ khỉ hỏi : - Sao biết đó là một cơ nghiệp ?

Khỉ đá đáp :
- Dòng nước nầy chảy xói dưới chân cầu, chảy ngược thì lấp cửa cầu. Bên cầu có cây cối hoa cỏ, trong đó có một tòa nhà đá rất rộng, có giường đá, chén đá, chậu đá, ghế đá, bếp đá. Bên ngoài có tấm bảng đá đề là : Hoa Quả Sơn Thủy Liêm Động. Thật là một nơi kín đáo để  bọn ta yên thân. Chúng ta mau vào đó ở, tránh được mưa nắng và khí trời nóng lạnh.

Lũ khỉ nghe xong rất thích chí, đồng nói :
- Anh đi trước dẫn đường, chúng tôi theo sau.

Khỉ đá liền nhảy xuống và kêu to : Tất cả theo ta mau.
Mấy con khỉ bạo dạn liền nhảy theo, mấy con nhút nhát thì co đầu rút cổ, la hét một hồi rồi cũng nhảy xuống lội vào. Lần lượt bọn chúng đều nhảy qua làn nước và lên cầu vào động. Chúng tung tăng phá phách vui vẻ đến khi mệt mới thôi.

Lúc đó khỉ đá mới kêu lũ khỉ lại nói :
- Lúc còn ở bên ngoài, chúng ta có hứa nhau, ai xuống trước sẽ được tôn làm vua, bây giờ lại quên sao ?

Lũ khỉ nhớ lại, vội vàng bước đến quì trước mặt khỉ đá, tôn lên làm Đại Vương, cả bọn hô to : “Đại Vương vạn tuế ! “

Khỉ đá khoái chí cười nói :
- Từ nay ta làm vua lấy hiệu là “Mỹ Hầu Vương”. Ta phong cho vượn và khỉ đột làm Tả Hữu Thừa Tướng.

Rồi Mỹ Hầu Vương chỉ huy đàn khỉ vượn, sắp thành đội ngũ quân lính, tướng tá, phân ra ban bộ trật tự rõ ràng. Từ đây đàn khỉ sống rất vui vẻ an nhàn thích thú.

Một hôm, Mỹ Hầu Vương buồn rầu nói :
- Ta đang nghĩ đến ngày mai, chúng ta sẽ già rồi chết, làm sao giữ mãi được những ngày vui sướng như thế nầy ?

Một con vượn già đứng dậy nói :
- Đại Vương lo xa như vậy là phải lắm ! Chỉ có 3 bậc là Phật, Tiên, Thánh thì mới khỏi chết, trường sanh bất lão. Ba bậc ấy hiện đang ở non Tiên.

Hầu Vương có được một tia hy vọng, liền nói :
- Ngày mai, ta sẽ từ giã các ngươi, thả bước phiêu lưu đi tìm non Tiên để  học phép trường sanh bất lão

Hầu Vương xưng Tề Thiên Đại Thánh

Hầu Vương dùng bè đi xuyên qua biển lớn, đến được Nam Thiệm Bộ Châu, lưu lạc trong 9 năm mà chẳng tìm được nơi nào có Thần Tiên, lòng rất buồn rầu. Hầu Vương tìm cách đóng một chiếc bè khác để  vượt biển qua xứ khác tìm kiếm. Hầu Vương đến được Tây Ngưu Hóa Châu, lên bờ, thấy một ngọn núi cao chớn chở, cảnh vật thật là xinh đẹp, lòng mừng hy vọng nơi đây là chỗ ở của Thần Tiên.

Hầu Vương tìm đường lên núi, xảy thấy một ông tiều liền hỏi thăm, biết được ở trên núi có Ông Tiên Bồ Đề Tổ Sư, có thâu nhận học trò. Hầu Vương mừng rỡ leo lên, thấy cửa động có tấm bảng đề : “Linh Đài Phương Thốn Sơn, Tà Nguyệt Tam Tinh Động”. Lát sau có một đồng tử mở cửa động đi ra. Hầu Vương đến chào và xin vào động gặp Tổ Sư.

Tổ Sư biết trước việc Hầu Vương đến xin học đạo, nên cho đồng tử ra đón dẫn vào. Hầu Vương lạy Tổ Sư và xin làm đồ đệ. Tổ Sư thâu nhận, đặt cho pháp danh là Tôn Ngộ Không.

Từ đó, Ngộ Không theo Tổ Sư học đạo, được 10 năm thì pháp thuật tinh thông, võ nghệ cao cường, biết được Thất thập nhị huyền công (72 phép biến hoá), lại học được phép Cân Đẩu Vân, một nhảy trên mây đi được 18 ngàn dặm.

Học đạo vừa xong thì Ngộ Không bị Tổ Sư đuổi về Hoa Quả Sơn, lại cấm nhặt Ngộ Không không được xưng là học trò của Tổ Sư. (vì Tổ Sư biết sau nầy Ngộ Không sẽ làm loạn Thiên  cung, tội rất nặng,  Tổ Sư  sợ bị tội liên can).

Hầu Vương khóc lóc, lạy tạ Tổ Sư, từ giã các bạn đồng môn, rồi ra khỏi động, dùng phép cân đẩu vân, giây lát thì tới Hoa Quả Sơn, nhảy vào Thủy Liêm Động, lên tiếng kêu gọi bọn khỉ. Lũ khỉ chạy ra mừng rỡ, hỏi han lăng xăng.

Hầu Vương bây giờ tài giỏi phi thường, oai danh lừng lẫy. Các Chúa động yêu xa gần đều đến hàng phục, cống lễ.

Hầu Vương cảm thấy không có binh khí vừa tay để  xử  dụng, nên rẽ nước đi xuống Thủy phủ của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng hỏi xin. Ngao Quảng sợ Hầu Vương phá khuấy nên buộc lòng phải đem các thứ binh khí trong kho ra cho Hầu Vương lựa chọn. Hầu Vương cầm thử các thứ đều chê là nhẹ. Ngao Quảng giận,  dẫn Hầu Vương đến giữa đáy biển, chỉ cây cột sắt Thần chiếu hào quang nặng 13.500 cân. Hầu Vương đến ôm cột sắt nhổ lên, thấy nó rất lớn, 2 đầu bịch vàng, trên có đề chữ “Như Ý Kim Cô Bảng”. Ngộ Không liền nói : “Hãy nhỏ lại cho cầm vừa tay.” Tức thì cây sắt Thần nhỏ lại như ý muốn của Ngộ Không. Ngộ Không mừng rỡ, cầm thiết bảng múa thử một đường, làm cả Long cung rung chuyển. Cả triều đình của Long vương đều sợ sệt.

Ngộ Không lại đòi Ngao Quảng cho một bộ y giáp. Ngao Quảng phải lấy áo giáp của Ngao Thân và mão của Ngao Khâm đưa cho Ngô Không. Ngộ Không nhận lãnh mặc vào, rồi vui vẻ cám ơn Long Vương, trở về động Thủy Liêm.

Một hôm, Ngộ Không say rượu nằm ngủ trong động Thủy Liêm, bị Quỉ sứ đến bắt hồn dẫn xuống cõi Âm phủ. Ngộ Không tỉnh rượu, đánh bọn Quỉ sứ chạy tán loạn, 10 Vua Diêm Vương cả sợ, bảo Phán Quan đem Bộ Sanh Tử  của loài khỉ ra xem. Ngộ Không cầm bút xóa hết tên họ của nhà khỉ vượn, để  loài nầy không có số chết, trường sanh bất tử.

Sau đó, Long Vương Ngao Quảng và 10 Vua Diêm Vương đồng dâng sớ lên Thượng Đế tâu bày các sự lộng hành của Hầu Vương Tôn Ngộ Không, xin Thượng Đế bắt Ngộ Không trị tội.

Thượng Đế liền sai Thiên binh Thiên  tướng đi bắt Ngộ Không, nhưng Thái Bạch KimTinh can gián, xin Thượng Đế gọi nó về Trời, phong chức và giáo hóa nó.

Thượng Đế bằng lòng, sai Thái Bạch đến Hoa Quả Sơn chiêu an, gọi về Trời, phong  cho  chức Bậc Mã Ôn, là  chức quan nhỏ lo việc nuôi ngựa và giữ đàn ngựa của Thiên  triều.

Ngộ Không nhận chức, làm việc được 15 ngày thì biết chức Bậc Mã Ôn thuộc vào hạng bét, nên giận Thượng Đế không biết dùng tài mình, liền trở về Thủy Liêm Động.

Bọn khỉ vượn Tứ Kiện Tướng nơi động Thủy Liêm nói :
- Tài của Đại Vương cao tột, phải làm đến chức Tề Thiên Đại Thánh mới đáng.

Ngộ Không nghe nói thế thì thích chí, liền cho làm một cây cột cờ thật cao, treo một lá cờ có đề 4 chữ thật lớn “ TỀ THIÊN ĐAÏI THÁNH”, rồi truyền lịnh cho bọn khỉ và các chúa động yêu là từ nay phải gọi mình là Tề Thiên Đại Thánh.

Thượng Đế sai Lý Tịnh và Na Tra xuống bắt Bậc Mã Ôn đem lên trị tội, nhưng 2 vị nầy bị Tề Thiên Đại Thánh đánh cho bại tẩu, trở về tâu rằng : Bậc Mã Ôn đòi Thượng Đế phong cho nó chức Tề Thiên Đại Thánh thì nó mới chịu.

Thái Bạch Kim Tinh tâu :
-  Bậc Mã Ôn chê chức nhỏ không xứng tài nó, muốn làm Tề Thiên Đại Thánh, nhưng trên Thiên đình không có chức nầy, nay xin cứ phong cho nó, hữu danh vô thực, để  nó khỏi làm loạn. Thượng Đế bằng lòng.

Thái Bạch tới động Thủy Liêm, gọi Hầu Vương, nói :
- Thượng Đế bằng lòng phong ngươi chức Tề Thiên Đại Thánh, mau lên nhận chức, đừng làm loạn mà mắc tội lớn.

Thượng Đế đòi Hầu Vương vào chầu, phán :
- Nay ta chiều ý ngươi, phong cho chức Tề Thiên Đại Thánh là chức lớn lắm rồi. Từ nay đừng gây chuyện nữa.

Thượng Đế truyền cho Lỗ Ban và Trương Ban cất một biệt dinh cho Tề Thiên, trong dinh chia ra 2 phòng có tên : Ân Linh Tự và Ninh Thần Tự, có Tiên lại phục dịch, lại ban cho Tề Thiên  2 chai ngự tửu và 10 cái bông vàng, rồi sai Ngũ Đẩu Tinh Quân đưa Tề Thiên  đến phủ. Từ đây Tề Thiên vui ở trong dinh, đi chơi đây đó chẳng  ai ngăn cấm.

Tiểu long hóa Bạch mã

Nói về Tề Thiên Đại Thánh làm loạn Thiên  cung, bị Đức Phật Tổ bắt, đè xuống dưới Ngũ Hành Sơn được 500 năm, được Tam Tạng vâng lịnh Đức Quan Âm Bồ Tát đến cứu. Tề Thiên  thoát khỏi núi Ngũ Hành, lạy Tam Tạng tôn làm Sư phụ, được Tam Tạng đặt thêm một tên nữa là Tôn Hành Giả.

Hành Giả phò Tam Tạng đi thỉnh kinh, nhắm hướng Tây thẳng tới. Ngày kia, 2 thầy trò đến núi Xà Bàn, bị con suối lớn gọi là suối Ưng Sầu chắn ngang. Hai thầy trò đang ngắm nghía, tìm cách vượt qua suối, thì bỗng dưới suối, một con Rồng nhỏ (Tiểu long) nhẩy lên, chờn vờn muốn chụp Tam Tạng. Hành Giả lật đật nhảy tới, ôm sốc thầy chạy thoát ra xa. Rồng đuổi theo không kịp, quay lại nuốt sống con ngựa của Tam Tạng, nuốt cả yên cương, rồi nhảy xuống suối lặn mất.

Hành Giả trở lại kêu Rồng lên đánh, Rồng đánh không lại Hành Giả nên lặn xuống suối trốn mất. Tôn Hành Giả niệm chú đòi Thổ Thần đến hỏi gốc tích của Rồng nầy. Thổ Thần cho biết Rồng nầy do Quan Âm Bồ Tát cứu sống và cho nó ở chốn nầy. Đại Thánh muốn bắt nó thì phải hỏi Đức Quan Âm.

Hành Giả trở lại báo cáo với thầy và xin thầy cho đi gặp Bồ Tát. Thần Yết Đế xin đi thay cho Đại Thánh.

Lát sau, Đức Quan Âm Bồ Tát đằng vân bay tới. Hành Giả lật đật bay lên mây ra mắt Bồ Tát. Bồ Tát nói :

- Con Rồng ấy là con trai thứ ba của Long Vương Ngao Nhuận, phạm tội ngỗ nghịch với cha nên bị Thượng Đế trừng phạt, treo lên không chờ chém đầu. Bồ Tát ngó thấy thương tình, xin Thượng Đế cho nó khỏi tội chết, để  sau nầy làm ngựa cho người đi thỉnh kinh. Nhà ngươi nghĩ xem một con ngựa tầm thường làm sao có thể vượt muôn núi ngàn sông đến được đất Phật ? Cần phải có một con Long mã mới đi được.

Hành Giả nói :
- Nay Rồng nầy sợ Lão Tôn  trốn mất thì làm thế nào ?

Bồ Tát gọi Thần Yết Đế, bảo :
- Nhà ngươi đến bờ khe, gọi : “Ngao Nhuận Long Vương Tam Thái tử  ra cho Bồ Tát Nam Hải dạy việc.”

Yết Đế tuân lịnh. Giây lát thấy Rồng rẽ sóng nhảy lên, biến thành hình người, đến ra mắt Bồ Tát.

Quan Âm bước tới lấy trái châu nơi cổ con Tiểu long, cầm nhành dương liễu nhúng nước Cam lồ, rảy lên mình Tiểu long, rồi thổi vào một hơi, khiến Tiểu long hóa thành một con ngựa bạch. Đức Quan Âm vỗ lên đầu ngựa bảo :
- Ngươi hết lòng đưa người thỉnh kinh đi tới Tây phương mà chuộc tội, đến đó sẽ được hóa mình vàng, sống lâu muôn tuổi.

Bạch mã gật đầu. Bồ Tát truyền Tôn Hành Giả dẫn ngựa đến cho Tam Tạng, rồi Bồ Tát trở về Nam Hải.












91 Đinchinh Lango Ân Từ - 2 / 8 (Kim Hương)
Tam Tạng thấy Hành Giả dẫn ngựa tới, liền hỏi :
- Chẳng hay ngươi tìm được ngựa nầy ở đâu ?

- Bạch thầy, nhờ Thần Yết Đế thỉnh Đức Quan Âm tới bắt con rồng biến thành con ngựa nầy cho thầy cỡi đi thỉnh kinh, thế con ngựa khi trước.

Tam Tạng nghe nói thế thì lòng rất vui mừng, vội quì xuống, nhắm hướng Nam lạy tạ ơn Bồ Tát.

Kế đó, Thủy Thần ở suối Ưng Sầu đem bè tới, đưa thầy trò Tam Tạng và ngựa bạch vượt qua suối sang bờ bên kia.

Hai thầy trò lên bờ, Hành Giả đỡ thầy lên ngựa, nhắm hướng Tây đi tới, xảy có Thổ Địa đón dâng cho Tam Tạng một bộ yên cương và roi ngựa, nói là của Bồ Tát Nam Hải gởi tặng, khuyên Tam Tạng gắng bước thỉnh kinh, đừng trễ nải.

Tam Tạng vội xuống ngựa, quay mình về hướng Nam lạy tạ Bồ Tát.

Yêu tinh Hắc Phong trộm cà sa

Trên đường đi thỉnh kinh, một hôm trời gần tối, Tam Tạng và Hành Giả đến một khoảng vắng, xa xa thấy một toà nhà cao lớn, liền giục ngựa đi tới, thấy đó là ngôi chùa lớn, có tấm bảng đề là : Quan Âm Thiền Viện.

Tam Tạng đi vào được các sãi đón tiếp. Tam Tạng xin vào lạy Đức Quan Âm Bồ Tát, rồi xin nhà chùa cho tạm nghỉ một đêm để  hôm sau tiếp tục lên đường thỉnh kinh.

Vị Lão Sư ngôi chùa nầy được 2 sãi nhỏ hầu 2 bên từ trong bước ra chào Tam Tạng. Một lát sau, sãi nhỏ bưng chén ngọc đĩa vàng, trịnh trọng rót trà mời khách. Tam Tạng nhìn các vật quí, tỏ lời khen :
- Thật là những của quí báu trên đời.

Vị Lão Sư nói :
-  Thầy đừng quá khen làm tôi hổ thẹn. Nghe nói ở Trung quốc có rất nhiều vật báu, thầy có vật báu nào thì xin đem ra cho xem, để  thưởng thức vật báu của Đại Đường.

- Đáng tiếc là tôi đi đường xa, chẳng đem theo vật gì quí báu, chỉ đem theo những món thô sơ cần dùng mà thôi.

Hành Giả đứng cạnh Sư phụ vọt miệng nói :
- Thưa Sư phụ, hôm trước con thấy trong tay nải có tấm áo cà sa của Sư phụ, nó không phải là vật quí sao ?

Một vị Hòa Thượng ngồi gần nói :

- Ngài vừa nói áo cà sa là vật quí thì buồn cười thật. Sư Tổ chúng tôi trụ trì ở đây 250 năm có tới 700 chiếc.

Vị Lão Sư trụ trì bảo tăng chúng :
- Hãy mang tất cả áo cà sa của ta ra đây cho 2 vị xem.

Lão Sư có ý khoe của, nên bảo sãi mở kho, đem ra 12 chiếc rương lớn đặt giữa nhà, mở khóa lấy các áo cà sa ra treo lên khắp 4 xung quanh. Hành Giả xem khắp một lượt, thấy toàn bằng gấm vóc thêu hoa dát ngọc, bèn cười nói :

- Đẹp lắm ! Nhưng thôi hãy dẹp đi, để  tôi lấy của thầy tôi ra cho xem, mới biết áo nào quí.

Tam Tạng kêu Hành Giả lại rầy nhỏ : “Đồ đệ, đừng khoe của quí. Chúng ta có 2 người, rủi xảy ra việc gì thì sao.”

Hành Giả đáp : “Cho họ xem áo thì có gì mà sợ.”
Tam Tạng nói : “ Đồ đệ chẳng nghĩ sâu, vật quí chớ cho kẻ gian trông thấy. Người đời thường lụy vì của quí.”

Hành Giả nói : “Xin thầy đừng lo, có gì con lãnh hết.”

Nói rồi chạy lại gói đồ, mở ra lấy áo cà sa. Hào quang của áo chiếu ra sáng lòa. Các sãi thất kinh le lưỡi lắc đầu. Vị Lão sư nhìn áo sững sờ không nháy mắt. Rồi như đụng vào lòng tham của Lão, Lão khóc òa, quì trước mặt Tam Tạng nói:

- Tôi xấu phước vô duyên lắm ! Con mắt tôi mờ rồi, không nhìn rõ báu vật. Nếu Hòa Thượng thương tình, cho tôi mượn áo nầy coi một đêm, sáng ra trả sớm thì tôi biết ơn lắm.

Tam Tạng nghe nói thất kinh, gọi Hành Giả đến trách :
- Bởi ngươi phách lối khoe khoang mới xảy ra cớ sự.
- Chẳng hề chi, xin thầy cứ cho họ mượn xem, nếu có điều gì bất trắc, đệ tử xin chịu hết.

Hành Giả nói dứt thì lấy áo trao cho Lão Sư. Lão Sư mừng rỡ hối dọn cơm nước đãi thầy trò Tam Tạng.

Lão Sư đem áo lên phòng xem, thấy áo quá quí, bèn khóc rống than cùng các sãi nhỏ : “ Ta nay  270 tuổi, từng sắm biết bao cà sa, nhưng không áo nào có hào quang quí bằng áo nầy. Ước sao ta được mặc áo nầy một ngày, chết cũng đủ vui.”

Sãi nhỏ thưa :
- Tổ Sư cứ cầm họ ở lại một ngày thì Tổ Sư mặc áo nầy một ngày, cầm họ 10 ngày thì Tổ Sư mặc áo nầy 10 ngày, có gì mà ngồi khóc than !

Lão Sư lại nói :
- Nếu ta muốn mặc áo nầy suốt đời thì sao ?

Hòa Thượng Quảng Trí ló đầu ra nói :
- Việc ấy không khó. Tối nay, 2 người đó đi đường mệt nhọc tất ngủ say. Chúng ta lén mở cửa dùng dao cho mỗi đứa một nhát rồi đem xác chúng vùi sau vườn là xong ngay.

Hòa Thượng Quảng Mưu can :
- Kế ấy không được. Cái ông mặt trắng dễ giết, chớ cái ông mặt khỉ không dễ đối phó đâu. Tôi có kế nầy : Tổ Sư muốn được áo thì chịu cháy một phần chùa. Chúng ta mỗi người lấy một bó củi chất quanh chỗ 2 thầy trò nó ngủ, rồi chế dầu phóng hỏa, cho là chúng bị Hỏa tai, khỏi ai bắt tội.

Lão Sư khen hay, chờ cho 2 thầy trò Tam Tạng ngủ mê là thi hành độc kế.

Đang ngủ ngon, Hành Giả sáng tai thức dậy, nghe bước chân nhiều người rộn rịp, sanh nghi, liền hóa thành con muỗi, bay qua khe cửa ra ngoài, thấy bọn sãi nhộn nhịp chất củi khô, chuẩn bị chế dầu thiêu sống 2 thầy trò.

Hành Giả ngẫm nghĩ lời thầy nói lúc nảy rất đúng, bọn sãi muốn đoạt áo quí nên  chất củi đốt chết 2 thầy trò. Đáng lẽ cho chúng nó nếm mùi thiết bảng, nhưng sợ thầy quở mình sát sanh, thôi ta tương kế tựu kế làm chúng một phen hoảng vía.

Nghĩ rồi, Hành Giả liền cân đẩu vân lên Nam Thiên  môn, tìm Quảng Mục Thiên Vương đặng mượn cái lồng Tịch Hỏa đem về che chở Đường tăng, hẹn sáng mai lên trả gấp.

Hành Giả mượn được lồng, bay nhanh về, lấy lồng Tịch Hỏa che cho thầy và gói đồ, không cho lửa phạm đến, rồi nhảy lên nóc nhà ngồi chờ xem các sãi phóng hỏa.

Khi lửa bắt đầu cháy, Hành Giả niệm chú thổi thêm gió khiến cho lửa cháy rất mạnh, cháy lan khắp chùa, không phương cứu chữa. Các sãi kinh hoảng, lo xách đồ đạc chạy thoát thân, kêu khóc vang với.

Lúc đó, con tinh ở núi Hắc Phong nhìn qua cửa sổ thấy lửa cháy ngất Trời ở chùa Quan Âm, thất kinh nói :
- Nguy rồi ! Chùa Quan Âm bị hỏa hoạn, ta mau đến cứu hỏa cho Lão Sư.

Con yêu liền mở cửa động, đằng vân bay đến, thấy liêu phía sau lửa chưa bén tới, lại thấy một người ngồi trên nóc chùa thổi gió cho lửa cháy mạnh, rồi lại thấy trong phòng Lão Sư có một chiếc áo cà sa tỏa hào quang. Hắc Phong biết đây là áo quí, liền lẻn vào ôm áo quí bay về động, không ai hay biết.

Lửa cháy đến canh năm mới tàn, Hành Giả liền lấy lồng Tịch Hỏa bay thẳng lên Nam Thiên môn trả lại cho chủ, rồi trở về ngay chùa Quan Âm, vào phòng gọi Tam Tạng dậy.

Tam Tạng thức dậy, mở cửa phòng đi ra thấy ngôi chùa chỉ còn là một đống than, thất kinh gọi Hành Giả, hỏi :
- Sao lửa cháy sạch hết vậy ?
- Lửa cháy từ lúc nửa đêm, thầy ngủ say nên không hay
- Lửa cháy tiêu mất ngôi chùa, sao phòng nầy còn nguyên vẹn vậy ?
- Có đệ tử canh giữ cho thầy ngủ, lửa nào dám cháy tới.
- Ngươi có phép thần thông, sao không chữa cháy cho ngôi chùa nầy ?
- Lời thầy đoán trước rất đúng, chúng nó bế cửa, chất củi chung quanh đốt chết thầy trò mình để  đoạt áo cà sa. May là đệ tử hay kịp, nên giúp chúng nó một ngọn gió mạnh làm lửa  cháy hết chùa cho bỏ ghét.

- Vậy áo cà sa cũng cháy ra tro rồi sao ?
- Cà sa là báu vật, có tỵ hỏa châu thì làm sao cháy được

Tam Tạng cùng Hành Giả bước vào sau phương trượng thấy bọn sãi đang ngồi khóc than, chợt bọn sãi trông thấy 2 thầy trò tưởng là hồn ma hiện về đòi mạng, nên hoảng sợ quì mọp xuống lạy và van vái : “Oan có người, nợ có chủ, xin 2 oan hồn dung mạng.” Tôn Hành Giả hét :
 - Quân đê tiện ! Thầy trò ta không phải là hồn oan, chúng bây mau kiếm áo cà sa trả lại  ta, kẻo tan xương cả bọn.

Các sãi chấp tay run rẩy thưa :
- Hai ông đã bị chết thiêu, sao còn đến đây đòi áo ?

- Có Lão Tôn đây, lửa làm sao cháy tới liêu ? Các ngươi mau ra đó xem đi có phải vậy chăng ?
Các sãi rầm rộ chạy ra thấy liêu còn nguyên vẹn, ai nấy đều cho rằng hai thầy trò nầy là bực Thần Tiên chi đây nên lửa không làm hại được. Lão Sư vội vào phòng đến chỗ để  áo cà sa thì hỡi ôi áo đã biến mất mà chùa thì bị cháy tiêu. Lão Sư quá thất vọng, liền đập đầu vào cột tự  tử.

Tôn Hành Giả nổi giận, tự mình đi lục xét khắp chùa, nhưng vẫn không thấy áo cà sa của thầy. Hành Giả rất bồn chồn, sợ thầy giận niệm Chú Cẩn Cô, chợt hội ý hỏi các sãi :
- Ở gần đây có yêu tinh nào không ?
- Ở về phía Nam núi nầy có động Hắc Phong, chúa động thường đến đây chơi với Lão Sư.

Hành Giả nói với thầy :
- Xin thầy đừng giận, đệ tử  hết lòng đi tìm áo đem về. Có lẽ con yêu Hắc Phong nầy đến trộm áo trong lúc lửa cháy, để  đệ tử  đi kiếm nó đòi áo. Còn các người ở đây phải hầu hạ thầy ta cho tử tế, giữ gìn ngựa và đồ đạc, nếu biếng trễ ta không tha cho đâu.

Nói rồi Hành Giả móc thiết bảng trong lỗ tai, nhồi lên một cái thì nó lớn ra, đập bức tường trước mặt nát vụn để thị uy, xong Hành Giả nhảy lên mây, bay đi tìm động Hắc Phong.

Tôn Hành Giả đang đi tìm kiếm, bỗng nghe có tiếng nói nhỏ, liền đến rình nghe, thấy 3 con yêu đang ngồi nói chuyện rất thân mật. Con yêu ngồi giữa mặt đen nói :

- Mai nầy đến ngày sinh nhật của tôi, tôi lại lượm được cái áo cà sa rất quí, tôi sẽ làm tiệc ăn mừng gọi là Hội Phật Y, mời các vị tới dự.

Con yêu mặc áo đạo sĩ và con yêu mặc áo trắng nói :
- Hay lắm ! Tôi chẳng dám quên. Cha chả là vui !
Hành Giả nghe đến đây biết là con yêu mặt đen đã trộm áo cà sa, lòng tức giận, nhảy ra quát :

- Lũ yêu nầy ăn cắp cà sa của ta, lại còn rủ nhau ăn  mừng, cả gan thật, hãy coi thiết bảng của Lão Tôn.

Hét xong vụt thiết bảng đập liền. Con yêu mặt đen nổi gió bay đi, con yêu mặc áo đạo sĩ đằng vân bay mất, con yêu áo trắng bị Hành Giả đập chết, hóa ra là một con Bạch hoa xà.

Hành Giả liền đuổi theo con yêu mặt đen, đến một cửa động, thấy đề là : Hắc Phong Động. Hành Giả đập một thiết bảng vào cửa động,  gọi lớn :
- Con yêu trộm áo cà sa, mau trả lại cho Lão Tôn.
Con yêu Hắc Phong nai nịt xong, mở cửa động xông ra mắng Hành Giả :
- Đêm hôm mày thổi gió đốt chùa, bị tao lấy mất áo cà sa mà không hay, thật là đồ vô dụng, còn đến đây đòi áo.

Hành Giả lướt tới đánh nhầu, đánh tới trưa mà chưa thắng con yêu, nên phải trở về báo cáo mọi việc cho thầy rõ. Buổi chiều, Hành Giả đến động Hắc Phong đánh nữa, vẫn không thắng được con yêu, đành trở về, bỗng nghĩ rằng, con yêu nầy ở gần chùa Quan Âm, có lẽ Bồ Tát biết rõ, liền xin với thầy cho đi Nam Hải bạch với Bồ Tát.

Đức Quan Âm Bồ Tát nói :
- Nó là con tinh gấu trộm áo. Bởi ngươi đem khoe vật báu, đứa tiểu nhân nổi lòng tham mới sanh cớ sự, ngươi biết lỗi của ngươi chăng ?

- Đệ tử  rất hối lỗi, xin Bồ Tát tha thứ. Xin Bồ Tát trừ con yêu đó đặng thu lại áo cà sa.

Bồ Tát cùng Hành Giả đằng vân đến động Hắc Phong, bỗng Hành Giả thấy con yêu mặc áo đạo sĩ bưng một dĩa lưu ly đựng 2 viên linh đơn, Hành Giả nhào xuống đập chết ngay,

nó hóa thành một con chó sói lông xanh. Bồ Tát quở :
- Con khỉ nầy hung hăng quá, sao lại giết kẻ vô can ?

- Bạch Bồ Tát, chính nó là bè lũ của con tinh gấu, nó bưng 2 viên thuốc nầy đến mừng hội Phật Y đó.

Hành Giả nhìn dĩa lưu ly thấy có hàng chữ nhỏ : “ Lăng Hư Tử chế” , nghĩa là : 2 hoàn linh đơn nầy do con yêu tên là Lăng Hư Tử chế ra. Tôn Hành Giả nghĩ được một kế liền nói :

- Bạch Bồ Tát, tôi có một kế mọn là tôi sẽ nuốt bớt một viên linh đơn, rồi tôi biến hình thành một viên linh đơn khác to hơn một tí. Bồ Tát biến thành Lăng Hư Tử , bưng 2 viên linh đơn giả đến mừng hội Phật Y, gạt cho con yêu gấu đen uống vào, tôi mà vào bụng nó rồi thì lo gì nó không trả áo cà sa.

Bồ Tát ngẫm nghĩ, thấy không có kế gì hay hơn, nên đồng ý làm theo kế của Hành Giả.

Khi viên linh đơn giả vào bụng Hắc Phong, Hành Giả liền hiện nguyên hình, đạp đá lung tung làm Hắc Phong đau quá nhào lăn xuống đất, năn nỉ xin tha mạng sống. Bồ Tát liền hiện nguyên hình, nói :

- Con yêu nầy, đem cà sa ra trả, ta tha cho khỏi chết.

Con yêu Hắc Phong rên rỉ, hối tiểu yêu vào lấy áo cà sa. Hành Giả theo lỗ mũi của Hắc Phong vọt ra, giựt áo cà sa giữ chặt. Con yêu hết đau, chồm dậy, lấy giáo đâm Hành Giả. Bồ Tát liền ném kim cô chụp lên đầu Hắc Phong niền lại, rồi niệm chú, Hắc Phong đau đầu quá phải chịu phép qui hàng.

Bồ Tát nói :
- Nếu ngươi cải tà qui chánh, ta mới tha mạng và đem về làm Thủ Sơn Đại Thần, giữ núi Lục Đà.

Con yêu Hắc Phong tuân mạng, cải dữ làm lành, theo Bồ Tát về Nam Hải. Bồ Tát nói với Hành Giả :
- Từ nay, ngươi bỏ tánh sanh sự thì mới là kẻ tu hành.

Hành Giả vâng dạ, lạy tạ Bồ Tát, đem áo cà sa trở về cho thầy và trình bày hết các việc.

Tam Tạng cứu Tề Thiên
thoát khỏi núi Ngũ Hành và thâu làm đồ đệ

Tôn Ngộ Không, từ ngày nhận chức Tề Thiên Đại Thánh ở cõi Trời, hằng ngày ở trong phủ, không có việc gì làm, nên đi dạo chơi khắp Thiên  cung, làm bạn với các Tiên.

Tinh Quân Hứa Chơn Quân thấy vậy tâu Thượng Đế :
- Tề Thiên Đại Thánh ngày ngày đi dạo chơi khắp nơi, hiên ngang lêu lỏng, e  để  lâu sanh tệ, xin Ngọc Hoàng giao cho nó một việc gì làm để  tập rèn tánh nết.

Ngọc Hoàng Thượng Đế y tấu, đòi Tề Thiên vào, giao cho cai quản Vườn  Đào Tiên của Tây Vương Mẫu.

Kể từ đó, Tề Thiên  không đi chơi nữa, lo giữ vườn đào, thấy đào Tiên loại 9 ngàn năm mới chín một lần ửng đỏ thơm ngon, nhịn thèm không được bèn hái ăn, ăn dần dần gần hết vườn đào. Nay đến kỳ mở Hội Bàn Đào, Vương Mẫu sai 7 Tiên Nữ  đến hái Đào Tiên về đãi chư Tiên Phật, mới phát hiện ra Đào Tiên 9 ngàn năm không còn trái nào chín hết, chỉ còn một ít trái xanh. Tề Thiên dùng phép định thân, khiến 7 Tiên Nữ đứng trơ dưới gốc đào, rồi Tề Thiên bay đến Cung Diêu Trì xem Hội Bàn Đào ra sao cho biết, xảy thấy Xích Cước Đại Tiên đi đến phó Hội, Tề Thiên  nói gạt cho Xích Cước  đi qua Thông Minh Điện chầu Thượng Đế, còn mình thì biến ra Xích Cước Đại Tiên, giả đi phó Hội Diêu Trì, thấy tiệc đã dọn linh đình, chỉ còn thiếu trái Đào Tiên, chợt ngữi mùi rượu Tiên rất thơm từ nhà bếp xông lên, liền mò xuống đó, thấy có quân canh giữ, Tề Thiên  làm phép cho quân canh ngủ gục, vào lấy Tiên Tửu và đồ ăn, ăn uống hả hê, đến lúc say mèm. Giây lát, Tề Thiên  tỉnh rượu, nghĩ thầm : Không xong ! Mình giữ vườn đào, lén ăn đào Tiên hết sạch, lại ăn cắp đồ ăn và Tiên tửu uống say, lát nữa phát giác ra thì nguy to,  thôi  trở về dinh giả đò ngủ say, việc lậu ra thì chối tuốt. Nghĩ sao làm vậy, nhưng vì còn say nên Tề Thiên  đi lạc đường, thay vì trở về dinh của mình lại lạc qua Cung Đâu Suất của Thái Thượng Lão Quân. Tề Thiên đi vào, không thấy ai giữ cửa (vì Đức Thái Thượng cùng Đức Nhiên Đăng đang giảng kinh trên lầu, các đệ tử  đều lên nghe), thấy có 5 bầu linh đơn, biết là thuốc quí, liền đổ ra, uống một hơi hết sạch.

 Thuốc linh đơn vào bụng giải rượu làm Tề Thiên tỉnh hẳn, giựt mình ngẫm nghĩ : Không xong ! Hỏng bét cả ! Thượng Đế hay đặng chắc ta không toàn tính mạng, thôi dông tuốt về động Thủy Liêm mà trốn. Nghĩ rồi, Tề Thiên Đại Thánh biến hình nhảy qua cửa Đông Thiên  môn trốn về Đông Thắng Thần Châu, núi Hoa Quả, động Thủy Liêm.

Sau đó, các nơi đều báo cáo các việc khuấy động của Tề Thiên với Thượng Đế. Thượng Đế nổi giận, sai Tứ Đại Thiên Vương, Nhị thập bát Tú, Cửu Diện Tinh Quân, Ngũ  Phương Yết Đế, cùng các Thiên Tướng, đem 10 vạn Thiên  binh xuống núi Hoa Quả bắt Tề Thiên đem về trị tội.

Tề Thiên Đại Thánh dẫn binh ra ứng chiến, đánh lui Thiên binh Thiên Tướng. Thượng Đế phải truyền chỉ cho Dương Tiễn đến giúp mới đánh cầm đồng với Tề Thiên. Đức Thái Thượng dùng Kim Cang Sào ném xuống Tề Thiên trong lúc Tề Thiên đang đánh với Dương Tiễn, nên Tề Thiên không tránh kịp, bị trúng Sào, té nhào bất tỉnh, Tề Thiên bị Dương Tiễn bắt trói đem nạp Thiên đình.

Thượng Đế truyền Đại Lực Quỉ Vương dẫn Tề Thiên ra đài trảm yêu chém đầu trừ họa. Nhưng gươm chém vào mình Tề Thiên thì gươm bị mẻ, còn nổi lửa đốt thì không làm cháy được một sợi lông của Tề Thiên. Thái Thượng tâu :

- Con yêu nầy ăn vụng Bàn đào, uống Tiên tửu, nuốt hết 5 bầu linh đơn của tôi, nay nó thành mình vàng, giết sao cho chết.  Xin  Thượng  Đế  giao    cho  tôi,  tôi  đem  bỏ  nó vào lò Bát Quái, dùng lửa phép đốt hầm, cho thuốc kim đơn trào ra, thì nó phải chết.

Thượng Đế chấp thuận, giao Tề Thiên cho Lão Quân.

Lão Quân bỏ Tề Thiên vào lò Bát Quái, đốt 49 ngày đêm. Tề Thiên lanh trí, đứng nép vào Cung Tốn tránh được lửa, nhưng bị khói xông vào 2 mắt thành mắt đỏ tròng vàng.

Đúng 49 ngày đêm, người giữ lò Bát Quái mở nắp, Tề Thiên vội phóng ra, cầm thiết bảng đánh phá lung tung, mọi người đều sợ hãi. Tề Thiên đánh lần đến Điện Linh Tiêu, không ai cản nổi, làm kinh động Thượng Đế.

Thượng Đế cấp tốc sai Du Tiệc Linh Quan qua Tây Phương cầu viện Phật Tổ. Phật Tổ gọi A-Nan và Ca-Diếp đi theo, cấp tốc đến Điện Linh Tiêu, thấy Tề Thiên đang đánh phá. Phật Tổ kêu Tề Thiên đến hỏi :

- Chẳng hay ngươi sanh ở đâu, thành đạo hồi nào mà nay phản loạn Thiên cung như vậy ?

Tề Thiên đáp :
- Trời Đất khiến đá nứt sanh ra ta, lâu nay ở núi Hoa Quả, động Thủy Liêm, luyện được phép trường sanh bất tử. Nay thấy cõi Trung giới âm u, muốn lên Thiên cung kêu Ngọc Hoàng nhượng chức.

- Ngươi là con khỉ đá, có tài phép bao nhiêu mà lớn lối như thế. Nếu ngươi nhảy khỏi bàn tay của ta thì ta yêu cầu Thượng Đế nhường ngôi cho ngươi, khỏi tốn công chiến đấu.

- Ngươi hứa như vậy chắc không ?
- Chẳng lẽ ta là Phật Tổ mà nói dối ngươi sao ?

Dứt lời, Phật Tổ xòe bàn tay hữu ra. Tề Thiên co chân nhảy vọt, bỗng thấy có 5 cây cột màu đỏ như thịt, trên đầu có mây xanh, bèn nghĩ thầm : Ta đã nhảy đi quá xa rồi, dường như cùng đường, nhưng phải làm dấu để  phòng khi đối nại với Thích Ca. Nghĩ rồi liền nhổ lông biến ra viết mực, đề lên cây cột 8 chữ : “Tề Thiên Đại Thánh đi tới chỗ nầy.”, viết xong đái vào chân cột, rồi cân đẩu vân trở lại nói với Thích Ca :

- Lão Tôn đã nhảy khỏi bàn tay của ngươi, ngươi bảo Ngọc Hoàng nhượng chức cho ta đi.

Đức Phật Thích Ca giận mắng :
-  Con khỉ đái vất, chưa rời khỏi bàn tay của ta mà đòi nhượng chức. Ngươi hãy nhìn vào bàn tay của ta, coi nhà ngươi đã đi tới đâu ?

Tề Thiên nhìn vào bàn tay, thấy ngón tay giữa của Phật Tổ có đề 8 chữ và dưới ngón tay có dính chút nước đái. Tề Thiên hoảng sợ, vội nhảy trốn, liền bị Phật Tổ úp bàn tay lại, 5 ngón tay biến thành 5 núi, gọi là Ngũ Hành Sơn, đè chặt Tề Thiên. Mọi người nhìn thấy đều rất khen ngợi Phật Tổ.

Đoạn Đức Phật sai A-Nan và Ca-Diếp lấy lá bùa trên đó có 6 chữ : “Úm Ma Ni Bát Mê Hồng “dán nơi đỉnh núi Ngũ Hành làm cho 5 hòn núi mọc rễ khép liền lại, đè Tề Thiên không cho cử động. Đức Phật lại sai Thổ Địa và Ngũ Phương Yết Đế canh giữ Tề Thiên, đói cho ăn sắt cục, khát cho uống nước đồng, chờ khi hết tội có người đến cứu.

Thời gian trôi qua 500 năm. Đức Phật muốn truyền Tam Tạng Kinh cứu độ dân chúng nơi nước Đại Đường (Trung Hoa), nên ra lịnh cho Đức Quan Âm Bồ Tát đến Đại Đường tìm người đi thỉnh kinh báu. Đức Quan Âm vâng lệnh, đi từ Tây phương đến Đại Đường.

Trên đường đi, Bồ Tát độ được Sa Tăng, đặt pháp danh Ngộ Tịnh, bảo chờ ở đây, sau theo bảo hộ người đi thỉnh kinh, lập công trừ tội, sẽ trở lại được ngôi cũ nơi Thiên đình.

Tiếp theo, Bồ Tát độ được Trư Bát Giái, đặt pháp danh Ngộ Năng, cũng bảo chờ ở đây, sau theo bảo hộ người đi thỉnh kinh, lấy công trừ tội, để  được trở về ngôi cũ nơi Thiên đình.

Bồ Tát đi tiếp, gặp con Rồng bạch là con trai thứ ba của Long Vương Ngao Nhuận, vì tội ngỗ nghịch nên bị phạt treo    đây,  chờ  ngày  hành quyết. Bồ Tát cứu khỏi chết, bảo tạm ở  khe Ưng Sầu, chờ người thỉnh kinh đến, biến làm Bạch mã đưa người thỉnh kinh đến Tây phương, lấy công trừ tội.

Bồ Tát tiếp tục đi về phía Đông, đến núi Ngũ Hành, thấy Tề Thiên bị núi đè đã 500 năm, liền than thở. Tề Thiên biết có Bồ Tát Quan Âm tới, nên cầu xin cứu giúp, nói :

- Tôi nay biết ăn năn hối lỗi, xin sửa mình theo Phật, xin Bồ Tát từ bi cứu giúp.

- Ngươi quyết lòng qui y thì đợi ta đến nước Đại Đường tìm người thỉnh kinh, khi người đó qua đây thì sẽ cứu ngươi, ngươi theo làm đệ tử, bảo hộ người ấy đi thỉnh kinh ở Tây phương, thì công ấy sẽ giúp ngươi thành ngôi Chánh quả.

Tề Thiên vâng chịu nằm chờ và cảm tạ Bồ Tát.

Đức Bồ Tát Quan Âm đến nước Đại Đường, tìm được Hòa Thượng Trần huyền Trang pháp danh Tam tạng, là người có chí quyết đi thỉnh kinh Tây phương, để  đem về siêu độ các vong linh. Trần huyền Trang được vua Đường Thái Tông kết làm anh em, rồi vua cấp sứ điệp cho đi Tây phương thỉnh kinh.

Trải qua nhiều nỗi gian truân, Hòa Thượng Trần huyền Trang đi đến núi Ngũ Hành, bỗng nghe tiếng kêu lớn ở chơn núi. Hòa Thượng đến đó thì thấy một cái đầu khỉ ló ra nói :
- May quá, sư phụ vưa tới.

Tam Tạng (Trần huyền Trang) hỏi :
- Ta vâng lịnh vua Đường đi Tây phương thỉnh kinh, ngươi có điều gì muốn hỏi ?

- Tôi là Tề Thiên Đại Thánh, 500 năm trước tôi loạn Thiên cung, bị Phật Tổ dùng phép Ngũ Hành Sơn đè tôi dưới núi nầy, nay đã được 500 năm. Nghĩ mình có tội nên chịu phép nằm im. Vừa rồi, Quan Âm Bồ Tát qua đây, tôi cầu khẩn cứu tôi. Bồ Tát dạy : Chờ Sư phụ đi thỉnh kinh ngang qua đây, Sư phụ sẽ cứu tôi khỏi Ngũ Hành Sơn, tôi làm đệ tử  thầy, bảo hộ thầy đi thỉnh kinh. Vì vậy tôi yên tâm nằm chờ Sư phụ ở đây.

Tam Tạng mừng rỡ nói :
- Nhưng ta làm sao cứu được ngươi ?

- Muốn cứu tôi, xin thầy leo lên đỉnh núi, gỡ lá bùa có 6 chữ  do Phật Tổ cho dán, thì tôi có cách vùng thoát ra được.

Tam Tạng liền leo lên đỉnh núi, quả thật thấy lá bùa 6 chữ, hào quang tỏa ra sáng lòa. Tam Tạng lại gần, quì xuống, hướng về Tây phương cầu nguyện : “ Đệ tử là Trần huyền Trang, vâng lịnh vua Đường Thái Tông, đi Tây phương thỉnh kinh về Đông độ, nếu phải tôi có phần gỡ lá bùa lục tự để  cứu Thần hầu thì xin Phật Tổ y cho để cứu Thần hầu, làm đệ tử  bảo hộ tôi trên đường thỉnh kinh gian nan vạn dặm.”

               
           Home       [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] [ 7 ]  [ 8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét