91 Điễn Tích Nơi Hành Lang Báo Ân Từ - 2 / 8 (Kim Hương)


Vái xong, đưa tay lên gỡ lá bùa, bỗng có cơn gió thổi tới, lá bùa bay lên mây, có tiếng nói vọng xuống :
- Ta là La Châu có phận sự gìn giữ Đại Thánh, nay mãn hạn, ta đem lá bùa dâng lại Như Lai.

Tam Tạng thất kinh, quì lạy thinh không, rồi kíp đi xuống núi nói với Thần hầu :
            - Ta đã gỡ lá bùa, ngươi tính cách nào thoát ra đây ?

            Đại Thánh mừng rỡ nói :
            - Xin thầy chạy đi khỏi chỗ nầy cho thật xa, để  tôi vùng dậy, đá lăn đè chết.

Tam Tạng vội vả chạy khỏi nơi đó thật xa, có đến bảy tám dặm, nhưng Tề Thiên vẫn nói lớn : “ Hãy chạy thêm cho xa hơn nữa”. Tam Tạng cố chạy thêm cho xa hơn nữa, bỗng nghe một tiếng ầm dữ dội, đá bay tung tóe rớt xuống ầm ầm, Tam Tạng sợ sệt đứng nhìn, chợt thấy Tề Thiên Đại Thánh đến đứng trước mặt nói:
- Đệ tử vừa vùng thoát khỏi núi, xin lạy thầy 4 lạy tạ ơn.

Dứt lời quì lạy Tam Tạng. Tam Tạng thấy Đại Thánh có tánh chơn thật, không kiêu căng thì mừng thầm, nói :
- Đệ tử  thành tâm theo ta thì cho biết tên họ.
- Bạch Sư phụ, con họ Tôn tên Ngộ Không.
- Tên nầy rất hợp với ta, nhưng ta cũng đặt thêm cho đệ tử  một tên  để gọi là Tôn Hành Giả, có bằng lòng không ?
- Tốt lắm, đệ tử  vâng lời.

Nói xong đến dắt ngựa, đỡ thầy lên yên, rồi cầm thiết bảng đi trước mở đường, Tam Tạng cỡi ngựa đi theo sau. Ngày đi đêm nghỉ, vượt núi băng ngàn.

Ngày kia, Hành Giả gặp một bọn cướp 6 tên chận đường đòi tiền mãi lộ. Hành Giả nổi giận quơ thiết bảng đập chết 6 tên cướp. Tam Tạng khiển trách :
- Chúng đi ăn cướp thì trò bắt chúng đem nạp quan phân xử, lẽ nào đệ tử  qui y theo Phật rồi mà lại phạm sát giới quá nặng như vậy. Như thế là quá tàn ác, sao gọi là tu hành.

Hành Giả nói :
- Nếu không giết chúng thì chúng làm hại thầy sao ?
- Người tu niệm thà chịu chết chớ không giết người.

Hành Giả thưa :
- Tôi là đệ tử  không dám giấu thầy, 500 năm trước tôi xưng vua xưng chúa, giết người như kiến cỏ, nếu nói như thầy thì làm sao tôi lên được chức Tề Thiên Đại Thánh ?

- Bởi ngươi bạo ngược, không kể Trời Đất nên bị Phật Tổ bắt đày nằm dưới Ngũ Hành Sơn 500 năm. Nay đã tu hành, nếu không  cải ác tùng thiện thì không được làm Hòa Thượng và không đến được Tây phương.

Tam Tạng cứ rầy rà Hành Giả mãi, làm Hành Giả rất bực mình, trợn mắt nói :

- Thầy nói tôi chưa lành, không được làm Hòa Thượng đi Tây phương, vậy để  tôi về cho xong, khỏi mất công thầy la rầy cho mỏi miệng.

Tam Tạng chưa kịp trả lời thì Tôn Hành Giả nhảy vụt lên mây mất dạng. Tam Tạng buồn bã gác hành lý lên yên, chống gậy dắt ngựa đi tới. Xảy thấy một bà già tay cầm cái áo thầy chùa và một cái mão, đến trao cho Tam Tạng  đặng  tặng cho đệ tử. Tam Tạng nói :
- Tôi có người đệ tử  tánh tình hung dữ, dạy khuyên không được, vừa rồi nó bỏ tôi đi về hướng Đông mất dạng. 

Bà già nói :
- Nếu nó đi về hướng Đông ắt nó ghé nhà ta. Thầy hãy thuộc lòng câu Thần chú Định Tâm nầy thì khiển nó mới được. Ta sẽ đi gọi nó trở lại, thầy cho nó đội cái mão nầy, nếu nó không nghe lời thì niệm chú Định Tâm, niền Kim Cô của mão sẽ siết đầu nó lại, đau nhức chịu không nổi, tất phải chịu phép.

Bà lão truyền phep xong thì hiện hào quang bay về hướng Đông, giữa đường gặp Tôn hành Giả liền dừng lại hỏi :
- Ngộ Không, sao ngươi không theo bảo hộ thầy đi thỉnh kinh mà còn đi chơi đâu đó ?

Tôn Hành Giả quì lạy thưa :
- Bạch Đức Bồ Tát, vì thầy tôi khó tính, la rầy tôi suốt ngày, tôi chịu không nổi nên bỏ đi giây lát cho khuây khỏa rồi trở lại theo thầy.
- Ngươi mau trở lại bảo hộ thầy, kẻo gặp thú dữ.
Hành Giả bái tạ Đức Quan Âm, trở lại gặp thầy đang ngồi    rủ  bên đường, lật đật bước tới nói :
- Đệ tử  khát nước, nên xuống Long Vương Đông Hải uống ít chén trà, để  sư phụ ngồi đợi.
- Ngươi có tài đi kiếm nước trà, để ta một mình nhịn đói. Trong hành lý có cơm khô và bình bát, đệ tử  đi múc cho ta bát nước uống cho khỏe.

Hành Giả tuân lời, mở hành lý ra thấy có một cái áo đẹp và một cái mão tỏa hào quang, thấy vừa với khổ người của mình liền cầm lấy, hỏi Tam Tạng :
- Áo mão đâu mà đẹp quá ! Nó có vẻ vừa với con, nếu thầy không dùng,  xin thầy cho đệ tử .
- Nếu ngươi mặc vừa thì ta tặng cho ngươi.

Hành Giả mừng rỡ, liền mặc áo và đội mão vào, chẳng ngờ cái niền Kim Cô của mão liền dính chặt vào đầu. Hành Giả lấy thiết bảng biến cho nhỏ lại đặng cạy kim cô ra nhưng không được. Tam Tạng sợ hư Kim Cô, liền niệm chú Định Tâm, niền Kim Cô siết lại, làm Hành Giả nhức đầu lăn lộn dưới đất, mặt mũi sưng vù,  la lớn :
- Ôi nhức muốn bể cái đầu ! Chắc bể sọ chết mất !

Tam Tạng thôi niệm chú. Hành Giả thấy bớt đau, nói :
- Tại thầy lảm nhảm nguyền rủa đệ tử  làm đệ tử  nhức vang cả đầu.
- Bồ Tát vừa truyền phép nầy cho ta để ta điều khiển ngươi mới nổi.

Hành Giả cả giận, nói :
- Ta đi Nam Hải đánh Bà ấy báo thù.

- Con khỉ nầy khờ quá ! Bồ Tát đã truyền Thần chú cho ta, lẽ nào Bồ Tát không biết Thần chú nầy. Ngươi qua đó, Bồ Tát niệm chú cho ngươi chết luôn.

Hành Giả rùn mình sợ hãi, liền quì xuống van xin :
- Bồ Tát truyền Thần chú cho thầy để  buộc tôi phải nghe lời thầy và bảo hộ thầy đi cho tới Tây phương thỉnh kinh. Từ nay tôi không dám giận hờn nữa, luôn luôn nghe lời thầy chỉ dạy.

Kể từ đó, Tôn Hành Giả không dám cải lời Tam Tạng nữa, một lòng một dạ bảo hộ thầy đi đến Tây phương thỉnh kinh.

Tam Tạng thâu Trư Bát Giới

Hai thầy trò Tam Tạng (Tam Tạng và Tôn Hành Giả) trên đường đi thỉnh kinh, ngày kia đến một xóm đông dân cư, gọi là xóm Cao Lão nước Ô-Lư thì Trời vừa tối, chưa vào xóm thì gặp một thanh niên từ trong xóm tất tả đi ra. Hành Giả nắm tay kéo lại hỏi thăm, người ấy nói :

-Tôi là Cao Tài, người của Cao Thái Công, vâng lịnh chủ tôi đi tìm thầy rước về trừ yêu quái trong nhà.

Tôn Hành Giả cười nói :
- Thế là chú gặp may rồi. Thầy trò tôi chuyên đi bắt quỉ trừ yêu giúp người. Chú đưa thầy trò tôi đến nhà Cao Lão để  tôi trừ yêu quái giùm cho.

Cao Tài nhìn tướng mạo của Hành Giả giống như Thiên Lôi, chắc là có tài bắt quỉ, nên bằng lòng dẫn về.

Cao Thái Công ra ngõ đón vào, phân ngôi chủ khách mời ngồi. Tôn hành Giả hỏi Cao Thái Công :
- Ông hãy nói rõ đầu đuôi xem con yêu ấy ra sao.

- Tôi già rồi mà không có con trai nối hậu, chỉ sanh được 3 gái, hai đứa lớn đã có chồng trong xóm nầy, chỉ còn con gái út tên là Túy Lan, có sắc đẹp lại thông minh, rành nghề thêu đan, giỏi văn chương, tôi tính bề kén rể đông sàng. Cách đây 3 năm, có một thanh niên họ Trư đến đây xin ở rể, coi cũng phải người quân tử, nên tôi bằng lòng gả con gái tôi cho nó và dụng bề bắt rể. Khi mới về nó ăn ở phải lắm, nhưng về sau lại thay hình đổi dạng, tướng mạo dị kỳ, mỏ dài, tai lớn như heo, ăn uống mỗi bữa quá nhiều, may mà nó ăn chay, lại đi mây về gió, cát bay đá chạy, báo hại gia đình tôi và lối xóm hoảng kinh. Tôi biết được nó là yêu tinh, nên rước nhiều thầy phù thủy về ếm, nhưng nó chẳng sợ ai. Nó lại bắt con gái tôi nhốt ở nhà sau, khóa cửa phòng lại, trót nửa năm nay, tôi không thấy mặt con, không biết nó còn sống hay đã chết.

Tôn Hành Giả nói :
- Ông hãy dẫn tôi ra chỗ đó để  tôi đón bắt nó.

Cao Thái Công dẫn Hành Giả ra nhà sau, thấy cửa khóa kín, Hành Giả lấy thiết bảng đập nhẹ thì ống khóa banh ra, mở cửa đi vào. Hành Giả bảo :
- Ông gọi con gái của ông ra đi.
Cao Lão lên tiếng gọi Túy Lan thì có một giọng nói yếu ớt từ trong phòng tối phát ra :

- Cha ơi ! Con ở trong nầy.
Tôn Hành Giả nheo mắt nhìn vào thấy một nàng con gái gầy mòn, tóc mây ủ rủ, bước ra ôm chầm Thái Công khóc òa. Tôn Hành Giả nói :
- Nàng hãy chỉ con yêu đang ở đâu để  ta bắt nó.

- Nó đi theo gió theo mây, tôi không biết đường nào. Nó biết cha tôi muốn bắt nó nên khuya mới về nhà rồi gần sáng thì đi mất.

- Cao Lão hãy dẫn con gái ra đi, rồi đi mời ít vị bô lão đến nói chuyện với thầy tôi cho vui, còn tôi ở lại đây, chờ con yêu tới đặng tôi chận bắt nó.

Cao Lão vui mừng dắt con gái đi. Tôn Hành Gia niệm chú biến thành nàng Túy Lan, đóng cửa phòng lại, nằm chờ con yêu tới. Một lúc sau, nghe tiếng gió thổi ù ù, con yêu liền xuất hiện, mình người đầu heo, tai lớn mặt dài. Tôn Hành Giả vọt tới nắm áo, hiện lại nguyên hình là Tề Thiên Đại Thánh, bắt sống con yêu. Con yêu thất kinh vùng vẫy bứt áo chạy thoát ra ngoài, hóa gió bay về núi Phước Lăng.

Tôn Hành Giả rượt theo, con yêu bay tuốt vào động, xách đinh ba trở ra cự chiến. Hành Giả hỏi :
- Nhà ngươi tên chi, có tài nghệ gì, mau khai tên họ, Lão Tôn sẽ rộng dung cho khỏi chết.

Con yêu đáp :
- Ngươi muốn biết hãy lóng nghe lời ta  : Tánh  ta  hay làm biếng, Ham chơi chẳng học hành, Gặp Tiên trao Thánh đạo, Truyền phép luyện đơn kinh, Chức Thiên Bồng Nguyên soái, Phong Tổng đốc Thủy binh, Nhóm Bàn Đào nườm nượp, Uống ngự tửu huỳnh đình, Say lạc vào Cung Quảng, Sanh tâm ghẹo Hằng Nga, Ngọc Hoàng giận bắt tội, Đày ra khỏi Thiên đình, Đầu thai không nhằm nẻo, Heo rừng có chửa sanh, Lấy tên đèo làm họ, Trư cang Liệp thị danh.

Tôn Hành Giả cười lớn :
- Ngươi là Thiên Bồng Nguyên Soái thuộc Hạ giới Thủy Thần, có biết ta là ai chăng ?

- Ngươi là Bậc Mã Ôn dấy loạn Thiên Cung, cớ sao đến đây phá ta như vậy ? Ta đập một đinh ba cho ngươi biết mặt.

Nói rồi, 2 người đánh nhau trong đêm tối, con yêu họ Trư đánh không lại, nhảy trốn vào động. Tôn Hành Giả thấy cửa động chắc chắn, trên có đề 3 chữ : Vân Sơn Động, thấy Trời sắp sáng nên trở về nhà Cao Lão vì sợ thầy trông ngóng.

Tôn Hành Giả từ trên mây đáp xuống, ai nấy đều giựt mình kinh hãi. Hành Giả vào thuật lại cho thầy nghe :
- Người ấy không phải yêu tinh, mà là Thiên Bồng Nguyên soái, đầu thai vào heo rừng nái nên có diện mạo xấu xa như thế. Nó đánh không lại Lão Tôn nên trốn vào động.

Tam Tạng nói :
- Sao ngươi không bắt nó đem về đây cho xong việc.
- Thấy Trời gần sáng nên đệ tử  vội về báo tin cho thầy rõ. Để  đệ tử  đi bắt nó dẫn về đây.

Hành Giả bay xuống động Vân Sơn, lấy thiết bảng đập cửa động mấy cái, cửa bung ra, liền mắng :
- Đồ ăn cám, mau ra đây đánh với Lão Tôn.

Trư cang Liệp đang ngáy pho pho, giựt mình thức dậy, lật đật vác đinh ba chạy ra cự chiến, nói :
- Nầy Bậc Mã Ôn, ta không thù oán chi với ngươi, sao ngươi phá ta hoài như vậy ?    phải  ngươi  ăn  tiền  của  Cao
Lão đặng bắt ta chăng ?

 - Đừng nói bậy, ta có ăn tiền của Cao Lão hồi nào ?  Do ta cải tà qui chánh, theo bảo hộ Đường tăng đi Tây phương thỉnh kinh, lỡ đường vào ngủ nhờ nhà Cao Lão, ông ấy khẩn cầu ta bắt đồ ăn cám để  cứu con gái Lão.

Trư cang Liệp nghe nói Đường tăng đi thỉnh kinh thì mừng rỡ, vội vàng ném đinh ba chắp tay vái Hành Giả :
- Chẳng hay thầy thỉnh kinh ở đâu, xin anh dắt tôi đến đó.
- Ngươi muốn đến gặp thầy có việc gì ?

- Quan Âm Bồ Tát dặn tôi tu niệm. Bảo chờ đợi ở đây, khi có người thỉnh kinh đến thì theo đi thỉnh kinh, lấy công chuộc tội. Anh không nói sớm, lại ỷ mạnh đánh tôi, sanh ra phiền phức.

- Ta tạm tin lời người. Nếu thiệt lòng, hãy đốt cháy động rồi theo ta đi gặp thầy.

Trư cang Liệp nghe lời, lấy củi khô chất khắp trong và ngoài động, rồi nổi lửa đốt. Tôn Hành Giả cùng họ Trư đằng vân trở về nhà Cao Lão. Họ Trư vào quì lạy Tam Tạng nói :

- Đệ tử  xin ra mắt sư phụ, xin sư phụ miễn chấp. Đệ tử  đã được Quan Âm dặn chờ sư phụ ở đây, đặng theo sư phụ đi thỉnh kinh. Tại sư huynh không nói trước để xảy ra đánh nhau.

- Nay ngươi theo ta làm đệ tử, ta đặt pháp danh ngươi là Trư Ngộ Năng, còn sư huynh ngươi đây là Tôn Ngộ Không.

- Bạch sư phụ, lâu nay đệ tử  chịu phép Quan Âm, cử ăn ngũ huân và tam yểm (thịt trâu, thịt bò, thịt chim nhạn). Nay gặp thầy rồi thì cho con ăn mặn trở lại.

- Không nên, lẽ nào gặp thầy rồi lại đổi chay ra mặn, ngươi đã cử được Ngũ huân và Tam yểm, tức là 8 món, cứ giữ như vậy, và theo đó ta đặt hiệu cho ngươi là Trư Bát Giới.

- Xin đa tạ sư  phụ.

Xong đâu đó, Tam Tạng cùng 2 đồ đệ là Tôn Hành Giả và Trư Bát Giới từ giã Cao Lão, lên đường.

Tam Tạng thâu Sa Tăng

Ba thầy trò Tam Tạng, sau khi thoát nạn tại núi Huỳnh Phong, thẳng đường đi Tây phương. Ngày kia đến gặp một con sông rất rộng chắn ngang, thấy trên bờ có tấm bảng đá đề : Lưu Sa Hà, bên dưới có 4 câu thơ :
Lưu sa rộng tám trăm dặm,
Nước sông màu xanh thẳm,
Lông ngỗng rớt cũng chìm,
Bông lau rơi chẳng nổi.

Ba thầy trò còn đang xem bia, bỗng nghe tiếng sóng vỗ mạnh, nước vọt tung tóe, một con yêu nhảy lên khỏi mặt nước, hình thù dữ tợn, tóc đỏ rối chơm chởm, 2 mắt tròn vo, da mặt xanh, giọng nói như sấm, mình mặc áo lông vàng có sọc, cổ đeo một xâu đầu lâu, tay cầm gậy múa tít. Con yêu nhảy lên bờ định chụp Tam Tạng. Bát Giới đặt gánh hành lý xuống, xách đinh ba nhảy ra đánh con yêu, hồi lâu chưa phân thắng bại. Hành Giả ngứa tay, nhảy vào trợ chiến. Con yêu đánh không lại, nhảy ùm xuống nước trốn mất.

Hành Giả bảo Bát Giới :
- Chú xuống nước đánh con yêu, dụ nó lên bờ đặng anh bắt nó.

Bát Giới cổi giày và áo cà sa, xách đinh ba nhảy xuống sông đi tìm yêu quái. Yêu quái thấy Bát Giới rẽ nước đi xuống thì chận lại, nạt lớn :
- Hòa Thượng mặt heo đi tìm ai đó ?
- Ngươi là yêu tinh gì mà dám cản đường ta ?

- Ta không phải là yêu tinh, mà là Quyện Liêm Tướng Quân ở cõi Trời, làm bể bình lưu ly nên bị đày xuống ở sông Lưu Sa nầy, đón bắt người ăn thịt đỡ lòng, 9 cái sọ xỏ xâu đeo đây là dấu tích. Nay ta gặp mi bắt ăn tái không chờ nấu nướng.

Bát Giới quát :
- Ngươi có tài cán bao nhiêu mà đòi ăn thịt ta. Hãy đỡ.

Dứt lời Bát Giới liền đập con yêu một đinh ba, rồi trá bại dụ con yêu lên mặt nước. Con yêu rượt theo, nhưng đến gần mé sông thì dừng lại, không dám lên bờ, sợ mắc kế Hành Giả. Hành Giả thấy con yêu khôn ngoan, liền nghĩ cách dùng chiến thuật diều xớt gà bắt nó. Con yêu đang cãi cọ với Bát Giới, bỗng nghe có gió lạ, ngước lên thấy Hành Giả sa xuống, thất kinh, la lên một tiếng rồi lặn xuống nước mất dạng.

Hành Giả nói với Bát Gới :
- Con yêu nầy khôn quá, ta phải đi thỉnh Bồ Tát đến bắt nó thì mới đưa được sư phụ qua sông nầy. Sư đệ lo bảo hộ sư phụ để  sư huynh đi thỉnh Bồ Tát.

Hành Giả đến núi Phổ Đà, bày tỏ các việc với Đức Bồ Tát Quan Âm. Bồ Tát nói :
- Bởi tánh ngươi hung hăng ưa đánh đập, không chịu nói chuyện thỉnh kinh, nên con yêu ấy mới hành hung. Nó là Quyện Liêm Tướng Quân bị đọa đó. Phải chi ngươi nói đi thỉnh kinh thì nó chịu phép rồi.

            Dứt lời, Bồ Tát gọi Huệ Ngạn tới, đưa cho một trái bầu, dặn rằng :
            - Ngươi đi với Ngộ Không đến Lưu Sa Hà, kêu Sa Ngộ Tịnh lên, dạy nó theo Tam Tạng đi Tây phương thỉnh kinh, rồi bảo nó lấy 9 cái đầu lâu kết lại, đặt trái bầu nầy vào giữa thì biến thành chiếc thuyền chở Đường tăng vượt qua sông.

        Huệ Ngạn vâng lịnh Bồ Tát, cùng Ngộ Không đi ngay. Huệ Ngạn đến giữa sông Lưu Sa gọi : “Ngộ Tịnh mau lên đây, có thầy thỉnh kinh đến đã lâu rồi, mau ra nghinh tiếp.”

Con yêu đang trốn dưới đáy sông, chợt nghe gọi đúng tên mình,  vội vàng trồi lên gặp Huệ Ngạn, nói :
- Người thỉnh kinh đâu ?
- Người đứng nơi bờ sông kia kìa.

Ngộ Tịnh nhìn vào bờ thấy Đường tăng đang đứng, vội nhảy vọt vô bờ, đến trước Đường Tam tạng quì xuống nói :
- Đệ tử  có mắt như mù, thấy thầy mà không biết nên xúc phạm, xin thầy từ bi tha tội và cho con làm đệ tử theo thầy đi thỉnh kinh.

Tam Tạng đỡ Ngộ Năng dậy, hỏi :
- Ngươi có lòng qui y nhưng chịu kham khổ nổi chăng ?

- Bạch thầy, trước đây con chịu phép Quan Âm, ở đây chờ thầy, lòng con đã quyết, dầu kham khổ không sờn.

- Lòng ngươi biết ăn năn hối lỗi, ta thí phát cho.

Tam Tạng bảo Hành Giả đưa dao bén cho Tam Tạng thí phát Ngộ Tịnh, cạo bỏ lớp tóc đỏ trên đầu Ngộ Tịnh. Xong, Ngộ Tịnh lạy thầy, quay lại gọi Hành Giả là Đại ca, và gọi Bát Giới là Nhị ca.

Huệ Ngạn nói :
- Người tu một thầy như anh em một nhà, việc lễ nghi nên chế bớt. Ngộ Tịnh mau làm phép đưa thầy qua sông.

Sa Tăng tuân lời, cổi xâu sọ người đặt lên mặt nước, Huệ Ngạn đặt cái bầu vào giữa, tức thì biến thành một chiếc thuyền lớn, thỉnh Tam Tạng lên thuyền, bên hữu có Ngộ Tịnh, bên tả có Ngộ Năng, Hành Giả dắt ngựa đứng sau, thuyền đi qua sông mau như tên bắn, lát sau tới bờ bên kia. Tam Tạng bước lên bờ, 3 đệ tử  gánh đồ dắt ngựa lên theo.

Huệ Ngạn thâu bầu, trở về Nam Hải, còn 9 chiếc sọ người bị gió thổi biến thành làn khói tan mất.
Tam Tạng quay mặt về phương Nam lạy tạ Bồ tát.
Bốn thầy trò tiếp tục lên đường.

Hồng Hài Nhi đốt Tề Thiên

Bốn thầy trò Tam Tạng từ giã vua Ô-Kê và Hoàng Hậu lên đường, ngày đi đêm nghỉ, lúc bấy giờ là giữa mùa Đông, gió thổi rất lạnh. Ngày kia đi đến một ngọn núi cao. Hành Giả thấy có hào quang trong hang đá chiếu ra sáng rực,  biết là có yêu tinh đón đường, liền ôm Tam Tạng xuống ngựa, kêu Bát Giới và Sa Tăng đứng 2 bên giữ thầy, kẻo yêu quái rình bắt.

Thật vậy, nơi núi nầy có con yêu tên là Hồng Hài Nhi, xưng hiệu là Thánh Anh Đại Vương, ở Hỏa Vân Động, con trai của Ngưu Ma Vương và Bà La Sát. Khi Hồng Hài Nhi đứng trên mây thấy Tam tạng đi tới thì lẩm bẩm : “Ta nghe nói Kim Thiền Tử xuống thế đầu thai làm Đường tăng Tam Tạng, nếu ăn thịt nó chắc trường thọ, nhưng có mấy đứa đồ đệ theo bảo hộ chặt chẽ, ta phải tính kế mới được.” Nghĩ rồi, Hồng Hài Nhi xuống núi, giả làm đứa con nít 7 tuổi trần truồng, bị trói trên cây, khóc la cứu mạng. Tam Tạng thấy vậy động lòng thương, hỏi :
- Ngươi là con nhà ai ? Vì sao bị trói trên cây như vậy ?

Hồng Hài Nhi khóc lớn nói :
- Thầy ôi ! Nhà tôi ở bên kia núi, tại xóm lớn gần suối Khô Tòng. Bởi ông nội tôi là Hồng Bá Vạn qua đời, để  lại sự nghiệp lớn cho cha mẹ tôi. Mẹ tôi lấy tiền cho vay bị quân gian lừa gạt lấy hết. Cha tôi tức giận, không cho vay nữa. Quân gian xúm nhau đến bắt giết cha tôi, bắt mẹ tôi làm Áp trại phu nhân, lấy sạch của cải, chúng bắt tôi trói bỏ nơi nầy cho chết khô, may gặp thầy, xin thầy cứu vớt.

Tam Tạng động lòng, bảo Bát Giới leo lên cây mở trói đem đứa bé xuống. Hành Giả cản lại nói :
- Yêu quái ! Ngươi trá hình gạt ta sao đặng. Đừng nói lôi thôi, ta đập cho một thiết bảng tan xác bây giờ.

Hồng Hài Nhi giả đò khóc lóc năn nỉ Tam Tạng :
- Tuy tôi bị nạn, nhưng ruộng đất của tôi còn nhiều lắm. Xin thầy cứu tôi, tôi sẽ bán hết ruộng đất đền ơn thầy.

Bát Giới nói :
- Đại ca hỏi làm chi đứa con nít, để tôi cứu nó cho rồi.

Vừa nói, Bát Giới leo lên cắt dây trói đem đứa bé ấy xuống. Hồng Hài Nhi khóc lóc van lạy Tam Tạng. Tam Tạng động lòng thương, bảo đứa bé lên ngồi trên ngựa. Hồng Hài Nhi khóc và thưa :
- Thầy ôi, tôi bị trói mấy bữa nay tay chân tê cứng,  không cỡi ngựa được.

Tam Tạng kêu Hành Giả cõng đứa bé. Hành Giả kê lưng cỏng, thấy nó nặng không đầy 4 cân, bèn cười nói :
- Ngươi là yêu quái tới số rồi mới giỡn mặt ta.

Hồng Hài Nhi đáp :
- Tôi là người lương thiện, sao ông gọi tôi là yêu quái ?

Tôn Hành Giả định lừa thế vật chết con yêu. Nó biết ý nên ra tay trước, nó hớp gió 4 lần rồi thổi trên lưng Hành Giả, khiến Hành Giả bị gió đè nặng ngàn cân. Hành Giả cười nói :

- Yêu quái ơi ! Có tài phép gì cử giở hết ra cho ta xem.

Hồng Hài Nhi nghe Hành Giả nói vậy thì muốn nhảy, nhưng bị Hành Giả ôm chặt quá, rồi bị Hành Giả quật mạnh vào đá. Nó liền biến thành đạo hồng quang bay tuốt lên không, nổi gió lớn làm cát bay đá chạy. Bát Giới và Sa Tăng đều cúi đầu nhắm mắt, con yêu bay xuống bắt Tam Tạng đem về động. Hành Giả chạy đến ẵm thầy nhưng không kịp.

Khi giông gió vừa hết, mở mắt ra nhìn không thấy thầy đâu nữa thì biết là con yêu đã bắt thầy rồi. Sa Tăng ở giữ đồ đạc, còn Hành Giả và Bát Giới đi kiếm thầy khắp nơi không gặp. Hành Giả bắt ấn gọi Thổ Địa đến hỏi :
- Núi nầy có mấy con yêu ở đây ?

- Thưa Đại Thánh, núi nầy chỉ có một con yêu mà thôi, nó xưng là Hồng Hài Nhi ở  Hỏa  Vân  Động,  gần  Khô  Tòng Giản. Nó là con trai của Ngưu Ma Vương và Bà La Sát. Trước kia nó tu tại Hỏa Diệm Sơn hơn 300 năm, luyện được Tam Muội Chơn Hỏa. Ngưu Ma Vương sai nó trấn ở núi nầy. Nó có phép thần thông, bắt chúng tôi phục dịch nó như bọn gia đinh. Xin Đại Thánh trừ  nó mà cứu kẻ hiền lành. Hành Giả cho chư Thần lui, rồi nói với Sa Tăng và Bát Giới :
            - Các em yên tâm. Ta biết con yêu nầy rồi, cha nó là bạn với ta. Chắc nó không dám hại thầy, hãy theo ta đi gặp nó.

Ba anh em liền gánh đồ và dắt ngựa đi tới, đến suối Khô Tòng, thấy một cây cầu bắt qua suối, bên cầu có cái động lớn. Hành Giả dặn Sa Tăng gánh đồ và dẫn ngựa vào rừng gìn giữ, còn Bát Giới cùng Hành Giả qua cầu, Hành Giả  thấy trước động có bọn tiểu yêu đang tập múa kiếm, liền hét lớn :
- Các ngươi mau vào báo với Chúa động, hãy thả thầy ta ra, nếu không ta phá động giết chết không chừa một mạng.

Hồng Hài Nhi cầm giáo, ở trần, đi chân không, gương mặt trắng trẻo, nhảy lên xe, bảo tiểu yêu đẩy xe ra cửa động.

Hành Giả nói :
- Xưa kia ta và cha cháu là Ngưu Ma Vương kết bạn với nhau. Cháu mau đem Đường tăng trả lại cho chú kẻo tình nghĩa chú cháu chẳng còn. Cha cháu hay được thì quở đấy.

Hồng Hài Nhi nổi giận nói :
- Nào ta có bà con gì con khỉ kia mà nói chú với cháu ?
- Quân vô lễ không biết điều phải quấy, ta quyết bắt ngươi trị tội.

Hai người hỗn chiến. Con yêu đánh không lại Hành Giả, lại bị Bát Giới ở ngoài thừa cơ đập một đinh ba. Hồng Hài Nhi thất kinh, bỏ chạy về cửa động, nhảy đứng trên xe, đưa tay đấm lỗ mũi, hai lằn khói đen và lửa từ trong mũi phụt ra rần rần, Bát Giới hoảng sợ, chạy dài. Hành Giả niệm chú Tỵ hỏa, bắt ấn len vào lửa kiếm con yêu. Hồng Hài Nhi thấy Hành Giả không sợ lửa, liền phun vào mắt Hành  Giả  hai  lằn khói làm Hành Giả lòa con mắt nên phải vọt ra ngoài.
Hồng Hài Nhi thấy Hành Giả bỏ chạy thì thích chí, thâu lửa, truyền tiểu yêu đẩy xe trở vào động.

Hành Giả nhờ Tứ vị Long Vương phun nước trừ lửa, nhưng đây không phải là lửa thường, nên không trừ được. Túng thế, Hành Giả tính đi thỉnh Quan Âm trừ nó cứu thầy. Bát Giới xin đi Nam Hải thay sư huynh.

Còn Hồng Hài Nhi phun khói đốt Hành Giả thua chạy thì mừng rỡ vào động, ngẫm nghĩ rồi nói với bọn tiểu yêu : - Hành Giả bị trận nầy khiếp vía chạy dài. Tuy nó ngất ngư nhưng không chết, chắc nó còn viện binh báo thù. Các ngươi mở cửa động để  ta ra ngoài xem thử nó đi cầu viện ai.

Hồng Hài Nhi ra ngoài, bay thẳng lên mây nhìn khắp 4 phía, thấy Bát Giới bay về hướng Nam thì nghĩ chắc là đi Nam Hải cầu viện Quan Âm Bồ Tát. Hồng Hài Nhi bay xuống trở về động bảo tiểu yêu :
- Chúng bây mau lấy túi da Như Ý đặng ta đi bắt Bát Giới đem về hầm rục đãi chúng bây một bữa.

Hồng Hài Nhi bay lên mây, đi rất mau, đón đầu Bát Giới, hoá ra là Bồ Tát Quan Âm. Bát Giới nhìn tưởng là Bồ Tát thiệt, liền mừng rỡ đến làm lễ và thưa rằng :

- Đệ tử là Trư Ngộ Năng xin ra mắt Bồ Tát. Bạch Bồ Tát, thầy của đệ tử bị con yêu Hồng Hài Nhi ở Hỏa Vân Động, suối Khô Tòng bắt mất. Đệ tử và Sư huynh đến cứu thầy, bị lửa trong mũi con yêu Hồng Hài Nhi phóng ra đốt phải thua chạy, do đó sư huynh bị bệnh, sai đệ tử  đi thỉnh cầu Bồ Tát từ bi xuống cứu.

Bồ Tát Quan Âm giả nói :
- Chúa động Hỏa Vân không sát hại sanh mạng. Chắc các ngươi ỷ đông xúc phạm đến nó nên mới sanh sự. Thôi ngươi theo ta đến động Hỏa Vân, ta nói giùm cho, ngươi chịu lỗi với nó rồi xin trả thầy thì xong.

Bát Giới tin lời, liền đi theo Bồ Tát giả, đến động Hỏa Vân, đi ngay vào động, liền bị tiểu yêu xông ra bắt Bát Giới trói lại, bỏ vào túi da Như Ý, cột miệng lại treo trên trính nhà.

Hồng Hài Nhi hiện lại nguyên hình, nói :
- Trư Bát Giới, ngươi dám cả gan đi thỉnh Quan Âm bắt ta. Nay ta bắt được ngươi cho bọn nhỏ hầm nhậu một bữa.

Bát Giới bị lừa, tức quá, nằm trong túi da chửi rủa hoài.
Nói về Tôn Hành Giả đang ngồi nói chuyện với Sa Tăng, chờ Bát Giới thỉnh Bồ Tát đến, chợt có một ngọn gió tanh thổi qua rất lạ, Hành Giả liền đánh quẻ tay, kinh hãi nói :

- Không xong ! Bát Giới bị con yêu giả làm Bồ Tát, lừa dối bắt rồi. Sư đệ ngồi đây để ta đi thám thính xem sao.

Hành Giả biến hóa thành con lằn xanh, chui qua khe cửa vào động, chợt nghe tiếng khóc than của Bát Giới, lằn xanh liền bay đến đậu trên miệng túi Như Ý, định tìm cách cứu Bát Giới, bỗng nghe Hồng Hài Nhi nói :
- Sáu đứa kiện tướng qua mời Lão Đại Vương sang đây ăn thịt Đường tăng cho trường thọ.

Sáu đứa lãnh lịnh ra đi. Hành Giả nghĩ ra kế hay, liền bỏ Bát Giới nằm đó, bay ra khỏi động, theo 6 tướng yêu tinh, bay khỏi chúng chừng 3 dặm, liền niệm chú hóa thành Ngưu Ma Vương, rồi nhổ vài sợi lông hóa thành mấy tiểu yêu tùy tùng, giả đi săn bắn. Lục Kiện Tướng đi vừa tới, thấy Ngưu Ma Vương mừng rỡ đến quì trước mặt thưa rằng :

- Chúng tôi vâng lịnh Thánh Anh Đại Vương đi thỉnh Lão Đại Vương qua ăn thịt Đường tăng cho trường thọ.

Ngưu Ma Vương giả nói :
- Các ngươi để ta về nhà thay xiêm áo rồi qua phó yến.

Lục Kiện Tướng đồng thưa :
- Xin mời Lão Gia đi luôn cho tiện, kẻo Đại Vương tôi nhọc lòng trông đợi.
- Chúng bây sốt sắng quá ! Thôi ta cùng đi luôn.

Ngưu Ma Vương giả vào động, hỏi Hồng Hài Nhi :
- Con mời cha đến đây có điều chi cần gấp vậy ?

- Hôm trước, con bắt sống được Đường tăng đang trên đường đi thỉnh kinh. Người nầy đã tu hành 10 kiếp, không vợ con chi cả, nếu ăn một miếng thịt Đường tăng sẽ sống lâu muôn tuổi, nên con mời phụ vương sang đây cùng ăn.

Hỏi qua đáp lại một lúc, Hồng Hài Nhi thấy lạ nên biết ông nầy không phải là Ngưu Ma Vương thiệt, bèn hét lớn một tiếng, vây chặt Ngưu Ma Vương giả. Hành Giả thấy lộ việc nên hiện nguyên hình cười ngất, lấy thiết bảng vẹt bọn tiểu yêu, thoát ra cửa động, bay về thuật chuyện cho Sa Tăng nghe, rồi lập tức bay đi Nam Hải cầu Bồ Tát. Bồ Tát nói :
- Sao ngươi không thỉnh ta sớm để ta trừ lửa Tam Muội.

- Bạch Bồ Tát, đệ tử  bị lửa Tam Muội đốt ngất ngư đi không được, phải sai Bát Giới  đi cầu Bồ Tát. Hồng Hài Nhi biết được, giả hình Bồ Tát gạt bắt Bát Giới bỏ vào bao treo trên trính nhà, định hầm Bát Giới đãi bọn tiểu yêu.

Bồ Tát liền lấy Tịnh bình ném xuống biển để thâu nước vào đó, lại sai Huệ Ngạn lên mượn Lý Tịnh 36 ngọn đao Thiên can đem về. Bồ Tát cầm 36 ngọn đao ném lên không biến thành một tòa sen. Bồ Tát lên ngự tòa sen, có chim anh võ bay trước, Huệ Ngạn theo hầu, cùng Hành Giả bay đến núi Hiệu Sơn. Bồ Tát bảo Hành Giả xòe bàn tay tả ra, rồi lấy cành dương liễu viết một chữ  MÊ, dạy Hành Giả đi đánh với Hồng Hài Nhi và trá bại dụ nó đến đây.

Hành Giả bay xuống Khô Tòng giản, kêu Hồng Hài Nhi ra đánh, vừa đánh vừa chọc tức, giả đò thua chạy, Hồng Hài Nhi không thèm rượt theo sợ mắc kế, Hành Giả xòe tay trái ra chiếu ngay mặt Hồng Hài Nhi, nó mê man đuổi theo Hành Giả đến chỗ Bồ Tát đứng chờ. Hồng Hài Nhi quát :
- Tôn Hành Giả thỉnh Bà tới đây trợ chiến chăng ?

Bồ Tát làm thinh không đáp. Hồng Hài Nhi hỏi lần nữa Bồ Tát cũng làm thinh, nó liền nổi giận trở giáo đâm Bồ Tát. Bồ Tát hiện hào quang bỏ tòa sen bay lên không, Hành Giả và Huệ Ngạn cũng bay theo. Hồng Hài Nhi cười ngất nói :
- Tôn Hành Giả thật bất tài, chịu không nổi lửa đốt, rước Long Vương làm mưa không tắt lửa, nay lại thỉnh Bồ Tát, không chịu nổi một giáo, bỏ tòa sen tẩu thoát. Thôi để  ta lên ngồi tòa sen thử chơi cho biết.

Nói rồi, Hồng Hài Nhi vào ngồi tòa sen, xếp bằng chấp tay chế nhạo Bồ Tát. Khi ấy Đức Quan Âm ở trên mây, cầm nhành dương liễu chỉ xuống khiến tòa sen biến mất, hiện ra 36 ngọn đao Thiên can ghim chặt Hồng Hài Nhi vào giữa. Bồ Tát truyền Huệ Ngạn cầm cây Bàng yêu  đè đầu Hồng Hài Nhi đánh xuống, máu chảy ướt dầm. Hồng Hài Nhi rất đau đớn, liều mình nhổ đao không sợ đứt tay. Bồ Tát phất cành dương liễu, miệng niệm chú, 36 ngọn đao dính cứng như hàm răng. Hồng hài Nhi nhổ không được, thất kinh năn nỉ :
- Xin Bồ Tát tha mạng, tôi nguyện cải dữ theo lành, qui y  Phật pháp.

Bồ Tát hiện xuống nói :
- Ngươi chịu tu theo phép của ta chăng ?
- Nếu Bồ tát dung cho toàn tánh mạng, tôi xin qui  y.
- Ngươi nguyện như vậy, ta thí phát cho.

Nói xong, Bồ Tát lấy dao cạo tóc Hồng Hài Nhi, chừa lại 3 vá, rồi nói :
- Nay ngươi đã qui y theo Phật, ta đặt tên cho ngươi là Thiện Tài Đồng Tử. Ngươi có bằng lòng không ?
- Tôi xin vâng lời Bồ Tát.

Bồ Tát liền chỉ 36 ngọn đao bảo lui, tức thì 36 ngọn đao dang ra hết, rồi dạy Huệ Ngạn đem đao trả lại cho Lý Tịnh.

Hồng Hài Nhi thấy thân mình lành lặn như trước, thú tánh trở lại, liền lấy giáo đâm Bồ Tát. Hành Giả lật đật đưa thiết bảng ra đỡ, Bồ Tát nói :
- Hành Giả đừng đánh, để  ta trị nó.

Bồ Tát nói rồi liền lấy trong áo 5 vòng kim cô ném vào Hồng Hài Nhi, nói lớn : Hãy tròng vào thân mình nó.

Vừa dứt lời,  một cái kim cô tròng vào đầu, 4 cái kia tròng vào 2 tay 2 chân của Hồng Hài Nhi. Bồ Tát niệm chú, các vòng kim cô siết lại làm Hồng Hài Nhi đau đớn vô cùng, quăng giáo nằm lăn lộn dưới đất.

Bây giờ Hồng Hài Nhi mới chịu phục Bồ Tát kêu la tha mạng. Bồ Tát thôi niệm chú, Hồng Hài Nhi hết đau, ngồi dậy bái lạy Bồ Tát.

Bồ Tát bảo Hành Giả :
- Tuy Thiện Tài đã chịu phục. Song tánh còn man rợ, ta phải bắt nó nhất bộ nhất bái cho đến Phổ Đà Sơn. Còn ngươi mau đi cứu thầy và Bát Giới.

Hành Giả từ tạ Bồ Tát, liền bay xuống rừng tòng, báo tin cho Ngộ Tịnh rõ, đoạn 2 người cùng đi đến động Hỏa Vân, đánh dẹp bọn tiểu yêu, mở túi thả Bát Giới ra, rồi đi kiếm thầy, mở trói cho thầy, mặc quần áo vào cho thầy, kể hết mọi sự cho thầy và Bát Giới nghe.
Tam Tạng cảm động, quì hướng về phương Nam lạy tạ Bồ Tát.

Thoát được nạn Hồng Hài Nhi, 4 thầy trò mừng rỡ, cùng nhau ăn uống nghỉ ngơi, rồi sáng sớm hôm sau tiếp tục lên đường nhắm Tây phương trực chỉ.

Kim Ngư Tinh bắt Tam Tạng

Bốn thầy trò Tam Tạng từ giã vua Xa Trì, tiếp tục lên đường đi thỉnh kinh. Ngày nọ đi đến nơi có một con sông lớn chắn ngang, nước sông mênh mông, không thấy đâu là bờ bến. Bên bờ sông có một tấm bia đề chữ : “Thông Thiên Hà, Kinh quá bát bá lý, Kim cô thiểu nhân hành.”

Tam Tạng thấy bia đề chữ như thế thì buồn bã. Xảy Bát Giới lắng tai nghe rồi nói :
- Hình như có tiếng chuông mõ đâu đây. Hẳn vùng nầy có nhà ai, hay đám cúng tế chi. Chúng ta đến đó kiếm ăn ba miếng cho vững bụng.

Tam Tạng giục ngựa rẽ qua bãi cát, đi một đổi thấy xa xa có xóm dân cư. Đến nơi thấy trong nhà còn đèn nhang thắp sáng, bên ngoài treo một lá phướn, trước cửa có một ông già đang lần chuỗi hột. Tam Tạng chấp tay thủ lễ. Ông già nói :
- Thầy đến trễ quá ! Nếu đến sớm một chút thì được hưởng phần trai tăng.

Tam tạng đáp :
- Chúng tôi không phải đi trai tăng. Chúng tôi ở nước Đại Đường đi Tây phương thỉnh kinh, đến đây gặp một con sông lớn chắn ngang nên tìm nhà nghỉ đỡ để  mướn thuyền qua sông. Xin gia chủ cho biết đây là xóm gì, có việc gì mà phải làm chay siêu độ như vậy ?

Ông già đáp :
- Tôi họ Trần ở đây lâu đời, xóm nầy là Trần Gia trang. Về việc làm chay siêu độ, câu chuyện rất dong dài, xin mời thầy vào nhà rồi tôi sẽ thuật cho thầy nghe.

Gia chủ hối gia nhân dọn cơm nước đãi khách. Cơm nước xong xuôi, gia chủ nói :
- Xóm tôi đây thờ một vị Thần là Linh Cảm Đại Vương, oai  linh  hiển  hách,  thường  năm  làm  mưa  thuận  gió  hòa, ủng hộ dân chúng, nhưng buộc dân chúng mỗi năm phải cúng cho Thần một đồng nam và một đồng nữ. Nếu không cúng như vậy thì Thần sẽ gây ra bão lụt chết chóc.

Tôn Hành Giả vọt miệng nói :
- Thần gì mà ăn thịt người, chắc nó là yêu quái đó.

Ông Lão nói tiếp :
- Chính vì lẽ đó mà mỗi năm đến phiên gia đình nào thì gia đình đó phải dùng đồng nam và đồng nữ cùng heo dê đem cúng tế cho Thần.

Tôn Hành Giả hỏi :
- Gia chủ có mấy con trai và con gái ?

- Tôi là Trần Thanh, vốn có một đứa con trai mới lên 3 tuổi tên là Trần quang Bảo, cha già con muộn, những tưởng rán nuôi con để  nối dòng, nào dè Thần linh kỳ nầy chọn nó. Còn em tôi đây là Trần Trừng có một gái tên là Nhứt Xứng Kim, kỳ nầy cũng chung số phận với tôi.

Tôn Hành Giả nói :
- Vừa rồi gia chủ cầu siêu cho 2 đồng nam đồng nữ đó?
- Bởi thương con nên làm siêu độ trước.
- Gia chủ giàu có thế nầy, sao không bỏ tiền ra mua đồng nam đồng nữ dâng cho Thần mà phải chịu hy sinh con ?

- Bởi thầy chưa rõ, chớ chúng tôi đâu phải không dám lấy của che thân, ngặt vì vị Linh Cảm Đại Vương nầy thường đến xóm tôi, Ngài đã lựa ai rồi thì không thể dối trá với Ngài được. Ngài biết rõ hình dạng và ngày sanh của 2 đứa bé nầy.

- Phiền gia chủ đem lệnh lang cho tôi xem.
Trần Thanh đem bé Trần quang Bảo ra. Đứa bé rất ngây thơ, mặt mày tươi tắn, không biết Thần sắp ăn thịt nó. Tôn Hành Giả liền niệm chú biến thành đứa bé giống hệt Trần quang Bảo. Mọi người ngạc nhiên kinh hãi. Trần Thanh nói :
- Xin Thánh tăng hiện nguyên hình trở lại, đừng biến hình con tôi sợ mất phước.

Tôn Hành Giả vuốt mặt hiện nguyên hình trở lại nói :
- Có giống lệnh lang không ? Hình ấy đem tặng Linh Cảm được không ?
- Nếu có một đứa bé giống hệt con tôi, thế cho con tôi thì tốn bao nhiêu tiền tôi cũng chịu mua để  cứu mạng con tôi.

- Vậy tôi xin thế cho Trần quang Bảo để  các vị đem đi tế Thần, để  lệnh lang sống nối nghiệp họ Trần.

Trần Trừng bỗng khóc òa rồi quì lạy thưa rằng :
- Thánh tăng cứu được mạng cho Trần quang Bảo thì xin cứu thêm con gái tôi là Nhứt Xứng Kim.

Hành Giả nói :
- Ông hãy đưa lệnh ái đến đây xem thử.

Trần Trừng mừng rỡ chạy về nhà bồng bé Nhứt Xứng Kim tới. Hành Giả nói với Bát Giới :
- Hãy biến hình ra đứa bé nầy.

Bát Giới dẩy nẩy nói tôi to lớn thế này mà biến ra đứa con nít sao đặng. Hành Giả hăm đánh đòn, Bát Giới hoảng sợ liền biến ra mặt mày giống hệt Nhứt Xứng Kim, nhưng mình mẩy mập gấp 2 lần. Hành Giả nói :
- Hãy biến cho nhỏ thêm chút nữa, ta giúp cho.

Hành Giả thổi vào người Bát Giới một hơi, tay chân Bát Giới thu nhỏ lại, bây giờ mới giống hệt Xứng Kim. Mọi người ngạc nhiên khen ngợi, quả là phép lạ. Hành Giả nói :

- Hai ông hãy đem lệnh lang và lệnh ái cất giấu chỗ khác, để  hung thần biết được thì lộ chuyện. Hai ông sẽ khiêng 2 hình giả nầy do tôi và em tôi biến ra, đi tế Thần, đến đấy chúng tôi sẽ bắt yêu quái, không cho nó hại người nữa.

Lúc đó tiếng thanh la trước cửa, đèn đuốc sáng lòa, có tiếng gọi : Hãy khiêng đồng nam đồng nữ ra đây đi tế Thần.

Trần Thanh và Trần Trừng giả cất tiếng khóc vang, khiêng 2 đồng nam đồng nữ đi ra. Người trong xóm đem thêm heo dê phụ vào lễ tế Thần.

Bọn họ đồng khiêng đến miếu Linh Cảm Đại Vương, rót rượu dâng hương, van vái. Xong họ đốt giấy tiền rồi lui hết.

Tôn Hành Giả biến thành Trần quang Bảo, còn Trư Bát Giới biến thành Nhứt Xứng Kim, hai người ngồi trên mâm chờ đợi. Bỗng một luồng gió ào đến. Bát Giới thở dài nói :
- Không xong rồi ! Có lẽ nó đến theo trận gió nầy. Sư huynh liệu sao kẻo nó ăn thịt tôi chết mất.
- Ngươi cứ làm thinh để  ta đối phó.

Linh Cảm Đại Vương đi vào miếu, nhìn 2 đồng nam đồng nữ tỏ ý hài lòng, rồi đưa tay chụp lấy đồng nữ. Bát Giới hoảng kinh, nhảy xuống hiện lại nguyên hình, cầm đinh ba đánh yêu quái. Linh Cảm Đại Vương bị bất ngờ tránh không kịp, bị đinh ba đập trúng vai, rớt ra 2 vảy cá lớn màu vàng. Con yêu cả kinh, bay bổng lên mây. Hành Giả cũng hiện lại nguyên hình đuổi theo. Linh Cảm Đại Vương quay lại hỏi :
- Các ngươi là Hòa Thượng ở đâu  ?  Sao dám gạt ta ?

Tôn Hành Giả đáp :
- Chúng ta là đệ tử  của Đường tăng đi Tây phương thỉnh kinh. Đêm vừa rồi ngụ ở Trần Gia trang, nghe nói có yêu quái đòi ăn thịt con  nít. Chúng ta động lòng từ bi, quyết đi trừ yêu quái để  cứu dân lành.

Linh Cảm Đại Vương đi không mang theo khí giới nên không dám cự địch, nhảy xuống sông Thông Thiên trốn mất.

Tôn Hành Giả nói :
- Chắc nó là quái vật trốn ở sông nầy nên bị tróc 2 vảy cá. Đợi sáng mai làm phép bắt nó rồi đưa sư phụ qua sông.

Tôn Hành Giả trở lại miếu, khiêng heo dê trở về Trần Gia rồi thuật cho mọi người nghe chuyện đánh yêu quái. Mọi người mừng rỡ lo dọn phòng cho 4 thầy trò an nghỉ.

Nói về Linh Cảm Đại Vương bị Bát Giới đánh một đinh ba tróc 2 cái vảy đau đớn vô cùng, trở về thủy phủ ngồi làm thinh, mặt mày ủ rủ. Các bộ hạ vào hỏi thăm. Linh Cảm nói :

- Mỗi năm ta đi hưởng lễ nầy xong, ta đem vật tế dư về phân phát cho chúng bây, nhưng năm nay ta không được hưởng mà suýt bỏ mạng. Hai đứa học trò của Đường tăng biến hóa giả làm đồng nam đồng nữ gạt ta, đợi ta vào miếu thì vùng dậy đánh ta. Nếu không lanh chân chạy về thì mạng ta ắt khó toàn. Bấy lâu, ta nghe Đường tăng tu hành đã 10 kiếp, ăn được một miếng thịt của nó sẽ sống được cả ngàn năm. Nay làm thế nào bắt được hắn ?

Trong bọn thủy tộc  có Khuyết Bà mặc áo rằn nói :
- Đại Vương muốn bắt Tam Tạng chẳng khó gì nếu Đại Vương biết làm phép cho tuyết đóng trên mặt sông.

Linh Cảm Đại Vương nói :
- Ta có tài làm mưa gió mà cũng có tài làm băng tuyết cứng  như đá nữa.

Khuyết Bà nói :
- Thế thì dễ rồi. Đêm nay nhân lúc trời lạnh, Đại Vương làm tuyết sa xuống cho nước sông đặc lại. Chúng tôi hóa làm khách bộ hành, giả đi qua đi lại trên mặt sông, lớp che dù lớp cỡi ngựa. Thầy trò Đường tăng nóng lòng đi thỉnh kinh, tất bắt chước chúng tôi cỡi ngựa qua sông. Đại Vương chờ cho chúng đến được nửa sông thì làm phép cho tuyết tan một vùng, khiến thầy trò nó lọt hết xuống sông, mặc sức bắt.

Linh Cảm mừng rỡ khen là diệu kế.
Thầy trò Tam Tạng trúng kế, đều lọt xuống sông, Hành Giả lanh ý nhảy thoát. Linh Cảm chỉ cố ý bắt Tam Tạng, không bắt Bát Giới và Sa Tăng, 2 người nầy đã từng quen dưới nước nên không sợ chi cả, lội đi tìm Tam Tạng, nhưng không thấy, còn con Bạch mã vốn là rồng hóa thân, nên đi trong nước dễ dàng. Bát Giới và Sa Tăng tìm thầy không thấy, đồng dẫn ngựa lên bờ, báo cáo các việc với Hành Giả.

Ba anh em đồng dắt nhau trở lại Trần Gia trang thuật lại các việc. Hành Giả nói :
- Chắc là thầy bị yêu quái bắt rồi. Hai em rán đi xuống đó thám thính lần nữa thử  coi.

Sa Tăng nói :
- Hai đứa tôi quen thủy tánh , song không biết yêu quái ở chỗ nào. Chúng tôi cõng sư huynh xuống đó, sư huynh biến hóa đi thám thính thì mới kết quả. Khi biết con yêu ở đâu, chúng tôi ra sức đánh nó.

Hành Giả đồng ý. Bát Giới cõng Hành Giả đi xuống nước, Sa Tăng theo sau. Đi được một đổi thấy phía trước có một lâu đài, đến gần thấy đề chữ : Thủy Nguyên chi để.

Hành Giả biến thành con tôm lội tới lâu đài, thấy Linh Cảm Đại Vương ngồi chính giữa, Khuyết Bà ngồi một bên, hai người bàn cách ăn thịt Đường tăng. Hành Giả lội qua chỗ khác dò hỏi Đường tăng bị giam ở đâu, một con tôm cái tiết lộ, Đường tăng bị giam trong cái hộp đá để  ở sau cùng, đợi chừng nào đồ đệ của Đường tăng không tìm kiếm nữa thì bắt ra ăn thịt. Tôn Hành Giả đợi cho tôm cái đi khỏi, liền lần ra sau, chỗ Hậu cung, lén đến gần cái hộp đá, nghe thầy than thở. Hành Giả nói nhỏ : “Sư phụ, có đệ tử  đến đây tìm cách cứu sư phụ. Rán chờ đệ tử  diệt yêu quái xong mới cứu sư phụ ra được.”

Tôn Hành Giả trở ra, gặp Bát Giới và Sa Tăng nói :
- Quả là yêu quái hóa ra tuyết gạt chúng ta, bắt sư phụ. Chúng giam sư phụ trong hộp đá. Hai ngươi phải đi đánh nó để  cứu thầy. Nếu đánh không lại thì dụ nó lên bờ để  ta bắt nó.

Bát Giới và Sa Tăng đến trước cửa lâu đài la lớn :
- Yêu quái đâu ! Hãy thả thầy ta ra mau.
Tiểu yêu vào báo. Linh Cảm Đại Vương nai nịt rồi cầm trái chùy ra cửa nói :
- Các ngươi ở đâu mà dám đến đây lộng hành như thế ?
- Con thủy quái sao mà ngu ngốc thế ! Hôm trước ta đánh cho một đinh ba tróc 2 cái vảy không nhớ sao mà hỏi ?

 Bát Giới đưa đinh ba đập liền. Linh Cảm  đưa  chùy  ra đỡ. Sa Tăng thấy vậy nhào vô trợ chiến. Con yêu chẳng hề nao núng, một mình đánh với 2 người, chưa phân thắng bại. Bát Giới ra hiệu cho Sa Tăng, cùng bỏ chạy lên bờ. Linh Cảm nổi sóng đuổi theo, nhảy phóc lên bờ, bị Hành Giả đón đánh, con yêu cự địch không nổi, liền nhảy xuống sông lặn mất.

Sa Tăng nói với Hành Giả :
- Con quái ấy lên bờ đánh rất dở mà ở dưới nước nó đánh rất tài tình. Em và nhị ca rán hết hơi mà không thắng nó.

-  Nếu để  lâu  e nó hại thầy. Hai em xuống kêu nó đánh hoài để  nó không rảnh tay  hại thầy, còn ta đi thỉnh Bồ Tát.

Nói xong, Hành Giả phóng vụt bay đi, lát sau tới núi Phổ Đà. Các Thần ra nghinh tiếp và nói :
- Bồ Tát dặn, chừng nào Đại Thánh đến thì chờ ở đây.

Hành Giả chờ hồi lâu, quá nóng ruột, vội chạy đại vào rừng trúc, chư Thần cản không nổi. Đến nơi thấy Bồ Tát đang vót nan đan một cái giỏ thì quì lạy Bồ Tát thưa rằng :
- Đệ tử  là Tôn Ngộ Không theo thầy đi thỉnh kinh, đến sông Thông Thiên thì gặp Linh Cảm Đại Vương dùng phép hóa tuyết bắt thầy cầm trong động. Xin Bồ Tát cứu nạn.
- Ngươi ra ngoài chờ  ta đan giỏ xong có việc dùng liền.

Hành Giả đành trở ra ngồi chờ Bồ Tát. Lát sau, Bồ Tát xách giỏ tre đi ra gọi Ngộ Không mau theo cứu Đường tăng.

Bát Giới và Sa Tăng thấy Bồ Tát tới liền đến vái lạy. Bồ Tát liền mở miệng giỏ tre niệm chú :” Tử đích khứ, huợt đích trụ.” Bồ Tát niệm xong 7 lần như vậy thì Bồ Tát đưa giỏ lên, có một con cá vàng nhảy vào giỏ, đôi mắt cá sáng lòa.

Bồ Tát bảo Hành Giả :
- Hãy mau xuống thủy phủ cứu Đường tăng.
- Bồ Tát chưa bắt yêu thì làm sao đệ tử  cứu được thầy.

- Con yêu ấy là con Kim Ngư nầy. Nó ở trong hồ sen của ta, thường ngày nổi lên nghe kinh đã lâu lắm, tu nhiều đời, nên nó có phép luyện búp sen thành trái chùy. Thừa  lúc  nước lớn, nó thoát ra khỏi hồ, lội xuống sông Thông Thiên làm yêu quái nơi đó. Hồi sáng nầy, ta để  ý không thấy nó, liền đánh tay biết Đường tăng bị nó bắt, nên ta đan giỏ tre đem bắt nó.

Tôn Hành Giả vâng lịnh Bồ Tát xuống thủy phủ nạy hộp đá, đưa Đường tăng lên bờ. Thầy trò trở lại nhà Trần lão.

Tôn Hành Giả nói với Trần Lão :
- Yêu quái Linh Cảm Đại Vương đã bị Bồ Tát Nam Hải bắt nhốt vào ao sen rồi, từ nay xóm Trần Gia được yên ổn. Trần lão giúp cho một chiếc thuyền để  đưa thầy tôi qua sông.

Bỗng có tiếng nói từ dưới nước vọng lên :
- Đại Thánh, đừng tính việc đi thuyền qua sông cho tốn công thiên hạ, để  tôi đưa chư vị qua sông.

Tiếng nói vừa dứt thì có một con rùa thật to nổi lên lội vào bờ. Tôn Hành Giả nói :
- Ngươi là gì mà đòi đưa thầy trò ta qua sông lớn ?

- Nguyên Ông Bà tôi đều tu hành có công, sau lập dinh Thủy Nguyên để ở. Chẳng ngờ, cách đây 9 năm, nước dâng cao, con quái ấy đến chiếm Thủy Nguyên, đuổi gia quyến tôi đi. Nay nhờ Đại Thánh thỉnh Bồ Tát tới bắt con quái ấy, gia quyến tôi được trở về đoàn tụ như cũ. Tôi mang ơn Đại Thánh nên tình nguyện đưa thầy trò Đại Thánh qua sông.
Tôn Hành Giả bảo rùa Thần Thủy Nguyên bò lên bờ, rồi bốn thầy trò dắt ngựa và vác hành lý lên đứng trên lưng rùa, từ giã dân chúng. Thủy Nguyên lội xuống nước, vươn mình như bay qua sông. Tam Tạng lên bờ, chấp tay tạ ơn Thủy Nguyên. Thủy Nguyên nói :

- Tôi nghe Phật Tổ ở Tây phương biết việc quá khứ vị lai,  tôi nhờ sư phụ hỏi Phật giùm, tôi đã tu được 1300 năm mà sao hóa hình người chưa được, mặc dầu nói được tiếng người.
Tam Tạng nhận lời, rồi từ giã Thủy Nguyên lên đường.


HÀNH LANG TRONG NGOÀI
Hai bên & Mặt sau Báo Ân Từ

BÊN TRONG

1 . Tô Võ

Tô Võ : Họ Tô tên Võ, là một vị quan Đại Học Sĩ dưới triều vua Hán Nguyên Đế bên Tàu. Điển tích nầy thường gọi là “ Tô Võ mục dương”, nghĩa là : Ông Tô Võ chăn dê. (mục là chăn nuôi, dương là con dê).

Tô Võ, tự là Tử Khanh, người đất Đỗ Lăng, làm quan dưới triều vua Hán Nguyên Đế đến chức Vũ Điện Đại Học Sĩ.

Lúc bấy giờ giặc Hung Nô nổi lên rất mạnh, thường đem binh vào đánh phá Trung nguyên. Triều đình suy nhược, không có tướng tài đủ sức chống cự với quân Hung Nô.

Quan Tể Tướng Trương văn Học tâu :
- Muôn tâu Bệ hạ, hiện nay bờ cõi rối loạn, nước ta đã hao binh tổn tướng nhiều phen  mà không lui được giặc Phiên. Hạ thần thiết tưởng nên sai một viên quan lão thành, đem lời hòa hiếu mà khuyên bảo vua Phiên. Hễ nước Phiên chịu lui quân thì ta bỏ cho nó lệ triều cống, cốt làm cho muôn dân bình an, nước nhà khỏi cơn nguy biến. Xin Bệ hạ định liệu.

Vua Hán hỏi :
- Nhà ngươi nói phải, nhưng các quan trong triều, ai là người có thể đi sứ Phiên được ?

- Muôn tâu Bệ hạ, việc hòa Phiên rất trọng hệ, cần phải giữ cho nước nhà không mất thể diện,  thiển  nghĩ  chỉ  có quan Vũ Điện Đại Học Sĩ  Tô Võ là người lão thành, các nước ngoài đều biết tiếng, có thể đảm nhận nhiệm vụ được.

Vua Hán phán hỏi Tô Võ rằng :
- Nay Trẫm sai ngươi đi hòa Phiên, ngươi cố khuyên vua Phiên chớ nên nghe lời tên gian tặc Mao Diên Thọ mà để  cho 2 nước bất hòa. Nếu như bên Phiên chịu lui quân thì Thiên triều bãi bỏ lệ triều cống. Ngươi khá vì Trẫm chịu nhọc một phen, Trẫm sẽ hậu thưởng.

Phán xong, Hán Đế trao cho Tô Võ một đạo Thánh chỉ làm sứ giả đi hòa Phiên.

Khi Tô Võ đi qua khỏi Nhạn Môn Quan để vào nước Phiên. Vua Phiên không cho người tiếp rước, nên Tô Võ biết là việc hòa Phiên rất khó khăn. Tô Võ vào đến triều đình vua Phiên,  đứng thẳng người, không quì lạy. Các quan Phiên hét :

- Sứ thần bên Hán sao thấy vua ta mà không quì lạy ?

Tô Võ quay lại mắng rằng :
- Phiên tặc, bây chỉ biết trách người sao không biết trách mình. Ta phụng chỉ Thiên triều sang đây mà vua tôi nhà ngươi không ra nghinh tiếp, đó là một điều vô lễ, lại còn trách Đại thần nhà Hán sao không lạy một ông vua Tiểu Phiên ?

Vua Phiên phì cười nói rằng :
- Vua Hán sai ngươi sang đây tất cũng biết tay Trẫm đó. Thế thì vua Hán chịu dâng nạp nàng Chiêu Quân chưa ?

Tô Võ nghe vua Phiên nói như vậy thì tức giận quát :
- Phiên tặc chớ nói càn. Chiêu Quân là Tây Cung của Thiên triều. Sao ngươi lại nghe lời của tên gian tặc Mao Diên Thọ mà mơ tưởng sự vô lý đó. Ta phụng mệnh sang đây là để  nói lời phải trái làm hòa 2 nước, yêu cầu ngươi bắt ngay tên Mao Diên Thọ nộp cho Thiên triều, để  từ đây 2 nước giao hòa với nhau, khỏi binh đao khổ sở dân chúng. Thiên triều cũng rộng ơn cho Phiên khỏi lệ triều cống.

- Sao ngươi nói dễ quá vậy ?  Muốn  giảng  hòa  thì vua Hán phải dâng nạp nàng Chiêu Quân cho ta, nếu không Trẫm sẽ đánh tới kinh đô nhà Hán.

- Phiên tặc, nếu ngươi cứ mơ tưởng Chiêu Quân thì không bao giờ thỏa mộng được.

-  Thằng giặc già nầy hỗn láo, mau lôi nó ra chém đầu.

Thừa Tướng Vệ Luật của nước Phiên bước ra tâu :
-  Xin Bệ hạ nguôi giận mà tha chết cho hắn. Vả lại 2 nước đang đánh nhau, ta không nên chém sứ giả. Xin Bệ hạ giao hắn cho hạ thần khuyên dỗ hắn đầu hàng.

Vua Phiên chấp thuận. Nhưng sau đó Vệ Luật không dụ được Tô Võ, mà lại bị Tô Võ mắng cho một trận. Vua Phiên giận bắt Tô Võ bỏ vào hang đá 3 ngày cho chết đói. Tô Võ vuốt hột sương đọng nơi ngù cờ thấm giọng nên không chết. Vua Phiên cho rằng Tô Võ có Thần nhân hộ trợ nên không dám giết, đày Tô Võ ra Mục Dương thành, bắt chăn 100 con dê đực, chừng nào dê đực đẻ con mới tha cho về nước.

Tô Võ tuổi già sức yếu, lại thiếu quần áo chống lạnh, sắp nguy tánh mạng, may nhờ một con vượn cái giúp đỡ, đem vào động đá nuôi dưỡng, các vượn nhỏ giúp chăn dắt đàn dê.

Mỗi lần mùa Đông sắp đến, chim nhạn lánh tuyết bay về phương Nam, Tô Võ viết thư buộc vào nách chim nhạn để  nó bay đem về đất Trung nguyên, báo tin cho Hán Đế biết ông còn sống và hiện bị đày đi chăn dê ở phía Bắc xứ Hung Nô.

Mười sáu năm sau, quân Hán bị quân Phiên đánh bại, Hán Đế buộc phải đem Chiêu Quân cống Hồ (Phiên).

Khi nàng Chiêu Quân tới kinh đô Phiên quốc, nàng xin với vua Phiên giết chết tên gian thần Mao Diên Thọ, và thả Tô Võ trở về nước. Vua Phiên bằng lòng.

Tô Võ về đến Hán kinh thì tóc đã bạc phơ, giọng nói phều phào, vào chầu Hán Đế. Vua Hán cảm động, phong Tô Võ thăng lên 3 cấp,  thưởng cho 1000 lạng vàng, và bà Châu thị, vợ của Tô Võ được phong làm Nhứt phẩm Phu Nhân.

2 . Thần đồng vấn Khổng Tử

Thần đồng là đứa trẻ nhỏ tuổi thông minh vượt bực, có năng khiếu đặc biệt hơn hẳn các trẻ cùng tuổi. Vấn là hỏi.

Thần đồng vấn Khổng Tử là câu chuyện Thần đồng Hạng Thác hỏi Đức Khổng Tử nhiều điều mà Ngài không trả lời được, nên chịu phục Hạng Thác làm thầy.

“Đức Khổng Tử khi còn nhập thế, chưa xuất thế, ở Nhơn đạo chưa học Thiên đạo. Ngài học văn chương mà giáo huấn Nhơn đạo, dạy cang thường luân lý, sửa đương Nhơn đạo, sau Ngài học lễ với Lão Đam, cũng giáo huấn môn đồ về Nhơn đạo. Trong lúc ấy, Ngài có vợ con, thịt ăn rượu uống.

 Vậy nên có câu rằng : “ Khổng Tử, Thiên sanh chơn kỳ trí, Tánh mạng công phu thỉ bất minh.”  Nghĩa là : Đức Khổng Tử, Trời sanh người trí lạ, Tánh mạng phép công phu, Ngài còn chưa rõ đặng.

Sau Ngài qua nước Trần, gặp Hạng Thác, chừng đó mới học qua Thiên đạo, lúc ấy mới cấm răn rượu thịt, dâm dục, y theo qui giới mà tu Thiên đạo. Nên có câu : “ Trai minh thạnh phục, Yết dục dưỡng tinh.”

Mấy lời đó, sao người học Nho không nhắc lấy mà so sánh thí cập.

Còn khi chưa xuất thế tu hành  thì Ngài để  kinh sách dạy theo Nhơn đạo, sửa mình mà thôi. Như vậy lấy sách dạy Nhơn đạo thí cập so sánh với Thiên đạo, sao phù hiệp đặng.

Khi Đức Khổng Tử học đạo rồi, sau Thầy Tử Cống có nói rằng : Đức Phu Tử nói văn chương thì ta hiểu rõ, còn nói qua Thiên đạo, ta nghe không hiểu.

Đó chẳng phải Đức Khổng Tử Ngài ở Nhơn đạo, sau tu qua Thiên đạo hay sao ? Nên mới nói Nhơn tâm, Đạo tâm, là 2 nẻo khác nhau.” (Trích trong Hội Lý Xiển Chơn Luận trang 42 của Ông Nguyễn văn Kinh)

Đức Khổng Tử cùng một số học trò, trên đường đi qua nước Trần, gặp một đám trẻ nhỏ chơi đùa giữa đường. Ngài ngồi trên xe nhìn đám trẻ, thấy có một cậu bé cặm cụi lấy cát đắp một cái thành nhỏ mà không đùa nghịch. Đức Khổng Tử dừng lại hỏi cậu bé :
- Sao cậu không chơi đùa với mấy đứa trẻ kia ?

Cậu bé đáp :
- Đùa giỡn thì vô ích. Sự đùa giỡn có thể làm rách quần áo, nhọc công mẹ vá khâu và làm buồn lòng đến cha, nên tôi không đùa nghịch.

Nói xong, cậu tiếp tục đắp thành. Đ. Khổng Tử lại hỏi :
- Cậu không tránh cho xe của tôi đi sao ?

Cậu bé thản nhiên đáp :
- Từ xưa đến giờ, xe phải tránh thành, chớ có bao giờ thành tránh xe.

 Đức Khổng Tử nghe cậu bé trả lời hay quá, thấy cậu bé nầy có vẻ khác lạ, liền xuống xe đến gần cậu bé bàn luận nhiều việc xa xôi. Cậu bé đều trả lời xuôi rót, nhưng có tánh cách biến trá. Đức Khổng Tử trách rằng :
-  Cậu hãy còn bé mà sao đã biến trá lắm vậy ?

-  Người ta sanh ra 3 ngày đã biết tìm vú mẹ, con thỏ sanh ra 3 ngày đã chạy tung tăng trên đồng nội, con cá sanh ra 3 ngày thì biết xuôi ngược khắp sông hồ. Đó là tánh tự nhiên, sao gọi là biến trá ?

-  Cậu ở xóm nào, làng nào, cha mẹ ở đâu ?
-  Tôi sanh tại đây, họ Hạng tên Thác, chưa có tên tự.
-  Ta muốn cậu cùng đi chơi với ta, ý cậu thế nào ?
-  Trong nhà tôi còn có cha, cần phải phụng, còn có mẹ cần phải dưỡng, có anh để phụ tùng, có em phải dạy dỗ, còn có thầy để  học hỏi, đâu có rảnh để  đi chơi với ông.
-  Trong xe ta có sẵn 32 con cờ, ta muốn cùng cậu đánh cờ, cậu có bằng lòng không ?
-  Thiên tử mê cờ thì bốn biển không người gìn giữ, chư Hầu mê cờ thì chính sự không an, nho sĩ mê cờ thì việc học đình trệ, nông phu mê cờ thì quên việc cày cấy, vì thế tôi không đánh cờ.

- Ta muốn cùng cậu đàm luận việc bình trị thiên hạ, cậu có bằng lòng không ?

- Chuyện thiên hạ khỏi phải bình, vì hoặc như núi cao, hoặc như sông hồ, hoặc như vương hầu, hoặc như nô tỳ. Nếu san bằng núi thì chim chóc không nơi trú ngụ, lấp bằng sông hồ thì cá nhờ đâu bơi lội, bỏ chức vương hầu thì dân không người trị, bỏ nô tỳ thì chủ nhân không có người để sai khiến, thế nên tôi không bình luận việc thiên hạ.

Đức Khổng Tử lại hỏi :
- Lửa nào không khói ?          Nước nào không cá ?
Núi nào không đá ?                Cây gì không cành ?
Người nào không vợ ?            Ai kẻ không chồng ?
Trâu nào không nghé ?           Ngựa nào không con ?
Trống nào không mái ?          Mái nào không trống ?
Ai là quân tử ?                        Ai kẻ tiểu nhân ?
Vật gì không đủ ?                   Vật gì có thừa ?
Thành nào không chợ ?          Người nào không con ?

Cậu bé Hạng Thác liền đáp :
- Lửa đôm đốm không khói.   Nước giếng không cá.
Núi đất không đá.                   Cây khô không cành.
Tiên Ông không vợ.                Ngọc Nữ không chồng.
Trâu đất không nghé.             Ngựa gỗ không con.
Trống độc không mái.            Mái độc không trống.
Hiền là quân tử.                      Kẻ dại tiểu nhân.
Ngày Đông không đủ.            Ngày Hạ có thừa.
Hoàng thành không chợ.        Đứa trẻ không con.

Sau khi Hạng Thác trả lời xong, Đức Khổng Tử hỏi tiếp :
-  Cậu có biết gì về lẽ Đạo hằng của Trời Đất ?
    Sự cuối cùng của Âm Dương ?
Đâu là phải ?              Đâu là trái ?
Đâu là trong ?             Đâu là ngoài ?
Ai là Cha ?                 Ai là Mẹ ?
Ai là chồng ?              Ai là vợ ?
Gió từ đâu đến ?         Mây từ đâu ra ?
Sương từ đâu có ?       Trời Đất xa nhau mấy dặm ?

Cậu bé Hạng Thác liền trả lời :
-  9 lần 9 chu kỳ là 81. Ấy là đạo của Trời Đất.
   8 lần 9 là 72. Ấy là Âm Dương cùng cuối.
Tây là phải.                Đông là trái.            
Trong là lý.                 Ngoài là biểu.
Trời là Cha.                Đất là Mẹ.
Mặt Trời là chồng.     Mặt Trăng là vợ.
Gió từ cây xao động.  Mây trong núi bay ra.
Sương từ đất dậy.        Trời Đất xa nhau ngàn ngàn vạn vạn dặm.

Cậu bé Hạng Thác đã trả lời đầy đủ các câu hỏi của Đức Khổng Tử. Bây giờ cậu bé xin thỉnh giáo Đức Khổng Tử đôi điều :
- Thưa Ngài, vịt ngỗng sao nổi trên mặt nước ?
  Chim hồng chim nhạn  sao lại kêu to ?
  Tùng bách sao ngày Đông vẫn xanh lá ?

Đức Khổng Tử đáp rằng :
- Vịt ngỗng vì chân nó banh mà nổi bơi trên mặt nước.
  Chim hồng chim nhạn kêu to là vì cổ nó dài.
  Tùng bách ngày Đông xanh lá là vì ruột nó đặc.

Cậu bé Hạng Thác cười nói rằng :
- Chắc không hẳn như vậy đâu.
Tôm cá vẫn nổi trên mặt nước mà chân nó có banh đâu.
Ễnh ương, ếch nhái kêu to mà cổ của nó có dài đâu.

Cây trúc rổng ruột mà ngày Đông vẫn xanh lá.
Sau khi bắt bẻ các câu trả lời của Đức Khổng Tử, Thần đồng Hạng Thác hỏi tiếp :
- Trên bầu Trời có sao lấp lánh, vậy thưa Ngài có tất cả bao nhiêu vì sao ?
- Chuyện dưới đất không thiếu gì sao lại hỏi chuyện trên Trời.
- Vậy dưới đất nhà cửa san sát có bao nhiêu ngôi nhà ?

Đức Khổng Tử lại nói rằng :
- Ta nên nói ngay chuyện trước mắt có phải là thực tế hơn không, cần gì nói chuyện Trời Đất.
- Vậy thưa Ngài nếu bàn chuyện trước mắt thì Ngài cho biết lông mày có bao nhiêu sợi ?

Đức Khổng Tử không trả lời, chỉ biết cười mà thôi.
Ngài quay lại nói cùng các học trò rằng : “ Hậu sanh khả úy.” (kẻ sanh sau đáng sợ thật). Đó là kẻ rất khó tìm thấy trong thiên hạ. Nói xong Ngài trở lên xe đi thẳng.

      Bài thi : Thần đồng vấn Khổng Tử :
Hưu khi niên thiếu thông minh tử,
Quảng hữu anh tài trí quá nhân.
Đàm luận thế gian vô hãn sự,
Phân minh Cổ Thánh hiện kỳ thân.
                        Tạm dịch :
Đừng khinh tuổi trẻ bậc Thần đồng,
   lắm  anh  tài   trí  quảng  thông.
Luận việc thế gian không  giới hạn,
Thánh xưa hiện rõ  thể  vừng  đông.

Tối hôm ấy, Đức Khổng Tử ngồi thẩn thờ trước án, ngọn đèn bạch lạp lụn tàn. Tử Lộ mạo muội vào hỏi thầy :
       - Thầy trầm tư về cuộc tranh luận với Hạng Thác ? - Phải.
       - Thầy không vui vì mình yếu lý ?    -  Không.

       Thấy Tử  Lộ có ý hồ nghi, nên Đức Khổng Tử  nói tiếp :
- Nầy Do, bình sanh ta đi chu du thiên hạ để  truyền bá Nhơn đạo, mặt luôn luôn hướng thẳng, lòng sáng tợ gương, ý thành, ngôn chánh. Còn miệng lưỡi của Hạng Thác là miệng lưỡi của phường biện sĩ, nên có thể chứng minh ngựa trắng không phải là ngựa trắng. Khi xướng thuyết Liên Hoành cũng thuận, mà bày kế Hợp Tung cũng thông. Xét từ bản chất của ngôn ngữ, cuộc tranh luận vừa qua cũng như nước chảy dòng đôi, xa trăm ngàn đợt sóng nhấp nhô, nhưng kỳ thật không lượn lớn lượn nhỏ nào va chạm. Do làm sao hiểu được !
          (Tử Lộ là học trò giỏi của Đ. Khổng Tử, tên  Trọng Do, kêu tắt là Do)

Tử Lộ hỏi : - Vậy cớ nào thầy buồn ?

- Ta buồn vì có Khổng Khâu mà còn phường biện sĩ. Hạng Thác nhắc cho ta nhớ đến vai trò của kẻ biện sĩ. Biện sĩ chỉ thuyết cho sự lợi ích mà không thuyết cho Chơn Lý. Khắp thiên hạ, kẻ cầu lợi đông như kiến cỏ, người hướng về Chơn Lý đốt đuốc khó tìm.Thế sự trôi chảy không ngừng. Chánh đạo của ta liệu truyền lưu được bao lâu nữa ? Đó chẳng phải là điều đáng buồn hay sao ?

Tử Lộ toan lui ra, Đức Khổng Tử kêu lại hỏi :
- Trò Do, trò còn nhớ người hiền nước Sở ?
- Bẩm, có phải là Sở cuồng Tiếp Dư ca hát nghêu ngao.
- Trò còn nhớ 2 ẩn sĩ họ Kiệt, họ Tràng ?
- Bẩm, có phải 2 lực điền ở giáp ranh  Sở, Thái ?

- Họ khuyên ta bỏ đi việc chính sự lụy phiền, để làm người tỵ thế. Khuyên ta : Trời không hề nói gì mà vạn vật điều hòa. Ta cũng muốn êm lời, nhưng gặp việc nghĩa mà không làm, biết Chơn Lý mà không nói thì phải sống với đồng loại hay sống với chim muông !

            Tử Lộ ra ngoài nói với các bạn : Thầy nói : Hậu sinh khả úy. Không phải sợ kẻ sanh sau tài giỏi hơn mình, mà sợ họ làm sai lạc Chánh lý bằng ngoa ngôn xảo ngữ  vị lợi đó thôi.

3 . Tôn Tẫn tầm sư học đạo

Tôn Tẫn là người nước Yên, cha là Tôn Tháo, mẹ là Công chúa Yên Đơn, ông nội là Tôn Võ Tử.

Công chúa Yên Đơn thọ thai 48 tháng mới sanh ra Tôn Tẫn. Lúc sanh ra là lúc Công chúa Yên Đơn đương bị khổn trong trận do Hỗn Thiên Tán của Túy Vân, nên nằm bất tỉnh rồi lâm bồn đúng giờ Tý tại núi Kinh Kha nước Yên.

Lúc Tôn Tẫn lên 9 tuổi thì Tôn Tháo mất, Tôn Kiều là chú đang làm Quan Đại Phu nước Tề đem Tôn Tẫn về nuôi dưỡng. Sau đó Tôn Kiều gặp nạn, phải lánh sang nước Châu, gia đình sa sút, Tôn Tẫn phải đi làm thuê sinh sống.

Tôn Tẫn lớn lên, nghe đồn Quỉ Cốc Tiên Sinh có tài cao phép lạ, nên tìm đến xin thọ giáo. Nguyên ở Dương Thành thuộc địa phận nhà Châu, có một chỗ gọi là Quỉ Cốc, vì nơi ấy có núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề. Trong núi ấy có một ẩn sĩ họ Vương tên Hủ, trước ở núi Vân Mộng cùng Mặc Địch hái thuốc, tu Tiên, sau đến ẩn nơi Quỉ Cốc, nên người ta thường gọi là Quỉ Cốc Tiên sinh.

Quỉ Cốc Tiên sinh có học vấn uyên bác, tu Tiên đắc đạo, tinh thông lý số, thông hiểu lẽ huyền vi của Trời Đất, lại cũng tinh thông binh thơ đồ trận.

Học trò của Quỉ Cốc Tiên sinh có nhiều người tài giỏi như : Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi, vv . . . Tôn Tẫn và Bàng Quyên thì học về binh pháp. Còn Tô Tần và Trương Nghi thì học về du thuyết.

Bàng Quyên học được 3 năm, tự cho mình đã giỏi rồi, nên xin thầy cho xuống núi đi lập công danh.

Quỉ Cốc bảo Bàng Quyên đi hái một cành hoa đem vào đây để  thầy đoán vận mạng cho. Bàng Quyên đi ra khỏi động, nhằm lúc khí Trời nóng nực, cây  cối  không  ra  hoa,  chỉ  thấy một bông hoa cỏ, liền nhổ lên cả gốc, toan đem trình thầy, bỗng nghĩ rằng bông hoa nầy mềm yếu và không đẹp nên ném xuống đất, rồi đi tìm hoa khác, nhưng không tìm được cành hoa nào, đành trở lại chỗ cũ, nhặt cành hoa đã bỏ lúc nảy, bỏ vào túi áo, rồi vào trình thầy rằng :
- Trong núi mùa nầy không có hoa.
- Không có hoa thì vật gì trong túi áo của ngươi đó ?

Bàng Quyên không giấu được, buộc phải đưa ra trình.
- Nhà ngươi có biết cái hoa nầy tên gì không ? Nó là hoa Mã Đâu Linh, mỗi lần nở 12 bông, ứng với số năm vẻ vang của ngươi. Hoa nầy hái ở Quỉ Cốc, thấy mặt Trời thì héo, bên chữ   QUỈ ( )  có chữ  ỦY ( ) thành chữ  NGỤY ( ) , nhà ngươi xuất thân ở nước Ngụy. Sau nầy nhà ngươi vì việc lừa dối người mà bị người lừa dối lại. Vậy nên lấy điều đó mà răn mình. Ta có 8 chữ nầy, nhà ngươi khá nhớ : “ Gặp dê thì vinh, gặp ngựa thì hỏng.”

Bàng Quyên lạy thầy 2 lạy nói rằng :
- Lời giáo huấn của thầy, đệ tử  hết lòng ghi nhớ.
Tôn Tẫn tiễn Bàng Quyên xuống chơn núi.

Bàng Quyên nói :
- Đệ cùng huynh kết nghĩa anh em, thề giàu sang cùng hưởng, khốn nàn cùng gánh. Chuyến đi nầy nếu đệ lập được công danh thì sẽ tiến cử huynh để  cùng lập cơ nghiệp.

Hai người chia tay, Tôn Tẫn buồn rớm nước mắt, trở lên núi. Quỉ Cốc Tiên Sinh hỏi Tôn Tẫn:
- Ngươi bảo cái tài của Bàng Quyên làm được Đại Tướng không ?
- Nhờ ơn thầy dạy bảo đã lâu, lẽ nào Bàng Quyên không làm được  Đại Tướng ?
- Không làm được, nhứt định không làm được.

Tôn Tẫn nghe thầy nói vậy thì lấy làm lạ nhưng không dám hỏi thầy lý do. Hôm sau, Quỉ Cốc bảo các học trò :
- Ban đêm, ta rất khó ngủ, ta rất ghét tiếng chuột kêu. Các trò phải luân phiên nhau thức mà đuổi chuột cho ta.

Các trò đều vâng lời, chia phiên thức gác. Tới phiên Tôn Tẫn, Tiên sinh lấy một quyển sách trao cho Tôn Tẫn nói :
- Đây là 13 thiên binh pháp của ông nội nhà ngươi tên là Tôn Võ Tử, xưa đem dâng cho vua Hạp Lư nước Ngô, nhờ đó mà Hạp Lư phá tan quân Sở. Hạp Lư giữ cuốn sách nầy làm gia bảo, bỏ vào hộp sắt, giấu vào cột Cô Tô Đài. Từ khi quân nước Việt đốt Cô Tô Đài, cuốn sách ấy mất tích luôn.Ta có chơi thân với ông nội ngươi, nên được xem sách ấy, ta nhớ và ghi lại, tự  tay ta chú giải thêm nhiều điều bí mật trong cách hành binh. Ta chưa từng cẩu thả giao sách cho ai, nay thấy ngươi trung hậu, nên ta giao cho ngươi học, trong 3 ngày giao lại cho ta. Học cuốn sách nầy, khéo dùng thì làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng thì hại rất lớn. Bàng Quyên không là người tốt, nên ta không dạy.

Tôn Tẫn đem sách về phòng, ngày đêm nghiền ngẫm, trong 3 ngày thì nằm lòng. 3 ngày sau, Tôn Tẫn đem sách nộp cho thầy. Tiên sinh theo từng thiên hỏi lại Tôn Tẫn, Tôn Tẫn đối đáp rất trôi chảy. Tiên sinh mừng rỡ nói :
- Ngươi biết dụng tâm như thế, Tỗ phụ ngươi dầu đã qua đời chắc rất vui lòng.

 Nói về Bàng Quyên, xuống núi thẳng đến nước Ngụy, vào cầu quan Tướng Quốc Vương Thác. Vương Thác tiến cử Bàng Quyên lên vua Ngụy Huệ Vương. Khi Bàng Quyên vào chầu vua, gặp lúc nhà bếp dâng lên món thịt dê. Bàng Quyên mừng thầm vì nhớ lời thầy dặn, gặp dê thì vinh.

Bàng Quyên được Huệ Vương trọng dụng, lần lần phong lên đến chức Nguyên Soái, kiêm Quân Sư. Con trai là Bàng Anh, cháu là Bàng Thông, Bàng Mai đều được vua phong làm Tướng, cả nhà vinh hiển.

Lúc bấy giờ có Mặc Địch ghé Quỉ Cốc thăm bạn cũ là Vương Hủ (Quỉ Cốc Tiên sinh), Mặc Địch gặp Tôn Tẫn, đàm luận rất hợp ý, bèn bảo Tôn Tẫn :
- Anh học nghệ đã thành, sao không đi lập công danh ?
- Tôi có người bạn học là Bàng Quyên, đã ra làm quan ở nước Ngụy, có hẹn khi nào đắc chí sẽ tiến cử tôi, nên tôi đợi.
- Bàng Quyên đã làm Nguyên soái nước Ngụy, để  tôi vì anh mà đến đó dọ ý Bàng Quyên thế nào ?

Mặc Địch từ giã Quỉ Cốc rồi đi vào nước Ngụy, nghe Bàng Quyên cậy tài, nói quá không biết thẹn, không có ý tiến cử Tôn Tẫn. Mặc Địch vào nói cho Huệ Vương rõ các việc. Huệ Vương liền đòi Bàng Quyên đến hỏi :
- Ta nghe nói Tôn Tẫn cùng học một thầy với Nguyên soái, lại được học riêng binh pháp bí truyền của Tôn Võ Tử, tài giỏi không ai bằng, sao Nguyên soái chẳng vì Quả nhân mà tiến cử người ấy đến giúp Trẫm.

- Tâu Bệ hạ, hạ thần không phải không biết tài của Tôn Tẫn, nhưng Tôn Tẫn là người nước Tề, nay làm quan nước Ngụy thì thế nào cũng liên lạc với Tề. Nay Bệ hạ muốn triệu Tôn Tẫn thì hạ thần xin viết thơ gọi đến.

Bàng Quyên ở vào thế buộc phải viết thơ gọi Tôn Tẫn, nhưng thâm tâm rất sợ Ngụy Vương trọng dụng Tôn Tẫn, bỏ rơi mình, nên thầm tính kế hại Tôn Tẫn.

Bàng Quyên viết thơ xong, Huệ Vương dùng xe Tứ Mã và đồ lễ long trọng, sai người đến Quỉ Cốc rước Tôn Tẫn.

Tôn Tẫn tiếp được thơ của Bàng Quyên, vội đem trình thầy. Tiên sinh bảo Tôn Tẫn đi hái một cành hoa để  bói coi tốt xấu. Tôn Tẫn thấy bình hoa trên án có một cành hoa cúc, bèn đến rút lấy đem trình thầy, rồi đem cắm trở lại vào bình.

Tiên sinh đoán rằng : Cành hoa nầy bị bẻ, không hoàn hảo, nhưng tánh chịu rét, dẫu có bị tàn hại cũng không hề gì. Vả cắm trong bình, mọi người đều  quí  trọng,    cái bình ấy lại là vàng đúc cùng một loại với chung đỉnh, chắc rồi sẽ có tiếng tăm lừng lẫy. Nhưng cành hoa nầy 2 lần cất nhắc lại cắm vào bình, vậy sự nghiệp của ngươi chưa thể đắc ý ngay được, mà kết cuộc sẽ làm nên ở quê mình. Vậy ta đổi tên cho, có thể mong tiến thủ được. Tên ngươi là TÂN  ( ), ta thêm một chữ  NHỤC ( )  ở bên tả thành  chữ  TẪN ÂÁ , vậy tên của ngươi là Tôn Tẫn  ( ) . (Tân là khách, Tẫn là bị chặt xương đầu gối) Tiên sinh đổi tên như thế là vì Tiên sinh biết trước học trò mình bị cái hoạ chặt chưn, nhưng không dám tiết lộ.

Khi Tôn Tẫn lạy thầy từ biệt, Thầy trao cho một bức cẩm nang, dặn kỹ khi nào gặp việc nguy cấp mới mở ra xem. Tôn Tẫn lạy tạ thầy lần nữa, rồi xuống núi, lên xe Tứ Mã thẳng đến nước Ngụy, tạm ở trong phủ của Bàng Quyên.

Bàng Quyên biết Tôn Tẫn tài giỏi hơn mình, sợ Ngụy Vương dùng Tôn Tẫn, bỏ rơi mình, nên Bàng Quyên, ngoài mặt giả đò anh em thân thiết, nhưng ngầm lập kế ám hại Tôn Tẫn. Bàng Quyên giả mạo chứng cớ, cáo buộc Tôn Tẫn tư thông nước Tề để hại nước Ngụy. Huệ Vương nghe lời sàm tấu của Bàng Quyên, bắt Tôn Tẫn chặt chưn và thích vào trán 4 chữ  “ Tư Thông Ngoại Quốc ”.

Tôn Tẫn trở thành phế nhân, mỗi ngày chịu ơn Bàng Quyên cung cấp 3 bữa ăn. Bàng Quyên lại dùng thủ đoạn để  gạt người bạn cũ chép 13 thiên binh pháp truyền lại cho mình.

Tôn Tẫn vì lầm gian kế của Bàng Quyên nên rất khổ sở, quá chán nãn cho tình người đen bạc, lại bị vết thươngchặt chưn hành hạ quá đau đớn, muốn tìm kế thoát thân, nhưng chưa biết phải làm sao, sực nhớ bức cẩm nang thầy ban cho, liền bí mật mở ra xem, thấy thầy đề 2 chữ : Giả điên.

Buổi chiều hôm ấy, khi mâm cơm đưa tới, Tôn Tẫn cầm đủa định ăn, bỗng làm ra dáng mê man, nôn oẹ, hồi lâu nổi giận giương mắt hét to lên rằng : Mày dùng thuốc độc hại ta, rồi hất đổ mâm cơm xuống đất, miệng lảm nhảm chửi hoài.

Bàng Quyên được lính hầu báo cho biết việc Tôn Tẫn nổi điên thì không tin, đến tận nơi xem xét và nhốt Tôn Tẫn vào chuồng heo, đem cơm đến cho ăn. Tôn Tẫn lại hét : “ Mày lại đem thuốc độc đến hại ta à ?” Nói rồi gạt mâm cơm đổ xuống đất. Tên lính hầu nhặt cơm cho chó ăn, lấy một cục bùn đưa Tôn Tẫn thì Tôn Tẫn liền lấy ăn ngay.

Bàng Quyên tin chắc Tôn Tẫn điên thật nên không lấy làm lo, dần dần thả lỏng Tôn Tẫn muốn đi đâu thì đi, nhưng ra lịnh cho người theo dõi, mỗi sáng phải trình báo cho biết Tôn Tẫn hiện đang ở đâu.

Bấy giờ Mặc Địch sang chơi nhà Điền Kỵ nước Tề. Có người học trò tên Cầm Hoạt ở nước Ngụy đến. Mặc Địch hỏi thăm Cầm Hoạt lúc nầy Tôn Tẫn có đắc ý không ? Cầm Hoạt thuật lại việc Tôn Tẫn bị chặt chưn và trở nên điên khùng.

Mặc Địch nói :
- Ta muốn tiến cử hắn nào ngờ lại thành ra hại hắn.

Mặc Địch liền nói rõ tài học của Tôn Tẫn cho Điền Kỵ nghe  và việc Bàng Quyên ganh tài ám hại Tôn Tẫn, khuyên Điền Kỵ tìm cách rước Tôn Tẫn sang Tề. Điền Kỵ vào tâu với vua Tề là Tề Uy Vương. Uy Vương muốn đem binh đón Tôn Tẫn thì Điền Kỵ can, nói phải lập kế mới rước Tôn Tẫn được.

Uy Vương sai Thuần Vu Khôn sang Ngụy dâng trà, đem Cầm Hoạt đi theo giả làm kẻ hầu. Qua đến Ngụy, Cầm Hoạt bí mật đi tìm Tôn Tẫn, rồi mướn người khác giả làm Tôn Tẫn, đặng rước Tôn Tẫn thật về Tề.

Thuần Vu Khôn và Cầm Hoạt đưa được Tôn Tẫn ra khỏi nước Ngụy thì đi thẳng về Lâm Tri, có Điền Kỵ thân hành ra đón. Tề Uy Vương rất mừng, muốn phong Tôn Tẫn làm Quân Sư, nhưng Tôn Tẫn tâu rằng :
- Hạ thần chưa có chút công chi nên chưa dám nhận quan tước. Vả nếu Bàng Quyên biết thần làm quan cho Tề ắt lo đề phòng, chi bằng tạm giấu đi mới dễ bề hành động.

Uy Vương bằng lòng, cho Tôn Tẫn ở trong dinh Điền Kỵ, tôn là thượng khách.

Lúc đó, Ngụy Huệ Vương sai Bàng Quyên đi đánh nước Triệu để  đòi đất Trung Sơn. Quân Triệu bị thua. Triệu Thành Hầu cầu Tề cứu viện. Tề Uy Vương định phong Tôn Tẫn làm Đại Tướng đem binh cứu Triệu. Tôn Tẫn tâu rằng :
- Hạ thần là kẻ tàn phế, nếu cho làm Đại Tướng e cho quân địch sẽ cười Tề không có tướng tài, chi bằng Đại Vương cử Điền Kỵ làm Tướng, và hạ thần bí mật theo giúp mưu kế.

Tề Uy Vương cử Điền Kỵ làm Đại Tướng, Tôn Tẫn làm Quân Sư  bí mật ở trong xe, kéo đại binh cứu Triệu.

Điền Kỵ muốn đem quân thẳng đến Hàm Đan là kinh đô của Triệu. Tôn Tẫn nói : Tướng nước Triệu không đánh nổi Bàng Quyên, nên khi ta kéo quân đến đó thì Hàm Đan đã mất về tay quân Ngụy rồi, chi bằng ta cứ đóng quân giữa đường, rêu rao nói rằng ta đi đánh Tương Lăng của Ngụy. Huệ Vương lo sợ, ắt phải gọi Bàng Quyên trở về giữ Tương Lăng. Bấy giờ ta đón đánh Bàng Quyên thì thế nào cũng thắng.

Điền Kỵ  y  theo kế đó mà làm. Quả đúng như lời Quân Sư Tôn Tẫn, Bàng Quyên kéo binh về giữ Tương Lăng. Điền Kỵ bày binh theo cách của Tôn Tẫn, đánh Bàng Quyên một trận tơi bời, Bàng Quyên ban đêm chạy trốn về Ngụy.

Năm sau, Bàng Quyền cùng Thái Tử Thân đem binh đánh nước Hàn. Hàn sang cầu cứu Tề. Tề Uy Vương cử Điền Kỵ và Tôn Tẫn đi cứu Hàn.

Điền Kỵ  muốn kéo quân đến nước Hàn. Tôn Tẫn nói :
- Không nên, trước kia ta cứu Triệu mà chưa hề đến Triệu, nay cứu Hàn cũng y theo kế hoạch đó. Cái thuật giải cứu Hàn là phải đánh vào nơi yếu trọng của Ngụy thì quân Ngụy tất phải kéo về. Cái kế ngày nay là phải đem binh thẳng đến kinh đô Ngụy thì mới cứu được Hàn.

 Bàng Quyên đang thắng thế ở nước Hàn, nhưng Ngụy Huệ Vương ra lịnh cho Bàng Quyên phải tức tốc rút binh về đón đánh quân Tề đang thừa cơ kéo đến đánh kinh đô của Ngụy. Tôn Tẫn bày kế lừa Bàng Quyên. Quân Tề làm như sợ hãi khi biết Bàng Quyên kéo quân trở về Ngụy. Ban đầu làm 10 vạn bếp, sau đó rút quân như bỏ chạy, hôm sau làm 6 vạn bếp, hôm sau rút chạy nữa, chỉ còn làm 3 vạn bếp.

Bàng Quyên cho quân quan sát các bếp của quân Tề, cười lớn nói với Thái Tử Thân :
- Thật là hồng phúc của Ngụy Vương, quân Tề hèn nhát, vào đất Ngụy có 3 ngày mà binh sĩ bỏ trốn quá nửa. Kỳ nầy, Quyên sẽ bắt sống bọn Điền Kỵ để rửa cái hận Tương Lăng năm trước.

Nói xong, Bàng Quyên chọn 2 vạn tinh binh tiến gấp đánh quân Tề, còn đại binh từ từ đi sau.

Tôn Tẫn dọ biết tin đó, tính toán và dự kiến đoàn quân của Bàng Quyên sẽ đến Mã Lăng vào lúc tối. Đường Mã Lăng ở giữa hai trái núi có cây cối um tùm, rất dễ phục binh. Tôn Tẫn sai chặt cây ngã ngang để chẹn lối đi, chỉ chừa một cây to giữa đường, cho cạo sạch một một ô vuông vỏ cây ở phía Đông, rồi dùng than viết lên đó mấy chữ : “ Quân Sư Tôn bảo : Bàng Quyên chết tại cây nầy.”

Tôn Tẫn sai bộ tướng Viên Đạt, Độc Cô Trần, kén 5000 quân cung nỏ, mai phục 2 bên tả hữu Mã Lăng, dặn kỹ hễ nơi gốc cây có ánh lửa phát ra thì nhất tề nhắm vào đó bắn.

Lại sai Điền Anh dẫn 1 vạn quân mai phục cách Mã Lăng 3 dặm chẹn đường quân Ngụy.

Tôn Tẫn phân phát binh xong thì cùng Điền Kỵ dẫn binh còn lại lên đóng phía Bắc để  dự bị tiếp ứng.

Bàng Quyên kéo binh đến Mã Lăng thì Trời vừa tối, thấy cây cối bị đốn ngã nằm ngổn ngang, cho rằng quân Tề sợ quân Ngụy đuổi theo kịp nên đốn cây cản đường như thế.

Bàng Quyên cho thu dọn cây cối, bỗng thấy có một cây giữa đường, gần nơi gốc đẽo trắng, có viết chữ nhưng Trời tối không thấy rõ. Bàng Quyên sai một tên lính châm lửa lên xem, Bàng Quyên đọc xong mấy chữ thì la lên :
-  Ôi ! Ta mắc mưu thằng què rồi !

Vừa la xong thì có cả muôn mũi tên từ  nỏ bắn ra, quân Ngụy chết thôi vô số. Bàng Quyên bị loạn tên trọng thương, liệu không thoát được, bèn rút kiếm tự  đâm cổ chết.

Cuộc đời của Bàng Quyên đúng y như lời của Quỉ Cốc Tiên Sinh đã nói trước : Ngươi sẽ vì lừa người mà bị người lừa lại, gặp dê thì vinh, gặp ngựa thì hỏng. Bàng Quyên chết tại Mã Lăng. (Mã là ngựa).

Giết xong Bàng Quyên rồi, Tôn Tẫn xin với vua Tề cho về ẩn dật tu luyện ở núi Thạch Lư. Một năm sau, không còn ai biết Tôn Tẫn ở đâu nữa. Sau nầy được biết Tôn Tẫn tu thành Tiên, hiệu là Liễu Nhứt Chơn Nhơn, ở động Thiên Thai.

Sau đây là bài thi của Liễu Nhứt Chơn Nhơn giáng cơ tại Phạm Nghiệp, ngày 4-12-Ất Hợi (dl 29-12-1935), Đức Hộ Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo phò loan :
Thiên Thai văng vẳng tiếng tri âm,
Đạp máy âm dương đến cõi phàm.
Lược sách binh thơ dâng bửu bối,
Bao trùm hậu khí giúp nhà Nam.

                        Hộ Pháp Thiên Tôn, xin nghe thi :
Địa hoàn chuyển biến đổi dư đồ,
Diệt  tận  văn  minh  của đạo Tô.
Phân  đảnh  Á  Âu chia Bắc Hải,
Lập  triều  Anh Mỹ đóng Tây đô.
Hoàng quyền nghiêng ngửa chiều dân quốc,
Đế  Pháp  chơi  vơi  thấy bạch cờ.
Thắng bại một trường lưu huyết trận,
Thừa nguy Việt mới định  xa thơ.

4 . Phật Nhiên Đăng - Công Chúa Diệu Thiện

Theo các kinh sách truyền lại thì Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có 33 kiếp giáng trần, khi thì làm nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì giáng sanh vào nhà cao sang quyền quí, khi thì vào nơi bần cùng khốn khổ.

Có 2 kiếp giáng trần làm phụ nữ của Ngài được người đời truyền tụng. Đó là kiếp thứ 10, Ngài giáng trần là Thị Kính ở nước Cao Ly, tu hành đắc đạo gọi là : Quan Âm Thị Kính. Kiếp chót Ngài giáng trần ở Ấn Độ là Công Chúa Diệu Thiện, cũng tu hành đắc đạo gọi là : Quan Âm Diệu Thiện.

 Công Chúa Diệu Thiện là con của vua Linh Ưu, nước Hưng Lâm, một tiểu quốc của Ấn Độ, ở về phía Đông.

Từ ngày nhà vua lên ngôi đến nay đã 40 năm mà Hoàng Hậu Bửu Đức không sanh đứa con nào. Nhà vua cùng Hoàng Hậu lên núi Huê Sơn cầu tự. Ít lâu sau, Hoàng Hậu thọ thai sanh được một nàng Công Chúa, đặt tên Diệu Thanh. Sau đó lại tiếp tục có thai sanh ra Công Chúa Diệu Âm và Công Chúa Diệu Thiện.

Ba nàng Công Chúa lớn lên, nhà vua định hôn cho 2 nàng Diệu Thanh và Diệu Âm với 2 vị quan tài giỏi của triều đình, còn nàng Diệu Thiện thì nhứt định không chịu lấy chồng, mà lại xin phép vua cha cho xuất gia tu hành.

Vua Linh Ưu không bằng lòng, đày nàng vào Huê Viên gánh nước tưới hoa cực khổ, đồng thời nhờ người khuyến dụ nàng bỏ ý định đi tu, nghe lời vua cha, chịu lấy chồng. Nhưng nàng nhứt định không đổi ý, khiến vua Linh Ưu tức giận.

Hoàng Hậu rất đau lòng, xin vua cho Diệu Thiện vào tu    chùa Bạch Tước. Vua chấp thuận nhưng ngầm ra lịnh cho  các  tăng  ni  trong  chùa,  bắt  Diệu  Thiện  làm  những công việc nặng nhọc, để nàng ngã lòng, sớm trở về cung nội.

Diệu Thiện vẫn rán sức làm đầy đủ bổn phận, dầu rất cực khổ nhưng không cất tiếng than.

Nhà vua thấy cách nầy thất bại nên sai quân lính đốt chùa để  Diệu Thiện không còn nơi tu hành. Các tăng ni hốt hoảng lo chạy thoát thân, Công Chúa Diệu Thiện vẫn bình tỉnh, nàng cầu nguyện rồi rút trâm chích lưỡi phun máu lên không trung. Tức thì mây đen hiện ra, giây lát mưa tuôn xối xả dập tắt đám lửa. Quân lính đều kinh ngạc.

Nhà vua không vì sự mầu nhiệm đó mà hối hận việc làm, lại bắt Diệu Thiện về triều, tổ chức các cuộc đàn hát vui chơi cho Diệu Thiện say mê, bỏ việc tu hành. Nhưng vua cha vẫn thất bại trước đạo tâm vững chắc của nàng Công Chúa út.

Quá tức giận, vua Linh Ưu ra lịnh tối hậu cho Công Chúa Diệu Thiện phải chọn 1 trong 2 điều : Một là nghe lời vua cha lập gia thất, bỏ việc tu hành; hai là chịu xử trảm.

Diệu Thiện nhứt quyết chịu chết chớ không bỏ tu hành.

Thần Hoàng bay về Trời tâu bày cho Thượng Đế rõ, và Đức Thượng Đế ra lịnh cho Thần phải lo bảo hộ Diệu Thiện.

Diệu Thiện bị đưa ra pháp trường hành quyết. Khi đao phủ đưa đao lên định chém thì đao gãy nát, lại lấy cung ra bắn tên cho chết thì tên vừa tới Diệu Thiện, tên bỗng gãy làm hai. Kẻ hành quyết không giết được Diệu Thiện bằng 2 cách trên, liền đến siết cổ Diệu Thiện.

Bỗng cuồng phong nổi lên, cát bay đá chạy, Thần Hoàng hóa thành mãnh hổ cõng Diệu Thiện chạy tuốt vào rừng. Các quan giám sát bị một phen kinh khủng, trở về triều tâu lại. Vua Linh Ưu không chút nao núng, nói Công chúa bất hiếu nên bị cọp tha mất xác.

Công Chúa Diệu Thiện tỉnh dậy thấy mình đang nằm trong rừng vắng vẻ, không biết phải làm sao và đi phương nào.

Đức Phật Nhiên Đăng hiện ra đứng trên mây, bảo nàng Diệu Thiện hãy đi ra Nam Hải, đến núi Phổ Đà tu hành thêm thì sau nầy sẽ đắc quả Như Lai. Muốn đến đó phải trải 3000 dặm đường. Đức Phật tặng nàng một trái Đào Tiên, ăn vào không biết đói khát trọn năm, mà còn được khỏe mạnh.

Diệu Thiện thọ lãnh và bái tạ Phật, tìm đường đi Nam Hải. Thái Bạch Kim Tinh hiện xuống, truyền Thần Hoàng biến ra Thần hổ, cõng Diệu Thiện đến Phổ Đà Sơn. Tại đây, Diệu Thiện tu thiền định 9 năm, đạo pháp đạt được cao siêu.

Ngày 19 tháng 2 năm ấy, là ngày thành đạo của Công Chúa Diệu Thiện, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến chúc mừng và xưng tụng công đức của một vị Bồ Tát mới đắc đạo.

Công Chúa Diệu Thiện ngự trên tòa sen, hào quang sáng lòa, xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát.

Ngày kia, con gái của Thái Tử của Long Vương Nam Hải (thường gọi là Long Nữ) hóa làm con cá dạo chơi nơi mé biển, bị một ông chài bắt được, đem ra chợ bán. Đức Quan Âm biết được, sai Thiện Tài đồng tử  hóa ra một thường nhơn đến mua con cá ấy rồi đem ra biển Nam thả xuống nước. Nam Hải Long Vương nhớ ơn Bồ Tát cứu cháu nội mình nên sai Long Nữ đem dâng Bồ Tát một cục ngọc Dạ Minh Châu, để  Bồ Tát đọc sách ban đêm mà không cần đốt đèn. Long Nữ dâng ngọc xong, cảm phục công đức của Bồ Tát nên xin qui y theo hầu Bồ Tát, được Bồ Tát thâu làm đệ tử .

Nhắc lại, từ khi vua Linh Ưu ra lịnh giết chết Diệu Thiện, nhà vua bị một chứng bịnh nan y vô cùng khổ sở, bị lở lói khắp mình mẩy, đau nhức và hôi thối rất khó chịu. Nhiều danh  y đến điều trị, nhưng đều không khỏi bịnh.

Đức Quan Âm ở Phổ Đà Sơn Nam Hải biết việc đó, nên giả làm một vị sư già, đến kinh thành, xin trị bịnh cho nhà vua. Sau khi xem mạch, vị sư già tâu :
- Bịnh của Bệ hạ do oan nghiệt nhập với chất độc của đồ cao lương mỹ vị và tửu nhục hằng ngày mà phát sanh ra ngoài thành bịnh nan y. Nếu muốn chữa lành thì phải có đôi mắt và đôi cánh tay của một đứa con thì mới chế thuốc được.

Nghe vậy, nhà vua vội đòi 2 vị Công chúa Diệu Thanh và Diệu Âm vào, lập lại lời nói của sư già, hỏi xem có đứa con nào chịu hy sinh cho vua cha không. Hai Công chúa đồng tâu :
- Xin phụ vương đừng nghe lời ông sãi mầm nầy. Một người bị chặt 2 tay, bị móc 2 mắt thì dù có sống cũng chẳng ra gì. Chẳng lẽ cứu một người mà hại một người hay sao ?

 Vua Linh Ưu chợt nhớ tới Công chúa Diệu Thiện, liền than : “Nếu có Diệu Thiện thì chắc nó sẽ hy sinh cho Trẫm.”

Vị sư già liền tâu :
- Bần tăng biết rõ Công chúa Diệu Thiện còn sống ở Phổ Đà Sơn biển  Nam Hải. Xin nhà vua cho người ra đó, tìm Công chúa, may ra chế được thuốc cho Bệ hạ. Bần tăng để  thuốc lại đây, chừng nào có đôi mắt và đôi tay thì nhập với thuốc nấu chung lại, trong uống ngoài thoa sẽ hết bịnh ngay.

Vị sư già nói xong thì từ giã vua Linh Ưu trở về núi.

Nhà vua sai sứ giả đi Nam Hải. Khi đến Phổ Đà Sơn, một đồng tử bưng một mâm phủ vải trắng thấm ướt máu tươi, trong đó có 2 mắt và 2 tay của DiệuThiện, trao cho sứ giả.

Hoàng Hậu thấy sứ giả đem 2 mắt và 2 tay của Diệu Thiện về còn dính máu tươi thì khóc mướt. Thị vệ liền đem nấu với thuốc do vị sư già để  lại, cho nhà vua uống phân nửa, còn phân nữa thoa ngoài da. Nhà vua liền hết bịnh.

Vua Linh Ưu và Hoàng Hậu cảm ơn nghĩa của Diệu Thiện, nên quyết định đi Phổ Đà Sơn một chuyến để  tạ ơn. Xa giá nhà vua đi gặp biết bao nguy hiểm, nhưng đều được Bồ Tát dùng thần thông cứu thoát. Đến nơi, vua và Hoàng Hậu thấy một vị Bồ Tát ngự trên tòa sen, mất 2 mắt và 2 tay, thì biết đó là Diệu Thiện, con của mình, nên vô cùng xúc động, nhớ lại mà ăn năn sám hối tội tình, quì xuống cầu nguyện với Trời Phật cho Công chúa được lành lặn như xưa.

Sự thành tâm cầu nguyện của vua và Hoàng Hậu được hiển linh. Bồ Tát Diệu Thiện liền hiện hào quang với đầy đủ 2 mắt và 2 tay. Lúc ấy vua và Hoàng Hậu đều giác ngộ, quyết rời bỏ điện ngọc ngai vàng, đem mình vào chốn thiền môn, tu hành cầu giải thoát.

5 . Khổng Tử tác Xuân Thu

Khổng Tử  tác Xuân Thu là Đức Khổng Tử  làm ra sách Xuân Thu để  bày tỏ cái đạo của Ngài. “ Kinh Xuân Thu là bộ sách của Khổng Tử làm ra. Ngài theo lối văn làm sử mà chép truyện nước Lỗ, kể từ  Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công. Trong sách ấy chép cả việc nhà Chu  (Châu) và việc các nước chư Hầu.

Xem hình thể bề ngoài thì là một bộ sử biên niên, lời lẽ vắt tắt, lắm chỗ hình như không có ý nghĩa gì cả, nhưng xét rõ đến tinh thần thì thật là bộ sách triết lý về việc chánh trị.

Mạnh Tử là người đã hiểu rõ nghĩa Kinh Xuân Thu, nói : “ Kinh Thi hết, nhiên hậu Kinh Xuân Thu mới làm ra. Việc ở trong sách  Xuân Thu là việc Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, văn trong sách là văn sử. Nghĩa thì Khổng Tử nói rằng : Khâu nầy trộm lấy đó vậy. Nghĩa là Ngài lấy truyện ở trong các sách nước Tấn, nước Sở, nước Lỗ mà biểu thị cái ý nghĩa của Ngài muốn bày tỏ ra. Thời Xuân Thu bấy giờ  xã hội Tàu loạn lạc, vua các nước chư Hầu làm nhiều điều bạo ngược và ai cũng muốn lấn quyền Thiên tử nhà Châu. Ngài không muốn để sự phê bình phán đoán của Ngài đụng chạm đến quyền thế của những người đương thời, vả lại cái học  sâu xa của Ngài là cái học Tâm truyền, cho nên Ngài mượn lối văn làm sử, nói việc đã qua để  ngụ cái vi ý của Ngài.”

“ Sách Trang Tử  (Nam Hoa Kinh) ở thiên Thiên hạ viết rằng : Xuân Thu dĩ đạo danh phận (Sách Xuân Thu là để  nói cái đạo danh và phận).

Vậy cứ theo ý kiến của những nhà đại hiền triết đời Chiến quốc thì sách Xuân Thu thật là cuốn sách để tâm truyền cái đại nghĩa danh và phận về đường luân lý và chánh trị, chớ không phải là sách chép sử như người ta thường vẫn hiểu lầm.

Sách  Xuân Thu  có 3 chủ nghĩa là : * Chính danh tự.  *  Định danh phận. *  Ngụ bao biếm. (Bao biếm là khen chê)

Chủ ý của Khổng Tử là tôn vua nhà Châu. Dẫu đời bấy giờ các nước chư Hầu có nhiều người không biết đến vua nhà Châu đi nữa, nhưng Ngài chép ngay đầu sách là: XUÂN VƯƠNG CHÁNH NGUYỆT, nghĩa là : Mùa Xuân, tháng Giêng,  vua nhà Châu, để  tỏ cái ý vẫn nhận nhà Châu làm chủ thiên hạ. . .

Xem Kinh Xuân Thu thì phải biết ý nghĩa và vị trí từng chữ. Mỗi chữ là để  định rõ người tà người chánh, như Thiên tử chết thì chép là băng, vua chư Hầu chết thì chép chữ hoăng, ông vua đã cướp ngôi làm sự tiếm đoạt mà chết thì chép chữ tồ, người làm quan ngay chánh chết thì chép chữ tốt, người làm quan gian nịnh chết thì chép chữ  tưû.

Người nào có danh phận chánh đáng thì chép rõ chức phẩm và tên tự, người nào mà danh phận không chánh đáng thì dẫu có chức phẩm gì, cũng chỉ chép có một tên tục mà thôi.

Sự khen chê của Ngài cốt ở những chữ Ngài dùng. Có khi chỉ vì một chữ chê mà thành ra tiếng xấu muôn đời, một chữ khen mà được tiếng thơm thiên cổ.

Bởi thế, người đời sau bàn Kinh Xuân Thu nói rằng : Nhứt tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhứt tự chi biếm, nhục ư phủ việt. (Một chữ khen thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn phải tội rìu búa.)

Vì Khổng Tử thấy đời suy, đạo mờ, các tà thuyết dấy lên, những sự hung bạo rất nhiều, con giết cha, tôi giết vua, cho nên Ngài lấy làm lo sợ mà làm ra bộ Xuân Thu, để  định cái Chánh thể, chủ ở sự Chánh danh, định phận cho hợp đạo lý và cho rõ sự thưởng phạt.

Sách Xuân Thu là sách định chế độ của quân chủ. Khổng Tử biết rằng trong một nước không thể không có quyền quân chủ, song Ngài lại sợ rằng những người giữ quyền quân chủ thường hay lạm dụng thế lực của mình mà làm những điều tàn bạo. Vậy nên Ngài mới đem cái nghĩa, lấy cái nguyên của dương khí mà thống trị việc Trời, lấy Trời mà thống trị các vua chúa, và bày tỏ ra một cách đặc biệt ở sách Xuân Thu để  hạn chế cái quyền của vị nhân quân. Nhưng vì những người làm vua làm chúa đã dễ mấy người hiểu được rõ cái lẽ thâm viễn siêu việt ấy, cho nên Ngài mới lấy những điều tai dị như : Nhựt thực, Nguyệt thực, Sao chổi và việc Động đất, vv. . . là những điều hiển nhiên ai cũng có thể trông thấy được, để  cảnh giới những bậc nhơn quân. Ngài muốn những bậc ấy phải lấy những điềm lạ ấy mà kinh sợ, tự mình tu tỉnh và làm những điều nhân nghĩa. Đó là cái vi ý trong sách Xuân Thu.

Khổng Tử còn sợ người ta không hiểu rõ cái ý  ấy, cho nên Ngài nói : Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ ! (Người biết ta là cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu, người trách tội ta là cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu).

Biết Ngài là biết cái bụng của Ngài sợ những tà thuyết, những bạo hành càng ngày càng nhiều ra, cho nên Ngài bày tỏ cái phương pháp chánh trị để  đổi loạn ra trị, và để  trừng trị những kẻ tàn bạo gian ác.

Trách tội Ngài là vì không hiểu cái ý của Ngài mà cho Ngài là tiếm làm cái việc của Thiên tử, hoặc là ngờ Ngài dùng những điều tai dị để  làm mê hoặc người đời.

Học giả nên chú ý và hiểu cái thâm ý và cái khổ tâm của Ngài trong sách Xuân Thu. Về sau Hán Nho thường không hiểu rõ cái phần uyên thâm ấy, chú trọng ở cái thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, gây thành mối mê tín, thật là sai cái ý nghĩa trong sách Xuân Thu vậy.

Người thường không biết, lấy con mắt xem sử mà xem thì không hiểu bộ sách ấy ích lợi về điều gì. Song người nào biết, lấy cái tinh thần mà lãnh hội cái thâm ý trong sách ấy, thì thấy có nhiều ý nghĩa rất sâu xa.” (Nho Giáo Trần trọng Kim)

6 . Sĩ-Đạt-Ta vượt thành đi tu

Đức Phật Thích Ca, thế danh là Sĩ-Đạt-Ta (Siddattha, có nghĩa là người được toại nguyện), họ là Cồ Đàm (Gotama) sau đổi họ lại là Thích Ca (Sakya). Ngài giáng sanh vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch năm 623 trước Chúa giáng sinh, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) trong thủ đô Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) của một nước nhỏ thuộc miền Bắc Ấn Độ, nằm giáp ranh với xứ Népal ngày nay.(Về sau, Đại Hội Phật Giáo Thế Giới đổi ngày giáng sanh của Đức Phật là ngày trăng tròn 15 tháng 4 âm lịch, và làm Lễ Phật Đản vào ngày nầy).

Ngài là Hoàng tử, con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma-Da (Maha Maya). Sau khi hạ sanh Hoàng tử được 7 ngày, Hoàng Hậu từ trần, trở về Cung Tiên. Em ruột của Bà là Maha Pajapati cũng kết duyên với vua Tịnh Phạn, thay Bà nuôi dưởng Hoàng tử  đến ngày khôn lớn.

Hoàng tử Sĩ Đạt Ta lớn lên hưởng được sự giáo dục hoàn hảo của bực vua chúa để  sau nầy nối ngôi vua cha cai trị đất nước. Ngài trở thành vị Thái tử thông minh xuất chúng, văn võ toàn tài.

Khi được 16 tuổi, Thái tử kết duyên với Công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhara), một người em bà con cô cậu, cùng tuổi với Ngài. Trong 13 năm chung sống sau ngày hôn lễ, Thái tử sống cuộc đời vương giả, không hay biết chi các nỗi thống khổ của dân chúng ở bên ngoài cung điện.

Một ngày đẹp Trời, Thái tử cùng các quan hầu cận đi du ngoạn bên ngoài Hoàng cung để ngắm xem thế giới bên ngoài và tiếp xúc dân chúng. Ngài chứng kiến những nỗi vất vả của kiếp sống con người phải lo làm lụng, tìm phương sanh sống. Dân chúng vì sự sống mà tranh giành giết hại lẫn nhau.

Một ngày khác, Thái tử  còn  chứng kiến được các cảnh khổ của kiếp sống con người như : Ốm đau, già yếu, chết chóc biệt ly. Vậy thì đời sống của con người có chi sung sướng ? Ngài tự nghĩ rằng, chỉ riêng phần Ngài là một Thái tử, sắp sửa lên làm vua thì nghèo và đói Ngài không cần lo, nhưng còn già yếu, bịnh tật, rồi chết thì không ai tránh khỏi.

 Ngài âm thầm lập chí tìm phương giải khổ cho nhơn sanh. Tình cờ, Ngài gặp một tu sĩ ngoài cửa Hoàng thành, với dáng điệu rất ung dung, mặt mày thơ thới vô tư. Ngài đến hỏi chuyện thì được biết vị tu sĩ ấy xuất gia đi tu học đạo, quyết trừ hết ác căn, lấy lòng từ bi kềm chế dục vọng, hộ niệm chúng sanh không nhiễm theo thế tục, để  trước là giải thoát cho chính mình, sau là giải thoát cho chúng sanh. Nghe vậy, Thái tử  rất hoan hỷ và nhất quyết sẽ làm như  vị tu sĩ ấy.

Vua Tịnh Phạn biết được ý của Thái tử muốn đi tu, nhà vua không bằng lòng và tìm mọi cách để  ngăn cản.

Giữa lúc ấy, Công chúa Da-Du-Đà-La, vợ của Thái tử  vừa sanh được một Hoàng nam. Thái tử không cảm thấy vui mừng mà lại than rằng : “Lại thêm một sợi dây trói buộc.”

Do đó, vua Tịnh Phạn đặt tên cho cháu nội là Ra-Hầu-La (Rahula), tiếng Phạn có nghĩa là trở ngại.

Vào năm Thái tử  29 tuổi, đêm mùng 7 tháng 2, trong lúc vợ, con, và quan binh trong Hoàng thành ngủ say sau một buổi tiệc vui tưng bừng múa hát, Thái tử  gọi quan hầu cận Xa-Nặc (Chana) thắng ngựa Kiền trắc (Kanthaka) cho Thái tử trốn khỏi Hoàng cung, đi vào rừng núi thanh vắng để tầm Đạo.

Nhờ ngựa Kiền trắc chạy rất mau, nên đêm đó nó đưa Thái tử đi rất xa. Thái tử vỗ đầu khen nó chạy thật hay, mạnh mẽ và mau lẹ  như  một vị Thiên thần.

Thái tử tự mình cắt tóc, gỡ gươm trao cho Xa Nặc, bảo Xa Nặc dẫn ngựa Kiền trắc trở về tâu trình với phụ vương.

Thái tử cổi áo Thái tử đổi lấy áo thâm của một người thợ săn, rồi đi thẳng vào núi.

Vua Tịnh Phạn sai các Đại thần đi tìm Thái tử, khuyên Thái tử trở về triều, nhưng Thái tử nhứt định không đổi ý.

Thái tử tìm đến một Đạo sĩ rất lỗi lạc tên là Alarama Kalama để  xin thọ giáo. Ngài học hết giáo pháp của Alarama nhưng cảm thấy chưa đạt được cứu cánh. Ngài xin từ giã để  đi tìm một Đạo sĩ nổi tiếng khác có tên là  Uddaka Ramaputta. Ngài cũng học hết giáo pháp của Uddaka, nhưng vẫn chưa thấy được mục tiêu cứu cánh. Thái tử  nhận thấy rằng, không ai có đủ khả năng để  dẫn dắt Thái tử  thành tựu vì những vị mà Ngài vừa học vẫn chưa thoát khỏi vòng Vô minh.

Từ đó, Thái tử không tìm thầy học đạo nữa, mà tự mình đến chỗ thanh vắng suy tư tìm tòi Chơn lý.

Thái tử  gặp một nhóm 5 tu sĩ mà ông Kiều trần Như đứng đầu, theo ủng hộ Ngài thực hành lối tu khổ hạnh.

Thái tử tự khép mình vào một nếp sống cực kỳ kham khổ suốt 6 năm dài, đến một ngày kia, thân hình của Ngài chỉ còn da bọc xương, hơi thở yếu ớt gần như một xác chết, mà Ngài vẫn chưa thâu đoạt một kết quả đáng kể nào.

Buổi ấy cái thảm trạng sắp chết của Ngài hầu đến. Bỗng có một ông tiều mang một cây đàn đến gần chỗ Ngài ngồi, lên dây đàn rồi khảy một khúc rất hay, đến lúc hay nhất thì dây đàn bỗng đứt, tiếng đàn im bặt. Ông tiều lại nối dây, lên dây đàn trở lại rồi đờn. Tiếng đờn réo rắt thanh tao, đến khúc hay nhất thì bỗng dây đàn đứt nữa, cái hay không đạt. Ông tiều lại nối dây, lên dây rồi đờn lại, rồi đứt, rồi nối lại.

Thái tử đang trì định phải bực bội tỉnh hồn nói rằng :
- Ông đờn thì hay, mà lên dây chi cho cao quá, đến khúc hay thì dây đứt, thì cái hay đó phải hết mùi, rất đáng tiếc.

Ông tiều liền đáp :
- Cái đờn của tôi cũng giống như cái tu của Ông. Dây đờn của tôi lên caoquá nên đến chỗ hay thì đứt dây làmcái hay

của tiếng đàn hết mùi, giống như cái tu của  Ông,  nếu    đạt được cái cao siêu là cơ bất diệt đi nữa, thì nó cũng phải chết theo cái xác thân khô đét của Ông, còn ích chi cho đời, nên tôi cũng tiếc cho Ông lắm vậy !

        Lão tiều nói xong, liền xách đàn đi mất. (Trong kinh cho Lão tiều khảy đàn là một vị Phật hóa thân đến cảnh tỉnh Thái tử). Thái tử suy nghĩ mãi lời nói của ông tiều, chợt tỉnh giác, biết mình lầm theo lối tu khổ hạnh, chỉ làm suy giảm trí thức và mệt mỏi tinh thần. Thái tử thầm cám ơn ông tiều đến cảnh tỉnh mình, liền  dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh ép xác, cũng như 6 năm trước đây, Ngài dứt khoát từ bỏ đời sống lợi dưỡng. Ngài lại nhớ đến ngày lễ Hạ điền của vua cha trước kia, trong lúc mọi người đang lo làm lễ thì Thái tử đến dưới bóng mát của cây trâm, ngồi thiền định và đắc được Sơ Thiền. Ngài nhớ lại và thấy rõ ra rằng đó mới chính là con đường dẫn đến giác ngộ. Đó là con đường tu, không sống theo lợi dưỡng, mà cũng không sống quá khắc khổ, gọi là Trung Đạo.

Thái tử bắt đầu dùng trở lại các vật thực nuôi dưỡng xác thân. Ngài mệt nhọc lần đến bờ sông Ni-Liên-Thiền (một nhánh của sông Hằng) xuống tắm rửa sạch sẽ, rồi đi lên, và kiệt sức ngã vào một gốc cây bồ đề nằm bất tỉnh.

May mắn lúc đó có một thiện nữ bưng một bát sữa bột tìm đến cúng dường, gặp một ông đạo đang nằm thoi thóp dựa cội cây. Nàng đỡ ông đạo dậy rồi dâng bát sữa. Thái tử thọ lãnh, uống hết, rồi Ngài định tỉnh trở lại, thấy sức khỏe dần dần hồi phục, tinh thần sảng khoái.

Ngài tìm đến một gốc bồ đề to lớn, trải cỏ làm nệm để  ngồi thiền định, phát lời đại thệ : Nếu không thành đạo thì không rời khỏi chỗ nầy.

Trải qua 49 ngày đêm Thiền định, Ngài ngộ đạo, biết được nguyên nhân sanh tử của con người, tìm ra con đường giải thoát chúng sanh khỏi luân hồi khổ não. Ngài đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lấy hiệu Thích Ca Mâu Ni.

7 . Tô Huệ chức cẩm hồi văn

Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ có tài văn chương và có nghề thêu rất khéo. Năm nàng 20 tuổi, cha mẹ gả nàng cho chàng hàn sĩ tên Đậu Thao.

        Cưới nhau chưa được bao lâu thì đất nước bị giặc Phiên từ  phương Bắc kéo binh vào đánh phá Trung nguyên. Vua ra lịnh trưng binh, các thanh niên phải sung quân, lên đường chinh chiến, giữ gìn bờ cõi đất nước.

Đậu Thao, chồng của nàng Tô Huệ, cũng tuân lịnh vua, nhập ngũ tòng chinh.

Thời gian kéo dài ngót 3 năm, nàng Tô Huệ quá nhớ chồng, khiến dung nhan thêm tiều tụy. Đêm đêm bên ngọn đèn khuya leo lét, lòng mong nhớ chồng không nguôi, hồn thơ xúc động, nàng viết ra 10 bài thi tứ tuyệt, lời thơ đầy tình cảm nhớ nhung chan chứa, nàng cầu xin đấng quân vương xét cho hoàn cảnh của nàng, tha cho chồng trở về sum họp cùng nàng.

Nàng lại lấy một bức gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc dệt 10 bài thơ tứ tuyệt ấy lên bức gấm, đọc theo lối hình trôn ốc từ ngoài xoay tròn vào trung tâm bức gấm. Nàng thêu khéo, chữ hay, nên bức gấm trông rất đẹp.

Xong nàng đem dâng lên vua. Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng không ai đọc được, vua phải truyền gọi nàng Tô Huệ.

Đứng giữa triều đình, nàng Tô Huệ cất giọng ngâm 10 bài thơ, với một giọng não nùng bi thảm.
Nhà vua thương tài nàng nên đặc cách cho Đậu Thao trở về sum họp cùng nàng.
Bài thơ dệt trên gấm của nàng Tô Huệ được gọi là : CHỨC CẨM HỒI VĂN.

 Sau đây là 10 bài tứ tuyệt của Tô Huệ dệt trên gấm :
I . Quân thừa hoàng chiếu an biên thú,
Tống quân tống biệt hà kiều lộ.
Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn,
Mạc vong ân tình tiện trường khứ.

II . Hà kỳ nhứt khứ  âm tín đoạn,
Ý thiếp bình vi xuân bất noãn.
Quỳnh diêu giai hạ bích đài không,
San hô trướng lý hồng trần mãn.

III . Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,
Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
Nhứt tâm nguyện tác thương hải nguyệt,
Nhứt tâm nguyện tác lãnh đầu vân.

IV . Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện,
Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.
Phi lai phi khứ  đáo quân bàng,
Thiên lý vạn lý diêu tương kiến.

V .  Thiều thiều lộ viễn quan sơn cách,
Hận quân tái ngoại trường vi khách.
Khứ  thời tống biệt lư  diệp huỳnh,
Thùy tín kỷ kinh mai hoa bạch.

VI. Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,
Xuân ý thôi nhơn hướng thùy đạo.
Thùy dương mãn địa vị quân phan,
Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.

VII. Đình tiền xuân tảo chánh phân phương,
Bão đắc Tần tranh hướng họa đường.
Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,
Phụ ký tình thâm đáo sóc phương.

VIII. Sóc phương thiều đệ sơn hà việt,
Vạn lý âm thơ trường đoạn tuyệt.
Ngân trang chẩm thượng lệ triêm y,
Kim lũ la thường hoa giai liệt.

IX. Tam xuân hồng nhạn độ giang thinh,
Thử thị ly nhơn đoạn trường tình.
Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,
Oán kết tiên thành khúc vị thành.

X. Quân kim ức thiếp trọng như san,
Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn.
Chức tương nhứt bổn hiến Thiên Tử,
Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn ./.

GIẢI NGHĨA TỪNG CÂU :
 C.1 : Chàng tuân chiếu chỉ của vua đi lính thú giữ yên biên giới.
C.2 : Đưa chàng tiễn biệt lối cầu sông.
C.3 : Ngậm sầu nén lệ nói với chàng,
C.4 : Chớ quên ân tình thuận tiện đi xa.
C.5 : Sao lần đi bặt vô âm tín,
C.6 : Lòng của thiếp ở trong phòng the không ấm hơi xuân.
C.7 : Dưới thềm Quỳnh dao bỏ không, mọc rêu xanh.
C.8 : Nơi màn San hô đầy bụi đỏ.
C.9 : Thử thời đường ly biệt, mỗi khi nghĩ tới lòng lo sợ.
C.10 : Đem lòng làm sao gởi đến gặp chàng ?
C.11 : Một lòng nguyện làm trăng ngoài biển xanh,
C.12 : Một lòng nguyện làm mây trên đầu núi.
C.13 : Mây trên núi năm nào cũng gặp chàng,
C.14 : Trăng ngoài biển năm nào cũng chiếu khắp biên thùy.
C.15 : Bay đi bay lại đến bên cạnh chàng,
C.16 : Ngàn muôn dặm xa nhìn thấy nhau,
C.17 : Xa xôi, đường xa, quan san cách trở,
C.18 : Hận chàng ở ngoài biên giới làm khách lâu dài,
C.19 : Khi đi tiễn chàng thì lá cây lau vàng,
C.20 : Ai tin mấy độ hoa mai trắng,
C.21 : Trăm hoa tan tác sớm gặp xuân,
C.22 : Ý xuân thúc giục người hướng về đường nào ?
C.23 : Nhành dương rủ xuống đầy đất vì chàng níu xuống,
C.24 : Hoa rơi đầy đất không ai quét.
C.25 : Trước sân xuân sớm hoa thơm phức,
C.26 : Ôm được cây đàn Tần tranh hướng đến nhà vẽ,
C.27 : Vì chàng mà khảy khúc nhạc Giang Nam,
C.28 : Nhờ gởi mối tình thâm đến  phương Bắc,
C.29 : Phương Bắc xa xôi núi sông vượt qua,
C.30 : Ngàn dặm tin thơ cắt đứt đã lâu.
C.31 : Áo bạc trên gối nước mắt thấm vào áo,
C.32 : Tơ vàng, xiệm lụa hoa đều bị chia xé.
C.33 : Ba mùa xuân, chim hồng nhạn qua sông cất tiếng kêu,
C.34 : Ấy là ly biệt người, tình yêu đứt ruột.
C.35 : Dây đàn tranh chưa đứt, ruột đứt trước,
C.36 : Nỗi oán hờn kết thành trước khúc nhạc chưa thành.
C.37 : Nay chàng nhớ thiếp nặng như núi,
C.38 : Thiếp cũng nhớ chàng chẳng tạm yên.
C.39 : Dệt lụa một bức dâng lên Đức Vua,
C.40 : Cầu xin tha cho chồng thiếp kịp sớm trở về ./.

Diễn Nôm bằng thơ :
(của Hoàng Quang)

 I .  Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại,
Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông.
Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng,
Chớ tham chốn khác mà vong tình nầy.

II. Trông tin tức tới nay thăm thẳm,
Để  buồng hương chẳng ấm hơi xuân.
Từ  ngày đôi ngã cách phân,
Màn dần bụi bám, thềm dần rêu phong.

III.  Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ,
Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau.
Nguyện làm trăng giữa biển sâu,
Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao.

IV.  Trăng giữa biển năm nào cũng thấy,
Mây đầu non dầu mấy cũng thông.
Bay qua bay lại bên chồng,
Dầu ngàn muôn dặm, xa trông như gần.

V. Quan sơn ấy mấy lần trở cách,
Hềm nỗi chàng làm khách rất lâu.
Chàng đi mới ố bóng lau,
  nay  mấy  độ  trắng  màu hoa mai.

VI.   Hoa trăm thức xuân tươi hớn hở,
Xuân giục người than thở với ai ?
Liễu kia rủ những tơ dài,
Hoa kia rã cánh không người quét cho.

VII. Sân xuân sớm thơm tho trăm thức,
Chốn họa đường lựa bậc đàn tranh.
Giang Nam khúc nhạc đành rành,
Mượn đầu năm móng gởi tình sóc phương.

VIII. Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi,
Âm thư  nầy nhắn gởi không thông.
Gối riêng nước mắt tuôn dòng,
Xiêm  thêu  áo  vẽ  lâu  cùng  mục  tan.

IX.  Ba xuân tới, tiếng nhàn nhắn gởi,
Xuân  giục  người  bối rối như  tơ.
Năm dây còn đó sờ sờ,
Buồn đà đứt ruột, khảy chưa rồi đàn.

X. Chàng thương thiếp tình hơn núi nặng,
Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua.
Dệt đem bức gấm dâng vua,
Xót lòng dạ thiếp tha cho chàng về.


8 . Châu Văn Vương ngồi ngục

Vua Văn Vương (tên là Cơ Xương, trước làm chức Tây Bá Hầu) là vị vua khai sáng nhà Châu (Chu) vào thời Thượng cổ nước Tàu. Nhà Châu kéo dài được 867 năm kể từ năm 1122 đến năm 255 trước Tây lịch kỷ nguyên.

Thời vua Trụ nhà Ân, nước Tàu có tất cả 800 chư Hầu, được chia làm 4 Trấn theo 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi Trấn có một vị Tổng Trấn đứng đầu để  cai quản các chư Hầu trong phương đó, kể ra :
· Tổng Trấn Tây Kỳ là Tây Bá Hầu Cơ Xương.
· Tổng Trấn Đông Lỗ là Đông Bá Hầu Khương Hoàn Sở, là quốc trượng, cha của Khương Hoàng Hậu.
· Tổng Trấn Nam phương là Nam Bá Hầu  Ngạt  Sùng Võ.
· Tổng Trấn Bắc phương là Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.

Triều đình của vua Trụ lúc bấy giờ có 2 tay gian thần là Vưu Hồn và Bí Trọng, về phe Đắc Kỷ, ám hại Chánh Cung Khương Hoàng Hậu, để đưa Đắc Kỷ lên làm Hoàng Hậu, lại sợ 4 Trấn chư Hầu làm phản, nên tâu Vua Trụ xuống chiếu đòi 4 Tổng Trấn về triều đặng tìm cách giết chết.

Nói về Tây Bá Hầu Cơ Xương, sau khi tiếp được chiếu đòi của vua Trụ thì lo sắp đặt công việc triều đình, gọi con trưởng là Bá Ấp Khảo đến căn dặn :

- Hôm qua, Thiên sứ đem chiếu đòi cha về triều Thiên tử, cha có bói một quẻ thấy chuyến đi nầy dữ nhiều lành ít, dẫu không chết nhưng bị tai nạn 7 năm. Con ở lại Tây Kỳ phải noi theo lề luật trước mà làm, không nên đổi phép nước. Anh em phải hòa thuận, tôi chúa phải thương yêu, muốn làm việc gì phải tính kỹ lưỡng, khi dân nghèo phải xuất kho cứu giúp, dân no phải dạy dỗ, chớ nên khắc khe, đợi 7 năm mãn hạn cha về, chớ nên thăm viếng.

Thế rồi Tây Bá Hầu Cơ Xương theo sứ giả đi đến triều ca. Ba vị Tổng Trấn kia cũng vừa đến, đồng vào chầu vua Trụ.

Trước tiên, vua Trụ bắt tội Đông Bá Hầu Khương Hoàn Sở, truyền võ sĩ đem chém. Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ đứng ra can vua Trụ không được, tức giận mắng vua, bị vua Trụ bắt chém luôn. Tây Bá Hầu cũng can vua, can không được thì đành gạt lệ chớ không mắng vua, nên vua Trụ không có cớ để  giết. Còn Bắc Bá Hầu là Sùng Hầu Hổ, có công cất Lộc đài cho vua Trụ, lại a tòng theo đám nịnh thần, nên được yên thân.

Bọn Vưu Hồn và Bí Trọng thấy chưa có cớ để giết Tây Bá Hầu, nên không yên tâm, liền làm bộ tiễn đưa Tây Bá trở về Tây Kỳ để  tìm cách ám hại. Vưu Hồn nói với Tây Bá :
- Tôi nghe Hiền Hầu có tài bói quẻ Tiên Thiên hay lắm, xin xem giùm khí số của Bệ hạ ra sao ?

Lúc đó Tây Bá đã uống rượu tiễn đưa cũng khá nhiều, nên nổi hứng, quên việc đề phòng 2 tên gian nịnh, liền lấy quẻ ra gieo, nói :

- Khí số của Bệ hạ lu lám, sợ truyền chỉ một đời nầy thôi và bị chết một cách dữ dằn. Nay Thiên tử làm quá, ấy là thúc tới cho mau. Mình phận bề tôi không đành cạn tiếng.

Bí Trọng hỏi :
- Chẳng hay ứng tại năm nào ?
- Không ngoài 28 năm, ngày Giáp Tý năm Mậu Ngọ.

Vưu Hồn và Bí Trọng làm bộ than thở, nói tiếp :
- Xin Hiền Hầu coi giùm 2 đứa tôi sau nầy ra sao ?

Tây Bá liền gieo quẻ, ngẫm nghĩ hồi lâu, nói :
- Lạ lắm ! Tuy có nhiều cách chết nhưng 2 ông vì cớ nào bị tuyết sa, dưới bị giá lạnh mà chết.
- Tại chúng tôi có ngày sanh tháng đẻ thuộc thủy nên chết lạnh cũng mát. Còn Hiền Hầu thì sau chết cách nào ?
- Tôi sau nầy già yếu mang bịnh rồi chết.

 Hai tên gian thần Vưu Hồn và Bí Trọng như 2 con rắn độc, trở về triều thêu dệt thêm, tâu cùng vua Trụ :
- Hai tôi giả đến đưa tiễn Tây Bá để dò xét, Cơ Xương coi quẻ Tiên Thiên cho Bệ hạ, rồi oán trách mắng Bệ hạ, nói Bệ hạ chỉ có một đời nầy rồi mất nước trong 28 năm nữa, Bệ hạ bị chết một cách dữ dằn. Còn y thì già bịnh rồi chết. Rõ là lời nói mị, dối thế gạt dân, Bệ hạ để  làm chi loại đó.

Vua Trụ tức giận, liền sai Triều Điền theo bắt Tây Bá Hầu trở lại, không cho về nước.

Tây Bá Hầu, sau khi tỉnh rượu, nhớ lại cuộc đối đáp với Vưu Hồn và Bí Trọng thì giựt mình, biết mình lỡ lời, tai họa sắp đến nơi, liền thấy Triều Điền kéo binh tới, biết là cái hạn của mình không thể tránh khỏi, liền nói với các gia tướng :
- Chúng bây mau trở về Tây Kỳ, nói với Bá Ấp Khảo làm đúng lời ta dặn, ta bị nạn 7 năm, sau ta mãn hạn trở về, đừng thăm viếng.

Triều Điền đưa Tây Bá trở lại triều. Vua Trụ phán :
- Ngươi bày ra bói quẻ Tiên Thiên chi đó mà nhạo báng Trẫm, tội ấy không dung đặng. Ngươi chê Trẫm chết không đặng tử tế, còn ngươi chết già, không phải nói nhục Trẫm sao ? Nay Trẫm làm cho quẻ Tiên Thiên của ngươi không thiệt, ngươi chẳng đặng chết già cho mà coi.
Nói rồi truyền võ sĩ bắt Tây Bá đem chém.

Hoàng Phi Hổ, Tỷ Can và các đại thần thất kinh, tâu :
- Xin Bệ hạ tha cho Cơ Xương về nước, còn sách bói Tiên Thiên là của vua Phục Hy làm ra, không phải Cơ Xương bày đặt, cứ theo quẻ mà bàn, nói ngay nói thẳng chớ không phải như đứa tiểu nhân bịa chuyện. Xin Bệ hạ bỏ qua việc nhỏ kẻo hại việc lớn. Bởi Cơ Xương đức hạnh, chư Hầu kính trọng. Nếu Bệ hạ bảo Cơ Xương bày quẻ Tiên Thiên mà dối đời thì truyền bói thử, như bói sai thì bắt tội, bói trúng thì tha về.

 Vua Trụ thấy nhiều đại thần can gián, chưa thể giết Tây Bá, liền truyền Tây Bá bói thử một quẻ xem trong triều có việc chi gần thấy. Tây Bá vâng lịnh, lấy tiền vàng xủ quẻ, thất kinh tâu rằng :
- Xin Bệ hạ thỉnh mấy vị thần chủ ra ngoài, kẻo giờ Ngọ trưa mai lửa cháy nhà Thái miếu.

Vua Trụ phán :
- Vậy thì giam đỡ Tây Bá một đêm, chờ giờ Ngọ ngày mai sẽ nghị.

Vua Trụ nói rồi thì bãi triều, các quan đồng lạy tạ ra về. Vua Trụ hỏi Vưu Hồn và Bí Trọng :
- Nếu ngày mai lửa cháy nhà Thái miếu thì tính sao ?

- Xin Bệ hạ truyền quan giữ Thái miếu, ngày mai cấm thắp hương, cấm đốt lửa, canh giữ nghiêm nhặt thì đâu cháy được.

Vua Trụ khen phải rồi y lời.
Đến giờ Ngọ ngày mai, các quan đều tụ tập rất đông chờ xem. Đúng giờ Ngọ rồi mà chưa thấy lửa cháy, ai cũng lo sợ cho Tây Bá phen nầy phải chết. Bỗng tiếng sấm nổ thinh không vang Trời, ngọn lửa phát ra, liền có quan vào báo :

- Nhà Thái miếu bắt lửa cháy hết rồi.

Các quan đều hoảng sợ. Tỷ Can than : “ Lửa đốt hết nhà Thái miếu, ắt cơ nghiệp Thành Thang không còn.”

Vua Trụ nghe tin, hoảng sợ bất tỉnh, giây lâu nói :
- Cơ Xương quả thật là Thánh nhân, biết liệu làm sao ?

Bí Trọng tâu :
- Cơ Xương quá tài giỏi, không nên cho về nước để  phòng hậu hoạn. Bệ hạ chỉ tha chết nhưng buộc Cơ Xương phải ở thành Dũ Lý, đợi yên việc nước sẽ cho về Tây Kỳ.
Vua Trụ lâm trào truyền lịnh  y như vậy.
Dân chúng trong thành Dũ Lý hay tin, đem lễ vật đón rước Tây Bá vào thành, nói rằng :
- Nay có Thánh nhân đến đây, mừng biết chừng nào !
Tây Bá bị buộc ở nơi Dũ Lý chớ không tù tội chi, nên Ông lấy điều lễ nghĩa dạy dân, cả thành đều mến đức.

Ông dùng thời giờ nhàn rỗi để tâm nghiên cứu Bát Quái Tiên Thiên của vua Phục Hy, Hà Đồ, Lạc Thơ, rồi Ông chế ra Bát Quái Hậu Thiên bằng cách thay đổi vị trí các quẻ, phối hợp với Ngũ Hành để  giải thích về vạn vật hữu hình.

Vua Phục Hy đặt ra 64 quẻ Tiên Thiên nhưng không có văn tự giải thích. Tây Bá (sau nầy là vua Văn Vương) nghiên cứu, viết ra Thoán Từ  giải thích ý nghĩa cát hung của mỗi quẻ.

Nhờ đó, ông biết rõ mệnh Trời, tâm hồn thanh thản, an phận vui theo mệnh Trời, không oán trách vua.
  túng  bảy  năm  thành    Lý,
Điểm trang một tập quẻ Tiên Thiên.
Dạy  đời muôn việc điềm hung kiết,
Để  tiếng ngàn thu bậc Thánh Hiền.

Ngày qua tháng lại, Tây Bá ở Dũ Lý gần đúng 7 năm.

Ở Tây Kỳ, Bá Ấp Khảo nhớ thương cha than rằng :
- Vua cha bị nạn gần 7 năm. Đạo làm con không đi thăm sao phải. Nay ta tính đem 3 vật báu của ông bà để  lại dâng cho Trụ Vương, chuộc tội cho cha về nước.

Táng Nghi Sanh và các quan can gián hoài mà không được. Bá Ấp Khảo quyết  ý, vào cung thưa với mẹ. Mẹ hỏi :
- Nếu con đi thăm cha, việc nước con giao cho ai ?

- Em con là Cơ Phát coi việc triều đình, việc văn có Táng Nghi Sanh, việc võ có Nam Cung Hoát.
Bá Ấp Khảo từ giã mẹ cùng các em và các quan, đem 3 vật báu đến thẳng triều ca, ra mắt Thừa Tướng Tỷ Can nói :
- Tôi có mang theo 3 vật báu là : Thất Hương xa, Tỉnh tửu chiên, con Bạch viên, 3 vật báu ấy lưu truyền từ Thỉ Tổ Đản Phụ tới nay, tôi lại chọn 5 cặp mỹ nhơn cùng đem đến dâng lên Thiên tử  chuộc tội cho cha, xin Thừa Tướng giúp đỡ.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] [ 7 ]  8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét