Ðại Ðạo Giáo Lý & Triết Lý - 2 / 6 Hiền Tài. Trần Văn Rạng

Thời thượng ngươn còn gọi là ngươn tạo hóa, tức là ngươn gầy dựng vũ trụ. "Thầy lại phân tính Thầy mà sanh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm" (TN2, tr.62) khởi nguyên vũ trụ còn hỗn độn rồi phân chia âm dương, trái đất nguội dần nhăn nheo thành núi biển sông hồ đất đá. Mặt đất ổn định, các loài cây cỏ xuất hiện, sau đó mới có các giống thú và chim muông,
cuối cùng thì loài người mới xuất hiện (1) giai đoạn này kéo dài trong nhiều tỷ năm loài người khó phân biệt nổi. (2)

 (1) Theo thuyết tiến hóa của Darwin, con người do loài hầu nhân (homo sapiens) hóa thành. Theo Thần học Cao Đài, loài thú nhờ tu luyện mà chuyển hóa thành người (xem ở sau) rồi thành Thần, Thánh …
(2) Đến ngày nay các nhà bác học Mỹ, Liên Xô vẫn còn tranh cãi về sự xuất hiện của loài người. Bác học Mỹ cho loài người xuất hiện cách đây trên triệu năm. Bác học Liên Xô cho trên 600 năm.

Con người còn mới hóa sinh còn thuần phát thiên lương, tương thân tương ái, sống hòa hiệp trên dưới, không xâm lấn của nhau vì của cải thiên nhiên còn nhiều. Họ sống chung cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt. Khí thiên nhiên còn trong lành không bị ô nhiễm khói nhà máy, nên con người cộng hưởng thanh nhàn khoái lạc và vui say mùi Đạo. Lẽ đó, thời thượng ngươn (3) mới có tên là đời Thánh đức hay thời Thượng Đức nên cũng gọi là ngươn Thánh Đức.

Thời Trung Đức nối tiếp thời thượng ngươn, lòng người bất nhứt, thâm hiểm, nhiều nết xấu, tật hư, đánh mất thiên lương, cậy sức mình mà bức hiếp lẫn nhau, tương sát, tương tàn, mạnh còn yếu mất, mới sanh ra biết bao trường quyết chiến không kể đồng loại, đồng chủng cùng một nguồn gốc mà ra.

Lẽ đó thời Trung ngươn (4) mới có tên là đời Thượng lực, nên còn gọi là ngươn tranh đấu.

Thời hạ ngươn tiếp nối sự đấu tranh ngày càng ác liệt, ghê tởm, con người mưu mô hơn, chê sức mạnh mà dùng trí não, nên mới tạo ra chước quỷ mưu tà, kế sâu bẫy độc tàn hại lẫn nhau. Nhờ chính sự tranh đua, các phát minh khoa học giúp con người tiến bộ, tạo ra vũ khí hạt nhân tàn sát lẫn nhau vô cùng.

Lẽ đó, thời Hạ ngươn (5) mới có tên đời mạt kiếp (ĐT, tr. 33-34). Nhưng Đức Chí Tôn không thể cho con cái Ngài tiêu diệt

(3) Thời Thượng ngươn trùng với bốn nguyên đại địa chất và một phần thời thượng cổ của lịch sử loài người. So sánh này nhằm cho người đọc dễ lãnh hội mà thôi.
(4) Thời Trung ngươn trùng với thời trung cổ trong lịch sử loài người
(5) Thời Hạ ngươn tương ứng với lịch sử thế giới cận đại và hiện đại

Nên chính Ngài dùng huyền diệu giáng trần để giáo Đạo mà cứu vớt sanh linh, thế nên Hạ ngươn này còn gọi là ngươn bảo tồn để phục tùng lại đời Thánh đức, sống chung cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt (TN1, tr.51) bằng cách tu theo con đường nào để được ân xá và cứu rỗi.
Tạo đời cải dữ ra hiền
Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.
(KL, tr.45)

Tóm lại, sự vận chuyển các tinh cầu (trong không gian) ba ngươn đạo (thời gian) và luật bảo tồn vạn vật hợp thành vũ trụ quan của Đạo Cao Đài; ba ngươn đạo là chu trình kín biểu hiện hết thịnh tới suy về hình thức, nhưng về nội dung thì thời Thánh Đức buổi đầu do thiên lương mà có thể khác xa đời Thánh Đức của đời bảo tồn do sự giáo hóa đạo đức đạt thành. Thế giới mai sau không có kiểu phong phú như hiện nay song có ngàn kiểu phong phú khác giúp con người phúc lạc sung sướng. Về của cải vật chất trong đời Thánh Đức buổi đầu vật thực thiên nhiên còn nhiều chỉ hái lượm, nhưng đến đời này nhờ tiến bộ khoa học, máy móc làm ra của cải nhiều, phẩm chất có khác nhau, nhưng chung qui vẫn là sự cộng đồng sinh hoạt và quyền lợi, hợp lẫn với sự cộng ưu hòa ái. Nói một cách khác, kỷ nguyên Thánh Đức là ngươn của thế giới đại đồng, xã hội này được tạo lập do con người biết thương yêu kính trọng nhau, không còn phân biệt màu da chủng tộc, giai cấp, tôn giáo con người có trình độ tiến hóa cao về đạo đức và lòng từ bi bác ái.

Phần Thứ Hai

QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI

CHƯƠNG I

CÁC GIAI ÐOẠN TẠO DỰNG CHÚNG SANH

Sự hình thành con người theo Thần học Cao Đài trãi qua 3 giai đoạn : Khởi đầu khí Hư vô sinh ra Đức Cao Đài, rồi Ngài tạo ra vạn vật, sau cùng mới phối hợp âm dương sanh ra con người.
Giai đoạn 1 : "Khi chưa có chi trong Càn Khôn thế giới thì khí Hư vô sanh ra một Thầy. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng thú cầm gọi là chúng sinh" (TN1, tr.62).

Giai đoạn 2 : "Khi Đức Chí Tôn đem dương quang ấm áp làm cho hóa sinh thì cái khoảng âm quang phải thối trầm làm tinh đẩu sanh hóa vạn linh" (TN2, tr.85).

Như thế, sự hiện diện của con người là do âm dương tác hợp mà sanh hóa, hoặc do tu tiến mà chuyển hóa, hoặc do Tiên Thánh giáng trần làm người để giáo đạo.

Giai đoạn 3 : Đức Chí Tôn dạy tiếp : "Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật" (TN1, tr.48), "Nên chi các con là Thầy, Thầy là các con" (TN1, tr.30).

Một đàng khác, Đức Chí Tôn dạy : "Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các đạo" (TN1, tr.48).

Như vậy Đức Chí Tôn xác định rõ trước hết Ngài tạo vũ trụ dần dần theo thứ tự : trước tiên tạo ra đất đá, sông núi biển, kế đến dựng cảnh quang thảo mộc, rồi mới đến côn trùng nhằm tạo môi trường sinh sống cho thú cầm. Các vật chất vô tri như đất nước, gió lửa thiếu tự giác nên gọi là vô tính chúng sanh, còn các sinh vật có năng lực hoạt động và có cảm giác gọi làhữu tính chúng sanh.

Sau khi tạo đủ điều kiện cho sinh hoạt loài người, Đức Chí Tôn mới dùng dương quang phối hợp âm quang tức "âm dương hữu hạp biến sanh, Càn Khôn sản xuất hữu hình" (KL, tr.101) mà tạo ra con người với điển linh quang của Ngài. Con người, như vậy phối hợp đủ tính chất của thiên địa nên gọi con người là tiểu thiên địa. Trời có Tam tài là Thiên, Địa, Nhân, người có Tam bửu là tinh, khí, thần. Chính nhờ có điển linh quang và chơn dương mà con người có thể tu luyện thành Tiên, Phật, nên "có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật". Như thế Đức Chí Tôn đã giành cho con người nhiều ưu ái nhất.

Tiên, Phật cũng xuống trần làm người để phổ độ nhân sanh, gọi là khách trần (TN2, tr.3) các vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm tu luyện cũng có thể thành người, rất hạn hữu, nhưng phải thoát kiếp sang đầu thai một tinh cầu khác. Theo thần học Cao Đài, chúng sanh cũng như thế giới, tùy luật tuần hoàn mà có lúc thành, lúc trụ, lúc hoại, lúc sinh. Khoảng thời gian ấy gọi là kiếp. Sau khi qua một kiếp thì linh hồn (gọi đúng là chơn thần) tiến sang một thế giới khác hoặc linh hồn thọ âm dương sẽ thành hữu hình ở thế gian. Như vậy, một kiếp là quan niệm về thời gian của thần học Đạo Cao Đài.

Ngoài con người mọi sinh vật khác tu luyện đều có thể thành người : "Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh". Tám hồn là vật chất hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn. Những sinh vật dưới người như thảo mộc phải tu tiến qua từng kiếp chớ không phải nhảy vọt được, riêng từ Thần hồn trở lên đều do linh quang giáng trần thành khách trần một cách dễ dàng vì đã qua kiếp người.

Quan niệm sự chuyển hóa con người như vậy có người cho là ảo tưởng. Nhớ lại, khi Gallíe cho quả đất là hình cầu, nhưng dân La Mã vẫn cho là hình tròn, lúc ra tòa Gallié đã tuyên bố 1 câu thời danh là "Tôi lầm nhưng trái đất vẫn quay" (Jesuis trompé, mais la terre quitourne). Mặt khác, khoa học đã khám phá ra nhiều sự kiện có vẻ vô lý mà lại là chân lý. Chẳng hạn, vật chất có thể biến thành ánh sáng chạy theo đường cong và thời gian co dãn theo sự chuyển động hay tùy theo dân lực giới …

Do đó, cái mà giác quan hay lý trí con người chưa cảm giác hay chứng minh nổi đâu phải là không có, bằng những con tính, nhà bác học Einstein đã chứng tỏ không gian cong trong một chiều thứ tư nào đó mà ta không thể hình dung nổi. Mặt khác, khoa học ngày nay phải chấp nhận sự kém cỏi trong việc tìm hiểu vật chất. Người ta chưa hình dung được điện tử ra sao ? Nó có phải là vật chất hay chỉ là luồng sáng. Nhà bác học Đức Heisenberg phải phân các hiện tượng ra làm hai loại : xét nghiệm được và không xét nghiệm được, chỉ có thể đoán qua suy luận như điện tử chẳng hạn. Như thế "Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh" (1) vượt qua tầm hiểu biết và xét nghiệm của khoa học. Đó là đặc điểm của thần học, là tiên tri của giáo lý Cao Đài.

Tóm lại, mọi vạn vật chi chi trong vũ trụ đều do Đức Cao Đài sinh thành. Con người là sản phẩm có cấu trúc tinh vi nhất mà Ngài sủng ái đặc biệt nhất ban cho nhiều tri thức và phương tiện sinh tồn nhất để thay Ngài, nên Ngài gọi con người là thượng sanh (2) mà thống ngự vạn vật đem lại hạnh phúc cho toàn thể nhân loại.

(1) Chúng sanh chỉ chung các loài biết bò, bay, máy, cựa, còn theo nghĩa hẹp là nhân sanh.
(2) Tân luật … SĐD, tr.97-99 trong kiếp hữu sanh, phẩm người là cao hơn hết nên gọi là Thượng sanh.

CHƯƠNG II

LINH HỒN VÀ BA THỂ CỦA CON NGƯỜI

Giáo lý Cao Đài xác nhận con người có linh hồn, nếu không có linh hồn thì cũng không có Đạo Cao Đài. Nói cách khác, linh hồn là một tiểu linh quang của Đức Chí Tôn phân tánh ban cho (TN1, tr.95), nên tâm ta động hay ước nguyện điều gì thì đại linh quang của Ngài sẽ cảm ứng ngay vì cùng tần số vi ba, một nguồn gốc mà hóa thành, chẳng khác gì trung tâm điện toán, một tế bào quang điện nhiễu động thì trung tâm có phản ứng ngay. Chính nhờ đó mà Đạo Cao Đài mới thông linh được Tiên, Phật qua cơ bút.
Người là sinh vật thiêng liêng trong các loài, nên có đủ 3 phần trong một cơ thể: hình hài, chơn thần, chơn linh (hay linh hồn, lương tâm) (1). Trong khi đó, loài thảo mộc chỉ có xác do tế bào cấu thành : gốc trở xuống ngọn quay lên. Như thế, gốc là đầu, ngọn là chơn nên không di chuyển được (2). Rồi tiến hóa lên hạng thú cầm đầu và đuôi ngang nhau, ngoài xác do tế bào cấu thành, còn thêm đệ nhị xác thân (tức hơn thần). Do đó, loài thú cầm có hoạt động, biết ăn uống, ham muốn, ghét sợ như con người. Nhưng nếu chỉ như thế thì con người khác chi con vật. Thế nên, Đức Chí Tôn mới tạo ra con người đứng thẳng : đầu ở trên, chơn ở dưới, ban thêm linh hồn hay lương tâm (TN2, tr.66) để hạn chế lòng ham muốn dục vọng.

(1) Xem CAO QUỲNH CƯ, Luật tam thể , Tây Ninh 1970.
(2) Một nhà văn Anh quốc viết một chuyện giả tưởng là trong tương lai loài cây sẽ biết di chuyển.

Hình hài con người khởi đầu là tinh dịch phối ngẫu với noãn sào thành khối tế bào có âm dương, tế bào mẹ dần dần phân hoá thành hình người (3). Đó là nhục thể, một cái xác không hồn, không chơn thần.

"Chơn thần là nhị xác thân, là khí chất bao bọc thân thể, của xuất nhập của nó là mỏ ác" (TN1, tr.78). khi ta ngủ thì chơn thần đi vào thế giới khác thích hợp với hoạt động tu tĩnh riêng của nó, nên dù bị rệp cắn hay muỗi đốt ta cũng không hay vì chỉ có cái xác tế bào mà thôi. Nhưng chơn thần vẫn còn giữ liên lạc với hình hài bằng nhơn điện, nên trái tim còn đập, phổi còn thở dưới dạng vô thức.

Bản chất của nhị xác thân ở trạng thái khí giống y hình hài. Nhiệm vụ của nó là thu hút sanh khí (chơn dương) trong vũ trụ để nuôi sống tế bào và khí hư vô giúp hình hài an nhàn vô bịnh (ĐT, tr.47); đồng thời nhận lấy kinh nghiệm của kiếp chúng sanh để khi bỏ xác đến tinh cầu thanh cao hơn vun bồi sự sống. Thế nên, nhị xác thân là chơn thân, còn hình hài là giả thân vì nó sẽ bị ôi rửa khi ta chết.

"Cái xác thân thiêng liêng là nhị xác thân, khi còn ở nơi xác phàm rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo níu. Cái chơn thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật thì huyền diệu vô cùng, bất tiêu, bất diệt. Bậc chơn tu khi đắc đạo có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du thiên ngoại. Các chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy" (TN1, tr.6).

 (3)Tế bào là yếu tố cấu thành thể xác các sinh vật. Hình thức phức tạp gồm có 3 phần : nguyên sinh chất, hạt và nhân.

Có nhiều người chết, cái chết rất khó khăn vì chơn thần còn luyến tiếc hồng trần, nên cần phải giải oan, độ hồn để chơn thần có đủ nghị lực rời khỏi tử thi trở về cõi thiêng liêng hằng sống vì luật ân xá ba kỳ chỉ độ dẫn cao thăng (KL, tr.102). Như vậy, trong chơn thần ta có 2 phần : ngươn thần và thức thần. Thức thần chỉ làm những điều vô đạo, ích kỷ, tội lỗi, ngược lại ngươn thần thì chống lại những điều sái quấy ấy. Thế nên, sự gì không làm cắn rứt lương tâm là của ngươn thần, còn sự gì làm nhức nhối lương tâm (dạng khác của linh hồn) là của thức thần.

Phần thứ ba của xác thân là linh hồn hay chơn linh, hay lương tâm hay Thần là điển linh quang của Đức Chí Tôn ban cấp Ngài dạy :

"Nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sinh tồn mà đặng phép giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các đấng trọn lành nơi Ngọc Hư cung. Các chơn linh ấy có tánh Thánh nơi mình, chẳng phải gìn giữ các con mà còn dạy dỗ các con".
Vậy linh hồn có nhiệm vụ thông công các đấng để dạy dỗ xác thân nên còn gọi là lương tâm. Thế nên, lương tâm con người rất sáng suốt, quán cổ tri kim, khiến con người làm điều hay sự phải, giục con người mến đạo đức, chuộng tinh thần, biết thuận theo thiên lý. Cái kiến thức ấy (của các nhà bác học chẳng hạn) là một hoạt động của linh hồn duy nhất mà ta cảm thấy được. Thế có nghĩa linh hồn là nguồn gốc của sự khôn ngoan, chỉ nhận thức được chớ không sờ mó được.

Cái tánh Thánh trọn lành của linh hồn thường bị thức thần của xác thân dục động, đưa đẩy làm cho cháng váng cái thanh quang, sanh lòng quấy phá. Thế nên, muốn linh hồn được trong sạch thì xác thân phải khang kiên và hướng thượng, để có thể tiếp điển quang của các đấng mà giáo hóa chính mình và cho cả nhân loại.

Những điển quang, từ cõi xa xăm của các đấng phóng đến làm máu to lưu chuyển, tế bào ta thay đổi kích động linh hồn tiếp điển, rồi ra lịnh cho trung tâm não khiến tay viết ra thành chữ mà giáo hóa vạn loại.

Tóm lại, trong mỗi một con người gồm có bảy thể cần yếu là : xương, máu, thịt, chơn dương, tinh, khí, thần theo quan niệm cũ, thần học Cao Đài gom lại còn ba :

-Xương, máu, thịt gọi là xác thân (hình hài) thuộc hữu hình còn chơn thần có hình thức giống y xác thân nhưng ở thể khí đại diện xác thân ở cõi vô hình nên hấp thụ khí chơn dương (tức khí hư vô, khí hạo nhiên). Còn linh hồn còn được điển linh quang của Đức Chí Tôn ban cấp tức thần. Thần và khí là 2 thể vô hình đều có nhiệm vụ lo cho xác thân. Tinh chỉ là sản phẩm của xác thân, nó hoạt động nhịp nhàng với Thần để được ban cấp tiểu linh quang, khi một giọt tinh dịch phối thành tinh đẩu (TN2, tr.85).

Con người biết giữ gìn ngươn tinh đầy đủ thì làm cho chơn thần an vui, linh hồn minh mẫn. Khi chơn thần thảnh thơi mới hút khí hạo nhiên châu lưu vận hành trong hình hài mà nuôi lấy ngươn thần. Nhờ đó, luyện tinh bảo tồn ngươn khí, luyện khí hoá thần mà hườn hư. Hễ hườn hư (vô) tức đạo chuyển mà phản bổn hườn nguyên đặng thành Tiên tác Phật.

Tóm lại, thần học Cao Đài xác nhận : xác thân là giả thân sẽ bị tiêu hủy sau khi chết, chơn thần mới là chơn thân ở thể khí phản ánh đúng mọi thể, mọi lẽ của xác thân, nên chính chơn thần mới đi chuyển kiếp và đến trước mặt Thầy, chớ không phải linh hồn. Vì linh hồn là điển linh quang và là chơn linh giữ gìn chơn thân, vốn trọn lành, có tội phước đâu mà phải đầu thai. Đó là một quan niệm tiến bộ của thần học Cao Đài.

Chính nhờ điển linh quang mà con người mới liên lạc được với thế giới vô hình. Bởi các cõi trời từ trược tới thanh, từ năng tới nhẹ, từ tối tới sáng đều có những tần số điển khác nhau của đấng Chí Tôn tạo thành. Các cõi ấy trước sự sống tồn tại là nhờ nguồn điển lực cung cấp từ trung tâm vũ trụ đấng Chí Tôn là đại linh quang, con người là tiểu linh quang của Ngài.

(Luật Tam Thể)

Do đó, điển lực của Ngài và các tầng trời Ngài thống trị phát ra, cái máy thu thanh con người đương nhiên phải nhận được. Đó là nguồn cội cơ bút Đạo Cao Đài.

Khoa học cũng đã xác nhận : vào năm 1968, nhà khoa học Nga P.Guláep nhờ máy có độ nhạy cao đã ghi nhận được điện trường sinh học xung quanh tế bào thần kinh học. Dựa vào phát minh ấy, A.Prexman đề ra giả thuyết rằng các cơ thể sống sử dụng điện trường sinh học để thu nhận và trao đổi thông tin. Ông muốn nói đến giác quan các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện trong biển và đại dương có rất nhiều dòng điện, những dòng điện này chạy trong các tần nước theo những hướng khác nhau. Các dòng điện đó có cường độ không đáng kể nhưng cũng đủ cho các loài sinh vật dưới biển (cá) nhận biết (Khoa Học và Đờii Sống số 5, 149-383.)

Xem như thế, mọi loại trong vạn vật đều có thể nhận biết được các nguồn điện lực từ xa, chớ đâu phải riêng con người. Vả lại, việc cầu cơ chấp bút đâu phải là một việc mới mẻ gì. Bởi lẽ, nó đã thịnh hành ở bên Châu Aâu, trong dân gian Việt Nam, Đạo Cao Đài chỉ phát triển đến đỉnh cao của cơ bút, biến cơ bút thành công cụ lập giáo và phổ truyền giáo lý.

CHƯƠNG III

THUYẾT CHUYỂN LUÂN

Thuyết chuyển luân của Đạo Cao Đài cũng phù hợp với lập thuyết khoa học như thuyết tiến hóa của Darwin và Lamacrk cho rằng trong vũ trụ không có cái gì tự sinh mà cũng không có cái gì tự diệt. Nhà bác học Lavoisier thêm "cái gì cũng có lý do cả".
Theo thần học Cao Đài, cái này nương vào cái kia mà sinh thành, cái kia nương vào cái nọ mà tồn tại, lớp lớp chồng chất đến vô tận. Con người bỏ cõi xác trần để chơn thần mặc vào cái áo mới tốt hơn ở cõi khác, hoặc có thể ở cõi trần này, nếu về mặt tu dưỡng chưa tiến bộ.

Kinh lễ có câu : "chuyển luân định phẩm cao thăng" (KL, tr.102) nên vùng chuyển luân chỉ định vị cho người thăng tiến chớ không có địa ngục a tỳ. Nếu Thánh ngôn có dạy "trần là cõi đọa bậc Thánh Tiên có lầm lỗi" (TN, tr.3) thì cái đọa ấy đã có trong các kỳ phổ độ trước đến kỳ ba phổ độ này nhờ Đức Chí Tôn đại ân xá con cái Ngài sẽ trở về cùng Ngài (KL, tr.102).

Ngài dạy : "ta vì lòng đại từ, đại bi, vẫn lấy đức báo sanh mà dựng nên Đại Đại Tam Kỳ Phổ Độ để cứu vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi" (1).

(1)Thuyết chuyển luân của Đạo Cao Đài không có âm ty ma quỷ. Thuyết luân hồi của Phật giáo, kẻ có tội phải xuống âm phủ cho Diêm Vương hành phạt.

Thánh ngôn Cao Đài có nhắc chữ luân hồi là chỉ để so sánh với luật luân hồi nhân quả xưa kia của Đức Phật, làm ác gặp ác, nhân nào quả đó. Đạo Cao Đài giáo hóa nhân sanh bằng phong trào thi đua công quả tiến tới ngày tuyển phong Phật vị (KL, tr.45). Bởi vì, muốn trở về cõi thiêng liêng hằng sống xứng đáng nhất không có con đường nào khác là đạt vị Phật, một phẩm cao nhất trong trường học 5 lớp, vì thầy có dạy : "Thầy là các con, các con là Thầy" mà Thầy là một vị Phật.

Trường học 5 lớp từ dưới lên trên là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo cho những hóa nhân bình thường. Nhưng cũng có những nguyên nhân tu từ các thời kỳ trước chưa đạt tột bậc thì tuỳ theo phẩm mà ngài cho tu theo hạng Thánh hay tiên. Hóa nhân là loài côn trùng thảo mộc chuyển kiếp lên thành người. Nguyên nhân là nguyên khí chất tiên thiên giáng sanh làm người.

Như thế, trường học 5 lớp ấy tùy trình độ mà vào học. Riêng địa cầu 68 thì phải bắt đầu vào lớp một nhân đạo, địa cầu 67 có thể vào ngay lớp 2 là Thần Đạo.

Con người khi qui vị được một chức sắc làm phép độ thăng thì chơn thần mới lìa khỏi xác đi vào thế giới thích hợp, đem theo cả phần chơn dương, chỉ còn lại phần âm nên thi thể giá lạnh, một cái xác không hồn. Do đó, Đạo Cao Đài gọi là đám xác vì không tin có ma quỷ. Xác chỉ còn phần âm nặng nề thuộc quyền quản trị của Cung Diêu Trì, nên Đức Phật Mẫu và chín cô tùy theo nhiệm vụ, trước đã dìu dẫn linh hồn theo Đạo, khi chết các cô cũng đến độ hồn đem về cõi thiêng liêng hằng sống đặng lãnh phần thưởng xứng đáng hơn (TN1, tr.65) trong quá trình tu luyện tại thế gian.

Chơn thần sẽ thăng tiến sau chín ngày thoát xác ở trường đình rồi từ Ngạn uyển đến vườn đào Tây Vương Mẫu, rồi cõi Thanh thiên, cõi Huỳnh Thiên, Xích Thiên, Kim thiên bước sang tầng trời Hạo thiên nhiên, Phi tưởng thiên, Tạo hóa thiên và sau rốt dự vào Hội Long Hoa để tuyển phong vị Phật mà hội hiệp cùng Đức Chí Tôn ở đây, linh hồn : "Khả tỉnh thức tiền duyên nhớ lại, đoạn cho rồi oan trái buổi sanh, đem mình nương bóng chí linh" (KL, tr.38). Tại vườn Tây Vương Mẫu chơn thần được uống rượu trường sanh và được độ dần lên "chín tầng trời" vì "cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng" (KL, tr.39)

Trước tiên là cõi Thanh thiên (tầng trời thứ nhất) đây là miền Bồng lai tiên cảnh được "Hội Thánh minh giáo giao sách Trường xuân (KL, tr.40). tiến sang cõi Huỳnh Thiên (tầng trời thứ hai) do Huyền Thiên Quân chưởng quản, chơn thần được lửa tam mụi đốt cháy oan gia nghiệt chướng để tuyệt khổ mà đi lên cõi Xích thiên (tầng trời thứ ba) do Thái Thượng Lão Quân chưởng quản, hồn đến đài chiếu giám xem tội phước ở kiếp sinh. Rồi nhờ xe Như Ý, hồn tới cõi Kim Thiên (tầng trời thứ tư) do Phật Như Lai chưởng quản. Ở đây, chơn thần đến đài Huệ lương trừ sạch ô uế, ướp vào mùi thơm ngọt ngào để đến Niết Bàn (KL, tr.42) . Lúc này, hồn đã nhẹ nhàng tới cõi Hạo thiên nhiên (tầng trời thứ năm) do Phật Chuẩn Đề chưởng quản và được Thần Tiên hiệp sức giải thi đưa chơn thần lên Phi tưởng thiên (tầng trời thứ 6), cung Diêu Trì cõi tạo Hóa Thiên (tầng trời thứ bảy) dưới quyền cai quản của Đức Phật Mẫu, chơn hồn đến Cung Trí Giác tịnh dưỡng tinh thần. Sau đó, chơn thần đến cõi Hư vô Thiên (tầng trời thứ tám) do Đức Nhiên Đăng chưởng quản, vào ao Thất Bửu gội mình sạch tục và được "Bồ Đề Dạ dẫn hồn thượng tấn" (KL, tr.44) đến chầu Đức Di Lạc ở cõi Hổn Ngươn Thiên (tầng trời thứ chín) đặng dự vào "Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị" vì trong kỳ ba phổ độ này, Đức Di Lạc thay diệu huyền của Đức Chí Tôn tuyển chọn ngôi vị Phật (KL, tr.45) cuối cùng chơn thần thăng lên cõi Thượng Thiên tức cõi thiêng liêng hằng sống, trong đó có Ngọc Hư Cung nơi Đức Chí Tôn ngự và Bạch Ngọc Kinh là kinh đô của Thánh, Tiên, Phật … triều nghi của Đức Chí Tôn cũng ở đây (2).

 (3) Phần chuyển luân này viết theo kinh Di Lạc và kinh cửu, quan niệm về "chín tầng trời" có khác với sách cũ.

CHÍN TẦNG TRỜI

CÕI THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG

9/ - HỔN NGƯƠN THIÊN
8/ - HƯ VÔ THIÊN
7/ - TẠO HÓA THIÊN
6/ - PHI TƯỞNG THIÊN
5/ - HẠO NHIÊN THIÊN
4/ - KIM THIÊN
3/ - XÍCH THIÊN
2/ - HUỲNH THIÊN
1/ - THANH THIÊN
0/ - DƯƠNG QUANG

CÕI ÂM QUANG

Tóm lại, luật chuyển luân chính là định luật tiến hóa của vũ trụ giúp con người học hỏi luôn. Để chơn thần nhận rõ sự sai lầm, mở thêm sự sáng suốt giác ngộ đường đạo đức. Nếu chơn thần không đủ trình độ để tuyển phong vào Hội Long Hoa tạo đời Thánh Đức thì phải chờ bảy ức niên nữa. Định luật tiến hóa luôn luôn máy động, nếu ngừng nghỉ thì cơ tận diệt cũng đến. Chơn lý của đạo l2 sự tiến hóa, từ trầm luân trọng trượt vẫy vùng đến chỗ cao siêu minh triết, 2 trạng thái sinh diệt luôn thể hiện trong vũ trụ.

CHƯƠNG IV

ÐẠO GỐC Ở TÂM

Trong kinh lễ có câu : "Đạo gốc bởi lòng (tâm) thành tín hiệp". Thánh ngôn cũng có dạy : giáo lý đạo không giảng cùng lý mà chỉ nói đến cái tâm. Vì tùy sự giác ngộ hiểu biết của con người mà đạo trở thành thâm sâu hay thô thiển.
Việc thờ Thiên Nhãn Đức Cao Đài cũng đã minh định :
"Nhãn thị chủ tâm
Lưỡng quan chủ tể
Quang thị thần, thần thị thiên
Thiên giả, Ngã giả"

Con người mới sinh ra có nhục nhãn, nhờ tu luyện giác ngộ đạo thì có huệ nhãn (thần nhãn) rồi tiến đỉnh cao là thiên nhãn, thông kim bác cổ, thông suốt vũ trụ, cũng như người tu có huệ tâm tôi luyện mãi thành thiên tâm tức Đạo tâm.

Buổi đầu, Thánh ngôn Thầy có dạy tịch đạo trong đời Giáo Tông thứ nhất là Thanh Hương, trong đời kế tiếp là Đạo Tâm. Thờ Thiên Nhãn là thờ cái tâm, hiến lễ lên Thầy chữ tâm, đối xử với nhau cũng bằng chữ tâm, cho nên, đạo gốc ở chữ tâm. Tâm tức là đạo, đạo tức tâm, biết tâm thì biết đạo, biết Thầy (Tâm tức đạo, đạo tức thiên, tri tâm tắc trị đạo tri thiên), mà đạo thì ở trong tâm con người, sáng như ban ngày, tuy có lúc biến đổi theo hoàn cảnh, nhưng cái ánh sáng của ngày không hề thay đổi. Muốn đạt đạo tâm phải có đạo từ, tâm trụ. Đạo từ là từ bi hỉ xả, tâm trụ là càng lay càng im, càng trụ vững đức tin và đến lúc nào đó thì đốn ngộ, đạt đạo. Đó là con đường tu tắt, và muôn luyện tâm trụ phải thiền định, khác với con đường tu theo Cửu phẩm Thần Tiên và thập nhị đẳng cấp thiêng liêng theo đường tu tiệm ngộ. Nói một cách khác, thời kỳ đạo tâm là thời kỳ tự tu, tự ngộ vì con người đã đến giai đoạn giác ngộ cao, tu tâm dưỡng tánh.

Tâm tánh là một, nhưng vì hiện trạng khác nhau nên có tên gọi khác mới: làm chủ tể gọi là đế, lưu hành gọi là mệnh, phú con người gọi là tính, làm chủ cái thân gọi là tâm. Tuy cái tâm ta phát ra mỗi việc mỗi khác, nhưng chung qui có mỗi cái tính. Cho nên, ngoài cái tâm thì không có lý, ngoài cái tâm thì không có sự việc. Thế nên, chỉ lo cái tâm của hàng giáo lãnh. Các chức sắc hơn người là vì có cái tâm thuần nhiên thiên lý bất cứ lúc nào cũng như cái gương soi nên chỉ hành thiện, thường nhân để che lấp đi lòng thành. Vậy thiện ác là hai việc không hề có sẵn mà do tâm tạo ra. Thế nên, người đạt được đạo tâm thì lời nói như kẻ thường mà cái tâm mình cho phải thì phải, dù lời thánh nhân mà tâm mình cho trái thì trái. Do đó, không nên tìm sự khác nhau giữa tôn giáo này và tôn giáo nọ mà làm thế nào cho tâm mình được ổn thì thôi. Cho nên, người đạt đạo tâm thì quan niệm rất rộng rãi : đạo không có trong không ngoài, không có người không có ta, thiên điạ vạn vật nhất thể để tồn tâm dưỡng tánh, để tiến tới đại đồng thế giới.

Cái bản thể của tâm là lương tri. Chính tuỳ cái lương tri nơi mỗi người mà người ta quan niệm có quỷ thần hay không, cái gì cũng bởi đó mà ra. Thế nên, nói cái tâm là cốt bỏ cái tối, tà vạy để thấy rõ ánh sáng của lương tri. Do vậy, Đạo Cao Đài là một tôn giáo mới phù hợp với con người thời đại hạt nhân, không dạy những điều khoản khoa học hay mê tín.

Nhưng cái u tối của một ít người là do không rèn luyện cái lương tri, vô hình trung làm nơi bàn luận cho khách bàng quan. Cho nên, lương tri là đầu mối lớn của học vấn của sự hiểu biết. Do đó, một khi đã theo đạo phải rèn luyện cái tâm cho sáng suốt thì bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào tác động tới, càng lay càng im lìm.

Tóm lại, đầu mối ở trong tâm con người "Nhơn tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất doãn chấp quyết trung - Trung dung" (Lòng người dễ khuynh, lòng mến đạo lại yếu, cho nên phải xét cho tinh một mực, quyết giữ cho bằng được đạo trung).

CHƯƠNG V

KINH SÁCH ÐẠO

Khi đọc kinh điển Đạo Cao Đài, ta phải chấp nhận câu : Đọc kinh tầm lý. Cái chân lý nhiệm màu của đạo không thể nói ra được mà kinh điển chỉ là phương tiện để trình bày cái chân lý, còn cứu cánh là do sự ngộ đạo của người đọc. Nếu đọc với tinh thần như vậy không những bây giờ mà cho đến mai sau, giáo lý Cao Đài sẽ vẫn thích hợp với mọi thời đại.
Riêng về sách do các chức sắc và đạo tâm viết thì có nhiều hạn chế : gốc đạo Phật mới nhập môn theo Đạo Cao Đài thì viết nhiều về triết lý nhà Phật, gốc nho sĩ viết nhiều về Khổng giáo … Vì thế ta không lấy gì làm lạ : các đệ tử của ông Ngô Minh Chiêu lập ra phái Chiếu Minh vô vi, chủ trương luyện kỷ tu đơn theo Lão giáo, còn Đạo Cao Đài Tây Ninh lúc mới khai đạo ở chùa (Phật) Từ Lâm thì chủ trương Phật giáo chấn hưng (bìa sách do G.Gobron viết tựa nhỏ boudhisme rénové). Sau đó, một số nhà nho, thấy kinh sách đạo Cao Đài xưng tụng các đấng đều bằng chữ Hán và Tân luật viết theo nho gia, nên chủ trương Nho tông chuyển thế. Một vài Thánh Thất chi phái coi ngày Chúa giáng sanh là ngày lễ lớn chính thức, có bài kinh xưng tụng Đức Gia Tô giáo chủ, đọc theo giọng nam xuân của Đạo Cao Đài.

 (1) Tân luật là luật của con người làm có sự phê chuẩn của Đức Chí Tôn, có thể sửa đổi theo trình độ tiến hóa của nhân sanh, nên không là sách vĩnh cửu được.

Như đã trình bày ở trước, Đạo Cao Đài thừa kế tất cả tinh hoa của các tôn giáo xưa : Thừa kế có chọn lọc và sáng tạo. Nhưng sự chọn lọc và sáng tạo lại tùy con người, hạn chế hay không, sáng tạo hay ghép nhặt là ở chỗ đó.

Về sách các đấng giáng cho 2 quyển căn bản là "Pháp Chánh Truyền" và "Thánh Ngôn Hiệp Tuyển", vừa là chỗ dựa cho sự thống nhất các chi phái vừa là giáo lý truyền đạo khắp toàn cầu. Muốn hiểu Đạo Cao Đài một cách chân chính thì tự mình đọc hai quyển đó. Bộ Thánh ngôn gồm 2 phần : phần dạy đạo trong nước Việt Nam bị giới hạn về đất đai, con người. Người Aâu Mỹ đọc qua chắc sẽ thấy xa lạ. Phần dạy đạo ngoài nước còn nhiều chấm lửng … Vì Đức Cao Thượng Phẩm sớm qua đời (1929), người cùng phò cơ với Đức Phạm Hộ Pháp từ buổi đầu có đầy đủ huyền diệu để phong Thánh và truyền đạo.

Về kinh lễ, ta phân biệt 3 phần. Hai phần các Đấng giáng cho trong kỳ ba phổ độ và Đức Phạm Hộ Pháp viết thì phù hợp với giáo lý Cao Đài. Riêng phần do Chi Minh Lý (từ Tam Tông Miếu ở đường Cao Thắng, Sài Gòn) dâng cho buổi đầu, gồm kinh Tứ Thời (tý, ngọ, mẹo, dậu), kinh Sám Hối, xưng tụng Thần Thánh Tiên Phật có lẽ cần phải xét lại.

Ngay phần kinh Tứ thời tiếp lễ nhạc quân Cao Mỹ Ngọc có nhận định như vầy : "Những bài Tịnh tâm, Tịnh khẩu, Tịnh thân, An thổ địa, các đạo hữu nên học cho biết, chẳng nên đọc nơi đàn vì không phải là kinh chư Tiên có ý muốn dạy chúng ta cho biết cách chức đặng giữ mình, hầu khỏi thất lễ nơi trước bửu điện. Nếu đọc thì sai, vì ta nói rằng ta tịnh khẩu, tịnh tâm mà kỳ thật đọc um lên, rồi thế nào mà tịnh đặng" (KL, tr.139) Từ năm 1929 (Kỷ Tỵ) mà ông Cao Mỹ Ngọc có nhận định tiến bộ như vậy, còn ngày nay thì sao ? Khi các phái đạo dâng kinh không có một bắt buộc nào, ta thấy phù hợp với tôn chỉ Đạo Cao Đài thì dùng không hợp thì gửi trả lại (2).

Đạo cốt là ở tâm linh diệu và ở giáo lý cao thượng chớ không phải ở kinh điển. Vì kinh điển tiếng Việt Nam hay Hán văn, người ngoại quốc làm sao đọc được mà truyền đạo.

Thầy dạy : "Kinh điển giúp đời siêu phàm nhập Thánh chẳng khác chi đũa (ăn cơm), chẳng có đũa, kẻ có cơm (đạo) bốc tay ăn cũng đặng" (TN2, tr.5)

Quan niệmvề Đạo của Đức Chí Tôn rất bao dung rộng rãi. Cứu cánh là sự giác ngộ giáo lý cao thượng, chớ không phải những cái "râu ria" mang nặng bản sắc Aù Đông, làm trở ngại xây dựng một thế giới đại đồng, còn kinh điển chỉ là phương tiện, không lấy phương tiện làm cứu cánh bao giờ. Nói một cách khác, đọc kinh phải tầm lý. Vậy cái lý ấy dịch ra tiếng nước ngoài để người ta đọc suy nghĩ cái lẽ cao thâm huyền diệu, có tác dụng cao thâm hơn đọc kinh mà không hiểu nghĩa trong kinh ra sao? Đó cũng là quan điểm của người ngoại quốc, họ luôn luôn tìm hiểu ngọn ngành trước khi nhập cuộc, không dễ tin, nhưng khi đã tin thì không có gì làm lay chuyển nổi.

 (2) Kinh sám hối, kinh xưng tụng Thần Thánh … của Chi Minh Lý, nội dung không phù hợp với giáo lý tân tiến của Cao Đài.

Bởi lẽ ấy, Đức Chí Tôn dạy : "Thầy chẳng dùng sự chi mà thế gian gọi là tà quái dị đoan, nếu có xảy ra một ít dị đoan trong đạo đã dùng lỡ, ấy là tại nơi tâm của một vài môn đệ đó. Nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành đạo và bày biện nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau đây sẽ trở nên một mối tà đạo mà các con đã từng thấy" (TN2, tr.42).

Xem thế, giáo lý đạo không dạy điều chi dị đoan, nhưng không phải lúc nào cũng triệu thỉnh được các Đấng để xin thánh ý (TN, tr57), nên một số người đã suy luận và tự ý bày biện thêm, đương nhiên là với hảo ý, nhưng cái hảo ý ấy cục bộ, phù hợp với vài cá tính, vài địa phương nào đó, vô tình đánh mất tính khoa học, tính quần chúng của tôn chỉ đạo.

Về ngôn ngữ trong kinh sách, có mục đích "văn dĩ tải đạo" nên nhằm đạt được sự truyền bá và độ rỗi nhân loại, chớ không chủ tâm tạo ra một triết lý bác học, khó phổ cập. Ngọn ngữ cũng có cái giới hạn của nó, không thể nào diễn tả một thế giới xa xăm hay tương lai hoặc một chơn lý nhiệm màu mà con người có thể dễ dàng cảm thông được. Do đó, đôi khi phải cụ thể hóa, so sánh những vật thể gần gũi để người đọc lãnh hội một cách dễ dàng, mà có người hiểu lầm là trần tục. Vả lại, tôn giáo thường phát sinh trong dân gian, trong đám người nghèo khó. Đức Cao Đài như trình bày ở trước, là Thượng đế của người nghèo.

Sự hiện hữu của Đạo Cao Đài có nguồn gốc bình dân, đó là chủ đích của Đức Chí Tôn không giấu ai. Ngài dạy : "Hồi trước còn ngu xuẩn, kẻ phò cơ không đủ tinh thần nên mỗi khi cầu cơ khó nhọc lắm mới được vài lời của người khuất mặt." (TN2, tr.92). Như vậy, văn pháp ảnh hưởng tùy ở đồng tử (médium) vì các Đấng dạy bằng tư tưởng chớ không dạy lời lẽ. Thế nên, đồng tử dốt thì lời vụng về. Đồng tử biết ngoại ngữ mới nghe được tiếng thiêng liêng mà viết ra. Mặt khác, lúc đạo khai (1925) ngữ pháp Việt Nam chưa hình thành, văn chưa gọn gàng, nói sao viết vậy. Mục đích là truyền đạo được mà thôi. Đức Chí Tôn lại chọn một nước trong vòng nô lệ ngoại bang mà mở đạo là có ý lớn độ rỗi những đứa con thống khổ nhất đang bị trầm luân. Ngài dạy : "Thầy đã lập đạo nơi cõi Nam này là cốt để ban thưởng một nước từ thử đến giờ hằng bị lắm cơn thịnh nộ … Đạo trời mở ra cho một nước, tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn" (TN2, tr.14.25).

Tóm lại, bất cứ ai muốn tìm hiểu Đạo Cao Đài hoặc muốn tu theo Đạo Cao Đài đều phải cần đọc những sách căn bản sau đây do các Đấng thiêng liêng giáng dạy.

-Thánh ngôn hiệp tuyển (2 quyển), có phần Thánh Ngôn Pháp văn với nhan đề : Les Messages Spirites Tây Ninh 1962. -Pháp Chánh Truyền đã dịch ra Pháp văn với nhan đề : La Consitution Religieuse du Caodaisme Paris, Dervy 1953, 191 trang.
- Kinh Lễ (thường gọi là Kinh Thiên đạo, Thế đạo) nên chú trọng phần chính truyền.
- Tân Luật (Paris Gasnier 1952) nên lấy ý chung mà hiểu luật đạo trong buổi đầu ở nước Việt Nam.

Các sách khác do các cá nhân viết ra tùy thuộc trình độ hiểu biết và quan điểm của tác giả. Hội Thánh không trách nhiệm nào về mặt lý luận và trọng tự do tư tưởng của mọi chúng sanh. Chỉ có một quyển siêu kinh, cao nhất của Đạo Cao Đài là "Kinh Vô Tự "vĩnh cửu với thời gian.

Phần Thứ Ba

ÐẠO CAO ĐÀI

LÀ TÔN GIÁO ÐẠI ĐỒNG THẾ GIỚI

CHƯƠNG I

MỘT TÔN GIÁO BAO DUNG QUI HỢP

Những phần trình bày trước là phương tiện đưa đến phần này, vì lý tưởng cao cả nhất của người tín đồ Cao Đài là sự hình thành một thế giới đại đồng. Người tín đồ nào cũng mơ ước một ngày nào đó, nhờ phép mầu của Đức Cao Đài chuyển nhân loại sống chung một nhà, cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt, không còn phe phái này nọ kình chống nhau. Đó là lời cầu nguyện mỗi ngày 4 lần "thiên hạ thái bình" (KL, tr.24) của mỗi tín đồ Cao Đài.
Trong thế kỷ XIX, khoa học mang tính cách độc đoán đối lập với tôn giáo, cả tin vào khối óc khám phá vũ trụ của con người. Bởi lẽ, có những điều mầu nhiệm của tôn giáo mà khoa học với phương tiện của nó không thể nào chứng minh được. Song, đến nửa đầu thế kỷ XX theo André Maurois, Viện sĩ Hàn Lâm Viện Pháp thì vật chất của nhà vật lý học không còn có thể sờ được, cũng không còn có thể trông thấy được nữa. Nó là chỗ giao điểm giữa hai làn sóng của hư không, một cái chóp đỉnh của khoảng thời gian, một dự phóng của ý thức người quan sát và cuối cùng, nó là phương trình số học, tức là một ý tưởng. Như vậy, các nhà vật lý học đi tới chỗ phải suy tưởng bằng dụng ngữ của tinh thần hơn là của vật chất. Chúng ta lại trở về với Platông (Platon) (1).

"Vốn từ trước Thầy đã lập ra ngũ chi Đại Đạo là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Tùy theo phong hóa nhơn loại mà gầy thành chánh giáo, là vì khi trước càn vô đắc khán, khôn vô đắc duyệt, nhơn loại đã hiệp đồng, càn khôn dĩ tận thức, lại bị phần nhiều những đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt".

Lời mặc khải huyền nhiệm của Ngài cũng là triết thuyết mới mẻ về tôn giáo , vì mặc khải không thể có bằng kinh nghiệm, cũng không lý luận hay chứng minh gì được. Đó là đặc điểm của tôn giáo khác với khoa học. Khoa học đã căn cứ vào vật thể mà phát minh những phương tiện giao thông cho con người sống gần nhau, nên cũng cần phải có tôn giáo mới phù hợp với thời đại mới. Đạo Cao Đài có sứ mạng thiêng liêng cao cả, làm trung gian hiệp đồng mọi luồng tư tưởng Đông Tây nên giáo lý Cao Đài có tính cách bao dung hòa hoãn.

Đức Phật Mẫu cũng dạy :
"Độ anh nhi Nam Bắc Đông Tây
Kỳ khai tao nhứt linh đài
Diệt hình tà pháp cường khai đại đồng
Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch" (KL, tr.103).

Đức Mẹ đã xác nhận, dù người ở Đông bán cầu hay Tây bán cầu, ở Bắc bàn cầu hay Nam bán cầu, các chủng tộc ấy đều có nguồn gốc chung từ Đức Chí Tôn mà ra, nên phải hiệp lại mà tạo lập nên một thế giới đại đồng, giúp đỡ lẫn nhau như con một nhà (TN2, tr.14). Mỗi một tín đồ Cao Đài đều phải truyền cao lời dạy của các đấng và phải phổ độ nhơn loại khắp năm châu (TN1, tr.32).

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ là mối đạo lớn chung cho tất cả, một giải pháp tổng hợp vừa chừng cho tất cả (không nhằm phủ nhận một tôn giáo nào), là danh hiệu chung cho tất cả tôn giáo, mà từ trước các vị giáo chủ giáng trần giáo đạo. Tất cả các Ngài đều là sứ giả của Đức Chí Tôn. Thế nên, Đại Đạo không phải là hiệp hội các tôn giáo mà là con đường lớn qui các tôn giáo vào một mối. Ngoài tam giáo ở Á Đông, Đức Chí Tôn còn dạy : "Thầy là Đức Jéhovah của dân Hébreux, vị chủ tể của dân Israel, vị Thánh vô danh của dân Do Thái, Đức Đại Từ Phụ của Chúa Jésus cứu thế. Con chỉ cầu nguyện Thầy với danh hiệu Cao Đài thì sẽ có sự cảm ứng" (TN1, tr.124)

Còn tam kỳ là phổ độ lần thứ ba. Theo giáo lý Cao Đài, trước kia có nhứt kỳ phổ độ vào thời đại thượng cổ và nhị kỳ phổ độ vào thời Trung cổ (2). Sự phân chia này nói lên sự huần hườn hết thịnh tới suy, hết suy tới thịnh. Khi nhân loại suy đồi thì tôn giáo có nhiệm vụ phục hưng giáo đạo vì sai lạc bản chất (TN1, tr.120). Đức Chí Tôn cũng dạy : "Đạo Thánh của Chúa làm tăng dục vọng của kẻ mạnh đối với người yếu và giúp cho bọn trên hiếp dưới. Phải có một giáo lý mới đủ khả năng kiềm chế nhơn loại trong sự thương sót chúng sanh" (TN1, tr.121). về Phật giáo Ngài dạy : "Từ trước ta giáng sanh lập Phật giáo gần 6.000 năm thì Phật giáo chánh truyền thay đổi. Ta thường nghe chúng sanh nói Phật giả vô ngôn. Nay ta nhứt định lấy huyền diệu mà giáo đạo, chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn" (TN1, tr.49)

Nhứt kỳ phổ độ tức là nhứt thiết Long Hoa Thiên khai Tý hội thuộc vào thời Phục Hy bên Trung Quốc. Thời này có các sứ giả Đức Chí Tôn ra đời cứu thế như Đức Nhiên Đăng, Thái Thượng Lão Quân, Phục Hy (Trung Quốc), Đức Kristna (Aán Độ), Đức Moise (Ai Cập) …

Nhị kỳ phổ độ tức nhị thiết Long Hoa Thiên khai Sửu hội. Thời này có Đức Lão tử, Khổng Tử (Trung Quốc), Đức Thích Ca (Aán Độ), Jésus Christ (Trung Đông) …

Tam kỳ phổ độ tức tam thiết Long Hoa Thiên khai Dần hội. Chính Đức Chí Tôn giáng điển quang, qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi mà giáo đạo không giao chánh giáo cho tay phàm nữa.

Danh hiệu Tam Kỳ Phổ Độ được dịch là Troisìeme Amnistie de Dieu en Orient : ân xá kỳ ba của Đức Chí Tôn ở phương Đông. Từ ngữ phương Đông (Orient) nó lý giải cho từ Tam giáo. Ơû phương Đông có 2 nước lớn nhứt là Trung Quốc và Aán Độ, cho nên đặt Lão Tử, Khổng Tử (Trung Quốc) gấp đôi và ngang hàng với Đức Thích Ca (Aán Độ) là lý đương nhiên. Đây là giới hạn về không gian, nhưng ta nên hiểu là tiếp ngang 3 lãnh tụ Tam giáo còn chấm lửng và muốn thêm bao nhiêu vị khác nữa cũng được (vì cơ lập giáo Đức Cao Thượng Phẩm sớm qua đời). Ba vị giáo lãnh ấy, cũng như các vị giáo lãnh khác chỉ là sứ giả của Đức Cao Đài. Tất cả chỉ là sự thay hình đổi dạng của một nguồn sống mênh mông chảy dài trên dòng thời gian mà mỗi vị đều có phận sự phải hoàn thành, là thể hiện sự sống một cách đầy đủ nhất, trong những môi trường mà mình có mặt. (3)

(3) NGUYỄN LONG THÀNH, danh hiệu và tiêu chuẩn lập pháp ĐDTKPĐ Tây Ninh 1974, tr.38.

Về ngũ chi phục nhứt (ngoài những điều trình bày ở trước), trong bài thuyết đạo Đức Phạm Hộ Pháp có giải thích : Phật Đạo là lối sống và hành đạo theo Đức Thích Ca (Aán Độ) Pi-ta-go-lơ (Pythagore ở Hy Lạp) … Tiên đạo là lối sống theo Lão Tử, Dương Châu, Mặc Địch … Thánh đạo là lối sống theo Jésus Christ (Trung Đông), Mahommed (Á Rập) … Thần đạo là lối sống theo Khương thượng, các nhân vật trong Hy Lạp phong thần, Ai Cập phong thần … Nhơn đạo là lối sống theo Socrate, Platon, Eùsope …

Tam giáo và ngũ chi mà giáo lý Cao Đài qui nhất nhằm mục đích nói lên các tôn giáo đều có cùng một nguồn gốc. Thật ra, đa số các giáo chủ của các tôn giáo đều ở trong trạng thái tĩnh, nói một cách khác, dạy đạo, phong Thánh đều do chính Đức Cao Đài đảm nhận, các vị giáo lãnh thỉnh thoảng mới xuất hiện, thêm vào đó Lý Thái Bạch, Giáo Tông phần hồn cho các tín đồ là 1 sắc thái riêng biệt. Việc phong tặng đạo hiệu cho tín đồ là nhiệm vụ của Bạch vận Động mà Thanh sơn đạo sĩ (tức Nguyễn Bỉnh Khiêm, người Việt Nam) chủ trì. Những điều ấy nói lên giáo lý Cao Đài tuy tổng hợp hòa đồng, nhưng có sáng tạo và nắm phần chủ động.

Tóm lại, các Đấng giữ vai trò tích cực trong Đạo Cao Đài không phải là Tiên, Phật cũ mà là những khuôn (chon?) linh mới : Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu với 9 cô, Đức Lý Giáo Tông, Thanh Sơn Đạo Sĩ (nội giáo), Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tức Victor Hugo (ngoại giáo) và những Thánh, tiên mới đoạt chánh quả tong kỳ ba phổ độ. Thật vậy, giáo lý Cao Đài là do các vị Tiên giáng dạy. Nếu các vị giáo chủ xưa giáng cho cũng phải dạy trong kỳ ba này mới có quan điểm phù hợp với nền tân tôn giáo. Các kinh điển xưa thì Đạo Cao Đài được xem là cựu ước, cựu luật không phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại trong thời đại nguyên tử này. Nếu những ai sao chép luật lệ, kinh điển các tôn giáo xưa "nguyên bản" mà cho là giáo lý Cao Đài ở đó, là chưa cân nhắc và chưa quán triệt thần học Cao Đài.

Nếu nói Đạo Cao Đài không đem gì mới mẻ cho nhân loại, sao lại có sự tranh luận. Việc qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi, dùng cơ bút để thông linh với cõi vô hình, quan niệm mọi sắc dân trong hoàn vũ là anh em … những chủ đề ấy quả đã làm bận tâm cho nhiều người. Vả lại, những thành tựu khoa hocï, văn hóa ngày nay người ta coi là của chung nhân loại, James Watt, người Anh phát minh ra máy hơi nước, Stéphenson, người Mỹ áp dụng vào xe lửa cho chạy được. Có ai bảo là Stéphenson không sáng tạo. Việc Thiên Chúa giáo lập ra dương lịch và trong tuần lễ có ngày chúa nhật, có dân tộc nào trên thế giới không theo mà có ai nghĩ là mình đã theo đạo Thiên Chúa đâu. Thuyết luân hồi của Phật giáo hay của Bà la môn giáo ? Chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Sartre hay đã có từ thời Socrate, Saint Bernard ? Trong thế giới hiện nay, có cái gì hoàn toàn mới mà không thừa kế ? Xét cho cùng, thuyết luân hồi của Phật giáo rất khác với thuyết luân hồi của Đạo Cao Đài. Thuyết luân hồi của Phật giáo có địa ngục, có quỉ dữ hành hạ tội nhơn. Thuyết chuyển luân của Cao Đài giáo không có địa ngục, cũng không có quỉ dữ hành hạ "vô địa ngục, vô quỉ quan" mà chỉ có Trường Đình, nơi tự xét tội phước của mình.

Việc lấy dấu 3 ngôi của Thiên Chúa giáo là Đức Chúa cha (ở giữa) Đức Chúa con và Thánh Thần. Ba ngôi của Đấng A-Ă-Â dạy là Phật (ở giữa), tức Đức Chí Tôn (Phật trên các Phật) rồi đến Pháp (tức Pháp thiên) và Tăng là chúng sanh (TN1, tr.48) hàm ý lấy phép trời nối liền giữa Thiên và nhơn. Thật ra, Đạo Cao Đài có tên 3 ngôi riêng là A-Ă-Â nhưng 3 ngôi này quá mới mẻ, xa lạ, gần giống như mang một ký hiệu khoa học. A là ngôi trung hòa, Aâ là ngôi âm, Ă là ngôi dương tượng trưng cho cả càn khôn vũ trụ, cho bản chất Thượng Đế đại Thiên địa và cho cả mỗi con ngưởi tiểu Thiên địa. Như thế, 3 ngôi của Đạo Cao Đài thể hiện được tính khoa học và tính nhân bản, hợp với "Thiên nhơn hòa ước" (Hòa ước ký giữa người và Trời tại Tịnh Tâm Điện Tòa Thánh) trong kỳ ba đại ân xá này. Trời Người hiệp nhứt : "Thầy là các con, các con là Thầy". Khi ta niệm "Nam mô Cao Đài Tiên ông Đại Bồ Tát ma ha tát" là ta hàm ý niệm cả 3 tôn giáo lớn, niệm cả càn khôn vũ trụ, cả Phật Tiên Thánh chẳng sợ thiếu chi, niệm nhiều vị là chưa hiểu bản chất của Đức Chí Tôn. Khi niệm tên Thầy, tâm thức của ta hòa với tâm thức Càn Khôn, rung động một nhịp, 1 tần số với đại hồn vũ trụ, đó là chánh niệm đưa đến cơ bút, niệm danh thầy tức là niệm danh của hồn ta, ta đảnh lễ ta, ta kích động nhắc nhở, thức tỉnh ta để nắm quyền chủ động tiểu càn khôn của ta, nhờ đó mà thần trí ta mở mang phát triển giác ngộ đạo, đạt chánh quả.

CHƯƠNG II

CHÍNH SÁCH CỘNG HÒA YÊN TĨNH

Nhằm thiết lập một thế giới đại đồng, ngoài VIỆC TU THEO CON ĐƯỜNG Đại Đạo để trở về cõi thiêng liêng hằng sống, nơi mà mọi sắc dân thế giới đều đồng đẳng cộng lạc hòa ái vì đã thông suốt nhân loại đều có chung nguồn cội, đều có cùng một đấng cha chung, Cao Đài còn tạo lập ở thế gian này một cuộc sống dựa trên CHÍNH SÁCH CỘNG HÒA YÊN TĨNH, thể hiện bằng lòng từ bi bác ái và lòng chí thành của mỗi người làm cơ bản (TN2, tr.36.61).
Ta thấy Đức Chí Tôn nhấn mạnh chánh sách cộng hòa yên tĩnh này nhiều lần trong Thánh ngôn (TN2, tr.36.61) nhằm tạo lập một thế giới HÒA BÌNH, DÂN CHỦ, TỰ DO, bằng con đường đạo đức, vì xã hội loài người hình thành do ý chí và đức hóa sanh Cao Đài cứ vào trình độ tiến hóa về đạo đức của vạn vật chớ không phải được xây dựng lên từ vũ khí bạo lực. Đạo Cao Đài thực thi chính sách cộng hòa yên tĩnh bằng 3 tuyên ngữ : bảo sanh, nhơn nghĩa, đại đồng.

1/- Dân sanh : Tuyên ngữ bảo sanh có hai mặt : một mặt do lối sống cơm no, áo ấm, mặt khác là bảo vệ tính mạng không để người khác xâm phạm.

Thời kỳ này là đời mạt kiếp, nhân sanh bị vô vàn khổ. Thế nên, các đấng dạy Hội Thánh phải tìm phương mở rộng các ngành kinh tế để nuôi dưỡng dân sinh. Bảo Sanh Quân là người đứng đầu để tìm mọi phương kế nâng cao mức sống nhân sanh, cộng tác với ông có Bảo Công Quân lo về công nghiệp, Bảo Nông Quân lo về canh nông, Bảo Thương Quân lo về đặt định giá cả vừa mức tiêu thụ của người dân và quân bình cán cân xuất nhập cảng. Những hoạt động đó nhằm biến đổi bộ mặt xã hội, giúp cho xã hội hoàn toàn có nếp sinh hoạt mới mẻ. Ngoài ra, còn có Bảo Cô Quân lo về xã hội (1) mở mang dưỡng lão viện, Aáu trĩ viện … Con người có ăn, có mặc rồi mới dạy lễ nghĩa được "phú quý sinh lễ nghi". Bởi lẽ, đạo không chỉ lo cho con người, ở kiếp sống trần gian mà phải độ cả kiếp sống trong cõi vô hình, như thế mới gọi là tận độ chúng sanh.

Mặt khác, giáo lý Cao Đài dạy phải bảo trọng tính mạng, nghĩa là cấp tự tử : "Sự sống là Thầy mà giết Thầy đâu phải dễ" (TN2, tr.63). Đạo lý cũng lên án sự chém giết lẫn nhau: "Vì vạn vật do Đức Từ bi mà sanh hóa trong cả thế giới nên đồng nhất thể. Tính hóa sanh của Đức Đại từ bi cũng nhân đó mà vô biên vô giới … Hễ giết một mạng sống thì đau lòng Đức Đại từ bi" (TN2, tr.88). Lòng thương yêu của Đức Chí Tôn vô tận dù trong đạo hay ngoài đạo và ngay cả kẻ thù nữa, nếu họ nguy tại thì cũng phải ra tay cứu vớt (TN2, tr.93) vì "sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh" (TN2, tr.43).

2/- Dân Đức : Người theo đạo thì dạy đạo, người theo đạo thì lấy cái Đức của người đạo để cảm hóa chúng sanh. Đức Chí Tôn dạy : "Các con thương mến nhau, chia vui sớt nhọc nhau, ấy là các con hiến cho Thầy sự vui vẻ đó" (TN1, tr.90), còn "bác ái là lòng thương xót sanh linh hơn thân mình, cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trong bằng trời đất … Còn chí thành là mỗi việc lấy lòng thành thật mà đối đãi nhau" (TN2, tr.45)

Do đó, con người cần phải tránh những điều tổn Đức, tàn ác. Đạo Cao Đài coi đạo đức, nếu có tài mà thiếu đức thì chỉ dùng bạo tàn để đàn áp nhân sanh, đó là mầm móng tạo loạn.
Lấy Thánh Đức dìu đời giác ngộ
Dụng bạo tàn đấu phải chỗ an bang
Hoặc : Đức lập quyền dân đặng chu toàn
Đời xua đức nhân gian thống khổ.

Lấy chí nhân thay cường bạo, lấy đạo nghĩa thắng hung tàn (2) trong lịch sử Việt Nam, đã dẫn tới nhiều thành công tốt đẹp. Hai chữ nhân nghĩa (trước mặt tiền Tòa Thánh) có ý nghĩa hết sức rộng lớn. Cả bộ sách 7 quyển của Thầy Mạnh Tử cũng chỉ có 2 chữ nhân nghĩa. Tấm lòng con người đối với người là lòng nhân ái. Tấm lòng con người đối với hết thảy mọi chúng sinh là lòng bác ái, dẫn tới tính từ bi, hỉ xả. Chữ nhân thể hiện bằng tình thương thì chữ nghĩa thể hiện bằng cách cư xử, nghĩa đồng bào, nghĩa nhân loại. Chữ nghĩa dẫn con người đến lòng hiếu để đối với mẹ cha, anh em. Con người đối với nhau thiếu lễ nghĩa thì xã hội đó sắp loạn lạc, sắp suy tàn. Lễ nghĩa làm cho con người gắn bó với nhau, thương mến nhau, thiện cảm nhau, từ đó mới linh thông dẫn tới đại đồng nhân loại.

Tóm lại, nhân nghĩa là mục tiêu của chính sách hòa bình yên tĩnh, thực hiện trọn vẹn sẽ góp một phần lớn vào giáo thuyết đại đồng nhân loại.

 (2) NGUYỄN TRÃI, Bình Ngô đại cáo, in trong VN sử lược.

3/ - Dân hòa : Khi cuộc sống được đảm bảo, con người mới lo trau dồi nhân phẩm đạo đức mình. Tuy nhiên, dân nhân chưa được hòa hẳn, cần phải sinh hoạt về mặt chính trị đất nước. Như thế, đạo đời mới tương đắc.

Theo Nguyễn Đăng Thục, đạo đời tương đắc ngày xưa là trong cái đình, ngày nay là trong Thánh Thất Cao Đài, chớ không phải cái chùa (Đạo Phật), cái miếu Văn Thánh (Đạo Nho), cái am (đạo lão), cái nhà thờ (Thiên Chúa Giáo) (3)

Ta xác định rõ là tại hậu diện các Thánh thất là nơi bàn việc đạo, và quốc kế dân sinh, chính trị hiểu theo nghĩa hẹp, chớ không phải chính trị Đảng phái, mục đích là để dìu đời :
Đời lấn đạo, đời xa cội phước
Đạo dìu đời vận nước mới an

Đức Hộ Pháp đã ví đạo như nước, đời như thuyền. Nếu nước trong sạch, không nhiều cặn bã thì thuyền đi nhanh, khi nước dâng lên thì thuyền lên, khi nước nổi ba đào có thể nhận chìm thuyền, chớ thuyền không thể làm nước cạn được. Nói một cách khác, khi đạo chinh nghiêng thì con người xa đạo. Đó là hiện tượng ai tai cho nhân loại.

Như thế, muốn nhân loại đại đồng, người Cao Đài phải nhập thế, xả thân giúp đời, không đóng kín cửa tu riêng. Mỗi tín đồ phải tác động, cảm hóa được ít nhất 12 người theo lẽ phải đạo đức. Khi con người có cuộc sống được đảm bảo, nhân nghĩa đạo đức đầy đủ thì xã hội an cư lạc nghiệp. Nếu mỗi nước đều được như vậy thì thế giới hòa bình, nhân loại sẽ tiến tới nước đại đồng.

Muốn đạt đến thế giới đại đồng, theo giáo lý Cao Đài, phải đủ 3 điều kiện : hòa bình, dân chủ, tự do như câu liểng ở các cửa Thánh Thất.

Cao thượng Chí Tôn Đại Đạo HÒA BÌNH, DÂN CHỦ mục,
Đài tiền sùng bái Tam kỳ cộng hưởng TỰ DO quyền.
Đây coi như bản tuyên ngôn về mặt đời, câu liễng hướng ra mặt ngoài Thánh Thất của Đạo Cao Đài, xác định rõ là trong kỳ ba phổ độ này, Đức Chí Tôn tuy lập đạo ở nước thuộc địa Pháp, nhưng Ngài sẽ chuyển cho nước ấy được hòa bình, dân chủ. Ngài mở đạo nơi nào ách nước nơi ấy hầu mãn, (TN2, tr.14), bằng cách gieo những tư tưởng tiến bộ mà ta đã liệu dẫn trước, hoặc tác động đến nhà cầm quyền buộc họ phải thay đổi chánh sách cai trị, hoặc thức tỉnh dân nước đứng lên cởi ách nô lệ. Nói một cách khác, Đạo Cao Đài là trung tâm cải cách kinh tế văn hóa xã hội tiến bộ, không có tham vọng phục quốc hay tranh lấy chính quyền. Câu liễn trên có tác dụng như một hải đăng đi đường, một tiên tri mặc khải, chớ không tiêu biểu cho một tham vọng chính trị nào. Sở dĩ chúng ta tôn trọng câu liễn đó vì lời tiên tri của Đức Cao Đài quá chính xác, quá đúng nên người tín đồ Cao Đài qua đó cũng mong mỏi được quyền tự do dân chủ, để truyền bá tôn giáo mình.

(1) NGUYỄN ĐĂNG THỤC, "Đi tìm luật căn bản triết học Cao Đài" Sài gòn nhân sinh số 7, tr.6, 1964.

Người nào cũng hiểu rằng hòa bình dân chủ không phải tự nó đến mà phải có tác động của con người. Thế nên, năm 1956, Đức Phạm Hộ Pháp đưa ra chính sách hòa bình chung sống gửi cho hầu hết các nước trên thế giới. Cương lĩnh nêu rõ hòa bình rồi mới chung sống đồng đẳng. Dù nhược tiểu hay cường quốc, không ai được xâm lấn ai vì ai cũng cần sống và đều là con cái Đức Chí Tôn.

Có người nghi ngờ xã hội Cao Đài không phải là một xã hội dân chủ vì trọng kinh Xuân Thu của Khổng Giáo Tôn quân. Thật ra Đạo Cao Đài không chủ trương một xã hội phóng khoáng kiểu phương Tây mà một xã hội dân chủ huyền nhiệm: "Ý dân là ý trời" hay dân chủ tập trung tức là trọng trí thức toàn thể nhân sanh. Đức tin chung của nhân sanh trụ thành khối nguyện vọng chung đó. Thế nên, mới gọi ý dân là ý trời, nghĩa là Đức Chí Tôn là người phán quyết cuối cùng, nhưng phán quyết ấy không bao giờ ngược lại lòng dân. Đó không phải hình thức dân chủ huyền nhiệm cao độ sao ?

Vả lại, Đạo Cao Đài dù chọn Kinh Xuân thu làm bửu pháp, thế cũng chỉ chọn cái triết lý tiêu biểu : "chính danh, định phận". Hơn nữa, Khổng giáo lấy dân chúng làm căn bản, xem dân chúng là nguồn trí tuệ cao cả nhất. Chính trị Khổng giáo quan niệm kẻ cùng đinh và người cai trị trên nguyên tắc đều bình đẳng. Điều này đã được chứng minh trong thời đại hoàng kim của Khổng giáo : Thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Một chính phủ lý tưởng, theo Nho giáo, phải là chính phủ vì dân, mặc dù hình thức quân chủ hay dân chủ (4). Nói một cách khác, chính thể không quan trọng bằng người lãnh đạo. Anh quốc và Nhật Bản chẳng hạn, tuy chế độ quân chủ nhưng người dân được hưởng nhiều quyền tự do dân chủ.

Sau khi chuẩn bị đầy đủ về tinh thần (đạo đức), vật chất (bảo sanh), đạo đời tương đắc (dân hòa) và lý tưởng thế giới đại đồng, người tín đồ Cao Đài có điều kiện nhập thế để truyền bá tư tưởng của tôn giáo mình. Giáo lý Cao Đài không chủ trương giành chính quyền mà nhiệm vụ chính yếu là nâng cao sự an sinh xã hội, gây ý thức cho mọi ngưởi có tư tưởng hòa bình, dân chủ, tự do hầu giúp cho đất nước mà họ đang sống có một bộ mặt mới tiến bộ. chủ thuyết đạo đời tương đắc là đạo ở trong lòng đời, đời phải nương nhờ đạo. Nói một cách khác, đạo có nhiệm vụ giúp đời đạt những mục đích hòa bình, dân chủ, tự do mà không nhằm nắm lấy chính quyền.
Nợ nước hai vai nặng gánh gồng,
Thần dân nhiệm vụ phải lo xong. (KL, tr.136)
Như thế, chính sách cộng hòa yên tĩnh là phương tiện để xây dựng một thế giới đại đồng. Nó có tác dụng như những lời khuyên đạo đức, những lời Thánh dạy. Nó có thành tựu hay không là tuỳ thuộc vào sự giác ngộ của nhân loại và sự truyền bá Đạo Cao Đài trên thế giới.

(4)TRẦN QUANG THUẬN, tư tưởng chính trị trong triết học Khổng giáo, Sài gòn, Thư lâm ấn quán 1961, tr.174

CHƯƠNG III

ÐẠO CAO ĐÀI, MỘT TÔN GIÁO HOÀN CẦU

Ngay từ những buổi đầu khai Đạo, không những người Pháp ở Sài gòn hoặc ở Pnompênh theo Đạo Cao Đài mà ngay cả trí thức tại nước Pháp và nhiều nơi khác cũng xin theo Đạo, hoặc xin tìm hiểu giáo lý của nền tân tôn giáo. Ông Henri Regnault đại diện Cao Đài giáo tại Pháp quốc, Phó chủ tịch ủy ban quốc tế của hội nghị thần linh học thế giới (M. Henri Regnault, Vice - Président de I'u nion Spirite Francaise, Président du Comité Fracais du Conseil spiritel mondial, trésorier-adjoint du conseil supême du C.S.M, délégue Caodaisme) là một trong những người trí thức Pháp nhiệt tình nhất có nhận xét tinh tế khách quan về Đạo Cao Đài. Trong Hội nghị thần linh học thế giới năm 1952, trong bản phúc trình ông f9ã xác nhận rằng Đạo Cao Đài là một tôn giáo hoàn cầu, phù hợp với khoa học và triết học. Sau đây, chúng tôi xin dịch nguyên bản phúc trình đó.
1/- Đạo Cao Đài, tôn giáo hoàn cầu : năm vừa qua tôi (tức H.Regnault) đã có dịp điều trần ở hội nghị Bruxelles (Bỉ, 1951) (1) rằng Cao Đài giáo có thể có một trách vụ quan trọng trong công việc thực hiện một nền tôn giáo hoàn cầu.

Tôi căn cứ vào những đề mục mà những người tổ chức hội nghị Luân đôn (1936) đã nêu ra để khảo cứu xem một tôn giáo như Cao Đài giáo xây dựng căn bản Thần linh học, có thể giúp ta hiểu ra thêm việc thống hợp tôn giáo, triết lý, khoa học, tâm lý học và nghệ thuật hay không ?

Từ cuộc Hội nghị Lausane (Thụy Sĩ 1948) đến nay, năm nào tôi cũng có cơ hội để làm cho quí vị hội viên phải lưu tâm đến Đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài có một thái độ rộng rãi đối với những tôn giáo khác, tôn trọng tín ngưỡng của mọi người cũng như chơn lý nguồn cội ở Đức Chí Tôn vô biên, vô tận, vô thường, vô danh, vô đối.

Nếu ta phải tổng hợp tôn giáo khoa học, triết học, tâm lý học nghệ thuật để tìm hiểu Thần linh thì tôi cho Cao Đài giáo có thể rất có ích cho chúng ta để đạt tới mụch đích ấy.

2/- Đạo Cao Đài với tôn giáo khác : Là một tôn giáo, Đạo Cao Đài liên hợp hết thảy các tôn giáo sau đây.

Trong Hội nghị Thần linh thế giới, các chi ngành thần linh học đều có cử đại biểu. Tuy không có người Cao Đài nào dự để thấy rằng chỉ có Cao Đài giáo khả dĩ thực hiện được việc tổng hợp mà đại hội thường niên 1952 theo đuổi. Nhưng người tín đồ Cao Đài nào cũng biết rằng Đạo Cao Đài chung góp một phần quan trọng vào việc thực hiện mục đích đó.

3/- Đạo Cao Đài với khoa học và triết học : Đạo Cao Đài căn cứ vào Thần linh học (2) mà thần linh học là một khoa học và một triết lý. Năm 1950, trong một buổi họp của Hội nghị Haywards Henth, tôi đã có dịp định nghĩa rõ ràng thế nào là thần linh học, một khoa học không nên lầm lẫn với mê tín quàng xiêng.

(1) Những chữ trong dấu ngoặc trong bản phúc trình này là chú thích của người viết.
(2) Ở đây tác giả muốn nói Đạo Cao Đài công nhận có linh hồn mà tiếp điển bằng cách thông linh (Théophile) chớ không phải Đạo Cao Đài từ TTL mà ra.

Thần linh học làm cho ta thấy chắc chắn rằng linh hồn có thực, tuy xác chết mà hồn vẫn còn và giữa người sống và người chết vẫn còn giao cảm được.

4/- Đạo Cao Đài và tâm lý học : Đạo Cao Đài có những liên quan mật thiết với tâm lý học. Đức Thượng Đế đã giáng trần khai đạo, nhưng Ngài không đụng chạm đến cái tôn giáo hiện hữu.

Người tín đồ Cao Đài cung kính cầu nguyện những vị Thần Thánh, Tiên Phật đã giáng trần để cứu vớt nhơn sanh. Họ không quên một vị nào mà họ thờ tất cả từ Phật Thích Ca, Chúa Jésus, Đức Khổng Tử đến các vị Tiên Phật thời thượng cổ, Thần Thánh, Châu Aâu, Châu Á…

Người có đức tin như người không đức tin đều có thể vào trong Thánh Thất Cao Đài để trầm tư mặc cảm và cầu nguyện theo sở vọng. Đó chẳng phải là một lý thuyết tâm lý sâu xa hay sao ? Cái đó chẳng có gì lạ. Vì Đạo Cao Đài nguồn gốc là ở chỗ siêu trần mà lại là sự nghiệp của nhân sanh.

Căn nguyên của Đạo Cao Đài là ở đó, là ở chỗ truyền đạt nghĩa hòa bình, lòng nhân đức, tình tương thân, tương ái và lý Đại đồng.

5/- Đạo Cao Đài và nghệ thuật : Những vị hội viên có mặt tại Hội nghị Bruxelles (Bỉ 1951) đã nhận được cuốn sách nhỏ trong đó có in bản phúc trình của tôi (H.Regnault). trong sách đó có nhiều hình vẽ, những vị nào có dự hội nghị Assise, Haywards Henth, Bruxelles thì đã nhận được cuốn di bút của ông G.Gobron nói về lịch sử và giáo lý Đạo Cao Đài. Cuốn sách đó có nhiều tranh ảnh. Cái đó tất đã thấy rằng trong nền tân tôn giáo này, nghệ thuật đã có một địa vị rất quan trọng.

Kiến trúc trong ngoài Tòa Thánh là một mỹ thuật đáng được chú ý đặc biệt : Khi trông ngắm Tòa Thánh Tây Ninh, mặt trước đền, mặt bên và trong đền những tượng Phật Thích Ca, Jésus, Lão Tử và thiên bàn thờ Đức Chí Tôn, toát lên một nghệ thuật độc đáo.

Như thế, dưới sự nghiên cứu và lối nhìn một cách khoa học, nhà học giả H.Regnault từ lâu đã xác nhận Đạo Cao Đài là một tôn giáo toàn cầu.

CHƯƠNG IV

HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO

Để phổ thông nền chơn đạo ra nước ngoài, một số trí thức Cao Đài nghĩ đến phương tiện báo chí. Trong giai đoạn đầu chỉ xem một ít bài vào báo hàng ngày như tờ Eùcho Annamite (1920-1940) của Nguyễn Phan Long (đắc phong Giáo sư). Năm 1928 Nguyễn Thế Phương chủ trương tờ L'Action Indochine ở Sài gòn, cơ quan ngôn luận chuyên biệt phổ biến giáo lý và nghi thức tu học theo Đạo Cao Đài, khuyên răn mọi tín đồ phải sống liêm khiết, đơn giản, giữ thể xác, tinh thần và đạo đức cho trong sạch.
Tháng 7-1930 ông Nguyễn Văn Ca (đắc phong Phối Sư) sáng lập tờ Revue Caodaiste do Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu làm chủ bút, báo quán đặt tại Thánh Thất Cầu Kho (nay ở đường Nguyễn Cư Trinh, Sài Gòn). Tạp chí này xuất bản mỗi tháng một lần toàn bằng Pháp ngữ để phổ thông nền chơn giáo.

Việc truyền đạo bằng báo chí có kết quả nhất định, nếu lồng vào báo thương mại thì bị chìm trong bể tin tức, nếu làm báo chuyên nghiệp thì bị thiếu tài chánh để sinh tồn. Trong lời phi lộ, tờ số 1, xuất bản tháng 7-1930 có viết : "từ lâu Đạo Cao Đài dự định cho một tờ báo hoặc bằng Tiếng Việt hoặc bằng tiếng Pháp để trình bày tôn chỉ của mình và bênh vực quyền tự do tín ngưỡng. Vì thiếu cơ qian ngôn luận như thế mà 1 số người lưu ý đến vấn đề tôn giáo không khỏi thắc mắc, có thể gây những điều xuyên tạc bịa đặt, khăn khăn phán cho Đạo Cao Đài một mục đích khác, không phải của Đạo".

Tờ tạp chí mà chúng tôi cấp hiến cho các độc giả phương Tây cũng như Việt Nam sẽ trả lời cho hai nhu cầu thiết yếu :

1/ - Chỉ rõ Đạo Cao Đài dưới nét thực của nó.
2/ - Phá tan được chừng nào hay chừng nấy bầu không khí khinh khi và ngờ vực bao trùm Đạo Cao Đài từ trước tới nay (Depuis longtemps, le Caodaisme devait publiec un organe rédigé soit en Annamite, soit en francais pour I'exposé de la doetrine et la défense de sa foi. Hrésulte de labsence d'telorgane … questions religieuses et d'expose de ce fait à desunsinuation, voirè à des accusations quis'obstinent à lui prêter un autre but que celui quil poursuit vélơitablanent.

La Revue quenous présentons aujoudhui, tant au public enropéen qu'aux Annamites de cultnre francaise r'epond done à un double besoin :

1/- Montrer le Caodaisme sous son vraijonr
2/- Dissiper autant que faire se pent, l'atmesphèra de méfiance et de suspicion don't il est jusqu'ici devolppé.

Căn cứ theo địa chỉ gửi báo thì tờ báo này được lưu hành hầu hết trên thế giới như Châu Aâu (Pháp, Đức, Ý, Anh, Thụy Sĩ …) Châu Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) và Châu Phi.

Nhờ đó, mà ở Đức lúc bấy giờ có đạo Eglise Gnostique d'Allemague đã viết thư qua Việt Nam xin hiệp nhứt với Đạo Cao Đài.

Nhiều báo bằng tiếng Pháp trích đăng bài của tờ LaRevue Caodaisme như Saigon Dimanche, xuất bản ngày 16/10/1932 đã viết : "Trong những bài báo những buổi diễn thuyết các nhà lãnh đạo Cao Đài dự định thiết lập Thánh Thất Cao Đài để hoạt động với một số tín hữu, Châu Aâu … các nhà truyền giáo Đạo Cao Đài sẽ mở rộng hoạt động của mình ra khắp thế giới.

Báo La Presse Indochinoise ra ngày 23/10/1932 viết về Đạo Cao Đài như sau: "Đạo Cao Đài có thể đảm bảo sự thành công của mình trong các vùng Germanie và những vùng Hồi giáo …. Và Đạo Cao Đài đã chậm rãi đi tới. Rồi đây, họ sẽ đi đến thủ đô Paris dựng lên Thánh Thất Cao Đài".

Không những báo chí ở Đông Dương cổ vũ cho Đạo Cao Đài mà ngay cả trên đất Pháp cũng rất sôi nổi. Tờ La libre Opinion ra ngày 8/11/1931 viết : "Trong lúc toàn thế giới đang lan tràn một làn sóng thù hằn, thì ở phương Đông xa xăm, ai biết Đạo Cao Đài lại ra đời đúng lúc".

Báo Progrès Gvique ra ngày 19/12/1931 cũng viết : "Người ta không thể chối cãi rằng Đạo Cao Đài làm sống lại cái quyền hạn tối thiêng liêng của tất cả mọi người, những tư tưởng của họ rất quãng đại, không những vô hạn mà rất nhân từ".

Những báo chí buổi đầu đã góp phần quan trọng trong việc làm sáng tỏ tôn chỉ, mục đích của nền tân tôn giáo.

Ngay năm sau khi khai đạo ở Gò Kén (1926) vào trung tuần tháng 5-1927, cơ quan truyền giáo ra nước ngoài tức Hội Thánh Ngoại Giáo (Mission étrangèra) đặt trụ sở tại đường Lanlande Lalan (Phnom Pênh). Đây là phần chuyển pháp thiêng liêng tích cực nhất trong việc truyền bá bằng báo chí.

Hội Thánh ngoại giáo dưới sự chỉ đạo của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tức đại văn hào nước Pháp Victor Hugo và dưới sự bảo hộ hữu hình của Đức Phạm Hộ Pháp. Vào đàn đêm 20/3/1932 tại Thánh Thất Kiêm Biên, Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn dạy : "Bần đạo khi đắc lịnh làm chưởng đạo lập Hội Thánh ngoại giáo , giáo đạo tha phương, thì tùy lòng bác ái của Đức Chí Tôn, mở rộng cửa thế cho nhơn sanh dâng công đổi vị. Bần đạo chẳng kể nguyên nhân, hóa nhân hay quỉ nhân, hễ biết lập công thì thành Đạo". (1)

Hội Thánh ngoại giáo vừa tròn một năm, số tín đồ tăng lên mười ngàn người. Trong đó, nhiều vị được thăng cấp chủ trưởng Hội Thánh        ngoại giáo như Giáo sư Thượng Bảy Thanh (1927-1937), Cao Tiếp Đạo, Giáo sư Hương Phụng, Giáo sư Thượng Chữ Thanh. về sau có hai vị được bổ từ Tòa Thánh Tây Ninh. Tại Tòa Thánh Tây Ninh cũng có thiết lập một tòa Hội Thánh ngoại giáo (còn gọi nhà Vạn Linh) đối diện với Đầu Sư Đường.

(1) Xin xem Les messages Spirites (Thánh giáo dạy đạo nước ngoài) Tây Ninh 1962

1/- Truyền Đạo tại Campuchia (2) :
Ngay từ ngày mới lập Đạo, người Khmer từ xứ Campuchia không quản ngại xa xôi đã đến cầu đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh và ở lại làm công quả. Họ mang theo cả gạo, thức ăn, khi nào hết lương thực mới trở về xứ.

Ngày 2/6/1927, sở tuần cảnh Pháp báo cáo với nhà đương cuộc là có 5.000 người Khmer đến lễ bái trước chánh điện Tòa Thánh Tây Ninh và trước pho tượng Đức Phật Thích Ca cưỡi ngựa tầm đạo trời Đại đồng xã. Khi số người tăng lên 30 ngàn thì Bộ trưởng tôn giáo ra thông tư ngày 23/5/1927 trong có khoản như sau : "Giáo lý nhà Phật mà dân Khmer đã thấm nhuần đang dẫn đến chơn thiện và liêm khiết. Ngoài ra không một tôn giáo phái nào khác đến choán chỗ trên các địa phương của ta".

Tháng sau, các sư sải Campuchia được chỉ thị rõ ràng là họ có bổn phận đẩy lui giáo lý Cao Đài trái nghịch Hiến pháp vương quốc, trái với những điều giới răn Phật Tổ và các tác phong của hàng Phật tử.

Đến ngày 22-12-1927, sắc lịnh của vua Campuchia lên án Đạo Cao Đài và định hình phạt đối với người Cao Miên nào nhập môn theo Đạo Cao Đài. Việc lẽ rằng, theo điều 15 của Hòa ước bảo hộ (11-8-1963) và những sắc lịnh của nhà vua (ngày 21-11-1903) ngày 6-8-1919 và 31-12-1925). Thêm vào các điều 149, 213 và 214 của bộ luật Campuchia thì chỉ có Phật giáo và Thiên Chúa      giáo mới được hành lễ tự do tại xứ Campuchia mà thôi.

 (2) Xem thêm : P.BERNADINI, Le Caodaisme au Cambodge (tiến sĩ đệ tam cấp). Đại học Paris VII, 1974, 451 tr.

Vì lẽ đó, người Khmer bớt theo Đạo. Các vị chức sắc bèn chú trọng đến Việt kiều và Hoa kiều mà việc truyền Đạo không bị gián đoạn. Để an lòng chính quyền bảo hộ Pháp, các vị chức sắc và đạo hữu Cao Đài đã làm tờ cam kết như sau:
"Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, chức sắc và thiện nam tín nữ cư trú tại xứ Cao Miên đồng ý với nhau cam kết với chính quyền Pháp và chính phủ Cao Miên rằng : Chúng tôi nguyên sinh hoạt theo đời sống đạo đức thuần túy, trọn tuân luật pháp chơn truyền Đại Đạo Cao Đài với tôn chỉ qui nguyên Tam giáo, hiệp nhứt Ngũ chi, hầu đem nhơn loại đến đại đồng đặng hưởng hòa bình hạnh phúc. Chúng tôi xin cam kết với chính phủ là không bao giờ làm rối rắm cuộc trị an. Nếu chúng tôi thất hứa thì cam chịu tội tử hình".
Dù vậy, vẫn bị công an theo dõi nên việc truyền giáo hết sức thận trọng khéo léo, bằng cách thiết đàn tại tư gia và truyền bá giáo lý đạo trong các dịp quan, hôn, tang, tế.

Về sau, Khâm sứ bảo hộ Vương quốc Campuchia thương lượng với Thống đốc Nam Kỳ và nhà vua, cả ba đồng thỏa thuận khoan hồng cho Đạo Cao Đài hành giáo nơi đất Campuchia nhưng không được truyền đạo và không được cất thêm Thánh Thất.

Đức Quyền Giáo Tông nhân cơ hội đó, ban bố sự tự do tín ngưỡng cho các tín hữu và thông báo với các chánh tham biện, chủ tỉnh các nơi để tường. Giáo sư Thượng Bảy Thanh bắt đầu vận động cất một Thánh Thất lớn để làm cơ sở của trung tâm truyền giáo tại xứ chùa tháp. Số người theo đạo tăng lên, các hương chức giúp đỡ phương tiện. Vì thế, chính phủ bảo hộ lại bãi bỏ chính sách khoan hồng, bắt buộc phải thi hành những điều ngăn cấm của Vương quốc.

Ngày 4-7-1930, Khâm sứ bảo hộ Pháp chỉ thị cho các chủ tỉnh là thủ tiêu cho đến khi có lệnh mới những biện pháp khoan hồng mà chính phủ và hoàng gia Campuchia đã ban cho Đạo Cao Đài từ trước. Như vậy, kể từ đó trở đi, bất luận các tổ chức lễ bái dưới hình thức nào đều bị ngăn cấm. Ai không tuân hành phải trục xuất ra khỏi xứ Campuchia.

Hậu quả của chỉ thị này là các vụ bắt bớ đạo hữu, đập phá nơi thờ phượng. Các buổi hành lễ dù có xin phép vẫn bị đàn áp. Giáo sư Thượng Bảy Thanh, chủ trưởng cơ quan truyền giáo đệ đơn xin phép cúng rằm tại Thánh Thất (8-9-1930) nhưng vẫn bị ngăn cấm và bị bắt câu lưu. Sau hai ngày bị giam ông mới được giấy thông báo nhà cầm quyền bác đơn xin phép.

Trải bao cơn sóng gió, chức sắc truyền giáo vẫn một lòng kiên trì gieo truyền mối đạo. Vững lòng hơn nhờ nhiều người Pháp như luật sư Jacob và Lascaux, nhất là các nhà văn Gabriel Gobron giúp đỡ can thiệp với Hội nhân quyền và các yếu nhân chính trị tại nước Pháp.

Ngày 3-9-1931 tờ la Grippe số 36 và các số kế tiếp bêu xấu thái độ của viên Khâm Sứ Campuchia là đe dọa ông Lê Văn Bảy bằng câu "Không có vấn đề đối xử hòa bình với người Đạo Cao Đài" và thẳng tay lên án các viên chức thuộc địa. Tờ báo này còn đả kích việc thành lập tổ chức "Kiêm Biên Phật Giáo Nghiên Cứu Viện" do nghị định ngày 25-1-1930 của toàn quyền Pierre Pasquier (3) có mục đích phổ biến Phật giáo tiểu thừa trong khắp xứ Ai Lao và Campuchia. Báo này tố ngay là P.Pasquier có tham vọng làm giáo chủ Phật giáo để chống lại Giáo tông Lê Văn Trung người đang cầm quyền Đạo Cao Đài.

(3) Toàn quyền P.Pasquier cấm đạo, xem TRẦN VĂN RAÏNG, Đại Đại Sử cương (quyển II). Tây Ninh 1971, tr.44-45

Do sự can thiệp của toàn quyền P.Pasquier, người Campuchia không nhập môn theo đạo nữa, chỉ còn Hoa kiều và Việt kiều mà thôi. Đến năm 1951, Hội Thánh Ngoại Giáo lập bộ đạo thì con số tín đồ là 73.167 người, chỉ có 8.210 người Khmer , còn lại là Hoa kiều và Việt Kiều. Đến năm 1956, Đức Hộ Pháp lưu vong sang Campuchia việc truyền giáo được tiếp tục.

2/ - Truyền giáo tại Trung Hoa :
Năm 1937, ông Lê Văn Bảy được bổ đi truyền giáo tại Trung Hoa. Ông đến tỉnh Vân Nam và lập văn phòng tại Vân Nam phủ. Ông chỉ hành đạo ở đây có một năm rồi trở về Tòa Thánh.

Năm 1948, Đức Phạm Hộ Pháp có sang Hương cảng và đặt một số cơ sở ở đây. Cũng nên thêm rằng Hiền tài Mã Nguyên Lương, người Trung Hoa, tướng của quân đội Quốc Dân Đảng sống lưu vong sau khi Mao Trạch Đông nắm chính quyền ở Hoa lục (1949). Oâng ở tại ngoại ô Tòa Thánh, đã dịch xong Pháp Truyền Chánh và có ý định sẽ trở lại Trung Quốc truyền đạo. Chẳng may, tuổi già sức yếu, ông mất 1972.

3/ - Truyền giáo tại nước Pháp :
Năm 1931, chính phủ bảo hộ tại Campuchia phái ông Trần Hiển Trung sang Paris công tác. Nhân đó, ông có dịp tiếp xúc và gây thiện cảm với nhiều chính khách như các tổng trưởng Albert Sanaut, Marius Moutet, các tổng thư ký Henri Guernut, Emile Kahn, Hội nhân quyền, nhất là vợ chồng nhà văn Gabriel Gobron. Oâng G.Gobron sau đắc vị Tiếp Dẫn Đạo Nhơn. nhờ vậy, các vụ rắc rối ở Nam Kỳ và Vương Quốc Campuchia được giải quyết ổn thỏa.

Năm 1954, Đức Phạm Hộ Pháp có sang Pháp (thuyết lượng về chánh tỉnh VN ?) và viếng mộ phần đại văn hàn Victor Hugo tức Đức Nguyệt Tâm chơn nhơn tại điện Panthéon. Năm trước, Hội Thánh đã ban cho Lễ sanh Thượng Minh Thanh ở tại Balê chức chủ trưởng "Hải ngoại Cao Đài truyền giáo hội".

Báo Pháp cũng ca ngợi Đạo Cao Đài có lý tưởng hợp nhất các tôn giáo để đem lại hòa bình trên thế giới.

Tiếp dẫn Đạo chơn nhơn Gabriel Gobron đã đại diện Hội Thánh tham dự các Hội nghị sau :
- Hội nghị quốc tế về thần học tại Barcelone (Tây Ban Nha) năm 1934.
- Hội nghị quốc tế về Tân giáo tại Luân Đôn (Anh quốc) năm 1936.
- Hội nghị quốc tế về Thần học tại Glasgour (Anh quốc) năm 1937.
- Hội nghị quốc tế về tôn giáo tại Paris (Pháp) năm 1939.
Sau đó, ông qua đời, ông Henri Regnault đại diện Cao Đài giáo tại Pháp quốc thay mặt Hội Thánh Cao Đài dự các hội nghị sau :
- Hội nghị quốc tế về Thần học tại lausane (Thụy Sĩ) năm 1948.
- Hội nghị quốc tế về Thần học ở Haywards Henth năm 1950.
- Hội nghị quốc tế về tôn giáo ở Stockholm (Thụy Điển) năm 1951.
- Hội nghị quốc tế tôn giáo ở Bruxelle (Bỉ) năm 1951.

Trong Hội nghị ở Bruxelle được báo chí ghi nhận : Đạo Cao Đài có thái độ rất khoan hòa rộng rãi đối với các tôn giáo khác, tôn trọng tín ngưỡng của mọi người, cũng như tôn trọng chơn lý mà nguồn gốc từ Đức Chí Tôn vô biên, vô tận, tối cao tối thượng. Nếu ta tổng hợp tôn giáo với khoa học, triết học, tâm lý học và nghệ thuật để tiêu biểu các thần linh thì Đạo Cao Đài có khả năng giúp chúng ta đến mục tiêu đó.

4/ - Truyền giáo tại Nhật Bản :
Năm 1935 ông Isao Deguchi , giáo chủ Đạo Đại Bản Nhật có liên lạc với Đầu sư Thái Thơ Thanh tìm hiểu về Đạo Cao Đài.

Năm 1954, Đức Phạm Hộ Pháp sang Nhật rước tro Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và truyền đạo, có phong cho ông Naga-Fuchi người Nhật, Lễ Sanh phái Thái. Năm 1972, Đạo Đại Bản Nhật mời Hội Thánh Cao Đài sang Nhật thuyết giáo về Đạo Cao Đài, sau đó một phái đoàn Đạo Đại Bản có sang tìm hiểu đạo lý tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Năm 1955, Hội nghị tôn giáo ở Atamis (Nhật), một giáo sĩ Nhật phát biểu : "Tôn giáo từ xưa đến nay, mắc ba chứng bịnh trầm kha là tự tôn tự đại, tự mãn tự túc và độc thiện kỳ thân, không chịu tham gia các cuộc hội thảo chung. Nếu không sớm sửa chữa, sẽ suy yếu và tự diệt. Thế giới đang mắc phải đám cháy to lớn, nếu tôn giáo cứ tiếp tục hoạt động riêng rẽ thì chỉ là 1 gáo nước, còn hợp lại sẽ trở thành một khối nước khổng lồ để cứu nhơn sanh và chúng ta khuyên Cao Đài giáo tiếp tục sứ mạng của họ."

5/ - Truyền Đạo tại các nước khác :
Ở Thái Lan, Ai Lao, Aán Độ và nhiều nơi khác đều có truyền đạo nhưng thiếu nuôi dưỡng hoặc ảnh hưởng hoàn cảnh bên ngoài nên không bành trướng được.

Chẳng hạ, vào những năm 1936, 1937, nhà thần bí triết học Đức có liên lạc thư từ với Tòa Thánh Tây Ninh, xin tài liệu về Đạo Cao Đài để tham khảo. Hậu quả của việc đó là năm 1940-1941 Đạo Cao Đài bị nghi ngờ là có liên lạc với Đức quốc xã nên các chức sắc đại Thiên phong bị bắt. (4)

Từ năm 1961, tạp chí National geograpic số tháng 10, có đăng bài biên khảo của Peter White phân tách về giáo lý Đạo Cao Đài. Đồng thời bác sĩ Quinter Lyon thuộc đại học đường Missisipi cũng viết bài "The great religion" để làm tài liệu tham khảo cho trường.

(4) Các Thánh Thất Cao Đài trên nóc có đắp chữ vạn theo chiều đứng và tỉnh …………(ngược chiều kim đồng hồ). Chữ vạn của quốc xã Đức nằm theo dấu nhơn và động (cùng chiều kim đồng hồ). Pháp dựa vào chữ vạn để đàn áp Đạo Cao Đài đó là một sự nhầm lẫn.

Năm 1962, ông Arthur Moor gửi thư đến Tòa Thánh Tây Ninh xin tài liệu về Đạo, trong đó ghi nhận về việc cầu cơ đang phổ phát. Cùng năm đó, bác sĩ H.B.Cyran ở Bollant cũng gởi thơ xin tài liệu tham khảo về nền Tân tôn giáo.

Năm 1970, trong tập san nghiên cứu về Đông phương của trường đại học Luân Đôn (Anh quốc), giáo sư R.B.Smith liên tiếp trong 2 tập 2 và 3 (quyển 33) ông viết : Khai dẫn về Đạo Cao Đài (phần I viết về nguồn gốc và lịch sử), phần 2 viết về tín ngưỡng và tổ chức giáo hội.

Ngoài ra, nhiều sinh viên Tiến sĩ, Cao học từ nhiều nước, nhiều nơi trên thế giới như : Đức, Pháp, Mỹ … đều đến tận Tòa Thánh Tây Ninh hoặc gởi thơ xin tài liệu giáo lý để làm luận án tốt nghiệp.

Nhìn chung, trong thời gian tương đối ngắn, Đạo Cao Đài được phổ biến khắp năm châu, tuy nó chưa phát triển đúng tầm vóc mong muốn của Hội Thánh, do nhiều nguyên nhân bên trong như bên ngoài.

Song với niềm tin vô đối, người tín đồ Cao Đài nào cũng thấy được Đạo mình sẽ thành theo ước vọng chung của nhân loại.

Đọc qua các chương trên, độc giả nhận rõ mục đích tối cao tối thượng của người tín đồ Cao Đài là MỘT TÔN GIÁO ÐẠI ĐỒNG, phổ giáo mọi sắc dân. Nền Tân tôn giáo Cao Đài có một quan niệm đúng đắn về vũ trụ.

Giáo lý Cao Đài nhìn nhận một Đấng tối cao, độc nhất, vô nhị, tạo nên càn khôn vũ trụ và muôn loài vạn vật. Đấng ấy là Đức Cao Đài hay Đức Chí Tôn mà Trung Quốc gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, Tây Phương gọi là Đức Chúa Trời …

Trong vũ trụ, chính Đức Cao Đài đã tạo ra vô số tinh cầu và dùng quyền lực của riêng Ngài sinh ra vạn vật và con người. Con người đó có điển linh quang Ngài ban cho nên có tính thánh thiện và luôn luôn mong quay về ngôi vị cũ, nơi cõi thiêng liêng hằng sống. Về thời gian, giáo lý Cao Đài xác nhận có 3 nguơn : Thượng nguơn hay nguơn Thánh Đức, Trung nguơn hay nguơn tranh đấu và Hạ nguơn hay nguơn Mạt kiếp còn gọi là nguơn Tái tạo để trở lại nguơn Thánh Đức. Thời gian trong mỗi tiểu thiên địa (con người) là một kiếp. Kiếp ấy dài hay ngắn do quyết định của Bạch Ngọc Kinh (công nhận con người có số mạng nhưng cũng cãi số mạng được do công quả tu hành). Do quan niệm con người có xác thân, chơn thần và linh hồn. Xác thân khi chết thì hư hoại, chơn thần mới chuyển kiếp thăng vị, còn linh hồn vốn là điển linh quang của Đức Chí Tôn nên trọn lành, trọn tốt hướng dẫn chơn thần lên phẩm cao thăng. Đây là chỗ khác với các tôn giáo cũ : cho rằng linh hồn chịu luật quả báo luân hồi, đúng ra là chơn thần phần vô hình giống hình tướng xác thân.

Thần học Cao Đài nhìn nhận có những tinh cầu tuyệt cao trong không gian phù hợp với sự tiến bộ của các Đấng thiêng liêng thượng đẳng ở cõi thiêng liêng hằng sống, nơi sống chung cho nhân loại tu hành đắc quả. Cõi thiêng liêng hằng sống còn có Ngọc Hư Cung nơi ngự của Đức Cao Đài và Bạch Ngọc Kinh, Kinh đô hành giáo của chư Phật, Tiên … Đạo Cao Đài cũng nhìn nhận có các tầng vô hình khác thấp hơn, có thể chia làm 3 hạng :

- Thượng đẳng thiêng liêng : chư Phật, Tiên, Thánh.
- Trung đẳng thiêng liêng : chư Thần. - Hạ đẳng thiêng liêng : chơn thần của bát hồn tập trung nơi Trường Đình (sau khi chết) từ đó tùy theo tu nhơn tích đức, cãi số mạng xấu ra tốt mà tiến lên Trung đẳng hay Thượng đẳng thiêng liêng.
Về thế giới nhân loại (quan niệm nhơn sinh), Thần học Cao Đài xác nhận là tùy theo sự tiến bộ và phong hóa của mỗi nước mà canh cải cho phù hợp với sinh hoạt, tập quán địa phương. Riêng về giáo lý thì phải y theo Pháp Chánh Truyền và Thánh ngôn buổi đầu.

Như thế, bất cứ sắc dân nào, bất cứ chế độ nào, người tín đồ Cao Đài cũng là người công dân lương thiện, giáo lý Cao Đài cũng không hề phản khắc lại phong hóa truyền thống của dân tộc nào.

Kinh điển tế tự buổi đầu của Đạo Cao Đài, nó chỉ phản ánh địa phương Việt Nam, cúng lạy chỉ là hình thức bề ngoài, quan trọng của tôn giáo là sự giác ngộ tâm linh, nên kinh điển tế tự buổi đầu không phải là bức tường ngăn Đạo Cao Đài truyền bá ra nước ngoài, Pháp Chánh Truyền, Thánh ngôn đã được nhiều người dịch ra tiếng nước ngoài và đã được nhiều giới trí thức Tây Phương hoan nghinh xin theo Đạo. Việc tế lễ Đức Cao Đài và Phật, Tiên … theo luật không gì trở ngại. Riêng Kinh Tứ Thời, ta giữ sắc thái địa phương xuất phát với 2 giọng nam xuân (tức Majeur) và nam ai (tức Mineur) nhưng phổ nhạc bằng Solfèze (tân nhạc). Lẽ đương nhiên, kinh điển chỉ chú trọng tinh thần nội dung của tiếng nước theo Đạo, chứ không theo tiếng Việt Nam. Phần nghi lễ thuộc hình thức dễ dàng vượt qua. Lẽ khác, khi theo Đạo người nước ngoài đâu chuộng hình thức mà họ nghiên cứu tôn chỉ của tôn giáo ấy có phù hợp với tiến bộ loài người không, giáo lý ấy có phản khoa học hay nó là động lực thúc đẩy khoa học thăng tiến, Thần học của tôn giáo ấy hợp lẽ với quan niệm nhân sinh không … Tôn giáo nào cũng phải qua các màn lọc trên để vĩnh tồn. Đạo Cao Đài đã vượt qua những thử thách đó (?)
 Home          1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 6 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét