Ðại Ðạo Giáo Lý & Triết Lý - 5 / 6 Hiền Tài. Trần Văn Rạng


Rõ ràng Đức Hộ Pháp chánh thức mở cơ vô vi tịnh luyện từ đó. Ngài khẳng định "phải vào cửa tịnh luyện mới đạt Đạo đặng". Tại ta thiếu trí, không theo được hành tàng của Đức Ngài mà thôi. Chớ đừng trách sư phụ chưa truyền phép tu chơn cho ta.
Câu liễn tại Trí Huệ Cung thể hiện lời giảng Đạo đó của Đức Ngài.

TRÍ định thiên lương qui nhứt bổn
HUỆ thông đạo pháp độ quần sanh .

Đến ngày 16 tháng 1 năm Tân Mão (1951), Đức Hộ Pháp vào Trí Huệ Cung tịnh luyện theo Tân Pháp Nội giáo tu thiền mà Đức Chí Tôn đã chỉ dạy ngay từ đêm 14-1-1926 (1). Khi nhập tịnh thất, Đức Ngài nói: "giải chức Hộ Pháp chỉ còn là bạn tu mà thôi" (2). Chính Đức Ngài đã đặt nền tảng luyện kỷ tu đơn cho mọi chúng ta đó.

Khi nhập tịnh thất Trí Huệ Cung, Đức Hộ Pháp nói: "giải chức Hộ Pháp chỉ còn là bạn tu mà thôi ". Có nghĩa là muốn vào Tịnh Thất, nếu là chức sắc phải gởi chức cho Hội Thánh trở thành đạo hữu.

Sau khi được chơn sư phụ chỉ dẫn, rồi hành pháp tinh luyện, tự tu, tự thành, biết được Tánh giác bằng hữu là lúc có ấn chứng Thiêng Liêng .

Năm Tân Mão (1951), Đức Hộ Pháp vào Trí Huệ Cung (vì Vạn Pháp Cung chưa xây) sau khi ra khỏi nhà tịnh và đã thuyết Đạo tại đền Thánh như vầy:
"Bần Đạo giải rõ hành tàng trong ba tháng mà Bần Đạo đã làm ( trong nhà tịnh ). Cái hành tàng về mặt Đạo Pháp giống như 40 ngày của Đức Chúa Jésus ra ngoài sa mạc cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban bố hồng ân cho nhơn loại, đặng đem cơ cứu thế của Ngài giao cho toàn xã hội nhơn quần được hưởng : giống như Đức Thích Ca vào vườn Bồ Đề ngồi thiền định đặng xin giải thoát chúng sanh."

Khi Đức Ngài đến Trí Huệ Cung để nhập Tịnh Thất có nhiều người gởi thơ đến xin nhập tịnh một lượt với Đức Ngài. Đức Ngài trả lời :
"Nếu người nào không có tam lập thì không ở chung với ai đuợc hết. Chính mình đối với cơ thể hữu vi của đời (tức thể pháp) mà không ai có bằng cớ chi hết, thì ai tin rằng có bí pháp đạt đạo.
"Tam lập là : lập đức, lập công, lập ngôn. Con người khi sinh ra mặt địa cầu này không có tam lập thì không có chi hết. Tam lập quyết định cho ra. Ta mới sống chung với xã hội nhơn quần được."

Đức Ngài còn thuyết thêm về phương pháp tịnh luyện như vầy :
"Bần Đạo thuyết minh cái bí pháp tinh luyện và khuôn luật tấn hóa tạo đoan. Cơ quyền bí ấy Đức Chí Tôn đã đem đến cho chúng ta đặng cho đạt cơ tấn hóa. Thật ra, Đức Phật Tổ chỉ đạt được kiếp siêu thoát của Ngài mà thôi. Mấy người đã đạt được vị Phật đều ở trong cái huyền vi tịnh luyện để làm cho chúng ta sống đời đời. Sống lung lại ba kiếp trước, rồi nhờ kiếp trước ta có thể biết được luật nhơn quả của ta. Nhờ kiếp này có thể đem tương lai cho ta đạt phật vị của ba kiếp trước. Đạibí pháp ấy chúng ta mới có thể biết chúng ta là ai. Ta biết đường lối chúng ta đi như thê nào. đạt cơ siêu thoát là mở kiếp thông minh cho chúng ta đó vậy " (1)

3 - Vai trò của Đức Phạm Hộ Pháp với bí pháp.
Trước hết, nghi lễ thọ phong Hộ Pháp khác thường, không lời tuyên thệ, lời nguyện mà là một cuộc hành pháp trục Chơn Thần Phạm Công Tắc ra khỏi xác phàm để chơn linh Vi Đà Hộ Pháp giáng ngự nơi thân thể Ngài. Từ đó Phạm Công Tắc trở thành Hộ Pháp Cao Đài. Đó là trường hợp giáng linh ngự thể như Chơn Linh của Nguyễn Du nhập vào Victor Hugo. Ngài đã được Đức Chí Tôn giao trọng trách đứng đầu Hiệp Thiên Đài thông công các Đấng và chịu trách nhiệm về phần Chơn thần của toàn thể Đạo hữu ( chỉ chung các chức sắc ), còn phẩm Giáo Tông chỉ có quyền về phần xác mà thôi.
Năm 1929, Đức Phạm Hộ Pháp lập Khổ Hiền Trang, mở Phạm môn tu luyện không áo mão với "Phuơng Luyện Kỷ" để đạt cơ giới thoát. Thánh ngôn của Đức Chí Tôn đã dạy :"Hộ Pháp hằng đứng (nơi Vi Hộ) (2) mà giữ gìn chơn linh các con, khi luyện Đạo đặng hiệp tinh với khí, rồi khí với thần đến Chơn Thần hiệp làm một nhà siêu phàm nhập Thánh ".

Năm 1951, tại Trí Huệ Cung, Đức Phật Mẫu cũng ban cho Đức Ngài : "Vẹn toàn Pháp môn "

Hễ làm mẹ quyền hành dạy trẻ
Con đừng lo mạng thế thi phàm
Huyền linh mẹ chịu phần cam
Ban cho con trẻ vẹn toàn pháp môn

Vì thế dù Đức Ngài còn ở thế hay qui thiên, Ngài sẽ diệu dụng quyền năng điển lực của Kim Quang Tiên trợ phần cho hành giả công phu tu luyện đạt thành chánh quả.

Khi sinh tiền, ai đến xin luyện Đạo, Đức Ngài CÂN THẦN, đo mức độ khí trược trong người đó coi có đủ sức chịu nỗi điển lực Thiêng Liêng, nếu kém sức sẽ biến tướng thành tả Đạo thì không cho luyện Đạo. Các vị thời Quân Chi pháp cũng có quyền bí pháp cho chức sắc nhưng khả năng cân thần không bằng Đức Ngài.

Năm 1936, các vị Phạm Môn chuyển qua Phước Thiên nhận lãnh đầu họ Đạo Phước Thiện tại các tỉnh. Đức Hộ Pháp đã truyền các phép BÍ TÍCH, GIẢI OAN, TAM THÁNH, PHÉP XÁC, HÔN PHỐI cho các vị tân đầu họ tại Hộ Pháp Đường. Đức Ngài còn hành pháp trục thần, khai khiếu và ban pháp BAÏCH ĐĂNG (cây đèn trắng) để khi hành Đạo tha phương gặp khó khăn, thắp đèn lên vào giờ tý rồi thành tâm cầu nguyện Đức Ngài hiển linh chỉ giáo. Nhiều chức sắc như Chí Thiên Võ Văn Đợi, Giáo Hữu Thượng Tý Thanh …đã được dạy Đạo qua phương pháp này. Huyền diệu nhất việc Đầu Sư Thái Thơ Thanh được Đức Ngài trợ thần khi tịnh luyện. Ngài Thái Đầu Sư rất kính phục và hủy bỏ sơ đồ xây dựng nội ô Tòa Thánh theo ý phàm mà giao việc xây cất Tòa Thánh lại cho Đức Hộ Pháp làm theo Thiên Khải, mà trong chuyến xuất thần vân du Ngài thấy được.

Xem thế, ngay buổi đầu, Đức Chí Tôn dạy người theo Đạo tu thân, làm công quả và tịnh luyện. Tân luật cũng xác phận : Đạo gồm các Thánh Thất (thể pháp) và Tịnh Thất ( bí pháp thiền định).Thể pháp là hình tướng của Đạo, biểu tượng là Hội Thánh. Bí pháp của huyền năng của điển lực để người Đạo giải thoát. Thế nên, lúc mới khai Đạo nặng nề phổ độ để đưa người vào cửa Đạo, sinh hoạt Đạo lý mà lập công, lập ngôn rồi lập đức mà tiêu trừ nghiệp chướng. Hai phần phỏ độ và vô vi nằm chung trong chánh thể Đại Đạo Tam kỳ Phổ Độ. Hội Thánh Cao Đài thực hành cả hai. Bởi lẽ trong chơn quyền của Đức Chí Tôn không hề có sự phân chia hai phần : 1.- phổ độ là ngoại giáo công truyền do Tòa Thánh Tây Ninh đảm trách : 2 Vô vị tịnh luyện là Nội Giáo bí truyền do chi phái thực thi, như một ít người lầm tưởng.

Thể pháp và bí pháp tương liên khắng khít với nhau như hình với bóng. Hễ có hình thì có bóng, có bóng tức có hình. Nói cách khác, cầu kinh tứ thời là thể hình để người Đạo, mỗi ngày một ít gom thần định trí và lý thanh cao tưởng đến phật Trời. Còn cái bóng của Kinh Kệ là trạng thái sống tinh thần của người Đạo đạt được khi vọng niệm, các âm ba hòa nhập vào điển lực của Trời Phật làm thức tỉnh chơn thần. Aâm ba Kinh Kệ là cái bóng, chữ nghĩa Kinh Kệ là cái hình. Hình với bóng không thể xa nhau.

CHƯƠNG III

ÐẠO TÂM LUẬN
1/ - Đạo tâm là gì ?
Đạo tâm là đạo sâu kín trong lòng "Tức tâm, tức Đạo hà phương kiến?" Tỉnh thế ngộ chơn dạy tâm là Đạo, Đạo là tâm chớ tìm nơi đâu khác.

"Tâm không phải là cục máu thịt. Phàm chỗ nào có tri giác, đó là tâm, như tai mắt biết thấy biết nghe, chân tay biết đau biết ngứa. Cái biết đó là tâm vậy" (Tâm bất nhị nhất khối huyết nhục , tri thị thính, thủ túc chi tri thống rạng, thử tri giác tiện thị tâm dã - Vương Dương Minh). Dương Minh lại giải thích thêm "Lấy chỗ hình thể bao la mà nói thì gọi là Thượng Đế, lấy chỗ nó lưu hành vận dụng thì gọi là mệnh, phú bần cho con người thì gọi là tính, làm chủ thân ta thì gọi là tâm".

Họ Vương đã thích nghĩa rõ ràng, có thân thì có tâm, ai cũng như ai chỉ khác hơn người chịu tôi luyện thành ngọc, kẻ để lu mờ thành đá cuội.

Họ Vương đáp lời Từ Aùi : "Chủ tể của thân ấy là tâm, sự phát động của tâm ấy là tri, sở tại của tri ấy là vật. Ví dụ ý mình để vào chỗ thờ cha mẹ, thì việc thờ cha mẹ là một việc, ý mình để vào chỗ giúp dân yêu vật, tức thì giúp dân yêu vật cũng là một việc, ý mình để vào chỗ nhìn, nghe, nói, cử động tức thì nghe, nói, cử động cũng là một việc. Vì thế ta nói không có việc gì ngoài cái tâm".

Xem thế "tâm, ý, thân, vật như một chuỗi kích liên kết với nhau làm một".

Cái làm chủ mọi sự thấy, nghe, nói, cử động mà gọi là tâm đó, đúng là tính, tức là thiên lý. Tính ấy vốn có sự sống riêng của nó, hễ phát ra nơi mắt thì biết nhìn, nơi miệng thì biết nói, nơi tứ chi thì biết cử động, đều là sự phát sinh của thiên lý.

Vì nó chủ tể cả thân ta, nên gọi là tâm. Cái bản thể của tâm là thiên lý, vốn nó trong sạch như nhiên không hề phi lễ. Đó mới thật là cái chân kỷ của ta. Cái chân kỷ ấy cầm quyền chủ tể thể xác".

Như thế người muôn tu đạo thì phải rèn luyện cái tâm hay phải có phương pháp trị tâm" như thế Đức Hộ Pháp dạy : Cái Đạo ấy ở trong lòng người không đâu xa.

"Tâm tức Đạo, Đạo tức là Trời. Ta biết tâm thì biết Đạo, biết Trời. Các người cần học muốn thấy rõ đạo ấy, cứ lấy tâm mình thể hiện là thấy, chẳng phải tìm đâu bên ngoài mới có được ! (Tâm tức Đạo, Đạo tức Thiên. Tri tâm tắc tự Đạo tri Thiên, chư quân yếu thực hiện thử đạo, tu tòng tự kỷ tâm thượng thể nhận, bất giả ngoại cầu thỉ đắc - Vương Dương Minh). Đạo Thánh hiền vốn giản dị minh bạch như vậy, nhưng người xưa cố ý làm cho nó tối tăm bí hiểm. Ta lập chí luyện kỷ làm sao cho cái tâm thuần thiên nhiên lý, không nhân dục là đã đạt đến bậc Thánh nhân.

Theo Thần học, Đạo vốn vô vi thuộc Dương tâm là tìm hữu vi thuộc âm, âm dương tương hiệp, Trời người hiệp nhất, trong ý niệm Thầy là các con, các con là Thầy" Vô vi hữu vi là một trong ngữ Đạo Tâm.

Đạo vô vi hay vô vi chi Đạo cũng thế. Vô vi không có nghĩa là không hình tướng "vô vi như vô bất vi" , còn hữu vi cũng không có nghĩa có hình tướng. Nếu câu chấp như thế là chưa hiểu đạo. Nên hiểu rằng hình tướng của nước giống hình tướng của đất của lửa, của thảo mộc. Nếu bảo không giống thì không đúng, còn nếu nói giống thì giống ở điểm nào ? Bởi lẽ, ta chấp tướng nên thấy việc chi cũng hữu tướng, mà không thấy sạch chúng, vạn vật đều có chung một gốc nguồn. Vô "Đạo pháp trường lưu" chảy dài như dòng sông ra đại dương nước có hình tướng chi đâu. Nhưng khi ta chứa vào hồ lu, hủ, nước lại có hình tướng khác nhau. Bản chất nước chẳng có hai. Thế mà cái gì sanh ra sóng biển kia, khi yên gió sóng đi đâu, có đó rồi không đó, vô vi hay hữu vi khó nói được.

"Đạo pháp vô biên" tùy theo lúc mà Đạo có tên khác nhau. Đạo là con đường để cho Tiên Phật theo đó mà qui hồ cựu vị. Đạo là con đường người ta phải noi theo để được giải thoát. Có người cho giải thoát là thoát khỏi cảnh nhân thế buồn thảm đến nơi cực lạc an vui bằng hai lối : Một là tự lực giải thoát, lấy sức tu niệm của mình mà giải thoát cho mình nhờ tiểu ngã bao tàng đại ngã (Phật tánh). Hai là tha lực giải thoát là lấy tự kỷ mà dung hợp với thực tại tức rằng thực tại có sức vô đối thu hút được tự kỷ, diệt cái sanh bịnh vô thường, đoạn tuyệt phiền não mà vào cõi vĩnh hằng tức chỉ Thiêng Liêng Hằng Sống.

Đối với Đạo mới muốn sớm về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống là phải làm công quả, phổ độ nhân sinh, xiểng dưỡng tôn giáo tức "tu Đạo dĩ nhân". Thời đạo tâm là tu chơn dưỡng tánh. Con người mở rộng đạo, chớ không phải Đạo mở rộng được người". (Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân). Người trong đạo mà hiểu biết rộng, dù đạo có điều dở cũng thành ra hay, đạo trong tay người ngu muội thế nào rồi cũng hóa dở mê tín dị đoan.

Thế nên trong thời đại khoa học Đức Lý dạy : "Giác mê khải ngộ" tức là làm cho con người thoát khỏi chốn u mê và giác ngộ đạo, làm lành lánh dữ thì đạo tâm được trong sáng.

Lúc tệ phẩm bệnh, có người bạn đạo đến thăm. Ta hỏi :
- Đạo hữu đến đây bằng gì ?
- Xe đạp.
- Cái sườn có phải là xe không ?
- Không.
- Cái ghi đông có phải là xe không ?
- Không.
- Cái bánh xe có phải là xe không ?
- Không.
- Vậy chớ cái gì là xe là thừa (thừa là cái xe) : Tiểu thừa hay đại thừa ? Con người không có đức tu thì làm sao biết được khả năng trí tuệ của mình. Giống như xe không có càng, không có trục thì làm sao có thể chạy được (nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả giả, đại thừa vô nghê, tiểu thừa vô ngột, kỳ bà dĩ bành chi tai ?)

Mạnh Tử nói : "Suy cho cùng cái tâm của mình thì biết cái tính của mình, biết cái tính của mình thì biết được lẽ trời vậy" (Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tính giả, tri kỳ tính tắc tri thiên dỉ)

Tâm vốn là cái tinh thần sáng suốt, nên có đủ mọi lẽ để ứng phó muôn việc. Tính là cái lẽ đủ cả của tâm mà tuổi do theo lẽ ấy phát ra. Tâm và tánh vốn là một, nhưng hiện tượng khác nhau nên có tên gọi khác nhau : phú cho con người gọi là tánh, làm chủ cái thân gọi là tâm. Tuy cái tâm phát ra mỗi việc mỗi khác, nhưng chỉ có mỗi cái tánh. Thế nên người ta lo cái tâm mình chưa sáng. Các chức sắc hơn người là nhờ cái tâm thuần thiên nhiên lý nên lúc nào cũng hành thiện, còn phàm phu để vật dục che lấp cái tâm nên hành ác. Thế nên, thiện và ác là hai sự kiện không hề có sẵn mà do tâm ta tạo ra. Vậy cái óc diệt được, nếu ta quyết tâm.

Bản thể của tâm là bất động nhu hòa nếu bị kích thích tâm hốt nhiên khởi động tạo ra mọi thứ sinh diệt. Tâm thể và vật thể không lìa nhau mà cũng khó hợp nhau như nước với sóng. Tuy khác nhau về hiện tượng, nhưng là một thực thể. Sóng và nước cũng như vật và tâm không thể lìa nhau. Thế nên, Tiên phàm phân biệt ở cái biết hay không biết, chân như hay hiện tượng mà thôi.

Cho nên người đạt đạo thì quan niệm rất rộng rãi : đạo tâm không có trong mà không có ngoài, hữu vi vô vi là một không có vách ngăn. Thiên địa vạn vật đồng nhất thể.

Vậy muốn đạt đạo tâm thì phải có đạo từ và tâm trụ . Đạo từ là từ bi hỉ xả. Tâm trụ là càng lay càng im, càng vững chắc. Ngày xưa các vị thần ở Nhật Bản vị nào cũng cho mình có quyền lực trên Trời Đất. Một thần cao tuổi xin làm trọng tài cho các thần khoe khoang đó thi thố.

Thần thứ nhất hóa chớp sấm rung động cả thế gian. Các thần khác tái mặt. Riêng thần bão tố đứng lên nói : "Sức mạnh của tôi còn ghê gớm hơn nhiều". Dứt lời, sóng biển dâng lên, bão tố đầy trời. Các thần thất sắc xin thua.

Bỗng nhiên, thần âm nhạc thổi tiêu dì dặt lơi lả khiến các vị thần ngây dại. Chỉ có một vị thần, có thái độ như nhiên bất động. Oâng không sợ sấm sét, không sợ sóng bão, tiếng sáo huyền ảo không làm ông động lòng. Vị trọng tài ngạc nhiên hỏi:
- Ông bị mù và điếc chăng ?
- Tôi vẫn thấy và vẫn nghe.
- Sao ông không động lòng trước sấm nổ, nước dưng, âm thanh dìu dặt ?
- Tâm tôi bị kích động, nhưng được chế ngự.
- Sao gương mặt ông bình thản đến dễ sợ vậy ?
- Vì tâm tôi trụ vững. Tôi biết làm chủ giác quan mình. Còn các ông chỉ làm đầy tớ cho cảm giác vì không biết cách chế ngự nó.
Các vị thần cúi đầu phủ phục. Vị trọng tài phán quyết:
- Quyền bá chủ về vị này, người có nội tâm trụ vững và điềm tĩnh trước mọi sự việc.

Người xưa cho rằng lương tâm nẩy nở ra tính vì chữ tính một bên có chữ tâm đứng () và 1 bên chữ sanh () tức tâm sanh vi tính. Như vậy, cái máy (động cơ) trong lòng người gọi là tính, tùy cái dục mà tính ấy mang tính thiện hay ác.

Tâm vốn là nhứt thiết pháp, mà nhứt thiết pháp là tâm. Hai cái đó không khác mà cũng không là một. Sanh tử cũng do nơi tâm. Tâm bao hàm tất cả.

Xét về lý thể, tâm như nước, vật như sóng. Ngoài nước không có sóng, ngoài tâm không có vật. Tâm và vật vì thế không rời nhau.

Tóm lại, tánh trời phú cho người hằng ngụ trị trong thâm tâm ta. Tánh là bản thể của tâm, thành thử tánh và tâm tuy hai mà một. Bản tánh thì hư không linh chiếu, nhưng khi nhập thế cuộc, nhục thân cảm nhiểm mùi trần sanh lòng ham muốn kích động đến tâm, làm cho tánh biến dạng ra nhơn dục, đánh mất thiêng liêng nên ai không giữ được tâm phải đọa trần khổ não.

Thế nên, mỗi đạo hữu phải luyện nội tâm cho có dũng khí thâm hậu để chống đỡ mọi thử thách từ ngoại vật đưa đến.

            Thánh ngôn dạy rằng :
Gắng sức trau dồi một chữ TÂM
Đạo trời muôn việc khơi sai lầm
Tâm thành ắt đạt đường tu vững
Tâm chánh mới nung mối đạo cầm
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm
Đường tâm cửa thánh dầu chưa vẹn
Có buổi thành công bước đạo tầm".

2/ - Đạo nơi tâm :
Đạo tâm thể hiện dưới hai hình thức : đạo nội tâm và đạo ngoại tâm.
Đạo nội tâm là đạo trong lòng, đó là tâm chơn, tâm Phật (tâm tích Phật)
Đạo ngoại tâm là đạo ở ngoài, đó là tâm giả còn chất chứa thất tình lục dục, tam độc : tham sân si …

Xưa nay người tu thì nhiều mà đắc đạo thì ít là do không phân biệt tâm chơn, tâm giả nơi lòng. Thấy người tu mình cũng tu, thấy người nói đạo mình cũng nói, nhưng thật trong lòng mình không tu những điều mình làm, tức là mình chưa có đức tin vô đối.

Chẳng khác chi khi ta gánh hai thúng giống ra ngoài ruộng. Những hạt rơi rãi theo đường bị chim ăn. Những hạt rơi trên bờ để mọc lên èo uột rồi tàn úa vì rễ không thể cắm sâu xuống đất. những hạt rơi vào bụi dứa gai bị nghẹt cố vươn lên mà không thể kết bông trái. Những hạt còn lại sạ xuống ruộng, cây mới kết bông sinh hạt. Người theo đạo giống như thế : nhiều mặt nhiều hình. Những hạt rớt trên đường tượng trưng cho những kẻ nghe đạo mà còn bán tính bán nghi nên bị quỉ dữ rước đi. Những hạt rơi trên bờ đê là những kẻ nghe giảng đạo lòng toan mừng theo đạo nhưng rễ không bén nên khi bị cám dỗ họ sẽ bỏ đạo. Những hạt rơi vào bụi dứa gai là những kẻ vào đạo mà còn tranh danh đọat lợi làm nghẹt lối tiến thân nên lúa không thể trổ hoa sinh hạt được. Còn những hạt sa vào ruộng cày là những hạt giống đượm màu Thánh chất. Cho nên tu hành là tự thân "tiên tự giác bận khi giác tha". Trước hãy tự độ thân mình vì (ngô thân bất độ hà thân độ) rồi sau mới độ được người.

Chữ "tự giác" như tự hành, tự lập là tự mình làm cho mình giác ngộ đường đạo không nhờ ai. Muốn được vậy phải thành tâm đi theo con đường đã vạch "như đạo tự đạo giả" . Ở giữa lòng người tu có ngôi "tự đạo" là nơi ngự của Thần Thánh vì không bao giờ ngoài tâm ta mà có đạo. Chữ "tự" ở giữa lòng ta phải có đức chí thành mới thấy "Đạo".

Tại sao phải có đức chí thành. Vì lúc đầu theo Đạo do động lực nào đó, nhưng dần dần nó phôi pha trở nên "bất thành vô vật" tiến đến giả nhân, đạo ngoài miệng mà không cải tạo trong tâm.

Vậy đạo chí thành thật quan trọng, chẳng phải nhân đạo mà cả thiên đạo nữa. Trời chỉ có 1 chí thành mà làm nên vạn vật, người nhờ 1 chí thành mà đạt đạo. Ví dụ : Gandhi chẳng hạn, lúc nhỏ sợ bị rầy nên thiếu tín thành nói dối. Bà mẹ ông biết nên nhứt định không chịu ăn cơm. Gandhi thương mẹ khóc lóc cầu khẩn. Bà mẹ nói : "Mẹ thà thấy con chết còn hơn thấy con nói dối, vì nói dối tỏ ra mình có một tâm hồn khiếp nhược." Từ đó Gandhi không nói dối nữa và trở thành bậc Thánh của Aán Độ.

Thế nên, sách xưa có câu "thành kỳ ý" là chớ có nói dối lòng mình. Ý là động cơ trong lòng mình, khi nói bắt đầu cảm xúc và sinh ra tư tưởng để làm việc gì khi mới phát sinh ý rất trung thành với lương tri không tự khi (chê), dần dần về sau mới nảy sinh là chê bai, đố kỵ nên phải có tự khiểm (chân thật) để kiềm chế, ghét điều ác làm điều thiện.

Tâm thành ý chỉ liên hệ tự khiểm mà không đi với tự khi vì mình giả dối với mình là tự khi, mình thành thực với mình là tự khiểm.

Nếu tự thân mà tiến đến "độc thân" có nhiều nguy hiểm. Bởi vì duy nhứt độc tôn một mình thì không còn tránh né ai, kiêng sợ ai, chỉ một mình mình biết, 1 mình mình hay thành ra muốn làm sao thì muốn, làm sao thì làm, có sai lầm cũng không biết. Cái độc tôn này rất nguy hại. Thế nên, người xưa có nói "nhân tâm duy nguy đạo tâm duy vi" là vậy. Ai cũng nghĩ đến cái lợi riêng mình, rồi tự cao tự đắc "độc thiện kỳ thân" cho ta là tốt lành nhất trong thiên hạ.

Thế nên chữ "độc" khó lường hết, trong khoảng tâm thuật ẩn vi, nên chỉ có thành ý theo đạo mới đưa ta đến con đường chính đại quang minh.

Tâm quang minh là tâm chính đại, mắt thấy sáng suốt, tai nghe rõ ràng không còn điều gì lầm lạc. Đó là chánh tâm, thiện tâm.

Vì sao "tu thân tại chính kỳ tâm". Bởi lẽ, tâm với thân chỉ cùng một hạt giống, muốn tu thân thì cốt tu thân mà thôi. Do đó, thân có làm điều gì xấu không thể trách tại thân mà chỉ trách tội cái tâm. Tâm muốn cho chính phải luôn giữ mực trung hòa, trung thì tâm được cân bằng liêm, hòa thì tâm được thư thái liêm. Nhờ đó mà lòng mới chính tâm. Nếu nơi lòng có điều gì lo sợ hay ấm ức thì chắc chắn tâm không được chính mà chinh nghiêng.

Khi tâm chênh lệch thì thân không an mà tu được. Tâm luôn phải hòa tình, lẳng lặng để chủ tể cho thân. Những sự kiện xảy ra bên ngoài đừng cho lay động nỗi tâm nào tức giận, sợ hãi, ham muốn, lo buồn phải xua đuổi ra khỏi tâm tu.

Miệng ăn, tai nghe, mắt thấy là công việc của thân, nhưng lúc thân tiến hành các công việc đó mà tâm xao động không đặt ý vào thì dù miệng ăn mà lưỡi không nếm vị, tai có nghe mà thật ra không biết đối thủ nói gì, mắt có nhìn mà không thấy. Việc "không thấy, không nghe, không biết" đó đâu phải lẽ của thân. Đó chỉ là tại "tâm bất tại" mà thôi. Vì tâm bất tại nên con mắt mất sức thấy, lỗ tai mất sức nghe, lưỡi mất mùi vị. Quả là tại tâm bất chính. Như thế không thể nào tu được, mà tu thân cốt ở chính tâm (tu thân tại chính kỳ tâm).

Đức Chí tôn đã dạy : "Hễ cái tâm sáng suốt thiện tử đạo tức là thiên đăng, còn tâm mê muội, vạy tà, hung bạo là địa ngục. Vậy địa ngục thiên dương cũng tại cái tâm".

3/ - Tâm thiện hay ác :
"Không đạo nào qua chân lý" (Hn'y a pas de religion superienre à la vérité). Cái chân lý ở đây là làm lành lánh dữ. Trong Đạo Cao Đài lại thờ cả cái thiện và cái ác theo thuyết tam nguyên trung thứ.

Vì lẽ "Tất cả đều có hai cực đoan, giống nhau khác nhau đều có một ý nghĩa như nhau, những cực đoan nghịch nhau đồng cómột bản thể như nhau, mà không khác mức độ, những cái cực đoan lại gặp nhau. Tất cả những chân lý chỉ là những nửa chân lý, tất cả những nghịch lý đều có thể dung hòa". (Tout est Double, toute chose posside des pôles, tout a deux extrêmes, semblable et dissemblable ont la même siquification, les pôles opposés ont une nature identique maisdes degrés différents; les extrême se touchent toute les véritésne sont que des deni véritéc, tous les paradoxes penvent être concilíes - Le kybalion, H.Durville, Paris IV, trang 29).

Thầy Mạnh Tử có nói : "nhân chi sơ tánh bổn thiện", cho con người thuở thiếu nên hiền hậu chân chất. Do thọ bẩm khí hạo nhiên của trời. Ngược lại thầy Tuân Tử cho tính người là ác. Theo Khổng Tử thì tính người chẳng tuyệt đối là thiện mà cũng chẳng tuyệt đối là ác. Khi cái chân hiện ra là thiện, khi cái vọng hiện ra là ác. Tính chỉ là động cơ tạo ra thiện và ác, nếu nghiêng về thiện lý thì thuần thiện, nếu theo nhân dục thì thuần ác. Thế mới có câu : "Nhân tâm duy nguy đạo tâm duy vi là vậy".

Người đời thường cho Mạnh Tử và Tuân Tử có quan niệm khác nhau về tính, nhưng thật ra họ bổ túc cho nhau. Tuy nó là thiện đó, nhưng đưa nó vào vòng ác thì nó cũng ác. Muốn trị được cái ác len lỏi vào tâm, ta phải "suất tính chi vị đạo". Nghĩa là phải quản suất được tính dẫn dắt nó vào đường thiện tránh đường ác.

Dù sao nhờ Mạnh Tử nói một chữ "thiện", Tuân Tử nói một chữ "ác" ta mới tỉnh ngộ ra rằng mọi mặt phải trái trên đời đều có cái hữu hạn của nó. Thiện và ác chỉ cách nhau bằng đường tơ kẻ tóc. Thiện không đúng lúc là ác, ác không đúng lúc là thiện; phải biết thuật đủ và "thuật dừng": tri túc tri chỉ.

Như thế lý thuyết của hai thầy chẳng hề trái ngược nhau mà chỉ bổ túc cho nhau. Ta cầm suy nghĩ cho lắm - Kinh Dịch viết : "Thiện ác giống như cặp âm dương, tuy thấy như mâu thuẫn mà chẳng hề rời nhau".

Nhà đạo học Plotin cũng đồng quan điểm :
"Dù là việc ác, cũng một phần nào cần thiết như việc thiện, vì nó phát sinh ra được nhiều việc tốt đẹp. Nó dẫn dắt đi tìm những phát sinh sáng tạo lợi ích và bắt buộc con người phải thận trọng và ngăn không cho vào giấc ngủ mê man, 1 sự an thân lười biếng".

Thế mới hay, Thánh Angustin trước kia là người đầy tội lỗi, Thập Bát La Hán là những kẻ trộm cướp giết người đều thành chánh quả. Bởi lẽ, việc người đời cho là ác mà không ác vì việc làm ấy phát ra do thiện tâm. Mặt khác cùng việc làm, người này làm cho là thiện mà kẻ kia làm bị cho là ác, là vì người này làm với lòng yêu thương cao thượng, còn kẻ kia làm với tâm động xấu xa. Mẹ đánh răn dạy con không thể cho là ác. Kẻ nịnh bợ cốt để làm vui lãnh đạo để trục lợi không thể gọi là thiện. Thế nên Dương Lễ đuổi Lưu Bình không thể gọi là ác được.

Ngày nào còn bị ràng buộc trong giả thân thì còn thiện ác, lợi hại, hữu đạo, vô đạo … Đừng quên rằng vạn vật đồng nhất thể. Tất cả vạn vật đều chằng chịt với nhau như các tế bào trong 1 cơ thể, vi trùng xâm nhập bất cứ một phần nào trong ngũ tạng đều tổn thương đến toàn thân. Bởi lẽ tất cả chỉ là một.

Lão Tử hằng nhắc ta : "Cái nhìn của Đạo là cái nhìn toàn thể, thấy nhân sanh như một cơ thể". Một thiền sư đã nói : đừng nghĩ đến thiện, cũng đừng nghĩ đến ác, thì mới hiện rõ cái ban lai diện mục của mình … Chỉ thiện một chút thôi cũng đủ, làm cho mặt hiển chân. Như nơi sáng, cơ Trời Đất sẽ bị phân chia" (Tăng Xán).

Trong Đạo đấng sáng tạo Brahma chỉ huy và điều hòa hai vị thần : thần Christna chủ thể về thiện và thần Shiva chủ về ác và không thiên hẳn về bên nào. Ta nghe câu chuyện ưa thiện ghét ác sau đây thì rõ :

"Quản Trọng làm tướng quốc nước Tề. Khi ông đau nặng, Tề Hoàn Công đến thăm và hỏi : Nếu Trọng Phụ bất hạnh qua đời, Trẩm4 biết giao quyền cho ai ?"
Bấy giờ Ninh Thích đã chết Quản Trọng thở dài thương tiếc, Tề Hoàn Công hỏi tiếp :
"Lẽ nào người tài đã hết ? Trãm muốn giao quyền cho Bảo Thúc, Trọng Phụ nghĩ sao ?"
Quản Trọng đáp : "Bảo Thúc là người chính nhân quân tử, nhưng không thể nào cầm quyền được vì hay phân biệt thiện ác thái quá. Ưa điều thiện là phải, chớ ghét điều ác thái quá không ai chịu được".
Tề Hoàn Công không nghe lời Quản Trọng và giao quyền chính cho Bảo Thúc. Chẳng bao lâu vua mất ngôi".

Thế mới biết, thiện ác như quả lắc đồng hồ, biến động từ cái phải qua cái quấy, từ cái có qua cái không bao chứa mâu thuẫn : có mà không, không mà có.

Chuyện về các môn đệ Khổng Tử sau đây cho ta thấy rõ đạo trung thứ của mọi việc :
Tử Hạ hỏi Khổng Tử :
- Nhan Hồi là người thế nào ?

Khổng Tử đáp :
- Cái phân của Hồi hơn ta.

Tử Hạ lại hỏi :
- Tử Lộ là người thế nào ?
- Cái Dũng của Do hơn ta
-Tử Trương là người thế nào ?
- Cái Nghiêm của Sự hơn ta.
- Tử Cống là người thế nào ?
- Cái óc phân biệt của Tứ hơn ta.

Tử Hạ thưa rằng :
-Thế sao bốn người này còn theo học với Thầy, nghĩa ra làm sao?

Khổng Tử ôn tồn đáp :
- Hồi chỉ biết nhân mà không biết lúc bất nhân. Tử chỉ biết lẹ làng mà không biết chậm chạp. Do chỉ biết dũng mãnh mà không biết nhúc nhác, Sự chỉ biết trang nghiêm mà không biết ung dung đề hòa đồng với mọi người. Cái hay của 4 người ấy mà đổi cái ta có ta không đổi. Bởi vậy, họ phải thờ ta làm thầy.

Bậc Chí Thánh như Đức Khổng Tử mà còn chê Nhan Hồi chỉ biết nhân mà không biết lúc bất nhân, nên Hồi phải theo học Ngài "cái bất nhân".

Vương Dương Minh cũng cho rằng thiện và ác chỉ là một. Bản thể của tâm vốn chí thiện vì để vật dục ám ảnh mới hóa ra ác. "Cho nên hễ khi người ta có một ý nghĩ bất thiện ấy lập tức … Chớ kể một ý nghĩ bất thiện nào ẩn núp trong bụng ta". (Đào Trinh Nhất, Vương Dương Minh, Saigon Tân Việt, trang 160).

Tóm lại, Đạo Cao Đài quan niệm 1 cách trung dung về cái thiện và cái ác. Thiện không đúng lúc là ác, ác không đúng lúc là thiện, nên trong Đạo thờ cả ông Thiện và ông Aùc. Con người vì không thông hiểu cái lý cao siêu của thiện và ác nên chống báng nhau. Thật ra tất cả đều nằm trong luật an bày của Đấng tạo hóa. Bất cứ nơi đâu cũng đều có sự thiện ác hiện hữu để giúp con người học hỏi tìm chân lý, hầu đạt đầy đủ bản chất của Thượng Đế. "Thiện ác giai điêu lý" (Tưởng Minh Đạo).

4/ - Minh tâm kiến tánh :
Minh tâm là làm sáng suốt cái tâm của mình. Kiến tánh là thấy được cái tánh của mình. Chỉ có bậc Chí Thánh mới thấu rõ tánh của mình, nhờ đó mà biết tánh người, tánh vạn vật để "hóa dục quần sanh thống ngự vũ trụ".

Đạo dạy: "Tiên tu giác hậu nhi giác tha". Trước lo tu cho mình được cái tâm giác ngộ sau đó mới độ được người.

Muốn đạt huệ tức huệ nhãn phải phá màn u minh thấy được cõi thượng giới phải minh tâm kiến tánh tự thân, nhiên hậu, truy cứu sách vở mở rộng tầm mắt mới đủ lý thuyết độ đời.

Đạo thiện với người bình dân không học, làm lành lánh dữ, tin tưởng Trời Phật thì cũng có thể giải thoát cho chính mình nhưng phẩm vị không cao thăng. Thầy đã dạy mỗi tín đồ phải độ ít nhứt 12 người vào đạo. Chủ đích của Đạo Tam Kỳ là công quả và Phổ Độ chúng sanh. Nếu ta không đủ quyền năng sức học độ đời thì làm sao đạo thành ? Thế nên, đã vào hàng môn đệ phải lo giồi mài kinh sử, nhập tâm giáo lý cho quãng kiến đa văn mới thuyết phục được kẻ vô đạo. Thầy đã dạy "Đạo lập ra là để độ kẻ vô đạo chớ không phải sửa đạo".

Đạo huệ đọa đủ, thấy đủ hiểu đủ đạt đến "nhãn thị chủ tâm" con mắt làm chủ cái tâm, thấy màu sắc không chóa mắt, nghe âm thanh không bùi tai, nếm mùi vị không bị quyến rũ, thấy của quý mắt không khiến tâm động lòng tham. Bởi vì, thầy dạy "Tham lam vào tâm thì Tâm hết đạo đức, tham lam vào chùa, chùa hết chánh giáo, tham lam vào nước nước hết chơn trị, tham lam lộng khắp thế giới thì thế giới hết thần tiên".

Tham lam do lòng ham muốn sanh ra. Lấy được thì vui mừng, rồi sợï mất phải lo giữ gìn. Lỡ mất thì thất vọng buồn phiền. Thế la từ lục dục xô đẩy đến thất tình. Đó là tại ta chưa có lòng tự chủ, tâm thần bấn loạn mà sanh ra thất chí.

Để ngăn chặn thất tình lục dục phải minh tâm để cảm hóa lòng sanh diệt trở nên lòng bất sanh diệt mà hàm dưỡng bản tánh để làm chủ tể hành động. Nói cách khác, đem lý siêu nhiên vào đời sống thực tại để khử tất cả thối lui tật xấu, mê chấp sai lầm.

Bản tánh nằm ngang sau nhơn dục, cho nên muốn giác ngộ thì phải hồi hướng về nội giới, vượt qua tất cả hình sắc, phiền não như nói trên để lòng không khởi động mới thành chánh quả.

Đừng để thất tình lục dục làm loạn đạo tâm làm mờ chơn tánh khiến cho cuộc đời bơ vơ như thuyền trôi trên biển cả. Đó là tại ta không hòa đồng được với mọi người chung quanh, như vậy làm sao hòa diệu với đại hồn vũ trụ. Khơi tiên ta điều hòa với tự tâm, với thần chí, với gia đình và xã hội. Những lời của người không quan hệ đến mình thì chẳng nên chấp nhứt mà sanh lòng chán ghét của tha nhân. Người có lầm lỗi lấy lời khuyên lơn, không được thì thôi chớ cố chấp nói này nói kia. Ta nên tập lòng thương người, không thương được thì không nên ghét vì thầy đã dạy : "Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh". Tam độc : tham sân si là 3 cái mầm làm cho tâm loạn. Tâm loạn thì che khuất điển linh quang làm ta trở nên vô minh, lúc đó không còn phân biệt thiên lý và nhân dục nữa rồi cứ theo nhân dục hành động và ngụy biện là thiên ý. Tâm lúc đó đã lạc vào trạng huống si mê tức là tối tâm. Hãy thấy giác ngộ để trị si mê, chuyển mê khai ngộ, đem ánh sáng rọi vào bóng tối. Ánh sáng càng lay rộng thì bóng đêm càng hẹp dần.

Muốn đem ánh sáng tâm thì phải tìm hiểu chơn lý nơi kinh điển, Thánh ngôn. Mỗi ngày đọc một vài trang nghiền ngẫm suy nghĩ với một tâm trạng thao thức để tìm hiểu chơn lý tiềm ẩn bên trong Thánh ngôn, Kinh điển thường "ý tại ngôn ngoại". Đọc kinh điển phải tầm lý, đọc mà không hiểu nhiều khi đưa tới sự lầm lạc. Có khi "đa thơ loạn tâm" hoặc ngược lại suy ngẫm nhiều mà không đọc sách thì tư tưởng không mới mẻ, có khi lạc đường ra ngoài giáo lý.

Vả lại văn tự chỉ ghi được một phần ý tưởng thô sơ, từ ngữ hiện nay bị gượng ép làm người đọc dễ hiểu lầm. Hơn nữa, không phải kinh sách nào cũng đọc cho hết, không ai đọc được hết sách. Không có quyển sách nào mà mọi người phải đọc ngay cả kinh, mà chỉ có những sách trong khoảng thời gian nào đó phải đọc để kịp nhu cầu tiến bộ, để phù hợp với xã hội. Có những sách như Kinh dịch chẳng hạn, kiến giải chưa tới thì không nên đọc. Tư tưởng chưa phát triển đến trình độ thì cũng không nên đọc. Khổng Tử dạy: "Năm mươi tuổi mới đọc được Kinh Dịch". Lúc còn làm việc đời, ta đọc Trang Tử nhạt nhẽo và vô vị khi ngồi nơi Thảo xá thấy nó hay và ý nhị vô chừng. Cho nên sách hay bao giờ cũng nên đọc đi đọc lại, kiến giải của mình ngày càng sâu, phát hiện càng nhiều. Tìm được 1 tác giả có tư tưởng gần gũi với mình là người bạn trong lãnh vực văn học tâm hồn rất vui sướng. Sách nào hợp với ta chỉ có ta biết thôi, không cần ai chỉ dẫn, không cần ai ép buộc. Nếu "khổ độc" hay "khốn học" là tự mình làm khổ mình, đừng bắt chước lối đọc sách "dùi đùi". Đọc không vô dẫu có lấy dùi đâm vào đùi thì mắt vẫn ngủ gà ngủ gật gẫm có lợi gì. Nếu khi đọc sách thấy được cái thâm sâu tinh túy thì làm sao buồn ngủ được. Đọc sách mà mê đến bỏ ăn bỏ ngủ là tốt nhưng coi chừng không thông suốt ý gởi gắm bên trong mà chỉ muốn biết diễn tiến câu chuyện mà thôi như đọc Tam Quốc chẳng hạn. Đó không phải là phương pháp đọc sách Thánh hiền vì đạo lo cho đạo.

Tinh thần và sức mạnh tâm linh thiếu nó thì ta chẳng làm được điều gì cao xa hiển hách. Nhờ công phu đọc kinh điển mà tinh thần ta phát triển, "chuyển mê khải ngộ" giúp ta hiểu được thế nào là thiên lý, thế nào là nhân dục, biết thế nào là vạy, thế nào nào là chơn. Đó là giai đoạn đầu và đường minh tâm kiến tánh.

Đó là chủ đích của đạo, chỉ cần lấy trí tuệ mà hiểu biết không lấy sự mê tín. Ai đem mê tín vào đạo Tam Kỳ là làm trái lẽ với đạo, là chưa hiểu mối đạo tiến bộ và hướng thượng. Vậy tu theo Đạo Cao Đài là không tin những điều huyền hoặc mà luôn luôn lấy cái tâm sáng suốt để xử kỷ tiếp vật.

Xét cho tận cùng, tâm là tinh thần sáng suốt nên bao gồm đủ mọi lý lẽ để ứng phó mọi việc. Tính là cái lẽ đủ của tâm do trời phú mà phát ra.

Theo Trương Tử : "Tâm với tính là một lý, lấy lý thì gọi là thiên, lấy sự bẩm thụ mà nói thì gọi là tính, lấy sự tôn giữ ở người mà nói thì gọi là tâm".

Trương Tử lại nói : "Do phần hư vô thái cực mà có tên là Thiên, do phần khí hóa mà có tên là đạo, họp thái hư khí hóa lại có tên là tính hợp tính với tri giác mà có tên là tâm"

Suy cùng tam hiệp tính mà rõ lẽ tự nhiên để đạt cái lý, giữ gìn cái tâm bồi dưỡng cái tính để thận lẽ tự nhiên là để thực hành cái việc ấy. Không biết lý thì đương nhiên không thực hành được việc, nhưng chỉ biết lý suông mà không thực hành thì cũng không có ích chi cho mình. Thuận theo lẽ thiên nhiên mà sửa mình là lòng nhân đã đến tột bực. Trí hiểu biết không suy đến ngọn gốc thì chắc chắn không biết lòng nhân là thế nào, nhưng có trí mà thiếu nhân, hành động phóng túng, không đáng gọi là trí được.

Ngày xưa, Lang Tương Như được phong làm tướng quốc nước Triệu từng làm tiêu Liêm Pha, nên Liêm Pha giận hăm giết Tương Như. Vì thế Tương Như luôn tránh mặt Liêm Pha. Bọn xá nhân thấy vậy phàn nàn hỏi Tương Như : "Chúng tôi bỏ nhà cửa, quyến thuộc theo Ngài. Nay Ngài chỉ vì lời dọa của Liêm Pha mà tránh mặt. Sao Ngài sợ quá đỗi như vậy ? Chúng tôi lấy làm xấu hổ không theo Ngài nữa".

Tương Như hỏi : "Các người xem Liêm Pha có hơn vua Tần không ? Thế mà ta dám làm nhục vua Tần thì làm sao sợ Liêm Pha. Ta nghĩ Tần không dám đánh Triệu vì có ta và Liêm Pha. Nếu Tần nghe ta và Liêm Pha bất hòa, Tần tất tất thừa cơ đánh Triệu. Sở dĩ ta chịu nhục tránh Liêm Pha là vì ta coi việc nước trọng hơn việc riêng vậy".

Xem thế, bậc tài trí ngày xưa suy nghĩ sáng suốt ngọn ngành biết lấy chữ nhân ra mà xử với kẻ đối nghịch.

Tóm lại, trong hoàn cảnh nước ta, hai nền văn hóa Đông Tây gặp nhau. Phong hóa nước ta vốn có truyền thống nhưng do những cái náo động vô ý thức khiến cho xã hội mất thăng bằng. Ta đưa đạo tâm, 1 hiện tượng "tịnh" để chế ngự cái náo động chuyên lực về nguồn, dung hòa tâm với vật để tiêu khiển cái tâm trở về đường ngay nẻo chánh. Đó là thiên cơ dĩ định rất hợp thời và hợp cảnh vậy. Những người minh tâm kiến tánh có sứ mạng thực thi được những ý tưởng cao việt đó.

5/ - Tâm hòa :
Ngày nay là thời đại văn minh khoa học "Càn khôn dĩ tâm thức" các phương tiên sinh hoạt vật chất và tinh thần đều tiến bộ, thế nên tu ngày nay cũng khác hơn ngày xưa. Thời còn ở hang động chơn phép tu tiên. Khi có nhà ở chọn phép tu chùa (Phật), khi xã hội loạn lạc để chấn chỉnh lòng người có phép tu tề (Khổng Giáo) và ngày nay ở đâu cũng có chợ búa, phồn hoa náo nhiệt để kích thích dục tính đạo, ta chọn phép tu tâm, như hoa sen mọc giữa đầm lầy mà vẫn có hương thơm ngát : "Cư trần bất nhiễm trần". Có người gọi nôm na lối tu tâm là tu chợ. Ở chợ mà không vật dục dấy bẩn mới thật là "Đại ẩn ẩn thành thi" hằng nhất tự thi, nhi tu sơn" người ở giữa chợ mà mà tránh được bợn trần mới quí.

Ngày đi làm, tối họp nhau bàn đạo lý đạo cao siêu hay tịnh luyện thay vì tới mua vua hạ tiện. Muốn vào hàng Thánh phải xua đuổi tà niệm để tư tưởng được thanh cao. Muốn tu tâm cần phải có những đức tành từ bi, hỉ xã, nhẫn nhục, tinh tấn, bác ái, nhu hòa, tự tại, chính thành.

- Thương người quan quả cô đơn, đói rét.
- Đại lượng với kẻ thù, dĩ ơn báo oán.
- Không than phận trách trời, hãy cố gắng giữ hạnh người tu.
- "Lễ bái thường hành tâm đạo khởi" không biếng nhác, công phu, công quả. Cầu nguyện là để trong lòng được an ủi, như mình bị nạn mà được Trời Phật phò hộ thì cái sức mạnh của mình tăng lên gấp bội mà chống lại với hoạn nạn, chứ không phải Phật Trời đưa tay cứu vớt.
- Nghèo sang, lớn nhỏ xem như nhau, chẳng xu phụ kẻ quyền thế, coi rẽ người hèn mạt.
- Nên nhớ cùng nhau "một đạo tức một cha" coi nhau như anh em một nhà.
- "Tương kính như tân", kính trọng như lúc thâm sơ, đừng cao ngạo, cần thái độ nhu hòa.
- Gặp may chớ đắc chí, gặp rủi chẳng nao lòng, lành dữ đều có thiên cơ dĩ định.
- Thành thật với đồng đạo, với người cộng sự, luôn luôn lấy 2 chữ chí thành mà đối xử với mọi người.
- Không ham danh vọng, tài lợi, sắc đep. Người xứng đáng có danh tự nhiên danh đến. Nếu cố tâm tìm kiếm hoặc làm việc để cầu danh thì danh ấy là danh hảo, hư danh. Nhiều kẻ muốn giàu sang mưu tài lợi cho bản thân không ngờ đem xác thịt làm nô lệ cho tài lợi quên điều nhân nghĩa. Một mai hồn lìa hỏi xác tay trắng vẫn hoàn trắng tay.

Còn sắc đẹp là cái dao cắt thịt tận xương, nó chất chứa vô vàn nguy hiểm. Bao kẻ hao mòn tinh lực vì sắc dục mà tự thâu ngắn đời mình. Bao người tán gia bại sản, gây nhiều tội lỗi cũng vì sắc dục.

Có kẻ ỷ thế mạnh hiếp đáp người nghèo, nhưng mạnh thế nào cũng không qua lẽ phải vì "dũng bất quá thiên, cường bất quá lý".

Đời này là cõi tạm có chi vĩnh viễn sung sướng? Chân hạnh phúc người tu đâu phải tranh danh đạt lợi, miếng cơm manh áo? Sự ham muốn của con người vô chừng, được 1 muốn 10, được 10 muốn 100, lòng ham muốn vô bờ mà không được tất khổ não, chính mình tạo khổ cho mình mà không hay biết.

Người sống đạo thanh thảnh với cuộc đời an tịnh. Lòng đã tắt ham muốn, thâu cái vọng tâm lại không cho nó dao động ham muốn mà rước khổ vào thân.

Người đạo không dồn nén được thất tình lục dục thì chắc chắn sẽ bị cơn bão khảo đạo do chính tham, sân, si của bản thân mà ra.

Khảo là cho biết chơn giả, đảo là cho biết tà chánh. Thế nên người đạt đạo với cảnh ngộ nào, dầu khổ tâm cách mấy vẫn xem thường. Mỗi lần khảo là mỗi lần nâng giác lên một bậc, coi danh lợi như đợt sóng, có đó mất đó.

Câu chuyện Đức Phật Thích Ca bị khảo đảo trước khi đắc đạo ta cần suy ngẫm. Khi hay tin Đức Phật Giác Nhiên ngộ đạo, Thần Mara chúa tể của tội lỗi tới đem binh ma tướng quỉ nổi sóng gió làm cho tất cả núi nghiêng để Đức Phật sợ hãi, nhưng Phật vẫn bình tâm lặng lẽ như khúc gỗ.

Túng thế, Mara đem danh lợi, nữ sắc lay chuyển tâm Phật. Lấy danh để khêu gợi lòng tự ái, lấy lợi để dục lòng ham muốn, lấy sắc để gợi lòng dục vọng, nhưng Phật chẳng mảy may động lòng.

Mara tức tối cho binh ma tướng quỉ lấy gươm giáo, tên lửa bắn ném vào thân Phật, nhưng tê giáo biến thành đóa hoa thơm xây quanh nơi Phật ngự.

Mara xấu hổ bỏ đi, bên tai còn nghe văng vẳng"người ấy đắc đạo rồi. Người ấy đã làm chủ cả sự vật trong trời đất",thế nên, một người đạo tâm lòng luôn thanh thản, sống hòa đồng với mọi người.

Đức Quan Thế Aâm dạy : "Đạo quí là tại hòa. Tạo Thiên lập Địa cũng do âm dương hợp hòa. Thân con người có tạng phủ chẳng hòa thì con người chẳng sống bao giờ. Tâm bất hòa thì thất tình lục dục phát khởi tranh ngôi trong vòng vật dục, chẳng hề biết thiên lý là gì "gia đình chẳng hòa thì cha con, anh em ly tán". Cả thế giới bất hòa thì nhân loại đấu tranh. Vậy khuyên các em dĩ hòa vi tiên. (TNHT quyển II, trang 87).

Người xưa nói : Tu thân dĩ đạo, tu đạo dĩ nhân.
Vì thế tu hành cần phải có bạn đạo chân tình để giúp ta phân biệt phải trái. Bạn tu núi giúp ta ngưng nóng nảy. Bạn nghiêm giới luật giúp ta tròn ngũ giới cấm. Bạn trí thức giúp ta ra khỏi mê chấp, giải quyết những khó khăn mà lòng ta còn hoài nghi. Bạn trầm tĩnh giúp lòng thanh thản và điềm tĩnh trước mọi trở lực. Bạn tri kỷ giúp ta ức chế được mọi lỗi lầm. Bạn tinh tiến giúp ta hiểu đạo cao sâu. Bạn nhân từ bố trí giúp ta xa rời tính keo kiệt mà rộng lòng khoan dung.

Được như thế, cái tâm ta lo gì không hòa đồng cùng vạn loại. Nhớ luôn câu : "vạn vật đồng nhất thể". Mọi người sanh ra giống nhau về giác quan, bình đẳng nhau về mọi mặt. Những mặt hơn kém nhau, lấn lướt nhau là do ta chính ta tạo ra. Chính cái chèn ép, đàn áp nhau là nguyên nhân của sự bất hòa mà quên rằng chúng ta có cùng 1 Đấng cha chung : Đức Đại Từ phụ. Vậy muốn tâm hòa là đè nén tam độc : tham, sân, si mà tu thân tự giác xem tất cả mọi chúng sanh là anh em 1 nhà, xem của cải vật chất là giả tạm vì hữu hình hữu hoại, chỉ có chân tâm của mình mới bất sanh diệt hằng sống mà thôi.

Muốn có một tâm hồn hòa đồng, bất úy, thản nhiên. Ta luôn nhớ lời dạy của Đức Chí Tôn về chữ thuyết "đại đồng nhân loại".
"Người nào biết xem hết thảy sự vật như nhau, sướng như khổ, vui như buồn, đặng như mất, biết coi cục đất như hòn vàng, viên đá như hòn ngọc, người đó đã đạt sự hòa đồng cực điểm" (SENART, Bhagavad Gita, trang 153)

Người tu coi sự csống chết ngang nhau : sanh ký, tử qui". Thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi, không vướng bận vào đâu cả. Thuận theo thiên lý mà sống, không cưỡng lại số trời. Thân thể đơn sơ, tâm tư trầm lặng …

Trang Tử dạy: "Sanh tử, tồn vong, giàu nghèo, khen chê. Đó là những cái biến của sự đời, cái hành vận của mạng số. Nó nối tiếp nhau ngày đêm: hết sống tới chết, hết vinh tới nhục … Những điều ấy ta đừng bận tâm đến làm gì, đừng bao giờ để nó chen vào phá hoại sự yên tĩnh của tâm ta. Hãy giữ gìn sự yên tĩnh trong lòng, đừng để vật gì làm xao động". Được như thế, tâm hồn ta đã hòa vào đại hồn vũ trụ, thế giới hòa bình an lạc".

6/ - Đạo tâm của bậc chí thành :
Trong thiên hạ chỉ có bậc chí thành là thông minh diệu trí đủ để lãnh đạo kẻ dưới. Đạo tâm rộng rãi ân hòa nhu thuận đủ để mở lòng bao dung, và trí dũng để cầm phép tắc. Lòng trong sạch đoan trang ngay thẳng đủ cho người ta kính. Văn ý mau nhặt rõ ràng đủ để phân biệt thực giả "Thầy khuyên các con ráng nhớ hai chữ chí thành để dạ không không, đừng dính líu với điều chi khác với hai chữ chí thành. Vì tâm chí thành mới cảm giác ứng hóa đặng. Hễ ứng hóa thì các con đều rõ thông mọi việc" (Đàn 23-1-1934).

Đạo tâm rộng khắp như trời, sâu thẳm như vực, lời nói không ai không tin, việc làm dân không ai không theo. Phàm người có chí khí không người nào không kính trọng, người ấy đã phi phàm đạt tới chí thành rồi vậy.

Đạo thiên biến vạn hóa nhưng không ra ngoài cái tính. Bậc chí thành không mảy may tư dục nào xen vào tâm được. Các đức nhân nghĩa lễ trí tín điều được thuần nhiên. Người đã đạt bậc chí Thánh không nghĩ mà không đạt gắng mà không trúng, không còn nương cậy vào người khác.

Đạo tâm của bậc chí thành lờ mờ mà ngày càng sáng tỏ khác gì mặc áo gấm phủ áo thường (ý cẩn thượng quýnh (đơn). Đạo tâm của kẻ tầm thường thích lồ lộ ra ngoài nên sớm mất đi. Đạo tâm của bậc chí thành giản dị mà có văn vẻ, ôn nhu mà chải chuốt, sơ mà rất thân. Bậc ấy biết cái lộ ra ngoài là tự có trong mình trước, biết cái công khai là tự cái kín đáo mà ra. Người đời không theo nổi bậc chí thành là do những sự kiện đó. Họ lẳng lặng chẳng tranh giành ai, chẳng xuống lệnh cho ai. Thế mà họ khuyên được dân, họ khiến được dân mà dân không buồn giận. Bởi vì dùng tiếng và sắc để hóa dân là cách kém nhất (Thanh sắc chi vi hóa dân, mạc dã, Tử Tư) hãy lấy đức mà trị dân, coi đức nhẹ như lông (đức do như mao, K.Thi) nhưng chưa bằng việc sinh hóa của Đức Chí Tôn không bởi chẳng tiếng mà điều khiển cả quần linh (vô vi như dịch sử quần linh).

Thế thì, cái đức nhẹ tựa lông không tỏ rõ là thế nào? Đó là cái đức của bậc chí thành không khoe khoang thanh sắc.

Vậy, Đấng chí thành là bậc Thánh nhân, trong lòng không còn 1 mảy tư dục nào, chỉ còn thuần nguyên tính trời ban cho. Thế nên, cái tính ấy không lớn, không nhỏ khác hẳn tính phàm phu, biết hòa đồng vào tự nhiên vạn loại. Trong thiên hạ chỉ có cái đức chí thành của hạng minh thành không khác chi cái tính của bậc Thánh nhân.

Đạo chí thành sáng lâu không tắt rọi cao và rộng, rộng mà dày là để chở muôn vật, cao mà sáng để che muôn vật. Rộng mà dày sánh với đất, cao mà sáng sánh với trời, do vậy không động mà biến, không làm mà thành. Đạo trời chiû một tiếng là đủ hết : tâm chí thành, "Đạo gốc bởi lòng (tâm) thành tín".

Thánh nhân nhờ đó phối hợp với trời đất mà sinh hóa vạn vật, ở ngoài không còn gì nữa, chỉ còn là cái mênh mông của Đạo.

Kẻ bình dân làm ngược lại với Thánh nhân hay nói dối. Nguyên nhân nói dối là do tâm mình sợ sệt. Vọng ngữ là điều thứ năm trong ngũ giới cấm, người đạo khó giữ gìn. Muốn trừ nói dối, các đạo sĩ Aán Độ thường hay tịnh khẩu làm diệu pháp. Lúc tịnh khẩu không sợ ai bắt buộc họ nói trái với ý nghĩ của họ, nên họ nghĩ theo sự thật. Lâu ngày họ có thói quen vọng ngữ. Kẻ nói dối còn tỏ ra mình có tâm hồn khiếp nhược. Vậy ta nên tập tính chí thành như Thánh nhân.

Thánh nhân tôn trọng đức tính là để tổn tâm mà hát huy cái rộng lớn của đạo và thấu triệt cái tế vi của tâm. Không để một tư ý che lấp tâm mình, không dối nên không cần phải nghĩ phải cố gắng, cứ theo tính thong dong mà làm tự nhiên trúng đạo.

Sách xưa có viết "tu thân dĩ đạo" nghĩ là muốn tu thân nên lấy đạo lý mà sửa. Nếu nói đạo thôi thì mênh mông biết bắt đầu vào chỗ nào, nên phải nói cho rõ "tu đạo dĩ nhân", nghĩa là muốn tu cho đạt đạo phải lấy người làm cứu cánh, tức lấy thiện nhân đối với người. Vì ta muốn tu thân mà cầu cho được thiện nhân tất phải ở lẫn lộn trong xã hội loài người để tôi rèn tính khí, để phổ độ nhân sanh. Từ đó, lòng nhân ái nảy nở, làm việc nghĩa để cứu đời. Biết nghĩa phải tôn người hiền vì họ là bậc đạo cao, đức thịnh, có thế kết bạn với hiền nhân, tôn họ làm thầy để dẫn dắt ta trên đường đạo, trong ý nghĩ "tôn hiền vi đại".

Đối với mọi người là nhân, đối với tôn hiền là nghĩa. Từ nhân nghĩa sanh ra lễ đối với nhau. Lễ là để kiềm chế tư dục. Luôn luôn "tương kính như tâm" đối đãi nhau như lúc đầu mới gặp, đừng sỗ sàng, bị kẻ khác chê bai không vì lẽ đó mà thất lễ với người ta. Bởi lẽ sự khen chê là lới nói qua đường không vì đó mà giá trị ta tăng lên hay giảm xuống, nên tập theo Lão Tử "dĩ đức báo oán". Biết lễ tức là biết trời tức quán triệt phần tu, tiếp đến là hành. Vậy tu hành hiệp nhứt mới đạt đạo.

Tu thân nói rộng ra, với tinh thần xả kỷ, từ bi, thân mình tu được phải độ cho kẻ khác tu. Muốn được vậy ngoài nhân phải thêm trí, dũng. Nhân sanh đa số là người bình thường chưa có thể đầu bàn sớm mai mà thành trí đại trí. Tất phải học, phải nghiên cứu giáo lý, sưu tầm cổ kim, dốc lòng tìm vị chức sắc học đạo, cầu cho đa văn quãng kiếm để có đủ vốn liếng chủ nghĩa mà suy cứu 1 mình.

Muốn đạt đức nhân, phải biết sức tu luyện một lời nói một việc làm phải dè chừng, phải thương người, coi thân người như bản thân, giúp người nên việc. Như vậy đã tiến dẫn đến đức nhân.

Cái dũng của người tu là sức mạnh trong lòng. Nội lực thâm hậu để có thể chịu đựng mọi thử thách mọi khảo đảo. Kẻ đại dũng bất chợt gặp những chuyện phi thường cũng không sợ, vô cớ bị những điều ngang trái cũng không giận. Chứ không phải bị nhục thì tuốt gươm đứng dậy vươn mình xốc đánh. Cái đó không phải là dũng cảm của người tu, của bậc chí thành.

Ngày xưa Khổng Tử bị vây ở đất Khương, không còn cách nào khác, nên ông coi như mọi việc bình thường lấy đàn mà ca hát.

Tử Lộ hỏi : "Thầy sao vui vậy ?"
Khổng Tử đáp : "Ta làm hết sức đó để tránh bị vậy. Thế mà không thành, đó không còn tại ta nữa. Đó là ý muốn của Trời … Lặn xuống đáy biển mà không sợ giao long, đó là cái dũng của hạn chài lưới. Đi rừng không sợ hổ báo là cái dũng của phường săn. Thấy gươm bén mà không sợ đó là cái dũng của hiệp sĩ. Biết được chỗ cùng thông là Thời Mạng và bất cứ ở vào hoàn cảnh nguy hiểm nào cũng không biết sợ, đó là cái dũng của bậc chí Thánh".

Đó là lòng chí thành của bậc Thánh. Đức chí thành là nguồn gốc của mọi đức hạnh, tỉ như vàng ròng để chế tạo ra mọi đồ trang sức khác.

Lão Tử có dạy : "Người có thành tín như xe có bánh. Người quân tử thốt ra một lời như ngựa hay bị đánh một roi. Một lời nói ra, bốn ngựa khó theo kịp" (Nhơn nhi hữu tín như xa hữu luân. Quân tử nhứt ngôn, khoái mã nhứt tiên. Nhứt ngôn ký xuất tứ mã nan truy) .

Người hành đạo mà có lòng chí thành thì không bao giờ hành động riêng tư chỉ lo cho nhân quần xã hội mà không nghĩ đến lợi lộc cho bản thân. Đem thân làm con tế vật cho tôn chỉ, mục đích cao thượng của Đạo Trời, chỉ biết vì danh thể của Đức Chí Tôn. Một lòng cúc cung tận tụy vì nhân sanh.

Khi tụng niệm các đấng cũng phải hết dạ chí thành, chớ miệng tụng mà ý vớ vẩn vì tư lợi thì chắc chắn không bao giờ có cảm ứng với những lời cầu nguyện chân thành. (TNHT, trang 124)

Muốn được lòng chí thành, trước phải thành thật với chính mình, nhân hậu mới thành thật với người khác. Hãy xét kỷ từng ý tưởng, lời nói đến việc làm của mình một cách triệt để, rồi tự phục thiện mà sửa chữa chỗ sai trái.

Sau đó, thành thật với người, trước tiên là tránh xa vọng ngữ, xảo trá, xu phụ mà che lấp lẽ cương trực, công tâm.

Tuân Tử đã nói : "Công bình sanh sáng tỏ, thiên lệch sanh đen tối, làm điều đức hạnh sanh thông hanh, nói điều giả dối sanh che lấp. Thành tín sanh linh ứng còn khoa trương sanh lầm lạc" (Công sanh minh, thiên sanh ám, tác đức sanh thông, tác nguy sanh tắc, thành tín sanh thần, đoản khoa sanh hoặc).

Tóm lại, lòng chí thành là đầu mối của mọi đức hạnh. Mọi chúng sanh cần phải trau giồi để lần bước trên đường tận thiện, tận mỹ : Làm thế nào cho đức chí thành của mình tỏa rộng khắp mọi người, thì hợp lẽ thiên lý, lúc ấy ngang với bậc chí thành thông thánh, tức là bậc chí Thánh vậy.

Phần Phụ Lục

CHƯ CHỨC SẮC ÐẠI THIÊN PHONG
BUỔI ĐẦU HỘ-PHÁP, THƯỢNG-PHẨM, THƯỢNG-SANH

HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
(1890 1959)

1 . MỘT THANH NIÊN DIỆU THƯỜNG
Vào tiết Đoan Ngọ (5-5) năm Canh Dần (21-6-1890), bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, thuộc làng Bình Lấp, tại tỉnh lỵ Tân An (nay là Long An), một chơn linh giáng lâm trong gia đình ông Phạm Công Thiện, một công chức. Đó là Phạm Công Tắc (1). Ngày sanh nhằm năm Thành Thái thứ hai, lúc bấy giờ, Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, do Pháp trực tiếp cai trị.Vì thế Nam Kỳ coi như một phần lãnh thổ của Pháp. Thủ Thống Đốc Nam Kỳ đặt tại Sài Gòn

Ông Phạm Công Thiện kết hôn với bà La Thị Đường, sanh được tám người con mà Ngài Phạm Công Tắc là người thứ tám. Song thân Ngài trước ở làng An Hòa, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Vì là công chức, ông Phạm Công Thiện được đổi đến Long An.

 (1) Theo giấy tờ hộ tịch thì Ngài sanh tại Bình Lập, và cũng được xác nhận trong quyển "Tiểu sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc", xuất bản năm 1954 lúc Ngài còn sanh tiền.

Thuở thiếu thời, Ngài Phạm Công Tắc là một thiếu niên khoẻ mạnh, tư chất thông minh đỉnh ngộ. Có điều lạ, vì sanh nhằm này Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, cũng là ngày Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhập thiên thai, nên thỉnh thoảng, Ngài ngủ thiếp đi như người chết, linh hồn lạc khuất đâu đâu, khiến cho huyên đường âu lo: Nhất là bà cụ cố tỏ vẻ buồn rầu sợ Ngài mệnh bạc.

Cảnh trạng Ngài chết đi sống lại như thế, cả làng xã đều biết. Người ta cố gắng lo thuốc thang cho Ngài, nhưng vốn thiền định, lâu lâu Ngài ngủ lịm đi đôi ba giờ, có khi kéo dài nữa ngày.

Năm 1896, đến tuổi cấp sách đến trường tiểu học, có lúc học chữ nho, rồi sau theo học trường Chasseloup -Laubat (nay là trường Jean -Jacques Rousseau, đường Hồng Thập Tự, Sài Gòn). Bằng hữu ai cũng thích Ngài, vì tính tình khoan hòa, ưa hoạt động, nhất là nhiều sáng kiến, bày biện các cuộc chơi, hay đánh đổ một vài nhân vật trong lịch sử nước Pháp. Việc này khiến cho các bạn ái ngại xa lánh Ngài.

Phong trào Đông Du (1904-1907) do Kỳ Ngoại Hầu Cường để làm Minh Chủ và hai nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng để nâng cao dân trí, bằng cách gởi các thanh niên du học ngoại quốc nhất là Nhật Bản.

Tại Sài Gòn, phong trào Đông Du do hai ông Gilbert Chiếu ( tức Trần Chánh Chiếu) và dương Khắc Ninh lãnh đạo . Các ông thành lập các kinh thương hội như : "Minh Tân Công nghệ" và khách sạn "Nam Trung "làm nơi lưu trú hội họp cho Đảng viên. Ngài Phạm Công Tắc dù đang theo học năm thứ hai trường Chasseloup - Laubat, cũng lén bỏ học đến họp với anh em.

Hai ông Gilbert Chiếu và Dương Khắc Ninh tập họp các Đảng viên chia nhiều nhóm để xuất dương. Ba nhóm đã tới Nhật. Ngài được ghi tên vào nhóm thứ tư. Lòng Ngài như mở hội, bao nhiêu mộng hải hồ viễn phương kéo lũ lượt qua võng mô Ngài. Bút nghiêng tạm xếp, hành trang sẵn sàng chờ ngày lên đường. Đùng một tiếng, phong tào bị khám phá. Mật thám Pháp đến tra xét cơ sở Minh Tân công nghệ. Ông Dương Khắc Ninh đã lẹ tay hành động, tiêu hủy tất cả hồ sơ và tài liệu nên không ai bị lôi thôi gì cả. Tuy nhiên mật thám vẫn chú ý, luôn luôn theo dõi, rà xét các nhà lãnh đạo và chính Ngài cũng bị chúng để ý và nhà trường lưu tâm. Buộc lòng Ngài phải nghỉ học về An Hòa (Tây Ninh ) tạm tránh sự dòm ngó của mật thám Pháp. Khi tình hình êm dịu, Ngài lại lăn mình vào trường tranh đấu. Lần này Ngài hoạt động cẩn thận hơn, rồi tham gia viết báo như : công luận, La Cloche fêlée (chuông rè) của Nguyễn An Ninh, Lavoix libre (Tiếng nói tự do) vv…Tờ Lục Tỉnh Tân văn của ông Pierre Jeantet, ông Gilbert Chiếu làm chủ bút. Ngài cộng tác với tờ này vì là đồng chí. Hơn nữa, ông Chiếu ngấm ngầm làm cơ quan tuyên truyền chống Pháp và khích động lòng yêu nước của nhân dân rất đắc lực. Các bài "Thượng bất Chánh, hạ tắc loạn" ( đăng ngày 12-12-1907), bài" Dân tộc đoàn kết và thời đàm "(đăng 23-01-1908) là những lời thẳng thắng cảnh cáo nhà cầm quyền Pháp. Khi ông Chiếu bị bắt, tờ báo đình bản, Ngài lại về quê.

Vì ảnh hưởng cách mạng và các tiên vương, về sau, Ngài lập Báo Quốc Từ thờ Hùng Vương, bôn ba sang Nhật rước tro Cường Để, về Sài Gòn rước linh vị Thành Thái và Duy Tân đem thờ nơi Báo Quốc Từ (gần chợ Long Hoa). Tất cả các sự việc đó để cho tấm lòng nuôi dưỡng ý chí các liệt sĩ bất khuất và di dưỡng vang bóng một thời của tuổi trẻ hào hùng.

Aâu cũng là thiên thơ dĩ định, mộng Đông Du không thành, bạn bè cùng chí hướng mỗi người mỗi ngã, Ngài chẳng lẽ ngồi đây nhìn quê hương ngày một thêm tan nát, hay chỉ biết làm bạn cùng cây cỏ gió trăng. Đêm rằm tháng giêng năm Đinh Mùi, Ngài nằm trên sập kê trước nhà nhìn vầng trăng hư ảo mà khẽ ngâm bài "nhân nguyệt vấn đáp", rồi tâm thần dần dần tê mê theo cơn gió nhẹ ru. Khi mở mắt ra Ngài thấy chan hòa một thứ ánh sáng quyền dịu mà Ngài đang lửng thửng đi trên đường bằng phẳng sạch sẽ và trắng như tuyết.

Bỗng thấp thoáng đằng xa đi lại một vị sư già, mặt áo cà sa vàng, nét mặt từ bi và cất tiếng hỏi :
- Em có nhớ qua không?
Ngài nhìn vị sư, chợt nhớ ra vội đáp :
- Dạ nhớ.

Vì năm lên mười tuổi theo học chữ nho, thường hầu thầy đi cân thuốc ở tiệm Đức Vọng, chợ Tây Ninh, Ngài đã gặp vị sư này bàn với thầy Ngài về tương lai Ngài như vầy : "Cậu bé này vào bật siêu phàm, sự nghiệp vô cùng cao cả".
Vị sư già đưa Ngài đến một tòa lâu đài, một màu trắng tinh "Một tòa thiên các ngọc làu làu " và bảo Ngài :
-Em chờ qua ngoài này qua vào trong một chút nhé.

Ngài chờ lâu quá không thấy vị sư trở lại, bèn vừa kêu vừa gõ cửa, vẫn không ai trả lời. Ngài mới đi vòng quanh thấy nhà có 8 góc và 8 cửa đều giống nhau và đóng kín. Nhìn kỹ, Ngài mới nhận ra mỗi cửa điều có một con đường trắng chạy về phía chân rời xa. Trong lúc băn khoăn chưa biết chọn con đường nào, bỗng thấy phía có bóng đèn lóe sáng Ngài liền phăng tới, gặp một tòa nhà mà cửa vẫn đóng. Ngài gõ liên tiếp mấy tiếng, không thấy ai trả lời. Ngài bấn loạn, muốn thối lui thì một tiểu đồng xuất hiện và chỉ tay vào Ngài mà hỏi :
- Anh có phải là anh Tắc không?
- Sao em biết qua? Cậu bé mĩm cười.
- Sao lại tôi không biết. Nói xong tiểu đồng tiếp :
- Thầy gọi anh trong nhà.

Ngài ngạc nhiên hỏi :
- Thầy là ai hở em ?
- Rồi anh sẽ biết. Nói xong tiểu đồng bước vào nhà
Ngài bước theo gặp "con chó lông vàng" nằm chặn ngang đường, Ngài ngần ngại nên tiểu đồng giục :
- Có gì mà sợ, nó không phải là chó nên chẳng cắn đâu. Anh cứ theo tôi chẳng ngại gì cả.

Ngài vừa bước qua, cửa từ từ đóng lại. Ngài và chú tiểu đứng trong hành lang rộng mênh mông.Theo chiều dài hành lang có năm phòng lớn, mỗi phòng có một cửa đều đóng. Chú tiểu đưa Ngài đến cuối phòng rồi dặn :
- Anh chờ đây. Lúc nào thầy kêu tôi sẽ cho anh hay.

Chờ lâu quá sốt ruột, phần vì sợ con kim mau hẩu (tức con chó lông vàng), nên Ngài bạo dạn gõ cửạ. Chú tiểu nghe tiếng gõ cửa gắt gỏng :
- Anh làm gì rối thế? Anh nhát quá, thôi ở đây mà chờ thầy.

Ngài ngắm xung phòng, thấy dài đến 20 thước, rộng 10 thước, bốn mặt tường và nền nhà là một khối cẩm thạch phẳng liền cực đẹp… Từ ngoài một ông già cao lớn, mặt áo xanh, râu tóc bạc trắng bước vào, Ngài chấp tay xá. Nhìn kỹ, Ngài nhớ ra, ông già này là một người đi với nhà sư mà Ngài đã gặp trong nhà thuốc Đức Vọng độ nào. Ông đi thẳng lại chiếc ghế bành ung dung ngồi xuống và bảo Ngài :
- Con ngồi xuống đi.

Trước nhất , ông già hỏi thăm về gia đình, nhưng trừ người chị thứ tư đã mất không hỏi, làm Ngài ngạc nhiên vô cùng.
Sau lúc phê phán từng người trong gia đình, ông già gọi tiểu đồng :
- Con đem bánh cho anh con ăn.

Tiểu đồng mang vào đặt trước mặt Ngài một đĩa bạc lớn, trên đựng đầy bánh bốc hơi thơm phức. Các bánh trong ngần như bột lọc, hình tròn, nữa đỏ nữa trắng, sắp theo hình nón. Ngài được ông già mời ăn và uống nước bằng tô lớn vàng ròng. Đợi Ngài ăn xong, ông già trầm ngâm nói :
- Hôm nay con ăn hai cái bánh rưởi và uống một tô nước . Những thứ đó sẽ ám hợp vào đời hành đạo của con sau này.

Ngài tạ từ ông già, nhưng nhớ đến con kim mao hẩu, Ngài vái xin con vật đó. Ông già tỏ vẻ ưng lòng và đáp :
- Con cứ về đi, sau này nó sẽ xuống với con.

Khi trở ra Ngài bước lên lưng con kim mao hẩu và đạp lên mông thì cánh cửa tự mở.Lúc đến tòa lâu đài 8 góc, tiểu đồng ra từ tạ :
- Bây giờ em chưa thể cùng đi với anh được. Sau này thầy sẽ cho em xuống với anh. Thôi anh về đi.

Ngài sực nhớ đi chơi lâu quá, vội chạy nhanh về,vô ý vấp phải mô đất, té lộn đi một vòng. Ngài giật mình tỉnh dậy, thoang thoáng bên tai tiếng kêu khóc vang rầy, mở mắt ra thấy mọi người tấp nập chung quanh mình. Kẻ thì kéo tóc, người thì giật tay, gọi tên ầm ĩ.
- Ngài chờn vờn ngồi dậy như nói trong mơ :
- Con chó của tôi đâu rồi?

Người người ngơ ngác, nhưng Ngài lại nhớ đến con kim mao hẩu trong giấc mộng dài diện kiến Thiên cung.

Thật ra, đây không phải là giấc mộng mà là một cuộc xuất hồn của một chơn linh hiển đạo. Cuộc vân du này, năm 1927, Đức Ngài viết thành quyển "Thiên Thai Kiến Diện" đúng hơn là "Tam thập lục thiên hồi ký" mà bài số 75 gần như gom ý cuộc hội kiến với Đức Thân Phân Đức Cao Đài mặt áo xanh nói trên :

BÀI 75 Xa trông cảnh vật đã xây tròn,
Bát hướng đài ngưng thấy nước non.
Động cũ thần tiên còn để dấu,
Chùa xưa Phật Tích nát hư mòn.
Chấp Kinh Khổng sĩ nho phong dõi,
Nắm nghiệp Đào quân nhấp thuốc khôn
Nẻo thánh tuy quên tay đẩy cỏ,
Nền văn miếu thấy khối hương còn.

Trong cuộc vân du kể trên, trước hết Ngài gặp vị sư già mặt áo vàng (biểu tượng Đạo Phật), ông già mặt áo xanh (biểu tượng Đạo Lão) đó là nhân vật chính Đức Hồng quân lão tổ phân thân của Đức Cao Đài. Đĩa bánh bạc màu trắng (màu Đạo Cao Đài) đựng những chiếc bánh hình tròn (biểu tượng Trời hay Thái cực) có hai màu đỏ và màu trắng (biểu tượng âm dương) tức thái cực sanh lưỡng nghi. Aâm dương hay Khôn Càn là đầu mối biến sinh ra vạn vật. "Đạo vốn chỉ một âm một dương mà thôi…, có cái gì thích hợp mà chẳng một âm một dương?".

Ngài được uống một tô nước cam lồ. Theo Dịch lý mọi việc khởi đầu ở cung Tý (Thủy) tức Thiên khai ư Tý, 12 giờ đêm thuộc thiếu dương số 1, ứng vào vẽ Phục (biểu tượng Phục hưng nền Đạo mới).

Thật sự, Ngài chỉ ăn có hai cái bánh, cái bánh thứ ba chỉ ăn nhưng mà bỏ vởû hàm ý chỉ gom lấy cái tinh hoa của các Đạo mà bỏ những điều cặn bã, phản tiến hóa. Ông già áo xanh nói :" con ăn hai cái bánh rưởi và uống một tô nước. Những thứ đó sẽ ám hợp vào đời hành Đạo của con sau này ".

Nếu Ngài ăn đủ ba cái thì xong không có gì để nói .Như vậy không phù hợp với Đạo âm dương :"sinh rồi lại sinh". Thế nên, Ngài chỉ ăn có hai cái rưởi mà lại"ám hợp vào đời hành đạo sau này", tức là chưa xong. Cuộc đời, trường đời, việc Đạo là hỏa thủy vị tế (quẻ ly trên quẻ khảm dưới). Đó là quẻ thứ 64 trong Kinh Dịch, quẻ 63 ký tế mà quẻ 64 lại bắt đầu biến hóa. Trường đời,việc Đạo biến hóa vô thường, Ngự Mã Thiên Quân phải đối phó để giữ vững thuyền Đạo lướt qua những cơn sống dữ và đá ngầm của biển cả. Đó là tiên tri của ơn trên : "Muốn giàu thầy hứa đem cho của,cái của cái công phải trả đồng ". (4)

* * *
Sau đây, chính Đức Ngài kể lại về thời thanh thiếu niên của mình : "Bần Đạo thứ tám còn con em thứ chín ở với mẹ ở trong cái ổ nghèo, ổ rách. Mấy anh chị họ lớn hơn, lập nên danh. Kẻ có chồng, người có vợ chỉ có Bần Đao chưa biết gì hết chỉ biết thương nhau mà thôi,thương cha có công sanh dưỡng, thương mẹ bảo trọng gia đình lo tảo tần nuôi con, thương anh em trong gia đình, tuy có biết thương mà lo học, sợ không học ông bà buồn rầu"…

"Cha đã chết hồi Bần Đạo mới 12 tuổi, chỉ ở với mẹ. Thương mẹ sợ mẹ chết nữa không biết ở với ai? Ở tỉnh Tây Ninh, người ta thường chôn đám xác, con sợ mẹ chết quá. Cũng vì sự thương yêu, được 17 tuổi quyết định ra làm việc để trả hiếu cho mẹ."

" Lúc ấy, Bần Đạo đã thi đậu, nếu ra làm việc với hãng buôn ăn lương lớn mà không biết nuôi mẹ được không? Người anh rễ nói "em làm việc hãng buôn tư không có danh dự gì hết". Bần Đạo nghe lời nên xin làm việc ở sở nhà nước, làm việc mỗi tháng lương 70-80 đồng, ăn xài cũng còn dư một đôi chục bạc để nuôi mẹ. Đến chừng còn 20 đồng một tháng, lúc đó thiêu nợ lại thêm một bà vợ nữa, công việc bối rối không biết bao nhiêu, tới chừng đó không còn lo cho mẹ nữa. Trong gia đình, khi đó chưa tạo được hạnh phúc thì bà mẹ đã chết".

"Năm Bần đạo được 22 tuổi, đau đớn biết bao nhiêu, chỉ biết lo một điều là lo lập thân danh đặng nuôi mẹ, bảo trọng anh em. Đến chừng thành danh rồi khổ đáo để, cha mẹ đã khuất hết, dẫu thương bao nhiêu cũng không còn, lại tai ác nữa là vợ con trong gia đình sanh đẻ mãi, đâu có lo bên ngoài được nữa, khơi thống khổ tâm hồn. Tới chừng cao sang sung sướng ngó lụng lại không thấy cha mẹ. Hai Đấng ấy đã chết hết, thôi mình đeo theo anh em . Em chết nữa, lần lượt bao nhiêu người thân ái cũng chết hết. Bao nhiêu cái thương nồng nàn chỉ để nơi một người anh rễ, thương hơn anh ruột. Người em thứ chín là người bạn thân mến trong kiếp sanh của Bần đạo mà đã qui liễu. Tới chừng ấy tâm hồn ngơ ngẩn, xác thật bơ thờ, nghe tiếng chim, tiếng hát của mấy em cấy lúa, nghe tiếng hò của người chèo ghe cũng nhắc tới nỗi đau thương.

Từ ngày ấy không buổi nào thấy vui chỉ muốn tu, muốn tìm cảnh tu. Hễ biết tu, thì biết đạo rồi biết dìu dắt anh chị em tới tình thương yêu nồng nàn" (5)

 (5) Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Tây Ninh, 1970, tr 76-77

2 . MỘT THANH NIÊN ÁI DÂN

Xem thế, ông là một người con hiếu thảo với cha mẹ, rất thương yêu và tôn kính anh chị và nhường nhịn các em.

Năm 1910, lúc đó, ông đã hai mươi tuổi. Gia đình lâm vào cảnh quẩn bách túng thiếu. Ông xin làm sở thương Chánh ở Sài Gòn. Năm sau, ông vâng lệnh cha mẹ thành lập gia đình với bà Nguyễn Thị Nhiều (xem hình trang 209). Bà là phụ nữ theo luật tam tòng, rất hiếu lễ tảo tần thờ phụng cha mẹ chồng hết lòng. Bà sanh được 3 người con. Trai đầu lòng tên Phạm Công Huyền, gái thứ ba tên Phạm Hồ Cầm và gái thứ tư tên Phạm Tần Tranh. Đó là tên ba loại đàn cổ truyền.

Người truởng nam Phạm Công Huyền sinh ra để báo hiệu huyền cơ của tạo hoá có dương có âm sắp ra đời. Thế nên lên bốn thì Huyền trở lại cõi trên :"Quản huyền đâu đã giục người sanh ly". Dù chỉ còn hai người con gái, ông thấy không cần thiết phải sinh thêm trai vì trai gái ngang nhau. Sanh con trai mà nó không nên mặt một đàn ông, không đáng mặt Đấng trượng phu để người đời trong gương thì thà không đẻ thêm còn hơn. Vả lại lúc đó, ông đang theo đuổi làm việc từ thiện giúp nhân quần xã hội.

Đời sống công chức không làm cho ông thích thú, còn nếp sống gia đình đều đều buồn chán không trói buộc được Ngài. Ông đâm ra mê lý tưởng hướng đạo, làm những việc thiện hàng ngày để giúp đỡ những kẻ cô đơn xung quanh. Ngài giàu tình thương đời, nhất là thương kẻ cô đơn trụy lạc. Ngài đã làm một cử chỉ rất ý nghĩa. Đang là công chức sở thương chánh, đồng tiền chẳng được dồi dào chi lắm, vậy mà Ngài giám vai nợ để giải phóng một đoàn nữ nhi ra khỏi chốn thanh lâu, cho họ thoát vòng nhục nhã, được trở về đời sống lương thiện, hưởng hạnh phúc gia đình". ( Theo tiểu sử Hộ Pháp Phạm Công Tắc, 1954).

Thật ra ông có người bạn thân Trần Thành Chơn cho ông biết có một gia đình nghèo khổ có hai đứa con gái bị tú bà gạt gẫm bán cho lầu xanh. Ông Chơn nhờ Ngài giúp đỡ ông dùng tiền dành dụm của mình chuộc cô Nguyễn Thị Cẩm và Nguyễn Thị Hồng trở về hoàn lương.

Người Pháp thấy ông có hành động khác thường, họ liệt ông vào hàng có tâm huyết, nên họ tìm cách đổi ông đi Cái Nhum (Hậu Giang), sau đổi ra Qui Nhơn (Trung Phần), rốt cùng lại đổi về Sài Gòn, để rồi những ngày sẽ tới, ông hiến trọn cuộc đời cho Đạo pháp.

Chân dung Đức Phạm Hộ Pháp trong chương này hé lộ cho ta thấy, từ thưở thanh thiếu niên, Đức Ngài đã là người yêu nước thương người. Trong cơ thể đa kết hợp Tam Giáo và nhất là Thiên Chúa Giáo. Nhưng vốn sống ấy được nuôi dưỡng ra nụ, đươm hoa rồi sẽ kết trái trong những chương kế tiếp.

3 . Ngộ Đạo Cao Đài
Ngài có một nỗi băn khoăn lớn lao là tầm Đạo để giải thoát cho cả loài người khổ ải. Ngài sinh ra trong một gia đình công giáo, nhưng đạo cứu thế với lòng bác ái của Đức Giêsu chưa chiếm hết lòng tin của Ngài. Ngài có óc phán đoán và nhận xét rằng Đạo Phật khuyên người từ bi hỉ xả, Đạo lão đặt nền tảng dưỡng tính tồn chân, Đạo Khổng dìu dắt người trên con đường khung dung, dù có những ưu điểm nhưng chưa thấy có cùng chung cội nguồn. Vì vậy ngày đêm Ngài suy nghĩ, muốn tổng hợp cả bốn Đạo lớn hiện có trên thế gian , và hòa hợp giữa hai nền văn minh Đông Tây. Việc đó không phải là không tưởng, vì tất cả vị tổ sư của các môn phái đều hướng tư tưởng về một hướng chung : thiện và mỹ. Như vậy, tư tưởng đó rất có thể hợp nhất được.

Để đạt mục đích trên, Ngài cùng mấy người bạn thân, nghiên cứu và so sánh đối chiếu những giáo lý của bốn Đạo. Một nhận xét chung được nêu lên : cứu cánh chỉ có một, còn phương tiện khác nhau. Và một hoài bảo chung đuợc phát biểu , kết tinh cả bốn Đạo thành một Đạo lớn duy nhất cả về tín ngưỡng lẫn phương tiện thực hành.

Nhưng hành động như thế nào để thực hiện sự kết tinh đó?
Thật là môt công cuộc khó khăn vượt sức lực con người trần gian
Khi đó, đại úy P.Monet (Thần linh học), một người bạn của Ngài ở Pháp sang. Ông là một con đồng vận ngồi cảm thông với các thần linh, trong các cuộc giáng thần. Ông rất chú ý đến sự nghiên cứu của nhóm Ngài, nên ông cũng không quan niệm nỗi là có thể tổng hợp những phương tiện thực hành của các Đạo. Ông khuyên nên cầu xin các Đấng Thần linh chỉ giáo. Và một dàn cơ được tổ chức. Những lời khuyên của Đấng thần linh sau đây đã cho Ngài cái chìa khóa mở cửa bí mật để thông hiểu vấn đề khó khăn huyền diệu kia :

"Tín ngưỡng bắt nguồn từ lương tâm. Lương tâm khác nhau tùy theo trạng thái tinh thần của mỗi con người. Nó không có cá tính, cũng chẳng bao giờ bị tiêu diệt, bởi vì nó phát sinh ra nơi Thượng Đế . Vậy tự do tính ngưỡng phải được tôn trọng cho tất cả mọi người, nhưng sự hòa hợp trong tinh thần : Chân, Thiện, Mỹ phải là một nhiện vụ bắt buộc".
(Theo tiểu sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc)
Để theo đuổi những ý niệm trên, Đức Ngài hay lui tới nhà "Ông Cao Quỳnh Cư, người gốc ở Tây Ninh, xuống làm việc tại sở hỏa xa Sài gòn. Ông Cư mướn phố ở tại đường Bourdais (số 134). Ông có một người vừa là đồng hương vừa là bạn thiết, là Phạm Công Tắc nguyên làm việc tại sở thương chánh Sài Gòn, và một người cháu là ông Cao Hoài Sang cũng làm việc tại sở Thương Chánh. Ba người này thân thiết với nhau lắm, đêm nào cũng hiệp nhau một chỗ, khi đờn địch lúc ngâm thi, tiêu diêu với thú phong lưu tài tử " (6).

 (6) Theo Đại Đạo căn nguyên của Nguyễn Bảo Pháp

Năm Ất Sửu (1925) là năm việc xây bàn hay"sai ma" rất thạnh hành trong các giới, tại miền Nam Việt Nam, nhất là tại đô thành Sài Gòn.

Trước hết, vì sự háo kỳ mà ba ông chí sĩ Cao Quỳnh Cư (sau đắc phong Thượng Phẩm) Phạm Công Tắc (sau đắc phong Hộ Pháp) và Cao Hoài Sang (sau đắc phong Thượng Sanh) mới nghĩ ra việc xây bàn để tiếp chuyện với người khuất mặt thế giới bên kia.(Theo Đạo Sử cơ bút của Trương Hiến Pháp).

Do đó, vào ngày 25-7-1925 (ngày 05-06-Ất Sửu), hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến nhà ông Cao Hoài Sang bên cạnh chợ Thái Bình (Sài Gòn) để thăm viếng và hàn huyên tình đời thế sự. Càng lúc càng khuya vì thần linh thúc giục, các ông mới nghĩ đến việc xây bàn. Ba ông đem ra trước hiên nhà một cái bàn vuông bốn chân (bàn này hiện để ở Nữ Đầu Sư Đường), kê một chân hỏng đất rồi đồng để tay lên bàn khấn vái. Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, ba vị đốt nhang khấn nguyện từ 21 giờ tối đến 2 giờ đêm, có nhiều vong linh nhập bàn viết tiếng Anh, Pháp và Hoa Ngữ, cũng có một vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng quốc ngữ. Cái bàn gõ khi chững chạc, khi lựng khựng dường như có nhiều vong linh tranh nhau để nói chuyện. Do đó các ông nãn lòng ngưng xây bàn.

Việc xây bàn rất vất vả vì chỉ có khẩu ước với các Đấng vô hình trong vần quốc ngữ. Như nhịp một lần là "A", hai lần là "Ă" và ba lần là "Â" ..v.v. Khi chân bàn ngừng chỗ nào thì người ngồi ngoài biên chữ ấy, rồi nhiều chữ ghép lại thành một tiếng, nhiều tiếng mới ghép thành lời văn hay câu thơ. Nhưng về sau nhờ thuần điển và quen thuộc nên sự tiếp chuyện với các Đấng Thiêng Liêng càng mau lẹ và dễ dàng.

Qua đêm thứ nhì (26-7-1925), ba ông lại xây bàn đúng 24 giờ có một vong linh nhập bàn, gõ chữ ráp thành bài thi bát cú đường luật như sau :

THI
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màn đôi lúc treo hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
                                                           Ký tên CAO QUỲNH TUÂN

Cao Quỳnh Tuân là thân phụ của Cao Quỳnh Cư qua đời đã 25 năm, đắc vị Xuất Bộ Tinh Quân đọc tới câu thứ 7 các Ngài quá ngậm ngùi. Cả ba cảm phục ý tứ của bài thơ.

Đến đêm 30-7-1925 (10-6-Ất Sửu), ba Ngài lại họp tại nhà Ngài Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn. Hôm ấy có một nữ vong linh giáng bàn cho thi:

THI
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi cùng sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai .
Dồn dập tương tư quằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự ngỏ cùng ai?
                                                           Ký tên ĐOÀN NGỌC QUẾ

Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi :
- Hồi tại thế xứ ởø đâu?

Cô Đoàn Ngọc Quế đáp :
- Ở chợ Lớn.

Ngài Phạm Công Tắc hỏi :
- Cô học ở đâu?
- Học trường Đầm.

Tên Đoàn Ngọc Quế chỉ là tên mượn (tá danh), tên thật của cô là Dương Thị Lễ, cháu ông Dương Quan Kỳ (7). Nhưng tầm nguyên còn bí hiểm hơn nữa. Kiếp trước cô là công chúa con vị vua bên Tàu, nhưng vì "ngỡ trao duyên vào ngọc các, nào dè phủi nợ xuống tuyền đài". Thế nên còn vương vấn bụi hồng trần phải tái sanh vào gia đình Tổng Đốc họ Vương ở Việt Nam. Nhưng vẫn không tròn câu tình ái.

 (7) Theo Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống

Khi cô mang bệnh nặng, gia đình rước bác sĩ thuốc thang cho cô và hứa : Nếu ai trị lành bệnh thì sẽ gã cô cho bác sĩ. Nhưng vì không phải duyên nợ, cô biết rõ lời hứa của song thân, nên lúc bác sĩ đến tận tình săn sóc cho cô, cô uất lên mà chết.(8)

Ba Ngài điều có họa bài thi trên, riêng Ngài Phạm Công Tắc họa như vầy:

HỌA VẬN
Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai?
Trời xanh vội lắp nữ anh tài.
Tình thâm một gánh con đường thế?
Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài,
Để thảm xuân đường như ác xế,
Gieo thương lữ khách ngóng tin mai.
Hiềm gì chưa rõ đầu đuôi thế?
Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai.

Cũng đêm đó Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi cô bệnh chi mà chết, cô đáp bằng hai bài thơ như vầy:

THI
Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một mảnh tình.
Mấy bữa nhăn mày lăm chước quỉ,
Khiến ôm mối thảm tại diêm đình.
Người thời Ngọc Mã với Kim Đàng,
Quên kẻ dạ đài mối thảm mang.
Mình dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.

 (8) Theo Đại Đạo Bí Sử của Trần Văn Rạng.

Hôm sau, Ngài Cao Quỳnh Cư mời hai Ngài Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang qua nhà mình xây bàn mời cô Đoàn Ngọc Quế về dạy làm thi. Nhân tiện ba Ngài hỏi cô Quế về việc thượng giới, cô tiết lộ đôi điều khiến các Ngài càng thêm mê học hỏi. Rồi cô gọi Ngài Cao Quỳnh Cư là Trưởng ca, Ngài Phạm Công Tắc là Nhị ca, Ngài Cao Hoài Sang là Tam ca, còn cô là Tứ muội.

Đến ngày 03-08-1925 (15-7 Ất Sửu), thiết đàn xây bàn, các Ngài được cô Đoàn Ngọc Quế báo tin có một Đấng đến tiếp xúc với ba ông.

THI
Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Aên bòn chẳng chịu tấp theo ai.
                                                                       A-Ă-Â

Ngài Phạm Công Tắc nghe thi lạ lùng có ý hơi khó chịu, liền đó Đấng này cho thêm bài thi:

THI
Đời hiếp lẫn nhau nỡ chẳng thương,
Thương đời nên mới đến đem đường.
Đường dài vó ngựa tua bền sức,
Sức yếu lòng người khó để gương.
Gương Đạo noi theo đường Thuấn Đế,
Đế dân vạn giữ lối Văn Vương.
Vương hầu lê thứ ai là chí,
Chí quyết làm cho thế khác thường.
                                                                                              A-Ă-Â

Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi Đấng A-Ă-Â mấy tuổi, tên họ là gì. Ông gõ bàn hoài không ngừng, Ngài Phạm Công Tắc hỏi ông ở đâu, thì được cho bài thi :

Tròi trọi mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náo nương chân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịch,
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần.
Bố hóa người đời gây mối Đạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chùng nào đất dậy trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

Đến 18-8-1925 (01-08-Aát Sửu), cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn, các Ngài hỏi rằng:
- Em còn có chị em nào nữa biết làm thi, xin cầu khẩn đến dạy ba anh qua làm thi.
Cô Đoàn Ngọc Quế trả lời :
Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương làm thi hay lắm . Và cô lại thêm :
- Ba anh muốn cầu thì ngày đó ba anh phải ăn chay, cầu mới được .(9)

Ba Ngài vâng ý cô Đoàn Ngọc Quế, ngày cầu ba ông ăn chay.

(9)Những lời đối thoại trên đây đều trích trong sách "Đạo sử xây bàn" của bà Đầu Sư Hương Hiếu.

Đến 25-8-1925 (08-08 Ất Sửu), Đấng A-Ă-Â giáng dạy ba ông, vào rằm tháng tám năm đó thiết tiệc chay tỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và chư vị Cửu Nương đến dự. Đến 14 âm lịch thì Đức Nhàn Aâm Đạo Trưởng giáng cho thơ mời các Ngài họa.

THI
Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,
Non sông dạo khắp lối đêm xuân.

Bài họa của Ngài Phạm Công Tắc như vầy :
HỌA VẬN
Cuộc thế lầm than đã quá chừng,
Ai là những bật vẹn thường luân?
Thiều quang nhặt thúc không chờ đợi,
Tế thế an bang phỉ kiếp xuân.

Đến 01-09-1925 (15-08- Aát Sửu), tại nhà Cao Quỳnh Cư số 134 Bourdais (nay là Calmette,Sài Gòn), giữa nhà lập bàn hương án , chưng các hoa thơm và chưng trầm trọn ngày. Các Ngài mặc quốc phục quì trước hương án cầu nguyện các Tiên Nương dự tiệc. Lễ bái xong, các Ngài cũng ngồi vào bàn tiệc. Bà Nguyễn Thị Hiếu (tức bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu) gắp đồ ăn bỏ vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ Đức Phật Mẫu. Đó là thể pháp tượng trưng bí pháp của ĐạoCao Đài, mà hàng năm về sau đến ngày tháng này điều tổ chức Hội Yến Diêu Trì Cung do Hiệp Thiên Đài chủ trì.

Sau đó các Ngài xây bàn, Đấng A-Ă-Â giáng cho thi và Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương mỗi vị điều giáng cho một bài, mà ngày nay hàng năm thài để hiến lễ (10).

PHẬT MẪU
Cửu Kiếp Hiên Viên thọ sắc thiên,
Thiên Thiên cửu phẩm đắc cao huyền,
Huyền hư tác thế Thần Tiên nữ,
Nữ hảo thiện căn đoạt cửu thiên.

NHỨT NƯƠNG
Hoa thu ủ như màu thẹn nguỵệt,
Giữa thu ba e tuyết đồng về.
Non sông trãi cánh Tiên lòe,
Mượn câu thi hứng vui đề vào nhau

NHỊ NƯƠNG
Cẩm tú văn chương hà khách đạo?
Thi thần, tửu Thánh vấn thùy nhân?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh tiên còn mến, cõi trần anh thư.

TAM NƯƠNG
Tuyến Đức năng hành đạo,
Quãng trí đắc cao quyền.
Biển mê lắc léo con thuyền,
Chở che khách tục Cửu tuyền ngăn sông.

TỨ NƯƠNG
Gấm lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa,
Đợi trang nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụngchẳng ngừa Tiên thi.

NGŨ NƯƠNG
Liễu yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiêu hiêu nhẹ góc phong trần,
Đài sen mây lướt gió thần đưa huơng.

LỤC NƯƠNG
Huê ngào ngạt đưa hơi vò diệu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tú phong.
Nương mây như thả cánh đồng,
Tiêu diêu phất phướn cõi tòng đưa tiên.

THẤT NƯƠNG
Lễ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tài thế tử vô ưu.
Ngày xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.

BÁT NƯƠNG
Hồ Hớn hoa sen nở trắng ngày,
Càng gần hương đẹp lại cành say.
Trêu trăng bằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.

CỬU NƯƠNG
Khiết sạch duyên trần vẹn giữ,
Bạc tiêu ngôi cũ còn lời.
Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,
Thương người noi Đạo, Phật trời cũng thương.
 Home          1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 6 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét