Sự chuyển dịch đó ta thấy ghi rõ trong Tân luật và
kinh điển "Tùy theo sự tiến triển của nhơn sanh mà sửa đổi". Bởi vì
vũ trụ luôn luôn biến động, xã hội luôn luôn thay đổi thì đâu có giáo điều vĩnh
hằng với thời gian. Chỉ có một chân lý thực tại, mà thực tại thì sinh động và
phong phú mầu nhiệm vô cùng. Những lời Thánh dạy chỉ là ngôn ngữ gợi mở giác
ngộ, nếu định kiến hiểu một cách chật hẹp thì chưa đáp ứng được nhu cầu con
người
đang biến đổi hằng ngày. Chính Đức Chí Tôn dạy rõ : Sau tịch đạo Thanh
Hương là tịch Đạo Tâm, há không phải là một tiên triệu về biến dịch của nhơn
loại ư ?
"Nhâm tâm duy nguy, Đạo tâm, duy vi". Cái
lòng người (nhân tâm) thì đem đến nguy hại, còn Đạo tâm thì rất yếu. Thiếu
thời, con người vô tâm mang chất trọn lành của Thiên tính. Lớn lên, sống chung
với xã hội nảy ra óc tự cao. Đến tuổi già (Ngũ thập tri Thiên mạng), cái tâm vô
sai biệt, cái tâm bình đẳng bát nhã. Vào tuổi đó, người chưa hòa vào Đại hồn vũ
trụ là việc giáo hóa của tôn giáo coi như thất bại.
Tính đến nay, nền Đạo đã trên 60 năm, người tín hữu
phải đạt được vô ngã nhi hành để đáp ứng lại Thiên điều vô vi nhi trị (cái tự
nhiên không cần luật pháp). Tấm lòng hỷ xả bỏ tất cả để được tất cả. Khi hành
Đạo, không còn cái Ta (vô ngã) không phân biệt thân thuộc hay xa lạ, không phân
cách nghèo khó hay giàu có. Mọi người với Đạo tâm không không, được vậy đó
chẳng phải là Thiên đàng tại thế ư? Đức Hộ Pháp nói : "Thiên đàn tại trần
thế này chớ không nơi nào khác".
Toàn Đạo bước vào thời Đạo Tâm để sửa soạn đón Đức
Di Lạc mở Hội Long Hoa.
Chủ trương tổng hợp tôn giáo của Đạo đưa đến tổng
hợp văn hóa toàn cầu. Ngài là một bậc minh triết, chánh biến tri, thông suốt
văn hóa sử chúng sanh, thấu đạt mọi ước muốn của loài người. Ta phải sửa soạn
Đạo Tâm để đón rước Ngài. Một tâm hồn hướng thượng, một tư tưởng tinh khiết
trong mỗi con người. Nếu không, Ngài xuất hiện mà ta không thấy vì ta thiếu đạo
tâm, mắt bị vật dục ám ảnh. Thầy đã dạy : Cơ thể Phật Tiên trong lành phải có
huệ nhãn mới trông thấy được. Bình minh Thánh triết hay hoàng hôn u tối là tùy
thuộc vào Đạo tâm của mỗi chúng ta.
Tại sao ta phải thờ Đức Chí Tôn trên nền Bát Giác?
Xin nhắc lại, Thầy đã dạy : "Ngôi Thầy là Thái
Cực, Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, …. Tứ Tượng, …. Bát Quái".
"Aâm Dương là cái pháp nhiệm màu sâu kín của
Thiên cơ. Aâm Dương hiệp nhứt thì phát khởi Càn (Trời) Khôn (Đất). Khí Aâm cướp
một phần chơn dương của ngôi Càn, Càn mới hóa ra Ly (Ly là Thái Dương, mặt
nhựt). Khôn đặng chơn dương biến thành Khảm (Khảm là Thái âm, mặt nguyệt). Càn
lìa ngôi mà thất vị. Tiên Thiên mới biến ra Hậu Thiên, Hà Đồ phải hóa Lạc Thư
mà gọi rằng Tứ cá Aâm Dương cộng thành Bát Quái. Aâm Dương lúc ấy giáng thăng,
động tịnh mà dưỡng dục muôn loài".
Người ta cho rằng vua Phục Hy đã tạo ra Tiên Thiên
Bát Quái. Theo "Từ Hải" thì Phục Hy có tên là Bào Hy, Thái Hạo, 1
trong 3 vị vua thời thái cổ. Hai vị kia là Toại Nhân và Thần Nông. Phục Hy sống
vào thế kỷ 43 trước Tây Lịch (có sách nói thế kỷ 34 TTl) . Ông làm vua được 115
năm, dạy dân săn bắn, đánh cá, nuôi súc vật và đặt ra Bát Quái.
Kinh Dịch nói về việc vua Phục Hy chế ra Bát Quái
như sau : "Ở sông Hà hiện ra bức đồ, ở sông Lạc hiện ra trang chữ, Thánh
nhân phỏng theo đó". (Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, Thánh nhân tắc chi).
(Thiên Hệ Từ Thượng truyện), chương 11
Như vậy, Phucï Hy phòng theo bức đồ hiện ra ở sông
Hà và vua Vũ thấy chữ hiện ra ở sông Lạc mà vạch ra Bát Quái.
Thiên Hệ Từ Thượng truyện, chương 2 ghi rõ hơn :
"Ngày xưa, họ Bào Hy (tức Phục Hy) cai trị thiên hạ, ngửng lên thì xem các
hình tượng trên trời, cuối xuống thì xem các phép tắc dưới đất, xem sắc của
chim muông cùng những thích nghi của từng miền, gần thì lấy ở thân mình, xa thì
lấy ở vật, rồi làm ra Bát Quái để thông suốt cái đức của Thần minh và điều hòa
cái tình của vạn vật".
Do đó, người ta mới nói quẻ của Phục Hy vạch ra là
Tiên Thiên Bát Quái.
Kinh dịch chép rằng : "Long Mã là vật linh kết
hợp bởi 8 tinh anh của Trời Đất, xuất hiện dưới huệ nhãn của vua Phục Hy là một
bậc Chí Thánh, xem được các vật trong cõi vô hình, thấy rõ linh vật của Trời
Đất". Long Mã đội bản Hà Đồ là sách Trời ban cho vua Phục Hy để trị thiên
hạ. Mãi tới thời Hán Võ Đế (140-86 TTL), Khổng An Quốc, cháu thứ 12 của Đức
Khổng Tử là đại thần của vua Hán Võ Đế lập lại Hà Đồ, nhưng phải đến 12 thế kỷ
sau, đời Tống Huy Tông (1101-1125) hai hình đó mới được in trên sách. (4)
Còn về lạc Thư, tương truyền vua Võ sanh khoảng
2206 năm trước Tây lịch, thủy tổ nhà Hạ. Mùa nước lụt, vua ra giữ nước ở bờ
sông Lạc, một chi nhánh của sông Hoàng Hà. Khi nước rút, vua thấy một con rùa
Thần hiển hiện, trên lưng có 9 số, vua Võ theo đó mà vạch thành Cửu Trù Hồng
Phạm.
Tóm lại, Tiên Thiên Bát Quái vẽ tượng Aâm Dương tức
Thái Cực sanh lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến ra Bát Quái.
Phần
Thứ Tư
ĐỨC
THƯỢNG ĐẾ =ĐỨC CAO ĐÀI
CHƯƠNG
I
THÁNH
THI, THÁNH NGÔN
Bất cứ một tôn giáo nào, muốn việc truyền giáo
thành công đều phải tạo được đức tin và cảm hứng trong nhơn sanh. Chư Chức sắc
biết đồng lao cộng khổ với các tín hữu, biết khinh thường địa vị và quyền lợi
để làm gương sáng cho những ai muốn làm công quả để đổi lấy cái quả tốt đẹp hơn
cuộc đời hiện tại. Nếu được những Chức sắc hành đạo có đức độ như vậy, cơ đạo
sẽ sớm phổ truyền khắp năm châu.
Tuy nhiên, người đệ tử Cao Đài phải biết nhẫn nại
chờ đợi Đức Chí Tôn đến dạy Đạo. Ba vị Thiên sứ phải trãi qua nhiều đêm học hỏi
với Thất Nương, với các chơn linh khuất mặt, với ông AĂÂ rồi mới biết ông Trời
là ai ! Chữ Nhẫn đối với người tín đồ rất quan trọng, vì biết nhẫn mới học được
nghĩa lý sâu xa, mà Đạo vốn hư hư thực thực, cần trì chí bền lòng.
Mặt khác, Thánh ngôn, kinh điển của Đạo Cao Đài rất
khác biệt nhiều tôn giáo, với lới hành văn nôm na, vắn tắt, không lý luận,
không chứng minh dài dòng. Những chữ chỉ cốt để khiêu gợi cho một lý lẽ cao
thâm, để người đạo nghe tiếng vọng trong lòng của mình mà giác ngộ.
Sự lưng chừng, sự tối tăm của lời văn và cách lập
lập nửa vời kích thích óc tò mò để tìm hiểu cái bí nhiệm của thiêng liêng. Nhờ
đó mà gợi mở được những ý tưởng thâm sâu tiềm tàng trong mỗi người ưa suy luận.
Văn trong Thánh ngôn và Kinh điển tràn đầy
"Văn dĩ tải Đạo" (Văn để chở Đạo), và "Thi dĩ ngôn chí"
(Thơ chứa lời giới thiệu), lẫn lộn giữa Thánh giáo và thi ca giông giống như
Nam Hoa Kinh của Trang Tử hay Đạo Đức Kinh của Lão Tử.
Do cái tri và hành đi đôi như vậy nên có người đã
nhận định rằng "Đông Phương không có triết gia mà chỉ có hiền giả và thi
nhân" (1). Trong Thánh giáo ta thấy nhan nhản thi ca với lời lẽ của bậc
hiền triết.
(1)Triết học Đông Phương, Saigon 1971, tr.135
1/ - Về Thánh Thi :
Đạo Cao Đài chọn Đường thi làm Thánh Thi chuyển tải
Đạo lý. Bởi vì đời Đường (618-907) là thời đại hoàn kim của thơ ca, lấy nguồn
cảm hứng từ "Tam giáo đồng nguyên", nên nảy sanh Thi Tiên Lý Thái
Bạch, Thi Phật Vương Duy (tức thơ thiền) và Thi Thánh Đỗ Phủ vì người đời coi
thơ ông như chân lý cuộc sống. Nội dung Đường Thi phù hợp với mục đích của Tôn
giáo Cao Đài, trong ý niệm đồng văn hóa. Tuy nhiên, ta vẫn thấy có nhiều thể
thơ đặc biệt Việt Nam như song thất lục bát chẳng hạn.
Trong Đạo Cao Đài, về Thánh Thi các Đấng giáng cho
đa dạng. Đứng đầu là tập NỮ TRUNG TÙNG PHẬN, viết theo thể song thất lục bát
gồm 350 vế 1400 câu, thêm câu kết là 1401 câu : "Đời đời danh chói Cao
Đài"
Mục đích của tác phẩm là "Giục tài nữ sĩ sánh
bì cùng Nam".
Tác phẩm bị hạn chế về thời phong kiến. Bà dạy phận
con gái, làm vợ, công việc trong nhà ngoài ngõ, bổn phận dạy trẻ, thờ kính cha
mẹ, kính thầy cô …
Khi tác phẩm ra đời, nước ta còn lệ thuộc nên Bà
dạy :
Nào
quốc thể người khi kẻ thị,
Nấu
sôi cái máu anh phong,
Nào
dân đen phép quỉ hớp hồn.
An
bang tế thế một lòng lo âu.
Ngoài tác phẩm tràng
thi đó, còn những tác phẩm vừa như GIÁC MÊ KHẢI NGỘ, NGỤ ĐỜI của Đức Lý Thái Bạch,
DÒNG BÍCH LẶNG của Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng, TÌNH ÁI của Thất Nương …
Trên đây chỉ sơ lược về thi ca trong Đạo vì mục
đích chính của bài nghiên cứu này là viết về những lời dạy của Đức Chí Tôn.
Ngay từ những ngày đầu dạy Đạo, có người hỏi hình
dạng của Ngài như thế nào, Ngài trả lời không những tự vịnh phong cách của mình
mà Ngài còn tiên tri việc Đạo như sau :
Tròi
trọi một mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náo nương chân.
Ở
nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ
gót nhờ con hạc trắng ngần.
Bố
hóa người đời gây mối Đạo,
Gia
ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng
nào đất dậy Trời thay xác,
Chư
Phật Thánh Tiên xuống ở trần. (2)
2)TNHT 1, tr.79
Có người lại hỏi Bạch Ngọc Kinh như thế nào ? Ngài
liền "Tân tả Bạch Ngọc Kinh" :
Một
tòa Thiên các ngọc làu làu
Liền
bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn
trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn
trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào.
Chư
Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt
Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời
đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững
bền vạn kiếp chẳng hề xao.
Sau cùng, các đệ tử biết đó là Ngọc Hoàng Thượng Đế
Giáo Đạo Nam phương.
NGỌC
ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,
HOÀNG
Thiên bất phụ chí anh hào.
THƯỢNG
ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
ĐẾ
tạo lương phương thế cộng giao.
GIÁO
hóa nhơn sanh cầu triết lý
ĐẠO
truyền thiên hạ ái đồng bào.
NAM
nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
PHƯƠNG
tiện tu tâm kế diệt lao.
Đức Ngọc Đế đã thật sự giáng trần dạy Đạo ở Nam
bang thì ách dân nạn nước sắp mãn.
Hảo Nam bang ! Hảo Nam bang !
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi ân tế chúng thiên tai tận.
Nhược thiệt nhược hư vạn đại
an.
Chí
bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng
tri giác thế trí cao ban. (TN1, tr.80)
Bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn nằm trọn trong
Thánh Ngôn. Như thế, những điều gì không có trong Thánh Ngôn thì phải không có
trên Thiên Bàn và không có trong Giáo lý Đại Đạo. Thánh Ngôn lại hư hư thực
thực, có thật mà cũng có giả, nên Đức Chí Tôn dạy : "Điều gì hợp với lòng
chư môn đệ là Thánh ý, điều gì không hợp là của tà quái". Nếu hiểu được
như vậy, độc giả sẽ thấy rõ Đạo Cao Đài là một tôn giáo thuận khoa học tiến bộ,
khi đã loại bỏ những điều trái với đời thường.
Một ít nhà nghiên cứu cho rằng Giáo lý Cao Đài có
nhiều mâu thuẫn là do họ đọc cơ bút của nhiều chi phái hay nhiều đồng tử khác
nhau, nhưng những mâu thuẫn đó làm nổi bật cái bổn nguyên lời dạy của Đức Chí
Tôn, chớ không làm lu mờ Thánh chất. Vả lại, Đạo Cao Đài chỉ truyền bá hơn một
giáp nên Giáo lý còn trong tình trạng hồng mông, chưa được hệ thống hóa. Đức
Chí Tôn đã ban cho loài người một tôn giáo Đại đồng huynh đệ, một nền văn hóa
tổng hợp thì nhân loại có bổn phận phải làm cho nó trở thành cao thượng tốt đẹp
vì : "Đại Đạo truyền thế giả. Thiên hạ vi công quả" và "Nhân
năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng nhân" (Con người mở rộng Đạo chớ không phải
Đạo mở rộng được người) (2), chớ Đức Chí Tôn không làm thay cho loài người. Nếu
Thầy làm thay thì loài người còn gì để trao dồi mình trở thành Thánh thiện.
(2) Vệ Linh Công XV, Luận Ngữ
Xét lại quá trình tiến triển Phật giáo trong Tam
Tạng Kinh thì Kinh Tạng và Luật Tạng có trước giống như Cao Đài giáo. Còn luật
Tạng vào khoảng 400 năm sau Đức Thích Ca tịch diệt mới xuất hiện và tư tưởng
hình nhi thượng học nghiên cứu về "Không luật" mới phát sinh, đưa đến
sự ra đời của Phật giáo Đại Thừa.
Như thế, bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn chưa
được triển khai và hệ thống hóa đúng mức là chuyện bình thường. Ai thắc mắc thì
chính người đó sẽ làm cho Giáo lý Cao Đài sáng chói trên hoàn vũ, chẳng hạn như
nhà văn Pháp Gabriel Gobron, ông cũng mới nghiên cứu chừng mực nào đó thôi,
chưa kể những chỗ còn sơ lầm.
Những người nghiên cứu về Đạo Cao Đài đương đại
thấy những điều chưa vừa lòng là tại người viết thiểu trí chớ không phải giáo
lý không siêu việt. Đạo Cao Đài rất tự do về mặt tư tưởng (phải trái đôi đường
tùy ý chọn), những bài nghiên cứu về Đạo Cao Đài của các học giả trong và ngoài
nước đều được trân trọng. Bởi lẽ Đạo Cao Đài chủ lấy trí tuệ hiểu biết làm nền
tảng chớ không cầu lấy sự mê hoặc chúng sanh làm lợi khí.
Vì chính Thầy đã dạy : "Thầy đến lập cho các
con một nền chơn Đạo, tức là mọi sự chi dối trá đều chẳng phải của Thầy"
((3)TNHT, QI, tr.77)
2/-
Về Thánh Ngôn :
Bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn
Hiệp Tuyển có thể chia làm 9 phương diện :
I/ - Quyền lực Đức Chí Tôn :
1/ - Khí hư vô sanh có một Thầy …
Nếu không có Thầy thì không có chi torng Càn Khôn
thế giới này, mà nếu không có hư vô chi khí thì không có Thầy. (Tr.31-Q,1)
2/ - Một chơn thần của Thầy mà hóa sanh thêm chư
Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn bộ nhơn loại trong càn khôn thế
giới nên chi các con là Thầy, Thầy là các con. (Tr.30-Q,1)
3/ - Khai Thiên Địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng
Thầy, Thầy đã nói một chơn thần mà biến càn khôn thế giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy, các con là chư
Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật. (Tr.48-Q,1)
4/ - Thầy khai Bát Quái mà tác thành càn khôn thế
giới nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra càn khôn vạn vật rồi mới có
người, nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật chủ cả Pháp, Tăng, lập thành các D(ạo
mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy. (Tr.48-Q.1)
5/ - Thầy là Đức Jéhovah của dân Hébreux, vị chủ tể
của quân lực dân Israel, vị Thánh vô danh của dân Do Thái, Đức Đại Từ Phụ của
Chúa Jésus cứu thế. Con chỉ cần cầu nguyện Thầy với danh hiệu Cao Đài thì sẽ có
sự cảm ứng chấp thuận. (Tr.124-Q.1.dịch)
6/ - Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà
ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống, vì vậy mà lòng hóa sanh của
Thầy vô cùng tận. (Tr.62-Q.2)
7/ - Cái mạng sống là Thầy. Mà giết Thầy thì không
phải dễ, các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy." (Tr.62-Q.2)
8/ - Thầy các con là ông Thầy Trời, nên biết một
ổng mà thôi, thì đủ, nghe à! (Tr.45-Q.1)
9/ - Nơi Bạch Ngọc Kinh cả thảy đều là con cái Thầy
tức là anh em với nhau. (Tr.57-Q.1)
10/ - Chẳng một ai dưới thế này còn đặng phép nói
rằng thế quyền Thầy mà trị phần hồn cho nhân loại" (Tr.3-Q.1)
II/-
Trời Người hiệp nhứt
1/ - Lập "Tam kỳ phổ độ" này duy Thầy cho "Thần" hiệp
"Tinh Khí" đặng hiệp đủ Tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
(Tr.12-Q.1)
2/ - Thầy đến đặng hườn nguyên chơn thần cho các
con đắc Đạo. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. (Tr.12-Q.1)
Cái chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy.
(Tr.6-Q.1)
3/ - Cái chơn thần buộc phải tinh tấn trong sạch
mới nhẹ hơn không khí ra ngoài càn khôn được. Nó phải có bổn nguyên chí Thánh
chí Tiên chí Phật mới xuất Thánh Tiên Phật đặng. (Tr.29-Q.1)
4/ - Phải có một chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm,
huyền diệu, phải đặng trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí
Thánh Tiên Phật mới phò cơ dạy Đạo cả chúng sanh. (Tr.7-Q.1)
5/ - Các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng
liêng các con sanh hóa chơn thần, chơn thần lại biến hằng muôn thêm số tăng lên
hoài. Aáy là Đạo. (Tr.30-Q.1)
6/ - Đạo cũng do nơi phàm mà phát ra và tiếp lấy
cái thiêng liêng của Thầy mà hiệp đồng mới sanh sanh hóa hóa thấu đắc càn khôn.
(Tr.79-Q.1)
Lành dữ nơi mình chiêu phước họa
Thành tâm ắt thấy hết thần minh. (Tr.114-Q.1)
Người dưới thế này muốn giàu có phải kiếm phương
thế mà làm ra của. Aáy là về phần xác thịt, còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn
cho đắc Đạo phải có công quả. (Tr.26-Q.1)
7/ - Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện. Thầy không
bao giờ không cảm ứng với những lời cầu nguyện chơn thành. (Tr.124-Q.1) (dịch)
8/ - Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại
càn khôn thế giới nếu biết ngộ một đời tu đủ trở về cùng Thầy đặng. (Tr.70-Q.1)
9/ - Lương tâm của các con là một khiếu thiêng
liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng
trong việc nhơn đức, làm một việc phải tức là do ý Trời, phạm một nét vạy tà là
cãi nơi Thiên luật. (Tr.73-Q.1)
10/ - Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam Thập Lục
Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh, kẻ nào ghét sự thương yêu thì chẳng
hề qua khỏi cửa luân hồi. (Tr.43-Q.2)
11/- Sự hành tàng nào về Đạo mà vừa lòng trong cả
chư Chức sắc và chư tín đồ, ấy là hiệp Thiên ý. Còn điều nào mà phần nhiều môn
đệ của Thầy chẳng khứng chịu theo, ấy là bất hiệp Thiên ý đó. (Tr.47-Q.2)
12/- Kinh điển giúp đời siêu phàm nhập Thánh chẳng
khác chi đũa ăn cơm, chẳng có đũa, kẻ có đủa bốc tay ăn cũng đặng. (Tr.5-Q.2)
III/
- Quan niệm về vũ trụ và con người :
1/ - Đạo tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật
đọa trần dò theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm dò theo mà lánh
khỏi luân hồi. (Tr.8-Q.1)
3/ - Khi chưa có chi trong càn khôn thế giới thì
khí hư vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.
Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân
ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra càn
khôn thế giới.
Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là vật
chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm gọi là chúng sanh. (Tr.62-Q.2)
4/ - Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật (Tr.48-Q.1)
5/ - Nên chi các con là Thầy, Thầy là các con. (Tr.30-Q.1)
6/ - Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm
lỗi. Aáy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả,
phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần.
(Tr.3-Q.2)
7/- Đài Nghiệt cảnh sẽ là nơi rọi sáng các việc lỗi
lầm. (Tr.83-Q.1)
IV/ - Huyền Diệu Thiêng Liêng
:
1/ - Thầy chưa giáng cơ lậo Đạo tại nước Nam chứ
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật dùng huyền diệu này mà truyền Đạo cùng vạn quốc.
(Tr.57-Q.1)
2/ - Đạo mới khai lập, tuy xuất hiện chưa đầy một
năm chứ chư Tiên, chư Phật đã lập cùng cả năm châu. (Tr.57-Q.1)
3/- Thầy chẳng dùng sự chi mà thế giới gọi là tà
quái, dị đoan mà nếu xảy ra một ít dị đoan trong Đạo đã dùng lỡ thì ấy là tại
nơi tên của một vài môn đệ đó, nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành Đạo và bày
biện nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau đây sẽ trở nên một mối Tả Đạo mà các
con đã từng thấy. (Tr.42-Q.2)
V/ - Huyền Cơ Lập Giáo :
1/ - Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các
con chẳng chịu giáo chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà phải buộc lập chánh
thể có lớn có nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau anh trước em sau mà
đến nơi Bồng-Đảo. (Tr.18-Q.1)
Il faut que je me serve moi-même maintenent d'un
moyen plus spirituel pourvous convainere. Vous ne pourres pas nien devant le
grand Judgenment-Général que je ne sauve pas I'humanité partous moyens
plausibles. (Tr.50-Q.1)
Dịch : Nay Thầy phải tự tìm lấy một phương pháp
huyền diệu hơn để thâu phục các con. Các con sẽ không còn chối cãi nữa được
trước Tòa Phán xét cho rằng Thầy không cứu vớt nhơn loại bằng những phương pháp
công hiệu. (Tr.122-Q.1)
Ta vì lòng đại từ, đại bi vẫn lấy đức hiếu sinh (?)
mở dựng nên mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, tôn chỉ để vớt những kẻ hữu phần vào nơi
địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi và nâng những kẻ tánh đức
bước vào cõi nhàn cao hơn phẩm hèn khó nơi trần thế này. (Tr.64-Q.1)
Nơi xứ này dân tình rất thuần hậu ôn hòa nên Thầy
đếnc ũng như Chúa cứu thế đã đến với chúng con để bài trừ tà thuyết và truyền
bá chơn Đạo trên toàn cầu. (Tr.123-Q.1)
2/ - Thầy lại đến lập trong nước các con một nền
chánh Đạo đủ tư cách độ rỗi chúng sanh. (Tr.77-Q.1)
3/ - La nouvelle doctrine que j'enseigne a pour but de vous nettre dans une
communauté d'intérêt et de vie. Soyez done unis par ma volonté et préchez su
monde la paix et la concorde. (Tr.51-Q.1)
Dịch : Giáo lý của thầy có mục đích dạy dỗ các con
hòa hợp nhau trong sự sống chung cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt. Vậy các con
hãy chung hiệp nhau mãi mãi theo ý muốn của Thầy và hãy truyền bá khắp hoàn cầu
thuyết hòa bình tương thân tương ái. (Tr.122-Q.1)
4/ - Hãy đọc Thánh Ngôn của Thầy. Giáo lý của Thầy
sẽ là đại đồng. Nếu nhân loại tu hành thì đó sẽ là nền hòa bình hứa hẹn chung
cho tất cả các dân tộc. (Tr.122-Q.1)
5/ - Chánh sách cộng hòa yên tịnh là chánh sách của
các con đặng dụng lập Đạo mà thôi. (Tr.61-Q.2)
6/ - Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình mà
sanh nhằm đời đặng gặp một mối Đạo chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải có
điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới
răn đặng lòng tà vạy. (Tr.53-Q.1)
7/ - Khi Ngọc Hư định cho Hiệp Thiên Đài cầm số
mạng nhân sanh, lập thành chánh giáo thì Đại Từ Phụ lại trở giáp giao quyền ấy
cho Cửu Trùng Đài. (Tr.86-Q.2)
8/ - Từ đây trong nước Nam duy nhất có một Đạo chơn
thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con gọi là "Quốc Đạo" (Tr.43-Q.1)
VI/ -
Đối Với Các Tôn Giáo :
1/ - Vốn từ trước Thầy đã lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là
:
Nhơn Đạo
Thần Đạo
Thánh Đạo
Tiên Đạo
Phật Đạo (Tr.17-Q.1)
2/ - Từ trước ta giáng sanh lập Phật giáo gần 6000 năm thì Phật giáo chánh
truyền gần thay đổi. Ta thường nghe chúng sanh nói Phật giả vô ngôn. Nay nhứt
định lấy huyền diệu mà giáo Đạo, chớ không giáng sanh nữa đặng chuyển Phật giáo
lại cho hoàn toàn. (Tr.19-Q.1)
3/ - Chúa cứu thế đã đến với các con. Người đã phải
chịu đổ máu Thánh để chuộc tội cho loài người. Trong 2000 năm vắng mặt người
các con làm gì hữu ích ? Các con truyền bá Đạo Người nhưng chính các con cũng
không hiểu chi cả. Các con lại làm sai lạc bản chất tôn chỉ của nền Thánh giáo,
nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh tông đồ. (Tr.120-Q.1)
4/ - La Sainte doctrine du Christiannisme ne sert qu'à envenimer l'ambition
des fort contre les derniers.
Il faut une nouvelle doctrine capable de maintenir l'humanité dans l'amour des
créetures. (Tr.46-Q.1)
Dịch : Thánh Đạo của Chúa cứu thế (vì sự hiểu lầm) làm tăng gia dục vọng
của kẻ mạnh đối với người yếu thế và giúp giáo cho bọn trên hiếp dưới.
Phải có một giáo lý mới mẻ đủ khả năng kiềm chế
nhơn loại trong sự thương xót chúng sanh. (Tr.121-Q.1)
5/ - Cette doctrine eu lieu d'apporter à l'humanité la paixet la concorde,
lui apporte la dissension et la guerre. Voi là pourquoi je viensvous apporter
moi-même la paix tant promise. (Tr.23-Q.1)
Dịch : Giáo lý ấy đáng lẽ phải đem lại hòa bình và tương ái cho loài người,
nhưng trái lại nó gây mầm chia rẽ và chiến tranh. Bởi thế nên nay chính thầy
phải đến để đem lại cho các con nền hòa bình đã từng hứa hẹn. (Tr.120-Q.1)
6/ - Người sống trên thế gian này dầu thuộc giống
dân nào cũng chỉ có một cha chung mà thôi. Aáy là Trời, đang chế ngự số mạng
của các con. Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự bất đồng Đạo lý mà chính
các con đều phải chung chịu đau khổ rửa tộ của các con ở cõi thế gian này.
(Tr.123-Q.1)
VII/ - Thờ Tự Và Tế Lễ :
1/ - Lạy là gì ?
Là tỏ ra bề ngoài lễ kính trong lòng. (Tr.11-Q.1)
2/ - Khi bái lễ, hai tay co chắp lại, song phải để
tay trái ấn tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.
Chắp hai tay lạy là tại sao ?
Tả là Nhựt, Hữu là Nguyệt, vị chi Aâm Dương, Aâm
Dương hiệp nhứt, phát khởi càn khôn. Sanh sanh hóa hóa tức là Đạo. (Tr.11-Q.1)
3/ - Thầy lập Phật giáo vừa khi khai Thiên lập Địa
nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo rồi mới tới Nho giáo. Nay là hạ ngươn hầu
mãn, phải phục lại như buổi đầu nên phải phản tiền vi hậu.
Tỉ như lập Tam giáo qui nhứt thì :
Nho là trước
Lão là
giữa
Thích là chót
Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại vô vi
chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy. (Tr.48-Q.1)
Thầy dặn các con như đàn nội chẳng nghiêm, Thầy
không giáng. (Tr.51-Q.1)
5/- Thiên phong là là để cho bậc Thánh, Tiên, Phật
lìa trần phải lắm dày công cùng chúng sanh mới trông mong hồi cựu phẩm đặng.
(Tr.40-Q.2)
VIII/-
Hạnh Người Tu :
1/- Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng
luyện Đạo. (Tr.30-Q.1)
2/- Một giọt máu là một khối chơn linh. Như các con
dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác thì nó đến tại
Nghiệt-Đài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội cho đặng.
Vậy phải giữ gìn giới cấm ấy cho lắm. (Tr.33-Q.1)
Hạnh ngay thật là nét yêu dấu của Thầy. (Tr.10-Q.2)
3/- Các con phải cẩn ngôn, cẩn hạnh, thà là các con
làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con dối mà phải trọng hình đồng thể.
(Tr.66-Q.2)
Nho
nhã con tua tập tánh tình,
Dưới
đời đừng tưởng một mình lanh.
Một
câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều
nỗi trầm luân bởi ngọn ngành. (Tr.112-Q.1)
4/- Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải
noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho
bằng Thầy. (Tr.41-Q.1)
5/- Các con hiền mà các con dữ, các con yếu mà các
con mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà là hành phạt,
cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên
Phật đó.
6/- Các con phải giữ gìn đức hạnh đối với kẻ trên
bằng chữ khiêm hòa, đối với kẻ dưới bằng chữ khoan dung. (Tr.95-Q.1)
7/- Chẳng những phải cứu trợ kẻ ngoại đạo mà lại
cứu kẻ nghịch cùng mình trong cơn nguy nữa. (Tr.93-Q.2)
8/- Phải dồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm
gương soi mình hằng bữa, phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau dường như con một
nhà, rồi cái thương yêu sự giúp đỡ nhau ấy sẽ dìu các con vào tận chốn Cực Lạc
thiêng liêng để tránh khỏi nơi cùng khổ tiều tụy. (Tr.14-Q.2)
Quyền biến dầu dùng khi buổi ngặt
Dằn lòng nhớ tránh kế mưu gian. (Tr.15-Q.1)
9/- Sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn
thế giới. Có thương yêu nhơn loại mới hòa bình, càn khôn mới an tịnh.
10/- Các con thường để mắt dòm lên thấy kẻ cao sang
thì các con cho rằng các con vô phúc, còn nhìn xuống thấy đồng chủng thấp hèn
thì các con lại đem lòng khinh bạc. Aáy là một điều vô Đạo. (Tr.94-Q.1)
11/- Các con đã rõ Đạo thì phải biết đức cần kiệm
là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian này. Những sự lãng phí se sua
ở đời này Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy. (Tr.48-Q.1)
Mình Thánh mình Hiền mình biết lấy
Tặng phong quá tiếng chớ nhờ ai. (Tr.111-Q.1)
12/- Các con thương mến nhau, dìu dắt nhau, chia
vui sớt nhọc nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui vẻ đó. (Tr.90-Q.1)
13/- Đạo tại lòng bác ái và chí thành.
Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình
cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên hạ bằng Trời
Đất.
Còn chí thành là mỗi việc lấy lòng thành thật mà
đối đãi trong đời và trong Đạo dù kẻ phú quý đến bậc nào đi nữa mà không có
lòng bác ái và chí thành thì không làm chi nên việc. (Tr.45-Q.2)
14/- Tham gian nhập vào nhà thì nhà không chánh
giáo, tham gian nhập vào nước thì nước hết chơn trị, tham gian đã lộng toàn thế
giới thì thế giới hết Thánh Thần. (Tr.63-Q.2)
15/- Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất
bình ở đời này thì Đạo chưa thành vậy. (Tr.98-Q.1)
IX/-
Luật Phản Diện :
1/- Quỉ Vương là tay diệt hóa. (Tr.69-Q.2)
2/- Ngày nay, Đạo đã khai tức là tà khởi.
(Tr.34-Q.1)
3/- Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Aâm Tự lập pháp
"Tam kỳ phổ độ", Quỉ Vương đã khởi phá khuấy chơn Đạo, đến danh Ta nó
còn mượn,duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.
Lại còn hiểu rằng Ta đến với huyền diệu này, mượn
cơ mầu nhiệm, hiệp Tam Thập Lục Động đổi gọi Tam Thập Lục Thiên. Các bên chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật bị mạo nhận mà lập nên Tả Đạo. (Tr.38-Q.1)
Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình, chung
quanh các con dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lẫn lộn với các con.
(Tr.13-Q.1)
4/- Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại
hằng ngày xúi biếu nó cắn xé các con, song Thầy cho các con mặc một bộ thiết
giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức các con. (Tr.69-Q.1)
5/- Đạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích cho
thân các con. Nếu các con bỏ giáp thì thân các con trần lỗ còn bỏ Đạo thì các
con ở dưới phép Tà Thần. (Tr.34-Q.1)
6/- Những sự phàm tục đều là mưu kế của tà mị yêu
quái cốt để ngăn trở bước đường Thánh Đạo của các con. Những mưu quỉ quyệt ấy
do lịnh của Thầy dùng để thử các con. (Tr.34-Q.1)
7/- Các con không Đạo thì là tôi tớ ủy mị.
(Tr.70-Q.1)
8/- Thầy đến lập cho các con một nền chơn Đạo, tức
là mỗi sự chi dối trá là chẳng phải của Thầy. (Tr.77-Q.1)
9/- Thầy đến là chủ ý để dạy cả nhơn sanh đặng hòa
bình chớ chẳng phải đến đặng giục thêm nghịch lẫn nhau. (Tr.77-Q.1)
Thầy lại thấy nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu
là gì, bị người chê rồi còn biếm nhẻ nữa phải nghịch chánh lý chăng ?
Trong phần đông các con có nhiều kẻ ấy. (Tr.45-Q.1)
CHƯƠNG II
THỐNG HỢP VĂN HÓA
Thời khoa học điện tử
đã đưa nhân loại đến chỗ hợp đồng, trộn lẫn nhiều văn hóa đa dạng. Đạo Cao Đài
chủ trương đại đồng tiểu dị,thống nhất mà không đồng nhất trong nền văn hóa các
dân tộc.
Việc "Qui tam giáo,hợp ngũ chi", đó là du
nhập văn hóa bên ngoài để biến thành của mình. Thánh chỉ của Đức Cao Đài nhằm
mục đích nối tiếp truyền thống của nền văn hóa Việt Nam. Thật vây, thử hỏi các
nhà ngôn ngữ có bao nhiêu tiếngViệt có gốc từ chữ Hán, Pháp…Các nhà dân tộc học
hãy trả lời cho ta rõ có bao nhiêu nghi lễ Trung Hoa thành nghi lễ Việt Nam.
Đạo Cao Đài theo truyền thống tổ tiên, du nhập, gạn lọc "biến của người
thành của ta"và phát triển lên tầm cao mới. Đó không phải là lắp ghép tạm
bợ "hổ lốn" các Thần Thánh thế giới lên trên một Thiên bàn Cao Đài mà
là cả quá trình công phu công quả của hằng triệu tín đồ qua mặc khải của Đấng
Toàn Năng. Việc phượng thờ nơi Tòa Thánh Tây Ninh xác nhận điều đó.
Chuyện du nhập văn hóa không riêng nơi người Việt
Nam nói chung, đệ tử Cao Đài nói riêng mà các nước trên thế giới, không nền văn
hóa lớn nào mà không trải qua quá trình chế biến văn hóa. Nền văn hóa Pháp
chẳng hạn : Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng (Renaissance) ảnh hưởng sâu đậm
văn hóa La Mã, chủ nghĩa cổ điển thì in dấu thời cổ Hy Lạp, còn "thế kỷ
ánh sáng" lấy nguồn từ văn hóa Anglo-Saxon và chủ nghĩa lãng mạn Pháp rút
từ nền văn hóa Germanie.
Vậy quá trình "qui tam giáo,hiệp ngũ chi"
của Đạo Cao Đài không những nằm trong truyền thống dân tộc Việt Nam mà cũng nằm
trong thông lệ của nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
Đạo Cao Đài chủ trương qui hợp các tôn giáo trên
thế giới đưa đến thống hợp văn hóa. Muốn đạt được một nền văn hóa nhân loại,
người tín hữu Cao Đài phải biết quên mình là người VN, quên cả mình là người
Đạo Cao Đài nữa : "Quên tất cả để được tất cả". Hãy thực hiện Thương
yêu và Công Chánh, bác ái và công bằng của Đức Chí Tôn dạy. Hãy "từ bi hỉ
xả" quên mình mà làm nên cho người, giúp người nên Đạo" làm cho cuộc
đời an lạc, thiên đàng tại thế.
Thực tế, "không có những vấn đề triết học nào
để giải quyết cả,chỉ có cuộc sống mà thôi". (Il n'y a pas de problèmes
philosophiques à résoudre, il n'ya que la vie à vivre.), một nhà Đạo học Ấn đã nói như vậy. Giai đoạn này không cần bàn đến việc qui hợp
nữa. Bản thân mỗi người tín hữu hãy giang rộng tay ra tiếp thu mọi văn hóa nhân
loại, tháo tung ranh gới văn hóa.
"Ngày nay mối tương quan giữa Đông Phương và
Tây Phương không còn là một vấn đề đưa ra thảo luận ở đại học nữa" (Jean
Herbert, Ce que l' occident peut apprendre de l'orient)
Trong quyển La Fin d'un Mythe, Carlos Suarès cũng
viết : "Chân lý là sự tổng quát của hai đối cực, chớ không phải là sự đề
cao cái này, phủ nhận cái kia".
Henri Regnault, Phó Chủ Tịch Ủy ban quốc tế của Đại
Hội Thần Linh học thế giới đã phát biểu: "Cao Đài giáo xây dựng trên căn
bản Thần linh học có thể giúp ta thống hợp tôn giáo, triết lý,khoa học, tâm lý
học và nghệ thuật.Cao Đài có thái độ khoan dung rộng rãi đối với những tôn giáo
khác, tôn trọng tín ngưỡng của mọi người cũng như tôn trọng chơn lý, nguồn cội
của Đấng Chí Tôn vô biên, vô thường, vô danh, vố đối. Nếu ta phải tổng hợp tôn
giáo, khoa học, triết học, tâm lý học, nghệ thuật để tìm hiểu Thần linh thì tôi
cho Cao Đài giáo có thể rất có ích cho chúng ta để đạt tới mục đích ấy.
Người có đức tin như người không có đức tin đều có
thể vào trong Thánh Thất Cao Đài để trầm tư mặc tưởng và cầu nguyện theo sở
vọng. Đó chẳng phải là một lý thuyết tâm lý sâu xa hay sao? Cai đó chẳng có gì
lạ.Vì Cao Đài giáo nguồn gốc là ở chỗ siêu trần mà lại là sự nghiệp của thế
nhân"(1) Đức Chí Tôn giáng dạy :
"Quốc Đạo kim triều thành Đại Đạo ,
Câu đầu hàm ý tổng hợp
các nền văn hóa như đã bàn giải ở trên. Câu dưới được Đức Phạm Hộ Pháp
giảng như thế này :
"Phong đây là phong tục Chí Tôn muốn nói phong
hóa nước nhà sẽ trở nên phong hóa của loài người . Chúng ta suy gẫm coi phải
Đức Chí Tôn mà quá lời không ? (trang 7)
Chúng ta thử coi nền Quốc Đạo sẽ trở nên nền tôn
giáo của toàn cầu chăng? Và phong hóa chúng ta có thể thay thế cho cả nhân loại
trên mặt địa cầu này chăng ?
Chí Tôn đã nói "Từ thử cho sắc dân ấy (VN) chỉ
biết nô lệ, chưa biết vi chủ, vì vậy mà ta đến bồi thường sự bất công
ấy."Đạo đã dạy chúng ta chí thiện, chí nhơn, đại từ, đại bi. (trang 8)
May thay, tổ phụ chúng ta để lại món thuốc cứu cả
tinh thần nhơn loại… Phong hóa nhà Nam không lúc nào sơ thất sự phụng tự, từ
phong hóa trong nhà, phong hóa trong làng, phong hóa trong nước, phong hóa
chung xã hội nhơn quần (tr 9). Nền tôn giáo chơn thật buộc vạn quốc phải nhìn
nhận là một tôn giáo đặc sắc của các sắc dân chơn thật hơn hết (tr.42)
Tổ chức xã hội của chúng ta khéo léo làm sao đâu !
Bần đạo dám chắc rằng cao thượng hơn hết. Hại thay, quốc dân ta ôm của báu mà
không biết quí trọng, lại liệng đi rồi chạy theo ăn mót đồ bỏ của thiên hạ lấy
làm của mình. Thế nên, Đức Chí Tôn thức tỉnh nhơn sanh với câu : "Nam
phong thử nhựt biến nhơn phong", ý rằng phong hóa của chúng ta nó sẽ biến
thành phong hóa của toàn nhơn loại".(2)
(1)Comment réaliser l'universalisme religieux, Le Caodaisme et réincarna
(2) Quốc Đạo Nam Phong,Kiến phong 1971.
Cái Nam phong đó,Thanh Sơn Đạo Sĩ là người tiêu
biểu. Nhân cách Nam phong biểu hiện qua Tam giáo đồng nguyên trong máu huyết
người. Người không màng danh lợi, từ quan, ảnh hưởng Lão Giáo, yêu dân, đau nỗi
đau của dân, ảnh hưởng thuyết từ bi bác ái của Phật giáo; sâu đậm nhất của
Khổng giáo. Đạo nhân len lõi vào tận thớ thịt buồng tim của Thanh Sơn Đạo Sĩ.
Học thuyết tôn quân trong Kinh Xuân Thu không phù
hợp với ngày nay, nhưng "Chánh sách của Đạo Cao Đài giúp quân chủ tạo dân
quyền".(3)
Nhưng chủ trương Đức trị trong Luận ngữ còn có giá
trị : tu thân, trị quốc, bình thiên hạ. Khổng tử lấy đạo nhân làm căn bản. Nhờ
có Nhân mà con người khác con vật. Lý tưởng chính trị cao nhất của khổng giáo
là chính sách "Vô vi nhi trị" tương đồng với chủ trương "trị bình"
của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
"Cư kính nhi hành giản" (ăn ở chơn chánh
hành động giản đơn). "Người có nhân hễ muốn tự lập thì lo lập cho người, còn
muốn thông đạt thì cũng lo cho người thông đạt ; hễ xử với mình thế nào thì
cũng xử với người như thế".(Nhân giả kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt
nhi đạt nhân, nhân cận thủ thị; khả vị nhân chi phương dã dĩ( (luận ngữ),
(3)Lời thuyết
đạo của Đức Phạm Hộ Pháp , Q.1 tr.41
Chủ trương "Quyền Công Chánh" là nhằm
thức tỉnh Chánh Quyền Pháp hãy giáo dục quần chúng sao cho có ý thức trách
nhiệm hơn là kềm kẹp, bắt buộc họ. "Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế
và hình phạt để trị dân thì dân sợ mà không phạm pháp đó thôi, chớ thật lòng họ
đâu biết xấu hổ". (Luận ngữ), nghĩa là lấy đức độ mà trị, tự nhiên dân sẽ
trở nên hiền tốt.
Tóm lại, Nguyễn Bỉnh Khiêm thấm nhuần học thuyết
Tam giáo mà Nho giáo là nền tảng. Nhân cách của Thanh Sơn Đạo Sĩ tiêu biểu cho
Nam Phong .Cái phong hóa mà Đạo Cao Đài đề cao để đạt tới mức Thượng Đức thi
đua và Trấn áp Thượng Lực, Thượng Mưu (4)
Thượng Lực mà thời đại dùng sức mạnh để xâm chiếm
nước ngoài, buộc người làm nô lệ. Thượng mưu là dùng trí xảo của mình để bắt kẻ
khác lệ thuộc .
Chỉ có Thượng Đức , cái mà Đức Hộ Pháp nói
"phong hóa tổ tiên để lại ", và Thanh Sơn Đạo Sĩ tiêu biểu : rất
thương người , hợp lòng người, chỉ dùng đạo tâm , đức độ của mình để cảm hóa
người.
Nếu cả thế giới biết hồi đầu hướng thiện, chính là
lúc "Nam phong thử nhựt biến nhơn phong:, lấy văn hóa người Việt Nam làm
văn hóa nhân loại.
Ngày đó là ngày "thiên hạ thái bình" và
đại đồng thế giới vậy . Bởi lẽ,thầy đã phán truyền : "Giáo Lý của Thầy là
ĐAÏI ĐỒNG. Nến nhơn loại biết tu thì đó là nền hòa bình hứa hẹn chung cho tất
cả các dân tộc". (TNHT.I tr.122)
(4) Xem "Đại Đạo Giáo Lý " cùng
người viết
CHƯƠNG
III
GIÁO
LÝ HƯỚNG THIỆN, TIẾN BỘ
Đạo Cao Đài có một giáo lý bao dung rộng rãi, coi
nhân loại đều có một Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại
đồng,lấy tình thương xóa bỏ hận thù ."Thầy cấm các con từ đây nếu không đủ
sức THƯƠNG YÊU nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à !" (TN 2, tr.69)
Giáo lý cao thượng, tiến bộ, diệt mê tín dị đoan,
coi cõi Hằng sống (Thiên đàng) và thế gian (Địa đàng) chỉ là một. "CẢNH
NHÀN chẳng phải đâu xa, chỉ ở nơi ĐỊA ĐÀNG đây."(Đàn đêm 21-2 -1927) hoặc
"Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa". (Đàn 28-1-1926).Thầy chỉ rõ : "
Hễ cái tâm sáng suốt thiện từ đạo đức là thiên đàng, còn tâm mê muội vạy tà
hung bạo là Địa ngục cũng chỉ tại cái tâm". Chính cái tâm của một số môn
đệ thấp kém mà Thầy răn dạy : "Đạo Thầy không mê tín dị đoan , một số môn
đệ bài biện vô lối, chẳng bao lâu thành ra mối bàn môn Tả Đạo". Một số
người đã đưa lên bàn thờ những Thánh Tiên thần thoại lý tưởng có từ lâu trong
dân gian, nhằm lấy biểu tượng siêu thoát đạt đạo của các Đấng ấy mà tế độ chúng
sanh,chớ các Đấng ấy không phải là chủ tể và chủ động trong việc giáo hóa nhơn
sanh trong kỳ Ba phổ độ này. Dù vây, điều đó không phù hợp với nền Tân Tôn giáo
nên Đức Chí Tôn cho là "Bày biện vô lối"
"Không có nhà thờ nào có ma thuật cả, vì ma
thuật luôn giấu diếm, còn nghệ thuật, tôn giáo mở toang cửa mời gọi mọi người"
"Cái đẹp tự thân tôn giáo không đồng nghĩa với
bất kỳ cái đẹp lý tưởng nào, nhưng nó thể hiện một cách đặc thù của một nghệ
thuật chân tính về nó".
"Thế nên, nghệ thuật và tôn giáo đều mang chức
năng phục vụ xã hội hay một cộng đồng. Điều đó, khiến cả hai không thể bị phân
hóa hay chia cắt thành những bộ phận rời" (E.Durkheim).
Người tín hữu Cao Đài nào cũng thông suốt lời dạy
sau đây của Đức Chí Tôn: "Thầy đến đặng hườn nguyên chơn thần cho các con
đắc đạo". (TNHT .I, tr.12) Nói thế không phải ai nhập môn vào đạo đều đắc
đạo dễ cả mà phải dày công tu luyện. Một đằng khác, Đức Chí Tôn nói rõ hơn ;
"Than ôi ! Đã bước vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm,học hỏi
cho rõ ngọn nguồn thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền thánh giáo
đâu? Đạo trời khai ba lượt, người tục lỗi muôn phần,sanh đứng vào thế cuộc, chưa
biết mình đã lãnh một vai tuồng, đặng chờ đến kết quả hồn qui Thiên ngoại :
Lánh khỏi xác phàm trở về nơi khởi hành. Phận chưa xong phận, thân chẳng nên
thân, thân phận lo tính chưa rồi còn mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo đức
để cho có ích chung nữa đặng.
Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của
Thây ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng để hành
việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do theo ý Trời, phạm một nét vạy tà là
phạm nơi Thiên luật. Phải quấy Thần Thánh chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày
chung cuộc, khá biết vậy!"
Theo Thánh ý, dù có quyền thiêng liêng giúp đỡ,
nhưng con người phải tự cứu lấy mình : "Tận nhơn luật tri Thiên mạng"
hay "có Trời mà cũng có Ta", chớ không phải mọi việc đều buông xuôi
phó thác cho số mạng.
"Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa, phải
noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Nếu đời không tội lỗi, đâu phải
nhọc đến công Thầy". (TNHT.I, tr.33)
'Thầy khuyên các con hãy mỡ rộng trí ra mà thương
nhơn loại,thì mới hạp ý thầy.Các con phải giữ gìn đức hạn, đối với kẻ trên bằng
chữ khiêm hòa, đối với kẻ dưới bằng chữ khoan dung". (TNHT.I tr.71)
Đức Chí Tôn dạy ta xử ngược lại thế đời: " Các
con hiền mà các con dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà quyền thế, các
con nhịn nhục mà hành phạt. Cử chỉ của các con khá tập sao cho nghịch với cử
chỉ thế tình thì gầnngôi Tiên Phật đó".(TNHT. I tr.46)
Nho
nhã con tua tập tánh tình,
Dưới
đòi đừng tưởng một mình lanh.
Một
câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều
nỗi trầm luân bởi ngọn ngành (TNHT.I, tr.122)
Đó là hành trang tối thiểu để người đạo đi vào cuộc
đời (nhập thế). Cuộc sống trong xã hội luôn luôn thay đổi và biến động. Cách
tu, lối tu vì thế cũng phải tiến bộ cho phù hợp với đời. Thời còn ăn lông ở lỗ,
núi hang là nơi ở thiên nhiên nên con người chọn lối tu núi tức là tu Tiên. Khi
con người biết quần tụ cất nhà để ở thì con người nảy ra lối tu chùa tức tu
theo phật.
Trong luật cạnh tranh sinh tồn, người đẻ mà đất
không đẻ nên thức ăn thiếu thốn, người ta giành giật nhau từng miếng ăn manh
áo. Đức Khổng Tử ra đời kêu gọi con người phải biết phải học nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín và tu thân, tề gia,trị quốc, bình thiên ha. Từ đó nảy sinh lối tu tề
của Nho giáo.
Xã hội ngày càng văn minh, tiếnbộ, nếp sống sinh
hoạt cũ không còn thích hợp nữa. Thành thị hay nông thôn, chỗ nào cũng có người,
cũng có chợ. Người ta sống giữa chợ đời, trò đời thì cũng phải có lối tu chợ
tức tu tâm. Đó là lối tu của người tín hữu Cao Đài hiện nay, mỗi người đều tự
giác tha,và điều rõ câu : "Ngô thân bất độ hà thân (?nhân) độ". Đạo
ẩn trong lòng mọi người, nó sẳn sàng trấn áp mọi "nộ, ố, bi, ai". Họ
có một nội tâm sinh động và một nội lực thâmhậu để chống trả mọi cơn khảo đảo
từ ngoài đưa vào. Thế mới gọi là "đại ẩn ẩn thành thị" tức tu giữa
thành thị mới gọi là đại ẩn. Lại có câu : "Nhất tu thị, nhị tu sơn".
Xét về quá trình các phương pháp tu, từ tu núi, tu
chùa, tu tề, tu chợ, chắc chắn tu giữa chợ là lối tu khổ luyện nhất . Người tín
hữu không bỏ nhà ẩn thân nơi non cao, không vào chùa để tham thiền nhập định mà
tiếp xúc với mọi người, chung đụng với mọi người, gần gũi với mọi cám dỗ chực
đưa bất cứ tín hữu nào vào đường tội lỗi, nếu chưa luyện đạo tâm vững vàng.
Đạo lập ra để cứu đời, tận độ chúng sanh toát khỏi
nguy nàn. "Mở một mối đạo chẳng phải thường tình,mà sanh nhằm đời gặp đặng
mối đạo chẳng phải dễ". (TNHT .I,tr.53) "Đạo Trời mở ra cho một nước,
tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn". (TNHT.II, tr.114)
"Các con vì Đạo là việc công lý, mà công lý
đánh đổ cường quyền thì đạo mới phải đạo".(TNHT.I, tr.98)
Thế nên, ngay từ đầu, Đạo Cao Đài nêu rõ chủ trương
của mình là vì hòa bình, dân chủ,tự do.
"Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo hòa bình dân chủ
mục,
(1) Đài tiền sùng bái Tam Kỳ cộng hưởng tự do
quyền."
Bởi lẽ, "Ngày nào các con còn trông thấy một
điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành". (TNHT.I, tr.98)
Làm thế nào để khỏi thấy một điều bất bình? Đức Chí
Tôn dạy phải thi hành "Luật Thương yêu, quyền công chánh". Vì
"Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn Khôn thế giới . Có thương yêu,
nhơn loại mới hòa bình, Càn Khôn mới an tịnh".
(1) Đúng là chữ CHÁNH , giáo sư Latapie (Phó
quản lý nội viện) sợ pháp làm khó dễ nên xin đổi ra chữ MỤC .
Giáo lý Đạo Cao Đài đề cao gia đình một vợ một
chồng. "Cấm người trong Đạo, từ ngày ban hành luật này về sau, không được
cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối …Vợ chồng người
Đạo không được để bỏ nhau.(Tân Luật, TN 1966, tr.12)
Tuy vậy, Đức Chí Tôn hằng nhắc nhở chư mộn đệ : Tà
dâm là một trọng tội. "Phàm xác thân con người, tuy con người coi thân hình
như một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chứa vàn vàn, muôn muôn sinh
vật. Những sinh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối. Vật chất ấy có tính linh…
Các vật thực nào tì vị, lại biến ra khí, khí mới
biến ra huyết. Nó có thể hườn ra nhân hình, mới có sanh sanh tử tử của kiếp nhơn
loại. Vì vậy mà một giọt máu là một khối chơn linh.
Như các con dâm quá độ là sát mạng chơn linh ấy.
Khi các con thoát xác, nó đến tại Nghiệt Đài mà kiện các con. Vậy phải giữ gìn
giới cấm ấy cho lắm". (TNHT.I, tr. 26)
Vì nhận nơi con người điều có tính dục do cha mẹ
truyền lại nên chấp nhận người Đạo phải có vợ chồng nhưng tuyệt đối cấm dâm
dục. Khi trở thành chức sắc, Tân Luật "Cấm vợ chồng bỏ nhau" nên chức
sắc Đạo Cao Đài có vợ có chồng là vậy. Không làm điều chi trái với thiên nhiên
để rồi phải vụng trộm như các hàng giáo sĩ của các tôn giáo khác.
Vả lại, nếu đi tu mà bỏ nhà để (?) vợ, không làm
điều gì có ích cho gia đình, tìm chỗ thanh vắng lo cho riêng mình thì có ích
chi cho xã hội. Đó không phải là chủ trương của Đạo Tam Kỳ. Vào Đạo tu tâm sửa
tánh để trở nên người hiền lành nhân đức, làm điều ích nước lợi dân mà phổ độ
chúng sanh vào đuờng ngay nẻo phải.
Người tín đồ nào cũng hiểu lời nói của Mạnh Tử
"Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại". Ngài than không có người hiền nối
mối Đạo, đó là tội vô hậu lớn. Về sau, Châu Tử chú giải theo phong kiến
"Tội không con là lớn hơn cả" để cưới hầu thiếp. Vả lại, cổ nhân có
dạy : "Trong sử hay bút ký, mấy điều gian hại chẳng luận chữ hiếu có con
hay không con".
Năm 1923, Đức Vân Trung Tử giáng đàn dạy :
"Chẳng phải ông MạnhTử nói không con là bất hiếu. Nếu không con bất hiếu
sau Lục Tổ trước còn thành Phật đặng?" (Hội Lý Xiển Chơn, TN 1959, tr.13)
Trong gia đình vợ chồng "Các con hòa hợp nhau
trong sự sống chung cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt". (TNHT.I,tr.51) Nam
Nữ bình đẳng : "Giục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam" (Nữ Trung Tùng Phận
). Trong một xã hội nữa phong kiến, nữa thuộc địa mà giáo lý Đạo dạy Nam Nữ
bình quyền, đó không phải là cuộc cách mạng đổi mới cho thân phận người phụ nữ
ư? Trong khi đạo Kitô, phụ nữ không được làm Linh Mục.
Thêm vào đó, theo cổ tục, khi có kinh nguyệt, người
phụ nữ tránh ra ngoài thì giáo lý Đạo dạy : "Không vì nguyệt huyết kỵ anh
linh". Sự tiến bộ của khoa học ngày nay đã giải thích được điều đó.
Vốn là một tôn giáo tiến bộ nên : " Việc tang
không nên xa xí, không nên để lâu ngày, không dùng đồ âm công loè loẹt, chỉ dùng
toàn đồ trắng. Trong việc tế vong linh, không nên dùng vật hy sinh, nên dùng
toàn đồ chay thì được phước". Việc cầu siêu vong linh trong tuần cửu cửu
(81 ngày), tiểu tường (200 ngày) đến Đại tường (300 ngày) là mãn tang".
(Tân Luật, sđđ, tr.13)
Xem thế, thời gian mãn tang khó trong Đạo chỉ có
581 ngày trong khi phong tục cũ phải mất 3 năm (1095 ngày) gấp đôi thời gian
trong Đạo, choáng hết thời gian làm ăn, ngăn trở sinh hoạt.
Đạo cấm hẳn vọng ngữ (Ngũ giới cấm) : "Các con
nói dối dù chưa dối người, các con đã dối lương tâm mà lương tâm tức là chơn
linh". (Đạo Sử II,tr.273) Năm Mậu Thìn (1928), Đức Chí Tôn cấm tham lam:
"Tham vào tâm, tâm hết Đạo, tham vào chùa, chùa hết chánh giáo, tham vào nước,
nước hết chánh trị, tham lam lộng klhắp thế giới, thế giới hết Thần Tiên. Lòng
tham có thể giục lỗi Đạo cùng Thầy". (TNHT.II, tr.63)
Nhất là bói toán, đồng cốt, giết sinh vật để tế
lễ,trong Đạo Cao Đài rất cấm kỵ. (TNHT.I,tr.86)
Những
điều mê hoặc dị kỳ,
Các
con nên phải xa đi đừng làm.
Kho
tàng là chuyện bá xàm,
Nộm
hình, tà khí, độn nham tà quyền.
Bỏ
vòng vàng bạc, giấy tiền,
Thánh
Thần đâu có quá điên lấy xài!
"Thầy dạy con đừng cúng chi hết, vì chơn nhơn
chẳng hưởng của phàm bao giờ. Còn làm việc đãi, chẳng nên gọi là cúng".
(Đạo Sử II, tr.123)
Tắt một lời, Đạo Cao Đài là một tôn giáo hướng
thượng tiến bộ. "Thầy chẳng dùng sự chi mà thế gian mà thế gian gọi là tà
quái dị đoan, nếu có xảy ra một ít dị đoan trong Đạo đã dùng lỡ, ấy là tại nơi
tâm của một vài môn đệ, nếu chẳng giữ theo lẽ Chánh mà hành Đạo và bày biên
nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau sẽ trở nên một mối Tả Đạo". (TNHT.II,
tr.42)
Việc tế lễ Đức Chí tôn của Đạo Cao Đài hết sức tiến
bộ. Xét quá trình các tôn giáo từ xưa tới nay, ta thấy rằng : Vào thời thượng
cổ, quan niệm về Thượng Đế còn mơ hồ. Con người thờ Tô tem gần như rộng khắp
mặt đất.
Trong Cựu ước, người ta hiến lễ lên thần linh bằng
đồng nam đồng nữ làm vât hy sinh. Đạo giáo thì độc tôn, Thánh Moise là Đấng
hằng hữu và phải tàn sát tất cả sắc dân nào có tín ngưỡng riêng.
Qua thời Trung Cổ, người ta quan niệm Thuợng Đế có
quyền tác họa , ban phước. Kẻ nào làm lành được lên Thiên Đàng hay Cực Lạc, còn
đứa dữ bị đày vào hỏa ngục hay Địa ngục. Tôn giáo nào cũng cho mình là Chánh là
Phải . Do đó mới gây ra chiến tranh tôn giáo như ở Ấn Hồi hoặc kỳ thị tôn giáo
ở Âu Châu .
Về tế lễ Trời Đất, thay đổi những con vật lớn bằng
những con vật nhỏ gọi là Tam sanh mà không còn dùng con người làm vật hy sinh
như trước nữa.
Thời kỳ hiện đại, ngoài những kinh sấm truyền báo
trước Đạo Cao Đài xuất hiện (2), ở Châu Aâu có Hội thông thiên học , Hội Baha'i
tuyên truyền thuyết tôn giáo Đại Đồng (La religion universelle) và báo tin cho
toàn nhân loại sẽ có một nền tôn giáo chủ trương Đại Đồng thế giới ra đời . Đến
năm 1926, Thượng Đế đã giáng trần lập Đạo Cao Đài và đã có Giáo hội, giáo pháp,
kinh lễ chuẩn định.
(2) Xem "Đại Đạo Sử Cương" ,quyển I
Đạo Cao Đài cũng quan niệm rằng : Việc hiến lễ lên
Đức Chí Tôn không còn chi bằng sanh mạng của mình. Nhưng thay vì dùng đồng Nam,
đồng Nữ hoặc dùng sinh vật để cầu phước , cầu danh lợi cho riêng mình, người
tín hữu Cao Đài dùng Tam Bửu là ba món quí báo nhất của con người gồm tinh khí
thần hay bằng Bông Rượu Trà dâng lên Đức Đại Từ Phụ.
-Bông tượng trưng cho hình thể hữu vi(thể xác) tức
là Tinh.
-Rượu tượng trưng cho trí não khôn ngoan tức là
Khí.
-Trà tượng trưng cho linh hồn tức là Thần.
Việc hiến lễ của Tính hữu Cao Đài không cầu mong
phước lộc cho riêng mình mà chỉ nguyện dâng cả thân này, từ thể xác, trí não
đến linh hồn làm con vật hy sinh để phục vụ, thi hành lịnhcủa Đức Đại Từ Phụ
đưa nhân loại đến cảnh huynh đệ đại đồng. Tắt một lời, xét việc hiến lễ từ xưa
đến nay, cách hiến lễ của Đạo Cao Đài có ý nghĩa cao thượng và tiến bộ nhứt.
Khi bước vào làm lễ Đức Chí Tôn, ta gặp bức bích
họa Tam Thánh (3) Chặn ngang đường. Chỉ một bức tượng này thôi đủ nói lên tôn
chỉ, mục đích, tuyên ngôn, giáo lý của Đạo Cao Đài. Nội dung bản Thiên Nhơn Hòa
Ước gồm có năm đề cương khiết lãnh như sau:
1/-Tôn chỉ :
Vạn giáo qui nhứt bổn. Trong đó Thanh Sơn Đạo Sĩ
đại biểu Lão giáo, Nguyệt tâm chơn nhơn (Victor Hugo) đại biểu Thánh giáo, Tôn
Trung Sơn đại biểu Phật giáo (Vì tiền kiếp là Nguyễn Trãi) (4). Tuy biểu tượng
Tam giáo nhưng bao hàm vạn giáo vì ba tôn giáo trên Thiên bàn xếp hàng ngang
nên còn chấm lửng đến vô tận dẫn đến Đại Đồng Tôn giáo.
2/-Mục đích :
Đại Đồng nhân loại, trong đó, TSĐS là người Việt
Nam. NTCN là người pháp và TTS là ngưới Trung Hoa . Tuy ba sắc dân mà biểu
trưng cả nhân loại.
(3) Bức bính họa này do họa sĩ Lê Minh Tòng vẽ
vào năm 1947 (thời kỳ trang trí Tòa Thánh) do ý của Đức Hộ pháp.
(4) Xem
"Tam Thánh Bạch Vân Động" cùng người viết.
3/-Tuyên ngôn :
Nhân loại cùng Đấng cha chung. Hiện tượng hóa thân
từ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người Việt Nam chuyển kiếp là người Pháp Richelieu…
Hoặc trước ta ở Ấn Độ theo Aán giáo khi đầu thay sang Israel ta sẽ theo Do Thái
giáo. Thế thì ta thay đổi, tôn giáo thay đổi, nhưng Đức Thượng Đế chỉ có MỘT mà
thôi.
4/-Triết lý :
Trời còn hiệp nhứt. Trong bản hòa ước có 4 chữ
Thiên Thượng Thiên Hạ (Dieu et Humanité) "Thiên Nhơn vốn hiệp nhứt rồi bất
tất phải nói hợp" (Trình Hiệu). Trong Đạo Cao Đài, Trời người hợp nhất qua
trung gian đồng tử tức phò cơ, chấp bút .
5/ - Giáo lý :
Trong bản hòa ước ghi rõ: bác ái, công bình, thương
yêu và công chánh. Loài người chỉ cần thực hiện hai chữ THƯƠNG YÊU là sẽ thấy ĐẠI
ĐỒNG HUYNH ĐỆ.
Tóm lại, Đức Chí Tôn đã dạy, Thầy đến dạy sự thương
yêu và diệt mê tín, chẳng dùng điều chi tà giáo dị đoan. Thật là một tôn giáo hướng
thượng và tiến bộ. Đạo Cao Đài làm sáng lại truyền thống Nam Phong chớ không
phục cổ. Xây dựng tương lai Nhơn phong với mô thức xã hội văn minh giản dị phác
thực chớ không phải thứ văn minh mưu xảo phồn tạp.
PHOTO
Trong giờ Lễ Đức Chí Tôn
tại Đền Thánh &
Thiệp Mời Lễ Khánh Thành
Đền Thánh - sẽ bỗ túc sau)
Phần Thứ Năm
THIỀN ĐỊNH
CHƯƠNG I
CHÚ GIẢI TỊNH THẤT
DẪN NHẬP
Tịnh thất là nhà thanh
tịnh để cho các tín đồ vào mà tu luyện.
Muốn vào nhà Tịnh Thất
phải tuân y những điều lệ như sau này .
Chú giải :Từ ngữ Tín
đồ, xác nhận rằng các chức sắc muốn nhập Tịnh phải bỏ chức phẩm, như Đức Hộ
Pháp nói khi nhập Tịnh Trí Huệ Cung: "giải chức Hộ Pháp chỉ là bạn tu mà
thôi" (Trí Huệ Cung, trang 13). Trong quyển giáo lý được lời phê của Đức
Hộ Pháp có viết về Tịnh Thất như vầy: "Hàng tín đồ là bậc thượng thừa xong
xuôi tất cả bổn đạo làm người, mới đặng nhập Tịnh Thất". Như vậy, người
tín đồ muốn vào nhà tịnh phải tiệm tu qua Hạ thừa, Trung thừa rồi mới tới
thượng thừa được. Bậc Thượng thừa, Thượng căn, Thượng trí được nhập tịnh thất
vào ngày đại tịnh.
ĐIỀU
THỨ NHỨT - Trong hàng tín đồ , ai đã xử tròn nhơn đạo và giữ trai giới từ sáu tháng
sắp lên thì xin vào tịnh thất mà nhập định.
Chú giải: Theo qui định trên , hàng tín đồ đề cập
đó ở vào bậc Trung thừa tu luyện theo Trung tịnh vì chỉ mới giữ trai giới 6
tháng trở lên "đã xử tròn nhơn đạo" tức phải giữ đúng thế luật.
Đọc lại chương II, điều thứ 13 của Tân Luật.
Trong hàng hạ thừa, ai giữ trai kỳ từ mười ngày trở
lên , được thọ truyền bửu pháp, có người chỉ luyện đạo.
Chú giải : Đây mới là bậc Hạ thừa luyện đạo theo sơ
tịnh . Như vậy tu theo Tam Thừa (?)từ dưới lên trên là: Hạ thừa, Trung thừa và
đại thừa.
ĐIỀU
THỨ HAI - Phải có một người đạo đức hơn mình tiến dẫn và một người đạo hữu bảo hộ.
Chú giải : Hàng tín đồ Thượng thừa (Thượng căn,
Thượng trí) muốn vào nhập Tịnh thất phải có một tu sĩ tuổi thiền cao hơn mình
tiến dẫn và một người bảo trợ là anh, em hay con cháu bảo đảm cung cấp phẩm vật
và lo đời sống cho tịnh viên suốt thời kỳ tu tịnh. Thế nên, buổi lễ nhập Tịnh
thất tuy đơn sơ nhưng phải tôn nghiêm có đủ mặt ba người : chủ Tịnh, tu sĩ tiến
dẫn và người bảo trợ. Thiếu một trong ba người đó, buổi lễ phải đình lại.
ĐIỀU
THỨ BA - Cấm không đăng thơ tín vãng lai với những người ngoài, trừ ra thân
nhân,song phải có Tịnh chủ xem trước.
Chú giải :Tu sĩ Tịnh luyện là tu chơn, phế trần
luyện đạo, nên Tịnh chủ phải kiểm soát thơ tín , các bưu kiện gởi cho tu sĩ,
ngừa những đồ dùng xa xỉ trái với luật đạo.
Vì theo điều thứ 2, phần thế luật của bộ Tân luật
có ghi như vầy :
Người bổn đạo ăn mặc phải cần kiệm, tùy phận tùy
duyên, nên dùng đồ vải áo bô và giảm bớt hàng tơ lụa.
ĐIỀU
THỨ TƯ - Cấm nguời ngoài không được vào nhà Tịnh, chẳng luận về viên quan, chức
sắc cùng thân tộc tín đồ.
Chú giải : Quyển giáo lý của Trương Tiếp Pháp viết
: "Tịnh thất là một giáo đường thâm nghiêm. Tín đồ vào đó đặng an thần
dưỡng trí, tu luyện tính mạng đến công viên quả mãn" Như vậy,Tịnh thất là
nơi dành riêng cho các tịnh viên phế trần luyện đạo. Do đó, người ngoài không
nên bước vào đó tham quan như ở các Thánh Thất, Đền Thờ.
Nơi Tịnh thất thờ duy nhứt Thiên Nhãn Thầy và chữ
khí mà thôi. Trước tịnh thất treo ba vòng vô vi tam thanh, không có chuông
trống mỏ chi hết.
ĐIỀU
THỨ NĂM - Cấm không được chuyện vãn với người ngoài, trừ ra cha mẹ và con cháu đến
thăm, song cũng phải có phép người Tịnh chủ.
Bên cạnh Tịnh Thất còn có Tịnh Xá là nhà ở của các
Tịnh viên. Nơi đây con cháu đến thăm viếng và ủy lạo được, song phải xin phép
trước để tránh trùng giờ Tịnh luyện. "Cấm không được chuyện vãn với người
ngoài vì sợ thấu lậu phương pháp tọa Tịnh ra ngoài, kẻ hám vọng luyện sai mà
nguy hại. Tuyệt đối cấm truyền Tân pháp ra ngoài.
ĐIỀU
THỨ SÁU - Nhập Tịnh Thất rồi phải tuyệt trầu thuốc và không được ăn vật chi ngoài
mấy bửa cơm.
Chú giải: Tịnh viên không những không kiêng trầu,
thuốc, rượu mà thôi, còn phải trường chay tuyệt dục giữ ngũ giới cấm theo
chương bốn , điều thứ 21 của Tân Luật.
ĐIỀU
THỨ BẢY - Phải giữ cho nhơn thần an tịnh, đừng xao xuyến lương tâm. Phải thuận hòa
không được tiếng lớn, phải siêng năng giúp ích cho nhau dìu dắt nhau trong đường
đạo.
Chú giải : Muốn "Chơn thần an tịnh" phải
"Nhất tâm bất loạn phá vọng tồn chơn" và luyện phép vô niệm.Đó là
định của thiền.
Muốn "tâm không xao xuyến" thì phải phá
chấp. Không chấp thì mọi sự điều yên.
Muốn "Thuận hòa nhau" thì không xem,
không nói chuyện về người khác. Tuyệt đối không bàn việc thời sự chính trị vì
trái với luật của người tu chơn.
"Không được tiếng lớn" vì là nhà tịnh
(yên lặng), ít nói chừng nào tốt chừng ấy. Nói nhiều tâm xao xuyến nhiều, chơn
thần sẽ tản mạn. Tuyệt đối không nói chuyện trong tịnh thất.
"Siêng năng giúp ích cho nhau", trồng hoa
màu phụ, ngũ cốc và để nâng cao bửa ăn có nhiều rau xanh.
"Dìu dắt nhau trong đường đạo" theo khẩu
hiệu "Khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương thọ" chớ không viết thành
văn nên cần giúp đỡ nhau về cách luyện đạo.
ĐIỀU
THỨ TÁM - Phải tuân mạng lịnh của một tịnh chủ, sẽ y theo giờ khắc mà hành công
phu tu luyện.
Chú giải : Ban thường vụ Tịnh thất gồm ba người.
- Chủ Tịnh: Chủ tọa các phiên họp, chịu trách nhiệm
trước Hội Thánh. Khuyên nhủ và kiểm soát mọi sinh hoạt của tịnh viên. Hướng dẫn
các tịnh viên luyện đạo.
- Phó chủ Tịnh: Thay mặt cho chủ Tịnh khi vị này
vắng mặt, kiêm thủ bổn.
- Từ hàn: biên chép và giữ sổ sách của Tịnh Thất,
kiêm lo đời sống.
CÔNG
PHU TỊNH LUYỆN
- Sợ Tịnh :Dành cho hàng Hạ thừa còn sống lẫn lộn
với đời. Tịnh tập thể mỗi tháng 2 lần vào giữa dậu ngày mùng một và ngày rằm nơi
Điện Thờ Phật Mẫu. Kỳ dư tịnh ở nhà. Thầy dạy "moiã đứa lo lập một (tiểu)
Tịnh Thất" là ý ấy.
- Trung tịnh : Dành cho hàng Trung thừa vẫn còn ở
nhà, vào giờ dậu, mỗi ngày phải đến Điện Thờ Phật Mẫu mà tịnh luyện trong 2
giờ. Tu sĩ làm ăn bình thường và làm nghĩa vụ công dân như sơ thiền.
-Đại tịnh :Dành cho hàng Thượng thừa, phế trần
luyện đạo phải đủ tứ thời , nhập Tịnh Thất tu luyện cho đến lúc giải thoát.
Người tu theo tam thừa vô vị không cầu sắc tướng áo
mão. Tuy nhiên mỗi tu sĩ điều cần xác định tuổi thiền vì "nhân bất chí
đức, chí đạo bất ngưng yên". Để tránh kẻ thiếu đạo đức đòi hỏi chức phẩm.
ÐẠO
HƯ VÔ, SƯ HƯ VÔ
"Đạo Hư Vô, Sư Hư Vô" vì Đạo do một âm
dương mà thành. Sư Hư Vô, khi ta trầm niệm trước Đền Thánh có Chơn Sư, Thiên Nhãn,
nhưng hành giả có thể thấy trong tâm các vị giáo chủ trong các kỳ Phổ Độ trước.
Sư Hư Vô có nghĩa là CÁC PHÁP ĐỀU vô ngã. Mọi vật đều liên quan với nhau, không
có vật nào hiện hữu mà cô lập, tách biệt khỏi mọi vật khác. Sư Hư Vô còn có
nghĩa tự mình làm tâm đặng, làm chánh pháp cho chính mình, mà không nên tựa vào
bất cứ ai khác.
Trong "Question Zen" của P.Kapleau đã
viết: "Tôi đến gặp Thầy với hai tay và ra về cũng với hai tay không. Vì
Thầy giáo đích thực là tâm ta".
"Vậy Đạo Sư dạy ta những gì? không có gì để
dạy vì trong bạn đã có sẵn mọi thứ . Đạo Sư chỉ loại trừ một phần lớn những
loại không phải là chân tánh của bạn, mê tín, cố chấp, tư kiến, ích kỷ, vọng
tưởng hảo huyền, tất cả những thứ đã giam hãm bạn trong cái kén. Khi trí tuệ
của bạn đã chín mùi, vị Đạo Sư sẽ dùng lời nói hay cử chỉ đẩy bạn đến chỗ giác
ngộ". Như trong câu kinh "Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt
sinh".
Thật ra, Thậy đã dạy Đức Hộ pháp làm đài luyện khí
cho Đức CaoThượng phẩm vào tịnh luyện.Trong The Buddhist Review số 5-1996, nơi
bài TRICYLE (?) của Thiền Sư Shishin Sensei có nêu ba lời khuyên :1) Đối xử mọi
người như cung kính Thiền linh; 2) Nghe mọi âm thanh như nghe pháp (Thánh
giáo); 3) Hãy biến mọi nơi chúng ta đang hiện hữu thành nơi cõi Niết Bàn thanh
tịnh an vui.Thiền định, tịnh luyện trong Cao Đài giáo có những nét đặc thù
không giống Ấn giáo nhập diệt tận định đi mậy về gió. Ngay từ đầu mới khai đạo,
các vị cao đồ đã đến Chi Minh Lý quan sát cách thờ phượng. Nơi nội thất Tam
Tông Miếu có tạc 10 bức tranh chăn trâu.Nhờ đó, ngày 14-1-Đinh Hợi (1947) Đức
Hộ Pháp đã ban hành Đạo lịnh số 209 chỉ dẫn về PHƯƠNG PHÁP TRỊ TÂM vì tâm là
hình ảnh thiên lương.
Đến ngày mùng 1-4 Quí Tỵ (1953), Đức Ngài thuyết về
phương pháp tịnh luyện như vầy:
"Hôm nay, Bần Đạo thuyết minh cái bí pháp tịnh
luyện và khuôn luật tấn hóa tạo đoan của con cái Đức Chí Tôn . Cơ huyền bí ấy
Đức Chí Tôn đã đem đến cho chúng ta đạt cơ tấn hóa. Mấy người đã đạt vị Phật
đều ở trong cái huyền bí tịnh luyện để làm chúng ta sống đời đời, sống lụng lại
ba kiếp trước, rồi nhờ kiếp trước ta có thể biết luật nhơn quả của ta. Nhờ kiếp
này có thể đem tương lai cho ta đạt Phật vị ba kiếp trước . Đạt bí pháp ấây
chúng ta mới có thể biết chúng ta là ai. Ta biết đường lối chúng ta đi thế nào.
Đạt cơ siêu thoát là mở khiếu thông minh cho chúng ta đó vậy."
Lý
giải chữ KHÍ
Bước vào Đền Thánh, ta gặp khoảng không gian hẹp.
Đó là Tịnh Tâm điện. Tịnh Tâm dịch từ tiếng Phạn Dhyâna, tiếng Trung Quốc phiên
âm là Tch'anna, Phật giáo dịch âm là Thiền, Victor Hugo gọi là Les
contemplations (trầm tư, tịnh tâm).
Điện hay quán là nơi luyện đạo của các đạo sĩ. Nhìn
lên bức bích họa ta thấy Thanh Sơn Đạo Sĩ, Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (V.Hugo) . Danh
từ Đạo Sĩ, Chơn Nhơn là cấp độ tu của Tiên giáo.
Muốn luyện đạo phải luyện khí, chữ KHÍ bên sau tấm
bích họa, là triết lý cao thâm của Đạo Cao Đài. Ngay từ buổi đầu, Đức Chí Tôn
đã dạy : "Tắc lập Tịnh Thất cho rồi đặng mấy anh con còn tịnh, cái đài luyện
khí trật hướng".
Đức Cao Đài coi việc luyện khí là quan trọng nhất vì
thiếu khí vạn vật khô héo, con người phải chết. "Thông thiên hạ nhất khí
nhi" (thông suốt thiên hạ là một khí -Trang Tử). Theo Hoài Nam Tử
"Thiên khí vi hồn, địa khí vi phách".(Khí Trời là hồn, khí đất là
phách -Thiên tinh thần)
Khí ảnh hưởng đến mọi mặt tri thức : Phê bình văn
học , bình phẩm thơ văn, nghệ thuật hội họa cho tới việc chữa bịnh, dưỡng sinh
…các học thuyết khíù hóa, học thuyết vận khí của Đông Y và phép luyện khí bắt nguồn
từ Kinh Dịch…
* Khí: hơi vô
hình hơi nước bản hữu hình; dụng cụ hữu hình
Hội Khí công Showa, Tokyo làm máy đo tần số cực
thấp EJF đo công năng phát từ bàn tay. Sau khi phát khí công 18 giây, phát hiện
trên màn dao động ký điện tử từ trường trung bình 2 mg (miligams) kéo dài đến
giây thứ 40. Từ giây thứ 50 xuất hiện tín hiệu mạnh 5mG, có cường độ mạnh gấp
ngàn lần người thường, nên nó chữa được nhiều bịnh.
Học thuyết luyện khí của Đạo Cao Đài và trong Dịch
trùng hợp nhau, nếu không nói là một . Luyện chơn nhứt khí của Đạo là hợp lại
nguyên khí trong người và huyền khí ngoài trời làm một dẫn xuống biển khí (Khí
Hải) dưới rốn ba thốn, Các Đạo Sĩ gọi chỗ này là đơn điền (ruộng đơn thuốc),
nên luyện khí còn gọi là luyện đơn.
Bụng và trọng tâm của thân thể con người là thái
cực vì nơi đó hội tụ chơn khí, nên người ta coi bụng là thái cực vì nơi đó tiếp
cận với thần kinh xương cùn và nhóm thần kinh khoang bụng. Thế nên, khi luyện
khí lấy khí mặt trời làm động lực đầu tiên, dịch lý biểu tượng bằng quẻ Ly. Ly
là tâm hỏa, là nguồn gốc của thần chỉ cần hợp với tinh cơ thể nữa thì Tinh,
Khí, Thần gom về một mối mà đạt đạo bước vào hàng Thánh Thể.
Chức sắc hàng Thánh Thể phải có Thánh tính để độ
đời, làm nước vinh đạo sáng hầu xây dựng tình huynh đệ đại đồng.
Ít lâu sau việc dạy luyện KHÍ của Đức Chí Tôn, Đức
Phật Mẫu giảng dạy tại khổ Hiền Trang (Mỹ Tho) như sau:
THI
Thảo
Đường, phước địa ngộ tùng hoa,
Lục
đại dư niên vũ trụ hòa.
Công hưởng trần gian an lạc
nghiệp,
Thế
đăng đồng đạo thịnh âu ca.
Thảo Đường là tên thiền Sư Trung Quốc, dòng thiền
thứ ba truyền đạo vào nước ta ở phía Nam nước Chiêm Thành vào đầu thế kỷ XI,
được vua Lý Thánh Tôn (1054-1072) đưa về mở đạo Tràng ở Thăng Long và truyền
đạo được sáu đời (lục đại).
Đức Phật Mẫu dạy lập Thảo Đường là nhắc đến Tịnh
Thất. Thế nên, vào tháng chín năm Tân Mùi tại khổ Hiền Trang, Đức Hộ Pháp làm
lễ điểm đạo, lập Hồng Thệ cho 34 đệ tử đầu tiên của cơ giới thoát.
Lúc đầu muốn luyện đạo phải phân giờ theo giờ cúng
: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Chu kỳ vận hành của khí trong người hết một vòng gọi là
một chu thiên. Khi hành pháp, ta gọi là chu thiên vận pháp hay chu thiên hỏa
hậu mà trong "Luật Tam Thể" gọi là hỏa tinh.
Khởi đầu là chu thiên tý ngọ, đưa khí thông suốt
hai mạch nhâm, đôc khiến chơn khí hai mạch xoay vòng không nghỉ. Chu thiên Mẹo,
Dậu là đưa khí lưu thông kỳ kinh bát mạch cho pháp luân thường chuyển.
Bà Bát Nương dạy : "Cái tịnh ở trong cái
động" và "Chơn thần muốn tịnh lúc nào cũng được" (Cao Thượng
Phẩm, Luật Tam Thể, trang 168). Đólà phương luyện tâm pháp siêu thoát và mới mẻ
nhất. Mọi tín hữu điều hành được.
BÁT
QUÁI TRONG MẮT
(Thần cư tại nhãn để luyện
Đạo)
Theo "trung nhãn khoa học giải nghĩa",
mắt con người được chia làm 8 khuyếch. Mỗi khuyếch là một vùng tượng trưng cho
1 quẻ. (con số dưới đây tương ứng với số trong con mắt trên hình).
1 . Thiên khuyếch : Gồm lòng trắng ở hai bên phải
trái của lòng đen, thuộc phổi, tượng CÀN.
2 . Địa khuyếch : Gồm mi trên và mi dưới thuộc tỳ và bao tử tượng KHÔN.
3 . Thủy khuyếch : Gồm đồng tử thuộc thận tượng
KHẢM.
4 . Hỏa khuyếch : Gồm hai khoé mắt thuộc tim và
mạng môn thuộc LY.
5 . Lôi khuyếch : Gồm lòng trắng phía trên lòng đen thuộc ruột non, tượng
CHẤN.
6 . Sơn khuyếch : Vòng giáp đồng tử và lòng đen
thuộc mật tượng CẤN.
7 . Phong khuyếch : Lòng đen thuộc gan, tượng TỐN.
8 . Trạch khuyếch : Lòng trắng phía dưới lòng đen,
thuộc bàng quan tượng ĐOÀI.
Đối với ngũ tạng (ngũ hành), mắt chia làm 5 vùng
hợp với các điều trên. Mi mắt thuộc Tỳ thổ; hai khóe mắt thuộc Tâm hỏa; lòng
trắng thuộc Phế Kim; lòng đen thuộc Can mộc; đồng tử thuộc Thận thủy.
BÁT
QUÁI TRONG NGƯỜI
Tám quẻ tụ Đan Điền để
luyện đơn)
Trong mỗi người điều có Bát quái tại các cơ quan
sau :
1 . GAN tượng Tốn vì gan và Tốn đều thuộc mộc; gan
hóa phong ( ) Tốn tạo gió.
2 . PHỔI tượng Càn vì Phổi và Càn đều thuộc Kim ; phổi chứa khí trời mà Càn (
) là trời.
3 . TÂM tượng LY vì tim và Ly đều thuộc Hỏa; tim
phát xuất thần minh mà LY ( ) là sáng.
4 . THẬN tượng Khảm vì thận và Khảm đều thuộc Thủy ; thận là cơ quan trọng
yếu mà Khảm ( ) là hiểm yếu.
5 . TỲ tượng Khôn vì cùng thuộc Thổ ; tỳ tạo ra cốt khí mà Khôn ( ) tác thành
vật.
6 . Mật tượng Chấn vì cùng thuộc Mộc ; mật xuất
phát quyết đoán mà Chấn ( ) là sấm động.
7 . VỊ tượng ấn vì cùng thuộc Thổ; bao tử chứa thức
ăn, mà Cấn ( ) là núi chứa quặng mõ.
8. RUỘT GIÀ tượng Đoài vì cùng thuộc Kim; ruột già
chứa phẩn mà Đoài ( ) là đầm chứa bùn lầy.
Theo luật công thông của học thuyết "Thiên
Nhân hợp nhất". Thái cực tương đương với đơn điền (dưới rốn hay thốn) là
trọng tâm sinh mạng, nơi hội tụ năng lượng và chuyển hóa. Luồng khí năng lượng
ấy, hành giả luyện khí gọi là đơn (thuốc).
Lưỡng nghi phân thân thể con người trên dưới trước
sau, phải trái thành ba phương vị vật thể tử tính sinh mạng lớn : đứng thẳng,
dọc ngang lập thành hệ tọa độ ba chiều của nhân thể, năng lượng cơ thể con
người theo đó vận hành không ngừng nghỉ.
Tứ tượng chỉ các mặt thân thể. Tất cả mặt từ rốn
trở lên tiếp với trời, mặt từ rốn trở xuống liền với đất, theo TiênThiên Bát
quái lấy 2 quẻ Càn Khôn trên dưới biểu thị trời đất, chiều ngang trái phải Khảm
Ly biểu thị nước lửa.
Trước sau là chiều dọc với 2 quẻ Cấn Đoài biểu thị
núi đầm không khí. Trong ngoài là Cấn Tốn biểu tượng sấm gió nỗi lo toan.
Sanh mạng con người có ba điểm :tinh, khí,
thần.Tinh là hình thể sanh mạng. Khí là năng lượng sanh mạng vận động. Thần là
cơ cấu điều tiết khiến cho âm dương trong người được thăng bằng.
Thế nên, Đức Chí Tôn chủ yếu dạy luyện khí. Luyện
khí chủ yếu là điều thần, giữ gìn bên trong thân thể là điều quan trọng nhất.
Thần là cái ngự trị hoạt động sống khử trừ hết thảy tạp niệm "tâm viên ý
mã", mà giữ ý tâm tại đơn điền (dưới rốn ba thốn) nên luyện khí, còn gọi
là luyện đơn.
Hành giả luyện khí lấy hội âm (dưới âm khiếu) vì
âmlà nơi bắt đầu khơi động mạch, là lò luyện đơn. Đơn điều là cái đỉnh (vạc có
ba chân biểu thị tam bửu) giống như nửa cái nồi , nên cổ thư có câu : "nửa
cái nồi nấu Càn Khôn ,một hạt gạo (đơn) bao trời đất" (Bán liên oa chữ Càn
Khôn, nhất lập mễ bao thiên địa ).
Tinh, khí, thần là thuốc luyện đơn trong cái đỉnh
đó.Hành giả làm thế nào để được tam bửu vào đỉnh.Tinh mặt trời là động lực đầu
tiên của vạn vật sinh trưởng, nên Chu Dịch biểu tượng bằng quẻ LY, y học gọi là
tâm hỏa, là nguồn gốc của thần, người xưa ví như gái đẹp.
Tinh mặt trăng là thể để vạn vật dựa vào, nên Chu
Dịch biểu tượng bằng chữ Khảm, y học gọi là thận thủy, là nguồn gốc của tinh,
người xưa ví như đứa trẻ. Thận thủy theo can mộc, thăng lên về bên trái. Tâm
hỏa theo phế Kim hạ xuống về bên phải, gặp nhau ở tỳ ngay chính giữa. Tỳ thổ
đất là mẹ của vạn vật, nên người xưa ví như bà hoàng. Đứa trẻ, người con gái
đẹp lấy bà hoàng làm môi giới, biểu tượng thủy hỏa giao nhau, hai quẻ Khảm
(trên) Ly (dưới) gọi là Ký tế, đưa tam bửu vào đỉnh.
Thuốc tam bửu sau khi vào đỉnh, trước dùng võ hỏa
nấu tức dùng ý niệm đưa hơi thở từ từ vào đơn điền (ruộng cửa thuốc). Kế đó
dùng văn hỏa ôn dưỡng theo âm khơi mạch vào đơn điền , mạch nhâm vừa mở thì các
mạch khác cũng điều mở, khí đến vĩ lư qua giáp tích lên ngọc chấm tớ Nê hoàn.
Khi luyện thở, mặt hướng về sao Bắc Đẩu vì sao Bắc
Đầu là cái gậy chỉ huy thiên thể vận hành. Cơ thể con người cũng ứng với sao
Bắc Đẩu nên lấy sao đó làm thần. Muốn ý niệm tập trung thì ý phải nương theo
hơi thở. Nếu để ý vu vơ sản sinh thì tâm hỏa thịnh, còn để ý niệm phân tán thì
thận thủy hà. Lúc đó , hành giả nên ngưng luyện đơn. Theo bà Bát Nương dạy tịnh
luyện của cơ Phổ Độ rất tiến bộ rộng rải "Phải tìm cho được cái tịnh trong
cái động" và "Muốn tịnh luyện lúc nào chẳng được" (Thượng Phẩm
CQC,Luật Tam Thể, trang 168)
- Đại thiên địa, Tiểu thiên địa:
Theo thuyết "Thiên Nhơn hiệp nhứt", con
người là một ảnh hình thu nhỏ của Càn Khôn vũ trụ. Quan hệ giữa thiên nhiên và
con người có tính chất đồng dạngvà hợp nhất. Thế nên, ta chỉ cần quan sát bầu
trời với những vì sao mà khi một trẻ sơ sinh mới ra đời đã chịu ảnh hưởng sâu
xa nên có thể qua tinh tú đoán biết được số phận và tương lai của con người là
vậy.
Trong Kinh Dịch, lý thuyết ngũ hành tương quan với
nhân thể từ đi đứng, cử chỉ, lời nói, gương mặt, hộp sọ,…đều chứa đựng các
thông tin của quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trong nhân tướng học, khuôn mặt là yếu tố quan
trọng nhất. Khuôn mặt con người sánh như bầu trời mà mặt trời là nhãn cầu trái,
mặt trăng là nhãn cầu phải (tức lưỡng quang chủ thể), các vì sao là những nốt
ruồi và lông mày tượng trưng cho mây.
Năm bộ phận trên khuôn mặt tương ứng với ngũ hành
:1) Trán và lông mày là hỏa thuộc tâm. 2) Đôi mắt là mộc thuộc can ; 3) Hai mũi
là kim thuộc phế; 4) Cái miệng là thổ thuộc tỳ; hai tai là thủy thuộc thận. Còn
kích thước hình dánh của hộp sọ nói lên tri thức của một người.
Khuôn mặt của một người tác thành năm loại: Tròn,
Vuông, xoan, tam giác, chữ nhật và tương ứng với một số tính cách nhất định.
Dưới đây là so sánh hình thái giữa trời và người :
ÐẠI
THIÊN ĐỊA
* Trời : tròn
* Đất : vuông
* Tứ thời (Xuân, hạ, Thu, Đông)
* Ngũ hành (Kim mộc thủy hỏa thổ)
* 24 tiết ngoài bát tiết thêm 16 tiết (1)
* Bát tiết (lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập
thu, thu phân, lập đông, đông chí)
* Cửu thiên
* 12 tháng
* Sông ngòi
* Lục khí (phong hàn thử thấp lương táo ôn nhiệt)
* 360 ngày của 1 năm
TIỂU
THIÊN ĐỊA
* Đầu người : Tròn (không tròn vo)
* Chân : vuông (không hẳn vuông)
* Tứ chi
* Ngũ tạng, ngũ quan
* 24 đốt xương sống
* Bát môn: phi môn (môi), hộ môn (răng), hấp môn
(khí quản), phún môn (miệng trên bao tử), u môn (miệng đưới bt), lan môn (tiếp
giao giữa ruột già,non), phách môn (lỗ đít), khí môn (lỗ tiểu)
* Cửu khiếu (xem dưới)
* 12 đốt khí quản
* Huyết mạch
* Lục phủ : vị, đởm, tiểu trường, đại trường, bàng
quang, tam tiêu.
* 360 đốt xương
* CỬU KHIẾU của con người được Đức Chí Tôn xếp đặt
cóhình quẻ THÁI (Địa Thiên Thái : quẻ Khôn chồng lên quẻ Càn,)
CHƯƠNG II
TU
TỊNH
1 . Tân pháp Tu Tịnh
Ngày 18-12 Aát Sửu (31-01-1926), Đức Chí Tôn dạy
Ngài Phạm Công Tắc nghĩ việc đời mà lo hành Đạo : "Tắc ! có tuân mạng lịnh
thầy chăng ? Con sắp đặt hoàn thành rồi thối chức? ". (1)
Ngày 14-01-1926 (01-12-Aát Sửu), Đức Chí Tôn dạy
hai vị Cư Tắc về nội giáo cư tâm truyền hay thuyền định như sau :
Thành
tâm niệm phật
Tịnh,Tịnh,Tịnh,Tỉnh,Tỉnh
Tịnh
là VÔ NHỨT VẬT.
Thành
tâm hành Đạo (pháp)
Bà Thất Nương khuyến khích: "Em xin hai anh
gắng công học Đạo, dưỡng luyện tinh thần, ắt ngày sau đắc Đạo. Coi bửu vị làm
trọng đừng ham luyến hồng trần mà phải đọa "
Chỉ bốn câu đã nêu rõ cách tịnh luyện theo Đạo mới
: Tâm thiện niệm, tĩnh lặng, vô nhứt vật và tự hành pháp.
(1) Xem chương VI, mục 1 và 6
Câu 1 - Tâm thiện niệm : sau khi dâng tam bửu trong Tứ thời thì niệm danh Thầy
(Phật trên các Phật) là đủ. Vì danh Thầy có đủ tam giáo.(1)
Câu 2 - Tĩnh lặng : Tĩnh là tâm bên ngoài không xao
động, bên trong chẳng so hơn tính thiệt, tức bên trong bên ngoài chẳng loạn là
tịnh. Khi tịnh giác quan ta vẫn nghe vẫn thấy nhưng phải tỉnh táo để tâm khỏi
bị ngoại vật lôi cuốn, mà nghe như không nghe, thấy như không thấy. Nếu tịnh mà
tâm viên ý mã là sai.
Câu 3 - Tâm vô nhứt vật : Nguyên văn câu là lục tổ
Huệ Năng được truyền y bát là " bản lai vô nhất vật ". Ngài nói
"Tâm vốn là vọng dấy khỏi phân biệt là hư giả, nên tịnh chỉ cần không vọng
là đủ: không vọng thì động tự lắng xuống, tâm an nhiên, tự tánh thanh tịnh
".
Câu 4 - Tự hành pháp : Tu chơn là tự tịnh luyện một
mình sau khi được chơn sư chỉ dẫn. Hành pháp tự tu, tự thành biết được tánh
giác thường hằng là sắp có ấn chứng thiêng liêng .
Ngày 16-01-1926, Qúi cao giáng đàn và cho hai vị Cư
Tắc biết :"Đã từ lâu không dám nói vì em còn phải tu như hai anh vậy.
Không dám nói vì hai anh có thầy, em không dám lộng quyền ". Rồi Ngài Qúi
Cao tặng hai Ngài bài thơ khuyến tu :
Tu
như cỏ úa gặp mù sương,
Đạo
vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp
muối dưa, muôn kiếp hưởng,
Đôi
năm mệt nhọc, vạn năm bường.
Có
thần nuôi nấng thần càng mạnh,
Luyện
khí thông thương khí mới tường
Nhập
thể lòng trong gìn tinh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.
Ngày 27-01-1926,khai đàn tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư,
Thất Nương giáng dạy tam vị thiên sứ :
"Em xin quí anh coi lại đời là thế nào? Bông
phù dung sớm còn tối mất, còn hơn kiếp con người. Vì nó sống ngắn ngủi nhường
ấy nhưng mà lúc sống còn có cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để thụ khổ mà
thôi. Chung qui, dù sống trăm tuổi chưa một điều đắc chí. Chết là hết. Cai đời
tạm này sách phật gọi là khổ hải. Em xin quí anh coi sự trường sanh của mình
làm trọng …Đã vào đường chánh, cứ do đó mà bước tới hoài thì trở về cựu vị
đăng".
Ngài Lê Văn Trung còn nghi ngờ nên hỏi Thất Nương :" Có duyên luyện Đạo cùng chăng ? Xin
em mách giùm! ".
Bà Thất Nương đáp: "Đã gặp Đạo đức tức có duyên phần. Rán tu luyện, siêng thì Thánh,
biếng thì đọa. Liệu lấy răn mình ".
Đức Lý Thái Bạch cảm ứng khát vọng của Ngài Lê Văn
Trung giáng bộ về tâm pháp như sau:
Có
công phải biết gắng nên công (PHU),
Tu
tánh đã song tới luyện lòng (TÂM),
Kinh
sách đầy đầu chưa thoát tục ,
Đơn
tâm khó (THIỀN) định ấy chi mong?
Hôm nay, Đức Chí Tôn dạy
thêm nhóm phổ độ :
Một
ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên
Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện
đặng tính không muôn tuổi thọ,
Cửa
thiên xuất nhập cũng như nhà.
Cương
tỏa đương thời đã giải vây,
Đừng
mơ oan nghiệt một đời này.
Hữu
duuyên độ thấu nguồn chơn đạo,
Tu
niệm khuyên bền chí chớ lay.
Những lời dạy về tân pháp tu chơn của Đấng nêu trên
đã đánh tan dư luân cho rằng Tòa Thánh Tây Ninh không có tịnh luyện. Ta có thể
kể các tịnh thất: Thảo Xá Hiền Cung (1927), Trí Huệ Cung (1950), Trí Giác Cung
(1948), Vạn Pháp Cung (1963), rất nhiều vị tu thành chánh quả. Sở dĩ phần phổ
độ lớn hơn phần vô vi là theo Thánh ý "đại ân xá", phải độ dẫn nhân
sanh trước, có nhân sanh mới có người tịnh luyện, lần bước vào thời Kỳ Đạo tâm
như Đức Cao Đài đã tiền khải.
Nếu xét về bình diện lịch sử, tôn giáo Cao Đài là
Đạo trong nước (Quốc Đạo), nên đã mang đậm sắc truyền thống Việt Nam về y phục,
về nhạc Lễ, nhất là Tam Giáo đồng nguyên của thời đại Lý Trần.
"Tinh
thần dân tộc phát triển trong thế kỷ 13 đã góp phần hình thành tư tưởng Thiền
Việt Nam biến chuyển thành Thiền Trúc Lâm ". Tuệ Trung Thượng Sĩ phản
đối tọa thiền. "Tư tưởng thân dân thời Trần là muốn giảm nhẹ sự đau khổ
của con người trong đời sống thực. Thiền Trúc Lâm tô đậm nét nhân ái, không dẫn
đến yếm thế, xa lánh cuộc đời." Đó là thiền nhập thế, điểm rất nổibật của
Thiền Trúc Lâm ".(1)
Bài tứ tuyệt trên do Đức Chí Tôn ban cho phản ảnh
đầy đủ truyền thống Thiền Trúc Lâm . Đức Chí Tôn còn nhấn mạnh "Tiên phật
nơi mình chẳng ở xa "
Như vậy Thiền trong Đạo Cao Đài là Thiền Nhập Thế,
Thiền cơ phổ độ, Nếu cưỡng chế ra ngoài Thiền Nhập Thế có nghĩa là ra ngoài
truyền thống và bản sắc văn hòa dân tộc.
Vả lại trong LUẬT TAM THỂ, bà Bát Nương giảng dạy
khá rỏ ràng về phép tịnh như vầy :"Đừng lầm tưởng là phải yên tịnh một nơi
mới thâu nên kết quả. Mấy em tập thể nào mà tầm cho được cái tịnh ở trong cái
động thì mới nên đó, bằng chẳng vậy quỉ mị sẽ vùa theo nơi an tịnh riêng mình.
Nói rõ cho dể hiểu hơn là chơn thần muốn tịnh lúc nào cũng được, chẳng nệ đông
tiếng ồn ào, việc làm bề bộn ". Rõ ràng là Bát Nương dạy nhân sanh về Thiên
Thập Thế.
- -oOo- -
2 .
Đức Hộ Pháp nhập tịnh thất.
Sau đó Đức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh đôn đốc xây cất
các tịnh thất. Ngày 15 tháng 12 năm Canh Dần, Đức Ngài làm lễ trấn thần Trí Huệ
Cung, trong có Thiên Hỉ Động là ngôi tịnh thất của Nữ Phái. Đó là ngày lễ lớn,
các đạo hữu phải đi vòng xuống Thiên Thọ Lộ qua Đoạn Trần Kiều mới vào Trí Huệ
Cung tham dự lễ. Đó là bí pháp phàm qui Thánh, nhưng rủi thay, các thợ đắp Vân
Trung Tử cỡi hạc bay về chợ Thiên Vương (tức chợ Trường Lưu) lại biểu tượng
Thánh lâm phàm !
Tịnh thất của Nam Phái là Vạn Pháp Cung trong có
Nhơn Hoàng đang tọa ở sân đình Núi Bà. Đức Phạm Hộ Pháp giảng về Trí Huệ Cung
như sau:
"Trí Huệ Cung là cơ quan tận độ chúng sanh. Nó
không phải của ta, mà của toàn thể nhơn loại. Bởi nó tượng trưng hình ảnh Chí
Linh của Đức Chí Tôn tại thế. Nó không cho phép phân biệt đảng phái, tôn giáo
hay nòi giống. Cửa Thiên hỉ động là của Thiêng Liêng Hằng sống của toàn thể các
chơn linh ".
"Bần đạo cả tiếng kêu gọi con cái Đức Chí Tôn,
như là Cửu Nhị Ức nguyên nhơn hãy tỉnh mộng, ngó lại Trí Huệ Cung, phải vào nơi
cửa này (Tịnh Thất) mới đạt Đạo đặng mà thôi .Đạt cơ giải thoát mới nhập vào
của Thiêng Liêng Hằng Sống, mà Đức Chí Tôn đã dựng riêng dành cho mọi người
".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét