Chân Dung Quyền Giao Tông Lê Văn Trung - 4 / 5 (GS Trần Văn Rạng)


Đạo hữu Trần Đạo Quang xử phải ăn năn sám hối thọ tội cùng chúng sanh. Hạn một tháng, kể từ ngày giao án, phải về Toà Thánh. Nếu chẳng tuân y thì phạm tội bất tuân luật đạo, kỳ toà tới phải bị án nặng hơn.

Vâng lịnh Ngọc Chánh phối sư quyền Ngọc Đầu Sư kiêm Chủ trưởng Chức sắc nam phái.
Đầu Họ Tỉnh"

PHỤ CHÚ 7
Châu tri số 1

ĐAÏI ĐAÏO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
( Đệ bát niên)

CHÂU TRI I
1 - Cho chư Thiên phong
2 - Chư vị Đầu Họ Đạo
3 - Chư vị Chủ Thánh Thất
4 - và chư vị đạo hữu lưỡng phái
Chư Hiền huynh, Hiền tỉ, Hiền muội ,
Chiếu theo Thánh giáo của Đức Chí Tôn ngày 14 Février 1933 chiếu theo Thánh giáo của Đức Lý Giáo Tông ngày ler Janvier 1933 và ngày 10 Mars 1933, chiếu theo những điều của Thượng Hội quyết định ngày 25 Décember 1932, việc chính trị của nền đạo đã sắp đặt lại từ 12 Mars 1933 (17 tháng hai Qúi Dậu) như sau này :

Điều thứ nhứt : Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt còn cầm quyền Giáo Tông mà thôi.

Điều thứ nhì : Trong lúc Chưởng pháp chưa có chính vị thi hành quyền Chưởng pháp giao lại cho Hiệp Thiên Đài cầm. Ba vị Thời quân cầm quyền Chưỡng pháp là vị Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, vị Bảo Thế Lê Thiện Phước và vị Hiến đạo Phạm Văn Tươi.

Điều thứ ba : Ba vị Chánh phối sư Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh còn cầm quyền Quyền Đầu Sư mà thôi.

Điều thứ tư : Trong lúc Chánh Phối sư chưa có chánh vị thì quyền hành giao cho Hiệp Thiên Đài cầm. Ba vị Thời quân cầm quyền Chánh phối sư là vị Khai pháp Trần Duy Nghĩa, vị Khai đạo Phạm Tấn Đãi và vị Khai thế Thái Văn Thâu.

Vị Khai pháp cầm quyền Ngọc Chánh phối sư.
Vị Khai đạo cầm quyền Thái Chánh phối sư.
Vị Khai thế cầm quyền Thượng Chánh phối sư.
Điều thứ năm : Ba vị Chánh phối sư tân được quyền lập Nội chánh để cầm quyền Cửu viện tại Toà Thánh.

Toà Nội Chánh chia ra như sau này :
PHÁI THÁI
1) Lương viện
- Quản lý : Ô. Phối sư Thượng Tông Thanh
- Phó quản lý : Giáo hữu Thượng Hộ Thanh

2) Hộ viện
- Quản lý : Giáo hữu Thái Như Thanh
- Phó quản ly: Giáo hữu Thái Bộ Thanh
- Phó quản lý: Lễ sanh Thượng Chất Thanh

3) Công viện
- Quản lý : Giáo hữu Thái Gấm Thanh
- Phó quản lý : Lễ sanh Thượng Quờn Thanh

PHÁI THƯỢNG
1) Nội viện
- Quản ly: Giáo sư Thượng Latapie Thanh
- Phó quản lý : Giáo hữu Thượng Trí Thanh

2) Học viện
- Quản lý : Giáo sư Thượng Thành Thanh
và Phước viện
- Phó quản lý : Giáo hữu Thượng Sáng Thanh

3) Nông viện
- Quản lý: Giáo hữu Ngọc Bến Thanh
- Phó quản lý : Giáo hữu Thượng Đưa Thanh

PHÁI NGỌC

1) Lại viện
- Quản lý: Giáo sư Thượng Bảy Thanh
- Phó quản lý : Giáo hữu Thượng Tuy Thanh
- Phó quản lý : Giáo hữu Thượng Thiện Thanh
- Phó quản lý ; Giáo hữu Thượng Aùo Thanh

2) Lễ viện
- Quản lý : Giáo sư Ngọc Trọng Thanh
- Phó quản lý : Giáo hữu Thượng Mía Thanh
- Phó quản lý : Giáo hữu Thượng Lai Thanh
3) Hoà viện
- Quản lý : Giáo sư Thượng Liêng Thanh
- Phó quản lý : Giáo hữu Thượng Tại Thanh
- Phó quản lý : Lễ sanh Thượng Tài Thanh

Lễ đăng điện và ban quyền cho Quyền Giáo Tông, Quyền Đầu sư, Chánh phối sư và Nội chánh đã thiết hành ngày 12 mars 1933 tại Toà Thánh nhằm 17 tháng Hai Qúi Dậu.

Ba vị Chánh phối sư và Nội chánh đã bắt đầu hành chánh kể từ ngày 26 Mars 1933 nhằm ngày 1 tháng 3 năm Quí Dậu là ngày ba vị Cựu Chánh Phối sư thăng lên Quyền Đầu Sư đã giao trách nhậm trọng cho ba Chánh phối sư tân là ba vị Khai đạo, Khai pháp và Khai thế.

Chiếu theo Đạo Nghị Định thứ nhì, thứ ba và thứ tư của Đức Lý Giáo Tông thì mỗi việc chi thuộc về quyền chính trị đều giao cho Chánh Phối Sư như là quyền thay mặt cho toàn đạo mà giao thông cùng Chánh phủ và cả tín đồ, quyền giao dục nhơn sanh, quyền xem xét các nơi, chăm nom đạo hữu, quyền trị Chức sắc phần Đạo và phần Đời, buộc chức sắc làm y phận sự, quyền tạp tụng, quyền điều hành sự phổ độ, tài liệu của Đạo, quyền chủ trưởng Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh ..v..v..

Vậy chúng tôi xin khuyên chư Thiên phong phải hết lòng vì đạo giúp cho ba vị và nội chánh có đủ sức thi hành cả chương trình hành đạo. Chương trình này có in theo sau đây cho chư chức sắc và chư đạo hữu lưỡng phái biết.

Từ đây các việc truyền bá trong đạo phải có tờ của ba vị Chánh Phối sư tân ký tên hay là bàn Nội Chánh mặt có ba vị ký. Ai không được lịnh của ba vị mà tự chuyên đi giao thông với chư chức sắc và chư Đạo hữu là người muốn sanh việc rối loạn làm hư nền đạo.

Hiện thời, Hội Thánh rất cần dùng việc hiến công quả, chư đạo hữu có tài nghệ chi cũng nên thừa lúc này đem ra hiến cho đạo nhờ vì nội năm nay phải lo cất Bát quái đài.

Năm rồi Thái và Ngọc Chánh phối sư có ra Châu Tri số 39 ngày 6-1-1932 xin chư vị Chức sắc Đầu Họ Đạo Chủ Thánh Thất cho trong đạo hữu hay ai có lòng bác ái hộ vật thực đến Toà Thánh hỉ cúng đặng đủ nuôi đạo hữu hiến thân làm công quả cho nền đạo.

Năm nay Toà Thánh phải tạo tác nhiều việc lớn lao nên cũng xin chư đạo hữu hết lòng lo việc hộ vật thực như vậy, như lúa gạo, nếp, bắp, khoai, muối ..v..v. cùng là vật dụng như nón lá, ky đệm, lá cần đóp, lá chằm, chiếu ..v…v..

Các vật thực và các vật dụng hộ về Toà Thánh đều có Chức sắc Thiên phong thâu nạp và chứng kiến công ơn của chư đạo hữu hỷ cúng cho đạo.

Ngoài ra, năm nay, Hội Thánh còn phải lo việc phổ độ ngoại quốc,việc hiệp nhất trong năm Qúy Dậu vì cả thế giới đều trông mong hai chữ Hoà bình.

Năm nay là năm lập thành đại công quả, xin chư Chức sắc và chư đạo hữu lưỡng phái tận tâm chung lo chấn hưng nền đạo cho hoàn tất, y theo Thánh giáo của Đức Chí Tôn hồi năm Bính Dần.
Toà Thánh (Tây Ninh) ngày 1 Avril 1933
( ngày 7 tháng 3 năm QÚi Dậu)
Quyền Giáo Tông
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Hộ pháp
PHAÏM CÔNG TẮC

LỜI PHỤ : Sau khi giao quyền hành Chánh phối sư cho Hiệp Thiên Đài, Quyền Giáo Tông có mời ba vị Chánh phối sư và Nội Chánh hiệp về Toà Thánh đặng lập chương trình hành đạo.

Trong lúc hội đặng lập chương trình, Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp có đến dự thính. Quyền Giáo Tông cũng có mời ba vị Quyền Đầu Sư hoặc đến dự kiến, hoặc chỉ vẽ điều chi giúp cho nên việc (thơ số 34 ngày 4 Mars 1933), Quyền Thượng Đầu sư Thượng Tương Thanh có đến dự hội một lần.

Chương trình hành đạo đã lập thành, lẽ thì phải đem ra cho Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phê chuẩn, nhưng vì các khoản nghị định trong chương trình đều không trái Pháp Chánh Truyền, Tân luật và Đạo Nghị định, và nhứt là cần phải thi hành lập tức cho nên chúng tôi nhứt định dụng quyền Chí Tôn giúp cho ba vị Chánh Phối Sư đủ quyền thi hành chương trình hành đạo ấy khỏi đem ra ba hội phê chuẩn.

Quyền Chí Tôn của Giáo Tông và Hộ Pháp do nơi Thánh ngôn của Đức Chí Tôn ngày 23 Dccembre 1931 ( có in theo đây) mà có.

Toà Thánh (Tây Ninh) ngày 1 Avril 1933
( ngày 5 tháng 3 năm Qúi Dậu)
Quyền Giáo Tông
THƯỢNG TRUNG NHỰT
( ấn ký )
Hộ pháp
PHAÏMCÔNGTẮC
(ấn ký)
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
( Đệ bát niên)

Kính cùng chư Huynh trưởng và chư Đạo tỷ Thiên phong chư Chức sắc và chư đạo hữu lưỡng phái.
Chư Hiền Huynh, Chư Hiền Tỷ ;
Bốn Chương trình hành đạo in theo sau đây là của chúng tôi hiệp với Hội Thánh Cửu Trùng Đài đặng lập thành và đã có đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp phê chuẩn.

Trong lúc chúng tôi và Nội Chánh bắt đầu hành chánh thì mỗi việc chi trong đạo đều phải quan sát lại kỹ lưỡng hầu tìm phương nâng cao phẩm giá nền Chánh giáo của đức Từ Bi và giúp cho nhơn sanh dễ bề tu tiến.

Vậy chúng tôi có mấy lời Tâm huyết xin chư Huynh Trưởng, Đạo Tỷ và chư đạo hữu lưỡng phái biết và xin hết lòng vì đạo giúp cho chúng tôi được đủ thế sắp đặt các việc. Chúng tôi tưởng ai ai cũng bằng lòng và cũng cho các điều kể trong chương trình của chúng tôi hiến dâng cho thành tựu.
Toà Thánh, ngày 7 tháng 3 - Qúi Dậu (1 Avril 1933)
Thái Chánh Phối Sư
PHAÏM TẤN ĐÃI
( ấn ký)
Thượng Chánh Phối Sư
THÁI VĂN THÂU
( ấn ký)

Ngọc Chánh Phối Sư
TRẦN DUY NGHĨA
( ấn ký)
NỘI CHÁNH
Phối sư Thượng Tông Thanh
Giáo sư Thượng Bảy Thanh
Giáo sư Thượng Thành Thanh
Giáo sư Thượng Latapie Thanh
Giáo sư Thượng Liêng Thanh
Giáo sư Ngọc Trọng Thanh
Giáo hữu Thái Gấm Thanh
Giáo hữu Thái Như Thanh
Giáo hữu Thái Bộ Thanh
Giáo hữu Thượng Thiện Thanh
Giáo hữu ThượngTại Thanh
Giáo hữu Thượng Hộ Thanh
Giáo hữu Thượng Sáng Thanh
Giáo hữu Thượng Trí Thanh
Giáo hữu Thượng Tuy Thanh
Giáo hữu Thượng Đứa Thanh
Giáo hữu Thượng Mía Thanh
Giáo hữu Thượng Lai Thanh
Giáo hữu Thượng Áo Thanh
Giáo hữu Ngọc Bến Thanh
Giáo hữu Ngọc Nên Thanh
Lễ sanh Thượng Tài Thanh
Lễ sanh Thượng Quân Thanh
Lễ sanh Thượng Chất Thanh
PHỤ CHÚ 8
Chương Trình Hành Đạo
PHÁI THÁI
1 - Lập Nội luật Hội Thánh.
Chú giải : Quyền Hành Chánh tuy giao cho ba vị Chánh phối sư chớ mọi việc chi thi hành đều phải do theo chương trình hành đạo của Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phê chuẩn. Quyền của ba hội là quyền Vạn Linh. Việc nào đã có quyền Vạn Linh định đoạt thì quyền Chí Tôn của quyền của Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một phải y theo. Quyền Chí Tôn lại quyết đoán khi nào có sự phản khắc trong quyền Vạn Linh nghĩa là khi nào ba hội không đồng ý kiến Chiếu theo Đạo Nghị định thứ tư điều thứ ba thì Hội Thánh phải dưới quyền chủ trưởng của Thái Chánh phối sư và trách nhậm là lo về sự phổ độ việc hành đạo tha phương, về tài liệu của đạo, lương hướng cho chức sắc Thiên phong, về tài chánh và nền chánh trị của đạo.

Hội Thánh phải tìm phương hay đặng tu bổ và nâng nền lý tài của đạo, phải tìm phương sanh lợi cho đạo, tóm lại phải lo cho sự sinh hoạt của toàn đạo đặng vững chắc về mặt tài chánh tức là lo cho sự sinh hoạt của toàn đạo về mặt phổ độ cũng đặng mạnh mẽ. Hội Thánh đã có phương sanh lợi nghĩa là có bên thâu thì bên xuất cũng liệu phương giúp ích cho đạo, phải chăm lo quan sát không cho xa xỉ của đạo và phải giúp cho toàn đạo hưởng đặng các cơ sở của đạo về phần hữu hình.
2 - Thâu nạp các của cải tài chánh làm một bổn nguyên về của đạo cả thảy.
Chú giải : Của cải, tài chánh của đạo như đất, ruộng, nhà , ghe, xe trâu bò ngựa .v…v.. đều phải đem vô bộ sổ rành rẽ, thâu làm một bổn nguyên của đạo. Các tàn sản ấy phải dưới quyền của ban Ủy viên thường vụ. Ban cai quản này phải biết phương dụng các của ấy tức là sanh lợi cho chúng sanh nhờ, chớ không nên thâu mà làm tiêu lụn của đạo. Phải nạp tờ phúc mỗi tháng, ba tháng và mỗi năm.
3 - Chỉnh đốn tu bổ các nhà cửa trong Thánh địa, cất Toà Thánh, lo cho Tiểu Thánh Thất các nơi phải y một kiểu.
4 - Nền lý tài lập tư bản, phát lương hướng cho các Chức sắc Thiên phong nam nữ.
Chú giải : Mỗi việc chỉ có thu xuất thì phải cử một bàn Uỷ viên lo lắng và quan sát sổ sách và nạp tờ phúc mỗi tháng, ba tháng và mỗi năm.
5 - Liệu thế giúp sức cho Hội Thánh ngoại giao truyền bá Chơn đạo ra ngoại quốc.
Chú giải : Việc phổ độ tha phương chẳng phải nội vùng Đông Pháp này là đủ mà là cả toàn cầu, đâu đâu Hội Thánh cũng phải đến gieo truyền mối Đạo Trời, chủ nghĩa tối cao của Đại Đạo, chẳng những là hiệp ngũ chi, qui Tam giáo mà thôi mà phải làm thế nào cho dầu các bậc Đế Vương ngoài thế cũng phải bái phục, phải tùng đạo, phải đồ theo cả cơ thể của đạo, phải nhờ đạo mới mong trị thiên hạ đặng. Vậy mới gọi là Hiệp nhứt, vậy mới kêu là Đại Đạo. Thánh ngôn của đức Lý Giáo Tông ngày 29-12-1932 lại nói rõ như vầy : " Thiên ý đã định vậy, bất kỳ nơi nào hễ có dấu chân người Việt Nam đến thì đạo mới thành được". Trong buổi Hội Thánh đang lo sắp đặt nội dung của Đạo thì Hội Thánh Ngoại giao đã khởi lập, hầu phổ hoá các sắc dân khác. Trên nhờ các đấng Thiêng Liêng chỉ giáo như đức Nguyệt Tâm chơn nhơn, Bát Nương và Lục Nương Diêu Trì Cung, dưới nhờ Chức sắc Hội Thánh ngoại giao hết lòng tuân y mạng lịnh, cho nên khắp toàn cầu đều nghe danh thể Đại Đạo Tam Kỳ. Hiện nay, ở kinh đô nước Pháp là Paris đã có người Pháp thọ Thiên sắc đặng lo phổ độ người Pháp và lập thành Thánh Thất. Rồi đây, Hội Thánh Ngoại giao phải liệu phương phổ độ lần qua các nước khác nữa.
6 - Cất học đường.
7 - Sắp đặt việc ăn ở và làm việc tại Thánh địa, việc ăn uống của phái nam và pháp nữ.p            8 - Không cho ở trong Thánh địa mà không có phận sự và không có giấy phép của Giáo Tông hay là người thay mặt cho ngài.
9 - Không cho ở trong làng Đạo mà không có giấy phép của Giáo Tông hay là người thay mặt cho ngài.
10 - Không cho cất nhà cửa hay lập cái chi mà không có giấy phép của Giáo Tông hay là người thay cho ngài.
11 - Rào ranh Thánh địa.
12 - Cất giếng nước. Sắp đặt sở trục trược.
13 - Công quả về việc moi sạn.
14 - Lò gạch.
15 - Cất nhà cho Thiên phng, Chức sắc.

PHÁI THƯỢNG

1 - Xem xét Thánh ngôn những điều cần ích của Đại Từ Phụ và đức Lý Giáo Tông đã dạy từ thử mà chưa thi hành. Nếu như có những điều trọng hệ cần ích phải thi thố tức cấp thì Hiệp Thiên Đài làm tờ phúc đem ra ba hội đặng lập luận ban hành liền.
Chú giải : Phải cử một ban kiểm dượt Thánh ngôn. Ban kiểm dượt này sẽ dưới quyền chủ trưởng của một vị Chưởng pháp. Còn về thể lệ chấp cơ và ban hành Thánh ngôn thì sẽ thi hành y theo Châu Tri số 42 ngày 1-2-1931 của ông Cựu Chánh Phối sư Thượng Tương Thanh nói về chương trình hành đạo của Hiệp Thiên Đài.
2 - Bỏ bớt các Thánh Thất không hữu dụng và không có phép của Chánh phủ để làm nơi phước thiện hay là nơi tiểu tổ giúp lương.
3 - Lo cho Tiểu Thánh Thất các nơi, cúng kiến y một kiểu và luật lệ cũng vậy.
Chú giải : Lễ nghi đã có phái Ngọc lập cho thì cứ do theo luật lệ ấy mà buộc các nơi hành lễ một kiểu.
4 - Định trách nhiệm đặc biệt của Toà Thánh, các Thánh Thất và Hội Thánh Ngoại giao về việc tùng quyền hành đạo.
Chú giải : Toà Thánh thì có nội luật riêng. Còn các Thánh Thất thì phải tức tốc lập Nội luật phân quyền cho rành nhứt là về quyền đặc biệt của ban Cai quản Chủ Thánh Thất và Đầu Họ đạo. Trước khi cho cất Thánh Thất phải quan sát buộc làm giấy tờ rành rẽ, hỏi làm thế nào có tiền cất ? rồi ai ở ? Chức sắc nào chịu ở ? Về sinh hoạt thế nào ? v..v… Đạo Nghị định thứ tư, điều thứ 7 có định để y như trước.
5-
- a) Lập báo chương đặng truyền bá tư tưởng đạo, lập Tàng thư viện.
- b) Lập ban kiểm dượt kinh sách đạo, không có Chưởng pháp phê chuẩn.
- c) Cử ban Ủy viên cai quản nhà in.
6 - Liệu phương giao thiệp cùng các Tôn giáo và các chi phái nghịch đạo, điều hoà cho khỏi chinh nghiêng nền đạo.
7 - Giao thông cùng Chánh phủ, minh tỏ những điều chơn thật của Đạo.
8 - Lập trách nhiệm cho ty giáo huấn, đầu đạo giáo hay là thế giáo cũng vậy.
9 - Nuôi dưỡng học sinh.
10 - Lập các sở vệ sinh.
11 - Lập Nội luật Hội Nhơn Sanh.

Chú giải : Chiếu theo đạo nghị định thứ tư, điều 4 thì Hội Nhơn Sanh ở dưới quyền chủ trưởng của Thượng Chánh Phối sư và trách nhậm là lo về phần giáo dục nhơn sanh tức là đời. Có đời mới có đạo mà có đạo mới nên đời thì phải liệu phương điều đình cho đời phải tùng đạo, dìu dắt cho đời thấy cả cơ thể tối cao tối trọng của đạo và biết giá trị của mình mà cầm quyền vạn linh cho chắc. Phải nâng đỡ tri thức tinh thần của nhơn sanh lên cao đặng hiểu cho toàn chơn lý hầu đủ phương kiềm chế sự hành động của Hội Thánh. Lập thế dìu độ chúng sanh vào cửa đạo và học phương kèm chế cho tín đồ để bước trên đường đạo và tuân y được các luật đạo. Lại nữa, đời có chính trị của đời thì cũng phải xây chuyển cơ đời cho hiệp cùng chơn tướng của Đạo.
12 - Khai phá Thánh địa.
PHÁI NGỌC

1 - Xin Quyền Giáo Tông giao các việc hành chánh từ thử đặng quan sát lại, nhứt là luật lịnh của ngài ra mà chưa thi hành.
2 - Chiếu theo các Đạo Nghị định, mời Chức sắc Thiên phong C.T.Đ và H.T.Đ phế đời hành đạo.
Chú giải : Vì chư chức sắc hiến thân trọn vẹn cho đạo sẽ được lương hướng y theo Đạo Nghị định thứ tư của đức Lý Giáo Tông cho nên phải xem xét cho kỹ vị nào hữu dụng cho đạo mời về, nhưng nếu đã được lịnh mời về thì buộc phải lo phế đời hành đạo, bằng không làm thì không kể vào Hội Thánh, không được dự vào chính trị của Đạo, y theo Đạo Nghị định thứ năm của đức Lý Giáo Tông. Mà hễ phế đời hành đạo rồi thì Hội Thánh phải châu cấp thê nhi. Số tiền châu cấp phải tuỳ theo bậc phẩm và nhứt là phải tuỳ theo số vợ con.
3 - Trừ bỏ những chức sắc tạm phong của Cửu Trùng Đài đã thuyên bố hành chánh các nơi.
Chú giải : Theo Tân luật, điều thứ ba thì phải chịu công cử như Giáo hữu muốn Giáo sư thì nhờ 3000 vị xúm nhau côngcử. Nhưng hiện thời số chức sắc chưa đủ thì phải cầu phong cách này : dầu trong hàng chức sắc hay trong hàng tín đồ cũng phải xem xét lại công cán và hạnh đức đem vào một bộ sổ cầu phong. Sổ ấy phải trình cho ba hội lựa và định bực phẩm. Có ba hội chịu rồi thì Giáo Tông và Hộ Pháp mới ra đạo Nghị định phong chức. Ngoài ra, theo luật đạo thì chức sắc phải lựa theo đẳng cấp mới được, như Lễ sanh phải lựa trong hàng Chánh Trị sự .
4 - Bổ các ban Trị sự thế quyền chức sắc Thiên phong đặng cầm quyền đạo các nơi.
5 - Định mỗi năm cả Chức sắc Thiên phong phảivề Toà Thánh mấy lần cho bớt việc tổn phí.
Chú giải : Mỗi năm, Chức sắc Thiên phong phải về Toà Thánh hai lần là ngày Đại lễ Đức Chí Tôn và ngày Khai đạo là ngày Rằm tháng 10. muốn cho bớt việc tổn phí nữa cho nên sẽ định lại ngày đại hội của Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh cho trúng với hai ngày trên đây.
6 - Trừ bỏ những điều Chức sắc Thiên phong Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài đã thật hành ra mặt thế mà trái pháp luật.
7 - Canh cải những sự hành động của C.T.Đ không phù hợp với Pháp Chánh Truyền và Tân luật.
8 - Định trách nhậm đặc biệt của C.T.Đ và H.T.Đ.
9 - Định trách nhậm đặc biệt của mỗi chức sắc C.T.Đ nam và nữ.
Chú giải : Việc hành chánh của Chức sắc các nơi phải lập thành một luật. Trách nhậm của các Hội Thánh ngoại giao cũng vậy. Luôn đây xin giải nghĩa sơ bốn chữ Hội Thánh Ngoại Giao. Phải đọc Hội Thánh Ngoại giao chớ không phải là ngoại giáo. Hội Thánh Ngoại giao là một cái hội của chư Thánh để giáo đạo ở ngoại quốc. Bậc phẩm và trách nhậm tuy phải tuân theo luật Đại-Đạo Tam-Kỳ-Phổ-Độ, hành chánh tuy hiện thời phải tùng quyền của Quyền Thái-Đầu-sư, nhưng cũng có phần đặc biệt là phải tùy theo tánh cách của người bổn xứ, tài liệu và vật liệu của người bổn xứ v.v…
10 - Chỉnh đốn các thức lệ cúng kiến.
Chú giải: Ngoài các thức lễ chỉnh đàn hành lễ phải cho y một kiểu mẫu, phải định thêm lễ nghi về quan hôn tang tế buộc các nơi phải tùng theo một luật lệ. Pháp giải oan, pháp Tắm thánh, v.v… cũng vậy. Về nhạc cũng phải chỉnh đốn nhứt là giọng đọc kinh của đồng nhi, phải phân biệt ba giọng ai, giọng xuân và đảo ngũ cung. Nơi đọc kinh có ảnh hưởng nhiều về sự hòa bình êm tịnh và phát thanh của Thánh Thất sở tại. Cứ tụng một hơi ai oán thì không khác nào cầu sự khô não cho Thánh Thất minh. Đạo phục cũng phải y theo Pháp Chánh truyền. Đáng lẽ Toà Thánh hay là các Thánh Thất phải may đạo phục mà ban cho chức-sắc khi thiết lễ ban quyền. Hàng tín đồ không có đạo phục đặc biệt thì không được bận áo rộng tới bàn cúng. Khi hành lễ phải tuân theo đẳng cấp mà quy người trước người sau y theo Pháp-Chánh-Truyền.
11 - Thảo Xá Hiền Cung.
Chú giải: Thảo Xá trước đã có lịnh dạy làm trường qui thiện cho phái nữ thì nay cũng sắp đặt đặng có chỗ cho các đạo cô ở mà tu hành. Việc này sẽ bàn tính với bà Chánh Phối sư nữ phái và phải lập ban Cai Quản nữ phái dưới quyền kiểm soát của Toà Thánh.
12 - Lập Nội luật Toà Thánh và Thánh địa.
Chú giải : Chẳng phải nội đền thờ đức Chí Tôn chư Thần Thánh Tiên Phật mà kêu là Toà Thánh. Cả khuôn viên của Toà Thánh là gồm hết Thánh địa, gồm cả thành đạo mà người làm chủ là Giáo Tông hay là người thay mặt cho ngài. Nội luật của Toà Thánh phải cần có đặng thi hành lập tức.
13- Kiểm soát các người giúp việc riêng cho các chức sắc tại Toà Thánh. Thuyên bổ người tuần phòng Thánh địa Toà Thánh và người giúp việc tại tư gia của chức sắc trong Thánh địa.
14- Kiểm soát các án tiết của Toà Tam giáo đặng xin đại ân xá.
15- Hội cả ba hội đặng cầu phong thêm chức sắc và thăng thưởng các chức sắc có công lao. Cầu phong cho cả Đầu sư nữ phái.

THÁNH NGÔN
Thảo Xá Hiền Cung ngày 23 Décembre 1931
Phò loan : Hộ Pháp, Văn Pháp
Hầu đàn : Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
Quyền Đầu Sư Thái Thơ Thanh
Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh và mấy vị
Chức sắc Thiên phong có mặt tại Thảo Xá ngày ấy.

THẦY các con,
Thầy lấy làm vui đặng gặp các con đủ mặt ngày nay mà hầu Thầy.
Các con nghe lời Thầy dặn cần yếu này là phận các con cho vẹn vẽ cùng Thái Bạch. Các con phải nhớ rằng toàn thể giải Càn Khôn chính có hai quyền : trên là quyền hành Chí Tôn của Thầy , dưới là quyền hành của sanh chúng, Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy nghĩa là Hội Thánh của Đại Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương độ tận chúng sanh. Còn các con cả thảy đều đứng vào hành sanh chúng dưới quyền hành chuyển thế của đời nghĩa là toàn nhân loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo hoá vạn linh vốn là con cái của Thầy. Vậy thì Vạn linh cũng có thuở đoạt vị vào hàng Thần Thánh Tiên Phật đặng.

Trong quyền hành ấy có nhiều đẳng cấp nên khởi phải chịu phẩm người, ấy vậy người là chủ quyền của vạn linh. Thầy nói rõ : quyền Chí Tôn là Thầy, quyền Vạn linh là sanh chúng, ngày nào quyền lực Chí Tôn đặng hiệp một cùng Vạn linh thì đạo mới rõ thiệt tướng. Thầy đã ban quyền hành Chí Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội Thánh là Giáo Tông cùng Hộ Pháp. Vậy thì quyền hành Chí Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo Tông cùng Hộ Pháp hiệp một. Còn cả nhơn loại thì là quyền lực vạn linh. Quyền Chí Tôn của Thầy duy có quyền vạn linh đối phó mà thôi.

Thái Bạch hằng dạy các con rằng mọi điều chi nó đã hiệp đồng cùng Hộ Pháp mà ban hành thì các con lại khi lịnh xem ra rẻ rúng. Vậy thì từ đây hễ có mệnh lệnh chi đã đủ hai đứa nó hạ truyền thì các con phải hội đủ Nhơn sanh, Hội Thánh và Thượng Hội mà xét nét cho cặn kẽ phân minh đặng thi hành phận sự. Thái Bạch đã hứa cùng Thầy rằng qua ngày Tam giáo nữ phái rồi thì nó sẽ phong Thánh thêm nữa, các con rán mà chìu theo lòng nó nghe !
Thầy ban ơn cho các con .
                                      Thăng.
Sao y bản chánh
Hiệp Thiên Đài
Tiếp Thế
Lê Thế Vĩnh

PHỤ CHÚ 9
Bài diễn văn của Đức Q.Giáo Tông
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
( Đệ cửu niên)

TOÀ THÁNH TÂY NINH

BÀI DIỄN VĂN

của ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
Đọc tại Toà Thánh ngày mồng 8 tháng Tư năm Giáp Tuất (1934).

VÍA ĐỨC PHẬT THÍCH CA
Về: Phương diện Chánh Thể Của Đạo.

Chư Đạo Hữu cùng Chư Đạo Muội,
Buổi chênh nghiêng Đạo đã hầu qua, tâm lý toàn con cái của Đại Từ Phụ dường như đặng chững chàng an tịnh đủ để trọn trí thức tinh thần suy ngẫm, nên Tệ Huynh ngày nay toại chí lượm lặt những lời châu ngọc của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng thuyết giáo đặng chỉ rõ Thánh ý nơi nào để cho Đạo chịu khảo đảo chừng ấy. Cái hữu ích của sự khảo đảo sẽ tỏ tường nơi bài thuyết pháp này, xin chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội cố tâm kiếm hiểu.

Các Tôn giáo đã lập thành tại thế ngày nay đã đạt đặng một cái quyền hành hữu vi kiên cố, thì trước kia cũng phải chịu khổ hạnh nương lấy một quyền hành bạc nhược yếu ớt của tâm lý mà thôi.

Ôi ! Quyền hành tâm lý buổi nào thì cũng gặp sẵn một tay thù địch mạnh mẽ, cường thạnh, oai nghiêm là quyền đời hiện hữu ; sự xung đột của quyền đời và quyền Đạo từ cổ chí kim tự nhiên đều có, chúng ta đã chán biết rằng những quyền lực bành thế đều nương theo tinh thần mà sản xuất; trứng tinh thần nảy nở sanh quyền lực, vì cớ cho nên các quyền hành đã có đủ thế lực mạnh mẽ nắm thế trị vào tay, hễ vừa thấy tri thức tinh thần của nhơn sanh ướm mòi sản xuất một cái trứng quyền hành chi khác nữa, thì đã sợ lưu hại cho mình nên toan phương đạp đổ.

Cuộc kết quả sự phản kháng ấy, hoặc thành hoặc bại, óc ảnh hưởng của tương lai sinh hoạt quyền lực đương nhiên của họ, vì cớ mà sự xung đột hàng xem dữ dội.

Ấy là phương khảo thí tài lực của tri thức tinh thần hầu làm cho tri thức tinh thần sanh điều hay, bày điều dở; hay thì chánh, dở thì tà, chánh thì còn, tà thì dứt. Ấy vậy dầu cho sự xung đột của quyền Đạo với quyền Đời thoảng đã làm cho lao tâm tiêu tứ của những trang chấp Đạo quyền đi nữa, phương chước tô điểm vẽ vời cho lịch xinh mặt Đạo. Phận sự bảo trọng lấy mình là dễ, còn phận sự bảo Đạo vốn khó vô cùng : đáng lẽ những khuyến khích cho Tệ Huynh bảo trọng lấy mình nên gọi là người ơn, còn những kẻ khuyên lơn bảo tồn nền Đạo nên cho ta kẻ nghịch mới phải. Tệ Huynh tưởng khi chẳng cần nói thì chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội cũng đoán biết rằng chẳng lẽ Chí Tôn chọn lựa Tệ Huynh giao cầm giềng mối Đạo đặng bảo trọng lấy Tệ Huynh mà thôi, trái ngược thì lại phủ rằng : phải huỷ mình đặng bảo tồn sanh chúng. Chẳng lẽ chúng ta đành cho rằng trọng mình hơn trọng Đạo là chơn lý?

Ôi ! biết bao phen đêm khuya canh vắng Tệ Huynh nằm gác tay lên trán thầm hỏi lấy mình :

Một mảnh thân phàm nầy, côù thân bạc nhược nầy, yếu ớt hèn mọn nầy, có đủ tài đức chi mà Đại Từ Phụ lại tin giao một cái giang san sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu đặng cho gánh vác ?

Càng nghĩ, càng lo, lo rồi lại sợ, sợ không kham trách nhậm mạng lịnh trời; càng suy, càng tủi, tủi rồi lại khóc, khóc sợ không phương nâng đỡ nỗi chơn truyền.

Đại Từ Phụ lại qui tụ con cái của Ngài gần trên một triệu sanh linh biểu bảo hộ nưng niu dạy dỗ.

Anh thì nghèo, em thì khó, gia nghiệp không mà quyền thế cũng không, bị cưỡng bức ép để mang khổ hạnh.

Đã chín năm Tệ Huynh thấy ngờ ngờ trước mắt, nhiều thảm trạng khó khăn, tinh những tiếng khóc than chẳng dứt : kẻ thì đói, người thì đau. Chức sắc thì hèn, Tín đồ thì dở, nỗi thương tâm chất chứa đầy lòng, giọt huyết lệ toàn đêm chẳng ngớt.

An đâu đặng mà tịnh, vui đâu đặng mà nhàn, chúng sanh thì khóc, Hội Thánh thì than mà chẳng thấy một ai lo trọn Đạo. Tệ Huynh xem lại những tay yếu trọng chấp chánh Đạo quyền thay vì chia đau sớt thảm, lo giải khổ cho chúng sanh, lại cố ý giựt giành quyền thế. Nhiều vị lại muốn cho Tệ Huynh ngồi đó điềm nhiên, những thảm khổ ngơ tai, bịt mắt lại buộc Tệ Huynh phải an tịnh đặng đắc Đạo thành Tiên đầu mối Đạo chênh nghiêng đừng ngó đến.

Cái sở vọng của các người ấy, Tệ Huynh để cho chư hiền hữu, chư hiền muội kiếm hiểu coi bộ để tại nơi nào không cần cạn tỏ.

Vi Tệ Huynh biết đặng cái bí mật huyền vi ấy, nên không khừng nghe lời mới nảy sinh ra trường ác cảm.

Nào là lường gạt nhơn sanh, nào là tranh giành quyền tước gieo nhục-nhã khắp nơi, lấy quyền đời chế Đạo. Một trường ngôn luân xáo ngược, dối-gian truyền cùng làng, khắp xóm, nhưng sự kết cuộc cũng không hại chi cho danh thể của Tệ Huynh, duy làm cho thiên hạ che khinh Chánh Giáo. Chẳng biết lương tâm của những kẻ phá Đạo ngày nay nó phải thế nào, lẽ tà chánh trọng khinh sao chẳng rõ.

Tệ Huynh ngồi nhớ lại đã cách mười năm nghĩa là ba tuần năm Sửu, Tệ Huynh còn làm Thượng Nghị Viện vào lầu ra các, trong thì bạn, ngoài thì quan, nẽo hoạn-lộ hèn sang, (?) , lẽ nhục vinh đã ngán với tuồng đời, mùi cay đắng đã từng quen với mặt thế, nào là mày trung, nào là mặt nịnh, đã trông nom mõi mắt mòn hơi, nên mới biết (?)chê đời mến Đạo.

Nay lục tuần hầu đến, lẽ nên hư quyền-hiến dâng đã thừa: có chi hay phòng mến phòng ưa, có cho trọng phòng yêu phòng chuộng. Tệ Huynh hằng hỏi lấy mình, cái ngày của Đại Từ Phụ sai Hộ Pháp và Thượng Phẩm đem lịnh vào nhà mà dạy một đứa tội tinh nầy phải dâng trọn xác hồn cho Ngài làm lợi khí mở chơn truyền, nên gọi lương y hữu duyên hay là ngày trả nợ? Nếu phải trả nợ thì Thầy lẽ nào đành giao một cái gia nghiệp vĩ đại của Nhơn sanh cho kẻ tham lam bạo ngược, còn như gọi rằng duyên thì chắc đủ lực quyền cầm vững Đạo. Đã 9 năm xông lướt trên con đường đi than lửa, bước chông gai mà cũng có thể bảo thủ chơn truyền của Thầy hoàn hảo, thì không phải là một tay giả mạo hay là một đứa tội nhơn mà làm cho thánh chất đặng thăng hơn phàm tánh.

Bởi biết mình, bởi biết Thầy, biết người, biết Đạo, mới yên tri tịnh tâm giữ gìn Đạo Mạch.
Tệ Huynh duy có một sở vọng là ngày nào Đạo đắc thành, (?) đời đặng thật thái bình thì thối bước lui chơn liền, đặng vui chí du sơn, ngoạn thuỷ, cái vui cùng tận của Tệ Huynh ở tại nơi đó mà thôi, chớ chẳng phải tại mến đời ngồi chịu khổ.

Ngày nay là ngày Vía Đức Thích Ca mà Tệ Huynh không giải thích Đức Thích Ca vì chư Hiền Hữu lưỡng phái càng hiểu rõ tích của Ngài và chư Hiền Hữu cũng thông suốt Phật Đạo chút ít rồi.

Tệ Huynh chỉ để thì giờ quí báu đặng nhắc cho chư Hiền Hữu lưỡng phái nhớ một hai tôn chỉ qúi trọng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đương hỏi, nhứt là phương diện chánh thể của Đạo.

Tuy Tệ Huynh không giảng Phật Đạo chớ Đại Đạo ngày nay cũng là Phật Đạo vì gồm hết Tam Giáo ( Nho, Thích, Đạo ) vì Thích Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích Ca.

Tệ Huynh hằng nhắc chư Hiền Hữu, chư Hiền muội rằng Đạo vẫn một, mà mỗi thời kỳ khai Đạo thì phương diện khác nhau,vì Đạo khai phải phù hợp với dân tri đương thời khai Đạo.

Khi Đức Thích Ca mở Phật Đạo thì nhơn sanh buổi ấy còn thánh đức nhiều, cả cá nhân đều ngán sự khổ não truân chuyên ở thế, nên Thiên Đình phú cho Ngài lấy tôn chỉ tiêu cực diệt tứ khổ ( sanh, lão, bịnh,tử) mà độ chúng.

Ngài cũng bị lắm điều truân chuyên khổ não, lao thân tiêu tử với đời mà chừng thành Đạo cũng bị quỉ phá một hồi dữ dội rồi mới thành Đạo.

Đức Lão Tử khai Đạo Tiên thì dùng huyền diệu pháp làm tôn chỉ cao thượng vì đương buổi ấy thì nhơn sanh tra huyền diệu phép tắc.

Ngài cũng bị nhơn sanh cho là Lão già mê hoặc chúng Đệ tử của Ngài cũng lần lần xa Ngài cho đến đổi khi Ngài đi ngang qua Hàm Cốc Quan vô nha môn Doãn Hỉ đặng độ ông này là chơn linh Ngươn Thể thì Từ Giáp là học trò hầu cận Ngài vì mê sắc mà sa ngã rồi cũng xa Ngài.
Mà Đạo Tiên cũng thành tựu và cũng truyền bá tứ phương vậy.

Khổng Phu Tử thọ lịnh Thiên Đình xuống khai Đạo Nho đặng sửa nhơn luân trong buổi Châu mạt, vì trong buổi ấy cang thường luân lý suy đồi nên nhơn sanh thấy cái Đạo nhơn luân của Ngài hay, sửa đời đặng thì khâm phục.

Ngài cũng làm công nhọc nhằn với đời, qua Tề bị Yến Anh, qua Yên bị phế, qua Triệu bị đuổi, kẻ bắt người buộc ăn vác nằm sương nhọc nhằn biết mấy. Đến nỗi nhà Tần tàn bạo không xiết kể, phần thì (?) khanh nho ( đốt sách, chôn học trò) mà Đạo Nho cũng loan truyền khắp hoàn cầu.

551 năm sau Khổng Phu Tử mới khai Đạo bên Thái Tây nên Thầy cho Đức Chúa Jésus Christ giáng sanh khai Đạo Thánh cho phù hạp với dân tri Âu Châu.

Đức Jésus cũng bị cường quyền Israel áp bức cho đến đồi hồi ban sơ thì có 12 vị Thánh Tông Đồ theo Ngài mà sau còn có một vị Thánh Pierre mà thôi. Nhưng người cũng phải chối Chúa ba phen đặng tránh cường quyền bắt buộc.

Chừng Đạo thành thì có Du Già bắt Ngài mà napï cho Chánh Phủ hành hình, đóng đinh trên cây Thánh giá. Hành xác Ngài gớm ghiết như thế đặng cho Nhơn sanh kinh khủng bỏ Đạo, mà Đạo Thánh cũng gieo truyền khắp cả hoàn cầu.

Lúc Đạo Gia Tô truyền qua Đông Pháp thì vua Annam cũng nhặt cấm, bắt mấy người theo Đạo Gia Tô qua Thập Tự, ai không bước ngang qua thì bị tử hình.

Hình phạt gớm ghê như thế mà cũng có người Chí Thánh thọ tử mà thôi, chớ không chịu chối Đạo.

Xét kỹ lại, thiệt người xưa là Thánh Đức, ít ai bì kịp cứ giữ chánh tâm làm trọng, thỉ chung như nhất mà thôi.

Ngảnh lại ngày nay mà ngán cho đời !
Ôi ! trong 8 năm dư chuông thánh trụ hồn. Đạo Trời đem tin cứu thế mà hễ nghe phưởng phất lời đồn huyễn hoặc chi của người toan phá Đạo thì mau mau cuốn Thánh tượng, dẹp Thiên bàn, lòng toan chối Đạo.

Biết bao nhiêu người nịnh quyền hiếp thế, xu phụ theo nịnh tà mong toan phá Đạo , rước rắn rừng vô cắn gà nhà , nạp Chí Thanh vô đề lao cho phỉ lòng oán hận.

Còn một cha, gà một ổ, mà làm cho đổ luỵ rơi châu, gieo thảm sầu cho làm người tâm thành tri vẹn phải dừng chơn thối bước!.
Qụa nuôi tu hú cũng còn biết thương, người đi một đường sao nỡ hại nhau như thế?!?

Ai toan bứng gốc phá chồi của nền Đạo thì để cho Thiêng Liêng quyết đoán, mình cứ nắm giữ luật lệ của Thầy và Đức Lý Giáo Tông đã thành lập từ buổi ban sơ thì thành Đạo và luật lệ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thể Thiên hành hóa là món binh khí diệt tà quyền
Đời có thạnh có suy
Đạo động tịnh chuyển xây
Lửa thử vàng, gian nan thử Đạo.

Trong 8 năm qua rồi biết nao phen vẹt mây ngút thấy trời xanh mà cũng lắm lúc xem đất bằng sóng dậy.

Thầy đã nói tiên tri : chi chi qua Qúi Dậu cũng phải cho thành Đạo mà trước khi Đạo thành thì Tam Thập Lục Động Qủi về phá Toà Thánh dữ dội lắm mà trừ an nội loạn rồi mới thành Thiên cơ.

Ngày nay bão tố dữ dội đã qua rồi, Tệ Huynh nhận thấy mấy em đã bao phen khảo đảo thảm khổ vô cùng mà mấy em cũng ngồi vững vãng trong thuyền Bát Nhã của Thầy độ rước, Tệ Huynh hết sức vui mừng nên nguyện rằng sẽ đem hết dạ yêu thương mà dìu dắt mấy em về cùng Thầy cho đến chốn.

Các Đấng Thiêng Liêng cũng có nói trước: " Rồi đây nguyên nhân sẽ đến rần rần có lắm anh hào thành tâm giúp Đạo".

Cơ trời mầu nhiệm cao sâu, người đâu thấy đặng.

Từ ngày ác khí nổi lên xung đột, bên bạo tàn trương nanh múa vút thì bên Thánh Đức hiền lương có lắm anh hào đem hết tri thức tinh thần ra công giúp Đạo.
Tạo hoá vần xây chuyển thế,
Âm dương thiệt khéo đầu cơ.

Khiến cho Tệ Huynh nhớ lời tiên tri của Bát Nương Diêu Trì Cung hồi ban sơ có dặn :
"Hễ gặp người an bang tế thế,
"Nên qùi mà nghênh, lấy lẽ trọng người.
" Cởi thân ra mảnh áo tơi,
" Che mưa đỡ nắng cho đời nguy nan"

Tôn chỉ cao thượng của Đại Đạo Tam Kỳ là lập công quả cùng Thầy, lo độ rỗi nguyên nhân, truyền bá chơn đạo cho đời biết chữ nhân là qúi, đức là trọng, đặng hết tranh tranh đấu đấu, lập quyền lấn thế nhau, báng sáng nhau hai sanh chúng nguy nan đời đời kiếp kiếp.

Từ hai mươi năm nay, xem trong toàn cầu thiệt đâu đâu cũng là một cảnh sầu không toả ra cho cùng tận được biết bao người bị lượn sóng vô tình vật chất chụp đè trên biển khổ , ham hố sung sướng cho mảnh thi hài, bo bo vừa lòng tình dục. Ít ai ngó xuống thương đồng loại cực khổ biết bao ! kể không xiết số người thất nghiệp truân chuyên , cơm tẻ ngày hai không có mảnh tơi che cất chẳng lành. Tôi phản Chúa, người phá Đạo, trò nghịch Thầy, cha lìa con, vợ xa chồng, huynh đệ bất hoà, bằng hữu tranh nhau cũng vì mối nhơn luân suy bại : chẳng còn thấy Chúa Thánh tôi hiền, phu từ tử hiếu, trông chỉ gặp tháng Thuấn ngày Nghiêu nhà nhà lạc nghiệp thái bình âu ca.

Đấng hoá công là Đại Từ Phụ chung của cả nhơn sanh trông thấy hoàn cảnh như vậy cũng đổ luỵ rơi châu với bầy con dại biết bao thương xót lũ con hoang ra đường gây tội lỗi ; trong mấy muôn năm phải bị luân hồi trả vay mãi mãi như chóng vần xây. Từ việc rất lớn lao tới việc tế vi mải mún, thạnh suy bỉ thới cũng phải chuyển vần y như luật Trời đã định.

Đạo Trời đem tin cứu thế , thức tỉnh nhơn sanh phải tu tâm dưỡng tánh, theo lành lánh dữ cho khỏi nạn luân hồi vay trả, hàng ngày phải nhớ câu "Oan Gia Nghi Giải Bất Nghi Kiết".

Người phải thương nhau như con một cha, cả hoàn cầu là đại Chánh chung của nhơn loại, không hại lẫn nhau, lấy lễ phép mà giao thiệp, lấy công bình mà đối đãi cùng nhau.

Lo cho Đạo Hữu trong nền Đạo có cơ sở làm ăn, biết làm lành là qúi.

QUE L'HUMANITÉ SOIT UNE COMME RACE. UNE COMME RELIGION. UNE COMME PENSÉE.

Ấy là cuộc sửa đời lập Tân Thế Giới ( Ere Nouvelle) của Đại Từ Phụ đã tuyên ngôn từ buổi khai Đạo.

Lưu ý: Còn thiếu một đoạn chừng 4 trang, sẽ bổ túc sau

PHỤ CHÚ 10
Thơ gởi ông E.Outrey
THƯ CỦA ÔNG ERNEST OUTREY
GỞI CHO ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG

Paris, ngày 2 Février 1933
Kính thưa ông,
Sở dĩ tôi chậm hồi âm cho ông rõ : là vì bấy lâu tôi chưa quyết đoán mục đích của đạo CAO ĐÀI, nếu hứa ngay theo lời ông xin , tôi sợ e làm cho Đạo phát triển rồi có thể nguy khốn cho tới xứ Nam Kỳ.

Nay tôi công nhận rõ rệt Đạo Cao Đài không có điều chi như lời người ta phao vu, nên tôi viết thư trả lời cho ông. Nhơn vì Đạo Cao Đài có cái mục đích chánh đáng như thế, tôi mới dám hứa chắc với các Đạo hữu của ông, tôi sẽ tận tâm xin cho Đạo Cao Đài được nhiều tự do, mà nước Đại Pháp đã mấy phen ban bố cho các tôn giáo.

Song le, ông để cho tôi khuyên các bổn đạo Cao Đài nên dùng cái thế lực của mình mà tuyên truyền một cách chơn thật, cái chánh sách Pháp -Việt đề huề, vì theo lời ông nói. Tôn chỉ của Cao Đài giáo là mưu cuộc hoà bình thế giới cho các dân tộc, nếu quả thật như vậy, thì ai là người biết điều mà còn dám đứng lên phản đối một cái lý thuyết tối cao như thế.

Nầy ông bạn, vả lại ông tin cậy vào tôi, ông đã phân trần với tôi mọi lẽ, vậy tôi xin ông nếu có hoàn cảnh thì cứ tuyên bố ngay rằng : cuộc giao hảo của hai nước Pháp Việt là điều cần thiết. Theo tôi thiết tưởng, điều đó là một phương pháp có thể đánh đổ các điều nghi kỵ, người ta vẫn còn đối với Đạo Cao Đài là một tôn giáo mà ông đương tô điểm một cách nhiệt thành. Tôi suy xét biết ông là một bực thượng trí, đủ công tâm chánh trực nên viết cho ông bức thư nầy gọi là đáp tấm lòng tín nhiệm của ông đối với tôi.

ERBEST OUTREY.
THƯ CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
GỞI CHO ÔNG ERBEST OUTREY.
Toà Thánh, ngày 20 Mars 1933
Cùng ông Nghị Outrey ,
Tôi lấy làm hân hạnh tiếp đặng thư ông, đề ngày 2 tháng 2 năm 1933. Nay lấy thư ra xem lại thì cặp mắt chan luỵ, bèn thầm nói một mình : thật là người thật tâm thương xứ Nam Kỳ và có lòng yêu mến người bổn xứ.

Đã hơn 40 năm , ông nhiệt thành lo khai hoá quê hương chúng tôi, ông dụng phương kế mưu hạnh phúc cho dân tộc Langsa và Annam, cả đời của ông là để thật hành chánh sách Pháp -Việt đề huề. Ông đối với dân tộc Việt Nam có ban nhiều ân huệ cho những người theo ông, nhưng ông là bực Chí sĩ nên chẳng lưu tâm đến công lao của ông đối với kẻ thọ ân ông.

Riêng về phần tôi, tôi nói thiệt, tôi chẳng có ở vào cái hạng đó bao giờ, nếu ông thi ân cho tôi hoặc cho thân quyến của tôi thì tôi trách ông liền. Tôi giúp việc nhà nước đã lâu, ra gánh vác nhiệm vụ Hội đồng Quản hạt và có chân trong Ban Hội Đồng Thượng Phẩm ở Đông Dương. Tôi đây vẫn biết rằng thì giờ của ông rất qúi báu, nhưng tôi đến bận lòng ông về vấn đề Cao Đài giáo là vì tôi vâng mạng lịnh của Thượng Đế và nguyện vọng của hơn muôn sanh linh, nào Langsa, nào Annam, nào Cao Miên, nào Trung Huê cả thảy ai ai cũng công nhận Đức Cao Đài là một con đường duy nhứt để đạt đến chánh sách Pháp -Việt tương kết dân tộc bác ái hầu bu lên đại đồng chủ nghĩa.

Bên Âu Châu nhiều sách tiên tri rằng : Trên một góc Trời kia sẽ phát hiện ra một đại Tôn giáo bao gồm tất cả các Tôn giáo khác, tồn lại trên quả địa cầu, cốt gây ra một thời đại mới mẽ, chúng ta cũng thấy các tiêu ngôn ấy trong kinh Phật Annam và Cao Miên.

Nước Đại Pháp được thấy trên miếng đất của mình đã ra tâm khai hoá ngót trên 60 năm trời, ngày nay phát hiện một tôn giáo tối tân như thế, thì tấm lòng rất tự toại và hân hoan dường nào? Đối với bậc vĩ nhân thì điều đó là một cái thành công, mà nước Pháp chưa hề gây sáng bao giờ, là một cái kho vàng vô tận, quí hơn ngọc ngà châu báu muôn phần.

Than ôi ! nhiều nhà thống trị chểnh vểnh trên ngai cao lấy cặp mắt thị đời khinh rẻ cái thiên chức của Thượng Đế phó thác cho hai dân tộc Tây, Nam để khuyến dụ nhơn sanh.

Kinh Thánh tiên tri rằng : nước Pháp ngày sau sẽ đứng lên truyền bá sự sáng suốt và cứu khổ cho nhơn loại đương mãi miệt chìm đắm trong khoa học, mục đích để tương tàn và tương diệt với nhau mà thôi.

Vậy thì nước Pháp sở dĩ qua chinh phục Đông Dương đây là cũng bởi tại thiên định, vì Thượng Đế muốn cho nước văn minh dìu dắt các tiểu bang lên con đường tấn bộ, cho ngang hàng hầu tạo lập ra cuộc hoà bình thế giới ngày sau, nhờ chúng tôi tin tưởng Thánh giáo , tin tưởng một cách quả quyết , nên đã 8 năm nay chúng tôi đủ tinh thần chịu hết các điều hành khắc của chánh phủ, chánh phủ dụng ác tâm mà hại Đạo, nhưng chúng tôi không sờn lòng, mòn dạ, cứ một lòng một dạ , cứ một lòng hạ phục cầu xin các bực quyền tước kiểm soát chúng tôi. Trong khi chúng tôi lấy đường Đạo mà nâng trình độ tinh thần của đồng bào chúng tôi hầu nầy nên một đoàn thể bác ái sau nầy. Chúng tôi tin chắc rằng nhờ ơn điển Thượng Đế chúng tôi sẽ đoạt mục đích một cách dễ dàng, vì dân tộc Việt Nam khao khát một chánh giáo, vừa hạp với hoàn cảnh sanh hoạt vừa dung hợp các Tôn giáo hiện tại.

Có nhiều lúc chúng tôi tuyên bố rằng : Chúng tôi công nhận quyền thống trị của nước Pháp và giải thuyết rằng : chỉ có đường Đạo mới có thể làm cho Pháp - Việt được thoả hiệp mà thôi . Nhưng than ôi ! Cái thuyết của chúng tôi không ăn chung gì ? nên việc tàn khốc vẫn còn tăng thêm một cách thậm tệ, thành thử những việc bất hoà mỗi ngày thêm rộng thâm sâu cho hai nước. Tuy bị phao vu, tuy bị khổ khắc, chúng tôi cũng cứ lo hành Đạo cho đến cùng. Chúng tôi biết Ngài là người để tâm đến dân tộc Việt Nam nên mới đến công luận với Ngài, nhờ Ngài lấy tài hùng biện giữa nghị trường đặng xin cho chúng tôi được tự do tín ngưỡng mong sau này nhân loại khỏi tai hoạ lớn là nạn chiến tranh.

Cái giờ mà tôi mượn cây bút để tiếp xúc với Ngài đây là cái giờ ưu liệt mà Đạo hữu Cao Đài phải khổ tâm lận đận với cái chánh sách tàn khốc của Chánh phủ, nhơn sanh ôm ấp cái bầu nhiệt huyết đối với Thượng Đế là Đấng Chí Tôn có quyền gầy dựng ra Trời đất muôn vật mà còn bị nhơn sanh ràng thúc huỷ hoại thì còn chi là Thượng Đế.

Bởi vậy , chúng tôi có cái cảm động là thường và hằng ngày trông mong đến Pháp quốc giải khổ cho thiện nhơn chúng tôi. Chúng tôi có lòng mong mỏi đến Ngài và cầu xin Ngài dùng hết nghị lực mà làm cho xứ Đông Dương phất phới ngọn cờ tự do tín ngưỡng hầu bảo tồn tập tục thiên cổ của chúng tôi. Ngài mà xin được cho chúng tôi rồi, chẳng những bên Âu Châu hoan nghinh Ngài, mà chúng tôi rất ca tụng cái công đức của Ngài.

Chúng tôi thành tâm mong mỏi đến cái thời kỳ hoàn toàn hạnh phúc, và tiện đây chúng tôi xin Ngài cho các nhà thống trị biết nếu chúng tôi mà không được tự do cúng tế, hơn muôn sanh linh đồng đứng xin, thì chúng tôi sẽ cho toàn quốc hay rằng: tuy chúng tôi không có hân hạnh tham gia trong cái hội nghị hòa bình, nhưng chúng tôi cũng hết sức mong cho thế giới đặng điều hòa và ổn thỏa.
LÊ-VĂN-TRUNG
PHẦN PHỤ CHÚ
PHỤ CHÚ 1
Nội dung tờ khai đạo
Văn kiện chính thức được Ông Lê Văn Trung gửi cho Thống đốc Nam Kỳ Le Fol, ghi ngày 07-10-1926 nguyên văn bằng tiếng Pháp như sau. (Pierre Bernardini, Le Caodaisme au Cambodge, Université de Paris VII, 1974, pp.282-284)

Saigon, le 7 Octobre 1926
Monsieur le Gouverneur,
Les soussignés,

Ont l'honneur de venir respectueusement vous faire connaitre ce qui suit:

Il existait en Indochine trois. Religions ( Bouddhisme, Taoisme , Confucianisme). Nos ancêtres pratiquaient religieusement ces trois doctrines et vivaient heureux en suivant strictement les beaux préceptes dictés par les Créateurs de ces religions.

On était, pendant cet ancien temps, tellement insoucieux qu'on pouvait dormir sans fermer les portes et qu'on dédaignait même de ramasser les objets tombés dans la rue (Gia vô bế hộ, lộ bất thập di, tel est l'adage inscrit dans nos annales).

Hélas ! ce beau temps n'existe plus pour les raisons suivantes:

1. Les pratiquants de ces religions ont cherché à se diviser tandis que le but de toutes les religions est le même :faire le bien et éviter le mal, adorer pieusement le Créateur.
2. Ils ont dénaturé complètement la signification de ces saintes et précieuses doctrines.

3. La course au confort, à l'honneur, l'ambition des gens, sont aussi des causes principales des divergences d' opinions actuelles. Les Annamites de nos jours ont complètement abandonné les bonnes moeurs et traditions de l'ancien temps.

Ecoeurés de cet état de choses, un groupe d' Annamites, fervents traditionalistes et religieux ont étudíe la refonte de toutes ces religions, pour n'en former qu'une seule et unique appelée CAODAISME ou ĐẠI ĐẠO.

Le nom " ĐẠI ĐẠI TAM KỲ PHỔ ĐỘ", qui signifie la troisème Amnistie générale, est donné par l' Esprit Suprême qui est venu aider les soussignés à fonder cette nouvelle religion.

L'Esprit Suprême est venu sous le nom de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ dit CAO ĐÀI ou "Le Très Haut, DIEU TOUT PUISSANT".

Par l'intermédiaire de médiums écrivant, NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ transmet aux soussignés des enseignements divins ayant pour but de concentrer et d' enseigner les beaux préceptes de ces trois anciennes Religions.

La Nouvelle Doctrine enseignera aux peuples :

1. la haute morale de Confucius;
2. les vertus dictées dans les religions bouddhique et taoique. Ces vertus consistant à faire le bien et éviter le mal, aimer l'humanité, pratiquer la concorde, éviter totalement la dissention et la guerre.

Les soussignés ont l' honneur de vous soumettre :

1. quelques extraits du recueil des : " Saintes - paroles" de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, paroles estimées plus précieuses que tout ce qui existe ici-bas.
2. la traduction de quelques passages du livre de prières que NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ nous a enseignées.

Le but poursuivi par les soussignés est de ramenter les peuples à l'ancien temps de paix et de concorde.

On sera ainsi dirigé vers une époque nouvelle tellement heureuse qu'il est difficile de la décrire.

Au nom de très nombreux Annamites qui ont entièrement approuvé ces études et don't la liste est ci-jointe, les soussignés ont l'honneur de venir respectueusement vous déclarer qu'ils vont propager à l'humanité entière cette Sainte Doctrine.

Persuadés d'avance que cette nouvelle religion apportera à nous tous la Paix et la concorde, les soussignés vous prient de recevoir officiellememt leur déclaration.

Les soussignés vous prient d' agréer, Monsieur le Gouverneur, l'assurance de leurs sentiments respectuex et dévoúes".

PHỤ CHÚ 2
Thơ gởi nghiệp đoàn báo chí
TÂY NINH, le 1er Décembre 1934
À Messieurs les Présidents des Syndicats
de la Presse du Monde Entier,

Messieurs les Presidents,
Nous avons l'honncur de venir respectuesement vous prier de bien vouloir solliciter de tous les Directeurs des Journaux, Revues Periodi ques, une large hospitalité à notre Appel à l' Unité de Foi ci-joint.

Ce sera un grand bienfait que la Presse readra à l'Humanité toute entière, car, si l' Unité de Foi se réùalise, les races se fraterniseront et la Paix Universelle règnera.

Le Monde sera délivré de l'borrible cauchemar d'une prochaine guerre mondiale dix fois plus dévastatrice que celle de 1914-1918.

Veuillez agréer, Messieurs les Présidents, l'assurance de nos sentiments respectucux et reconnaissants.

THƯỢNG TRUNG NHỰT
Monsieur Lê Văn Trung,
Annamite -Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien, Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancion Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine.
Chef de la Religion "ĐAÏI ĐAÏO TAM KỲ PHỔ ĐỘ"
"3ème Amnistie de DIEU en Orient"
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové.
à TÂY NINH. COCHINCHINE FRANCAISE.

PHỤ CHÚ 3
Thơ gởi các vị hoàng đế
TÂY NINH , le 1 er Décembre 1931

À Leurs Majestés les Empereurs et Rois, leurs Excellences les Chefs d' Eùtats, les Ministres de toutes les Religions
du MONDE ENTIER
Sires, Excellences.
Nous avons l'honneur de porter respectueusemeni à votre haute connaissance que l'Être Suprême, DIEU tout Puis-sant, notre Père Miséricordieux à tous, est venu sur un coin de la terre d'Annam (à Tây ninh- Cochinchine - Indochine Francaise) pour créer une nouvelle Foi capable de rénover le monde entier par un noble Idéal : " L'amour des créatures". De par la vonlonté divine, les races se frater-hiseront et la Paix Universelle règnera.

La guerre, l'horrible guerre gratricide, horreurs du Xxè siècle, siècle soi - disant de Progrès, de Civilisation pourra bien être évitée. Nous disons "Fratricide" car, quelle que soit la race dont ils font partie, tous les Enfants de cette terre descendent l'un même Père, c'est DIEU qui préside à leurs destinées. Ainsi lorsque les peuples se font la guerre, c'est exactement comme des frères qui s'entre - tuent.

Nous avons recu de DIEU, Notre Père Miséricordieux à tous, la Mission de propager sa sainte Doctrine à travers le Monde.

Nous avons eu de multiples preuves de sa venue sur cette terre : de nombreux miracles se sont produits comme au cemps de la venue du Christ, comme ceux de Lourdes et d'ailleurs. Fermement convaineus de l'efficacité de la nouvelle Doctrine et forts de la puretè de nos intentions nous avons présenté à l'Administration Coloniale Francaise un serment ècrit don't ci-inclus un exemplaire par lequel nous nous enga-geons, sous peine de mort, à ne nous occuper que des questions religieuses et à ne pas troubler en aucune facon l'ordre établi. En revanche, nous demandons de travailler, avec l'aide et la protection de la France à la propagande de la Nouvelle Foi dans le Monde entier.

Les représentants de l'Administration Coloniale ne se sont pas montres toujours bienveillants à notre égard, quel-ques-uns ont été tolérants mais d'autres ont fait leur possible pour empêcher cette propagande.

DIEU est venu nous dire de répandre sa sainte Doctrine à travers le Monde; nous ne saurons donc pas faillir à notre Mission. Aussi nous nous faisons un impérieux devoir de venir respectueusement, Sires, Excellences, porter ce fait à la con-naissance de l'Humanité entière, afin que tout le monde sache que l'heure de l'Amnistie divine approche, que le rassemblement des enfants du Créateur doivent se faire pour que la Paix tant recherchée règne dans tout l'Univers.

Il suffira pour cela que hommes savent aimer leurs semblables et pratiquer la vertu dans le chemin tracé par DIEU .

Nous sommes certains que, plus que quiconque, Sires, Excellences, vous voulez que vos sujets dont la destinée est entre vos mains, ne vivent plus dans la crainte perpétuelle d'une guerre future, avec les horreurs, les ravages que cause- ront d'engins meurtriers de tout dernier perfectionnement toute de vertus, et qu'ils soient délivrés à jamais du terrible cauchemar qu'est la guerre moderne.

Nous vous demandons d'envoyer le plus tôt possible vers nous un certain nombre d'entr eux pourqu'ils puissent se rendre compte de ce que nous avons avancé.

DIEU a dit ceci : " Mes Enfants, si vous tardez à ré-pandre ma sainte Doctrine, chaque jour de retard occasion-nera la perdition des centaines de milliers d'ames.

Le cri d'appel étant lancé, nous pensons avoir fait notre devoir.

Dès que nos moyens nous le permettront, nous parcou-rerons le Monde, apportant à chaque Peuple la Nouvelle Evangile.

Daignez agréer, Sires, Excellences, l'hommage de notre profond respect.

THƯỢNG TRUNG NHỰT
Monsieur Lê Văn Trung,
Annamite -Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien, Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancion Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine.
Chef de la Religion "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ"
"3ème Amnistie de DIEU en Orient"
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové.
à TÂY NINH.- COCHINCHINE - FRANCAISE

PHỤ CHÚ 4 :
Thơ của Đức thánh cha nước Đức
Lời tường thuật của Báo chí và
Thư của Đức Thánh Cha Nhà thờ GNOSTIQUE ALLEMAGNE
EN ALLEMAGNE,

Au cours de l'annéc 1931, dans les premiers mois plusieurs voyageurs allomands ont visité le phalanstère de Tây ninh, se sont interessés à la Secte, ont pris des notes et des photos, et sont repartis par le bateau qui avait escalé trois jours à Saigon. On ne les a plus revus, mais le numéro du 21 Juin 1931 du Berliner Illustrierte Zeitung parvenait au Saint-Siège.II contenait un article avec photographies de Tây ninh, signé W.BOSSARD sur "la plus étrange secte du monde".

Enfin, en Novembre 1931, nouveau document d'Allemague (ci-après), en réponse à l'envoi d'une brochure le Bouddhisme rénové fait par LE VAN TRUNG.

*  *  *

ÉGLISE GNOSTIQUE D'ALLEMAGNE

P. Futlingen, den 13 Novembre 1931

Altesse éminentissime !
Très grand , très puissant et très excellent prince
Sérénissime Seigneur !
Très Saint-père !

Votre message a atteint l'Europe Centrale ! Le Synode Général de l'Eùglise Gnostique d'Allemagne dont je suis le patriarche, a résolu de préparer son union avec le Caodaisme…

On m'a chargé de vous faire savoir cette résolution et de vous prier pour des informations sur l'histoire, la consti tution, la doctrine et les rites de votre religion Universelle en Francais, Anglais ou Hollandais, afin que le message du Caodaisme puisse se servir de notre, organisation ecclésiast que dans les pays des Allemands, Autrichiens, Suisses, Hollandais, Belges, Lithuaniens, Lettens et Esthéniens.


En comptant sur la réalisat on de ce désir je suis
Votre très humble serviteur.
m.p.
Signé : GODWIN
30 330 960

Souverain -pontife et patriarche de l'Eglise Gnostique d'Allemagne Grand Maitre de l'Ordre des Chevaliers de la rose mystique.

Adr : H.GODWIN stuermer, Tuets (Grenzmard) ALLEMAGNE

VỚI ĐỨC QUỐC.

Vào những tháng đầu năm 1931, nhiều du khách người Đức đến viếng Toà Thánh Tây Ninh, lưu tâm đến giáo phái này, đã ghi chép chụp nhiều hình ảnh ; rồi quay về hải thuyền , cập bến Saigon ba hôm. Người ta không còn gặp lại họ nữa; nhưng số báo BERLINER ILLUS-TRIERTE ZEITUNG ra ngày 21-6-1931 đã được gởi đến Hội Thánh. Trong đó, có một bài mang nhan đề "Giáo Phái Mới Lạ Nhứt Của Thế Giới" do W. BOSSARD viết, kèm theo nhiều hình ảnh của Tây Ninh.

Sau cùng, đến tháng 11 năm 1931 là văn kiện mới, từ Đức gởi sang (kèm sau đây) để đáp lại một quyển sách nói về "Phật Giáo Chấn Hưng" do ông Lê Văn Trung gởi cho họ.

PHỤ CHÚ 5
Thơ gởi Tổng thống cộng hoà Pháp
Tây Ninh, le 4 Mars 1934
A Monsieur le Président
de la République Francaise, PARIS.
Monsieur le le Président de la République,
J'ai l'honneur de venir tres respectueusement remettre entre vos mains la Décoration de Chevalier de l'honneur que ma conférée la République Frangaise par Décret du 18 Mai 1912.

Fonctionnaire apprécié et estimé pendant douze ans Conseiller Colonial ensuite pendant huit ans, enfin memble du conseil du Gouvernement de l'Indochine pendant douze ans, telles sont les trente-deux années de vie mises loyalement au service de la France, qui m'ont valu cette haute récompene de la Républi que.

Après ma vie publique, je m'apprêtais à finir mes vieux jours dans un coin oublié de terre en Cochinchine, quand soudain (1926) je fus appelé par l'invisible à reprendre ma tâche pour l'unification de toutes religions existantes pour " semer parmi les peuples l'amour du bien et des créatures de Dieu, la pratique de la vertu, apprendre à aimer la justice et la résignation : révéler aux humains les conséquences pos-thumes de leurs actes, tout en assainissant leur âme".

Depuis huit ans je me consacre entièrement à cette oeuvres de fraternisat ion des races, convaincu que la nouvelle religion constitue un des puissants facteurs indispensables à la réalisation d'une collaboration loyale et sincère de tous les peuples, d'une paix mondiale durable.

Le Caodaisme comprend aujourd'hui plus d'un milion de fidèles composé d'Annamites en très grande partie et de Frangais, Cambodgiens, Laotiens, Mois et Chinois.

Nous ne sommes pas compris peut-être par le gouver nement Colonial?
Toujours est -il que le Caodaisme est sans cesse injus-tement frappé.
À nos doléances et à nos réclamations, on répond par des acies arbitraires et des persècutions religieuses.

À l'heure qu'il est en fait tout pour atteindre le promo-teur de cette nouvelle église dans son honneur.

Dans de nombreux documents, je me permets d'extraire les passages édifiants ci-après d'une lettre que j'ai écrite récemment à Monsieur l'Administrateur Vilmont, chef de la Province de Tây ninh Cochinchine.

" En ce qui concerne vos récentes instructions, je vous serais très obligé de bien vouloir me faire connaitre jusqu'à quand est applicable cette nouvelle règlementation des cultes.

"Quant aux évènements dont vous avez fait allusion dans votre lettre, je me parmets de vous faire remarquer que si vous aviez bien voulu tenir compte de mes requêtes et de mes droits sinon de chef du Sacerdoce Caodaisme , du moins de chef du Temple de Long Thanh (Tây Ninh) ces "désordres" n'auraient jamais au lieu. Mieux que tout autre vous saviez aue les désordres que vous signalez aujourd'hui ne venaient pas de nous.

"Le réunion du 24 Novembre dernier, autorisée par vous à se tenir dans mon Temple, à des personnes tout à fait étrangères à là religion et malgré ma lettre No394 du 22 Novembre 1933, est un véritable défi, sinon une insulte, jeté sans motif à la face qu'un vieux et loyal serviteur de la France double d'un décoré de la Légion d'honneur.

"Il m'est vraiment pénible de constater ces choses à l'heure ou tous mes efforts et tout mon dévouement sont mis sincèrement au service de la cause commune des deux peuples c'est -à - dire à l'entente cordiale et sincère les deux races appelées par la volonté du tout puissant à vivre en communauté de vie et l'intérêts ".

Naturellement ces doléances sont restées sans réponse par contre les persécutions se sont de plus belle

La dernière en date fut mon emprisonnement, le 22 Février dernier, pour dette due au fisc par trente quatre de mes coreligionnaires, prétexte tout à fait falicieux.

Le Chevalier de Légion d'Honneur, à l'aurore de sa soixantième d'année, fut jeté en prison sans qu'aucune formalité prescrite par, la loi ne fut observée.

J'ai séjourné deux jours et demi dans une cellule de la prison de Tây Ninh avec mon ruban arboré et la carte de Chevalier sur moi.

Ainsi aux yeux du Gouvernement Colonial, la Légion d'honneur ne signifie rien, l'infâmie peut atteindre.

Tout le tort revient-il à République qui ne devait pas conférer cet insigne honneur à un pauvre indigène ?

J'accomplis mon geste avec d'amers regrets, mais je préfère ne plus porter une très haute distiuction à laquelle le Gouvernement Colonial n'a aucun égard et qui ne peut même plus devenir un éclatant témoignage de mon attachement à la France.

Cependant, confiant en la justice de cette France douce et généreuse que j'ai toujours aimée, je poursuivrai jusqu'au bout ma tâche sans passion et sans haine, espérant qu'on voudra bien un jour se rendre compte des erreurs commises et rendre justice à une religion qui n'a d'autre prétention que celle d'apporter au monde la paix et la concorde.

Veuillez agréer, Monsieur le Président de la République, expression de mon plus profond respect.

LÊ VĂN TRUNG
LÊ VĂN TRUNG Pape Intérimaire
Du Bouddnisme rénové ou Caodaisme.
Ancien Conseiller Colonial,
Ancien Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine.
Long Thành Tây Ninh ( Cochinchine).

Pièce jointe : Un certificat de Monsieur le Grand Chancelier de l'ordre National de la Légion d'Honneur.

PHỤ CHÚ 6
Toà Tam giáo lần thứ nhì
ĐAÏI ĐAÏO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
( Đệ lục niên)

Sao lục án Toà Tam Giáo xử ngày 28 tháng 8 năm 1931.
Tuân y theo Thánh Giáo đức Lý Giáo Tông, Nghị Định ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ,
Chiếu theo Đạo Nghị định của Hộ Pháp và lời phê chuẩn của Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ, thiết lập Tam Giáo Toà.

TAM GIÁO TOÀ CỬU TRÙNG ĐÀI
( Kỳ nhì)
" Tại Toà Thánh Tây Ninh ngày rằm tháng bảy Tân Mùi
( 28 Aout 1931)

xử các vụ và kết án như sau đây :
1- TÊN HỌ: Trần Đạo Quang
CHỨC : Ngọc Chưởng Pháp
ĐỊNH ÁN : Chiếu theo hình phát thứ 9. Phải ăn năn sám hối thọ tột cùng chúng sinh
2 - TÊN HỌ: Nguyễn Trung Hậu
CHỨC : Bảo tháp HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

3 - TÊN HỌ: Trương Hữu Đức
CHỨC : Hiến Pháp HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

4 - TÊN HỌ: Trương Văn Tràng
CHỨC : Tiếp pháp HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

5 - TÊN HỌ: Phạm Văn Tươi
CHỨC : Hiến đạo HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

6 - TÊN HỌ: Lê Thiện Phước
CHỨC : Bảo Thế HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

7 - TÊN HỌ: Thái Văn Thâu
CHỨC : Khai Thế HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

8 - TÊN HỌ: Thái Ca Thanh
CHỨC : Phối Sư
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) Ngưng chức một năm, nếu biết ăn năn sám hối thì cho phục chức như cũ

9 - TÊN HỌ: Thượng Bàn Thanh
CHỨC : Giáo Sư
ĐỊNH ÁN : Ngưng chức 1 năm, nếu biết ăn năm sám hối thì cho phục chức như cũ

10 - TÊN HỌ: Ngọc Minh Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Ngưng chức 1 năm, nếu biết ăn năm sám hối thì cho phục chức như cũ

11 - TÊN HỌ: Thượng Sanh Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Ngưng chức 1 năm, nếu biết ăn năm sám hối thì cho phục chức như cũ

12 - TÊN HỌ: Thượng Tương Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

13 - TÊN HỌ: Ngọc Khai Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

14 - TÊN HỌ: Thượng Lai Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

15 - TÊN HỌ: Thái Minh Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

16 - TÊN HỌ: Thái Kiên Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

17 - TÊN HỌ: Ngọc Sơ Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm

18 - TÊN HỌ: Thái Hiển Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm

19 - TÊN HỌ: Thượng Diêu Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm

20 - TÊN HỌ: Thượng Ngự Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm

21 - TÊN HỌ: Thượng Hồng Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

22 - TÊN HỌ: Thượng Trò Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

23 - TÊN HỌ: Thái Quyến Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

24 - TÊN HỌ: Thượng Thanh Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

25 - TÊN HỌ: Thượng Giỏi Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

26 - TÊN HỌ: Thượng Kỳ Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

27 - TÊN HỌ: Thượng Thanh Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

28 - TÊN HỌ: Ngọc Phung Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN :

29 - TÊN HỌ: Ngọc Lương Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

30 - TÊN HỌ: Ngọc Bôi Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

31 - TÊN HỌ: Thái Ban Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

32 - TÊN HỌ: Thượng Đồng Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

33 - TÊN HỌ: Thượng Tân Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

34 - TÊN HỌ: Thượng Trúc Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu theo hình phạt thứ 10) - Hầu kẻ hữu đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học đạo.

35 - TÊN HỌ: Thượng Dung Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu theo hình phạt thứ 8). Phải về Toà Thánh 3 tháng cho gần Thánh giáo mà học đạo

36 - TÊN HỌ: Thái Chương Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu theo hình phạt thứ 8). Phải về Toà Thánh 3 tháng cho gần Thánh giáo mà học đạo

37 - TÊN HỌ: Thượng Lâm Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu theo hình phạt thứ 8). Phải về Toà Thánh 3 tháng cho gần Thánh giáo mà học đạo
Toà Thánh, ngày Rằm tháng bảy năm Tân Mùi
Quyền Giáo Tông
Chánh toà
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Bảo Văn pháp quân
Quyền Lục sự
CAO QUỲNH DIÊU

Xin Đầu Họ lãnh thi hành cái án sao ra trên đây và dán vào bổn tại mỗi Thánh Thất trong tỉnh. Các thi hành phải làm như sau đây :Đạo hữu nào có tên trong bản án mà ở trong tỉnh mình thì trích lục ra từng án mà giao lại cho đạo hữu ấy và phải lấy biên nhận. Đạo hữu nào không chịu ảnh án thì Đầu Họ phải lập vi bằng gởi về Toà Thánh. Ví dụ người thứ nhứt có tên trong bản án là đạo hữu Trần Đạo Quang có ở trong tỉnh mình thì sao lục án ra một tờ mà giao cho người :
Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét