Tóm lại, trong hai
năm 1926-1927, nền đạo dưới sự dìu dắt của Ơn Trên, nhất là Đức Lý Giáo Tông
nền Đạo đã có đầy đủ các cơ chế Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Hội Thánh Cửu
Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, các chức sắc cao cấp lưỡng đài, từ Thời Quân và Đầu
Sư trở lên không thiếu vị nào. Nền Đạo tuy gặp khó khăn phải cất chùa mới,
nhưng mọi người đồng tâm hiệp lực, mọi trở ngại xây dựng và phổ độ đều trôi qua
một cách tốt đẹp.
CHƯƠNG III
BỐ CÁO CÙNG CHƯ ÐẠO HỮU
(1928 -- 1929)
1 .
Tình đồng đạo
Ngài Thượng Trung Nhựt,
như trình bày ở chương I, tính tình khảng khái, thẳng thắn và cương quyết. Đức
tính đó đôi khi làm cho một số người hiểu lầm ra thành quyền thế. Những đức
tính đó chỉ biểu hiện trong công việc , trong đạo sự. Muốn việc thành công phải
đôn đốc quyết đoán. Thật ra, nội tâm Ngài đối với huynh đệ, với đồng đạo rất
chân thành, nhiều khi rơi nước mắt. Không người bạn nào khi qua đời mà Ngài
không đến cầu nguyện dù xa xôi ở Rạch Giá như Lâm Quang Bính ( Phối Sư Thái
Bính Thanh). Khi viếng tang cố Bảo Đạo Ca Minh Chương, Ngài trịnh trọng một
cách tha thiết:
" Từ ngày Đạo khai,
lần này là lần thứ ba tôi dự việc tống chung của ba vị Đại Đức trong Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ. Năm Dần (1926) , ông Thượng Tương Thanh ( tức Nguyễn Văn Tương )
Thượng Chưởng Pháp ly trần, ngày mồng 5 tháng 11 mãn phục. Năm nay (1927) tháng
ba Đức Nho Tông Chưởng Pháp Trần Đạo Nhơn ( tức Trần Văn Thụ) liễu Đạo.
Ấy là hai vị Đại Đức bên
Cửu Trùng Đài. Ngày nay, Ông Ca Minh Chương thọ thiên ân Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài
qui vị. Tôi rơi luỵ mà tỏ lòng bi ai mộ phần. Con người thân phàm xác thịt ai
tránh khỏi sự yêu thương. Người đồng đạo tất con một cha, tâm hoà ý hợp, chia
vui sớt nhọc, ngoảnh lại mấy năm rồi xem cảnh hôm nay. Người qui Tiên nương
bóng Đức Cao Đài, kẻ còn lao nhao nơi bể khổ sống mê. Ôi ! Cuộc phân ly như
thế, không ngăn được giọt lệ sầu bi.
Anh Bảo Đạo ơi ! Nhớ mấy
lúc cùng nhau hội hiệp khi thi phú, lúc bàn cơ nơi Toà Thánh. Nhớ đến tiếng
cười, thương vì nghĩa, rồi đây phải ở đồng trống sương gieo….Mấy năm dư, anh đã
mượn nâu sòng lánh tục. Nay hồn lìa khỏi xác, vẹt ngút mây xanh trông vào Cực
Lạc an nhàn, non chiều hạc gáy, nghĩ đến đó lấp đặng mạch sầu.
Tôi xin nhắc công lao của
Bảo Đạo. Nguyên anh người ấp Thanh Đa, làng Mỹ Lộc Tây, tổng Phước Điền Trung,
huyện Phước Lộc ( Cần Giuộc). Hồi thiếu niên anh gặp nhiều nho gia hiền triết
như Ông Đồ Chiểu. Ông Ca Minh Chương hữu duyên hữu phần, nên lúc Trời khai Tam
Long Hoa hội, người nhập môn cầu đạo liền. Hạ tuần tháng hai năm đó, ba anh em
tôi (Trung, Cư, Tắc) thọ thánh chỉ xuống Vĩnh Nguyên Tự, ông Ca Minh Chương
cũng theo xuống đó. Một bửa Đại Từ Phụ khai khiếu cho Bảo Đạo. Anh em tôi ngơ
ngáo không hiểu chi hết. Tưởng là đạo hữu Chương niên cao kỷ trưởng, mắt mờ nên
Đại Từ Phụ khai khiếu cho sáng láng, hầu khi Đại Từ Phụ giáng cơ viết Hán tự,
đạo hữu coi đọc cho dễ.
Thật ra, Đấng Chí Tôn khai
khiếu cho anh Chương để cho người phò loan đặng đi phổ độ cùng với đạo hữu Tươi
( Hiến Đạo Phạm Văn Tươi).
Ông Bảo Đạo lúc gần qui
vị, linh quang anh thiệt tinh tấn. Mấy lời châu ngọc anh than cùng tôi thiệt
ruột dường như dao cắt. Nay anh về tiên cảnh, xin chung lo giúp Đạo đặng tâm
hoà như một. Xin anh chứng lòng thảo của mấy em".
(Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu
trữ)
Đối với Đức Cao Thượng
Phẩm, Ngài một dạ tôn kính gọi Cao Thượng Phẩm bằng " Đức". Ngài nói
:
" Ngày mồng một tháng
này (tức 1-3-Qúi Tỵ)vì phận sự tôi phải đi Nha Mân rồi Vũng Liêm.
Lúc thượng lộ lòng tôi
buồn bực không kể xiết. Tôi thầm hỏi : " Mình đi lo việc Đạo, cớ sao không
đặng vui như mọi lần khác ?".
Tới Thánh Thất Vũng Liêm
có hiền hữu Thái Thơ Thanh, Thượng Giảng Thanh hành lễ xong, có người nói :
" Thượng Phẩm décédé" (chết).
Người dẫu gan sắt, dạ đồng
nghe tin này cũng bắt động tình thương xót. Huống chi tôi cùng Đức Cao Thượng
Phẩm mấy năm dư cùng nhau keo sơn gắn chặt, thọ Thánh chỉ của Đấng Chí Tôn đi
phổ thông Đại Đạo.
Nay người ly trần cỡi hạc
về quê, kẻ nhơn thế còn lo độ chúng.
Nay Đấng hiền lương đạo
đức, chừng Trời kêu đến, phải mau hồi cựu vị.
Ấy rõ quyền Chí Tôn rất
lớn vô cực, vô đại mà thương hại cho những người vô đạo đức, không suy xét lời
Thánh Hiền : " Vạn ban đô thi mạng, vạn điểm bất do nhân".
Ấy chỉ rõ Thiên cơ.
Thời kỳ này Thầy lập Đạo
vô vi.
Thượng Phẩm là Đạo (tức vô
vi) phải trở lại thiêng liêng chi vị đặng đem chơn hồn vào cửu Thiên".
Còn với kẻ dưới, Ngài cũng
hết sức thương mến. Khi nghe báo tin Phối Sư Thái Bính Thanh mất ở Rạch Giá,
không quản đường xa, Ngài đi liền và đọc điếu tang.
" Tưởng câu nhứt đán
mà ngậm ngùi, nghĩ chữ vô thường càng bát ngát. Những tưởng trăm năm tuổi hạc,
truyền nhơn luân trải khắp non sông. Nào hay đâu một phút bóng câu đem hồn
phách gởi theo mây gió; dù biết người tu hành coi qui liễu hằng như Đạo mở,
nhưng tình Đạo hữu biệt ly lòng dường muối xát.
Nhớ linh xưa !
Ý tứ từ hoà, tánh tình
liên lạc. Nghĩa lân cận không kêu không hảnh. Gặp kẻ nghèo chẳng nỡ làm ngơ.
Tình anh em cư xử chẳng dễ chẳng khinh.
Lúc Khai Đạo, Thầy dạy anh
làm quả Càn Khôn. Nhớ anh : nào ra công nào tốn của hiệp cùng đạo hữu mới hoàn
thành. Thầy bảo lập Tân Luật. Anh sắp ghế, sắp bàn hội với Thiên phong kết dọn
tổ đình. Thầy chỉ anh đo thước tấc dựng hình Phật Tổ.
Ô qua, thố lại. Cuộc hằng
đổi xây. Vật đổi sao dời, vân cẩu bóng cây thường tan tác. Vậy thì đồng đạo
chẳng chi làm trọng, nguyện cho linh hồn anh tảo đắc siêu thăng, cầu cho được
sớm tiêu diêu nơi cõi thọ".
Tóm một lời, lòng nhân ái
đối với người với đồng đạo của Ngài Thượng Trung Nhựt hết sức đậm đà sâu sắc.
Ai chỉ thấy tính khẳng khái, lòng cương trực của Ngài là chưa hiểu hết về Ngài
vậy.
2 .
Đức chí thành
Ngài gặp quá nhiều khó
khăn trên bước đường hành đạo. Kẻ lãnh phẩm tước thì đông mà người hành đạo
không có, lại dựa vào chức vị mà trích điểm, kẻ vạch điều này điều nọ làm cho
nhiều chức sắc không trụ vững đức tin, thối thân lui bước. Lẽ đó, Ngài đưa ra
tiêu đề: " Vì Đức Chí Thành" để giảng đạo :
" Đức Chí Thành là
tánh chất thành thật chơn chánh mà mọi người cần phải có để đối đãi nhau cho
ngay thẳng thật thà trong đường đời hay đường Đạo. Đức Chí Thành là gốc năm
thường là nguồn trăm nết. Có chí thành thì đạo hạnh con người mới rõ ràng sáng
tỏ, không chí thành thì đạo hạnh bị tà che khuất tối tăm. Cho nên con người mà
không ung đúc khối chí thành làm gốc rễ thì trông chi đến việc trau dồi đức
hạnh.
Đức Chí Thành như một khối
vàng dùng nó mà chế tạo ra lắm đồ trang sức cao giá, chỉ khối vàng ấy mà pha
trộn mất nguyên chất, bảo sao nhưng đồ trang sức làm ra không xấu hèn thấp giá.
Người xưa tuy quê, song
giữ đặng hai chữ Chí Thành. Đối với nhau chẳng hề dối giả, gạt gẫm làm gì. Một
tiếng ừ với nhau cầm đáng ngàn vàng. Một lời hứa với nhau lòng khư khư giữ
chặt.
Người nay tuy gọi văn minh
tấn bộ, song cái ánh sáng văn minh choá ra làm cho con người bị quáng đèn mà
không rõ cái chơn tướng của đức chí thành. Bởi không chí thành nên đời mới có
người này xảo trá, kẻ kia gian tham, sanh lòng nghi lẫn nhau. Đến nỗi, việc nhỏ
mọn nhiều kẻ chung lo cũng hoá ra hư hỏng theo đường đời, còn đường đạo là chỗ
cần phải treo tâm gương thanh bạch hầu để thiên hạ soi chung.
Người hành đạo cần phải có
đức chí thành mới đặng quang minh chính đại rồi đặng lòng tín nhiệm của nhơn
sanh. Khi tụng kinh cầu nguyện khấn vái với Trời Phật, nếu chí thành mới có
cảm, có ứng, có nghiệm. Cho nên có câu : " Hữu thành tất hữu thần" là
vậy.
Người làm đạo mà chí thành
chẳng để ý việc làm công quả mà cầu danh, tự đắc tự kiêu, chuyên quyền gây ra
lắm điều trái Đạo. Ai nói cũng không nghe. Ai khuyên cũng không nạp. Ai trách
cũng không nghe.
Người làm đạo mà chí thành
thì chỉ lo cho chúng sanh chớ không kể thân mình, đem cả hình hài trí thức làm
vật hy sinh cho tôn chỉ Đạo. Nói tắc, làm đạo mà còn chú ý về lợi và danh thì
chưa có chí thành vậy.
Người theo Đạo mà không
chí thành, bất quá theo cầu vui , " bắt chước" hoặc là tu "cầu
vui" theo ông nọ bà kia để dễ thân cận mà chác mua ỷ lại nơi người vậy
thôi.
Người theo Đạo mà không
chí thành, bất quá là mượn danh Đạo để dụ đồng tiền, hoặc lợi dụng đức tin của
hàng tín đồ thấp thỏi để mưu điều trái đạo.
Tóm lại, đức chí thành là
gốc của nền Đạo. Cho nên trong bài Kinh Niệm Hương mở đầu có câu : " Đạo
gốc bởi lòng thành tín hiệp".
(HƯƠNG HIẾU, sách đã dẫn,
trang 262)
Trong bài giảng đạo tại
nhà ông Cả Hồ Văn Nhơn ở Bến Tre (7-10-1928) đoạn kết giải về chữ tu như sau:
" Tu nghĩa là trau dồi tánh hạnh. Tu không
phải từ mơi tới chiều gõ mõ mới gọi
rằng tu.
Tu có nhiều bực : bực Thượng thừa phải ép mình hành xác, phải nâu sồng khổ hạnh, lo làm âm
chất, lo công quả cho Trời Phật, chừng công mãn tìm chỗ u nhàn mà luyện đạo.
Nếu trong thế gian mọi người đều phế công việc mà tìm chỗ u nhàn như vậy thì thế sự này phải ấm lạnh. Ai làm lo nhơn đạo ? Người
hành đạo mà bỏ đạo, không lo nhơn đạo cho hoàn toàn thì hành đạo vô ích.
Ấy vậy, trước hết phải biết Đạo là biết có
Trời, Phật, Tiên, Thánh, phải biết có luân hồi chuyển kiếp.
Ở thế phải tùng theo luật thế. Đối với quan
viên chức phải biết bổn phận người dân.
Con cái thì phải biết công
sanh thành dưỡng dục là ơn trọng phải giữ hiếu để bồi đắp ơn sâu . anh em như
cốt nhục giữ chữ thuận hoà. Vợ chồng nghĩa nặng đối nhau như cân thăng bằng.
Người nào giữ nhơn đạo hoàn toàn thì lo gì không gần Thiên Đạo".
(Ban Đạo Sử, Tài liệu lưu
trữ.)
Có người căn cứ vào bài
thuyết đạo tại Bến Tre nầy với Bài giảng đạo tại nhà ông Nguyễn Văn Tường ngày
6-10-1928 ( có trích đoạn ở trước) mà cho rằng :
" Hai bài thuyết đạo
do ông Lê Văn Trung khởi thảo….Ta sẽ thấy trong đây tất cả những yếu lý về đạo
đức mà các ông đã quan niệm buổi đầu khai đạo, một quan niệm không mấy mới mẻ
thoát thai từ những hình sắc cũ của các tôn giáo trước nhưng không phải vì thế
mà mất tính chất suy nghiệm của phần tôn giáo mới từ những bài Thánh ngôn đã
hấp thụ được nơi cơ bút truyền ra".
(ĐỒNG TÂN, sách đã dẫn,
trang 227)
Nhận định trên là lời đòi
hỏi quá đáng. Đã đành rằng, theo khái niệm khoa học, các chất hoá học tổng hợp
sẽ sinh ra một chất mới. Cái mới, Đức Chí Tôn đã cho ta thấy rồi : Hội Thánh,
Tân Luật Pháp Chánh Truyền, sắc phục, thánh thất, còn về giáo lý chiết trung và
triết thuyết ư ? Đòi hỏi quá sớm. Vả lại, tính từ ngày khai đạo đến đây (1928),
Đạo mới có hai tuổi. Một đứa bé đi chập chững mà muốn chạy thì sẽ vấp ngã. Thêm
vào đó, các vị cao đồ, nhiều người không xuất thân từ tu viện hoặc chỉ xuất
thân từ một chi phái riêng lẻ. Thế nên chưa ai có cái nhìn tổng hợp như Thánh
Ngôn dạy. Nhìn lại tiến trình của Phật Giáo : giới tạng, kinh tạng ra đời
trước, còn luận tạng chỉ hình thành bốn trăm năm sau khi Đức Thích Ca viên tịch
thì so với quá trình giáo lý Đạo Cao Đài còn đủ thời gian để hệ thống hoá.
Đáng nói chăng là năm 1949,
nhà văn Pháp Gabriel Gobron cho xuất bản quyển "Histoire et philosophie du
Caodaisme" ngoài bìa in là Bouddhisme rénové ( Phật giáo chấn hưng). Tại
vì, ông chưa nắm vững Đạo Cao Đài có sắc thái riêng, có chủ trương riêng, có
cứu cánh riêng. Tắt một lời "Cao Đài là Cao Đài" hay "Cao Đài
như một bức khảm xà cừ : nhìn thẳng thấy màu trắng, nhìn nghiêng bên phải thấy
màu xanh phơn phớt , nhìn nghiêng bên trái thấy màu đỏ tía và nhìn xuống phía
dưới thấy màu vàng nhạt. Các màu vàng (Phật), xanh (Lão), đỏ (Khổng) chỉ là
những cách thể hiện các giai đoạn ban sơ của Đạo.Thật sự Đạo Cao Đài là màu
trắng, phải hiểu Đạo Cao Đài với tinh hoa bổn nguyên triết lý của chính nền Đạo
mới nầy". (Xem " Công đức Đức Phật Mẫu và Cửu vị Nữ Phật")
Nói một cách khác, nhiệm
vụ các cao đồ buổi đầu là gì? Hoằng dương đạo pháp phổ độ chúng sanh và giáo
dân qui thiện. Hai nhiệm vụ ấy ta thấy Ngài Thượng Trung Nhựt đã đạt thành.
Những bài giảng Đạo của Ngài nắm bắt được chữ thiện, lập trật tự chữ hoà . Còn
hệ thống hoá giáo thuyết, đó là nhiệm vụ của người đi sau .
3 . Mở
mang dân trí :
Đạo Đức Học Đường
Ngày còn làm Hội Đồng Quản
Hạt, Ngài đã ưu tư mở trường Nữ học. Khi Thánh Tượng dời về chùa mới, năm sau
Ngài cho khai giảng trường Đạo Đức Học Đường ngay trong nội ô Toà Thánh trên đường
Cao Thượng Phẩm. Đọc câu liễn của trường ta thấy rõ mục đích khai hoá mở mang
dân trí là để giúp dân giúp nước.
ÐẠO ĐỨC truyền lưu hậu tấn
hiếu trung phò xã tắc
HỌC ĐƯƠNØG giáo hoá thơ
sanh nhân nghĩa lập giang san.
Nhân ngày lễ phát thưởng
năm đầu tiên cho học sinh Đạo Đức học đường vào ngày 14-7-Kỷ Tỵ (18-8-1929),
Ngài Thượng Đầu Sư đến dự lễ để khích lệ thầy cô giáo và các em học sinh. Ngài
nói :
" Bóng thiều quang
nhặt thúc, ngày tháng hạn qua. Mậu Thìn bước sang Kỷ Tỵ, nay trót ba năm dư,
lần tay tính lễ Trung Ngươn đây là lễ Trung Ngươn lần thứ ba…
Nay Thầy chấn chỉnh nền
Đạo, kêu chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng có trách nhiệm lớn lao về Toà Thánh
vun trồng cây đức. Ba tháng nay nhờ thiêng liêng giúp sức, cùng anh em xây lưng
đâu cật lo chấn hưng nền Chơn Đạo trở nên thạnh hành….Vậy rán nhớ các việc hồi
năm Mậu Thìn kiêng dè chừa lỗi, nên mấy vị giáo viên, mấy em học sinh, cùng nhi
nữ trong mấy năm qua Đạo nghèo, mấy em chịu phần hui hút, còn mấy anh đây lại
bị kẻ thúc người đè, nên không săn sóc mấy em trẻ dại, để mấy em chiu chít như
gà mất mẹ.
Xét cổ suy kim mới biết
rằng tôn giáo nào cũng nhờ học thức mà gìn mối đạo, truyền chánh đạo mới đặng
tròn câu phổ độ. Đạo nghèo đồng tiền eo hẹp . Thầy giáo không một đồng lương,
lại thêm ngày ngày dạy dỗ ấu nhi, phải làm công quả vùi thân cùng sanh chúng.
Học sinh, đồng nhi nam nữ tập viết bằng lá buông (*), chỗ ngủ lấy ván sạp làm
gường. Bề ăn uống tương rau hẩm hút. Ba năm dư mới rảnh chút thời giờ, mấy anh
đây mới lập trường mà phát thưởng. Lễ đơn sơ để dạ yêu thương, giục mấy cháu
biết lòng lo đạo đức".
(Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu
trữ)
Hình ảnh mà Ngài Thượng
Đầu Sư nêu trên thật thảm thương và cảm động. Đạo tuy nghèo mà nuôi cả lưu học
sinh. Ngủ trên vàn xẻ chưa kịp bào, ăn cơm gạo lức với rau tàu bay rừng, nhất
là giấy viết bằng là buông (*). Cái học "Trần Minh khố chuối" như vậy
mà "hiếu trung phò xã tắc" là tấm lòng thiết thạch đối với quê hương,
còn gì bằng !
Báo cáo trước Hội Nhơn
Sanh năm 1931 có đoạn viết : "Trong Toà Thánh có lập một Đạo Đức Học Đường
để dạy trẻ em, có 8 lớp học, 6 lớp con trai trình độ lớp nhì, 1 lớp con gái
Việt, 1 lớp con nít Tà Mun. tất cả 274 trò. Các thầy dạy đều có bằng cấp Sơ
học, làm công quả, không lấy tiền. Học trò cũng không đóng học phí".
Báo cáo của Hội Nhơn Sanh
năm 1932 xác nhận có nhiều tiến bộ : "Trường Đạo Đức Học Đường năm nay có
mở thêm được ba lớp học nam nữa. Một lớp nhì ( Cours 2 è Année) và hai lớp Đồng
Aáu ( Cours Enfantin), cộng chung là 11 lớp. Số học trò được 417, trong đó 312
trò nam và 105 trò nữ, thêm được 143 trò, nhiều hơn năm ngoái. Kỳ thi Tiểu học
vừa rồi, nhà trường có 26 trò đi thi đều đậu hết. Có 21 trò đậu luôn phần Pháp
văn (mention francaise). Mấy cô giáo và thầy giáo dạy nơi trường đều siêng năng
lo lắng dạy dỗ. Không người nào ăn lương bổng hết".
Lấy năm 1952 làm mốc để
nhớ ơn tiền bối, để thấy sự phát sinh, phát triển của Đạo Đức Học Đường chưa
đâu bằng. Năm đó trường có 60 lớp lợp bằng tranh, xây gạch đất không nung, chỉ
có dãy lớp bằng ngói ở phía trước. Có 10 lớp Cao Đẳng đi thi Tiểu Học với 5.393
thí sinh tại Tỉnh lỵ, chỉ rớt 1 trò vì bị bịnh bất thường. Đó là một kỷ lục vô
song đền đáp công ơn thầy trò dạy và học đêm luôn, làm rạng danh đạo thời ấy.
Chính năm 1952, ngôi
trường phổ thông ở trên đường Hoàng Tòng Hướng, ngoài cửa số 7 ngoại ô được
trùng tu và cất thêm hai dãy để nhận số học sinh vừa mới thi đỗ Tiểu Học. Nhà
trường mở 12 lớp Đệ Thất vì phải nhận thêm hai lớp cho học sinh ngoài tỉnh lỵ.
Ngày khai giảng, Đức Phạm
Hộ Pháp đến dự và đổi tên trường phổ thông thành trường NGHĨA THỤC LÊ VĂN TRUNG
để nhớ ơn Ngài Thượng Đầu Sư, người có công đặt viên gạch đầu tiên khai hoá
nhân sanh tại vùng Thánh Địa.
Con cháu nối bước. Năm
1961, giáo sư Trần Văn Rạng dạy trường Trung học Tây Ninh đưa đơn xin phép lập
"Hội Ái Hữu Cựu Sinh Đạo Đức và Lê Văn Trung", được Bộ Nội Vụ cấp
phép hoạt động số 128-NĐ ngày 20-10-1961. Kết hợp hai trường làm một là để nhớ
ơn Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung ( Người viết gọi chức danh phẩm tước theo
thứ tự thời gian).
(Lá buông cắt đem về, rọc bỏ phần
sống lá. Thân lá được cắt từng đoạn dài đều 20cm, rồi đem phơi khô để lá buông
từ màu xanh chuyển sang màu vàng nhạt. Sau đó xếp lá chồng lên nhau dùng tấm
ván ép cho bằng phẳng, rồi dùng nước cỏ mực viết.)
4 . Tờ
bố cáo gởi chư Đạo hữu
Nền đạo trong những ngày
đầu năm Kỷ Tỵ (1929) gây nhiều phấn khởi trong giáo dân. Số người nhập môn càng
ngày càng tăng, chứng tỏ Đạo mới hợp lòng nhân dân. Đạo mừng nhưng Đời lo.
Chính quyền Pháp không thể ngăn chặn bắt với những người theo Đạo một cách công
khai mà chỉ cho lính kín theo dõi trà trộn vào hàng ngũ trong Đạo. Việc xây
dựng Toà Thánh lôi kéo nhiều người có quốc tịch khác nhau khiến một tờ báo phải
lên tiếng "Một jérusalem mới" ( Une Jérusalème nouvelle) (J.
CENDRIEUX, Une Jérusalème Nouvelle, Extrême Asie (R1) số 25 (7-1928)) có hại
cho việc trị an.
Nhưng không thể nào khủng
bố Hội Đồng Lê Văn Trung, các đốc phủ Lê Bá Trang, Nguyễn Ngọc Tương nên chính
quyền chĩa mũi nhọn vào dân đạo ở nông thôn.
Đức Chí Tôn giáng cơ dạy
về việc này như sau :
"Thầy tưởng các con
đã hiểu vì cớ nào chính phủ Lang Sa nghi ngờ như vậy. Vì các con chẳng tỏ ra rõ
ràng rằng Đạo là Đạo, còn chính trị là chính trị. Các con chỉ vì Đạo là phận
sự. Các con chỉ biết đạo mà thôi. Các con cũng nên bạo gan mà nói trước mặt vạn
quốc cùng chính phủ rằng các con là người đạo, chỉ biết giúp đỡ nhơn sanh, dạy
dỗ nhơn sanh chớ chẳng biết chính trị là gì. Trong Đạo duy có một điều làm cho
chính phủ không vừa lòng là mỗi nước họ muốn phân lìa nhau mà Đạo lại hiệp. Các
con nói với người Lang Sa rằng nhờ Đạo mà các sắc dân đặng yêu mến nhau, phải
lấy sự yêu mến mà buộc tình người thì quyền hành kia mới vững. Cười …
" Trung, con phải tức
tốc đến thuyết đạo với người Lang Sa Blanchard de la Brosse nghe. Nói một phen
nữa. Thảng như họ chẳng nghĩ tình thì phải đánh giây thép cho chính phủ bên Tây
mà kêu nài".
Vâng Thánh chỉ, Ngài
Thượng Đầu Sư đến gặp Thống Đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse để xin cứu xét về
việc bắt bớ và khủng bố giáo dân. Ngài cho ban hành Tờ bố cáo cùng chư đạo hữu
như sau :
" Nay là buổi Thiên
Địa tuần huờn, hoằng khai Đại Đạo, đức Ngọc Hoàng Thượng Đế vì thương nhân
loại, rộng mở Đạo Trời, để dìu dắt sanh linh vào trường đạo đức, hầu hưởng
phước về sau .
Nay Đại Đạo lập thành, Tân
luật đã ban ra, chúng ta cứ theo đó mà hành đạo.
Về phần Thiên Đạo phải hết
lòng thành kính Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải
trau dồi đức hạnh, dưỡng tánh tu tâm mà hồi minh khử ám.
Còn về phần nhơn Đạo, ta
phải tuân theo phép nước, giữ phận làm thần dân , làm lành lánh dữ. Mỗi mỗi
phải do luật pháp mà cư xử, sưu lo thuế đóng, kính trọng quan viên, giúp nạn kẻ
khó.
Về phần tin tưởng tự do,
tôi tỏ cho chư đạo hữu hay rằng không ai đặng phép ngăn cản chúng ta trong việc
thờ Trời Phật. Ta tin tưởng Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, ta sùng bái Ngài, không
một ai phạm đến quyền tự do ấy của ta được. Chớ nghe đồn huyễn rằng chính phủ
bắt Đạo mà sợ, rồi dẹp Thiên Bàn cuốn Thánh Tượng, ấy là điều đại tội cùng Trời
Phật đó.
Nếu Chính phủ muốn ngăn
cấm điều chi thì dán yết thị khắp nơi cho nhân dân rõ biết, đâu đó phân minh.
Còn nếu không có chân tri cùng yết thị thì xin chư đạo hữu chớ vội tin mà lầm
mưu kẻ nghịch đạo.
Trong chư đạo hữu, thảng
như có ai bị cường quyền áp chế về việc phụng thờ Thượng Đế, xin mau gởi thơ
cho tôi. Tôi sẽ dụng hết công tâm kêu nài cùng chính phủ để làm cho kẻ ấy biết
trong quyền TIN TƯỞNG TỰ DO của chúng ta"
(Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu
trữ).
Trong hai năm 1928-1929,
công việc ở Toà Thánh do Đức Cao Thượng Phẩm và Ngài Phối sư Thái Bính Thanh
coi sóc việc xây cất Toà Thánh tạm. Còn Ngài Lê Văn Trung đi phổ độ Lục Tỉnh,
Đức Phạm Hộ Pháp mở Hội Thánh Ngoại Giáo ở Kiêm Biên, Ngài Ngọc Đầu Sư đi lập
72 Tịnh thất rồi trở về Vĩnh Nguyên Tự.
Việc xây cất Toà Thánh của
Đức Cao Thượng Phẩm bị ngưng lại vì sự hiểu lầm của Chưởng Nghiêm Pháp Quân
Nguyễn Phát Trước. Đức Ngài bỏ về Thảo Xá Hiền Cung và mất tại đó như viết ở
trước.
Đêm 15-4-1928, Đức Lý
giáng cơ dạy :
" Hộ Pháp, hiền hữu
xin nghe !
Chẳng phải Lão bênh vực
Cửu Trùng Đài của Lão. Hiền hữu kiếm sẽ thấy tội nhơn về bên Hiệp Thiên Đài.
Vậy quyền hành của hiền hữu thế nào mà trách Lão. Chức sắc của Lão vì ám muội
mà nghe lời đóvậy thôi.
"Thái Bính Thanh,
Hiền hữu nói lại với
Thượng Trung Nhựt rằng Lão nhượng trọn quyền Giáo Tông lại cho người, cho đến
ngày Hiệp Thiên Đài nhìn Cửu Trùng Đài rồi Lão sẽ hành chánh, nghe à".
Vậy từ ngày đó (26-2-Mậu
Thìn) Ngài Thượng Đầu Sư chính thức Chưởng quản Toà Thánh Tây Ninh.
Xin mượn lời thuyết đạo
của Ngài Thượng Đầu Sư đọc nhân ngày lễ kỷ niệm Khai Đạo (14-10-Kỷ Tỵ) làm câu
kết :
" Người trong vòng
Trời Đất chẳng nên cãi quá lòng trời vì Tạo Hoá rất công bằng, lòng Trời vô
tận.
Tôi xin nhắc lại lời Thánh giáo của Malherbe :
"Vouloir ce que Dieu c'est le seule science qui nous methe en repos".
Lời ông hiền triết này như lời của Thánh trong sách nho : "Thuận Thiên giả
tồn, nghịch Thiên giả vong".
Bốn năm dư ( 1926-1929)
chuông Thánh truy hồn, thuyền Bát Nhã đổ bến mê tân rước khách trần, hầu độ kẻ
vô phần không phước. Phần nhiều vì mắt thịt, trí phàm không thấu đáo Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ mà chưa trọn hiểu. Tánh vẫn còn mơ hồ kết thêm tội lỗi, vào đường
tu mà chưa đổi tánh, phần còn tranh tranh, lấn lấn chức quyền mọn trong Đạo.
Đã lánh chốn phồn hoa dựa
cửa thiền, mắt ngơ, tai điếc diệt phàm tâm trau dồi hạnh đức ! Cầu khẩn Đức Từ
Bi rưới giọt nhành dương, hằng ngày lo tụng kinh cầu sám chuộc tội tiền khiên
nên danh hiền triết.
Mong thay ! Mong
thay" (Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ)
CHƯƠNG IV
ANH CẢ TOÀN ÐẠO
(1930-1932)
1 .
Cãi án Cao Đài
Khởi đầu năm 1930, một
điều tệ hại đã xảy ra. Ông Đ.N.T nhận tiền của Hội Thánh Cao Đài dịch kinh. Sau
đó, nghe lời kẻ xấu, có bàn tay của Sở Mật thám Pháp, ông Đ.N.T bội ước hợp
đồng. Ông đã có một số vốn hiểu biết về Cao Đài trong một thời gian dịch thuật
nên viết tập sách nhỏ " Cái Án Cao Đài" để moi móc chỉ trích Đạo này
nọ. Ông Băng Thanh, một người ngoại đạo bất bình trước việc làm thiếu trung
thực của ông Đ.N.T nên viết tập " Cãi Án Cao Đài" để biện hộ cho Đạo,
chỉ ra chỗ sai lầm và hiểu biết nông cạn về đạo của ông Đ.N.T. Trên báo Phụ Nữ
Tân Văn số 204 ra ngày 15-6-1933 ông Lê Hoàng trả lời bài kết luận cuộc điều
tra của Ông Huấn Minh. Đến Phụ Nữ Tân Văn số 205, Ông Huấn Minh đặt vấn đề
"Thảo luận cùng nhà lý thuyết Cao Đài" từ trang 9 đến trang 13. Lúc
ấy cũng có nhiều người viết bênh vực chủ trương tổng hợp tôn giáo của Đạo Cao
Đài .
Trước tình hình đó,nhân
danh Chưởng quản Toà Thánh Ngài Thượng Đầu Sư ban hành thông bạch ngày 2-8-1930
:
" Kính cùng chư đạo
hữu lưỡng phái,
Buổi này là lúc thử thách,
cho nên xảy ra nhiều trở ngại trên bước đường Đạo và tai nạn cho chư đạo hữu.
Vậy chư đạo hữu hãy gìn
giữ lòng gan dạ sắt của Thầy ung đúc bấy lâu mà chống với những cơ thử thách đó
thì sẽ đi cùng bước đạo.
Có nhiều đạo hữu chẳng
quản khó nhọc mà đi khuyên nhủ chư đạo hữu cho đặng tâm thành đức vẹn. Ấy là sự
công quả rất lớn lao".
Để chấn chỉnh lại nền đạo,
Ngài Thượng Đầu Sư thông báo tới các đạo hữu nhập môn, đổi giấy răng cưa
(Certificat de baptême) bằng tờ SẮC PHÁI và buộc người được cấp giấy phải thờ
Thiên Bàn và sám hối ăn năn mỗi khi lầm lỗi.
Trong Châu Tri số 61 ban
hành ngày 27-11-1930, Ngài Thượng Đầu Sư viết như sau :
"…Hồi ban sơ, chúng
ta muốn phổ thông đạo cho mau vì Đạo khai trễ một ngày thì hại cho nhơn sanh
một ngày, nên ai cầu Đạo thì phát giấy răng cưa liền, không chờ cho họ thờ
phụng và biết sám hối ăn năn mới phát giấy. Nhiều người giả dối nhập môn đôi ba
chỗ rồi xin giấy răng cưa ở mỗi chỗ, về không thờ phụng, không tu hành chữa
lỗi, để giấy răng cưa trong mình đi nơi này chốn kia gạt gẫm đạo hữu thật thà
hơn mình…
Việc phát giấy thông hành
cho người đạo đặng ngăn ngừa những kẻ dối trộm lịnh cướp quyền thì nhiều nơi
chưa thi hành chi hết, nên có nhiều người in thiệp (carte visite) ở dưới tên
mình đề " Toà Thánh Cao Đài Tây Ninh", rồi đi nơi này chốn kia khoe
nói đi phổ thông đạo, đi truyền đạo, dạy luyện đạo, bày nhiều việc mơ hồ mộng
mị.
Than ôi ! Đời Hạ ngươn
cuối cùng, mưu tà quái rất nhiều, ngăn ngừa không xiết, cũng bởi trong Đạo đố
kị, ganh hiền ghét ngõ, không lập thế lo truyền trọn lời phủ ủy".
2 . Thống nhất nghi tiết và kinh lễ
Nhằm chấn
chỉnh và thống nhất lễ nghi trong Đạo. Hội Thánh có ban hành LỄ NGHI TIẾT ĐAÏI
ĐÀN và TIỂU ĐÀN gởi cho các Thánh Thất. Trong thông tư ngày 27-9-Canh Ngọ (17-11-1930 ) Ngài Thượng Đầu Sư có
nhắc nhở :
"…Tôi xin nhắc : Đạo
một gốc, hành lễ phải y như nhau một thể lệ. Vì việc Lễ nhạc, đọc kinh các nơi
không rập nhau một thể lệ nên năm ngoái tôi có lập ban hội, mỗi Thánh Thất đều
có người thay mặt ban hội ấy sắp đặt một cuốn ĐAÏI ĐÀN TIỂU ĐÀN dâng lên Toà
Thánh. Ngày Đại lễ Đấng Chí Tôn, Hội Thánh cử một ban xem xét cuốn nghi tiết
ấy. Lại nữa trong ban hội này có chức sắc thay mặt Cửu Trùng Đài, có chức sắc
thay mặt Hiệp Thiên Đài hiệp nhau xem xét hết lẽ rồi do phần đây mới ban hành
cuốn NGHI TIẾT ngày nay đã in ra đó…". Còn chính Ngài Thượng Đầu Sư cũng
soạn kinh " Tứ Thời Nhật tụng" cùng ban hành năm đó ( xem hình H5,
H6).
Để thống nhất Kinh lễ và
tránh lợi dụng sách Đạo nhằm mưu lợi riêng, ngày 28-12-1930. Ngài Thượng Đầu Sư
ra châu tri :
" Từ cổ chí kim trong
tôn giáo nào cũng phải có trật tự lễ nghĩa.
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ đã có định :
1. Trách nhiệm của mỗi
chức sắc,
2. Kinh sách, Châu tri, tờ
giấy chi chi cũng do nơi Toà Thánh ban hành cho Đầu Quận, Đầu Họ và chư vị Chư
Thánh Thất do theo đó mà bố cáo cho đạo hữu thông hiểu.
Mới đây nhiều chức sắc
không có quyền ban hành việc chi cho chư hiền hữu, lại tự do không tuân luật
Đạo, in kinh sách lấy danh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để trên bìa sách mà gởi cho
chư hiền hữu. Ấy là một việc làm rối loạn trong nền Đạo.
Vậy từ đây giấy tờ, kinh
sách chi chi không phải tôi hay ba vị Chánh Phối Sư ký tên và đóng dấu của mỗi
Phái ( Ngọc, Thượng, Thái) do Đấng Chí Tôn định, và tờ Châu Tri của bà Chánh
Phối Sư Nữ Phái Hương Thanh thì bà ký tên và con dấu của bà.
Không phải vì mấy vị trên
đây ký tên và con dấu ấn tích thì đừng tuân theo và đừng nhìn là tờ giấy của
chức sắc Đạo.
Xin chư hiền hữu lưu ý
phát Châu Tri này cho Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự, bố cáo cho chư đạo hữu
lưỡng phái biết ngăng ngừa những người vì ganh hiền ghét ngõ mà phân chia con
cái của Thầy".
Vào tháng 2 năm Tân Mùi
(1931), Ngài Thượng Đầu Sư gởi Châu Tri nhắc nhở :
" Ngày nay Đại Đạo đã
ban hành Pháp Chánh truyền chú giải thì Tân pháp đã đạt đặng.
Việc hành chánh đạo thì có
Nghị định của Đức Lý Giáo Tông ( Bát Đạo Nghị Định) phân quyền rành rẽ cho chức
sắc Thiên phong.
Xin chư vị Thiên phong rán
lo sắp đặt Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự cho có quyền đặc biệt.
Mỗi làng cử một Chánh Trị
Sự. Mỗi xóm có một Phó Trị Sự và một Thông Sự dìu đắt mấy chục đạo hữu, phải
biên tên họ vào trong tên trong sổ.
Chánh, Phó Trị Sự và Thông
Sự khuyên đạo hữu là lành lánh dữ, đừng dự vô cuộc loạn ly hay việc chi trái
đường đạo đức. An phận tuỳ duyên, lo làm ăn, khi rảnh thì sùng bái Trời Phật.
Thường ngày được vậy thì
khoẻ khoắn tinh thần yên lòng mình, lại thuận lý Trời, xưa nay thung dung tự
toại, an nhàn vui vẻ mà ngâm thi của Thánh Hiền đã dạy".
Dù Pháp Chánh Truyền chú
giải có thêm Ban Trị Sự để giúp việc kiểm soát đôn đốc thi hành giáo luật và
nghi lễ đạo, nhưng việc tự ý chuyên quyền của một số chức sắc vẫn diễn tiến.
Thế nên, Ngài Thượng Đầu Sư ban hành Châu Tri ngày 30-2-Tân Mùi (18-4-1931)
nhấn mạnh :
" Từ hồi Đại Đạo Tam
Kỳ hoằng khai tới giờ, trong đạo có lắm điều trắc trở là vì không giữ trật tự,
không hoà thuận với nhau.
Nhiều khi Đấng Chí Tôn hỏi
: " Các con thấy trong càn khôn thế giới, nội trong vạn vật Thầy hoá sanh
ra có giống nào mà không trật tự, đẳng cấp chăng ?".
Hồi năm Mậu Thìn, Đức Lý
Giáo Tông giao cho ông Phối Sư Thái Ca Thanh lập chương trình Hiến Pháp. Ngày
4-7-Mậu Thìn (28-8-1928) lễ Thượng Ngươn nhóm Hội Thánh có lập vi bằng. Tôi xin
lục rút tờ vi bằng ấy ra sau đây :
" Ông Phối Sư Thái Ca
Thanh đọc chương trình Hiến Pháp : Trích đoạn chương V và các điều 22,23 và 24.
CHƯƠNG THỨ V
ĐIỀU THỨ 22 : Nghiêm cấm
trong Đạo không ai đặng lấy danh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà dùng THIÊN ÂN, THIÊN
NHÃN mà đề vào kinh sách, bố cáo ..v…v hay in Thánh Tượng kinh sách, nếu kinh
sách và Thánh thượng ấy không có trình ban kiểm duyệt xem xét trước.
ĐIỀU THỨ 23 : Ai phạm hai
điều trên đây thì các kinh sách, tượng ấy phải đem nạp cho Tổng lý ( tức Thượng
Thống) huỷ bỏ. Người có lỗi sẽ giao về Bình Viện ( tức Hoà Viện) phân đoán.
Thảng như người ngoại Đạo
mà phàm nhằm điều lệ 22 quản lý Nội Viện chạy tờ Châu Tri cho chư đạo hữu các nơi
biết, mà không dùng đến kinh sách, tượng in sái phép ấy.
ĐIỀU THỨ 24 : Kể từ ngày
ban hành " Chương trình Hiến Pháp" duy chỉ có một mình Hội Thánh Cửu
Trùng Đài được quyền in kinh sách, tượng để hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ"
(Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu
trữ)
Cũng trong Châu Tri này,
đoạn dưới Ngài Đầu Sư viết :
" Ngày nay nhiều chức
sắc Thiên phong tự tôn, tự đại chấp bút cầu cơ rồi in Thánh Ngôn, kinh sám,
không do Hội Thánh.
Như các quyển : Tu Chơn
Thiệp Quyết, Thánh Giáo Chơn truyền, Chánh lý yếu tà (Thánh thất Bạc Liêu, Rạch
Giá, Mỹ Tho) cũng lấy danh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để ngoài bìa, làm cho đạo hữu
và nhơn sanh tin tưởng lầm của Đại Đạo Tam Kỳ làm ra.
Nhiều vị cũng chấp bút,
cầu cơ, phong giáo sư, giáo hữu, lễ sanh rồi sắm sắc phục và đi các nơi cho đạo
hữu biết tước phẩm của mình và khoe khoang chỉ cho người khác luyện Đạo.
Nên từ đây :
Chư chức sắc Thiên phong,
Đầu Họ, Đầu Quận Đạo đi phổ thông thì có tờ tuyển bổ của Toà Thánh ban quyền.
Bất luận Thiên phong, chức
sắc hay đạo hữu đi truyền đạo hay nói chuyện chi mà không có trình giấy tờ thì
là người giả dối, mạo quyền đi phá rối trong đạo.
Xin lưu ý :
Toà Thánh không nhìn nhận
mấy quyển : Tu Chơn Thiệp Quyết, Thánh Giáo Chơn Truyền, Thánh Ngôn của Thánh
Thất Bạc Liêu, Rạch Giá, Mỹ Tho".
3 . Ngài
Thượng Đầu được ban phẩm Quyền Giáo Tông.
Vào mồng 3-10-Canh Ngọ
(12-1-1930) một đàn cơ do Đức Hộ Pháp cầu cơ tại Hiệp Thiên Đài Toà Thánh, Đức
Lý giáng cơ ban phẩm Quyền Giáo Tông ĐĐTKPĐ cho ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt
thế danh Lê Văn Trung.
Đạo Nghị định thứ nhì
(trong Bát Đạo Nghị Định), điều thứ nhứt ban hành ngày 15-10-Canh Ngọ, Đức Lý
phán rằng : " Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho lão mà thi
hành các phận sự Giáo Tông về phần xác còn phần thiêng liêng đã có Lão".
Như vậy Đức Lý và Đức Quyền Giáo Tông hợp lại đúng với lời Đức Chí Tôn định
" Thiên nhơn hiệp nhứt".
Một đàn Cơ khác ( ngày
1-8-1931), Đức Lý lại dạy:
" Ngày nay lão đã
nhượng nửa quyền hành cho đó là có ý để mắt coi hiền hữu đúng phận cùng chăng ?
Lão hạ mình bỏ quyền Nhứt trấn lãnh việc Giáo Tông mà lập vị cho đàn em bước
tới. Lão đã lắm phen thấy nhiều khó khăn của phần ấy, nên ra tay giục loạn để
phân rõ chánh tà hầu giúp phương cho Hội Thánh trừ khử.
Lão mừng hiền hữu đó. Lão
vì Chí Tôn đã hứa mà lập vị cho đáng giá. Vậy hiền hữu cũng phải tận tâm chung
lo với Lão mới phải.
Ngay nay hành chánh thì
cũng nên lập vững cho đủ tư cách của một người cầm sanh mạng của nhân sanh.
Chưa có ngôi vị Đế Vương nào mà sánh với phẩm vị Thiêng Liêng đặng. Khá phân
biệt trượng kinh mà giữ gìn kẻo bị tà tâm rối loạn".
Tại Tháp Đức Quyền Giáo
Tông vào ngày 30-10-Đinh Hợi (1947), Đức Hộ-Pháp đánh giá việc Đức Lý ban nữa
phẩm Quyền Giáo Tông cho Đầu Sư Thượng Trung Nhựt như sau :
" Bần Đạo quả quyết
nói với bằng chứng hiển nhiên là bạn đồng thuyền. Bần Đạo biết rõ giá trị của
Thượng Trung Nhựt là dường nào.
Ngôi vị Giáo Tông Đạo Cao
Đài do Đức Lý cầm quyền, giữ gìn Thánh Thất nửa phàm mà tạo ngôi tại vị thế là
Thượng Trung Nhựt đó. Ấy vậy Thượng Trung Nhựt tạo ngôi vị Giáo Tông cho Đạo Cao
Đài như thánh : Sant Pierre tạo ngôi Thánh Hoàng cho Pha Pha tại Rome vậy.
Chí Tôn đến một cách đột
ngột tình cờ, trong thế kỷ XX này. Ngài xưng tên làm cho cả thảy ngạc nhiên
nhứt là chúng ta đang đi trong đường thế tục tối tăm, ngày ấy người niên kỷ cao
hơn hết là Thượng Trung Nhựt chúng tôi có hỏi người : Est-ce possible ? ( có
thể vậy không ?). Chúng tôi chẳng khác chi ở trong Địa huyệt đang tìm con đường
sáng. Chúng tôi còn tăm tối. May thay ! Người có duyên tiền định đến dìu dắt
chúng tôi ra khỏi chốn địa huyệt âm u, nhờ hai con mắt sáng của người làm dẫn
Đạo. (Đức Chí Tôn khai sáng mắt cho Ngài Lê Văn Trung như đã viết ở trước)
Khi chúng tôi hỏi : Est
-ce possible ? Người trả lời : C'est bien possible?(có thể vậy lắm?), bởi thiên
hạ đang thảm khổ nên người ấy đến không phải là lạ. Người quả quyết rằng : Đấng
ấy đến buổi này thật là Chí Tôn đó vậy".
Vì thành tâm nguyện vọng
của người cảm xúc cõi hư linh làm cho Chí Tôn và cả đức Thần Thánh Tiên Phật
đều động lòng.
May thay ! Chí Tôn đến lập
nền Quốc Đạo cho chúng ta tại nước Việt Nam thì không có gì vinh diệu cho nòi
giống chúng ta hơn.
Bần Đạo quả quyết rằng
trót một đời người, tìm cho ra một mặt biết thương nòi giống, với một tâm lý
nồng nàn như Thượng Trung Nhựt. Bần Đạo chưa thấy được hai người. Nếu chẳng vì
tình ưu ái vô hạn thì người chẳng hề huỷ thân danh tạo nên hình thể Đạo để lại
cho quốc dân. Cái đại nghiệp tinh thần ấy sâu xa chừng nào thì càng quý hoá
thêm nữa. Thiên hạ sẽ rõ tấm lòng yêu ái của Thượng Trung Nhựt biến ra một quốc
hồn kiên cố.
Cả thảy quốc dân đều phải
cúi đầu vâng theo ý chí cao thượng ấy, không có một lưỡi gươm nào tiêu diệt
được sự nghiệp của người "
(Lời thuyết đạo của Đức
PHP ( quyển 2) Tây Ninh 1973)
Dù Đức Lý Thái Bạch nhượng
quyền Giáo Tông về phần xác cho Thượng Đầu Sư nhưng ngài chưa hành xử quyền đó
và chưa dự định đăng điện phẩm vị cao quý này.
4 . Thành lập Cửu Viện
Sau khi nhận
Quyền Giáo Tông do Đức Lý ban, ngài Lê Văn Trung bắt đầu chấn chỉnh lại guồng
máy hành chánh cho có hiệu lực. Đức ngài Tư Văn cho ba vị Chánh Phối
Sư lập thành cửu viện. Theo Châu Tri số 9 ngày 16-3-1931 gửi cho các Thánh Thất
có định rõ.
Theo Đạo Nghị Định thứ tư
:
Thượng Chánh Phố Sư được
quyền xem xét các nơi chăm nom đạo hữu, giáo dục nhơn sanh, thay mặt cho toàn
Đạo mà giao thông cùng chính phủ và cả tín đồ. Chủ toạ Hội nhơn sanh, cai quản
:
1 - Nội viện ( sau đổi ra
Nông viện)
2 - Học viện
3 - Y viện
Thái Chánh Phối Sư đặng
quyền điều hành, đi Phổ độ cầu xin và điều độ chức sắc hành Đạo tha phương, làm
chủ toạ Hội Thánh và chủ tài liệu Đạo, lo về tài chánh và định lương hướng cho
chức sắc Thiên phong, cai quản :
1 - Hộ viện
2 - Công viện
3 - Lương viện
Ngọc Chánh Phối Sư đặng
quyền sửa trị cả Chức sắc tín đồ về phần Đạo và phần đời, coi sóc chơn truyền
Hội Thánh, buộc chức sắc làm y phận sự và cầm quyền tạm dụng, cai quản :
1 - Lại viện
2 - Lễ viện
3 - Hoà viện
Đứng đầu mỗi viện là một
Phối sư, chức danh là Quản lý, Phó Quản lý về sau cải danh là Thượng Thống và
Phụ Thống.
5 . Bộ
nội luật Toà Thánh
Để có trật tự và lễ giáo
trong nội ô Toà Thánh , Đức Quyền Giáo Tông cho soạn Bộ Nội Luật,
được thông qua ban nội
luật ngày 19-11-1931, Hội Nhơn sanh ngày 24-11-1931, Hội Thánh ngày 24 đến ngày
26 tháng 12 năm 1931 và Thượng Hội từ ngày 4 đến ngày 6 tháng giêng năm 1932,
mãi đến ngày 20-2-1932 (15-1-Nhâm Thân) mới ban hành.
Bộ nội luật này có bảy
chương, lời mở đầu ghi : Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khai đã 6 năm rồi, Toà Thánh là
nguồn Đạo phải có Nội luật nghiêm trang. Vậy từ đây ai ở Toà Thánh nam nữ cũng
vậy và chư Đạo hữu lưỡng phái về Toà Thánh cũng phải tùng theo nội luật.
Chương thứ nhứt :
Quy định về đại lễ cúng tứ
thời, tụng kinh tại bửu Điện, lễ cầu siêu cầu nguyện cho lành bệnh, lễ hôn
phối, lễ nhập môn…
Chương thứ nhì :
Bổn phận người hiến thân
tại Toà Thánh và thiên phong, chức sắc vùng Đạo Hữu lưỡng phái về Toà Thánh
phải thông thạo kinh sách, học Đạo và luật Đạo.
Chương thứ ba :
Phòng trù và nhà khói phải
giữ vệ sinh và thứ tự theo điều luật của quản lý nội viện và lương viện sắp đặt
. Đông lang thì chức sắc nam phái . Tây lang thì chức sắc nữ phái.
Chương thứ tư :
Phòng văn, nhà giảng Đạo,
nhà ngủ nhà thương, các trường giở mở cửa làm việc :
- Sáng từ 7 giờ đến 11 giờ
30 phút.
- Chiều từ 2 giờ 30 phút
đến 5 giờ 30 phút.
Chương thứ năm :
Luật lệ chung về cách giao
thiệp với nhau :
Chức sắc đối với Đạo hữu
phải giữ khiêm cung, tỏ lòng đạo đức, nhớ lời dặn :
Nghiêu chẳng dùng PHÁP
LUẬT
Thuấn chẳng lập LUẬT ĐIỀU
Thang không dùng hình phạt
Văn Vương không lập NGỤC
THẤT
Chương thứ sáu :
Chức sắc và đạo hữu về Toà
Thánh thì phải tín ngưỡng mấy điều sau :
- Sùng bái Đấng Chí Tôn và
các Đấng Thiêng Liêng cũng như về nhà ông cha yêu dấu chung.
- Ai cũng có lòng về Toà
Thánh học hỏi việc đạo và lập công bồi đức, làm công quả có ích cho Đạo là lo
chung cho nhơn sanh.
Chương thứ bảy :
Định phần thưởng phạt phân
minh, quy định rõ ban kỷ luật.
6 . Đạo Cao Đài ra ngoại quốc
Đạo Cao Đài
mỗi ngày phát triển. Báo chí nước Pháp và nước Đức đăng nhiều bài nghiên cứu có
giá trị. Do đó vào đầu năm 1931, nhiều du khách Đức đến viếng thăm Toà Thánh
Tây Ninh, nghiên cứu và chụp ảnh tư liệu, sau đó trên báo BERLINER ILLUSTRIERTE
ZEITUNG ra ngày 21-6-1931 có một bài viết nhan đề "Giáo phái mới lạ nhất
của thế giới" (La plus étrangère secte du monde) kèm theo nhiều hình ảnh
của Toà Thánh Tây Ninh. Nhờ đó, một giáo phái ở Đức có chủ trương giống Đạo Cao
Đài xin tài liệu về Đạo nhà, được Đức Quyền Giáo Tông gởi cho họ một quyển sách
viết về " Phật Giáo Chấn Hưng" ( Le Bouddhisme rénové) và đã được Đức
Thánh Cha của Giáo Hội Eglise Gnostique của nước Đức phúc thư như sau :
P.
Futlingen, ngày 13 tháng 11 năm 1931.
" Kính
thưa Đức Ngài,
Cao cả quyền
năng và thánh thiện
Thưa Đức Ngài,
Bứcthông điệp của Đức Ngài
đã tới vùng Trung Âu chúng tôi.
Tổng giáo
hội Eglise Gnostique Đức Quốc mà tôi là Trưởng Lão quyết
định chuẩn bị liên hợp với Đạo Cao Đài.
Tôi lãnh
nhiệm vụ báo tin cho Đức Ngài biết về sự quyết định này và kính xin Đức Ngài
thông truyền cho chúng tôi về lịch sữ, hiến chương giáo lý và những
nghi lễ của nền Đại Đạo bằng tiếng Pháp, tiếng Anh hoặc tiếng Hà Lan . Nhờ đó,
chúng tôi có thể tổ chức các giáo hội Cao Đài ở các quốc gia như Đức, Aùo, Thuỵ
Sĩ, Hà Lan, Bỉ, Lithuanie, Esthonie, Latvie.
Để vững tin vào sự thực
hiện điều mong nước đó, xin Đức Ngài coi tôi như cấp dưới khiêm nhường.
Ký tên : H.GOD WIN
Đức Thánh Cha và Trưởng
Lão
Giáo hội Eglise Gnostique Đức quốc
(Xem nguyên văn chữ Pháp trong PHỤ CHÚ 2)
Nhằm phổ độ đạo ra nước ngoài và đồng thời hỗ
trợ cho Đức Thánh cha H.God Win, ngày 1-12-1931 Đức Quyền Giáo Tông gởi một
lượt hai văn thư: Một cho nghiệp đoàn báo chí thế giới và một cho các vị nguyên
thủ quốc gia trên thế giới.
Văn thư gởi cho các Chủ tịch nghiệp đoàn báo
chí thế giới như sau:
" Kính gởi quý vị Chủ
tịch,
Chúng tôi rất hân hạnh và
kính cẩn yêu cầu qúy vị thông báo cho tất cả các chủ bút các nhật báo, các tạp
chí định kỳ, dành cho chúng tôi một trang để kêu gọi sự thống nhất đức tin như
bản văn kèm theo đây.
Đó là một đặc ân mà báo
chí dành cho toàn thể nhân loại. Bởi vì nếu sự thống nhất đức tin được thực
hiện, các dân tộc sẽ xem nhau như anh em và hoà bình thế giới sẽ hiển hiện.
Thế giới sẽ thoát khỏi cơn
ác mộng ghê gớm về một trận thế chiến sắp xảy ra mà sức tàn phá sẽ mười lần dữ
hơn trận thế chiến 1914-1918.
Mong quý vị Chủ tịch nhận
nơi đây những cảm tình trân trọng và biết ơn của chúng tôi.
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Q. GIÁO TÔNG ĐĐTKPĐ
Và văn bản cùng ngày
1-12-1931 gởi cho các vị nguyên thủ các nước như sau :
Toà Thánh Tây Ninh, ngày 1
tháng 12 năm 1931
Kính gởi :
Các Hoàng Đế, Các Quốc
Vương.
Các vị Lãnh đạo các tôn
giáo.
Kính thưa quý Ngài,
Chúng tôi trân trọng và
thành kính thông báo đến quý ngài: Đấng Tối cao tức ĐẤNG THƯỢNG ĐẾ TOÀN NĂNG mà
cũng là ĐAÏI TỪ PHỤ của tất cả nhân loại, đã giáng trần ở một vùng của nước
Việt Nam, thuộc tỉnh Tây Ninh, một nền Tân Tôn Giáo. Nền Tân Tôn Giáo này có
thể canh tân toàn thế giới bằng một lý tưởng cao quý : Đó là tình thương yêu
vạn loại. Do sự chuyển vần của Tạo Hoá, các sắc dân tộc sẽ đồng tâm hợp lực,
kết tình anh em với nhau và chừng ấy nền hoà bình thế giới sẽ phát hiện.
Chiến tranh ! Cuộc chiến
tội lỗi giữa huynh đệ chém giết lẫn nhau một cách gớm ghiếc , sự kinh tởm của
thế kỷ XX được mệnh danh là tiến bộ văn minh, vẫn có thể tránh được.
Sở dĩ chúng tôi nói đến
TỘI HUYNH ĐỆ GIẾT NHAU là vì dầu cho chủng tộc nào có phân chia nòi giống,
nhưng tất cả đang sống trên quả địa cầu này đều là con cái cùng tuỳ thuộc dưới
quyền năng tự trị của Đấng cha chung là Thượng Đế, hay nói rõ hơn là Đấng Chúa
Tể cầm vận mạng của họ. Một khi các dân tộc gây chiến tranh với nhau, điều đó
có khác chi anh em một cha đã tự diệt nhau đó vậy.
Nhận lãnh nơi THƯỢNG ĐẾ ,
bậc TỪ PHỤ của toàn nhân loại, chúng tôi có cái sứ mạng truyền bá nền chánh
giáo của Người đến khắp toàn cầu.
Chúng tôi có đủ bằng chứng
về sự giáng trần của Người nhiều phép lạ đã xảy ra giống như thời xưa Chúa
Jésus đến ban phép lành ở Lourdes và các nơi khác.
Tin tưởng mãnh liệt vào
hiệu năng của nền Tân Tôn Giáo này và hoàn toàn vững tin nơi thiện ý của mình,
chúng tôi đã gởi đến chính quyền thuộc địa Pháp một bản minh thơ viết tay (kèm
theo đây) mà nội dung chúng tôi cam kết với lời hứa chịu tử hình : chỉ chăm lo
về mặt đạo chớ không mảy may nào làm rối an ninh trật tự. Ngược lại, chúng tôi
yêu cầu được sự giúp đỡ và hỗ trợ của nước Pháp để thi hành sứ mạng truyền bá
của nền Tân Tôn Giáo này khắp hoàn cầu.
Đối với sự kính trọng của
chúng tôi, tiếc thay, các vị thay mặt nhà cầm quyền thuộc địa Pháp vẫn không
hảo ý đáp ứng. Một số ít chứng tỏ thông cảm, khoan dung. Một số khác lại áp
dụng đủ mọi cách để ngăn chặn sự truyền bá này.
Đức Thượng Đế đã giáng dạy
chúng tôi hoằng hoá Thánh giáo của Người đến khắp hoàn cầu. Chúng tôi quả quyết
không có gì lầm lẫn trong sứ mạng ấy. Đặt mình với nhiệm vụ, chúng tôi khẩn
thiết yêu cầu qúy ngài thông truyền cho toàn thể nhân loại trên thế giới hiểu
biết việc làm của chúng tôi để mọi người hiểu rằng : giờ ĐAÏI XÁ của Đức THƯỢNG
ĐẾ đã điểm và sự thống hợp con cái của Đấng Hoá Công là để phụng sự cho hoà
bình hơn là tìm kiếm phương kế thống trị thế giới.
Muốn được vậy, chỉ cần sao
cho tất cả người đời biết thương yêu đồng chủng giữ gìn hạnh đức đúng theo con
đường mà Đức Chí Tôn đã vạch.
Chúng tôi tin chắc rằng
hơn ai hết, quý vị Đế Vương, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Giáo Chủ ..v…v.. đều muốn
cho thần dân và thuộc hạ đang sống dưới quyền của quý vị đều được sống mà không
bị ám ảnh bởi một sự sợ hãi triền miên về một trận thế chiến sắp xảy ra. Các vũ
khí tối tân sẽ tạo những tàn phá, những sự kinh tởm không xiết. Hơn nữa, quý vị
mong họ được sống một đời an bình, hạnh phúc và vĩnh viễn thoát khỏi cơn ác
mộng của một trận chiến gần kế. Chúng tôi thỉnh cầu qúy Ngài sớm phái đến chúng
tôi một số người để họ hiểu rõ hơn những gì mà chúng tôi đã xây dựng nên.
ĐỨC THƯỢNG ĐẾ phán dạy
chúng tôi như vầy : "Các con ! Mối Đạo của Thầy, nếu các con phát trễ một
ngày, mỗi ngày qua sẽ là dịp để cho hàng trăm ngàn linh hồn bị đoạ lạc nơi chốn
trầm luân".
Giờ đây, lời kêu gọi đã
được truyền ra khắp chốn, chúng tôi nghĩ rằng mình đã làm tròn phận sự, tuy
nhiên khi nào có đủ phương tiện, chúng tôi sẽ đi khắp hoàn cầu để truyền đến
mỗi dân tộc lời Thánh giáo mới lạ này.
Kính mong quý vị chiếu cố
và nhận nơi đây lòng tôn kính sâu xa của chúng tôi,
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Q. GIÁO TÔNG ĐĐTKPĐ
Văn thư gởi cho các nghiệp
đoàn báo chí thế giới và thông điệp gởi cho các nguyên thủ quốc gia và các hàng
giáo lãnh các nước đã gióng tiếng chuông lớn : ÐẠO CAO ĐÀI RA NGOAÏI QUỐC.
7 . Quyền Chí Tôn nơi Hộ Pháp và Giáo Tông.
Để đối phó lại tình hình
đang diễn biến bên ngoài nước cũng như bên trong nước, Đức Chí Tôn giáng cơ
ngày 23-12-1931 nơi Thảo Xá Hiền Cung ( tỉnh lỵ Tây Ninh) ban quyền Chí Tôn nơi
Hộ Pháp và Giáo Tông.
" Các con hãy nhớ
rằng toàn thế giới càn khôn có hai quyền: quyền hành Chí Tôn của Thầy, dưới là
quyền của chúng sanh. Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy là Hội Thánh của Đại
Đạo, rồi Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy, đặng
đủ phương tiện tận độ chúng sanh, dưới quyền hành chuyển thế của đời ; nghĩa là
toàn thể nhân loại đồng quyền cùng Thầy, mà Tạo Hoá, Vạn linh vốn con cái của
Thầy. Vậy Vạn linh cũng có thể đạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.
Thầy nói rõ : quyền Chí
Tôn là Thầy, quyền Vạn linh là chúng sanh. Ngày nào quyền lực Chí Tôn đặng hiệp
cùng Vạn linh thì Đạo mới ra thiệt tướng. Thầy đã ban quyền hành Chí Tôn của
thầy cho hai đứa làm đầu Hội Thánh là Giáo Tông và Hộ Pháp. Vậy quyền hành Chí
Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo Tông cùng Hộ Pháp hiệp một. Quyền hành Chí
Tôn của Thầy duy chỉ có quyền hành Vạn linh đối phó mà thôi".
Xem như thế, từ đây Đức
Quyền Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp thống nhất ý chí tạo luật là quyền Chí Tôn
tại thế. Nhất nhất tín đồ phải nghe theo. Duy chỉ có quyền Vạn linh mới nạy lý
không tuân, mà quyền Vạn linh là phối hợp của ba hội: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh
và Thượng Hội. Như thế cũng khó mà bác bỏ một đạo luật do nhị vị đặt ra. (Dẫn
lại trong Đại Đạo Sử Cương (quyển 2 ), trang 10 - 11)
8 . Ba
hội lập quyền Vạn linh
Nội luật này được ban hành
ngày 22 tháng giêng năm Nhâm Thân (17-2-1932) do Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Quyền
Giáo Tông ký. Ba hội là : Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh, gồm đủ cả ba
hội mới lập được quyền Vạn linh.
Xin tóm lược ba hội như
sau:
1 - Thượng Hội: gồm có
Giáo Tông Hội trưởng
Hộ Pháp Phó Hội Trưởng
Thượng Phẩm Nghị Viên
Thượng Sanh -nt-
Ba vị Chưởng Pháp -nt-
Ba vị Đầu Sư nam phái -nt-
Bà Đầu Sư nữ phái -nt-
Mục đích của Thượng Hội là
xem xét và phê chuẩn :
-Các điều của Hội Nhơn
Sanh và Hội Thánh ; trừ ra các điều nào, Hội Nhơn Sanh mà Hội Thánh đánh đổ thì
không được phép đem vào Thượng Hội , nếu không có đơn của hai ông chủ hội kêu
nài .
Thượng Hội bàn luận và
định đoạt các việc cần gấp hoặc yếu trọng phải ban hành trong Đạo .
2 . Hội Thánh : gồm có
Thái Chánh Phối Sư Chủ
Trưởng
Từ Giáo hữu đến Phối Sư
Hội viên
Hội Thánh có quyền xem xét
các việc của Hội Nhơn Sanh dâng lên và các việc hành chánh trong đạo, rồi đệ
lên Thượng Hội. Thường ngày, Hội Thánh đại diện quyền của Đại Đạo hành khiển
mọi việc.
3 .
Hội Nhơn Sanh gồm có :
- Thượng Chánh Phối Sư
Nghị Trưởng
- Nữ Chánh Phối Sư Phó
Nghị Trưởng
- Lễ sanh, Chánh Phó Trị
sự, Thông sự ……….. Nghị viên
Mục đích của Hội Nhơn Sanh
là trù tính các việc :
+ Giáo hoá nhơn sanh
+ Lo liệu phương hay cho
đời, Đạo khỏi điều phản trắc và nâng cao tinh thần trí thức của nhơn sanh.
+ Phổ độ nhơn sanh vào
đường Đạo, dìu dắt tín đồ cho khỏi trái bước, trọn dâng theo các luật lệ của
Đạo.
+ Xin sửa cải thêm bớt hay
huỷ bỏ những luật lệ của Đạo không còn phù hợp với trí thức và tinh thần của
nhơn sanh.
+ Lo cho nền Đạo được
trong ấm ngoài êm và đủ mọi phương tiện đặng phổ thông nền chơn giáo.
+ Xem xét công nhận về
phương diện chánh trị Đạo, quan sát sổ sách phân xuất tài sản và nghị số.
9 . An
dưỡng và tịnh luyện .
Thuở ban đầu , Đức.Q. Giáo
Tông vào Đạo chưa được bao lâu, Đức Lý Thái Bạch giáng đàn vào đêm 27-1-1926
dạy Ngài như sau :
Có công phải biết gắng nên
công (Phu)
Tu tánh cho xong, rán
luyện lòng (Tâm)
Kinh sách đầy đầu chưa
thoát tục,
Đơn tâm khó (Thiền) định
lấy chi mong.
Chỉ có bốn câu mà Đức Lý
đã dạy rõ Tân pháp tu luyện của Đạo Cao Đài là Tâm Pháp. Mỗi đạo hữu hằng cấm
túc an cư để thúc liễm thân tâm, trau dồi giới hạnh. Trong đường tu, việc kiểm
soát thân tương đối dễ hơn tâm. Điều khiển tâm mình theo đường thiện, tránh ác
ý với mọi người không đơn giản chút nào. Thế nên Đức Q. Giáo Tông đã chọn mùa
hè từ tháng 3 đến tháng tháng 6 năm 1932 để an cư kiết hạ. Ở tại Giáo Tông
Đường an dưỡng vào mùa hè là tốt nhứt. Vì mùa hạ, cây cối nẩy mầm, côn trùng
sinh nở , nếu đi lại nhiều có thể dẫm đạp làm hại chúng sanh hạ đẳng. Cho nên
Đức Ngài nói :
" Từ ba tháng nay,
tôi an nghỉ không gần gũi với chư hiền hữu, chư hiền muội.
Trong lúc an nghỉ, tôi có
suy xét ba phương diện :
1 . Theo căn số của tôi năm nay phải nạn to mà nhờ tu
luyện nên trời độ qua khỏi nạn.
2 . Tôi có tội với Thần Thánh Tiên Phật vì cầm mối
Đạo không vững nên phải đau ba tháng.
3 . Cở thử thách coi tôi có ngã lòng đổi chí chăng ?
Nền Đạo có thương tâm bác ái chăng ?"
Rồi Đức Ngài giải thích về
chữ tu như sau :
" Tu là trau dồi tánh
hạnh. Tu không phải từ mơi tới chiều tụng kinh. Tu có nhiều bực : bực Thượng
thừa phải ép mình hành xác, phải nâu sồng khổ hạnh, lo làm âm chất, lo công
qủa. Chừng qủa mãn tìm chỗ u nhàn mà luyện đạo. Nếu trong thế gian mỗi người
đều phế công việc mà tìm chỗ u nhàn, như vậy thì thế sự này phải ấm lạnh, còn
ai đâu mà lo nhơn đạo. Người hành đạo mà bỏ nhơn đạo, không lo nhơn đạo cho
hoàn toàn thì hành đạo vô ích".
Trong vài câu ngắn ngủi,
Đức Ngài cho biết Tân pháp của Đạo Cao Đài : "Tiên Phật nơi mình chẳng ở
xa". Làm việc cứ làm việc, tu cứ tu (lúc rảnh). Đó là lối tu đơn theo
truyền thống Đạo Cao Đài. Tứ đại oai nghi : đi đứng nằm ngồi đều tu, không phải
đến chùa, trước Trời Phật mới gọi là tu. Hành giả bậc thượng thừa tu bất cứ
đâu, tâm an tịnh, giữ lòng trong sạch theo luật mà Đức Hộ Pháp đã ban hành
" Phép trị tâm".
Tóm lại, việc Đạo trong
năm 1932 được Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh trình bày tại Đại Hội Nhơn Sanh
lần thứ nhì (lần nhứt 24-11-1931) vào ngày 15-10- Nhâm Thân ( 12-11-1932) như
sau :
" Nhờ Ơn Trên ban bố,
nơi Toà Thánh năm đầu được bình yên, số người hành hương hay viếng được 7673
người, trong số có 56 người Lang sa, số người đến làm công qủa được 5036 người.
Mấy kỳ lễ đều được quan chức cho phép cúng đại đàn…
Tình trạng nền Đạo trong
năm đà chinh nghiêng vì hạnh đức của một phần chức sắc còn thiếu kém…
Nơi Hậu Giang, Phối Sư Ca
tách ra kích bác mấy vị Đại Thiên phong ở Toà Thánh. Ông dùng cơ bút riêng đi
khắp Lục tỉnh mà phổ độ nhơn sanh" .
(Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu
trữ)
Mầm chia rẽ lập chi phái
bắt đầu manh nha. Điều đáng lưu ý, những vị tách rời Toà Thánh Tây Ninh về lập
chi phái riêng đều tự thăng chức như phái Tiên Thiên, Giáo Hữu Chín thăng lên
Ngọc Chưởng Pháp, Phối sư Nguyễn Bửu Tài lên Giáo Tông; Ban chỉnh đạo Q. Đầu sư
Lê Bá Trang thăng lên Chưởng Pháp v..v.. Những điều đó nói lên cái gì ? Ngay
trong ngày Khai Đạo vì ham chức phẩm đã xảy ra việc tà quái và Đức Chí Tôn cho
đó là "Thiên cơ" mà người chịu lao đao về việc giành tranh ngôi vị là
Đức Q. Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
CHƯƠNG V
NHỮNG TRỞ NGẠI TRÊN ĐƯỜNG HÀNH ÐẠO
(1933-1934)
Ngay trong ngày khai đạo
đã xảy ra biến cố tà quái hàm ý tham vọng chức phẩm. Việc đó đeo đẳng suốt đời
hành đạo của Đức Q. Giáo Tông. Thêm vào đó, tính tình khảng khái, thẳng thẳn và
cương quyết của Ngài trong lúc hành đạo đã chạm đến nhiều vị chức sắc, khiến họ
không bằng lòng. Nhưng nếu không có sự kiên quyết xây dựng nền Đạo của Đức Ngài
thì chẳng có "Tờ Khai Tịch Đạo" (23-8-Bính Dần ) và cũng chẳng có
"Ngày Khai Đại Đạo" tại Gò Kén (15-10-Bính Dần). Mặt khác, nếu Đức
Ngài không quyết tâm xây dựng Toà Thánh bằng vật liệu nặng thì đâu có Toà Thánh
Tây Ninh hiện nay, dù Ngài chỉ cho đào móng đặt viên đá đầu tiên xây nền Bát
Quái Đài.
Đức Ngài sợ lỗi vì lời hứa
với Ơn Trên nên quyết tâm làm nền đạo ra thiệt tướng mà đụng chạm đến nhiều
chức sắc.
Không ai có thể trách Đức
Ngài mở Toà Tam Giáo lần thứ nhứt vào mồng 1-12-Canh Ngọ (1930) do chính Ngài
ngồi ghế chánh toà đã xử tội các chức sắc phạm pháp theo Thập Hình của Đức Lý
Giáo Tông. Trong đó có Phối Sư Thái Ca Thanh , một số Thời Quân và các chức sắc
ở Thánh Thất Cầu Kho.
Ngày 15-7-Tân Tỵ
(28-8-1931), Toà Tam Giáo lần thứ hai mở ra xử vị Chưởng Pháp Trần Đạo Quang,
Phối Sư Thái Ca Thanh và nhiều chức sắc khác. Đó là cái mầm oán hờn đã gieo
xuống, chờ ngày lãnh hậu quả của nó (Xem P.C.6).
1 - Cơn khảo dượt lần thứ nhứt (1933)
Cái "mầm oán
hờn" đủ lớn khi Đức Q.Giáo Tông và Đức Hộ Pháp đồng ký tên ban hành Châu
Tri số 1 vào ngày 5-3-Quý Dậu (1-4-1933) (Xem P.C.7.)
Q. Ngọc Đầu Sư phản ứng
triệu tập một phiên họp gọi là Thượng Hội. Ông tuyên bố lý do buổi họp là để
xét lại hành động của Đức Q. Giáo Tông.
Ông Lê Bá Trang soạn sẵn
vi bằng xét về hành động của Đức Q. Giáo Tông qua 9 điểm.
Tờ vi bằng có 26 trang
đánh máy khổ 21x27 độ 16000 chữ với câu kết là :
" Chư hội viên Hội
Vạn Linh đồng quyết định đệ lên cho Toà Tam Giáo Thiêng Liêng định".
Hội nghị vừa tan, một đạo
hữu đứng bên ngoài đọc to lean:
Ánh vàng Trung Nhựt toả hào quang,
Đại Đạo phổ truyền khắp thế gian.
Trang Bá móc moi trời tối sẫm,
Phan Long trơ tráo đất phai tàn.
Nhơn sanh ngơ ngác tan đôi nẻo,
Chức sắc âu lo sợ lạc đàng.
Hội Vạn linh này sai luật pháp,
Tranh quyền bia miệng đến ngàn năm.
Họ lo tranh thủ về Sài
Gòn, ai đâu để ý bài thơ thâm thuý đầy ý nhị ấy.
Trước đó ( 14-8-1931) Đức
Q. Giáo Tông ban hành Châu Tri có đoạn viết rất khiêm tốn và chính xác. . .
Nhưng người ta cố ý hiểu ngược lại. Mọi việc do Q.Ngọc Đầu Sư bày ra. Ông đem
nội bộ kiện ra toà đời, rồi khuyến khích Giáo Hữu Thượng Bộ Thanh và một số đạo
hữu mở Đại Hội Nhơn Sanh bất thường ngày 26-11-1933, để yêu sách Đức Q. Giáo
Tông này nọ.
Sợ đạo loạn sanh ra biến
đổi khó lường, ngày 26-12-1933 bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh đứng trung gian
mời Đức Q.Giáo Tông và Ngài Ngọc Trang Thanh họp mặt tại Nữ Chánh Phối sư
đường. Hôm sau, Ngọc Trang Thanh và Giáo Tông Đường thảo tờ Hoà Hợp. Liền đó,
Đức Q.Giáo Tông vì nền đạo trên hết ký tờ Bố Cáo số 150.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét