Chân Dung Quyền Giao Tông Lê Văn Trung - 3 / 5 (GS Trần Văn Rạng)


Tờ Bố Cáo của Đức Q. Giáo Tông là hành động cao thượng nhường bước cho đàn em gách vác việc đạo. Thế nên, ngày 14-1-1934, Đức Chí Tôn tỏ lòng mừng giảng dạy :

" Thầy đến chứng kiến lòng thành thật của các con chức sắc HTĐ..
Hộ Pháp, nói với Trung rằng Thầy đã biết tình cảnh đạo ra sao và bởi đâu. Nó nên an tâm tin
tưởng nơi hành động của mấy em nó. Thầy sẽ làm cho rõ cơ huyền diệu của đạo. Thầy chỉ khuyên các con nên giữ mình về một mối thử thách kề cận đây nữa".
Đức Chí Tôn đã tiên tri một thử thách nữa kề cận. Để phòng xa mọi bất trắc, Đức Q. Giáo Tông ban hành tờ PHỔ CÁO CHÚNG SANH.

2. - Cơn khảo dượt lần hai (1934)

Xin nhắc lại trong vi bằng Hội Vạn Linh do Ngài Ngọc Trang Thanh triệu tập, trong lời bế mạc, ông Nghị Trưởng mặc đồ tây Nguyễn Phan Long tỏ bày như sau :
" Tôi xin lập lại một lần nữa ( nghĩa là đã có nhiều lần) cho chư đạo hữu nhớ rằng trong chín khoản buộc tội (Thượng Trung Nhựt) chỉ có khoản thứ sáu là hệ trọng hơn hết (tức khoản tiền bạc)".
Thực vậy, người ta xúi giục đạo hữu Nguyễn Ngọc Lịch và một ít người nữa kiện Đức Q. Giáo Tông ra toà đời. Thật buồn cười, Sở Tuần Cảnh Tây Ninh đem án phạt vào Giáo Tông Đường mời Đức Ngài ra Tây Ninh chịu ngồi khám vào ngày 20-2-1934 vì tội 34 đạo hữu thiếu thuế và hai người đạo hữu đánh xe bò của Hội Thánh về tội đi xe bò không đốt đèn và bò lại thiếu sợi dây buộc ách. Đức Q. Giáo Tông chỉ bị an trí tại Toà 24 giờ mà thôi. Vì hôm sau có vía Đức Phật Thích Ca, chính quyền Pháp sợ giáo dân biểu tình đòi thả Đức Q. Giáo Tông dân bàn với nhau : Đức Phật độ Ngài.

Tại lễ vía, Đức Q. Giáo Tông thuyết giáo rằng :
" Một mảnh thân phàm cô thân bạc nhược này, yết ớt hèn mọn này, có đủ tài đức chi mà Đại Từ Phụ lại tin giao một cái giang san sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu đặng cho gánh vác? ..
Đời có thạnh có suy
Đạo động tịnh chuyển xây
Lửa thử vàng, gian nan thử Đạo.

Ngày nay, bão tố đã qua rồi, Tệ huynh nhìn thấy mấy em đã bị bao phen khảo đảo thảm khổ vô cùng, mà mấy em cũng ngồi vững trong Thuyền Bát Nhã của Thầy. Tệ huynh hết sức vui mừng nên nguyện rằng sẽ đem hết dạ yêu thương mà dìu dắt mấy em về cùng Thầy" ( Xem Phụ Chú 9).

Đó là Đức Q. Giáo Tông phản tỉnh về cơn khảo vừa qua mà đời hành đạo coi như trên đường đi gặp nhiều quỷ vương thử thách. Còn đối với nhà cầm quyền Pháp, Đức Ngài đã từng đối mặt, từ chức Hội đồng để chống thuế "Lục Hạng điền", dám đưa Tờ Khai Tịch Đạo mà không đợi nhà cầm quyền Pháp cho phép, vẫn hành đạo. Chủ tỉnh vài nơi ra lịnh triệt hạ Thánh Tượng, Đức Ngài phản đối quyết liệt, đòi tự do tín ngưỡng mà chính phủ thuộc địa đã ban cho xứ bảo hộ. Bấy giờ, Ngài không muốn nói chuyện với Chủ tỉnh Tây Ninh vì Ngài cho Tỉnh và Toà án thoả thuận ngầm để Ngài bị câu lưu 24 giờ nhằm xoa dịu phe đối lập với Đức Ngài. Đức Ngài gởi thơ thẳng qua nước Pháp cho thủ tướng nước Cộng hoà Pháp trả Bắc Đẩu Bội Tinh với lời lẽ :

"… Vừa qua, ngày 22-2 có 34 đạo hữu của tôi thiếu thuế mà chính phủ lại bắt tôi bỏ tù. Ông già 60 tuổi có Bắc Đẩu Bội Tinh vô cớ bị ngồi tù hơn hai ngày tại khám Tây Ninh với Médaille điều và giấy chứng nhận của Viện Bửu Tinh.
Vậy cái Médaille cao quý kia có giá trị gì ? Lỗi ấy do chính phủ Pháp không biết chọn người xứng đáng. Kể từ đây tôi không nhận cái danh dự ấy nữa, dẫu có cao trọng thế nào …" ( PC 5).

3 - Những khó khăn đối với Pháp

Cao Đài khai Đạo dưới thời Toàn quyền A. Varenne (1925-1928). Ông này chủ trương Pháp Việt đề huề, nên thỉnh thoảng ta nghe Đức Q. Giáo Tông nhắc tới hai tiêu ngữ này. Sau đó Pháp thay đổi chánh sách, P.Pasquier (1928-1934) sang Việt Nam. Ông này dùng chánh sách cai trị đàn áp khắc khe đối với các đảng phái và tôn giáo.
Ngày 3-9-1931 tờ La Griffe số 36 và các số kế tiếp bêu xấu thái độ của viên Khâm sứ Pháp ở Cao Miên đe dọa ông Lê Văn Bảy (không có vấn đề đối xử hoà bình với người đạo Cao Đài) và thẳng tay lên án các viên chức thuộc đại.

Tờ báo này đả kích việc thành lập tổ chức "Kiêm Biên Phật giáo nghiên cứu viện" do nghị định ngày 25-1-1930 của toàn quyền P.Pasquier có mục đích phổ biến Phật Giáo tiểu thừa khắp Đông Dương.

Báo này tố cáo ngay ông P.Pasquier có tham vọng làm giáo chủ Phật giáo để chống lại Giáo tông Lê Văn Trung, người đang nắm quyền đạo Cao Đài.

Toàn quyền P.Pasquier nghiên cứu rất kỹ về giáo lý Cao Đài, biết Đức Thượng Đế đã dạy ông Lê Văn Trung " sống chết do nơi Thầy". Thế nên, ông làm sẵn bom nổ chậm ép trong đôi bạch lạp, chế làm sao vừa dứt bài Ngọc Hoàng kinh là bom nổ bùm cho ông Lê Văn Trung bị chết vì Thượng Đế muốn rước về chớ không phải mật thám Pháp giết. Đức Thượng Đế đâu để P.Pasquier lộng hành như vậy.

Khi nhận đôi bạch lạp, nhiều vị chức sắc khuyên Đức Q. Giáo Tông không nên đốt vì Đức Q. Giáo Tông quỳ chứng đàn gần kề đôi đèn sáp. Đức Q. Giáo Tông cũng nhắc lại lời Đức Chí Tôn dạy "sống do nơi Thầy". Nhất định đốt trong ngày lễ Vía Đức Chí Tôn và chính Ngài quỳ chứng lễ. Đôi đèn cháy sáng đều, sắp dứt bài Ngọc Hoàng Kinh thì nghe tiếng xì lớn khói phủ đại điện. Đức Q. Giáo Tông ra lệnh cho cuộc lễ vẫn tiếp tục như không có điều gì xảy ra.

Thua keo này bày keo khác, P.Pasquier dùng thủ đoạn mua chuộc một số tay viết bán rẻ lương tâm, chạy theo danh lợi, không ngần ngại viết sách báo vu khống, nói xấu Đạo Cao Đài như quyển "Cái án Cao Đài" chẳng hạn. Họ cố ý chụp mũ một số chức sắc Cao Đài làm chánh trị bằng cách gom góp một số tài liệu rồi phóng đại lên hồ sơ hội kín. Số hồ sơ này được P.Pasquier đem về trình với chánh phủ Pháp. Chẳng may chiếc phi cơ chở vợ chồng P.Pasquier gần tới phi trường thì bị cháy trên không. Các tài liệu vu khống cũng cháy luôn. Ngày xưa, Đức Thanh Sơn đã tiên tri :

" Lữa đâu mà cháy tám gà trên mây"
Tám gà dịch sang chữ Hán là bát kê tức Pasquier.
Sau khi Pasquier chết thì Robin (1934-1936) sang thay làm toàn quyền tiếp tục đường lối cai trị của Pasquier để củng cố chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, để xoa dịu Đức Q. Giáo Tông, Robin tổ chức cuộc gặp Đức Ngài để điều đình việc "tự do tín ngưỡng" của Đạo Cao Đài. Không khí lắng dịu cho đến lúc Đức Ngài qua đời.

Đức Q. Giáo Tông còn chịu sự giám sát trực tiếp của các Thống Đốc Nam Kỳ. Lúc khai tịch đạo là Thống đốc Le Fol , kế B.Brosse. Thánh giáo giáng ngày 8-3-1927, Đức Cao Đài dạy ông Lê Văn Trung phải bày tỏ với ông này là đạo chỉ thờ kính Trời Phật chớ không có làm chính trị. Nhưng mật thám Pháp vẫn đàn áp tín đồ, buộc phải dẹp Thánh Tượng. Đức Q.Giáo Tông phải ra bố cáo để trấn an các đạo hữu là không nên nghe lời đồn huyễn hoặc Pháp bắt buộc đạo dẹp Thiên Bàn : "Nếu có ai bị cưỡng quyền áp chế về việc phụng thời Thượng Đế" hãy báo cáo ngay cho Ngài can thiệp.

Nhà cầm quyền Pháp coi đó là hành động khinh thường và xúi giục dân chúng chống lại lệnh của chính phủ Pháp. Thế nên, L. Perrier, Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa làm báo cáo số 485 gửi về Tổng thống Pháp ngày 4-10-1927 xin sửa lại điều 91 của hình luật đã được áp dụng từ ngày 6-3-1877 tại Đông Dương.

Léon Perrier cho rằng điều 91 của luật bản xứ đã dự phòng tội mưu sát, tội mưu mô và tội gây loạn mà không đề cập đến những hành động có tính cách gây hận thù với chính quyền thuộc địa và kích bác dân chúng phạm luật lệ.

Johan Cendrieux trong tờ La Pêche Colonial ra ngày 15-5-1933 đã cho rằng Đạo Cao Đài đã trở thành một phong trào cứu rỗi mãnh liệt của dân chúng vì người Pháp quá tin tưởng vào việc Tây Phương hoá của họ bằng cách cho người Việt Nam quên cội nguồn cổ truyền, nhưng người dân đã tìm ra sự bù trừ khác là say mê cơ bút, giúp cho Cao Đài trở thành tôn giáo thứ tư. ( J.CENDRIEUX, Une Jérusalème Nouvelle. Extrême Asie (R 1) số 25 (7-1928))

Năm 1932-1933 Lalaurette Thanh tra Chính trị sự vụ hành chánh Nam Kỳ và Vilmont Chánh Tham biện, Chủ tỉnh Tây Ninh đã theo dõi Đức Q.Giáo Tông và Hộ pháp rất gắt gao và được đúc kết trong tập phúc trình LE CAODAISME.

La Laurette cho rằng người ta (Cao Đài) đã lợi dụng chữ Pháp, các phương thức, các xử thế, những tiến bộ, cùng các tổ chức xã hội và kinh tế của người Pháp không để Pháp hoá xử Nam Kỳ mà để cho người Nam Kỳ chống lại Pháp. Còn Vilmont thì thấy không thể dung túng ông Lê Văn Trung nên dựa vào việc nhỏ nhặt của tín đồ làm công quả mà phạt tù ông.

- Nhà cầm quyền thực dân đàn áp Đạo Cao Đài , ta có thể nêu lên 3 lý do sau đây :

1- Đạo mới khai, chưa đầy năm mà số tín độ lên tới triệu người. Đặc biệt là người Khơmer, đồng bào Thượng, Stiêng ở Hớn Quản, từ lâu người Pháp không thuyết phục được, nay lại đi bộ về Toà Thánh hành hương rồi định cư luôn.
2- Đạo Cao Đài bảo vệ nền văn hiến và văn hoá truyền thống dân tộc Việt Nam chống nền văn hoá ngoại lai mà Pháp đề cao là "Cité jaune".

3- Hình thức tổ chức giáo hội Đạo Cao Đài giống như một chính phủ, nên Pháp tố cáo Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia ( Un État dans un État).

Bên cạnh những người Pháp cầm quyền nghiêm khắc, còn những người Pháp có thái độ rộng rãi đối với Đạo Cao Đài như nghị sĩ E. Outrey. Từ trước, do sự ghi nhận không chín chắn của báo chí mà E. Outrey hiểu lầm về Đạo Cao Đài.

Đến ngày 2-2-1933 từ Paris, E. Outrey gởi cho Đức Q.Giáo Tông một bức thư bày tỏ thiện cảm với Đạo Cao Đài và hứa sẽ tận lực xin với chính phủ Pháp cho Đạo Cao Đài được nhiều tự do. ( Xem P.C. 10)

Ngoài quyết tâm giúp đỡ của nghị sĩ E.Outrey, Đức Q. Giáo Tông còn được sự yểm trợ của các trạng sư Lortat Jacob, Eugène Tozza, Roger Lascaux hết sức biện hộ mà không nhận tiền thù lao, cho Đạo Cao Đài trước Toà án để được truyền đạo tự do.

Riêng bà Tozza tổ chức thuyết trình tại Hội Thông Thiên học Pháp nói về giáo lý huyền nhiệm của Cao Đài Giáo. Bà cũng đã diễn thuyết tại Hội Nhân Quyền và Dân Quyền về sự tự do tín ngưỡng ở Đông Dương. Một ít quân nhân và công chức Pháp đã theo Đạo Cao Đài và thọ phong chức sắc như Lapatie ( Giáo hữu), A. Lestrec ( Giáo hữu). Riêng ông Bellan, nguyên Khâm sứ Pháp ở Cao Miên đã nhập môn theo Đạo và trường trai như hàng chức sắc.

Đáng kể nhật là nhà văn G. Gobron đã nghiên cứu giáo lý Đạo Cao Đài và viết quyển " Histoire et Philosophie du Caodaisme", dưới sự bảo trợ của Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh. Ông đã thọ phong Tiếp Dẫn Đạo Nhơn để truyền Đạo một nước và đại diện cho Đạo Cao Đài dự nhiều Hội nghị Thông linh học quốc tế. Ông còn can thiệp vào chánh phủ Pháp để Đạo Cao Đài được hành đạo tự do. Theo đề nghị của ông Hội Thông linh học quốc tế nhóm lần thứ năm tại Barcelone ( từ 1 đến 10-9-1934) yêu cầu chánh phủ Pháp căn cứ vào những lời đã hứa vào tháng 3-1933 tại Quốc hội Pháp do ông A. Sarraut, Bộ trưởng Thuộc đại, thiết lập cho Đạo Cao Đài một qui chế rộng rãi như những người Việt Nam theo Thiên Chúa Giáo hay những tông phái Phật giáo trong khắp xứ Đông Dương.

Ngoài ra, còn có những nhân vật đã góp phần can thiệp cho tự do tín ngưỡng của Đạo Cao Đài tại Đông Dương như H. Regnault, H.Guerrut ( Nghị sĩ Quốc hội Pháp), E.Kahn ( Tổng thư ký Hội nhân quyền) vv.. và nhiều báo chí bào chữa, tường thuật đầy đủ mọi sự áp chế Đạo Cao Đài như La Libre Opinion, La Griffe, Le Progrès Civique…. đều phát hành ở Pháp.

4 . Kết quả việc phổ độ dưới thời Quyền Giáo Tông

Để qua một bên những tranh chấp nội bộ, trong thời gian 9 năm (1926-1934) thời Đức Q. Giáo Tông cầm quyền mối Đạo, Đạo Cao Đài có trên triệu tín đồ , quá đông so với quá trình truyền giáo của các tôn giáo khác.
Sở dĩ phát triển nhanh như vậy là nhờ sự hợp thời, hợp tình và hợp cảnh.

Hợp thời vì dân Việt Nam trong thời đại khoa học này đòi hỏi một tôn giáo mới, có tính cách rộng rãi, đại đồng và dân chủ. " Giới trí thức hiểu rằng phải thay thế Nho giáo bằng một ý thức tiến bộ" (NGUYỄN THẾ ANH, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Sài gòn 1970, trang 285). Nhưng ý thứ hệ dân tộc không phải là một ý thức hệ hoàn toàn vay mượn của ngoại lai. Nó càng không thể do sự khảo cứu sách vở để kết tinh được, mà cốt yếu, trước hết vẫn phải nhờ ở mình sẵn có nền móng truyền thống làm nền tảng cho sự thâu hoá, rồi bồi bổ thêm phần phong phú. Dù sao cái ý thức hệ dân tộc phải tìm lại trong ý thức tập thể, trong cái tiềm thức truyền thống của dân tộc, phải cảm thông với cái hồn chung trong hiện tại cũng như trong quá khứ (NGUYỄN ĐĂNG THỰC, " Giáo lý Cao Đài với ý thức hệ dân tộc" Sài gòn Tuần báo Nhân Sinh (4-7-1964), trang 3)

Hợp tình vì sinh môi Việt Nam thích hợp với bất cứ tôn giáo nào, chưa kể đến những tín ngưỡng nhân gian. Bởi lẽ truyền thống dân tộc Việt Nam, nhất là miền Nam khí hậu điều hoà, đất đai phì nhiêu, việc mưu sinh dễ dàng nên nhân gian được nhàn hạ. Họ có nhiều thì giờ suy tưởng những hiện tượng mầu nhiệm của Tạo Hoá và suy nghĩ về lẽ huyền vi của vũ trụ mà thâm nhiễm Đạo giáo.

Hợp cảnh vì sinh cảnh Việt Nam từ lâu ung đúc học thuyết Tam giáo đồng nguyên làm chủ đạo cho tinh thần dân tộc. Kịp đến khi Thiên Chúa giáo truyền sang nước ta, tất cả đã dung hoà và biến thái thành hồn tính chung của dân tộc.

Đến nỗi trong mỗi con người Việt Nam, người ta không còn có thể phân biệt đâu là cá tính Khổng giáo, đâu là cá tính Phật giáo.

Thuyền Đạo đã lướt trên phong ba bão tố, phải tránh những tảng đá ngầm và những ghềnh thác. Các nhà tiền khai Đại Đạo đã lao tâm lao lực và nhận cả oan khiên vào mình rồi nằm xuống để thuyền Đạo vượt lên. Những gương hy sinh cao cả của chức sắc và chư đạo hữu không ngần nào đếm hết.

Về giáo lý vẫn còn trong tình trạng hồng mông. Vì thế mỗi người giải thích theo hiểu biết riêng mình nên xảy ra lắm điều rắc rối. Đức Chí Tôn ban cho sắc dân thuộc địa mão áo thiên phục quá rộng so với tài năng của họ. Là người phàm bỗng nhiên cơ bút phong cho họ làm ông Thánh, ông Tiên…. Trong khi họ chưa kịp trau giồi để trở thành các bậc Thánh thiện đó. Thế nên sự tranh giành đố kỵ xảy ra là việc đương nhiên vì họ không xuất thân từ dòng tu nào. Song mọi việc đâu qua luật Thiên điều. Mọi hành động của con người đều có sức mạnh của Thiêng Liêng lèo lái bên trong để tiến gần chân thiện mỹ. Nhờ đó nền Đạo sống còn và hoằng khai.

Về tôn chỉ giáo điều hiện lên trước mắt mọi người. Khi bước vào Đền thánh thấy ngay bức họa Tam Thánh Ký đệ tam hòa ước : Thiên Thượng, Thiên Hạ ( Dieu et Huma nité ) mà nội dung là Bác Aùi, Công Bình ( Amour et Justice ) thực hiện được hoà ước đó thì Đại Đồng Nhân Loại. (ù Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông, Tây Ninh 1973, tr 96. PH DEVILLERS. Histoire du Việt nam Paris 1952 tr 68 ; Nguyễn Trần Huân sđd tr.211, cho rằng năm 1936 Cao Đài có 300 ngàn tín đồ)

Ba vị thánh ba sắc dân : Nguyễn Bỉnh Khiêm ( Việt Nam ), Victor Hugo (Pháp), Tôn Dật Tiên (Trung Hoa) cùng hợp sức nhau xây dựng chánh giáo chứng tỏ Đạo Cao Đài không kỳ thị chủng tộc vì coi mọi sắc dân đều có đấng cha chung là Đức Chí Tôn.

Ba vị thánh ba tôn giáo : Thanh Sơn Đạo sĩ ( Tiên giáo), Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Thánh giáo) và Tôn Trung Sơn ( Phật giáo - xin xem Tam Thánh Bạch Vân Động ) tượng trưng cho vạn giáo điều đó chứng tỏ Đạo Cao Đài rộng mở, không kỳ thị tôn giáo. (NGUYỄN VỸ, Tuấn chàng trai nước Việt (quyển II), Sài gòn 1969, tr.364)

Nước ta trong thời đại Lý Trần thì Tam giáo là Quốc Đạo mà Đạo Cao Đài qui Tam giáo. Vậy Đạo Cao Đài quốc Đạo là một lý đương nhiên. Đức Chí Tôn đã dạy :
Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc
Chủ quyền Chơn Đạo một mình ta.

Đạo Cao Đài với sự cứu rỗi miên viễn và vĩnh hằng, nên những cơn khảo đạo chẳng qua là những tảng đá ngầm phải vượt qua. Người đời dù nghi ngờ sự qui nhứt của Đạo Cao Đài. Họ bảo không thể nào đem các vị giáo chủ khác nhau ngồi trên cùng thiên bàn. Họ đọc kinh sách đạo Cao Đài cho là những mảnh vụn ghép lại (ùKIM ĐỊNH, Căn bản triết lývăn hoá VN. Sài gòn 1967, tr. 70), nghi ngờ để đạt chân lý ấy ai sẽ tìm? Đạo của Thiên Thượng thì Thiên hạ phải tìm ! Tín hữu Cao Đài cũng chỉ là một người. Trong phút giây nào đó , họ cảm nhận sự huyền nhiệm của Đấng cao cả mà theo đạo dù họ chưa nắm vững triết lý sâu xa của nền đạo mới.

Tam Tạng kinh điển của Phật giáo, thật ra trải qua một thời gian rất dài người ta mới hệ thống hoá được . Khởi đầu chỉ có Kinh tạng, Luật tạng và 400 năm sau Đức Phật Tổ viên tịch mới có Luận tạng. Đạo Cao Đài khai sanh, chưa tròn giáp. Ngay buổi đầu đạo cũng có Kinh tạng, Luật tạng đủ cho những tín hữu tu theo trung hạ thừa. Còn Luật tạng, triết lý sâu xa chưa hệ thống hoá đang chờ những bậc hiền triết thông kim bác cổ lý giải vì hiện Đạo Cao Đài còn trong vòng sàng sãi của luật Tạo Đoan. Nhưng tôn chỉ, mục đích giáo thuyết đã ban ra, người tín đồ nào cũng có đức tín mãnh liệt là đạo sẽ miên trường tới "thất ức miên" và ngẩng cao đầu kệ rằng:
Một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc
Mai sau làm chủ mới là kỳ.

CHƯƠNG VI

ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG ĐĂNG TIÊN

1 . Từ một tiền đề

Người đệ tử Đức Cao Đài đầu tiên là Ngài Ngô Văn Chiêu đạo hiệu là Minh Chiêu. Trong đàn cơ 14-10-1926, Đức Chí Tôn dự kiến phong cho Ngài làm Giáo Tông nên dạy rằng:
"Trung, Cư, Tắc ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó sắm liền một bộ Thiên phục màu trắng, có các quẻ của bát quái y theo Thầy vẽ, thêu bằng chữ vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt, mão cũng vậy".
Vốn là " Chiêu minh linh giác" (ngộ đạo thấy rõ), Ngài biết Đức Cao Đài thử lòng đệ tử vì áo Giáo Tông chỉ vẽ là áo tiểu phục dành cho Ngài Lê Văn Trung sau này. Đến khi ban hành Pháp Chánh Truyền, toàn đạo mới biết: "Bộ đại phục Giáo Tông thì toàn trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba cổ pháp là Long Tu phiến, Thư Hùng kiếm và Phất Chủ. Đầu đội mão vàng năm từng bát quái" (Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ)

Như vậy, Ngài Ngô kiên định lập trường CHƠN TRUYỀN VÔ VI mà Đức Cao Đài đã dạy. Thế mà có người truy phong Ngài Ngô là đệ nhứt Giáo Tông, Ngài Lê Văn Trung là đệ nhị Giáo Tông, kế đến Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, Nguyễn Bửu Tài và Cao Triều Phát.

Đức Hộ Pháp đã thuyết đạo (1948) rằng : " Mỗi vị tín đồ đều có cái mão Giáo Tông và Hộ Pháp, không lấy được là lỗi ở mấy em, chẳng lẽ đạo chỉ có một người cầm đầu mà người đó chết thì diệt tiêu nền đạo".

Nhưng phải lên ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp thế nào cho phù hợp với luật lệ đạo. Khi Ngài Ngô không tới thọ phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung, mãi đến ngày 29-10-1926 Đức Chí Tôn mới giao " quyền thưởng phạt đã vào tay Lý Thái Bạch". Sau đó Đức Lý thấy không thể giải quyết mọi việc phàm trần nhanh chóng nên "ban quyền cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Q. Giáo Tông về phần xác, còn về phần Thiêng Liêng có Lão" (Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ) .

Hãy lưu ý mấy chữ "Q. Giáo Tông về phần xác", tức là Ngài Lê chỉ được nửa Giáo Tông. Thế nên, Ngài Lê không bao giờ mặc áo đại phục Giáo Tông. Thiên phục mà Đức Q. Giáo Tông được tạc tượng trước lầu chuông Toà Thánh cũng chỉ là tiểu phục. Do đó, Ngài Lê không phải là đệ nhị Giáo Tông. Nếu có đời Giáo Tông khác thì tịch đạo THANH HƯƠNG phải đổi ra ĐẠO TÂM.
2 . Châu tri báo tang của Hội Thánh

Vùng đất xây cất Toà Thánh vốn là rừng cấm nhiều chướng khí, nước rất độc. Đức Q. Giáo Tông bị chói nước mang bịnh sốt rét rừng phải nằm nhà thương. Vừa thuyên giảm đôi phần, vì đạo sự phồn tạp , Đức Ngài rời bệnh viện về Toà Thánh để xử lý. Chẳng ngờ bịnh trở nặng, nóng nhiều, uống thuốc vô ói ra hết, không ăn mà qui tiên.
Toà Thánh báo tin như sau :
" Kính chư hiền huynh, hiền tỷ.
Hội Thánh ĐĐTKPĐ rất đau đớn mà cho chư hiền huynh, hiền tỷ hay tin buồn : Đức Q. Giáo Tông đã qui tiên tại Giáo Tông Đường ngày 13-10-Giáp Tuất (19-11-1934) hồi 3 giờ chiều hưởng thọ 59 tuổi.
Lễ tống chung định ngày 26-10-Giáp Tuất đúng 9 giờ sớm mai".

3 . Tường thuật lễ tang của các báo

Tờ Gringoire ở Paris ra ngày 6-12-1934 đăng bài viết của phóng viên J. Dorsenne có đoạn như sau :
" Những đoàn người từ các nơi xa gần, đi bằng xe hơi, xe cam nhông, xe bò. Nào là ghe thuyền chở đầy tín đồ, đàn ông, đàn ba . . . Tất cả đều quyết đi nhanh về Toà Thánh đặng thọ tang, có người đã bịt khăn trắng trước khi thọ lễ.
Suốt ngày đêm, mọi người gồm cả nam phụ lão ấu lập thành hàng ngũ chỉnh tề đến trước liên đài.

Cuộc lễ ban đêm được Bộ Lễ sắp đặt có trật tự. Chức sắc, chức việc và đạo hữu đứng có hàng ngũ chỉnh tề. Trước liên đài hàng hàng lớp lớp qùi giữa sân van vái thì thầm…

Sau lễ, người người lần lượt tan hàng. Bây giờ chỉ có 36 vị chức sắc phái Thượng hầu xung quanh liên đài.

Đến ngày thứ 12 là lễ an táng chánh thức. Số tín đồ đã đông lại càng đông hơn. Mọi người đều mặc y phục trắng, đầu bịt khăn trắng để tang, xen lẫn với những chức sắc mặc áo màu xanh đỏ vàng.


Sau đây là bài tường thuật của tạp chí Niết Bàn:
"Có trên năm ngàn tín đồ theo hộ tống Long mã kị liên đài đi khắp trong nội ô Toà Thánh. Ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc đứng lên đọc điếu văn lời lẽ rất bi ai cảm động. Kế đó là Nữ Chánh Phối sư Lâm Hương Thanh, Ông Chánh Phối Sư Trần Duy Nghĩa và ông Cao Đức Trọng, chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo. Mỗi người đều đọc một bài ai điếu dài".

4 . Kết luận về một đời người

Sự nghiệp đối với đời, công nghiệp đối với đạo của Đức Q. Giáo Tông như sông dài biển rộng, người viết không sống đồng thời nên không thể đánh giá hết công lao của Đức Ngài đối với đạo, nên tạm mượn lời của trạng sư Diệp Văn Kỳ ( viết ngày 28-11-1934).
" Nói đến thân thế sự nghiệp của ông Lê Văn Trung tất nhiên là phải bàn đến đạo Cao Đài. Vì ông là một người sáng lập, lại là ông giáo chủ. Đạo Cao Đài mà phải thì ông là công thủ. Đạo Cao Đài mà quấy thì ông lại là tội Khôi.
Song tôi còn nhớ Chương Thái Viêm, một nhà bác học Trung Hoa mỗi khi thảo luận đến các vấn đề tôn giáo đều có nói: "Thiên trung điểu tích hoạ giả giai nan : dấu chân của con chim bay trên không, thợ vẽ nào cũng phải chịu là khó"

Thật thế người ta muốn tìm ra cội rễ của tôn giáo thời chẳng khác nào chú thợ vẽ muốn vẽ dấu chân chim bay trên không.

Huống chi, Đạo Cao Đài mới xuất hiện ở Nam Kỳ chưa đầy 9 năm. Bao nhiêu lý thuyết hình thức của đạo hiện đương ở thời kỳ phôi thai và do cơ bút mà có thì chẳng thế chi nghị luận cho xác đáng.

Sự hoạt động của Đạo Cao Đài từ khi sáng lập đến nay không phải mỗi mỗi đều tận thiện tận mỹ . Song nếu xét thật công bình, Đạo Cao Đài chưa hề làm điều chi có hại đến nhân quần xã hội. Trái lại , Đạo Cao Đài truyền bá giỏi, tổ chức hay mà gây nên tình thân ái, đoàn kết hơn một triệu dân Nam Kỳ là một việc đáng làm, ai ai cũng nên kính phục".

Mộ đạo nhứt tâm kiên, ma bất lẫn, niết bất truy, thiên giả sanh chi, sanh bất qúi.
Tích đức vạn cổ trọng, sử do truyền, kinh do lục, nhơn thuỳ vô tử, tử do vinh.
(Yêu đạo bền một lòng, mài không mòn, nhuộm không đen, Trời sanh ra, sanh không hổ, hổ mà an.
Mến đức để muôn đời, sử còn trọng, sách còn truyền, lời không phục, ai người không chết, chết còn vinh).

Ông Diệp Văn Kỳ đã thấy rõ chân dung của Đức Q. Giáo Tông với chủ trương của nền đạo mới là đại đồng, không kỳ thị chủng tộc, tôn giáo và xã hội. Nhất là chống lại chính quyền Pháp hà khắc không cho nhân dân ta bảo vệ thuần phong mỹ tục, nên Đạo Cao Đài nêu cao "Nam phong thử nhựt biến nhơn phong". Năm 1908, Trần Qúi Cáp vì loạn "đầu bào" mà bị xử chém ngang lưng. Nhưng trong Tân Luật của Đạo Cao Đài, điều thứ 15 viết: "buộc chức sắc phải để râu tóc", là nhằm chống lại việc Pháp hoá dân tộc Việt Nam. Ông Kỳ coi đó như một cuộc cách mạng chống lại chế độ hà khắc của thực dân Pháp.

Bài thài dâng lễ vía hàng năm của Đức Q. Giáo Tông như sau:
Càn khôn quen thú phước linh tiêu,
Thấy khổ trần gian nghịch Thánh điều.
Mượn xác phàm riêu cây phất chủ
Nương cơ tạo xủ phướn tiêu diêu.
Bầu linh khổ ải đưa thiêu cạn,
Gậy sắt nhơn sanh chóng dắt dìu
Muôn dặm cửa Tiên chờ bước tục,
Cõi lau trở gót ruột trăm chiều.

PHẦN PHỤ CHÚ

PHỤ CHÚ 1
Nội dung tờ khai đạo

Văn kiện chính thức được Ông Lê Văn Trung gửi cho Thống đốc Nam Kỳ Le Fol, ghi ngày 07-10-1926 nguyên văn bằng tiếng Pháp như sau. (Pierre Bernardini, Le Caodaisme au Cambodge, Université de Paris VII, 1974, pp.282-284)

Saigon, le 7 Octobre 1926

Monsieur le Gouverneur,
Les soussignés,

Ont l'honneur de venir respectueusement vous faire connaitre ce qui suit:

Il existait en Indochine trois. Religions ( Bouddhisme, Taoisme , Confucianisme). Nos ancêtres pratiquaient religieusement ces trois doctrines et vivaient heureux en suivant strictement les beaux préceptes dictés par les Créateurs de ces religions.

On était, pendant cet ancien temps, tellement insoucieux qu'on pouvait dormir sans fermer les portes et qu'on dédaignait même de ramasser les objets tombés dans la rue (Gia vô bế hộ, lộ bất thập di, tel est l'adage inscrit dans nos annales).

Hélas ! ce beau temps n'existe plus pour les raisons suivantes:

1. Les pratiquants de ces religions ont cherché à se diviser tandis que le but de toutes les religions est le même :faire le bien et éviter le mal, adorer pieusement le Créateur.
2. Ils ont dénaturé complètement la signification de ces saintes et précieuses doctrines.

3. La course au confort, à l'honneur, l'ambition des gens, sont aussi des causes principales des divergences d' opinions actuelles. Les Annamites de nos jours ont complètement abandonné les bonnes moeurs et traditions de l'ancien temps.

Ecoeurés de cet état de choses, un groupe d' Annamites, fervents traditionalistes et religieux ont étudíe la refonte de toutes ces religions, pour n'en former qu'une seule et unique appelée CAODAISME ou ĐẠI ĐẠO.

Le nom " ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", qui signifie la troisème Amnistie générale, est donné par l' Esprit Suprême qui est venu aider les soussignés à fonder cette nouvelle religion.

L'Esprit Suprême est venu sous le nom de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ dit CAO ĐÀI ou "Le Très Haut, DIEU TOUT PUISSANT".

Par l'intermédiaire de médiums écrivant, NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ transmet aux soussignés des enseignements divins ayant pour but de concentrer et d' enseigner les beaux préceptes de ces trois anciennes Religions.

La Nouvelle Doctrine enseignera aux peuples :

1. la haute morale de Confucius;
2. les vertus dictées dans les religions bouddhique et taoique. Ces vertus consistant à faire le bien et éviter le mal, aimer l'humanité, pratiquer la concorde, éviter totalement la dissention et la guerre.

Les soussignés ont l' honneur de vous soumettre :

1. quelques extraits du recueil des : " Saintes - paroles" de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, paroles estimées plus précieuses que tout ce qui existe ici-bas.
2. la traduction de quelques passages du livre de prières que NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ nous a enseignées.

Le but poursuivi par les soussignés est de ramenter les peuples à l'ancien temps de paix et de concorde.

On sera ainsi dirigé vers une époque nouvelle tellement heureuse qu'il est difficile de la décrire.

Au nom de très nombreux Annamites qui ont entièrement approuvé ces études et don't la liste est ci-jointe, les soussignés ont l'honneur de venir respectueusement vous déclarer qu'ils vont propager à l'humanité entière cette Sainte Doctrine.

Persuadés d'avance que cette nouvelle religion apportera à nous tous la Paix et la concorde, les soussignés vous prient de recevoir officiellememt leur déclaration.

Les soussignés vous prient d' agréer, Monsieur le Gouverneur, l'assurance de leurs sentiments respectuex et dévoúes".

PHỤ CHÚ 2
Thơ gởi nghiệp đoàn báo chí
TÂY NINH, le 1er Décembre 1934
À Messieurs les Présidents des Syndicats
de la Presse du Monde Entier,
Messieurs les Presidents,
Nous avons l'honncur de venir respectuesement vous prier de bien vouloir solliciter de tous les Directeurs des Journaux, Revues Periodi ques, une large hospitalité à notre Appel à l' Unité de Foi ci-joint.

Ce sera un grand bienfait que la Presse readra à l'Humanité toute entière, car, si l' Unité de Foi se réùalise, les races se fraterniseront et la Paix Universelle règnera.

Le Monde sera délivré de l'borrible cauchemar d'une prochaine guerre mondiale dix fois plus dévastatrice que celle de 1914-1918.

Veuillez agréer, Messieurs les Présidents, l'assurance de nos sentiments respectucux et reconnaissants.
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Monsieur Lê Văn Trung,
Annamite -Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien, Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancion Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine.
Chef de la Religion "ĐAÏI ĐAÏO TAM KỲ PHỔ ĐỘ"
"3ème Amnistie de DIEU en Orient"
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové.
à TÂY NINH. COCHINCHINE FRANCAISE.

   PHỤ CHÚ 3
Thơ gởi các vị hoàng đế
TÂY NINH, le 1 er Décembre 1931
À Leurs Majestés les Empereurs et Rois, leurs Excellences les Chefs d' Eùtats, les Ministres de toutes les Religions
du MONDE ENTIER

Sires, Excellences.
Nous avons l'honneur de porter respectueusemeni à votre haute connaissance que l'Être Suprême, DIEU tout Puis-sant, notre Père Miséricordieux à tous, est venu sur un coin de la terre d'Annam (à Tây ninh- Cochinchine - Indochine Francaise) pour créer une nouvelle Foi capable de rénover le monde entier par un noble Idéal : " L'amour des créatures". De par la vonlonté divine, les races se frater-hiseront et la Paix Universelle règnera.

La guerre, l'horrible guerre gratricide, horreurs du Xxè siècle, siècle soi - disant de Progrès, de Civilisation pourra bien être évitée. Nous disons "Fratricide" car, quelle que soit la race dont ils font partie, tous les Enfants de cette terre descendent l'un même Père, c'est DIEU qui préside à leurs destinées. Ainsi lorsque les peuples se font la guerre, c'est exactement comme des frères qui s'entre - tuent.

Nous avons recu de DIEU, Notre Père Miséricordieux à tous, la Mission de propager sa sainte Doctrine à travers le Monde.

Nous avons eu de multiples preuves de sa venue sur cette terre : de nombreux miracles se sont produits comme au cemps de la venue du Christ, comme ceux de Lourdes et d'ailleurs. Fermement convaineus de l'efficacité de la nouvelle Doctrine et forts de la puretè de nos intentions nous avons présenté à l'Administration Coloniale Francaise un serment ècrit don't ci-inclus un exemplaire par lequel nous nous enga-geons, sous peine de mort, à ne nous occuper que des questions religieuses et à ne pas troubler en aucune facon l'ordre établi. En revanche, nous demandons de travailler, avec l'aide et la protection de la France à la propagande de la Nouvelle Foi dans le Monde entier.

Les représentants de l'Administration Coloniale ne se sont pas montres toujours bienveillants à notre égard, quel-ques-uns ont été tolérants mais d'autres ont fait leur possible pour empêcher cette propagande.

DIEU est venu nous dire de répandre sa sainte Doctrine à travers le Monde; nous ne saurons donc pas faillir à notre Mission. Aussi nous nous faisons un impérieux devoir de venir respectueusement, Sires, Excellences, porter ce fait à la con-naissance de l'Humanité entière, afin que tout le monde sache que l'heure de l'Amnistie divine approche, que le rassemblement des enfants du Créateur doivent se faire pour que la Paix tant recherchée règne dans tout l'Univers.

Il suffira pour cela que hommes savent aimer leurs semblables et pratiquer la vertu dans le chemin tracé par DIEU .

Nous sommes certains que, plus que quiconque, Sires, Excellences, vous voulez que vos sujets dont la destinée est entre vos mains, ne vivent plus dans la crainte perpétuelle d'une guerre future, avec les horreurs, les ravages que cause- ront d'engins meurtriers de tout dernier perfectionnement toute de vertus, et qu'ils soient délivrés à jamais du terrible cauchemar qu'est la guerre moderne.

Nous vous demandons d'envoyer le plus tôt possible vers nous un certain nombre d'entr eux pourqu'ils puissent se rendre compte de ce que nous avons avancé.

DIEU a dit ceci : " Mes Enfants, si vous tardez à ré-pandre ma sainte Doctrine, chaque jour de retard occasion-nera la perdition des centaines de milliers d'ames.

Le cri d'appel étant lancé, nous pensons avoir fait notre devoir.

Dès que nos moyens nous le permettront, nous parcou-rerons le Monde, apportant à chaque Peuple la Nouvelle Evangile.

Daignez agréer, Sires, Excellences, l'hommage de notre profond respect.

THƯỢNG TRUNG NHỰT
Monsieur Lê Văn Trung,
Annamite -Sujet Francais,
Chevalier de la Légion d'Honneur,
Ancien, Conseiller Colonial de Cochinchine,
Ancion Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine.
Chef de la Religion "ĐAÏI ĐAÏO TAM KỲ PHỔ ĐỘ"
"3ème Amnistie de DIEU en Orient"
CAODAISME ou BOUDDHISME Rénové.
àTÂY NINH.- COCHINCHINE - FRANCAISE

PHỤ CHÚ 4 :
Thơ của Đức thánh cha nước Đức
Lời tường thuật của Báo chí và
Thư của Đức Thánh Cha Nhà thờ GNOSTIQUE ALLEMAGNE
EN ALLEMAGNE,

Au cours de l'annéc 1931, dans les premiers mois plusieurs voyageurs allomands ont visité le phalanstère de Tây ninh, se sont interessés à la Secte, ont pris des notes et des photos, et sont repartis par le bateau qui avait escalé trois jours à Saigon. On ne les a plus revus, mais le numéro du 21 Juin 1931 du Berliner Illustrierte Zeitung parvenait au Saint-Siège.II contenait un article avec photographies de Tây ninh, signé W.BOSSARD sur "la plus étrange secte du monde".

Enfin, en Novembre 1931, nouveau document d'Allemague (ci-après), en réponse à l'envoi d'une brochure le Bouddhisme rénové fait par LE VAN TRUNG.

*   *  *

ÉGLISE GNOSTIQUE D'ALLEMAGNE

P. Futlingen, den 13 Novembre 1931
Altesse éminentissime !
Très grand , très puissant et très excellent prince
Sérénissime Seigneur !
Très Saint-père !

Votre message a atteint l'Europe Centrale ! Le Synode Général de l'Eùglise Gnostique d'Allemagne dont je suis le patriarche, a résolu de préparer son union avec le Caodaisme…

On m'a chargé de vous faire savoir cette résolution et de vous prier pour des informations sur l'histoire, la consti tution, la doctrine et les rites de votre religion Universelle en Francais, Anglais ou Hollandais, afin que le message du Caodaisme puisse se servir de notre, organisation ecclésiast que dans les pays des Allemands, Autrichiens, Suisses, Hollandais, Belges, Lithuaniens, Lettens et Esthéniens.

En comptant sur la réalisat on de ce désir je suis
Votre très humble serviteur.
m.p.
Signé : GODWIN
30 330 960

Souverain -pontife et patriarche de l'Eglise Gnostique d'Allemagne Grand Maitre de l'Ordre des Chevaliers de la rose mystique.

Adr : H.GODWIN stuermer, Tuets (Grenzmard) ALLEMAGNE
VỚI ĐỨC QUỐC.
Vào những tháng đầu năm 1931, nhiều du khách người Đức đến viếng Toà Thánh Tây Ninh, lưu tâm đến giáo phái này, đã ghi chép chụp nhiều hình ảnh ; rồi quay về hải thuyền , cập bến Saigon ba hôm. Người ta không còn gặp lại họ nữa; nhưng số báo BERLINER ILLUS-TRIERTE ZEITUNG ra ngày 21-6-1931 đã được gởi đến Hội Thánh. Trong đó, có một bài mang nhan đề "Giáo Phái Mới Lạ Nhứt Của Thế Giới" do W. BOSSARD viết, kèm theo nhiều hình ảnh của Tây Ninh.

Sau cùng, đến tháng 11 năm 1931 là văn kiện mới, từ Đức gởi sang (kèm sau đây) để đáp lại một quyển sách nói về "Phật Giáo Chấn Hưng" do ông Lê Văn Trung gởi cho họ.

PHỤ CHÚ 5
Thơ gởi Tổng thống cộng hoà Pháp

Tây Ninh, le 4 Mars 1934
A Monsieur le Président
de la République Francaise, PARIS.

Monsieur le le Président de la République,
J'ai l'honneur de venir tres respectueusement remettre entre vos mains la Décoration de Chevalier de l'honneur que ma conférée la République Frangaise par Décret du 18 Mai 1912.

Fonctionnaire apprécié et estimé pendant douze ans Conseiller Colonial ensuite pendant huit ans, enfin memble du conseil du Gouvernement de l'Indochine pendant douze ans, telles sont les trente-deux années de vie mises loyalement au service de la France, qui m'ont valu cette haute récompene de la Républi que.

Après ma vie publique, je m'apprêtais à finir mes vieux jours dans un coin oublié de terre en Cochinchine, quand soudain (1926) je fus appelé par l'invisible à reprendre ma tâche pour l'unification de toutes religions existantes pour " semer parmi les peuples l'amour du bien et des créatures de Dieu, la pratique de la vertu, apprendre à aimer la justice et la résignation : révéler aux humains les conséquences pos-thumes de leurs actes, tout en assainissant leur âme".

Depuis huit ans je me consacre entièrement à cette oeuvres de fraternisat ion des races, convaincu que la nouvelle religion constitue un des puissants facteurs indispensables à la réalisation d'une collaboration loyale et sincère de tous les peuples, d'une paix mondiale durable.

Le Caodaisme comprend aujourd'hui plus d'un milion de fidèles composé d'Annamites en très grande partie et de Frangais, Cambodgiens, Laotiens, Mois et Chinois.

Nous ne sommes pas compris peut-être par le gouver nement Colonial?
Toujours est -il que le Caodaisme est sans cesse injus-tement frappé.
À nos doléances et à nos réclamations, on répond par des acies arbitraires et des persècutions religieuses.

À l'heure qu'il est en fait tout pour atteindre le promo-teur de cette nouvelle église dans son honneur.

Dans de nombreux documents, je me permets d'extraire les passages édifiants ci-après d'une lettre que j'ai écrite récemment à Monsieur l'Administrateur Vilmont, chef de la Province de Tây ninh Cochinchine.

" En ce qui concerne vos récentes instructions, je vous serais très obligé de bien vouloir me faire connaitre jusqu'à quand est applicable cette nouvelle règlementation des cultes.

"Quant aux évènements dont vous avez fait allusion dans votre lettre, je me parmets de vous faire remarquer que si vous aviez bien voulu tenir compte de mes requêtes et de mes droits sinon de chef du Sacerdoce Caodaisme , du moins de chef du Temple de Long Thanh (Tây Ninh) ces "désordres" n'auraient jamais au lieu. Mieux que tout autre vous saviez aue les désordres que vous signalez aujourd'hui ne venaient pas de nous.

"Le réunion du 24 Novembre dernier, autorisée par vous à se tenir dans mon Temple, à des personnes tout à fait étrangères à là religion et malgré ma lettre No394 du 22 Novembre 1933, est un véritable défi, sinon une insulte, jeté sans motif à la face qu'un vieux et loyal serviteur de la France double d'un décoré de la Légion d'honneur.

"Il m'est vraiment pénible de constater ces choses à l'heure ou tous mes efforts et tout mon dévouement sont mis sincèrement au service de la cause commune des deux peuples c'est -à - dire à l'entente cordiale et sincère les deux races appelées par la volonté du tout puissant à vivre en communauté de vie et l'intérêts ".

Naturellement ces doléances sont restées sans réponse par contre les persécutions se sont de plus belle

La dernière en date fut mon emprisonnement, le 22 Février dernier, pour dette due au fisc par trente quatre de mes coreligionnaires, prétexte tout à fait falicieux.

Le Chevalier de Légion d'Honneur, à l'aurore de sa soixantième d'année, fut jeté en prison sans qu'aucune formalité prescrite par, la loi ne fut observée.

J'ai séjourné deux jours et demi dans une cellule de la prison de Tây Ninh avec mon ruban arboré et la carte de Chevalier sur moi.

Ainsi aux yeux du Gouvernement Colonial, la Légion d'honneur ne signifie rien, l'infâmie peut atteindre.

Tout le tort revient-il à République qui ne devait pas conférer cet insigne honneur à un pauvre indigène ?

J'accomplis mon geste avec d'amers regrets, mais je préfère ne plus porter une très haute distiuction à laquelle le Gouvernement Colonial n'a aucun égard et qui ne peut même plus devenir un éclatant témoignage de mon attachement à la France.

Cependant, confiant en la justice de cette France douce et généreuse que j'ai toujours aimée, je poursuivrai jusqu'au bout ma tâche sans passion et sans haine, espérant qu'on voudra bien un jour se rendre compte des erreurs commises et rendre justice à une religion qui n'a d'autre prétention que celle d'apporter au monde la paix et la concorde.

Veuillez agréer, Monsieur le Président de la République, expression de mon plus profond respect.

LÊ VĂN TRUNG
LÊ VĂN TRUNG Pape Intérimaire
Du Bouddnisme rénové ou Caodaisme.
Ancien Conseiller Colonial,
Ancien Membre du Conseil de Gouvernement de l'Indochine.
Long Thành Tây Ninh ( Cochinchine).

Pièce jointe : Un certificat de Monsieur le Grand Chancelier de l'ordre National de la Légion d'Honneur.

PHỤ CHÚ 6

Toà Tam giáo lần thứ nhì

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
( Đệ lục niên)

Sao lục án Toà Tam Giáo xử ngày 28 tháng 8 năm 1931.
Tuân y theo Thánh Giáo đức Lý Giáo Tông, Nghị Định ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ,

Chiếu theo Đạo Nghị định của Hộ Pháp và lời phê chuẩn của Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ, thiết lập Tam Giáo Toà.

" TAM GIÁO TOÀ CỬU TRÙNG ĐÀI
( Kỳ nhì)
" Tại Toà Thánh Tây Ninh ngày rằm tháng bảy Tân Mùi
( 28 Aout 1931)

xử các vụ và kết án như sau đây :
1 - TÊN HỌ: Trần Đạo Quang
CHỨC : Ngọc Chưởng Pháp
ĐỊNH ÁN : Chiếu theo hình phát thứ 9. Phải ăn năn sám hối thọ tột cùng chúng sinh
2  - TÊN HỌ: Nguyễn Trung Hậu
CHỨC : Bảo tháp HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

3 - TÊN HỌ: Trương Hữu Đức
CHỨC : Hiến Pháp HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

4 - TÊN HỌ: Trương Văn Tràng
CHỨC : Tiếp pháp HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

5 - TÊN HỌ: Phạm Văn Tươi
CHỨC : Hiến đạo HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

6 - TÊN HỌ: Lê Thiện Phước
CHỨC : Bảo Thế HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

7 - TÊN HỌ: Thái Văn Thâu
CHỨC : Khai Thế HTĐ
ĐỊNH ÁN : Tha bổng, song buộc phải lo về Toà Thánh cho thường đặng gần đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp dìu dắt trong đường đạo

8 - TÊN HỌ: Thái Ca Thanh
CHỨC : Phối Sư
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) Ngưng chức một năm, nếu biết ăn năn sám hối thì cho phục chức như cũ

9 - TÊN HỌ: Thượng Bàn Thanh
CHỨC : Giáo Sư
ĐỊNH ÁN : Ngưng chức 1 năm, nếu biết ăn năm sám hối thì cho phục chức như cũ

10 - TÊN HỌ: Ngọc Minh Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Ngưng chức 1 năm, nếu biết ăn năm sám hối thì cho phục chức như cũ

11 - TÊN HỌ: Thượng Sanh Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Ngưng chức 1 năm, nếu biết ăn năm sám hối thì cho phục chức như cũ

12 - TÊN HỌ: Thượng Tương Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

13 - TÊN HỌ: Ngọc Khai Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

14 - TÊN HỌ: Thượng Lai Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

15 - TÊN HỌ: Thái Minh Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

16 - TÊN HỌ: Thái Kiên Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

17 - TÊN HỌ: Ngọc Sơ Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm

18 - TÊN HỌ: Thái Hiển Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm

19 - TÊN HỌ: Thượng Diêu Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm

20 - TÊN HỌ: Thượng Ngự Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu hình phạt thứ 5) ngưng chức một năm

21 - TÊN HỌ: Thượng Hồng Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

22 - TÊN HỌ: Thượng Trò Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

23 - TÊN HỌ: Thái Quyến Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

24 - TÊN HỌ: Thượng Thanh Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

25 - TÊN HỌ: Thượng Giỏi Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

26 - TÊN HỌ: Thượng Kỳ Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

27 - TÊN HỌ: Thượng Thanh Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

28 - TÊN HỌ: Ngọc Phung Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN :

29 - TÊN HỌ: Ngọc Lương Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

30 - TÊN HỌ: Ngọc Bôi Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

31 - TÊN HỌ: Thái Ban Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

32 - TÊN HỌ: Thượng Đồng Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

33 - TÊN HỌ: Thượng Tân Thanh
CHỨC : Lễ Sanh
ĐỊNH ÁN : Tha bổng

34 - TÊN HỌ: Thượng Trúc Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu theo hình phạt thứ 10) - Hầu kẻ hữu đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học đạo.

35 - TÊN HỌ: Thượng Dung Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu theo hình phạt thứ 8). Phải về Toà Thánh 3 tháng cho gần Thánh giáo mà học đạo

36 - TÊN HỌ: Thái Chương Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu theo hình phạt thứ 8). Phải về Toà Thánh 3 tháng cho gần Thánh giáo mà học đạo

37 - TÊN HỌ: Thượng Lâm Thanh
CHỨC : Giáo Hữu
ĐỊNH ÁN : (Chiếu theo hình phạt thứ 8). Phải về Toà Thánh 3 tháng cho gần Thánh giáo mà học đạo
Toà Thánh, ngày Rằm tháng bảy năm Tân Mùi
Quyền Giáo Tông
Chánh toà
THƯỢNG TRUNG NHỰT

Bảo Văn pháp quân
Quyền Lục sự
CAO QUỲNH DIÊU


Xin Đầu Họ lãnh thi hành cái án sao ra trên đây và dán vào bổn tại mỗi Thánh Thất trong tỉnh. Các thi hành phải làm như sau đây :Đạo hữu nào có tên trong bản án mà ở trong tỉnh mình thì trích lục ra từng án mà giao lại cho đạo hữu ấy và phải lấy biên nhận. Đạo hữu nào không chịu ảnh án thì Đầu Họ phải lập vi bằng gởi về Toà Thánh. Ví dụ người thứ nhứt có tên trong bản án là đạo hữu Trần Đạo Quang có ở trong tỉnh mình thì sao lục án ra một tờ mà giao cho người :
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
( Đệ lục niên)

Sao lục Toà Tam Giáo xử ngày Rằm tháng 7 năm Tân Mùi tại Toà Thánh Tây Ninh, nhằm ngày 28 tháng 8 năm 1931.
Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét