Dưới Bóng Cờ Cứu Khổ - 4 / 7 (Hồi ký Qui Tâm)


Chúng tôi gởi đến Quý Ông thơ này hoặc nghiên cứu tại chỗ, hoặc gởi về Quý quốc để nghiên cứu cấp bách đặng cải thiện tình trạng cho nước Việt Nam chúng tôi.

Chúng tôi tin tưởng ở sự chân thành của Quý quốc với đại danh là Liệt cường luôn luôn có ý chí giúp đỡ dân tộc chúng tôi mà không vụ lợi.
Thảm trạng của Lào Quốc vừa qua cũng là bài học hay cho chúng ta với lực lượng cân đồng của hai khối Đông và Tây. Chắc chắn rằng Quý quốc không bao giờ muốn cho dân tộc và tổ quốc của chúng tôi lại trở thành  thêm một thí điểm nguy hiểm mà Quý quốc sẽ phải gánh  lấy phần tổn phí vô ích mà còn gây nguy thêm phẩn uất trong lòng dân tộc của chúng tôi.

Chúng tôi tin chắc rằng dân tộc của chúng tôi chỉ phẩn uất bởi các lý lẽ mà có lẽ sở mật vụ của Quý quốc đã thâu thập được, ấy chỉ vì sanh mạng lẫn tài sản của họ bị xâm phạm quá nhiều với một lớp bao ngoài hơi mỹ thuật.

Toàn thể trên hai triệu tín đồ Cao Đài thuộc Toà Thánh Tây Ninh của chúng tôi đã tỏ rõ thái độ trong giai đoạn này là : Bất hợp tác, bất bạo động mà sự biểu dương tinh thần đã bộc lộ vào cuộc lễ  ngày 17 tháng 10 năm 1961 vừa qua tại Toà Thánh Tây Ninh.

Các Đảng phái Quốc gia chơn chánh họ lại bạo hơn một chút là ý nghĩ đảo chánh đang nhen nhúm lên rất mạnh.

Các quân nhân và công chức bất mãn và nghi kỵ lẫn nhau. Dân chúng phẫn uất và mất tin tưởng

Những tổ chức mệnh danh quần chúng của chánh phủ hiện thời chỉ còn là những chiếc niền rỉ sét của nứt rạn trầm trọng, một nước sơn bao ngoài lớp sơn cây mục chỉ đợi ngày đổ vỡ.Đó là sự thật mà chúng ta phải thành tâm ghi nhận.Nếu tình trạng kéo dài hơn nữa chỉ sẽ có lợi một chiều mà chắc chắn Quý quốc sẽ chẳng hài lòng.

Toàn dân tộc Việt Nam chúng tôi không muốn vậy.
Chúng tôi chỉ muốn Hoà Bình thật sự, Trung lập thật sự và được sự giúp đỡ chân thành của Quý Quốc mà không mảy may vụ lợi.

Người Việt Nam chúng tôi không thể chấp nhận một chủ nghĩa ngoại lai nào.Những ai đã bước vào lối dẫn dắt của ngoại quốc sẽ bị lạc loài, toàn dân chúng tôi xem họ là phản quốc.

Chúng tôi mong mỏi ở sự giải quyết của Quý quốc đặng chúng tôi tránh khỏi chiến cuộc tương tàn.
Chiến cuộc nổ bùng là cán cân nghiêng ngay.
Chúng tôi không muốn tiếng súng nổ để có lợi một chiều.

Toàn dân chúng tôi đã đau khổ quá nhiều, và đúng cương vị Tôn giáo, chúng tôi kêu gọi HOÀ BÌNH, THƯƠNG YÊU và TRUNG LẬP cho Việt Nam.

Toàn thể tín đồ Cao Đài Giáo chúng tôi xin đặt mối cảm tình nồng hậu vào Quý quốc.
                                                                   Nay kính

*  *  *
Toà Thánh Tây Ninh, ngày 1 tháng 12 năm 1961
Kính gởi Cụ Phú Sơn Chí Sĩ (1)
Huế
Kính Cụ,

Vì sự tồn vong của Dân tộc qua giai đoạn nghiêm trọng hiện tại, với lòng kính mến mà chúng tôi riêng đặt nơi Cụ sau khi được hiểu rõ lòng ái quốc cao quý mà Cụ sẳn có, chúng tôi kính cẩn đạt đến Cụ lời tâm huyết mong được sự đồng ý của Cụ thì dân tộc Việt Thường hữu phước dường bao.

Sau ngày được Cụ cho hầu chuyện tại biệt xá vào sáng ngày mồng 9 tháng 2 Tân Sửu vừa qua, chúng tôi hằng ao ước đựơc thấy ý chí đại cách mạng ấy được thật hiện, song mãi đến nay tình trạng đã chẳng được cải thiện mà lại càng trầm trọng thêm.

Với bao lời quý báu mà Cụ đã thốt ra tự đáy lòng của một nhà cách mạng kỳ cựu, chúng tôi vẫn biết rằng Cụ rất bất mãn, nhưng tai hại thay sự bất mãn ấy không thể đương nhiên thố lộ trên hành động mà đứng về phương diện tâm lý ai cũng không thể tránh được.

Bởi không thể chờ đợi hơn nữa, vả chăng bàn tay của ngoại quốc ngày một chêm vào bánh xe Quốc Gia của chúng ta mà hẳn Cụ đã thừa hiểu, nên ngày 23 tháng 10 năm 1961 chúng tôi đã phải gởi cho ba Đại Sứ Anh, Mỹ, Pháp bức thơ mà bản sao lục kèm theo đây để Cụ tường lãm.

Đứng về phương diện đơn độc cực hữu, tất cả đều cho rằng trong giai đoạn hiện tại chỉ có thể nắm lấy giải pháp “Triệt để chống Cộng ” thì mới tồn tại. Nhưng thưa Cụ, chúng ta hãy đặt mình lên khối dân tộc mà nhận xét thì chúng ta thấy rằng dù chống, dù diệt, cái hại chung qui chỉ dân tộc ta gánh lấy, dân ta chết, cơ nghiệp nước nhà tan hoang. Thiên hạ giúp ta chỉ giúp tiền, giúp khí giới để dân tộc ta chết thêm chớ không thể giúp dân tộc ta khỏi chết, nước  nhà sản nghiệp ta được toàn vẹn, và tệ hại hơn nữa, Chánh phủ miền Nam bắt giết dân của miền Nam mà thôi. Lợi cho ai, hẳn Cụ cũng thấy rõ.

Về Công Pháp Quốc Tế, Chánh Phủ Miền Bắc  không thể công khai tiến đánh Miền Nam mà họ chỉ tạo ra những hình thức của dân chúng Miền Nam đặng gây chiến; trong khi này sự tồn tại của Chánh Quyền hiện hữu không còn là niềm tin tưởng của dân chúng Miền Nam, như vậy thắng lợi sẽ về ai, hẳn Cụ cũng dư hiểu.

Với lý trí Cách mạng, chúng tôi tin tưởng rằng Cụ rất có thể đồng ý với chúng tôi, đường lối chống Cộng hiện hữu đã không còn hiệu lực nữa mà càng làm cho phe Cộng ngày càng thêm bành trướng trong dân chúng và len lỏi ngày thêm mạnh vào Chánh Quyền.

Vì cớ, giải pháp Trung Lập thật sự phải được nêu ra. Với giải pháp này, chúng ta không để cho một chủ nghĩa ngoại lai nào được bành trướng trên lãnh thổ và trong dân tộc chúng ta. Những ai hoạt động cho một chủ nghĩa ngoại lai nào đều phải lãnh án phản Quốc.

Toàn thể trên hai triệu Tín đồ Cao Đài Giáo của chúng tôi đã nhứt quyết đi với giải pháp Trung Hoà thật sự ấy.
Dân chúng miền Nam đã trên 80/100 cũng hăng hái đi theo giải pháp ấy.
Và chúng tôi đang chờ sự giải quyết hoàn toàn cách mạng mà toàn thể chúng tôi xin đặt trọn tin tưởng dựa theo thành tích cao đẹp cũng như ý chí cao minh của Cụ.
Chúng ta chẳng nên để sự đổ vỡ xảy ra để chúng ta cùng nhau ôm hận vì không nắm vững được thời thế.
Cầu  mong được sự hồi âm tốt đẹp, Dân tộc Việt Thường cũng như Tổ Quốc Việt Nam đang hồi hợp chờ đợi từng giờ, từng phút.
Kính đạt.
*  *  *
   Ngày 4 tháng 12 năm 1962

Kính gởi Ông Đại Sứ Anh Quốc
Sài gòn
Kính Đại Sứ,
Tiếp theo thơ không số đề ngày 25 tháng 10 năm 1961 mà chúng tôi đã gởi đến Quý Đại sứ Mỹ, Pháp, Anh.
Chúng tôi rất đau đớn mà thấy cảnh chiến tranh nội bộ của dân tộc chúng tôi càng ngày càng thêm nhiều mà phần thất là chánh phủ.

Vẫn biết khối Tây Phương rất sẵn lòng giúp đỡ chúng tôi sớm thoát thoát tình trạng đen tối này và chỉ mong muốn cho chúng tôi tự định đoạt lấy tình trạng nước nhà, nhưng chưa thể biết giúp cho ai, bởi chánh phủ hiện tại đã làm Quý quốc mất hết tin tưởng cũng như toàn thể Quốc dân chúng tôi mất hết tin tưởng vậy.

Chúng tôi cũng nghĩ đến những người lưu vong trong đó có cả cựu Quốc Trưởng Bảo Đại song xét lại thì họ không có thực lực quần chúng cũng như không có lực lượng hiện tại, nếu họ tiến được thì khối Quốc gia chưa thể nắm phần thắng lợi.

Vì đó, Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia mà Đức Hộ Pháp chúng tôi cùng các Nhân sĩ cách mạng đã thành lập vào tháng 2 năm 1955 với mục đích giúp đỡ chánh phủ Ngô Đình Diệm buổi nọ đặng đủ năng lực nắm vững biên cương, nhưng vì thiếu suy nghĩ mà Chánh phủ Ngô Đình Diệm lúc ấy đã âm mưu phá Mặt Trận. Vì không muốn có đổ máu vô ích mà khối Cao Đài rút ra ngoài vòng chiến kể từ đó, và Mặt Trận tạm lui vào bóng tối.

Những tưởng rằng tinh thần ái quốc ái dân được thực hiện khi ông Ngô Đình Diệm lên nắm quyền Tổng Thống, nhưng tai hại thay, trên 6 năm qua, người dân cũng như những khối tinh thần Quốc gia chơn chánh vẫn phải ôm hận bởi người lãnh đạo thiếu hiểu biết mà hiện tượng ngày nay là hậu quả.

Không thể chờ đợi hơn nữa, vì để trễ một ngày là tình trạng nước nhà chúng tôi một thêm khó giải quyết nên Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia phải đứng trở dậy đặng cứu vãn tình thế lâm nguy, gầy dựng lại miền Nam Việt Nam thành một lãnh thổ vững chắc với lập trường Quốc gia dân tộc mạnh mẽ, với một chánh thể trung lập thật sự, với một ý chí cương quyết tạo dựng Hoà Bình và Thương Yêu cho toàn dân.

 Nhứt định chúng tôi phải định lấy vận mạng của chúng tôi. Chúng tôi phải chặn đứng cảnh tương tàn đang diễn trong dân tộc chúng tôi và chúng tôi vẫn là bạn của Quý Quốc. Tất cả từ nhân sĩ trí thức đến dân chúng đang về Mặt Trận và Mặt Trận quyết nắm vững tình thế và thực hiện sự liên hiệp chặt chẽ của các Đảng phái cũng như toàn dân.

Đó là cuộc cách mạng của toàn dân Việt Nam
Đó là lực lượng hùng mạnh của toàn dân Việt Nam
Quý vị hiểu chúng tôi, nhứt là Đại Sứ.
Với tinh thần hiếu hoà của Nữ Hoàng và quý Đại Sứ chúng tôi tin tưởng rằng chúng tôi không thất vọng ở quý Đại Sứ.
Vậy tâm thơ này, chúng tôi mong mỏi quý Đại Sứ thảo luận cần kíp với Đại Sứ Mỹ và Pháp và sau đó chúng ta gặp nhau để mật đàm và định đoạt sự việc.

Chúng tôi không muốn thấy đổ máu nhiều.
Mong rằng ngày gặp gỡ giữa quý vị Đại Sứ Tây phương và chúng tôi được thực hiện vài ba ngày kế đây để chúng tôi trình bày hết cùng quý vị.
Dưới đây là địa chỉ mật để quý vị liên lạc với chúng tôi.
Trân trọng xin Đại Sứ nhận nơi đây lòng kính mến của chúng tôi đối với Nữ Hoàng cùng Đại Sứ.
Nay kính

*  *  *

   Sài Gòn, ngày 6 tháng 12 năm 1961

Kính gởi Ông Đại Sứ Anh Quốc,
Sài Gòn.
Kính Đại Sứ,

Tiếp theo thư số 001/ĐD-HP/TN, ngày 4 tháng 12 năm 1961, chúng tôi xin gởi đến Đại Sứ các chi tiết sau đây đặng giúp thêm sự nghiên cứu được tiến sớm chừng nào thì rất may cho dân tộc chúng tôi cũng như cho uy tín của khối Tây phương mà quý Quốc là nước xứng đáng làm gương.

Đứng giữa sự tranh giành của hai phe tả và hữu, những nước hậu tiến và nhược tiểu như nước Việt Nam chúng tôi phải gánh lấy các sức nặng của hai khối. Trong khi đó, người dân thiếu học kém hiểu, tối ngày chỉ biết tìm lấy cái sống và hạnh  phúc đơn giản cho gia đình, bỗng nhiên bị xúi giục, kẻ bảo vầy người bảo khác, để rồi họ phải chịu bao cảnh tang tóc đoạ đày, biệt ly tan nát, đói rét tật nguyền mà miếng lợi chỉ để cho riêng một nhóm người chia hưởng. Nhìn thấy thực tế đau thương, người dân lại bị lôi cuốn bởi đói hành động giả dối nhưng hạp với cảnh tình, hỏi làm sao họ còn sáng suốt mà nhận định cho được.

Đứng trên tinh thần Quốc gia dân tộc, chúng tôi thấy rằng dân tộc Việt Nam chẳng thể đứng vào hàng vô sản và vô đạo đức cho được, truyền thống tổ tiên chúng tôi đã nói rõ điều ấy trên 4.000 năm lịch sử.

Vậy cho nên việc nói rằng chống Cộng với phương pháp bạo hành không mảy may hiệu lực mà còn vô tình giúp phương tiện bành trướng cho nó là khác.

Dân tộc chúng tôi đã bị xâm phạm từ tài sản đến sanh mạng quá nhiều. Ngày giờ này tất cả sự việc ấy phải được chặn đứng tức khắc. Chúng tôi chưa có Tư bản thì chẳng bao giờ có Cộng sản, ai có đem nó ra gieo rắc thì tự nó phải thối mục mà thôi, chúng tôi không nhìn đến nó, không nghĩ và cũng không nói đến nó.

Trong lúc này chúng tôi chỉ cần xây dựng tình thương yêu trong dân tộc chúng tôi với các tinh hoa giúp sống của tinh thần tương trợ và tự lực cánh sinh.Vì vậy hiện tình của chánh quyền miền Nam không còn phù hạp với giai đoạn và phải chấm dứt tức khắc.

Một tinh thần ái quốc ái dân phải sống mạnh trong một thể chế Trung lập thật sự, một nền Trung Lập dung nạp tả hay hữu mà chỉ giữ lấy tinh tuý cổ truyền của tổ tiên để lại.

Các Đảng phái quốc gia hiện vì không chịu nỗi sự đè nén đàn áp, đã vô tình làm lợi khí cho miền Bắc và làm suy yếu miền Nam, cái hại trước mắt khiến chúng tôi phải đau lòng.

Vẫn biết quý Đại Sứ cần nhiều suy tính đặng giải quyết kịp thời, chúng tôi luôn luôn tin tưởng Đại Sứ có đủ phương giúp đỡ dân tộc chúng tôi.

Để thúc đẩy phong trào hầu giữ trọn tinh thần của khối quốc gia, Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia nhứt định cầu cứu nơi Đại Sứ và quý Quốc với ân đức của Nữ Hoàng, mượn thế của Tây Phương sẵn có : Như Mỹ về việc tiếp viện, Pháp về cảm tình các quân nhân Cộng Hoà Việt Nam, đặng thúc đẩy sớm một cơ hội cho Mặt Trận được đủ thế lôi cuốn và đem về cho quốc gia cả các con chiên chạy lạc.

Chúng tôi chỉ biết nhờ cậy có bấy nhiêu mới đủ năng lực hầu giữ vững thế cờ cho cả thế giới khỏi hoạ tiêu nhận thức.
Các khoản riêng mà chúng tôi đã trình bày với vị Bí thơ của quý Đại Sứ đã chứng tỏ điều ấy.
Tình trạng không cho phép chúng tôi chần chờ quá một tháng.Nếu trễ không còn cứu vãn được nữa.
Toàn dân Việt Nam chúng tôi đang trông chờ sự giải quyết của Đại Sứ.
Chúng tôi trân trọng kính mến Nữ Hoàng và rất mong được chịu ơn của Đại Sứ.
Nay kính

*  *  *
   Năm 1962.

Sài Gòn, ngày 8 tháng 3 năm 1962
Kính gởi Quý vị:- Đại Sứ Mỹ Quốc
-   Đại Sứ Anh Quốc
-   Đại Sứ Pháp Quốc
Sài Gòn
Kính Quý Đại Sứ,
Chúng tôi rất khó nghĩ khi phải gởi đến quý Đại Sứ thêm bức thơ này, song xét vì sự việc đã xảy ra làm cho tình trạng nước nhà của chúng tôi ngày thêm nguy khốn mà trách nhiệm ấy vốn quý Quốc phải gánh lấy phần, vậy cho nên thơ này bắt buộc phải viết vẫn không ngoài ý chí cứu quốc cứu dân của chúng tôi.

Mặc dầu những thơ trước đã được quý Đại Sứ và quý Quốc nghiên cứu, nhưng những trạng thái khiến đổ vỡ khối tinh thần Quốc gia không mảy may cải thiện, mà trái lại, mỗi ngày mỗi thêm ác lộng.Nói rõ hơn, toàn thể Quốc dân của chúng tôi rất căm hờn khi nghe một trái bom nổ giữa lương dân hay một cuộc khủng bố với những hành động vô nhân đạo sau mỗi cuộc phá khuấy của đối phương.

Chánh quyền hiện tại đã không đủ sức thu phục lòng dân tức nhiên không còn được toàn dân chúng tôi tín nhiệm nữa, mà còn tạo thêm bao điều hà khắc : Kinh tế bóp chặt, sưu cao thuế nặng, dâng công liên tiếp, ép buộc phụ nữ vào vòng chiến tranh mà bỏ phế gia đình, như vậy là chế độ Cộng sản đang được thi hành tại mảnh đất Quốc gia với những phương tiện của Mỹ Quốc đặng liên tục tiến đến vô gia đình, vô sản.

Sự thành lập các khu trù mật, các ấp chiến đấu sẽ không ích lợi gì cũng như Vạn lý Trường Thành ở bên Trung Hoa đã không giúp cho bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng của Trung Hoa xưa kia được giữ bền ngôi vị, mà sự động viên nhân lực làm cho dân chúng chịu đói khổ là lý đương nhiên tạo nên sự đồ thán của toàn dân.

Việc xạ kích dinh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và gia đình ông vào sáng ngày 27-2 vừa qua, mặc dầu là việc làm bộc phát cá nhân, song cũng đủ tượng trưng cho sự phẩn nộ tột độ của những công dân cùng quân nhân ái quốc đối với một chế độ độc tài và gia đình trị.

Trong giai đoạn hiện hữu, mặc dầu toàn thể quốc dân của chúng tôi đã kết thành khối mà quý Đại Sứ đã hiểu rõ hơn ai hết, nhưng vì chẳng muốn máu dân tộc chảy nhiều và có thể làm lợi cho chiều khác trong cảnh huynh đệ tương tàn, nên đành im tiếng chờ thái độ của khối Tây Phương.

Toàn quốc dân chúng tôi rất biết ơn về các sự giúp đỡ của quý Quốc đối với chánh phủ của chúng tôi, đi đôi với sự biết ơn ấy toàn quốc dân chúng tôi cũng phân vân chẳng biết quý Quốc giúp đỡ cho dân tộc Việt Nam hay cho chế độ độc tài gia đình trị hiện nay, vì tất cả các sự giúp đỡ chưa làm cho dân tộc Việt Nam chúng tôi được vui sống hơn chút nào.Trái lại, đã làm cho dân tộc chúng tôi ngày thêm bị tàn phá : người chết vì bom đạn, mùa màng cây trái bị hư hoại vì rải thuốc giết cây, thuế càng ngày càng tăng trong khi nền kinh tế càng ngày càng kiệt quệ.

Như vậy, Mỹ Quốc là nước phải trực tiếp chịu phần trách nhiệm đối với dân tộc chúng tôi vì đã trực tiếp giúp đỡ cho chế độ hiện hữu sống mạnh, cũng như Pháp Quốc đã cùng khối Cộng sản làm cho quốc dân chúng tôi mạng hận phân ly. Còn phần gián tiếp chịu trách nhiệm, Anh Quốc là nước đồng Chủ tịch trong Hội nghị Genève 1954 để chia phân lãnh thổ và dân tộc của chúng tôi hiện cũng ngồi yên mà nhìn đổ vỡ.

Do đó, kế hoạch phá rối miền Nam được dễ dàng thành tựu trong khi toàn thế giới đang lo ngại cho vấn đề Việt Nam.

Vẫn biết sự đột nhập gây rối của miền Bắc vào Miền Nam là việc cần giải quyết, nhưng với những hành động của chánh quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm như lại càng vô chánh trị làm cho không thể giải quyết được tình hình.

Chúng tôi quả quyết rằng tinh thần quốc gia của dân tộc Việt Nam rất mạnh mẽ, có một chánh quyền hợp nhất được với toàn dân thì mọi việc chẳng chi là khó.

Trái lại, thế thắng lợi vẫn dần dần tiến về chiều khác, vì lòng dân đã mất, và khối cường quốc Tây phương phải sa lầy nặng nề ở Việt Nam trên ván cờ Đông Nam Á, để không còn rút chân lên được nữa.

Chúng tôi rất mong những lời lẽ trên đây sẽ giúp ích cho tình thân hữu mật thiết giữa các dân tộc của chúng ta được tồn tại vĩnh viễn mà Quý Quốc và quý Đại Sứ phải cộng sự xây đắp và tô điểm cho nền Hoà Bình và thạnh vượng chung được vững mạnh và sáng chói.
Trân trọng kính chào quý Đại Sứ.
*  *  *

   Sài Gòn, ngày 18 tháng 8 năm 1962

Kính gởi Quý vị :
- Đại Sứ Mỹ Quốc
- Đại Sứ Anh Quốc
- Đại Sứ Anh Quốc,
                                                                   Sài Gòn
Kính Quý Đại Sứ,
Chúng tôi xin trân trọng kính gởi đến quý vị thêm thơ này, mong được sự suy cứu của quý vị hầu cứu vãn tình thế nước nhà của chúng tôi, cũng như tình thế Đông Nam Á và thế giới.

Mặc dầu các cố gắng của Quý Quốc đã đem lại cho chánh phủ miền Nam Việt Nam của chúng tôi phần nào tin tưởng, song xét lại cả mọi xáo trộn và bí ẩn thất bại mà chúng ta phải công tâm nhận định, thì những cố gắng ấy đã tạo nên một tình thế khó khăn hơn trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam.

Trong lúc miền Nam gởi các Liên đoàn 77 ra công tác bí mật ở miền Bắc và miền Bắc công khai tạo áp lực ở miền Nam, thì những chiến cuộc gọi là “Hành quân tảo trừ Việt cộng” không có nghĩa lý gì cả.

Thử hỏi : miền Nam có thể đánh miền Nam mà thắng miền Bắc không ? Hoặc khối Tây phương ủng hộ miền Nam nói là chống Cộng, lực lượng đó có đủ để bảo vệ miền Nam hay không ? Chúng tôi quả quyết là không. Vẫn biết các âm mưu gây chiến của phe Cộng sản vốn là chánh sách sách của họ, song khối Tây phương không thể diệt được Cộng Sản ở Việt Nam trong khi khối Cộng sản là chủ tình hình ở toàn miền Bắc và có ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp công nông của miền Nam, nếu chẳng nói đại chiến xảy ra.

Đó là điều mà chúng tôi tin chắc rằng khối Tây phương không bao giờ muốn. Nhận xét xác đáng, không phiến diện, chiến tình ở Việt Nam không giống chiến tình ở các nước khác bởi các lý do :
- Ông Hồ Chí Minh hẳn được đại đa số dân chúng Việt Nam kính trọng, vì Ông là người lãnh đạo kháng chiến cướp nước Việt Nam ra khỏi bàn tay đô hộ của thực dân. Cộng sản không gây nhiều tàn bạo trong  miền Nam như ở miền Bắc hay ở các nước.
- Chánh quyền và Tổng Thống miền Nam Việt Nam đã thi hành những thủ đoạn mà chính họ đã đả kích Cộng sản. Chánh quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã phô bày bộ mặt bất lực, nhũng lạm, bất nhân và độc tài.

Vậy cho nên, dù Tây Phương có phải hao tốn bao nhiêu, trạng thái vẫn không thay đổi. Rốt cuộc toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ oán hận khối Tây phương là hiếu chiến và mượn tay kẻ hiếu sát mê loạn đặng bắt tay với Cộng sản mà tiêu diệt dân tộc Việt Nam.

Với thơ này, chúng tôi xin quý Đại Sứ cần nghiên cứu kỹ tình hình, và cấp tốc trình bày sự việc cùng quý chánh phủ hầu cứu vãn tình trạng nếu không muốn nói là phải thua ván bài gian lận một phen nữa.

Chúng tôi nói rõ, muốn vấn đề Đông Nam Á được sớm giải quyết và vấn đề Lào Quốc được mau ổn định, trước hết Quý Quốc phải lo thu xếp vấn đề Việt Nam.

Lào còn mãi lộn xộn, do mũi nhọn Bắc Việt.
Đông Nam Á nằm vào tình trạng bấp bênh, do mũi nhọn Bắc Việt. Cộng sản được mạnh bước tiến, do mũi nhọn Bắc Việt.
Miền Nam Việt Nam sẽ luôn luôn bất an và cũng có thể mất thêm phần đất kể từ vĩ tuyến 12 trở ra để làm phần đất Trung lập giả hiệu, cũng do mũi nhọn Bắc Việt.

Đồng thời, chánh sách của chánh quyền  Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang là phương tiện hữu hiệu mạnh mẽ để mũi nhọn Bắc Việt dễ dàng bành trướng

Với tinh thần sáng suốt và Hoà Bình của trên hai triệu tín đồ Cao Đài thuộc Toà Thánh Tây Ninh, cũng như với tinh thần Quốc gia dân tộc của toàn nhân dân Việt Nam, chúng tôi xin nhắc lại Cương lĩnh Chánh Sách Hoà Bình Trung lập của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo Chủ Đạo Cao Đài đã gởi cho các Cường quốc ngày 26 tháng 3 năm 1956 trong việc thống nhứt lãnh thổ và dân tộc Việt Nam như dưới đây :

I . THỐNG NHỨT LÃNH THỔ & KHỐI DÂN TỘC VIỆT NAM
VỚI PHƯƠNG PHÁP ÔN HOÀ .
A . Giai đoạn thứ nhứt
1 . Để hai chánh phủ địa phương tạm giữ nguyên vẹn nền tự trị nội bộ mỗi Miền theo ranh giới vĩ tuyến 17.
2 . Thành lập một “Uỷ Ban Hoà Giải Dân Tộc “ gồm có các nhân sĩ trung lập và một số đại diện bằng nhau của Chánh Phủ hai Miền để tìm những điểm dung hợp của hai miền.
3 . Tổ chức nước Việt Nam thống nhứt thành chế độ Liên Bang Trung Lập gồm có hai phần liên kết (Nam và Bắc ) theo hình thức của Thuỵ Sĩ với một Chánh Phủ Liên Bang Lâm Thời, để điều hoà nền kinh tế trong nước và để thay mặt cho nước Việt Nam thống nhứt đối với Quốc tế và Liên Hiệp Quốc.
4 . Bãi bỏ bức rào vĩ tuyến 17, dân chúng được bảo đảm sự lưu thông tự do trên toàn lãnh thổ Việt Nam để so sánh và chọn lựa chế độ sở thích mà định cư. Vĩ tuyến chỉ còn là ranh giới hành chánh của hai miền hiện hữu mà thôi, còn dân tộc Việt Nam vẫn là một khối duy nhứt, trung lập và tự do.
B . Giai đoạn thứ nhì
1 . Đánh thức tinh thần dân tộc …
2 . Tổ chức tổng tuyển cử để thành lập Quốc hội duy nhứt dưới sự kiểm soát và trách nhiệm trọn vẹn của Liên Hiệp Quốc …
3 . Quốc hội này sẽ định thể chế thiệt thọ và thành lập Chánh phủ chủ quyền toàn quốc.

II . TRÁNH MỌI XÂM PHẠM NƠI QUYỀN VIỆT NAM

1 . Hữu dụng nền độc lập của mỗi Miền đã thu hồi do hai khối đã thừa nhận…
2 . Mở một đường lối gọi là “ĐƯỜNG LỐI DÂN TỘC ” để dung hoà hai Miền.
3 . Tránh mọi hướng dẫn của ngoại quốc. Không gia nhập vào một trong hai khối Nga hay Mỹ, không nhìn nhận một Đảng hoặc tổ chức nào có hệ thống dây chuyền với ngoại bang, để nền độc lập không bị chi phối …

III . XÂY DỰNG HÒA BÌNH  HẠNH PHÚC VÀ TỰ DO DÂN CHỦ CHO TOÀN DÂN
1 . Thúc đẩy sự thi đua nhân nghĩa ở hai miền Nam và Bắc…
Thực hiện nhân quyền …
3 . Phát huy tinh thần hiền triết cổ truyền của chủng tộc.
4 . Thống nhứt tinh thần dân tộc trên căn bản hy sinh và phụng sự.
5 . Bãi bỏ mọi nguỵ biện xuyên tạc giữa hai Miền, phải để cho toàn dân đứng trước sự thật để nhận xét hành động đôi bên …
6 . Mọi hoạt động trên đều thường xuyên đặt dưới sự kiểm soát và ủng hộ của Liên Hiệp Quốc để ngăn ngừa mọi áp bức của địa phương.

*  *  *

Vậy yêu cầu quý Đại Sứ và quý Chánh phủ hãy sớm giúp nước Việt Nam chúng tôi mau thoát cảnh lầm than và nạn tương tàn, nhứt là mỗi ngày phải đau đớn nghe tin người Việt giết người Việt do sự hướng dẫn của Mỹ hay của Tân Trung Hoa.

Đúng tinh thần chân chính của quốc gia dân tộc, đúng tinh thần Tôn giáo, chúng tôi mong mỏi được sự nghiên cứu sớm kết quả trước Hội nghị Quốc tế về Việt Nam lần thứ hai, và chúng tôi hưá sẽ nổ lực toàn diện để thực hiện trọn vẹn chương trình với phương pháp đã định sẵn.

Trân trọng kính chào quý Đại Sứ và kính đệ lời chúc quý Quốc và quý Dân tộc được thịnh vượng.
Nay kính

(Văn thơ Quốc tế của Sĩ Tải Phạm Duy Nhung được dịch ra Anh văn do ông Lễ sanh Ngọc Đoan Thanh (G.s Anh Văn). Phần pháp văn do Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời)

*  *  *
Sài Gòn, ngày 26 tháng 10 năm 1962.
Kính gởi Ông Đại Sứ Anh Quốc,
Sài Gòn
Kính quý Đại Sứ,
Tiếp theo các thơ mà chúng tôi đã gởi đến quý Đại Sứ cùng các cuộc mạn đàm giữa vị Tham vụ quý Sứ Quán và chúng tôi, chúng tôi xin thông báo thêm đến quý Đại Sứ tình trạng làm cho sức mẻ nhân tâm và hậu quả là sự nghi ngờ sợ sệt của dân chúng Việt Nam chúng tôi đã chẳng những đặt vào phe Cộng sản mà thôi, lại còn đặt vào các Cường Quốc Tây Phương vì họ cho rằng những sự giúp đỡ của khối Tây Phương đối với chánh phủ miền Nam Việt Nam không phải để thực hiện Hoà Bình Thống Nhứt mà đem lại hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam, mà là để hiệp cùng khối Cộng sản đặng tiêu diệt lần hồi dân tộc chúng tôi mà thực hiện kế hoạch chia tay, biến nước Việt Nam thành hai lãnh thổ bị trị gián tiếp của hai khối Đông Tây.

Vẫn biết các sự việc  xảy ra đều do các người Mỹ biến hình trong quân lực miền Nam hoặc vô tình, hoặc cố ý thúc đẩy, chuyển những sự khủng bố tàn sát, tiêu sản, ngoài ý muốn của khối Tây phương. Nhưng, theo sự biết mộc mạc của người dân, họ chỉ cho là thân nhân của họ bị tàn sát và tài sản của họ bị đốt phá do quân đội của chánh phủ dưới sự hướng dẫn của các quân nhân Mỹ.

Về sự thành lập các ấp chiến lược mà chánh phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho là quốc sách, đã từng gieo sự bất mãn ngấm ngầm trong tâm trí của mỗi người dân, vì họ đã bị lợi dụng từ nhân lực đến tài lực, kiệt quệ sức sống từ nông nghiệp đến thương mãi.Vậy mà người ta đã cố tình cho những người dân cư ngụ ngoài phạm vi ấp chiến lược đều là Việt cộng, một vi phạm lớn lao về tinh thần cổ truyền của dân tộc Việt Nam trong đời sống, nói khác hơn, là một chế độ áp bức, Cộng sản biến hình đang đương nhiên thành hình với sự hổ trợ của khối tự do. Người ta không chịu hiểu rằng ấp chiến lược chỉ có lợi cho một quốc gia toàn vẹn và tinh thần toàn thể được đoàn kết chặt chẽ.

Còn hiện nay Ấp chiến lược chỉ thành lập rải rác một vài nơi thôn xóm đông dân cư, thậm chí trong một vùng bị chia ra chỗ thì là Ấp chiến lược, chỗ thì không.

Vả lại người dân cần sống ở những nơi có ruộng rẫy, mà tất nhiên những nơi đó không thể thành lập ấp chiến lược được. Chính những nơi ruộng rẫy đó, tài nguyên mới được khai thác, thực phẩm mới được sản xuất đặng nuôi sống toàn dân, mà chính những nơi đó đã xảy ra những cuộc ném bom, những cuộc bắn phá của quân đội, để rồi các chòi giữ rẫy, ruộng chống với trộm cướp hoặc thú rừng được gọi là nhà ẩn núp của Việt cộng, những xuống lưu thông của những nông dân đồng ruộng được gọi là xuồng vận chuyển của Việt cộng và những nông dân được biến thành Việt cộng tưởng tượng.

Và, tất cả trở thành bia chịu đạn, nếu ai may được sống sót thì nhà giam được thay thế cho nhà ở của họ.

Chúng tôi xin nêu lên một chuyện đáng buồn cười hơn hết, là ngày 11-10-1962 vừa qua, trong cuộc hành quân “Sao Mai” ở Tây Ninh, phi cơ đến bắn phá vùng đất rẫy bên kia núi Phụng (vùng núi Điện Bà) một người đàn bà làm rẫy vì quá sợ mà ẩn sau một gò mối (ụ đất do mối đùn lên) phi cơ thấy bóng cứ theo bắn hoài làm bể nát gò mối với trên trăm phát  còn người đàn bà thì được bình yên chạy về nhà sau một phen kinh khủng. Trong khi đó, vài người làm rẫy thuộc vùng Tam giác Xóm Vịnh, Trảng Sụp, Bàu Cỏ, bị bắn chết và một số khác bị lùng bắt. Cũng trong ngày đó, một số xuồng và dân làm ruộng bị bắn, hoặc bị bắt tại i Đông Nam Gò Dầu Hạ (vùng Trà Cao). Những sự việc ấy không chỉ xảy ra một chỗ mà là khắp các nơi có những cuộc hành binh. Phe Cộng sản nhờ đó mà có đủ biện chứng tuyên truyền, dân chúng Việt Nam chúng tôi cũng vì đó mà uất hận. Lực lượng chống đối cũng nhờ đó mà có cơ hội tạo phương tiện cho sự ẩn náo vững chắc của họ.

Như nội dung thơ số 030/ĐDHP-QN/TN mà chúng tôi đã gởi đến Quý Đại Sứ đề ngày 18-8-1962, sự tăng cường giải pháp quân sự cho miền Nam Việt Nam không thể diệt được lực lượng mượn danh là Giải Phóng miền Nam do Chánh phủ Hồ Chí Minh ở miền Bắc điều khiển mà một giải pháp chính trị thích ứng mới mong luận với vị Tham vụ quý Đại Sứ.

Nay, nhận thấy nguy cơ sắp đến, các bộ đội tập kết đã trở lại đầy đủ thì chiến cuộc Lào Quốc có thể tái diễn nay mai.Sự uất hận của dân chúng ngày một lên cao thì uy tín khối Tây phương ngày càng giảm, chánh phủ Anh quốc sẽ phải chịu trách nhiệm với Quốc dân Việt Nam cũng như với quốc tế vì không chịu ngăn cản các hành động thiếu ý thức của chánh phủ Mỹ và chánh phủ Ngô Đình Diệm, trong khi chánh phủ Anh Quốc có trách nhiệm một nước đồng Chủ tịch của Hiệp Định Genève 1954.

Chúng tôi cũng quả quyết rằng tình hình Việt Nam rất nguy ngập. Nguy ngập hơn cả tình hình CuBa và Bá Linh, vì hai nơi đó do Nga trực tiếp hành động, một việc làm mà kết quả trái với chủ trương của Krouthchev tức nhiên nó chỉ là vấn đề của sự doạ dẫm cốt đem lại một Hội nghị thượng đỉnh có lợi cho Nga bởi Mỹ đã dại dột có những hành động phản dân chủ trước (chủ trương thuyết Monroe đất Mỹ của người Mỹ bành trướng thế lực khắp thế giới).

Trái lại, tình hình Việt Nam được đi đúng theo hoạch định của khối Cộng sản do chánh phủ Cộng sản Bắc Kinh chỉ huy trực tiếp; một sự chỉ huy táo bạo nguy hiểm hơn Mạc Tư Khoa thập bội, và Lào Quốc chỉ là bối cảnh của Việt Nam trong ván cờ Đông Nam Á mà thôi.

Do đó, chúng tôi đã từng nói trong thơ số 050/ĐDHP-QN/TN đề ngày 18-8-1962 như quý Đại Sứ đã hiểu, là các Cường quốc cần giải quyết vấn đề Việt Nam tức nhiên là giải quyết vấn đề Đông Nam Á và thế giới. Chiến cuộc giữa Ấn Độ và Tân Trung Hoa cũng chỉ là vấn đề trả đũa vì vấn đề Việt Nam mà Ấn Độ là chủ tịch Uỷ Hội Quốc Tế nơi đây.

Với thơ này, chúng tôi tin tưởng quý Đại Sứ sẽ nổ lực đặng thông báo kết quả với quý chánh phủ đặng gấp rút quyết định thái độ trước sự lo âu của toàn dân tộc chúng tôi và chúng tôi cũng tin chắc rằng Nữ Hoàng và quý chánh phủ đã lo ngại hơn hết, vì nhân tâm đã ly tán thì sức mạnh không thể kết cấu được.
Trân trọng kính chào quý Đại Sứ.
Nay kính

*  *  *
Sài gòn, ngày 15 tháng 11 năm 1962
Kính gởi: Ông Chủ Tịch Uỷ Hội Quốc Tế,
Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam
Sài gòn

Kính Ông Chủ Tịch,
Nhơn danh trên hai triệu Tín đồ Cao Đài Giáo và cũng là dân chúng Việt Nam,chúng tôi xin cáo tri đến Ông Chủ Tịch tình hình nguy ngập của nước Việt Nam hiện nay do sự vi phạm Hiệp Định Geneve 1954 mà cả hai chánh phủ miền Nam và miền Bắc cố ý tạo ra.

Với các mật thơ mà chúng tôi đã gởi các vị Đại Sứ Anh, Mỹ, Pháp cùng thơ gởi cho ông Tổng Thơ ký Liên Hiệp Quốc mà chúng tôi gởi kèm theo đây để nhờ ông Chủ Tịch chuyển đạt, chúng tôi tin rằng ông Chủ Tịch sẽ rất hài lòng mà thấy rõ sự thật và các văn kiện này sẽ được ông Chủ Tịch vui vẻ chuyển đến ông Tổng Thơ ký Liên Hiệp Quốc thật gấp.

Toàn thể dân tộc Việt Nam xin đặt trọn tin tưởng nơi ý chí Hoà Bình Trung Lập của ông Chủ Tịch, một ý chí phản ảnh tinh thần của dân tộc Ấn Độ, của Thánh Gandhi, mà chúng tôi hằng kính trọng và cương quyết noi theo.

Trân trọng kính gởi nơi đây lòng tri ân nồng nhiệt của toàn thể dân tộc Việt Nam yêu chuộng Hoà Bình và Trung Lập của chúng tôi.
Nay kính

*  *  *
   Sài gòn, ngày 15 tháng 11 năm 1962
Kính gởi : Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc
Nửu Ước

(Do sự chuyển đạt của Ông Chủ Tịch Uỷ Hội quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam ở Sài Gòn)

Kính Ông Tổng Thơ Ký,
Tiếp theo các mật thơ mà chúng tôi đã gởi cho các vị Đại Sứ của ba Cường Quốc Tây Phương, Mỹ, Anh, Pháp với mục đích kêu gọi sự hiểu biết của các chánh phủ ấy hầu cứu vãn tình thế nước Việt Nam tránh một cuộc chiến tranh vô ích chẳng những làm hao tổn xương máu dân tộc chúng tôi mà còn làm hao tổn đến sanh mạng và tài sản của các công dân các nước bạn đặng rồi kết quả nhục nhã dỉ nhiên sẽ đến với Tổ quốc chúng tôi.

Chúng tôi, người được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Cố Giáo Chủ Đạo Cao Đài, Đấng mà các Cường quốc đã nghe hiểu danh tánh, uỷ thác trách nhiệm tạo lập Hoà Bình cho nước Việt Nam với tinh thần của trên hai triệu tín đồ Cao Đài Giáo thuộc Toà Thánh Tây Ninh cũng như tinh thần của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Xin đạt đến Ông Tổng Thơ Ký các mật thơ đã gởi cho các Đại Sứ ba quốc gia, Anh, Pháp, Mỹ ở Sài Gòn hầu ông Tổng Thơ Ký nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình Việt Nam để vận chuyển hiệu quả, chặn đứng cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn để đất nước và dân tộc chúng tôi sớm được thống nhứt với phương pháp Hoà Bình Trung Lập.

Vẫn biết ông Tổng Thơ Ký hiện rất nhiều bận tâm vì cuộc diện thế giới biến chuyển bất ngờ và vấn đề Congo đã làm cho Ông Tổng Thơ Ký quá nhiều suy nghĩ vì đã lỡ để quân đội ngoại quốc đến can thiệp vào nội bộ Quốc gia ấy. Vậy mà, thêm vào đó, hai bên Nga- Mỹ không ngớt gây áp lực cho nhau mà các nước nhược tiểu luôn luôn là con cờ bị huỷ diệt, một sự việc vô nhân đạo trái với chủ trương của Liên Hiệp Quốc. Riêng về nước Việt Nam chúng tôi, hiện tình đương nhiên là thành quả của cuộc tranh giành Nga Mỹ cộng thêm sự tranh giành lý thuyết và danh vị của những kẻ cầm quyền hai miền Nam Bắc.

Vì cớ, chúng tôi đã phải gởi các mật thơ nói trên, cốt kêu gọi sự hiểu biết của các nhà lãnh đạo Tây Phương, vì cũng như toàn thế giới đều hiểu rõ khối Tây Phương vẫn tự hào là khối dân chủ tự do và nhân đạo, trong khi khối Cộng sản chủ chiến độc tài, không tình cảm. Nhưng tiếc thay, lời kêu gọi của chúng tôi không đủ thức tỉnh tinh thần háo chiến chủ quan vì bất thức thời nên các lời lẽ của chúng tôi đã đưa ra chưa lay chuyển được tình hình để đem lại Hoà Bình cho xứ sở, mặc dầu những sự việc xảy ra đã đi đúng như lời chúng tôi đã tỏ trước trong các mật thơ ấy.

Ngày nay, chiến cuộc trở thành nguy ngập hơn, một mối nguy cho thế giới vì ngòi lửa đại chiến thứ ba có thể do nơi đây mà bộc phát. Đứng trên chiến lược Quốc tế, hẳn Ông Tổng Thơ Ký đã nghĩ đến cửa ngõ Việt Nam, một cửa ngõ tối trọng của chiến cuộc Thái Bình Dương. Phe Cộng sản đã sẳn trực chỉ huy táo bạo là Bắc kinh và Chánh phủ Hà Nội đã hoạt động đắc lực về kế hoạch xích hoá Đông Nam Á. Còn phe tự do thì có trục chỉ huy phiêu lưu là Hoa Thịnh Đốn và Chánh phủ Saigon lại hoạt động đầy quá khích cực đoạn, để rồi dân chúng Việt Nam vì quá đau khổ, nhiều uất hận đương nhiên sẽ là mồi tốt cho lò lửa.

Vì không thể ngồi nhìn dân tộc bị hy sinh cho thế cờ tranh giành ảnh hưởng Quốc Tế, vì xét rằng chúng tôi có đầy đủ năng lực để giúp Liên Hiệp Quốc không lâm vào tình trạng ở Congo khi Liên Hiệp Quốc quyết định đem lại trật tự an ninh, Hoà Bình và Thống Nhứt cho Quốc gia và Dân tộc Việt Nam.

Vì quyết đoán rằng Ông Tổng Thơ Ký với tinh thần Hoà Bình Trung Lập và Nhơn Đạo của một Quốc gia khả kính, bạn láng giềng với nước Việt Nam, sẵn sàng đứng ra dàn xếp đặng chấm dứt cuộc nội chiến nhơ nhớp hiện nay ở Việt Nam. Vì định hẳn tình hình Việt Nam có được yên ổn thì các nước Đông Nam Á mới yên ổn để làm nhịp cầu Hoà Bình cho thế giới,

Vì nhận thấy nguy cơ có thể cứu vãn kịp thời, chúng tôi xin kính gởi thơ này đến ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc, kèm theo 4 mật thơ mà chúng tôi đã gởi các Đại Sứ Mỹ, Anh, Pháp để kêu gọi một quyết định hữu hiệu với một Hội nghị Quốc tế về Việt Nam lần thứ hai (xin xem mật thơ số :030/ĐDHP-QN/TN đề ngày 18-8-1962 kèm theo đây) mà chúng tôi tin chắc rằng các Quốc gia Hội viên Liên hiệp Quốc sẽ rất hài lòng nhờ tài trí cao minh của ông Tổng Thơ Ký.

Chúng tôi xin ông Tổng Thơ Ký nhận nơi đây sự tri ân toàn thể tín đồ Cao Đài Giáo cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam.
Nay kính
Đính theo.
- Thơ gởi các Đại Sứ Anh, Pháp, Mỹ đề ngày 23 tháng 10 năm 1961
- Thơ gởi các Đại Sứ Mỹ, Anh, Pháp đề ngày 8-3-1962.
- Thơ gởi các Đại Sứ Mỹ, Anh, Pháp đề ngày 18 tháng 8 năm 1962

*  *  *
   Saigon, ngày 15 tháng 11 năm 1962.
Kính gởi Quý Đại Sứ, Tổng Lãnh Sự các
Quốc gia bạn của nước Việt Nam.
Sài Gòn
Kính Quý vị,
Kể từ ngày quật khởi của toàn dân để giành lại độc lập cho non sông vào hôm 9 tháng 3 năm 1945, dân chúng Việt Nam đã phải đổ biết bao xương máu, huỷ diệt bao sản nghiệp mà cả thế giới đều hiểu rõ.

Vậy mà, sau thời gian nhân dân tranh đấu, Hiệp Định Geneve 1954 ra đời để khơi lại sự nhục nhã Trịnh Nguyễn phân tranh buổi trước. Những vị lãnh đạo hai miền Nam Bắc đã chẳng kiếm đặng phương hàn gắn giang sơn nòi giống lại cho toàn vẹn Quốc quyền, lại còn gây thêm nạn tương tàn và sự bành trướng của nạn vô thần tàn bạo càng thêm mạnh.

Vào buổi qua phân khởi điểm, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã kịp thời kết hợp toàn lực của toàn thể Quốc dân Việt Nam trong Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia đặng giao cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm buổi nọ để làm sức mạnh dự bị cho một thể chế Quốc gia chơn chánh ra đời để cứu vãn tình thế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã từ chối nên Mặt Trận tạm giải tán, đồng thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm thay thế cho Thủ Tướng (Ngô Đình Diệm) do sự hy sinh  tạo dựng của các chiến sĩ khối Cao Đài.

Sau trận chiến Ngô Đình Diệm – Bình Xuyên do kế hoạch ngoại bang, Tướng Trình Minh Thế chết bí mật, Tướng Nguyễn Thành Phương bội phản, sự xâm nhập miền Nam do miền Bắc chỉ huy càng thêm mạnh.

 Sự áp bức của chánh quyền miền Nam đối với khối Cao Đài được thực hiện, Đức Hộ Pháp đã phải sang Nam Vang tị nạn và từ nơi đó, Cương Lĩnh Hoà Bình Trung Lập các thơ kêu gọi gởi các Cường quốc và Chánh phủ hai miền đã được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc gởi đi từ năm 1956.

Đến ngày nay, vì thời cuộc biến chuyển quá mạnh, chúng tôi đã phải gởi các mật thơ cho các vị Đại Sứ Mỹ, Anh, Pháp đặng kêu gọi sự hiểu biết của các Quốc gia ấy, song tình trạng vẫn không thay đổi, Chánh Phủ Mỹ vẫn chữa lầm bịnh, nạn huynh đệ tương tàn của dân tộc Việt Nam thêm bành trướng và chiến tranh Lào Quốc lại được nhồi chặc nồi thuốc.

Để tránh tai hoạ chiến tranh ghê tởm cho Đông Nam Á và cho thế giới nói chung, cho Việt Nam nói riêng, chúng tôi xin gởi các bản sao lục những mật thơ mà chúng tôi đã gởi cho các vị Đại Sứ Mỹ Anh Pháp để quý vị cấp tốc gởi về Quý Quốc nghiên cứu và giúp giải pháp cho Việt Nam và Liên Hiệp Quốc hầu một Hội nghị Quốc tế về Việt Nam lần thứ hai được thực hiện hữu hiệu, chúng tôi quả quyết sẳn sàng đủ năng lực cùng biện pháp thi hành hiệu quả Chánh sách của chúng tôi.

Toàn thể trên hai triệu Tín đồ Cao Đài Giáo cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam rất tin tưởng ở Quý Chánh phủ do quý vị tận tâm giúp đỡ hầu thực hiện Hoà Bình thật sự.

Xin Quý vị nhận nơi đây lòng kính trọng của chúng tôi và lời chúc tụng hạnh phúc và thạnh vượng cho Quý dân tộc và Quý Chánh phủ.
Trân trọng kính chào Quý vị.

*  *  *

CHÁNH PHỦ NGÔ ĐÌNH DIỆM GỌI KHU TRÙ MẬT VÀ ẤP CHIẾN LƯỢC LÀ QUỐC SÁCH.

Ông Nhung đã khuyến cáo trong thơ số 1-62 đề ngày 8-3-1962 gởi ba vị Đại Sứ Mỹ – Anh –Pháp.
Sự thành lập các khu trù mật, các ấp chiến lược sẽ không ích lợi, vì cũng như Vạn Lý Trường Thành ở bên Trung Quốc đã không giúp cho bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng xưa kia được vững bền trên ngôi vị mà sự động viên nhân lực làm cho dân chúng chịu đói khổ là lý đương nhiên, tạo thêm sự đồ thán của toàn dân.

Ông phê bình viện trợ Mỹ cho chánh phủ Ngô Đình Diệm; toàn quốc dân chúng rất biết ơn về sự giúp đỡ của Quý Quốc, đối với chánh phủ của chúng tôi.Đi đôi với sự biết ơn ấy, toàn quốc dân chúng tôi cũng phân vân chẳng biết Quý Quốc giúp đỡ cho Dân tộc Việt Nam hay cho chế độ độc tài gia đình trị. Hiện nay vì tất cả các sự giúp đỡ đó chưa làm cho dân tộc Việt Nam chúng tôi được vui sướng hơn chút nào.

Trái lại, đã làm cho dân tộc chúng tôi ngày thêm bị tàn phá, người chết vì bom đạn, mùa màng trái cây bị hư hoại vì rải thuốc chết cây.Thuế ngày càng tăng trong khi nền kinh tế càng ngày càng kiệt quệ …

Với tiền viện trợ Mỹ, các nhà tù được xây cất gấp ba bốn nhiều hơn thời Bảo Đại.Các nhân viên mật vụ dùng để khủng bố bắt cóc dân chúng được kết nạp nhiều hơn nhân viên công lực, đã tạo thành một ngân sách chi phí quá mức tưởng tượng.

Đồng thời các vụ tống tiền chợ đen công khai được dung túng, và sự bán gạo cho Bắc Việt để đổi lấy thuốc phiện lậu mang từ Lào về làm kinh tế cho Đảng Cần lao Nhân vị, một Đảng hoạt động bí mật và nguy hiểm của gia đình họ Ngô, đó là chưa nói đến các tổ chức phá rối Thái Tử Sihanouk Quốc Trưởng Cam bốt với một chi phí khổng lồ, và việc đem qua Lào giúp Tướng Phouna Nosaran gây nội chiến Lào quốc làm tổn phí tài chánh cùng quân số cho Việt Nam.

Như vậy Mỹ quốc là nước trực tiếp chịu trách nhiệm đối với dân tộc chúng tôi vì đã trực tiếp giúp đỡ cho chế độ hiện hữu sống mạnh, cũng như Pháp quốc đã cùng khối Cộng sản làm cho quốc dân chúng tôi mang hận phân ly, còn phần gián tiếp chịu trách nhiệm là Anh quốc đồng chủ tịch trong Hội nghị Geneve 1954 đã chia phân lãnh thổ và dân tộc chúng tôi. Chúng tôi hiện cũng ngồi yên mà nhìn sự đổ vỡ...

*  *  *

Cũng theo thơ này, ông Nhung tiên đoán sự sa lầy của Mỹ ở Việt Nam trên ván cờ Đông Nam Á, mà không còn rút chân được nữa, ông Nhung cũng tiên đoán khối Tây Phương không thể diệt được Cộng sản ở Việt Nam.

Hồi đó Liên Xô và Trung Quốc bất hoà với nhau hai bên đều đưa quân ra biên giới hai nước, đối lại Mỹ không quan hệ bình thường với Trung Cộng. Đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc của Trung Cộng bị Mỹ bác bỏ.Cho đến năm 1971, Mỹ đưa đoàn bóng bàn qua đấu được Trung cộng chấp nhận, báo chí gọi đó là ngoại giao bóng bàn. Ông Kissinger cố vấn chánh trị Tổng Thống Mỹ nhờ Hồi Quốc làm liên lạc, bí mật sang Trung Quốc để mở đường cho Tổng Thống Nixon chánh thức sang thăm Trung Quốc năm 1972. Trung Quốc được gia nhập Liên Hiệp Quốc và ngồi vào ghế Hội Đồng Bảo An thay thế Đài Loan cho đến ngày nay.

Ông Nhung cũng thường tiếp xúc với Toà Đại Sứ Anh ở Sài Gòn qua viên bí thơ nhưng vì người Anh không có quyền lợi trực tiếp ở Việt Nam nên thái độ gần như trung lập đối với vấn đề Việt Nam, khác với người Pháp và người Mỹ viên bí thơ là ông Hon mỗi tuần gặp ông Nhung tại biệt thự riêng, có lần ông hỏi ông Nhung có ý định đảo chánh không, và ai sẽ lên thay thế ông Diệm. Ông Nhung trả lời :Là người Tôn Giáo chúng tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc đảo chánh, mà mục đích của chúng tôi là xây dựng và chỉnh đốn chánh phủ cho được lành mạnh để thu phục lòng dân.

   Chương trình cải tổ.

A . CẢI TỔ TÌNH TRẠNG.
1 . Kết hợp các Đảng phái Quốc gia thành hai mặt trận làm hậu thuẩn cho chánh phủ. Một mặt trận đối lập với Tổng Thống và một mặt trận hậu thuẩn cho Tổng Thống.
2 . Trả tự do cho tất cả tù chính trị thuộc các Đảng phái quốc gia đối lập.
3 . Hai vợ chồng ông Ngô Đình Nhu phải tự ra khỏi Quốc Hội.
4 . Giải tán tất cả các tổ chức bí mật làm áp lực đe doạ tinh thần toàn dân.

(Đảng của ông Ngô Đình Cẩn ở Trung Phần, Đảng của ông Ngô Đình Nhu và Bác sĩ Trần Kim Tuyến ở Nam Phần)

5 . Thực thi nghiêm chỉnh các tự do dân chủ, tự do cúng kiến cùng tổ chức nội bộ của các Tôn giáo (Đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh đã bị chánh phủ áp chế từ năm 1956) và tự do ngôn luận.
6 . Bải bỏ các cuộc ruồng bố, tránh các hành động huynh đệ tương tàn trong các cuộc hành quân.
7 . Biến đổi quân đội miền Nam thành một quân đội huynh đệ chi binh đủ đầy hy sinh.
8 . Chấn chỉnh nền tài chánh kinh tế đặng hạ thấp giá sinh hoạt trong toàn quốc, nhân dân đều có công việc làm ăn, khỏi phải cảnh đi xin việc lang thang làm hạ phẩm giá nhân vị con người.

B . CẢI TỔ CHẾ ĐỘ.
Một chế độ Đại nghị Tổng Thống rộng quyền thay thế cho Tổng Thống hiện hữu (Cải tổ chương trình hành chánh hiện tại).

Viên bí thơ Sứ quán Anh rất bằng lòng chương trình cải tổ trên đây, và hứa sẽ đến thảo luận với người, để có cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Sĩ Tải Phạm Duy Nhung trước sự hiện diện của các Đại Sứ Anh, Mỹ, Pháp.

   Năm 1963.

Thơ số 84 đề ngày 4 tháng 8 năm 1963 gởi cho Tổng Thống Mỹ Quốc ở Hoa Thịnh Đốn, Tổng Thống Pháp Quốc ở Ba Lê và Thủ Tướng Anh Quốc ở Luân Đôn.

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Tam thập bát niên)
Toà Thánh Tây Ninh
Số :084/ĐDHP-QN                 

Kính gởi Quý vị :
- Tổng Thống Mỹ Quốc ở Hoa Thịnh Đốn
- Tổng Thống Pháp Quốc ở Ba Lê
- Tổng Thống Anh Quốc ở Luân Đôn

(Do sự chuyển đạt của Quý vị Đại Sứ Mỹ Anh Pháp ở Sài Gòn)

Kính Tổng Thống,
Kính Thủ Tướng,
Thừa Uỷ nhiệm Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, cố Giáo Chủ Cao Đài Giáo Toà Thánh Tây Ninh, chúng tôi đã được uỷ thác nhiệm vụ kiến tạo Hoà Bình và Thống nhứt cho Việt Nam nói riêng và làm môi giới để lần tiến đến Hoà Bình thế giới nói chung.

Chúng tôi nhận thấy tình hình Việt Nam chuyển sang giai đoạn nguy ngập, theo đó thể diện và uy tín của khối Tây Phương sẽ mất nếu tình trạng không được giải quyết.
Với các thơ (không số) đề ngày 23-10-1961
Số :1-62/ĐDHP-QN/TN đề ngày 8-3-1962
Số :030/ĐDHP-QN/TN đề ngày 18-8-1962
Số :036/ĐDHP-QN/TN đề ngày 24-9-1962

Và đề nghị mà chúng tôi đã gởi đến Quý Đại Sứ Mỹ, Pháp, Anh ở Sài Gòn, chúng tôi không ngờ mãi đến nay vẫn chưa được thấy sự quyết định của Quý Chánh phủ hầu cứu vãn tình thế. Trái lại, quý chánh phủ vẫn để cho sự nguy hiểm càng ngày càng tiến mạnh ở Việt Nam và đang làm cho Lào Quốc lâm nguy.Với thiện chí xây dựng và phục hồi Quốc gia dân tộc chúng tôi trong tình huynh đệ với các nước tự do dân chủ, chúng tôi không thể không gởi đến quý Tổng Thống và Thủ Tướng lời bình luận sau đây với đề tài “Tính lầm nước cờ ” mong quý Ngài thấu triệt để trước là cứu nước cứu dân chúng tôi, sau là cứu thế giới.Sự cứu vãn này rất trọng yếu.

Vậy một Hội nghị cấp tốc giữa quý ngài phải được thực hiện để quyết định và chẳng thể bỏ qua, và sự thi hành biện pháp của mỗi nước tuỳ phương tiện là bổn phận của mỗi một trong quý Ngài.

Chúng tôi xin nói rõ rằng : Mất miền Nam Việt Nam là mất hẳn Việt Nam, mất Việt Nam là mất Đông Nam Á, mất Đông Nam Á là hy vọng Hoà Bình thế giới tan tành hoặc cả thế giới phải bị xích hoá. Vì sao ?

Vì Việt Nam là then chốt của chiến tranh nóng giữa Nga - Mỹ.

Chúng tôi cũng đã nói chuyện nhiều với Sứ Quán Anh ở Sài Gòn về việc này và chính nơi đây đã hiểu rõ lập trường chúng tôi cũng như nhị vị Đại Sứ Anh Mỹ ở Sài Gòn vừa mãn nhiệm kỳ.
Dưới đây các sự việc xảy ra khi người ta tính lầm nước cờ.

TÍNH LẦM NƯỚC CỜ.

Trên bàn cờ, hai địch thủ đang dằn co đặng tranh từ nước đi, giữ từ thế đứng, suy tính kỹ lưỡng hiện tại và hậu lai, ai cao cờ vững nước sẽ thắng.

Nói đến cao cờ, kẻ điều động các con cờ phải biết tấn thối tuỳ thời. Nước cờ nào đáng hy sinh để gài thế chết cho đối phương, nước nào phải hy sinh để gỡ thế bí, nước nào thủ và nước nào công, mỗi mỗi có qui tắc vững vàng. Một nước đi là một thế cờ có ảnh hưởng đến năm bảy nước hậu, ai hiểu được, ai nắm vững, tất nhiên người ấy là kẻ chiến thắng. Nếu vụng tính nghĩ lầm, hoặc vì tự cao tự đại mà khinh địch thì sự thất bại dĩ nhiên phải đến.

Trên bàn cờ Quốc tế, Tổng Thống Mỹ Quốc Kenedy và ông Kroutchev, Thủ Tướng Nga Xô, đang đánh ván cờ định mạng thế giới, nếu mỗi người tính một thế đi. Việc thắng bại của hai phe không phải là việc đương đầu trực tiếp giữa hai nước hiện có lực lượng mạnh nhứt thế giới, vì làm như thế là tự tiêu diệt.

Nếu là người chính đáng cầm vận mạng Quốc gia dân tộc, nếu là người thức thời tri vận, chẳng ai dại gì mà chỉ trông ngóng vào sự giải quyết hoặc bằng chánh trị hoặc bằng võ lực của hai vị Thủ Lãnh của hai lực lượng Đông Tây, để mặc nhiên cho đó là sự giải quyết cho Quốc gia Dân tộc mình.

Các nước đi của ván cờ Quốc tế là các biến động ở các nước tuỳ thuộc nhứt là các nước nhược tiểu.

Trong khi hai người đánh cờ ung dung cùng nhau uống rượu để có khi cùng nhau thách đố, lại cũng có lúc mơn trớn vuốt ve, tuỳ say tuỳ tỉnh, thì những kẻ thế tuỷ não cũng đang được họ âm thầm thực hiện: Ấy là những xáo trộn ở các Quốc gia tuỳ thuộc.Sự thắng bại ở những Quốc gia đó mới chính là sự thắng bại của hai người đánh cờ. Nói cách khác, sự thắng bại của Mỹ và của Nga là do sự thắng lợi ở các Quốc gia bị động.

Về chiến lược, đã đành mỗi phe phải có một thế giàn lực lượng để nắm giữ các trục tấn thối, như ở Âu Châu phía Mỹ có khối Bắc Đại Tây Dương và phía Nga có Varsovie, cả hai khối đều nắm giữ Bá Linh và Đức Quốc làm then chốt. Mỹ đặt điểm tựa  là Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Đông thì Nga đặt thế trận Cuba ở Mỹ Châu và khi Mỹ có khối Liên Phòng Đông Nam Á lấy Thái Lan làm vị trí trung ương, thì Nga lại có khối giải phóng Đông Á, mà Trung Hoa Cộng Sản là Trung ương chỉ huy.

Nhìn về chiến lược ở thế thủ, Mỹ đã bị rời rạc hơn trong khi Nga được kết thành bức tường liên tục từ Âu qua Á và Cuba trở thành một địa điểm bất khả xâm phạm của Nga đặt sát nách Mỹ mà lỗi chỉ tại Mỹ đã làm mích lòng Fidel Castro, vị anh hùng của dân tộc.

Về chiến thuật thì Mỹ đã có một sự chỉ huy phiêu lưu, phung phí trong khi Nga có một khối chỉ huy lì lợm và biết sử dụng thuật tâm lý chiến tranh. Đã vậy, Mỹ còn làm mích lòng thêm một bạn Đồng Minh trọng yếu là Pháp để rồi phải lục đục trong khối Bắc Đại Tây Dương.

Vẫn biết Mỹ Quốc lãnh đạo khối Tây Phương về nguyên tử và phải có một nước đứng ra lãnh đạo như vậy mới đúng nguyên tắc và giữ được trật tự, song Mỹ đã phạm lỗi lớn là đã tự phụ mà gạt Pháp ra ngoài Hội Nghị tài binh. Vì Quốc thể, vì uy tín Cường quốc Tây phương mà Pháp trở thành ương ngạnh với Mỹ và Anh, làm hàng ngũ đồng minh Mỹ Anh Pháp rạn nứt lần.

Về chiến thuật chiến tranh lạnh, Nga vẫn thản nhiên, không chen vào nội bộ Tây Phương và đã tỏ ra rất ôn hoà trong thuật lấy mềm dẻo thắng mạnh cứng, đặng Pháp đầy đủ tự tin trên lập trường tự lực chống Cộng mà xa lánh lần hàng ngũ Đồng minh Tây phương. Và như vậy, Mỹ sẽ không còn đủ thế cờ tấn công Nga trên mọi địa hạt trong khi lực lượng khoa học Mỹ đã chưa thể thắng Nga mà còn thua Nga về khoa học không gian một cách rõ rệt. Thoả ước đình chỉ thí nghiệm nguyên tử do tay ba Mỹ Anh Nga thực hiện ở Mạc Tư Khoa tạo ưu thế cho Nga hơn vì trong thời gian đã thí nghiệm trước Nga đã thâu thập kế quả khả quan hơn Mỹ : Nga chỉ thủ lối 150 trái mà sức mạnh tới 400 Megatonnes trong khi Mỹ đã phải thử lối 250 trái mà sức mạnh chỉ tới 200 Megatonnes.

Về Phi Châu, vì sợ mích lòng các bạn trong khối Tự do, Mỹ đã dung dưỡng các chế độ thực dân, gây bất bình trong khối Phi, một khối Trung Lập đáng được nâng đỡ. Như vậy Mỹ đã phung phí biết bao nhiêu tài vật của dân chúng Mỹ, trong khi thuế khoá Mỹ được tăng gia phục vụ các việc làm thất nhơn tâm.

Ở Trung Đông thì Mỹ cũng như Anh đã sa lầy trong vòng tơ rối của khối Á rập, khi ủng hộ, lúc chống đối, làm cho cảm tình và tín nhiệm của hai nước phải mất lần trong khối Trung Lập ấy nữa. Thêm vào đó, nạn kỳ thị chủng tộc ở Mỹ Quốc và Nam Phi tạo mối bất mãn lớn lao làm suy yếu hàng ngũ Tây Phương.

Về chiến thuật chiến tranh lạnh, Nga đã thắng Mỹ quá nhiều mà không chút tốn hao.Còn lại vấn đề Đông Á, phe Nga đã có thuật chiến tranh nóng mà chế độ Bắc Kinh là ngọn lửa châm ngòi.

Nước Cambodge là nước Trung Lập thân Tây phương, vậy mà sự phá rối của hai nước láng giềng thân Mỹ đã khiến nước đó phải dựa vào phe Nga đặng bảo toàn lãnh thổ và chiến cuộc Lào Quốc diễn mãi thêm trầm trọng trong khi việc đánh chiếm Lào Quốc chưa phải là điểm chiến lược của Cộng Sản. Lỗi đó do đâu ? Nếu nhận định phiến diện, ai cũng cho là Cộng Sản gây hấn. Nhưng xét cho kỹ, nhận định chính xác thì sự việc đã trái hẳn, phe nào đã gây hấn trước ở Lào ? Ai đã bắt giam Hoàng Thân Souphanouvong khi Ông này đã là một người cầm đầu cuộc giải phóng Lào Quốc ra khỏi ách đô hộ của Thực dân Pháp và khi ông là một Nghị Sĩ trong một Chánh Phủ hoàn toàn thiên hữu ? Sau đó, vì không chịu nổi chế độ độc tài của Chánh phủ thiên hữu ấy, một Chánh phủ Trung Lập ra đời để dung hoà nội bộ và chặn đứng tai hoạ bành trướng của Cộng sản. Ai đã xúi giục phe thiên hữu đứng lên đánh đuổi phe Trung lập trong khi phe Trung lập chỉ có võ khí thô sơ, còn phe thiên hữu có các võ khí tối tân của Mỹ Quốc viện trợ. Do đó, buộc lòng phe Trung lập phải liên kết với phe thiên Cộng và làm cho phe thiên Cộng trở nên mạnh mẽ và chiến tranh lan rộng ở đất nước Lào. Như vậy đâu phải Cộng sản gây hấn chiến tranh Lào Quốc và đứng trên công lý thì Mỹ Quốc hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thử hỏi dân chúng Mỹ có muốn như vậy không ? Đúng hẳn là không. Đó là lỗi của những vị lãnh đạo của Chánh phủ Mỹ.

Phe Nga lại thắng thế ở Đông Nam Á.
Lợi dụng tình thế Lào Quốc, phe Nga liền áp dụng chiến lược xích hoá Đông Nam Á bằng điểm tựa là Việt Nam, nên việc Lào Quốc vốn dĩ là bối cảnh của chiến lược.

Mỹ lại lúng túng giải quyết vô trách nhiệm bằng cách nhìn nhận Lào Quốc trung lập với quyền hành của ba phe riêng biệt. Hội nghị 14 nước ở Genève năm 1962 đã lầm lẫn trong quyết định. Phe thiên hữu có các nước láng giềng trợ lực hoặc bằng tinh thần hoặc bằng võ khí và Mỹ trực tiếp viện trợ không qua tay chánh phủ Liên Hiệp. Phe thân Cộng cũng được các nước bạn trợ lực mạnh mẽ. Nga lại viện trợ thẳng cho Chánh phủ Liên Hiệp chớ không đến Pathet Lào. Trung Hoa Cộng Sản và Bắc Việt cũng viện trợ cho Chánh Phủ Liên Hiệp những xa lộ ở miền Bắc Lào.

Trên pháp lý, Nga lại thắng Mỹ
Sự viện trợ của Mỹ đã  trở thành mối gây hấn cho chiến cuộc Lào tái phát. Vì muốn giữ hoà khí, phe Trung lập đã phải thanh trừng nội bộ gây thành mối chia rẽ có lợi cho phe thân Cộng để rồi vai trò phe Trung Lập mất lần và trở thành cuộc tả hữu chiến tranh ngày nay và Mỹ hiện không dám trực tiếp can thiệp.

Chiến tranh Lào Quốc khả dĩ mạnh mẽ là do chiến thuật liên huờn của phe Nga thành hình đặng nắm vững điểm tựa Việt Nam trong thế cờ Đông Nam Á.

Vậy cho nên, việc Mỹ đứng sau lưng ông Ngô Đình Diệm kể từ ngày ông này về nước chỉ có một cái lợi là Tổng Thống Ngô Đình Diệm gạt hẳn các ảnh hưởng cuối cùng của Pháp ở miền Nam Việt Nam sau Hiệp Định Geneve 1954, và cũng đã làm cho ảnh hưởng cùng lực lượng của phe Nga càng ngày càng bành trướng mạnh hơn.

Do sự tranh đấu chống Cộng của các Đảng phái Quốc gia chân chính trước kia, mà mạnh mẽ nhất là khối Cao Đài. Pháp phải nhượng quyền cho chánh phủ quốc gia Việt Nam buổi nọ trong đó Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được thừa hưởng di sản bởi đề nghị của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo Chủ Cao Đài Giáo được Quốc Trưởng Bảo Đại chấp thuận, để rồi trở thành vị Tổng Thống Cộng Hoà theo chính sách Mỹ.

Một chế độ độc tài thứ hai đi đôi với chế độ độc tài Cộng sản được thực hiện cùng một lúc với các mưu mô xảo quyệt và các hành động tàn bạo.

Nhờ sự viện trợ của Mỹ trên mọi phương diện : Tài chánh, Hành chánh, Quân sự, mà chế độ độc tài Đảng trị này được lớn mạnh mau chóng và các Đảng phái Quốc gia chân chính bị lấn ép và phải lui dần vào bóng tối. Do đó, những thành phần quân sự bất mãn đã tự ý rút vào chiến khu để chống đối, tạo thành mối lợi cho phe thiên Cộng có cơ hội và phương tiện để bành trướng thành Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Bên ngoài chánh phủ thì các công chức, quân nhân liên tiếp bất mãn, dân chúng hoài nghi và bất phục.

Các sự viện trợ mạnh mẽ cùng sự có mặt của các quân nhân Mỹ vào cuối năm 1960 đến nay trở thành mối nghi ngờ, hay nói đúng hơn là thành niềm oán hận của dân tộc Việt Nam trong khi toàn dân Việt đang oán hận Cộng sản.

Rồi liên tiếp, với sự giúp đỡ trực tiếp của Mỹ và vài nước khác, nông nghiệp Việt Nam bị tàn phá, thương nghiệp bị cầm chân và phá sản, các xí nghiệp công quản làm lợi cho một nhóm, đã giết chết các tiểu công nghệ, tạo thành cảnh thất nghiệp lan tràn, một cơ hội rất tốt cho sự bành trướng của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam.

Với tiền viện trợ của Mỹ, các nhà tù được xây gấp ba hay bốn lần nhiều hơn thời Bảo Đại. Các nhân viên Mật vụ dùng để khủng bố bắt cóc và ám sát dân chúng được kết nạp nhiều hơn nhân viên công lực, đã tạo thành một ngân sách chi phí quá sức tưởng tượng, đồng thời các vụ tống tiền, chợ đen công khai được dung túng và vụ bán gạo cho Bắc vĩ tuyến 17 để đổi lấy thuốc phiện lậu mang từ Lào về để làm kinh tế cho Đảng Cần Lao Nhân Vị, một đảng hoạt động bí mật và nguy hiểm của gia đình họ Ngô. Đó là chưa nói đến các tổ chức phá rối Thái Tử Sihanouk, Quốc Trưởng Cam Bốt, với một chi phí khổng lồ và việc đem quân qua Lào giúp Phoumi Nosavan gây nên chiến tranh Lào Quốc và tổn phí tài chánh và quân số cho Việt Nam với các viện trợ Mỹ.

Với kế hoạch ngoại thương trong chương trình viện trợ của Mỹ, nền kinh tế Việt Nam càng  ngày càng lủng đoạn vì dân chúng đã phải gặp mức chi tiêu quá cao bởi hàng nhập nội vừa không đáp ứng nhu cầu, vừa tăng giá từ vật hạng đến chuyên chở, trong khi dân chúng mất lần việc làm ăn mà phải kiệt quệ.

Với sự viện trợ quân sự về cố vấn cũng như vũ khí của Mỹ, các cuộc hành quân càn quét được thực hiện liên hồi để rồi chính các quân nhân Giải Phóng Miền Nam chết chỉ một phần trong khi dân chúng vô tội chết một trăm lần nhiều hơn và tài sản của dân chúng bị đốt phá vô nhân đạo.

Rồi cùng với vũ khí đó, các Tôn giáo cũng bị đàn áp mà trường hợp rõ rệt là vụ Phật giáo đã và đang xảy ra. Cao Đài Giáo thì luôn luôn có một Thiếu Tướng với một Trung Uý Quận Trưởng cùng các binh lực cận kề áp bức, xâm chiếm các cơ sở của Tôn Giáo để làm văn phòng hành chánh và cưỡng đoạt các cơ sở xã hội, làm cho các vị cầm đầu Hội Thánh  tạm thời hiện nay phải sợ sệt mà chiều theo ý họ (các vị ấy là những người do chánh phủ đã mua chuộc).

 Vùng Thánh Địa Toà Thánh Tây Ninh với châu vi 160 cây số, trước là một vùng tự do hoàn toàn và không một hình bóng hay tiếng nói của Cộng sản xâm nhập được kể từ 1947 đến năm 1956. Thế mà sau khi bị chánh phủ chiếm đóng, vùng này đã trở thành một ngục tối.Dân chúng không việc làm, kinh tế bế tắc, các khu xóm bị rào chặn khắp bề, sự giao thông bị gián đoạn, lại thêm khủng bố liên tiếp trong khi các hoạt động của Cộng sản càng ngày càng gia tăng, khiến cho một số thanh niên khá đông mà trước năm 1956 là người chống Cộng hiện trở thành kẻ cầm súng đứng chung hàng của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Năm 1956,  Tổng Thống Ngô Đình Diệm đích thân lên Toà Thánh Tây Ninh cùng ông Nguyễn Ngọc Thơ hiện là Phó Tổng Thống, để hăm doạ các vị Chức sắc có mặt lúc bấy giờ buộc ký một Thoả ước, trước hết là để xâm chiếm vùng Thánh Địa. Còn về quyền tự do của vùng nội ô Toà Thánh cùng các quyền tự do Tôn giáo mà họ đã hài ra trong Thoả ước 1956 ấy,Chánh phủ cũng đã nuốt trôi luôn .

Vào năm 1957, 58,59 ngoài một số trên 400 vừa Chức sắc và tín đồ đã bị bắt đánh đập tàn nhẫn, giam cầm tù tội rồi trả tự do, hiện còn một số Chức sắc và tín đồ bị giam giữ là Giáo Hữu Ngọc Thiệp Thanh (Nguyễn Văn Thiệp 70 tuổi), Sĩ Tải Nguyễn Văn Nguyên, Lễ Sanh Ngọc Hẳng Thanh (Đỗ Văn Hẳng). Lễ sanh Trọng, Cô Nhung, Văn Hoà Vui v.v … Người ta phải liên đới nghĩ đến hiện nay chánh quyền miền Nam đang nuốt trôi lời ký kết với Phật Giáo trong Bản Thông cáo chung ngày 16 tháng 6 năm 1963 vừa qua.

Nói về ấp chiến lược mà chánh phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm gọi là Quốc sách để hoàn thành cuộc cách mạng thì trái hẳn lại, dân chúng đã phải bỏ sản nghiệp gom về một chỗ không phương tiện làm ăn tức là bị phá sản mà phải thất nghiệp.Người dân bị đi dân công liên tiếp gọi là phát triển cộng đồng, phải canh gác không thì giờ nghỉ ngơi lại còn phải đóng góp đủ mọi thứ tiền, bằng không, người đó sẽ bị ghi là có tư tưởng Việt Cộng hay là Việt Cộng nằm vùng. Đó là không nói đến những cuộc nhóm họp liên tiếp để nhồi sọ.

Về nông nghiệp, người nông dân phải đem bò trâu ra ruộng từ lúc 4 giờ sáng mới có thời giờ cày cấy, và 9 giờ tối mới về nhà đặng có thời giờ săn sóc mùa màng.Khi vào Ấp  chiến lược rồi thì đến 7 giờ sáng mới được bắt đầu ra ruộng, và 6 giờ chiều đã phải về thì thử hỏi họ còn làm ăn sao được ? ....

Như vậy mà sự thành lập Ấp chiến lược ấy vẫn được các Chánh phủ Anh và các nước khác như Úc, Phi Luật Tân cổ võ theo với Chánh phủ Mỹ. Các nhà ngoại giao các nước ấy có biết đâu rằng mỗi khi khánh thành một ấp chiến lựơc nào, hay mỗi khi có cuộc kinh lý là dân chúng các nơi bị bắt buộc bỏ việc làm để các xe nhà binh viện trợ Mỹ chở đến nơi tập họp để nói những lời đã sắp đặt và cầm những biểu ngữ của Chánh quyền làm sẳn. Họ cho rằng những trạm y tế cỏn con, những trường học cộng đồng đủ để xoa dịu lòng công phẫn của dân chúng hay chăng ? Những vụ phát tặng phẩm, những cuộc cho vay tiền đâu đủ bồi đắp vào những mất mát của người dân.

Những sự việc nói trên, hiệp với các luật lệ, thuế vụ quá nặng và vô lý, những cuộc bầu cử dân chủ bề ngoài mà ép buộc và hăm doạ bên trong, tạo ra một tổ chức dân chủ giả tạo, cấu kết thành một uất hận quần chúng làm một lợi khí lớn lao cho phe Nga còn chính Mỹ đã xua đẩy dân chúng Việt Nam chạy về với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mặc dầu toàn thể dân Việt Nam đang ghê sợ các hành động tàn ác, dã man của phe Cộng sản tại Việt Nam từ năm 1946 đến năm 1954.

Sự chiêu hồi hiện nay của Chánh phủ cũng chỉ thâu thập đựơc những phần tử thiếu ý thức mà đã chạy càn bậy, chớ chưa hề tiếp nhận đựơc người đầy đủ lý trí, và cũng trong lúc thi hành kế hoạch chiêu hồi chánh phủ vẫn tiếp tục khủng bố dân chúng thì chánh sách ấy chỉ là một trò ảo thuật, khiến dân chúng thêm chán nản.

Như vậy, thuật chiến tranh nóng của Nga cũng thắng Mỹ trong khi dân chúng Mỹ đã phải đóng góp từ tài vật đến quân nhân một cách vô ích tại Miền Nam Việt Nam vì lỗi ở Chánh phủ Mỹ đã trợ giúp cho chế độ thất nhân tâm và mù quáng, trái ý nguyện với toàn dân Mỹ.

Mỹ đã tính lầm nước cờ trên bàn cờ Quốc tế, và hiện nước cờ sanh tử giữa Mỹ và Cộng sản Việt Nam, Mỹ cũng đang lầm lộn lớn. Mỹ đang ở thế bị động và không biết khai thác lợi điểm trong việc bất hoà của khối Cộng sản hiện nay, nhứt là ở Việt Nam.

Nga vẫn là chủ động khắp bàn cờ mặc dầu phe Cộng sản đang có Trung Hoa Cộng sản đã vì quá khích mà lầm lẫn xua mạnh chiến tranh nóng như vụ xâm chiếm lãnh thổ Ấn Độ, song sự quá khích ấy lại càng làm cho Mỹ thêm lúng túng mà có lợi cho Nga nhiều hơn.

Như vậy, nếu mất thế ở Việt Nam là Mỹ mất tất cả, Mỹ cần định lại thế cờ. Cả ba Cường Quốc Tây Phương cần định lại thế cờ.

Sau khi đọc xong lời bình luận trên đây, chúng tôi xin chắn rằng quý Tổng Thống và Thủ Tướng đã hiểu rõ lập trường của chúng tôi.
Chúng tôi rất mong Thế giới tự do không mất người bạn Việt Nam cũng như chúng tôi không mất các người bạn Mỹ Pháp Anh ở phương trời Tây vì nền luân lý và văn hoá của Pháp Quốc rất phù hạp với phong hoá cổ truyền của Việt Nam.Sự tiến bộ khoa học của Mỹ đáng cho Việt Nam tin tưởng và sự trầm lặng dịu hoà đức tính tự trọng của Anh Quốc đáng để Việt Nam mến yêu.

Chúng tôi xin gởi nơi đây lời chào thân ái của toàn thể trên hai triệu Tín đồ Cao Đài Giáo của chúng tôi cùng các ban bộ đang hoạt động trong toàn quốc đền quý Dân tộc và quý Chánh phủ.

Chúng tôi xin đệ đạt lời chào mừng lên Nữ Hoàng Anh Quốc.
Sau hết, cả thế giới sẽ biết ơn quý Ngài nếu quý Ngài cấp thời giải quyết sự việc và toàn thể dân tộc Việt Nam chúng tôi đặt toàn hy vọng ở quý Ngài
Chúng tôi rất mong tin lành và trân trọng kính chào quý Ngài.
Toà Thánh Tây Ninh, ngày 4 tháng 8 năm 1963
( 15 tháng 6 năm Quý Mão)
Sĩ Tải  Phạm Duy Nhung

   Gởi đi                                           Đính kèm
Tổng Thống  Mỹ Quốc Thơ                    Thơ (không số) ngày 23-10-61
Tổng Thống Pháp Quốc             Thơ số :1-62/ĐDHP-QN/TN
Thủ Tướng Anh Quốc                Thơ số :030/ĐDHP-QN/TN
                                                  Và đề nghị 036/ ĐDHP-QN/TN

Đồng kính tường
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà
Quý Đại Sứ, Tổng Lãnh Sự và Lãnh Sự ở Sài Gòn
Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc
Ông Chủ Tịch Uỷ Hội Q.T.K.S.Đ.C
Các cơ quan ngôn luận.

Đức Thầy gọi bức thơ số 84 này là bức thơ quyết tử, định vận mạng chế độ Ngô Đình Diệm.
Chánh quyền Ngô Đình Diệm bố trí một mạng lưới chặt chẽ nhứt là nơi các Toà Đại Sứ và Lãnh Sự. Anh em thay nhau đi gởi các thơ cũng rất gian nan nguy hiểm, nếu bị bắt có thể bị thủ tiêu, nhưng nhờ Ơn Trên các Đấng Thiêng liêng hộ trì cũng qua khỏi.

Vụ đàn áp Phật Giáo một cách thô bạo từ Huế vào Sài Gòn đến các tỉnh, cho đến khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu làm chấn động thế giới, uy tín ông Diệm xuống thấp. Người Mỹ cũng nhận thấy ông Ngô Đình Diệm không còn hữu dụng được nữa, chỉ làm hao tổn cho chương trình viện trợ của Mỹ ở Việt Nam. Tổng Thống Mỹ Kennedy tuyên bố bổ nhiệm ông Cabot Lodge làm Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam thay thế cho Noting. Ông Cabot Lodge là người Đảng Cộng Hoà chuyên môn đảo chánh, cho nên gia đình họ Ngô cực lực phản đối..

CHÁNH PHỦ NGÔ ĐÌNH DIỆM BỊ ĐẢO CHÁNH

Ngày 1-11-1963 lúc 13 giờ, bắt đầu đảo chánh Ngô Đình Diệm chấm dứt một chế độ độc tài gia đình trị. Ông Ngô Đình Diệm là người phản bội hại ân nhân của mình, một là Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, hai là Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Giáo chủ Đạo Cao Đài.

Hồi năm 1954 khi Chánh phủ Bửu Lộc ở Sài Gòn từ chức, Đức Quốc Trưởng Bảo Đại đánh điện từ Pháp qua Mỹ gọi ông Ngô Đình Diệm qua Pháp và đề cử ông Diệm làm Thủ Tướng về nước lập Chánh phủ thay thế cho Chánh phủ Bửu Lộc. Đức Quốc Trưởng Bảo Đại có dẫn ông Diệm đến Paris để gặp Đức Hộ Pháp và nhờ Đức Hộ Pháp ủng hộ ông Diệm về nước lập tân chánh phủ.

Trong buổi tiếp xúc tại Paris có ba người, Đức Hộ Pháp ngồi giữa, Đức Quốc Trưởng Bảo Đại một bên và ông Ngô Đình Diệm một bên, Đức Hộ Pháp hứa với hai người là tận tình ủng hộ Ngô Đình Diệm.

Khi ông Diệm về Sài gòn làm phận sự Thủ Tướng gặp nhiều khó khăn trắc trở, thấy không xong chỉ trong vòng 1 tháng ông Diệm đánh điện qua Pháp cho Đức Quốc Trưởng Bảo Đại để xin từ chức, Đức Quốc Trưởng Bảo Đại đến nhờ ý kiến giúp đỡ của Đức Hộ Pháp. Đức Hộ Pháp có nói với Đức Quốc Trưởng Bảo Đại đánh điện về Sài Gòn cho ông Ngô Đình Diệm cứ giữ chức Thủ Tướng, có Đức Hộ Pháp ủng hộ.

Đức Hộ Pháp nhờ Thiếu Tướng Lê Văn Tất về nước cậy Thiếu Tướng Trình Minh Thế tổ chức cho bổn Đạo Cao Đài vùng Toà Thánh Tây Ninh xuống Sài Gòn biểu tình ủng hộ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ông Thế vận động xe đò, xe chở hàng, mấy chục chiếc chở người xuống Sài Gòn, trong khi đó dân chúng Sài Gòn kể cả người Công Giáo cũng chưa có ai tỏ thái độ ủng hộ ông Diệm. Nhờ có cuộc biểu tình ủng hộ này, ông Diệm được đứng vững.

Hồi gặp gở tay ba ở Paris, ông Diệm có thề với Đức Hộ Pháp và Đức Quốc Trưởng Bảo Đại nếu ông có phản bội thề có trước ngọn súng thần của Tổ quốc. Nhưng mới có một năm, vào năm 1955 chánh quyền Ngô Đình Diệm xâm chiếm vùng Thánh Địa, thâu đoạt chợ Long Hoa và các chợ của Đạo, mua chuộc ông Phương đem quân về bao vây Hộ Pháp Đường và ông Diệm lật đổ luôn Quốc Trưởng Bảo Đại rồi lên làm Tổng Thống cho đến ngày đền tội...
Ngày 1 tháng 11 năm 1963 chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ.

*  *  *

Ông Nhung đánh điện cho Trung Tướng Dương Văn Minh chào mừng cách mạng thành công của Hội đồng các Tướng lãnh sớm hơn các đoàn thể trong nước.

Nguyên văn bức điện tín :
Kính gởi Trung Tướng,
Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.

Sài gòn

Thừa mạng lịnh Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc từ lúc Đức Ngài còn sanh tiền với nhiệm vụ Hoà Bình bảo vệ Quốc gia dân tộc,xuất phát từ Miền Nam tiến tới Thống Nhất toàn lãnh thổ và dân tộc STOP- thay mặt trên hai triệu tín đồ Cao Đài Giáo thuộc Toà Thánh Tây Ninh và toàn các Ban vận động Hoà Bình kính gởi lời chào mừng Cách mạng thành công do Hội đồng Quân Nhân Cách Mạng của Trung tướng lãnh đạo dẹp bỏ chế độ độc tài tàn bạo STOP.  Trong lúc chờ đợi thành lập chánh phủ thiệt thọ mong Hội đồng cứu xét gấp các hồ sơ Chánh trị phạm trả tự do cho những người oan ức và thành phần quốc gia, tu sĩ các Tôn giáo STOP – đồng thời cố gắng tránh gây tổn thất cho đồng bào trong các cuộc hành binh STOP- Cầu chúc Hội Đồng Quân nhân Cách mạng sớm hoàn thành cách mạng tự do dân chủ nhân đạo cứu quốc và kiến.
10 giờ 30 ngày 2 tháng 11 năm 1963     (AL. 17-9-Quí Mão)
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung

Sau bức điện văn, ông Nhung gởi một bức thơ chúc mừng cách mạng thành công cho Trung Tướng Dương Văn Minh Chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng, để bày tỏ lập trường của Đạo Cao Đài trong hiện tình đất nước, theo chương trình hoà giải dân tộc của Đức Hộ Pháp Giáo Chủ Đạo Cao Đài.

Trong giai đoạn giao thời giữa hai chế độ cũ và mới, chánh phủ cách mạng chưa có đường lối.Các giới trí thức, nhân sĩ trong nước còn dè dặt chưa dám bày tỏ ý kiến.Đúng lúc ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung thừa Uỷ nhiệm thơ Đức Hộ Pháp lãnh đạo Chánh sách Hoà Bình Chung Sống tại Quốc nội, cùng một số đồng chí tổ chức buổi họp báo.

*  *  *

HỌP BÁO HOÀ BÌNH TẠI SOÁI KÌNH LÂM CHỢ LỚN

Ngày 15 tháng 11 năm 1963, Sĩ Tải Phạm Duy Nhung mở cuộc họp báo tại nhà hàng Soái Kình Lâm giữa Chợ Lớn, trình bày giải pháp cứu quốc theo đường lối Hoà Bình của Đức Hộ Pháp.

Cuộc  họp báo rất hấp dẫn, món ăn tinh thần thật thích hợp, đáp ứng đúng lúc sự khao khát của báo chí. Từ lâu muốn biết qua đường lối Chánh sách Hoà Bình Chung Sống, nhưng chưa gặp dịp phỏng vấn. Hôm nay số ký giả trong nứơc và ngoại quốc đến tham dự gấp hai lần thiệp mời, họ tranh nhau chất vấn vị Chủ toạ, làm cho cuộc họp báo rất hứng khởi và cởi mở. Sĩ Tải Phạm Duy Nhung với nét mặt vui vẻ hồn nhiên trả lời từng câu một rất mạch lạc làm cho mọi người có cảm tưởng thích thú.

Sau hai tiếng đồng hồ họ kiếu từ thì có một ký giả hỏi vói : Sao quý ông không họp báo ở Sài gòn cho tiện, vô Chợ Lớn xa quá; ông Nhung trả lời : Chúng tôi họp báo không có giấy phép, nên chọn một nhà hàng tại trung tâm điểm Chợ Lớn, bao quanh là người Hoa Kiều để tránh bớt sự theo dõi của Chánh quyền.
Home                                 1 ]  2 ]   4 ]  5 ]  6 ]  7 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét