Dưới Bóng Cờ Cứu Khổ - 3 / 7 (Hồi ký Qui Tâm)


Cái khổ tâm của Đức Hộ Pháp về những anh chị em bị bắt tù tội vì tham gia hoạt động Hoà Bình, số tiền của anh em gởi lên giúp Ngài, Ngài truất ra gởi lại để thăm nuôi anh chị em bị tù.Ngài tận tình dẫn dắt anh em từ bước nói rõ những việc cho anh em hiểu biết tỉ mỉ để vững đức tin, nhưng Ngài để cho anh em tự quyết định, nếu đồng ý với Đức Ngài thì tiếp tục còn không thì thôi.
Đức Hộ Pháp cũng thường có lời an ủi anh em trong lúc khổ nạn. Lúc mấy chục anh chị em bị giam ở Thủ Đức, Sĩ Tải Nguyên có tiếp được bức thơ của Đức Hộ Pháp từ Nam Vang gởi đến Thủ Đức như sau:

Em Sĩ Tải.
Qua đặng phúc sự của Hoà Bình Giáo Hội Trung ương tin cho Qua hay rằng mấy em vẫn còn bị giam cầm nơi Thủ Đức mà ước mong thấy đặng tin tức của Qua, nên Qua viết thư này do nơi tay của bạn em đem đến giao tận tay cho em đặng trao lại.Qua mong ước rằng bức thư sẽ thay mặt cho Qua đến viếng mấy em nơi ngục thất. Qua vẫn an ổn và mạnh khoẻ như thường. Già có hơi yếu một chút chớ không bệnh hoạn chi lắm, có thể còn sức lực chịu khổ hạnh cùng Đạo kỳ này cũng như kỳ trước đặng.Mấy em cứ an lòng.

  thế gian này không có chi tội hơn là làm cho trở ngại sự thương yêu, nhưng chỉ là hành vi vô ích và kết cuộc làm cho sự thương yêu của bất cứ là nạn nhân thêm nồng nàn và tình yêu thêm mạnh mẽ hơn nữa mà thôi.Ngày sum họp của ta ngày kia sẽ chỉ rõ điều ấy.Mấy em ráng chịu khổ hạnh ít lâu nữa rồi quyền Thiêng Liêng sẽ định đoạt.Ta thấy cả hành vi của ta là thuận nhân tâm thuận thiên ý là đủ.
Hộ Pháp
(ký tên đóng ấn)

Từ ngày ông Hồ Bảo Đạo ra lịnh cho Hoà Bình Giáo Hội chuẩn bị khăn gói lên đường ra vĩ tuyến 17 tụng kinh cầu nguyện Hoà Bình. Đức Thầy được tin liền ra Thánh Thơ 51 HP/HN, đề ngày 2-10 Đinh Dậu ngăn chặn không cho thi hành.

Và Đức Thầy dạy : Từ đây mấy em phải đợi mạng lịnh chính mình của Qua truyền dạy dầu chuyện lớn hay nhỏ.
*  *  *

LỜI PHÊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP VỀ
CẦU PHONG VÀ CẦU THĂNG
Ngày 1-11-Đinh Dậu (1957) con Mang (Mễn) đem tin tại Nội Chánh đã rõ rằng cơ khảo Đạo do căn nguyên nơi Nội Chánh. Nếu ta tin bởi quyền năng Thiêng Liêng thì ta có thể nói rằng: Nếu ta không có quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn thì Chức sắc Cửu Trùng Đài nơi Nội Chánh bị nạn tiêu diệt mà chớ chẳng phải như thế mà thôi.

Vậy Bần Đạo nói: Cơ khảo Đạo ngưng cả quyền tước Chức sắc Thiên Phong là cốt trừ cái nạn diệt vong của Nội Chánh, Bần Đạo khuyên họ ráng chịu cho đến ngày Bần Đạo trở về.

*  *  *
Năm 1958.
Nhơn dịp đầu xuân Mậu Tuất 1958
Có liên lạc lên Nam Vang trước chúc xuân Đức Hộ Pháp sau báo cáo anh em mới được trả tự do 96 vị.

Nhân tiện anh em Sĩ Tải thay mặt tất cả anh chị em mới được trả tự do kính dâng lên Đức Thầy lời chúc xuân vạn thọ và cầu xin Đức Thầy cho anh em tiếp tục nhiệm vụ nhờ anh em liên lạc chuyển đệ.

Một tuần lễ sau Đức Thầy từ Nam Vang gởi về Thánh Thơ số 10 HP/HN đề ngày 5 tháng Giêng năm Mậu Tuất, có đoạn Thầy dạy

 “Mấy em mới được trả tự do hỏi Qua đặng tái lãnh phận sự, thì theo Qua tưởng nên cho họ an nghỉ ít lâu đặng dưỡng sức. Khi gần trót năm bị tù tội ngục hình, thế nào cũng bị tiều tuỵ vì bị đánh đập trong lúc giam cầm. Nếu họ không bị bệnh hoạn thì họ cũng bị nhọc sức lao thân trong trường khổ hạnh, chính mình Qua đã trót bị đồ lưu nên đủ kinh nghiệm biết điều ấy, nếu chính quyền Ngô Đình Diệm bắt họ một phen nữa thì họ cũng bị nó hành hạ một cách tàn nhẫn và dã man mà họ chịu không nỗi nữa.

 Trường tranh đấu cách mạng dạy hay hơn hết là tù tội ngục hình. Kẻ nào đặng còn trui cứng ráng chịu nỗi gian lao thì họ thêm năng lực dạn dĩ tranh đấu. Không có một quyền lực cường bạo nào làm cho lay động tinh thần họ nỗi. Nên họ trở thành hoàn toàn cách mạng. Còn như kẻ thường tình khi bị tù tội ngục hình thì họ trở nên nhát nhúa hèn yếu  biến thành mềm như trái chuối. Mấy em để tâm quan sát coi ai còn can đảm ai yếu hèn, riêng cho Qua biết đặng Qua liệu phương sử dụng“.
*  *  *

XEM QUA THÁNH THƯ SỐ 6 HP/HN đề ngày 29-11 năm Đinh Dậu.
Đức Thầy nhận xét trong Ban vận động miền Nam bị người ngoài xen vào nội bộ, nên chấp thuận đề nghị của anh em Sĩ Tải đã xin phép tiếp tục phận sự đường lối Đức Thầy thành lập Ban cố vấn để giúp đỡ cho Ban vận động miền Nam Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình GH.

THÁNH THƯ  13 HP/HN đề ngày 1-4-Mậu Tuất, có đoạn :
Và các bạn của nó (Sĩ Tải) trước kia là người khai mở phong trào Hoà Bình Chung Sống mà hôm nay mấy em tiếp tục tranh đấu cho thành công, nếu chúng nó muốn trở về đảm đương phận sự cũ thì Qua tưởng không chi may mắn cho mấy em bằng, vì chúng nó là người khai đường mở lối. Mấy em nên học hỏi nơi chúng nó và mấy em nên cầu chúng nó dìu đường dẫn ngõ.Ttrước khi quyết định như thế, mấy em nên hỏi lại coi chánh quyền Ngô Đình Diệm còn theo dõi dòm ngó hành động chúng nó nữa không, đặng tránh mọi áp bức cho chúng nó chịu khổ hạnh như trước …

Từ Nam Vang Đức Hộ Pháp quyết định thành lập Ban Thống Nhất Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội để điều khiển hai cơ quan do Thánh thơ số 15 HB/DV đề ngày 9-5-Mậu Tuất (25-6-1958).

Thánh Thơ có đoạn như sau :
Đây Qua cho mấy em biết thành phần của Ban Thống Nhất do Qua lập thành đặng điều khiển cả hai cơ quan Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội như dưới đây :
- Cố vấn: các Sĩ Tải.
- Trưởng ban: Minh Hiền
- Phó Trưởng ban: Minh Tá (Minh Khải)
- Tổng Thư ký: Minh Trí
- Uỷ viên tuyên huấn: Thanh Mừng
- Uỷ viên tổ chức: Trực Thuỷ và Văn Hoà Vui
- Uỷ viên kiểm soát: Minh Liêm
- Uỷ viên liên lạc: Giáo Thiện Ân (sau đổi Lễ Sanh Minh).

Còn Uỷ viên tài chánh thì Qua để quyền cho mấy em lựa chọn miễn mấy em lựa người đủ năng lực và biết hoạt động cho có tài chánh.

Các tổ chức Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội từ trước đến giờ vẫn giữ y như cũ chỉ có các cơ quan cầm quyền của hai tổ chức phải tùng quyền của Ban Thống Nhứt mà hành sự cho đến ngày có lịnh mới.

Ban Thống Nhứt lãnh lịnh chưa đầy một tháng, Ban Cố Vấn giúp đỡ thảo luận chương trình hành sự và nhiệm vụ của các uỷ viên, chuyển đệ lên Đức Thầy được sự chấp thuận do Thánh Thơ số 16 HP/HN đề ngày 1-6- Mậu Tuất có đoạn như sau :

Em Minh Hiền, Thầy chấp thuận lời xin và từ đây nên giữ mình cho lắm tới ngày Thầy trở về, con dặn Son, Tá, Được, Mừng ráng làm phận sự đường lối tương lai mà Thầy trò ta đã vạch sẵn từ trước. Thầy chẳng buổi nào mà quên mấy em, Thầy biểu đánh máy trọn cả chương trình của Uỷ ban Thống Nhất và ký tên gởi về đây cho cả Hoà Bình Thống Nhất đủ uy tín làm việc, ráng thi hành y theo Bản chương trình ấy, đừng sửa cải bởi nó hay và Thầy rất hài lòng lắm.”

Vì hai cơ quan Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội rất lủng củng chia rẽ nội bộ và thắc mắc phận sự của Uỷ ban Thống Nhất.

Đức Thầy có dạy một đoạn : Sản xuất ra cơ quan Hoà Bình Giáo Hội là do Hồ Thái Bạch con ông Hồ Bảo Đại nghe Qua thuyết minh rằng thoảng như Nam Bắc một bên nào quá khích gây ra chiến tranh nội loạn tương tàn tương sát cùng nhau không phương hoà giải được thì Đạo phải làm thế nào.

Hồ Thái Bạch bởi nghe thuyết ấy mà muốn tạo hậu thuẫn mạnh mẽ cho Hoà Bình Chung Sống, mới trở về Toà Thánh hội hiệp mấy em trong cửa Đạo Cao Đài lập thành Hoà Bình Giáo Hội. Nói rõ Hoà Bình Giáo Hội tạo thành cốt làm hậu thuẫn cho Hoà Bình Chung Sống. Nó còn bày điều là những người Hoà Bình Giáo Hội phải gõ mõ tụng kinh cầu an cho toàn thiên hạ. Nó đã nhồi sọ thế nào mà cả thảy mấy em trong Hoà Bình Giáo Hội đều mong mỏi ra vĩ tuyến 17, khỗ nỗi ông Hồ Bảo Đạo là cha của cậu rất tán thành điều ấy.

Mấy em cứ nói thẳng lại với cơ quan Hoà Bình Giáo Hội rằng Qua rất nên bất mãn về tổ chức ấy, nhưng rủi đã lập thành Qua không nỡ giải tán nó, mà Qua nói thiệt rằng nó là cơ quan không hữu ích vào đâu tất cả lại còn gây nên tổn hại cho Đạo. Biểu mấy em hội hiệp lại với nhau rồi tự phê bình mình biết hay biết dở, rồi phúc sự cho Qua biết sự quyết định của mấy em coi cơ quan ấy còn tồn tại hay chăng.”

Thánh thơ trên đây Đức Thầy gởi về cho hai Ban Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội. Họ thấy mất quyền trực tiếp lên Đức Thầy rồi sinh ra ganh ghét, bàn tán xôn xao, nên công an theo dõi và bắt hết Ban Thống nhất.

Đồng thời trước tình thế xáo trộn Đạo Đời nơi tỉnh Tây Ninh, chính phủ Ngô Đình Diệm phái một vị sĩ quan liên lạc đến nhờ Ngài Hiến Pháp và Phối Sư Non, nhờ hai cụ giới thiệu những người có uy tín trong Đạo đến để bàn luận công việc cứu Đạo cứu Đời. Ngài Hiến Pháp liền giới thiệu các anh em Sĩ Tải vừa mới ra tù.

Do lịnh Tổng Thống phủ, vị sĩ quan liên lạc là Trung Uý Nhiều và vị Đầu tộc Chợ Lớn là Lễ Sanh Đà cầm thơ giới thiệu của Ngài Hiến Pháp lên Toà Thánh bí mật rước mấy vị Sĩ Tải Nguyên, Nhung, Hưởng. Thơ của Ngài Hiến Pháp dạy mấy em Sỉ Tải xuống Sài Gòn gấp để tìm phương cứu Đạo.

Mục đích các điểm đàm luận như sau :
Nhờ quí Sĩ Tải chỉnh đốn và trấn an nội tình của Đạo tại Toà Thánh.
Tổng Thống phủ nhờ quí vị Sĩ Tải cho biết rõ hành động phi pháp của chánh quyền địa phương tỉnh Tây Ninh đối với Đạo và dân chúng hầu chánh phủ sửa trị cho hợp lòng dân.
Sau khi giúp đỡ đầy đủ ý kiến để chánh phủ chỉnh đốn mọi việc, phiên họp kéo dài hai ngày, anh em Sĩ Tải được đưa ra xe đò trở về Toà Thánh. Mặc dù anh em Sĩ Tải đã từ chối nhiều lần một cách dứt khoát, nhưng thỉnh thoảng vị sĩ quan lên Toà Thánh thuyết phục mấy vị Sĩ Tải hợp tác với chánh phủ thì sẽ được trọng đãi nồng hậu về mặt vật chất lẫn tinh thần.

Sau rốt Tổng Thống phủ nhờ các vị Sĩ Tải trả lời bằng văn kiện :
- Tinh thần tín đồ Cao Đài đối với Đức Hộ Pháp.
- Tình hình Cộng sản vùng Toà Thánh Tây Ninh

Mấy vị Sĩ Tải trả lời :
1 . Tín đồ Đạo Cao Đài có 70 phần trăm đặt trọn đức tin nơi Đức Hộ Pháp và hưởng ứng mạnh mẽ Chính Sách Hoà Bình Chung Sống của Đức Ngài, 30 phần trăm còn lại không phản đối hoặc không tin tưởng Đức Hộ Pháp, nhưng họ cầu an để sinh sống.
2 . Vùng Toà Thánh Tây Ninh toàn là tín đồ Cao Đài thì không Cộng Sản. Điều cần yếu là chính quyền phải có nhân đạo, có chính nghĩa để thâu phục lòng dân thì không có Cộng sản, trái lại làm mất lòng dân là rước Cộng sản đến.
Trong tuần ông Nhung đại diện các Sĩ Tải xuống Sài Gòn để gặp ông Nhu. Ông Nhu cho biết rằng ông vẫn kính trọng Đức Hộ Pháp và mong  muốn ông Nhung hiệp tác với chính phủ để cứu nước. Ông Nhung cho biết rõ sự bất mãn của dân chúng đối với chính quyền và trình bày đường lối Hoà Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp với tinh thần xây dựng miền Nam có lợi cho chánh phủ, chớ không có ý đả phá hay tranh giành quyền hành như người ta đã xuyên tạc.
Khi chia tay Ông Nhu gởi lời thăm Đức Hộ Pháp
Việc tiếp xúc của anh em Sĩ Tải trên đây có sự phúc sư lên Đức Thầy .

*  *  *

 Thánh thơ số 15 HP/HN đề ngày 9-5-Mậu Tuất.
Đức Thầy có dạy:
Qua có đặng phúc sự của em Sĩ Tải Nguyên, Nhung, Hưởng về vụ Trung tá Châu cậy Hiến Pháp mời mấy em xuống Sài Gòn, vì xe chật nên không thể rước Giảm, đi có 3 đứa Nguyên, Nhung, Hưởng xuống Sài Gòn mà thôi.Xuống đến nhà Trung tá thì có Hiến Pháp và Phối Sư Ngọc Non Thanh. Hiến Pháp có nói lại với mấy em rằng hiện chánh phủ Ngô Đình Diệm muốn gở rối và kiếm phương chuộc tội. Do đó họ muốn cậy mấy em giúp họ dùm để đủ bằng cớ về hành vi bất hợp pháp của chính quyền đối với Đạo, hầu chính phủ chỉnh đốn bộ máy địa phương.

Thật sự nếu còn công an của chánh quyền Ngô Đình Diệm ở tại Toà Thánh chiếm đóng tại Nhàn Du khách sạn thì chính quyền Ngô Đình Diệm còn cầm quyền khủng bố Đạo ngày ấy; thì Qua nhất định không trở về Toà Thánh. Nếu không nói rằng Qua ngồi chờ lấy đủ tài liệu đặng đủ bằng cớ đem chánh phủ Ngô Đình Diệm độc tài hại Đạo ra kiện trước Toà quốc tế.

 Mấy em không nghi kỵ gì hết, ở giữa cửa địa ngục có Quan Âm Bồ Tát thì ở giữa kẻ hung bạo may ra cũng có người hiền lương đạo đức, biết đâu giữa chánh quyền Ngô Đình Diệm là chánh quyền tàn ác lại không xuất hiện ra những kẻ chơn thật mến Đạo, mến công lý, kín đáo giúp mấy em tìm phương cứu Đạo.Mấy em đủ tri thức, đủ lịch lãm thế tình, đủ nhận xét và đề phòng coi họ có thật tâm giúp mình không. Hay là họ lợi dụng mình để tìm tính mưu mô hại lại mình, theo tư tưởng của mấy em trong phúc sự là đúng.

Trong khi anh em Sĩ Tải được Ngài Hiến Pháp triệu xuống Sài Gòn tham khảo luận bàn cùng chánh quyền của Tổng Thống phủ, tình hình khủng bố Đạo giảm bớt. Trung uý Phước Trưởng ty công an bị rút đi, Trung uý Võ Văn Hai đến thay thế. Và chuẩn bị dời Ty công an tại Nhàn Du khách sạn ra Tây Ninh; các cơ quan quận, xã cũng đều thay đổi.

Sau Ban Thống Nhất do Minh Hiền, Trưởng ban Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội bất đồng ý kiến đổ bể bị bắt, còn lại Minh Khải (Tá) và Văn Hoà Vui len lỏi nối dây liên lạc với hai ban Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội để chỉnh đốn công cử Ban dự khuyết.

Anh em Sĩ Tải Ban cố vấn tìm mọi cách để qui họp anh chị em Ban miền Nam Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội để dung nạp vào Ban Thống Nhất, để điều hoà sứ mạng của Đức Thầy.

Nhưng Lập Bửu Hoà Bình Thương phế binh hội, cũng gởi thơ lên Đức Thầy xuyên tạc hành vi của ông Minh Hiền và Văn Hoà Vui, chị Ba Nương (Chơn Kim) Trưởng Ban văn phòng Hoà Bình Chung Sống miền Nam cũng phúc sự lên Đức Thầy nhiều điều thất thiệt đã phá Ban Thống Nhất.

Nên Đức Thầy gởi về các Thánh thơ số 17 HP/HN đề ngày 6-6-Mậu Tuất,  Thánh thơ số 18 HP/HN đề ngày 25-6-Mậu Tuất, Thánh thơ số 19 HP/HN đề ngày 20-7-Mậu Tuất gởi chị Chơn Kim, Đức Thầy đã đính chánh về việc nội bộ bị xáo trộn và nghi hoặc nhau, do ngoại quyền xen vào nội bộ, v.v

Thánh Thi số 21 HP/HN đề ngày 14-9-Mậu Tuất. Đức Thầy có dạy :
Đến hôm nay, hễ Qua nhớ lại cuộc biến thiên trong nội bộ mà phần đông mấy em trong Ban Thống Nhất đã bị chánh quyền Ngô Đình Diệm bắt giam thì Qua thê thảm không cùng vì xét ra bởi nội loạn mà mấy em nghi kỵ lẫn nhau mới bị chúng làm mưu phản gián, vì cớ mấy em mới bị nạn. Qua thấy rõ ràng hành vi của mấy em đã thi thố một cách bừa bãi vô ý thức, không đề phòng.

Ban cố vấn nhận thấy Ban Hoà Bình Chung Sống và Ban Hoà Bình Giáo Hội bất tùng mạng lịnh Ban Thống Nhất, bổ khuyết nên giao trọn quyền c/ho anh Minh Khải và chị Chơn Kim hội họp cùng nhau để chọn cử Ban Thống Nhất do Hoà Bình Chính Sách và Hoà Bình Giáo Hội đề cử. Ban Thống Nhất này có 16 vị trong đó có nhiều vị đề cử mà không hay biết, nên có 4 bức thơ gởi cho Ban cố vấn chuyển lên Đức Thầy từ chối nhiệm vụ,và ông Nhựt Quang, Ban cố vấn, đệ trình lên Đức Thầy ba phúc sự về tình hình nội bộ quá xáo trộn.

Sau khi chuyển đệ nội vụ công cử lên Đức Thầy và các văn kiện đầy đủ Đức Thầy xem xong gởi về.

Thánh thơ số 23 HP/HN đề ngày 15-11-Mậu Tuất có đoạn :
Chiếu theo vi bằng và 17 Uỷ nhiệm thơ của mấy em nói rằng hội nhóm nhau công cử Uỷ ban Thống Nhứt, thì ra, ngoài bức thơ gởi lên cho Qua do mấy em Chức Sắc Phước Thiện và Cửu Trùng Đài đã lén cho Qua biết rằng mấy em không có hội nhóm chi hết. Chính mình họ cũng bị mấy em đặt cử mà không có sự ưng thuận của họ. Khi xem mấy bức thư ấy Qua thấy rằng trong sự lủng củng của mấy em nó đã đưa mấy em đến đoạn đường bất hoà cùng nhau, phản bội cùng nhau mà chính mình Qua cũng không ra khỏi lẽ ấy. Nói trắng ra, nghĩa là mấy em lường gạt với sự dối trá, không còn chơn thật cùng Qua như trước nữa …

Qua xin mấy em phải tự giác và tự hoà với nhau trước, tự phê bình và chỉnh đốn nội bộ y theo khuôn viên Qua đã định, không nên dối trá và lường gạt lẫn nhau, chừng ấy mấy em mới hội nhóm cùng nhau cho có mặt đầy đủ đặng công cử Ban Thống Nhất, rồi mới gởi danh sách cho Qua chớ đừng làm như mấy lần trước, như mấy em toan phương gạt gẫm Qua. Qua gởi trả lại mấy Uỷ nhiệm thư của mấy em chớ không ký tên gì hết, đặng đợi mấy em chỉnh đốn lại. Mấy em phải cố tâm sửa cải nhứt là Chơn Kim bên Nữ phái mà Qua đã thấy dường như Chơn Kim muốn nắm cho kỳ đặng toàn quyền của nam phái …

Mấy em nói lại với Lập Bửu biểu nó cũng nên tảo thanh nội bộ và phải tìm phương nào làm cho Việt Nam Bảo Vệ Hoà Bình Thương phế binh hội có một lập trường thiết thực và chính qui hiện tại chớ đừng nên từ trước đến giờ chỉ là dựa vào mé một cơ thể vậy thôi..

Anh em Sĩ Tải nhận thấy nội bộ của đường lối Hoà Bình phần nhiều háo thắng, củng cố địa vị gây phe phái ham quyền chức bất chấp lịnh của Đức Thầy, hoặc ỷ công khi lịnh, làm cho Đức Thầy bận tâm lo liệu, phần thì đối ngoại phần thì đối nội, Đạo quyền lủng củng, đường lối rối ren (Vì có bàn tay bí mật xen vào phá rối gây chia rẻ nội bộ). Nên anh em Sĩ Tải quyết định đề nghị lên Đức Thầy :

Giải tán Ban Thống Nhất cũ và mới
Nhờ Đức Thầy chỉ định Ban Thống Nhất.
(Phúc sự đề ngày 21-11-Mậu Tuất )

Thánh thư số 24 HP/HN  đề ngày 23-11-Mậu Tuất như sau :
Trước khi Qua đựơc tờ phúc sự của mấy em thì Qua đã hiểu phỏng rằng mấy em đã bị vào đường lủng củng nội bộ do nơi lòng nghi kỵ lẫn nhau, không chơn thành trọn vẹn theo đường lối mà Qua hằng khuyên mấy em phải hiểu rõ là phải giảm thù thêm bạn mới đi đến con đường thắng lợi sớm chừng nào Qua càng mau về hội hiệp cùng mấy em chừng nấy.

 Qua thấy bằng cớ quả quyết rằng mấy em không để trọn trí não tin tưởng điều đó, thoảng như Ngô Đình Diệm hôm nay còn cầm quyền sanh sát đồng bào của mấy em nơi miền Nam là do nơi đó, mà làm cho mấy em trở thành bất lực nên, chánh quyền Ngô Đình Diệm mới tồn tại :

Vậy Qua quyết định y lời mấy em xin:
Giải tán Ban Thống Nhất.
Hoặc tạm thời đề cử một số người Qua lựa chọn cầm quyền Uỷ ban Thống nhất, cho tới ngày nào mấy em có năng lực đủ tín nhiệm nhau đặng lãnh đạo phong trào cứu nước, cứu dân.
Mấy em có tên sau đây của chính mình Qua lựa chọn đặt cử :
1 . (Giải Khổ)            Giáo Hữu Dự
2 . (Trung Hiền )       Giáo Sư Mỹ
3 . (Ngôn Thiện )      Đạo Nhơn Phú
4 . (Hiếu Thiện )        Đạo Nhơn Đại
5 . (Văn Thiện )         Chí Thiện Trạch
6 . (Minh Tươi )         Chí Thiện Tươi
7 . (Thành Kinh )       Giáo Hữu Huệ
8 . (Thanh Nhàn )      Giáo Hữu Sơn
9 . (Thanh Quang )    Sĩ Tải Nguyên
10. (Phi Hùng )          Giáo Hữu Phước
11. (Thanh Bạch )      Lê Văn Hai.

Qua để 11 em mà Qua đã lựa chọn trên đây rồi mấy em hội nhau định phận sự cho mỗi người. Qua cho mấy em được trọn quyền xem xét sở năng của mỗi người với kỳ hạn trong 3 tháng do nơi Uỷ nhiệm thư của mấy em gởi lên cho Qua phê chuẩn. Nếu trong thời gian 3 tháng mà có người bất lực không làm tròn nhiệm vụ thì mấy em phúc sự cho Qua thâu Uỷ nhiệm thư lại và chọn lựa người khác công cử thay thế.

Mấy em nên cho Chơn Kim (Hương Nương ) biết rằng những người Qua đã lựa chọn dầu không vừa lòng  thì  chỉ tuân theo mạng lịnh của Qua mà thôi. Hễ còn sửa cải thì Qua cho nó nghỉ trọn vẹn ra khỏi Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội. …

Vì Thánh Thư số 24 HP/HN, anh em Sĩ Tải mời tất cả quý ông trên đây đến công cử nhiệm vụ như sau :
1 . Ông Giải Khổ: Trưởng Ban Thống Nhất
2 . Ông Thanh Quang: Phó Ban
3 . Ông Thành Kỉnh: Tổng Thư Ký
4 . Ông Thanh Nhàn: Tuyên Huấn
5 . Ông Phi Hùng: Tổ chức
6 . Ông Văn Thiện: Tài chánh
7 . Ông Thanh Bạch: Liên lạc
8 . Ông Trung Hiền: Cố vấn
9 . Ông Thiện Ngôn: Cố vấn
10 . Ông Hiếu Thiện: Cố vấn
11. Ông Minh Tươi: Cố vấn

Sau khi công cử xong phúc sự số 1/PS. Ban Thống Nhất kèm theo vi bằng số 1/VB.B.T.N đề ngày 29-11-Mậu Tuất và 11 Uỷ nhiệm thư dâng lên Đức Thầy nhờ sự phê chuẩn.

Đức Thầy gởi về Thánh Thơ số 25 HP/HN đề ngày 6-12-Mậu Tuất:

Từ đây về sau Chơn Kim có muốn phúc sự cho Qua phải do nơi BTN chuyển đệ chớ không nên gởi thẳng như trước đến giờ. Muốn cho mấy em khỏi lủng củng nội bộ nên Qua nhất định như thế. Còn các Ban Miền Nam Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội thì phải làm việc trực tiếp với Ban Thống Nhất.

Luôn đây Qua giao hồi lại 11 Uỷ nhiệm thư của Uỷ viên Ban Thống nhất đề ngày 6-12-Mậu Tuất. Qua muốn cho Minh Khải lãnh phận sự cố vấn Ban Thống Nhất.

Trước khi lãnh Uỷ nhiệm thư thi hành phận sự, ông Giải Khổ – Trưởng ban Thống Nhất mời hết anh em trong Ban Thống nhất và Ban cố vấn cùng đại diện Ban miền Nam Hoà Bình Chung Sống và Hoà Bình Giáo Hội đến tư gia  dự bữa giỗ trá hình để cho tất cả anh chị em lập minh thệ thọ lãnh phận sự.

Ông Giải Khổ chỉnh đốn các Ban bộ và ra các văn bản củng cố tinh thần đoàn kết tích cực phục vụ, giữ vững đức tin và lập trường đường lối của Đức Thầy, tránh  nghe những tin đồn thất thiệt hoang mang.

*  *  *

Thánh thơ số 26 HP/HN   ngày 24-12- Mậu Tuất như sau :
Mấy em nhớ thi hành y theo mạng lịnh của Qua. Mấy em nào không đảm đương phận sự thì mấy em tuỳ tiện cho họ nghỉ, đừng để lủng củng nội bộ như từ trước đến  giờ mà khó bề thi hành phận sự.

Một phen nữa Qua giao trọn quyền cho mấy em toàn quyền chỉnh đốn Ban bộ. Bất kỳ nơi nào đường lối của mấy em bị trở ngại mấy em đặng trọn quyền dẹp an chẳng kể với một phương pháp nào.
*  *  *
   Năm 1959.
ĐỨC HỘ PHÁP BỊ TRUẤT PHẾ LẦN THỨ BA
Những ngày cuối cùng của cuộc đời Đức Hộ Pháp còn bị phản phúc dữ dội. Hội Thánh  buộc Chức sắc lập minh thệ không làm chính trị phi pháp (ám chỉ làm Hoà Bình Chung Sống) nhưng ông Ngô Đình Diệm không đồng ý vì cho rằng lời minh thệ không làm chánh trị phi pháp là không rõ ràng mà buộc mỗi người phải lập thệ không tùng mạng lịnh của Đức Hộ Pháp.

Các anh lớn ra lịnh cho Chức sắc, Bàn trị sự và cả tín đồ lập minh thệ lại. Còn Khâm Châu và Đầu Tộc Đạo ở các địa phương cũng phải lần lượt kẻ trước người sau về Toà Thánh để lập thệ lại có chánh quyền chứng kiến.

Khi Đức Hộ Pháp hay tin này Ngài nói: "Chúng nó phạm Thiên Điều hết rồi, thôi để tao chết cho chúng nó khỏi bị tội."

Rồi kế tiếp Đức Hộ Pháp qui Thiên. Bức điện tín từ Nam Vang gởi về báo tin cho Hội Thánh hay Đức Hộ Pháp đã qui Thiên, khi được tin này thì việc lập thệ lại ngưng luôn.

Đến ngày sau cùng của cuộc đời, Đức Hộ Pháp vẫn còn bị phản phúc cho đến nỗi trong dòng họ Đức Hộ Pháp có người cháu là Phạm Trung Hiếu cũng phản Ngài luôn. Nguyên do Đức Hộ Pháp từ Nam Vang gởi một bức thư cho Phạm Trung Hiếu ở Chợ Lớn nhờ ông Sĩ Tải Ngời ở Toà Thánh đem đến. Nhưng vì không biết nhà nên mới nhờ ông Giáo Hữu Thượng Liền Thanh Khâm Châu Đạo Chợ Lớn hướng dẫn. Khi được thư, ông Hiếu xem với vẻ giận dữ và không cho hai ông này ra khỏi nhà đồng thời báo cho công an của Ngô Đình Diệm biết và bắt hai ông. Ông Liềng (Châu Liềng) bị giam và chết luôn trong khám.

Đức Thượng Sanh ra Đạo lịnh ngưng quyền chức Giáo Hữu Thượng Liềng Thanh.Được tin này Đức Hộ Pháp liền ra lịnh huỷ bỏ và Giáo Hữu Thượng Liềng Thanh được phục hồi lại quyền chức bởi ông không có tội tình chi. Việc này dư luận cho rằng có bàn tay của chính quyền xen vào vì bức thư của Đức Hộ Pháp đã lọt vào tay của Ngô Đình Diệm.

*  *  *

ĐỨC HỘ PHÁP QUI THIÊN
Sau cơn bệnh nặng Đức Hộ Pháp Qui Thiên vào lúc 13 giờ ngày 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi (1959) nhằm ngày lễ Thăng Thiên 17-5 của Đức Chúa Jesus Christ.

Trước khi Qui Thiên, Đức Hộ Pháp đã làm 3 việc sau :
1 . Gởi bức thư Di Ngôn cho Thái Tử Norodom Sihanouk.
2 . Ngài nhắn vài vị Sĩ Tải lên để dạy việc.
3 . Đức Hộ Pháp trả lời về Ngài Hồ Tấn Khoa xin Di Ngôn về Đạo Pháp và đường lối Chính sách Hoà Bình Chung Sống :

Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa có đến xin Đức Hộ Pháp giao quyền lãnh đạo Chính Sách Hoà Bình Chung Sống cho Ngài. Nhưng Đức Hộ Pháp trả lời dầu cho Bần Đạo có thoát xác nơi đây, vì phận sự của Đức Chí Tôn giao phó một mình Ngự Mã của Ngài mà thôi nên Bần Đạo không dám giao ai đặng.

BẢN DI NGÔN
Gởi Hoàng Thân Norodom Sihanouk
Thưa Điện Hạ,
Bần Đạo có gởi những dòng chữ này đến Điện Hạ trên giường bệnh của Bần Đạo (bệnh viện Calmette). Sức khoẻ của Bần Đạo càng ngày suy giảm và Bần Đạo nghĩ không còn sống bao lâu nữa.Vậy Bần Đạo gởi lần cuối cùng đến Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên tất cả lời cảm tạ chân thành về sự khoản đãi rộng rãi của Điện Hạ và chánh phủ Hoàng Gia dành cho Bần Đạo với tuỳ tùng và cho tất cả tín đồ của Bần Đạo.

Bần Đạo thành tâm cầu nguyện Thượng Đế Cao Đài và Phật Tổ ban hồng ân che chở Vương Quốc Cao Miên và cho Điện Hạ để chóng thực hiện và nhất là thành công vẻ vang chánh sách Hoà Bình Trung Lập và Chung Sống Hoà Bình, chánh sách đặc biệt ưu ái của Bần Đạo và vì nó mà Bần Đạo phải hao tốn sức khoẻ và cuộc đời của Bần Đạo mà không thể thực hiện được.

Bần Đạo thành tâm ước mong rằng Tổ quốc thân yêu của chúng tôi, nước Việt Nam, có thể đeo đuổi Chánh sách ấy trong một ngày gần đây, tay bắt tay cùng đi cùng với nước Cao Miên trong đường lối thương yêu và cộng đồng giữa các sắc dân và nhất là giữa hai dân tộc Miên-Việt. Bần Đạo sẽ hoàn toàn sung sướng được yết kiến lần cuối cùng với Điện Hạ để bày tỏ tất cả những lời cám ơn của Bần Đạo nhưng Bần Đạo không biết sức của Bần Đạo còn chờ được hay không ngày về của Điện Hạ.

Dầu sao tình thân hữu thâm niên của chúng ta, nhơn danh lòng thương yêu và tình huynh đệ giữa hai dân tộc Cao Miên và Việt Nam, Bần Đạo cung kính xin Điện Hạ như một ân huệ đặc biệt và cuối cùng cho Thánh Thất chúng tôi khỏi chịu dưới lịnh phá huỷ, để giữ kỷ niệm độc nhất của Bần Đạo nơi đất Miên.

Để giúp Điện Hạ có một khái niệm đúng đắn về tình hình qua, Bần Đạo trân trọng gởi đến Điện Hạ một bản sao đơn khẩn cầu của Bần Đạo vừa chuyển Hoàng Thượng.

Phần khác, nếu Bần Đạo thoát kiếp nơi đây, Bần Đạo xin thỉnh cầu Điện Hạ cho phép Bần Đạo tạm gởi thi hài nơi đất Miên dưới sự bảo vệ tối cao của Hoàng Gia Cao Miên. Ngày nào tổ quốc thân yêu của chúng tôi là nước Việt Nam đã thống nhứt, sẽ cùng theo đuổi Chánh Sách Hoà Bình và Trung Lập, mục phiêu của đời sống Bần Đạo, tín đồ của chúng tôi sẽ di thi hài về Toà Thánh Tây Ninh.

Bần Đạo khẩn cầu Điện Hạ và Chánh phủ Hoàng Gia, sau khi Bần Đạo thoát xác, dành cho đoàn tuỳ tùng và cho cả thiện nam tín nữ của Bần Đạo, sự khoản đãi rộng rãi và các sự dễ dãi như trước để tu hành theo tôn giáo của chúng tôi. Nếu biết Điện Hạ sẽ chiếu cố đến đơn thỉnh cầu này, Bần Đạo sẽ thanh thản nhắm mắt đem theo cái kỷ niệm dịu dàng nhất trong đời của Bần Đạo, cung kính xin Điện Hạ chấp thuận lòng tri ân vĩnh viễn của Bần Đạo.  
Nam Vang, ngày 14-5-1959
Hộ Pháp

*  *  *

Cái tin Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo Chủ Đạo Cao Đài từ trần làm xúc động các giới đồng bào và báo chí trong và ngoài nước, làm đổ luỵ toàn thể tín đồ Cao Đài.

Trong suốt thời kỳ cầm quyền, chánh phủ Ngô Đình Diệm có ác ý đối với Đức Hộ Pháp và đã dùng thủ đoạn hạ uy tín của Đức Ngài. Cho nên các giới nhân sĩ, trí thức, chính trị, các nhân vật Tôn Giáo cùng đồng bào, mặc dù bùi ngùi thương tiếc, nhưng không dám bộc lộ cảm tưởng công khai. Thậm chí tại Toà Thánh Tây Ninh cũng không thiết lễ trong ngày thoát xác của Đấng Giáo Chủ. Chư tín đồ tự động để tang, làm lễ tại tư gia hay tổ chức trong rẫy bái để tránh sự theo dõi của nhà cầm quyền.

Trong khi đó, ông Nguyễn Đắc Lộc, chủ nhiệm báo Tân Dân đã mạnh dạn viết trong số báo 192 ngày 22-5-1959, những dòng chữ sau đây dưới tựa đề : “Trước một cái tang” để tỏ lòng kính mến và hoan nghênh sự nghiệp cách mạng vì Đạo vì nước của Đức Hộ Pháp.

TRƯỚC MỘT CÁI TANG
Giữa lúc tình trạng nước nhà còn bị nạn qua phân, chưa có hy vọng thống nhứt trong một sớm một chiều như ý muốn của dân tộc mà hội nghị Tứ cường đang mổ xẻ vấn đề Đức Quốc để làm nguyên tắc cho Hàn Quốc và Việt Nam căn cứ theo, thì giới nhân sĩ cách mạng chúng ta đã đứng trước một cái tâm tang: Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc vừa tịch ngày 17-5-1959 tại Nam Vang .

Cái tin đột ngột này đã làm xúc động môn phái tín đồ Cao Đài vì sự đau đớn mất Đức Giáo Chủ kính mến và nó cũng không khỏi làm ngạc nhiên giới thân hữu cố tri của cụ Phạm Công Tắc.Thật vậy, những ai đã quen biết riêng nhà lão thành cách mạng ấy thì cũng phải ngậm ngùi trước cái tang này. Bởi cụ Phạm Công Tắc xưa kia, dưới con mắt nhà cầm quyền Pháp là một nhà cách mạng nên cụ đã từng bị lao lung khổ sở vì tù tội và đày ải qua hòn đảo Madagascar ở giữa Ấn Độ Dương trong hồi Đại thế chiến thứ hai 1939-1945.

Cái thành tích đó đã gây thêm uy tín cho cụ Hộ Pháp trong Giáo Hội Cao Đài cũng như ngoài đường đời đối với dân chúng miền Nam mà cụ thật đã hoạt động bí mật chống Pháp dưới lá cờ lãnh đạo của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để …

Do mối quan hệ lịch sử này, trên từ Tổng Thống Ngô Đình Diệm dưới đến nhân sĩ cách mạng, không một ai là không quen tên biết mặt hoặc thân hoặc sơ, trước ngày biến cố Đô Thành.

Cho nên ngày nay, tin buồn này lan tràn trong các giới đồng bào qua báo chí hằng ngày đăng ai tin, đã làm xúc động mạnh giới nhân sĩ này.

Riêng tôi là văn nhân ký giả, tôi được hân hạnh quen biết Đức Giáo Chủ Cao Đài đã lâu mà tôi vẫn hằng kính mến là nhà đạo đức lãnh đạo một Tôn Giáo mới đã bị chìm nổi vì Đạo qua thời Pháp thuộc. Bởi vậy trước một cái tang của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cũng như trước một cái tang của cụ Trương Duy Toản xưa kia, tôi không thể không tả sự đau đớn chung với bà con tín đồ Cao Đài, mặc dầu không cùng chung một chính kiến, một Tôn Giáo …

Vậy trước cái tang này, để nêu cao cái giá trị vô song của giải thưởng danh dự "LÃNH ĐẠO TỰ DO" của tổ chức "NHỮNG QUYỀN TỰ DO" mà Đô Đốc Félix Stumq vừa tặng Tổng Thống cũng nên gởi một vòng hoa phúng điếu và cho phép Giáo Hội Cao Đài nếu họ đã thỉnh cầu được tự do rước linh cửu của Hộ Pháp Phạm Công Tắc về an táng tại Thánh Thất Tây Ninh.

Nghĩa tử là nghĩa tận. Tổng Thống thường nói : “Đem tình thương mà trả oán thù ” thì lúc này là lúc Tổng Thống làm rạng tỏ lý tưởng cao siêu đó. Và luôn dịp, chúng tôi rất thành khẩn đề nghị với sự ước mong rằng Tổng Thống là người đứng trên hết các Đảng Phái để làm trọng tài tối cao giữa nhân dân. Tổng Thống nên ban ngay Sắc lịnh đại ân xá cho các tử tội chính trị phạm liên can vào vụ biến cố Đô Thành, để mở rộng chiến dịch "ĐẮC THẮNG NHÂN TÂM" trước ngày có cuộc tuyển cử Quốc Hội.

Đây là một cơ hội thuận tiện nhất khởi màn cho sự chuẩn bị thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình mà lịch sử sẽ ghi ơn vậy.
Nguyễn Đắc Lộc

*  *  *

CUỘC TANG LỄ NƠI NAM VANG
ĐƯỢC CỬ HÀNH TRỌNG THỂ,
Chức Sắc và tín đồ đều thọ tang Đức Giáo Chủ Cao Đài.
Các Sứ thần ngoại quốc và phái đoàn chánh phủ Hà Nội, phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, các đoàn thể, chánh phủ Miên Quốc đều phúng điếu đông đảo.

Báo chí ngoại quốc đều đưa thông tin quan trọng hàng đầu làm chấn động quốc tế, như tờ báo Le Lien des Ceroles d’Etudes (số 4 Juin -1959) bên Pháp Quốc của hội nghiên cứu Thần linh học có đăng việc Nữ Đồng Tử Sarah Barthed nói về huyền diệu nghe và thấy tiếng nói trên không trung một vị Phật ở Việt Nam mới thăng thiên có rất đông Thần, Thánh, Tiên, Phật mặc áo vàng, áo đỏ, áo xanh và áo trắng đứng tiếp rước trên không trung rất trọng thể.

Trong khi ở Toà Thánh Tây Ninh, Hội Thánh không tổ chức lễ tang của Đức Hộ Pháp, nên một số anh em Hoà Bình làm tờ kiến nghị dâng lên xin hành lễ thọ tang Đức Sư Phụ, nhưng không được sự chấp thuận mà còn bị công an bắt bớ. Toàn Đạo phải âm thầm ôm hận thọ tang, thật là cảnh đau buồn không xiết kể. Anh em Sĩ Tải Ban Thống nhứt, Hoà Bình Chung Sống, Hoà Bình Giáo Hội liền đại diện đi Nam Vang thọ tang và tế lễ Đức Hộ Pháp.

Còn trong một đám rừng chòi gần chân núi Bà, anh em Hoà Bình cũng tổ chức bàn Hương án cúng lạy và bịt khăn tang. Trong buổi lễ ông Giáo Hữu Ngọc Thiệp Thanh Uỷ viên tuyên huấn Ban Miền Nam đọc bài văn tế bằng Hán văn rất xúc động làm cho anh em ai cũng đổ luỵ theo.

Từ ngày thọ lãnh mạng lịnh của Đức CHí Tôn để hoằng khai mối Đạo, Đức Hộ Pháp luôn chịu khổ hạnh, lao tâm tiêu tứ để đối phó trước sự đàn áp từ bên ngoài và sự phản phúc chia phe phân phái từ bên trong nội bộ của Đạo cho đến ngày thoát xác.

Thời gian tính ra 33 năm, không giờ phút nào Ngài được yên nghỉ. Nhờ có một đức tánh phi thường hơn cả thiên hạ, một năng lực siêu phàm với một đức tin vô biên nơi Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, Đức Hộ Pháp đã vượt qua bao nhiêu thử thách, dẹp tan mọi mưu mô phá Đạo của tà quyền; tạo dựng nền Đạo ngày nay về mặt vật chất nguy nga đồ sộ, về mặt tinh thần một kho tàng Giáo lý chưa từng có trong lịch sử các Tôn Giáo trên mặt địa cầu.

Nhờ đó, Đạo Cao Đài rạng rỡ với năm châu và Đức Hộ Pháp được sáng danh là một vị Giáo Chủ Đại Đạo kỳ ba không kém vị Giáo Chủ nào trên mặt thế.

Lòng thương yêu vô tận của Đức Giáo Chủ dành để phần nhiều cho hạng bần hàn quê dốt, những cô nhi quả phụ, người già yếu tật nguyền, những dân tộc thiểu số lạc hậu như người Tần, Tà Mun …

Ban nhạc Tần thường đến trình diễn tại Hộ Pháp Đường và thường đưa rước Đức Giáo Chủ đi cúng thời Tý tại Đền Thánh. Họ là  người dốt, thật thà nhưng nhờ Đức Giáo Chủ nâng đỡ bênh vực nên họ không bị thiệt thòi cũng không ai hà hiếp được. Họ vui lòng làm công quả với công việc nặng nhọc, trong số đó có nhiều người được thọ phẩm tước Thiên Phong. Một điều đặc biệt là họ có Đạo Tâm vững chắc, chơn thật, không phản phúc và  tuyệt đối trung thành với Hội Thánh, với Đức Giáo Chủ.

Buổi ban sơ mới lập Đạo, Đức Chí Tôn giao cho Ngài làm Giáo Chủ, Ngài từ chối, Ngài thưa Ngài không thể làm như Đức Chúa Jesus Christ hay Đức Lão Tử được nhưng Đức Chí Tôn cương quyết nói với Ngài rằng :
"Thầy lấy tánh đức của con để lập Giáo.
Ngài không dám từ chối mà chịu nhận"

Như vậy Đức Chí Tôn đã chọn một người thay mặt cho Ngài tại thế là Đức Hộ Pháp. Thật không lầm vì Đức Hộ Pháp có đầy đủ tánh đức giống Trời, cao hơn thiên hạ.

Đức Hộ Pháp là một nhà cách mạng với một tâm hồn ái quốc nồng nàn, Ngài hy sinh hết cuộc đời cho Quốc Đạo và Tổ Quốc giống nòi. Ngài là người hùng dũng, bất khuất, chí khí lớn mà cũng là người có tâm hồn đa sầu đa cảm, xúc động hơn ai hết trước cảnh đau thương của nhân thế.

Trong cửa Đạo, Ngài cầm luật pháp nghiêm minh nhưng đầy lòng khoan dung tha thứ. Hồi tạo tác Đền Thánh, có một anh trong Sở thợ hồ ăn cắp cây đờn Kiềm, việc phát giác ra đưa lên tới Đức Thầy, anh đó bị đuổi ra khỏi Sở, nhưng Đức Ngài đến tại Sở  hội anh em và trách cứ anh em thiếu thương yêu nhau, chuyện nhỏ như vậy mà không giải quyết với nhau được để đưa lên Đức Ngài là tới luật pháp.

Việc của  Ngài làm lớn lao bao la thế giới, như từ việc nhỏ của em đồng nhi, hay người Đạo tỳ Ngài cũng không bỏ sót.

Ngài biết rõ tâm lý từng người, từng giới để từ đó độ dẫn họ, tánh tình của Ngài vui vẻ hoạt bát, lịch lãm trường đời.

 Ngài  viết ra quyển "Phương Tu Đại Đạo" để bảo tồn phong hoá nhà Nam. Đối với Ngài một cọng lạt, một miếng dăm bào cũng hữu dụng không bỏ.

Trong cửa Đạo Ngài thâu nhận đủ hạng người lương thiện có, gian ác có đúng với cơ quan tận độ của Đức Chí Tôn ngày nay, để rồi có người giác ngộ tu hành lo lập công bồi đức, có người phản trắc phá Đạo không thể tránh khỏi.

Về phương diện đối ngoại, Ngài không bao giờ đố kỵ một tôn giáo hay đảng phái nào. Chánh phủ nào lên cầm quyền Ngài cũng ủng hộ còn làm được hay không là do nơi họ chớ Ngài không chống phá.

Tóm lại, Đức Hộ Pháp là người có văn có võ, thông suốt thi ca âm nhạc, là nhà kiến trúc hơn nữa là nhà thiết kế đô thị, Ngài cũng là một nghệ sĩ. Hai người con gái của Ngài là Phạm Hồ Cầm và Phạm Tần Tranh là tên hai cây đờn nổi tiếng trong âm nhạc. Thật vậy, Bí Pháp của Đức Chí Tôn đến khai Đạo do nơi ba vị: Hộ Pháp. Thượng Phẩm và Thượng Sanh. “Pháp, Đạo, Thế ” ba vị này đều là văn nhân tài tử Cầm, Kỳ, Thi, Hoạ hào hoa, phong nhã.

Trong mấy mươi năm Đức Hộ Pháp cầm quyền Đạo, chơn truyền của Đức Chí Tôn được giữ đúng không bị quyền lực nào chi phối. Ngài cầm lái con thuyền Đạo không bao giờ lệch hướng. Thực dân Pháp không khống chế tinh thần của Ngài được, cuối cùng phải dùng cường quyền bắt Ngài đưa đi đày.

Ngài cũng thi hành đúng luật pháp Quốc Gia, như hồi chánh phủ Quốc Gia ra lịnh động viên thanh niên nhập ngũ, các địa phương có đơn gởi về Hội Thánh  nhờ can thiệp cho con em bổn Đạo khỏi đi lính, Đức Hộ Pháp phê:
"Nếu Bần Đạo trong tuổi lính Bần Đạo cũng phải đi, dầu là Đạo mình cũng là công dân của đất nước, phải triệt để thi hành lịnh động viên của Quốc Gia”.

Với tư cách quản giáo Ngài biết người biết mình, cách cư xử mọi việc có tình, có lý, phải người, phải ta. Mỗi phen bị cường quyền áp bức, Ngài gánh vác che chở cho con cái Đức Chí Tôn, Ngài cũng có đủ mưu lược để gìn giữ Đạo trong mọi cuộc biến cố như hồi Nguyễn Thành Phương đem quân về bao vây Toà Thánh trong quân đội Cao Đài lúc ấy cũng có mấy cánh quân ly khai vô mật khu để bảo vệ Đạo và trung thành với Đức Hộ Pháp chớ không theo ông Phương và ông Diệm. Họ có trình với Đức Hộ Pháp để đối phó với binh của ông Phương nhưng Đức Hộ Pháp cấm hẳn không cho đụng chạm đến vì làm như thế là lọt vào mưu kế thâm độc của Chính quyền đã cho một đội xe thiết giáp canh giữ gần Toà Thánh để chờ cơ hội các nhóm Cao Đài xô xát nhau sẽ  lấy cớ dẹp loạn để tiêu diệt Đạo.

Để kìm hãm bớt sự lộng hành của ông Phương, Đức Hộ Pháp ra lịnh cho cánh quân của ông Huỳnh Văn Mừng kéo về đóng từ Báo Quốc Từ ra Ao Hồ, còn cánh quân của Văn Hoà Vui đóng từ cửa số 8 Nội ô dài xuống đến Qui Thiện. Vào lúc nửa đêm hai bên cho nổ súng bắn chỉ thiên. Đức Hộ Pháp dặn phải cẩn thận không để cho người dân nào phải bị thương tích.

Sau đó ông Phương cho rút binh và Đức Hộ Pháp ra lịnh thâu súng bỏ vào kho kể cả đội cận vệ cũng vậy để tránh đổ máu anh em với nhau trong cửa Đạo.

Ông Phương là người ngoại Đạo, chỉ nương theo Đạo để lập thân danh chớ không phải vì Đạo, vì Tổ Quốc. Phương có ý định bắt Đức Hộ Pháp đem nộp cho Ngô Đình Diệm để lập công, nhưng ý đồ đó không qua được Đức Hộ Pháp.

Phương nghe lời ông Hồ Hán Sơn bị thất bại rồi quay lại thủ tiêu Hồ Hán Sơn. Hồ Hán Sơn là gián điệp xen vào phá hoại hàng ngũ Cao Đài, đi ngược lại lập trường Hoà giải Dân tộc của Đức Hộ Pháp.

Còn ông Tất theo ông Phương bị thất bại chạy lên Nam Vang... Khi lên Nam Vang, ông Tất gởi bức thư chỉ trích Đức Hộ Pháp. Bức thư đó ông Tất cũng gởi cho Chánh Phủ Ngô Đình Diệm để lập công.Khi một số anh em Hoà Bình bị tù được trả tự do, Đại Uý Phước Trưởng Ty Công An Tây Ninh đem bức thư đó ra đọc cho anh em nghe.

Khi Đức Hộ Pháp sang Nam Vang, Ngài gởi lịnh về cho tất cả anh em giải tán hết. Ngài nói:Phận sự của các con đối cùng Đạo cùng Tổ Quốc như vậy là xong, bây giờ để Thầy làm.                Quân đội Cao Đài chấm dứt từ đó.

Đức Hộ Pháp xuất ngoại là có lợi cho Đạo.Về phần nội bộ của Đạo thì các nhóm chống đối và ủng hộ Đức Hộ Pháp không còn có lý do vì hiềm khích với nhau nữa.

Đối với bên ngoài việc phá Đạo của Chính quyền cũng phải dè dặt vì Đức Hộ Pháp có cơ hội tự do tố cáo ra Quốc tế.

Đối với dư luận Quốc Tế, Đức Hộ Pháp đến cư ngụ tại một nước nhược tiểu trung lập không dựa nương vào một cường quốc nào. Khối Tư Bản không thể nói Đức Hộ Pháp theo Cộng sản được, khối Cộng Sản cũng không thể nói Đức Hộ Pháp theo Tư Bản, như vậy là đi đúng tinh thần của một Tôn Giáo.

Cầm cơ chuyển thế của Đức Chí Tôn, Đức Hộ Pháp có hành động kịp thời đúng lúc của mọi biến chuyển của tình thế, dẫn dắt phong trào chớ không chạy theo đuôi phong trào, không bị lạc hậu như chúng ta thấy mấy mươi năm qua trong cửa Đạo.

Việc làm của Ngài cao xa, tinh thần của quí anh lớn cầm quyền Đạo không theo kịp phải thối lui lại phía sau vì cái nhìn không sâu rộng.Khi đưa ra Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống : Do dân phục vụ dân lập quyền dân. Đức Hộ Pháp đã gởi về cho các anh lớn trong Hội Thánh  để thi hành nhưng bị từ chối. Đức Hộ Pháp buộc lòng phải giao cho một số Chức sắc nhỏ và tín đồ hoạt động giải pháp này.

Nhờ có đức tin tuyệt đối nơi Đức Hộ Pháp, một số anh chị em hăng hái tham gia hoạt động cho đường lối Hoà Bình mặc dầu phải chịu nhiều khổ hạnh. Buổi đầu khả năng của anh chị em còn yếu kém về mọi mặt nên việc làm có nhiều sơ sót, Đức Hộ Pháp phải mệt nhọc chỉ dẫn từng bước đi và dạy bảo cho anh chị em hiểu biết sâu rộng ý nghĩa cao đẹp của đường lối.

Từ ngày Đức Hộ Pháp lên Nam Vang năm 1956 đến ngày qui Thiên năm 1959 thời gian chỉ có ba năm nhưng không biết bao nhiêu là công việc mà Ngài phải đối phó, nào lo việc nội bộ của Đạo nào việc bên ngoài làm khó dễ.

Việc đề xướng và lãnh đạo Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống Đức Ngài phải khổ tâm với bao nhiêu là việc thử thách từ trong cửa Đạo đến ngoài quyền đời. Bị tù tội, bị phỉ báng, bị phản phúc nhưng lúc nào cũng quả quyết thành công vì đây là đường lối của Trời chớ không phải của phàm. Trời định sao chịu vậy, phải thọ khổ cho thiên hạ.

Chúng tôi xin trích đoạn những Thánh Thơ mà Ngài gởi về từ Nam Vang để an ủi và un đúc tinh thần cho toàn thể anh chị em.
*  *  *
Thánh Thơ số HP/HN
Kiêm Biên ngày  tháng 10 năm Đinh Dậu.
Mấy em trong Hoà Bình Giáo Hội Toà Thánh.
Qua có đặng thơ số 118 Giáo Hội Trung ương của mấy em gởi cho Qua và cho Bảo Đạo nói về có lịnh của Bảo Đạo dạy mấy em đi tụng kinh cầu nguyện cho Hoà Bình nơi vĩ tuyến 17  mà mấy em ngần ngại khó nỗi thi hành.

Mấy em tưởng như thế là đúng chơn lý vì Hoà Bình Giáo Hội cốt để trương cây cờ Nhan Uyên khi Bắc Nam đồng bào của mấy em dùng võ lực tương tàn tương sát, thì phận sự của mấy em cứu khổ cho thiên hạ. Muốn thi hành điều ấy, ít nữa mấy em  phải có một năng lực Quốc Tế làm hậu thuẫn cho mấy em, năng lực ấy qua tìm đường lưu vong ra hải ngoại tìm kiếm mà hôm nay vẫn chưa đủ điều kiện.

    Trái lại nếu dạy mấy em ra vĩ tuyến để cầu kinh buổi này là một chuyện điên rồ và vô nghĩa lý, gây một trò cười cho thiên hạ, lại thêm bị bắt, bị khổ hạnh, bị khủng bố nhiều điều mà không bổ ích vào đâu tất cả nên việc ấy mấy em đình đãi không chịu thi hành là phải và Qua có lời ban khen mấy em đó vậy.

    Từ đây mấy em phải đợi lịnh chính mình Qua truyền dạy dầu chuyện lớn hay chuyện nhỏ cũng vậy và xem xét kỹ lưỡng nghĩa lý mọi hành vi của mình rồi mới thi hành, bằng trái lại có điều chi mà mấy em ngờ vực với tánh cách phi lý thì nhẫn nại chờ đợi, hỏi mạng lịnh Qua rồi mới thi thố như hiện thời mấy em làm đó vậy.

*  *  *
Khi hay tin hai ông Giáo Sư Thượng Giải Thanh và Giáo Hữu Thượng Dự Thanh lập nguyện gia nhập Hoà Bình, Đức Hộ Pháp có nói :
Mấy em nói lại với Giáo Sư Hải và Giáo Hữu Dự rằng Qua rất hài lòng hay tin mấy người ấy đủ can đảm, đủ tâm thành nghị lực dám ra hiệp tác cùng mấy em, mấy em nên nói riêng với họ rằng trong đời sống con người, từ trước hàng vĩ nhân của nhơn loại chỉ nhờ một ý định nhỏ nhoi mà họ đặng thành công vĩ đại. Qua nói một ý định mà thôi mà Qua không hiểu ý định ấy nó thắng bại lẽ nào.Biết đâu ý định họ may ra không đem cho họ cái toàn thắng bất ngờ, cũng như con bạc móc túi ra đặng không biết ăn thua, nhưng đặt lúng vì mình là con bạc mà nó có trúng độc đắc hay là cầu âu rồi nhờ đó mà trở thành triệu phú bất ngờ.

Vậy họ cứ tin tưởng nơi Qua là con bạc của thời cuộc, Qua đã dám móc túi đánh cầu âu với sòng bạc của Chí Tôn, họ cũng nên ráng làm gan đánh ăn có theo Qua dầu có rủi thua thì Qua cũng là tay thua với họ. Họ cũng có phương an ủi chút ít. Mấy em nói rằng Qua để lời cám ơn và khen ngợi họ …
*  *  *

Thánh Thơ số 6 HP/HNNgày 29-11-Đinh Dậu.
Pháp khi thất trận Điện Biên Phủ thì cắt nước Việt Nam làm đôi, phân nửa từ vĩ tuyến 17 đổ ra giao cho Việt Minh, còn phân nửa từ vĩ tuyến 17 đổ vô lại giao trong tay Mỹ, thành thử nước Việt Nam chúng ta vào tay hai kẻ thù một là cộng sản hai là thực dân tư bản Mỹ. Thật ra mấy em đã thấy hiển nhiên trước mắt rằng Tổ Quốc của mấy em hôm nay đã thành lệ thuộc của hai khối Mỹ và Cộng Sản chớ không độc lập và tự do chi cả.

Những danh từ độc lập tự do là những danh từ để hồ mị đôi mắt mấy em với đồng bào của mấy em chớ không có thật sự chút nào hết, vì sự lệ thuộc của hai khối còn nặng nề nguy hiểm hơn lệ thuộc của Pháp buổi trước quá nhiều. Vì cớ mà Qua phải lưu vong đặng tìm kế giải nguy cho Tổ Quốc và nòi giống.

Bởi cớ ấy mà đề xướng ra giải pháp Hoà Bình Chung Sống đặng tự giải thoát cho mình khỏi vòng xiềng xích của ngoại bang lệ thuộc, dầu rằng nền Đạo Cao Đài là của toàn thể chúng sanh không phải của riêng của nước  Việt Nam mà thôi, mà nó là của thiên hạ, nhưng hôm nay thì nó có liên quan mật thiết với vận mạng Việt Nam, trước mắt vì nó đã sản xuất nơi nước Việt Nam và do nền văn minh tối cổ của Nho Tông xuất hiện. Việt Nam phải làm gương mẫu về sở năng của nó đặng các chủng tộc khác xem mà theo.Nền Đạo Cao Đài đặng bành trướng hay đủ uy tín cùng quốc tế chăng là do năng lực của nước Việt Nam trước đã...

Qua cốt yếu nói rõ cho mấy em biết đường lối của Thầy trò chúng ta phải đi là một đường lối khó khăn nguy hiểm. Ai đời năng lực không có mà dám đương đầu cùng hai khối đủ quyền hành mới mẻ đủ mạnh mẽ chia tay làm bá chủ toàn cầu là khối Thực dân tư bản và Cộng sản quốc tế, biểu sao đương nhiên ta không bị cô lập mà e cho những đầu óc không đủ sáng suốt cho ta là khùng mà chớ.

Thật sự Thầy trò chúng ta lúc này đương phế vong cả sự nghiệp và tương lai của Đạo đặng vẹn toàn cho trọn vẹn hy sinh cho nhân dân mà đã gánh chịu nhiều điều oan khổ.Ta phải can đảm thú thật rằng ta đã vì tiền đồ tổ quốc và giống nòi Việt Nam hơn là tương lai sự nghiệp của Đạo, điều ấy Qua đã cho mấy em suy nghĩ đặng hiểu nghĩa lý sự hy sinh ấy.

*  *  *
Thánh Thơ số 10.
Khi các anh lớn cầm quyền Đạo tại Toà Thánh không thấu hiểu được việc làm của Đức Hộ Pháp mà còn nghe theo lời bài bác của quyền đời, Đức Hộ Pháp nói : Đường lối Qua đi là con đường duy nhất, chúng ta  có vui chịu thấy trước mắt nạn cốt nhục tương tàn nồi da xáo thịt chăng ?

Chúng ta vui chịu thấy Tổ Quốc chia hai phân đôi chủng tộc chăng ?
Đạo có vui thấy thiên hạ loạn ly, quốc dân đau khổ chăng ?

Đạo có vui thấy ngoại bang xâm chiếm lệ thuộc của quốc dân và tổ quốc Việt Nam một lần nữa chăng ?
Bần Đạo tranh đấu có phải vì tư lợi, tư quyền mà đủ can đảm khổ hạnh chăng ?
Ai tự hỏi mấy em câu ấy thì đủ cho họ trả lời cho họ rồi không cần luận đến nữa.

Qua đã hy sinh Đạo đặng cứu vãn tình thế cho Tổ Quốc và giống nòi Việt Nam vì đã hiểu rỏ rằng nếu phân chia chủng tộc và nước làm hai, kỳ trung chia Đạo làm hai, rồi như thế ta nhận định như thế thì ta có nên ngồi yên cầu an cho mình để mặc Đạo bị chia hai Nam Bắc rồi ai mới vào đó để tìm phương hiệp nhứt lại đặng ?

Dầu cho vĩ tuyến 17 đổ ra miền Bắc,tín đồ Đạo không đông như miền Nam nhưng coi để cho số con cái Đức Chí Tôn dầu thiểu số thế nào nguyền rủa chăng?

Nếu thoảng như có tình trạng như thế thì chính mình Bần Đạo không bảo toàn đủ trọn uy tín đặng khéo xử dung hoà với họ mà chớ ?

Đạo sẽ bị chi phối vĩnh viễn từ Nam chí Bắc. Hỏi vậy chớ ai đã đảm nhiệm gánh vác cơ nghiệp Đạo, ngồi xem tương lai Đạo như thế chăng ?

Nếu Bần Đạo cho sự đi của Bần Đạo khỏi Toà Thánh là thượng sách về mặt Đạo lẫn mặt đời với mục đích làm cho đồng bào đủ thế chung sống cùng nhau trong Hoà Bình và hạnh phúc.

Thuyết Hoà Bình Chung Sống của Bần Đạo đem ra cho nước Việt Nam làm cho quốc tế cảm động vì quốc tế hiểu rõ rằng ngoài  phương pháp ấy Đạo Cao Đài không có đường lối nào khác hơn nữa. Thuyết ấy rồi đây các nước tiểu nhược quốc đứng về trung lập phải noi theo đặng cứu nước họ. Giải pháp ấy càng ngày càng sáng tỏ đặng hiệp các tiểu nhược quốc lại làm một.
Kiêm Biên, ngày 5 tháng Giêng năm Mậu Tuất.
Hộ Pháp
(Ân ký)

Thánh Thơ 12
...Mục phiêu chánh của Đạo Cao Đài là lo cho toàn thiên hạ đặng tự do, đặng hạnh phúc.Có lẽ vì lý do ấy mà chúng ta phải hy sinh trọn kiếp sống đặng giải ách lệ thuộc cho các chúng tộc lạc hậu vì lẽ bất công của xã hội đương nhiên mà chính Đức Chí Tôn đã có nói và Đức Lý đã có lặp lại: Ngày nào còn tồn tại một lẽ bất công nơi mặt thế này thì Đạo Cao Đài chưa thành Đạo.

Ta cũng vì hạnh phúc của nhơn sanh mà hy sinh cả gia nghiệp của ta đặng tạo hạnh phúc ấy cho toàn thiên hạ. Mấy em biết, không có tinh thần cao thượng ấy thì con người bao giờ cũng mục phiêu xứng đáng là vinh thân phì da đeo đuổi theo thuyết duy vật là thuyết vị ngã  chớ không dại gì phải hy sinh đặng làm tôi tớ cho toàn thiên hạ. Ta theo Đức CHÍ TÔN và thuyết cao thượng ấy, ta buộc mình phải làm việc ấy đối với dân Việt Nam ta trước rồi mới rộng ra toàn thiên hạ.

Qua lặp lại một lần nữa rằng Đạo Cao Đài có mục tiêu chánh đáng này là chúng ta phải làm việc cho kỳ được: Bác ái, Công bình, Vị tha, Ưu nhơn, ái vật cải thiện nhơn sanh làm  cho Đại đồng Thiên hạ. Ta đã hy sinh biết bao xương máu từ thử đến giờ cũng vì muốn đoạt cho đặng cái mục tiêu ấy, muốn cho Đạo Cao Đài có giá trị nơi mặt thế này, mà đi chưa đến mục tiêu ấy tức là công trình của chúng ta cấy lúa trên đá.

Qua chỉ sống gượng đặng xem coi các bạn gọi là đồng chí của Qua thi thố lẽ nào cho nên Đạo, cho đáng kiếp sống chớ không phải ăn gởi nằm nhờ, ngồi không toại hưởng công nghiệp của kẻ khác, dầu vô phước thế nào bị bội bạc phản phúc mà trong kiếp sống mình có phương thế cho Đạo cho đời là một phần thưởng cho tâm hồn rất nên đáng giá. Muốn tạo hạnh phúc cho mình cố gắng tạo hạnh phúc cho người, chớ mà kiếp sống mà ra ký sinh trùng thì không nên sống. Các bạn của ta có để ý thi thố điều ấy chăng ? Bằng chẳng vậy thì không nên xưng mình rằng người Đạo bởi vì ngoài phương pháp ấy chẳng còn danh giá của con người giữa chợ đời thống khổ. Mặc dầu cố tình xuyên tạc nói chi thì nói ta chỉ biết mình là Đạo đặng thi thố cho phải Đạo là đủ.

Trước khi dứt lời, Qua ban phép lành cho toàn cả mấy em và cầu nguyện Đại Từ phụ, Đại Từ Mẫu ban ơn riêng mấy em đủ tinh thần nghị lực chịu khổ hạnh đặng cứu nước và nòi giống Việt Nam hầu lưu ơn của Đạo lại cho đời, đặng cho Đạo Cao Đài đáng phận sự Quốc Đạo của mình, điều ấy là điều hằng ngày Qua cầu nguyện và trọn hy sinh thi thố cho thành tựu.

Qua tưởng mấy em và Hồ Bảo Đạo cũng vì lẽ đó mà đương chịu khổ hạnh chia khổ với Qua hằng ngày. Chính Qua hằng cầu nguyện cho mấy em đủ can đảm, đủ năng lực, đủ nhẫn nại, đủ vững tâm cho tới ngày kết liễu, thắng mọi trở lực, danh giá tương lai của chúng ta sở dĩ có cùng chăng là giá trị của sự hy sinh của chúng ta buổi này.

 Mấy em làm thế nào ra câu văn của Đức Lý : ”Đời hằng đổi nước non không đổi ” là mục phiêu chánh đáng của chúng ta phải đeo đuổi cho kỳ được cho đến ngày kết liễu.

GIAI ĐOẠN II  (1960-1975)

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Giáo Chủ Đạo Cao Đài Uỷ nhiệm ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung Đạo Hiệu Nhựt Quang lãnh đạo Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống.

Ông Phạm Duy Nhung sanh năm 1926 tại Quảng Nam trong một gia đình Nho Giáo. Ông đắc khoa mục Luật Sự Hiệp Thiên Đài năm 1949. Khoa này chọn có 2 người ông Phạm Duy Nhung và Hạ Chí Khiêm (Đạo Đức Học Đường) nhưng ông Khiêm bỏ cuộc, ông Nhung được ân điển Đức Hộ Pháp công nhận cho phép phò loan tại Báo Ân Từ .

Anh em Luật Sự có tổ chức Đàn cơ gọi là Vô vi Đàn để học hỏi riêng tại tư gia ông Luật Sự Huỳnh Văn Hưởng và Đức Hộ Pháp cũng có cho phép bên Quân Đội Cao Đài một Đàn cơ gọi là Thanh Trước Đàn đều do ông Nhung phò loan.

Cụ Trần Quang Vinh có Đàn cơ tại Sài Gòn, Quí Ngài Hiến Pháp, Tiếp Pháp, Bảo Thế, Khai Đạo cũng có Đàn cơ tại Hiệp Thiên Đài đều mời ông Nhung dự phò loan.

BAN LÃNH ĐẠO CHÁNH SÁCH HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG Gồm có :
Chủ tịch : Ông Phạm Duy Nhung.
Phó Chủ tịch: Ông Trương Văn Quảng, Đạo hiệu Minh Hiền.

*  *  *
   Năm 1960.

Năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được tuyên bố thành lập do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.
Đến cuối năm, thừa dịp binh sĩ Đồn Trảng Sụp (Đồn của Quân đội Quốc gia lớn nhất ở Tây Ninh) ăn tất niên no say, thiếu sự đề phòng, nên Bộ đội của Bảy Môn tấn công vào đồn gây tổn thất lớn đối với binh sĩ Quốc gia. Trận này làm chấn động dư luận trong và ngoài nước, mở màn cho cuộc chiến Nam Bắc phân tranh huynh đệ tương tàn.

Vai trò của những người được Đức Hộ Pháp giao phó tiếp tục sứ mạng Hoà Bình đã đến lúc hoạt động mạnh mẽ trong nước và ngoài Quốc tế.

*  *  *
   Năm 1961.

Đầu năm 1961 Đức Hộ Pháp giáng dạy anh em về việc làm đúng lúc cuộc chiến tranh Việt Nam bùng nổ.

Trước đó, trong khi chánh phủ Ngô Đình Diệm với chế độ độc tài gia đình trị càng ngày càng xa dân chúng, có phương hại cho tình đoàn kết nhân dân miền Nam, ông Nhung được lịnh của Đức Hộ Pháp dạy gặp cụ Ngô Đình Cẩn, một lãnh chúa miền Trung- phần Việt Nam tức là gặp thân nhơn gia đình họ Ngô lần thứ hai sau lần gặp cố vấn Ngô Đình Nhu.

Ông Cẩn là người rất nguy hiểm, nhưng bất ngờ ngoài sức tưởng tượng, ông Nhung được ông Cẩn ân cần tiếp đãi như một khách quý khi biết ông Nhung là môn đồ của Đức Hộ Pháp. (Đối với Ông Cẩn dầu cho một vị Bộ Trưởng, một chính khách hay trí thức nào ông cũng tiếp một cách tầm thường, có khi ông nằm võng ăn trầu tiếp chuyện). Ông Cẩn trịnh trọng xem chứng thư  của Đức Hộ Pháp ban cho ông Nhung và nói rằng kính trọng Đức Hộ Pháp như bậc Thầy. Ông cho ông Nhung biết biệt hiệu của ông là Phú Sơn do Đức Ngoại Hầu Cường Để ban cho trong số 7 nhà Cách mạng ở Thất Sơn, một biệt danh mà ông chưa tiết lộ với ai kể cả ông Diệm và ông  Nhu.

Ông đã phản đối ông Diệm về vụ đàn áp Giáo Phái và  hứa sẽ tìm cách sữa chữa .
Tưởng cũng cần ghi chú rằng trong hai lần gặp gỡ ông Nhu và ông Cẩn, ông Nhung đã thẳng thắn chỉ trích những sai lầm của chánh phủ và trình bày đường lối cứu dân cứu nước giải quyết chiến cuộc Việt Nam bằng tình thương và phương pháp ôn hoà của Đức Hộ Pháp.

Lạ một điều là gia đình Họ Ngô thẳng tay đàn áp Chính sách Hoà Bình của Đức Hộ Pháp nhưng khi gặp ông Nhung Đại diệnChính sách Hoà Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp thì ông Nhu và ông Cẩn đều tỏ ý kính trọng Đức Hộ Pháp.

CUỘC LỄ RA MẮT TOÀN ĐẠO CỦA ÔNG TRẦN QUANG VINH,
PHỐI SƯ CỐ VẤN HÀNH CHÁNH ĐẠO

   Ngày 8 tháng 9 Tân Sửu (1961)

Trần Quang Vinh là một Chức Sắc cao cấp Cửu Trùng Đài được sự tín nhiệm của toàn Đạo. Cuộc lễ do ông tổ chức được sự ủng hộ nhiệt tình của khối Hoà Bình.

Đức Hộ Pháp có giảng dạy về cách tổ chức mời quan khách, các ngoại giao Đoàn, toàn Đạo và định ngày giờ cho cuộc lễ ngày mùng 8 tháng 9 năm Tân Sửu 1961.

Đức Hộ Pháp cho ông Trần một bản tuyên ngôn để đọc trong cuộc lễ về Hoà Bình. Đức Hộ Pháp dạy riêng cho các vị Sĩ Tải để chỉ giáo tỉ mỉ nhiều câu biểu ngữ trình bày trong buổi lễ. Anh em Hoà Bình làm sẵn biểu ngữ một cách kín đáo không ai bên ngoài biết được.

 Đến ngày lễ lúc 3 giờ sáng anh em đem một bó trúc và các tấm biểu ngữ để sẵn trong rừng thiên nhiên.Đến 6 giờ sáng, các cửa ra vô Nội ô Toà Thánh đều có công an canh gác chặt chẽ không cho ai vào, những người đi trễ phải leo rào phía đường  lộ hàng trúc.

Đến giờ bắt đầu buổi lễ, ông Trần không đọc bản tuyên ngôn và tuyên bố giải tán cuộc lễ.Các Chức Sắc hai bên khán đài ra về theo, chỉ còn lại một số bổn Đạo và anh chị em Hoà Bình. Sĩ Tải Nguyễn Văn Tú đứng lên trước loa phóng thanh ở Đại Đồng Xã kêu gọi Hoà Bình và các biễu ngữ được trưng lên, sắp hàng bốn người đi có thứ tự vòng theo hai bên đường Đại Đồng Xã tuần hành theo lộ Bình Dương đi ngang qua Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường đến Báo Ân Từ (Đền thờ Đức Phật Mẫu) rồi quay ra trước Đền Thánh hô to những khẩu hiệu Hoà Bình theo các biễu ngữ. Buổi lễ được giải tán một cách ôn hoà.

Khi công an đến trình với Tỉnh Trưởng Tây Ninh là Thiếu Tá Nhuận (người Công Giáo) về cuộc lễ, ông Tỉnh Trưởng nói : Người ta hô hào Hoà Bình trong phạm vi Nội ô Toà Thánh không xâm phạm ra ngoài thì thôi.

Sau cuộc lễ không có ai bị bắt, cuộc lễ này cũng như cuộc lễ ngày mùng 9 tháng Giêng Năm Đinh Dậu hồi Đức Thầy còn sanh tiền, tinh thần người Đạo lên cao hưởng ứng Hoà Bình một cách mạnh mẽ.

Đức Thầy có dạy sau cuộc lễ mướn 4 chiếc xe đò đi Sài Gòn, khi đi mặc sắc phục Đạo áo dài trắng, tự túc tiền lộ phí, khởi hành tại Toà Thánh lúc 12 giờ đêm ngày 8 tháng 9 rạng ngày 9 tháng 9 là ngày trùng dương. Xe chở trên 200 người (còn sót lại một số vì không đủ chỗ ngồi), mỗi xe có một người hướng dẫn. Gồm các ông : Đỗ Văn Hẳng, Phan Châu Minh, Lê Văn Được, Nguyễn Ngọc Soan. Khi đó các anh em Sĩ Tải đã xuống Sài Gòn để đón trước vào buổi chiều mùng 8.

Khi đến Sài Gòn, ông Nhung lo chấp bút để Đức Thầy dạy phải tiếp xúc ai, còn các vị Sĩ Tải thức suốt đêm để chờ lịnh Thầy. Đến 1 giờ khuya,Đức Thầy dạy mấy vị Sĩ Tải đưa 4 chiếc xe đò qua xóm Gò Vấp dự tang lễ Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu.

Nói về bản tuyên ngôn của Đức Hộ Pháp cho ông Trần  đọc trong buổi lễ để đánh thức lòng yêu thương của mọi người với lời lẽ đạo đức, ôn hoà không chống đối hay bài bác một ai nhưng rất tiếc là  không đọc được.

Nước cờ dục tấn của Đức Hộ Pháp không ai biết trước được, chỉ tuân lệnh lo làm cho đúng theo lời dạy, chớ không biết trước được kết quả.Khi sự việc qua rồi mới thấy được Đức Ngài hành pháp biểu dương tinh thần của Đạo, và Hoà Bình trước mắt quốc dân và quốc tế, mà không có điều gì sai phạm với quyền Đời, với lý do dự tang lễ Ngài Bảo Pháp.

Ở Sài Gòn bữa đó dân chúng cũng lấy làm ngạc nhiên, với một số đông người mặc sắc phục Đạo (trắng), có cả công an cảnh sát theo dõi, đêm đó trùng hợp với cuộc âm mưu đảo chánh Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, cho nên người ta nghĩ rằng Đạo Cao Đài đến dự đảo chánh. Trong số anh, chị, em đi hôm đó khi trở về mất tin tưởng bỏ cuộc, vì không thấy có kết quả, chỉ đi đám xác vậy thôi.

Việc làm của Đức Thầy bắt gió nắn hình, về hữu hình thì không thấy gì, nhưng phần vô hình pháp phát động Hoà Bình, nếu nhận xét không thấy được phải mất đức tin. Đời chỉ thấy về mặt hữu hình, còn Đạo phải nhìn hai mặt, hữu hình và vi vô huyền bí.

Đường lối Hoà Bình của Đức Thầy trải qua 46 năm (1956-2002) chưa thấy có kết quả, chỉ thấy khổ hạnh triền miên, bị tù tội ngục hình hết lớp này đến lớp khác, có mấy ai tin tưởng ! Chỉ có đặt trọn đức tin nơi Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, với Đức Hộ Pháp là người thừa hành mạng lịnh của hai Đấng Phụ Mẫu vạn linh.

Như vậy cuộc lễ vừa qua là bí pháp phát động Hoà Bình ở giai đoạn hai, sau ngày Đức Hộ Pháp qui Thiên. Sau cuộc lễ, sáu  anh em Sĩ Tải và ông Trương Văn Quảng xuống Tân Vạn (Biên Hoà) tránh sự theo dõi gắt gao của chánh quyền Ngô Đình Diệm để hoạt động đường lối Hoà Bình ra quốc tế và tiện đường lên xuống Sài Gòn tiếp xúc các giới. Đến Tân Vạn anh em được Bác Mười Giáo Hữu Thượng Dự Thanh giúp đỡ và bảo trợ một cách tận tình.

Đức Hộ Pháp cho phép lập bàn thờ Hộ Pháp có chữ KHÍ tại tư gia của bác Mười. Bác Mười có nhắc lại hồi làm công quả ệc ở Toà Thánh Đức Hộ Pháp có nói với bác: sau này tao muốn ở đậu nhà mày có được không ? Bác Mười ngơ ngẩn nghĩ rằng Đức Hộ Pháp ở Hộ Pháp Đường chớ đâu có xuống Biên Hoà làm chi. Đức Hộ Pháp nói tiếp: Có được hay không trả lời cho biết. Bác Mười mới trả lời: Dạ được.
Đêm 18-9 năm Tân Sửu (27-10-1961) lúc 20 giờ Đức Hộ Pháp giáng dạy.
Bần Đạo chào các em.
THI
"Hộ Quốc an bang trổ Đạo mầu,
Pháp luân thường chuyển hoá năm châu
Vui nền xã tắc chi mà đợi
Mừng đến nơi rồi thiên hạ cầu."

Vì cớ mà khiến cả cơ đời đại nghiệp phải đến chịu sự nhiệm lý nơi đây, tức là mảnh đất Phụng Kỳ, mà em là chủ được đủ đầy ân đức đặng đủ năng lực Âm Dương trở nên thiệt tướng. Như vậy là giá trọng của đại nghiệp, được nhờ nơi sự hoá độ của em tức là vị Bồ Tát đầu tiên mà Bần Đạo chấp thuận. Vậy em tịnh thần Bần Đạo ban thêm điển quang và dạy anh em làm lễ tôn ông là Ân Dưỡng Chơn Nhơn.

   Đến ngày 15-10 năm Tân Sửu (1961)

Đức Thầy giảng dạy cho biết : Năm nay là đủ bí pháp thành Đạo đúng trong Tam thập lục Thiên, mà định thành Quốc Đạo. Vậy cho nên kể từ ngày trùng dương (9-9-Tân Sửu) là ngày phát động của các con tính đến rằm Hạ Nguơn tức là cùng tận để bắt đầu Thượng Nguơn khai thế cũng trong bí pháp Tam thập lục ấy.

Bần Đạo dám quả quyết là nội phẩm Sĩ Tải cũng đủ uy quyền đối với Tam thập lục Thiên mà chớ.Lẽ huyền vi ấy thiên hạ đâu được rõ nên vẫn coi thường, Bần Đạo nói thiệt ai phạm vào Thiên Điều ấy ắt hẳn chẳng tránh được điển ngũ lôi mà chớ.Vì cớ đã mang trọng phẩm nơi mình nếu chẳng hiểu e cho tự chiêu kỳ hoạ, huống chi kẻ khác. Nói rõ hơn nữa, phẩm Sĩ Tải là phẩm lưu ký Thiên cơ phát định thiên lý mà giữ lấy Bát Hồn, trước khi đem ra Bát Quái Đài, dầu cho Đại Thiên Phong cũng phải qua Pháp định ấy mà thôi.

Bởi cớ cơ cứu khổ chuyển thành Quốc Đạo cũng dĩ nhiên trong tay của Sĩ Tải chẳng thể qua điều đó đặng. Kể từ ngày chuyển Pháp các em đã thọ Thiên Phong đặng nắm vững Thiên thơ, thì Bần Đạo thấy cả ý chí của các em rất nên xứng đáng lắm vậy.

Cũng trong ngày rằm tháng 10 này, Đức Thầy có dạy một số 12 anh em lập minh thệ tại tư gia Bác Mười.
1 . Phạm Duy Nhung.
2 . Nguyễn Thành Nguyên.
3 . Huỳnh Văn Hưởng.
4 . Nguyễn Văn Tú.
5 . Nguyễn Minh Ngời.
6 . Đỗ Hoàng Giảm.
7 . Trương Văn Quảng.
8 . Nguyễn Kim Vinh.
9 . Phan Châu Ninh.
10 . Nguyễn Văn Minh.
11 . Huỳnh Văn Tuy.
12 . Lê Văn Xã.

Lập nguyện xong, Đức Thầy dạy anh em làm lễ tạ ơn  Giáo Hữu Thượng Dự Thanh. Bác Mười ngồi trước Thiên Bàn, anh em lạy 3 lạy.

Khi anh em qua ở Hậu điện Thánh Thất Tân Vạn, ông Trần Quang Vinh có giới thiệu một người bạn thân là anh Nguyễn Văn Trí một nhà trí thức, cũng là một nhân vật quốc tế quan trọng được Đức Thầy thâu nhận và ban cho đạo hiệu Đức Dõng. Từ đó anh thường lui tới nhà bác Mười gặp gỡ anh em và hầu đàn để Đức Thầy dạy việc. Anh Đức Dõng có giới thiệu vài người đồng chí thân mật, cũng được Đức Thầy nhìn nhận. Nhóm này giúp đỡ rất nhiều việc cho anh em hoạt động trong nước cũng như ra quốc tế.

Sĩ Tải Phạm Duy Nhung được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc giao phó sứ mạng thi hành đường lối cứu khổ và cứu thế trong chương trình Hoà Bình Chung Sống do Đức Ngài đề xướng từ năm 1956.

Với ngòi bút vô tư, ông Nhung đã vạch trần lỗi lầm tai hại của chế độ họ Ngô cùng chánh sách  của Mỹ, nói lên tiếng nói của dân tộc đang rên xiết để xây dựng cho miền Nam được lành mạnh, tạo thế quân bình với miền Bắc, mới mong có Hoà Bình thống nhứt trong công bình và danh dự.

Lý thuyết đấu tranh bạo lực của ngoại quốc đưa đến cuộc tranh hùng Nam Bắc (Việt Nam). Anh em một nước xem nhau như kẻ tử thù. Sĩ Tải Phạm Duy Nhung với một ý chí cương quyết đã cố gắng  đem văn hoá cách mạng đạo đức của dân tộc để lập lại Hoà bình thống nhứt, hàn gắn vết thương đau của đất nước, con đường mà Đức Hộ Pháp đã vạch sẵn không riêng tại Việt Nam mà chung cho toàn nhơn loại.

Thời gian kinh nghiệm với núi xương sông máu, dân tộc Việt Nam đã thức tỉnh. Cả thế giới đã chán ngán và nguyền rủa cái trò chém giết bất tận, bây giờ người ta mới nghĩ ra một giải pháp thương thuyết Hoà Bình.

Ông Nhung cùng các đồng chí đã bao phen vào tù ra khám với sứ mạng thiêng liêng. Những người ưu thời mẫn thế đã  không khiếp sợ trước uy quyền bạo lực và cũng không thối bước ngã lòng vì cảnh ngộ gian nan nguy biến.Cho đến ngày nay sự nghiệp tranh đấu Hoà Bình mà ông thi thố đã trở thành vấn đề cho cả thế giới xôn xao tranh luận.
Thánh giáo Bà Bát Nương có câu :
"Bao nét ngọc cáo tri hiệp chủng,
Mượn thơ đề phá thủng trường thành."

Văn thơ của Sĩ Tải Phạm Duy Nhung trong tập tài liệu sử lược này, chúng ta đọc và có dịp trầm ngâm cân nhắc những nhận xét tinh tế, những lời bình luận xác thực, những sự tiên đoán thời cuộc đều ăn khớp. Mỗi bức thư là sự dẫn đường dẫn lối đúng lúc, với một giai đoạn biến chuyển bị bế tắc không có lối thoát. Các phe liên hệ chiến cuộc Việt Nam vì lẽ này lẽ nọ chưa đem giải pháp này ra công khai bàn luận, nhưng cũng đã làm cho Liên Hiệp Quốc cùng các giới tây phương Mỹ Pháp Anh và chánh phủ hai miền Nam Bắc, các cơ quan ngôn luận phải gia tâm nghiên cứu. Vì đó là giải pháp khả dĩ chấm dứt chiến tranh tái lập hoà bình tại Việt Nam, và xoa dịu được mọi bế tắc trầm trọng trên thế giới.

Sau đây là nguyên văn bức thư thứ nhứt của ông Phạm Duy Nhung gởi cho ba  vị Đại sứ  Anh, Mỹ, Pháp ở Sài Gòn.
*  *  *
   Sài Gòn, ngày 23 tháng 10 năm 1961

            Kính gởi Quý Vị :
   - Đại Sứ Mỹ Quốc,
   - Đại Sứ Pháp Quốc,
   - Đại Sứ Anh Quốc, ở Sài Gòn.

Kính Quý Ông,
Vì cục diện của nước Việt Nam đã đến lúc nguy ngập mà Chánh quyền Ngô Đình Diệm hiện không phương chặn đứng sự lan tràn của chiến tranh.

Nhơn danh là người được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc uỷ thác sứ mạng kêu gọi Hoà Bình và Thương Yêu trong toàn lãnh thổ Việt Nam nói chung và Chánh phủ miền Nam nói riêng, được có một sức mạnh kết hợp của toàn dân, không nghi ngờ chia rẽ, thù nghịch lẫn nhau, chặn đứng các sự giết chóc giữa người Việt lẫn người Việt.
Home                                 1 ]  2 ]   4 ]  5 ]  6 ]  7 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét