9 giờ 30 phút xe bít bùng
đến khám Chí Hoà đưa 3 ông Hoà Bình đến toà. Ba ông Nhung, Nguyên, Ngời xuống
xe với bộ Đạo phục Hiệp Thiên Đài vào toà án.Anh em đồng Đạo đứng lên chào hỏi
trong vẻ mặt nghẹn ngào.Ba ông chào mừng tất cả với vẻ mặt bình thản vui tươi.
Hội Đồng thẩm phán có năm
vị ngồi trên và ba ông Hoà Bình đứng trước vành móng ngựa.
Ông Nhung đáp: Đường lối
Hoà Bình của Đạo Cao Đài có giải pháp hẳn hòi, chớ không nói suông. Hai miền
Nam Bắc Việt Nam vì tiền đồ Tổ Quốc giống nòi xoá bỏ hận thù, thành kiến, ngồi
lại thương thuyết với nhau, đi đến Hoà Bình rồi mới nói chuyện chung sống, khác
hẳn với thuyết sống chung Hoà Bình. Sống chung trước rồi mới Hoà Bình sau là
mâu thuẩn, không thể thành tựu được.
Chánh án : Chiến tranh này
là chiến tranh tự vệ của chánh phủ và quốc dân trong khi cộng sản gây hấn phá
hoại, ông đòi Hoà Bình thế nào chớ. Cộng Sản cứ buông khí giới đi tức nhiên
chiến tranh sẽ ngưng.
Ông Nhung đáp: Chúng tôi
không đòi Hoà Bình suông, mà chúng tôi có đưa ra một giải pháp để bình định
miền Nam trước.
Ông Chánh án: Mặc dầu,
nhưng ông đã lủng đoạn tinh thần chiến sĩ Quốc gia khi họ hăng say bảo vệ đất
nước chốn cộng sản xâm lăng.
Ông Nhung đáp: Chúng tôi
biết, lập chánh quyền dân sự với chánh quyền quân sự hai quyền này không được
chi phối nhau, để chánh phủ được tôn trọng hoàn toàn và điều chỉnh quốc gia.
Các Tướng lãnh các chiến sĩ có bổn phận ở tiền tuyến để làm tròn nhiệm vụ của
mình
Chúng tôi chỉ yêu cầu được
nói lên giải pháp của Đức Hộ Pháp để củng cố nhân tâm, mà khối tín đồ Cao Đài
trên hai triệu người đã là hậu thuẩn cho chánh phủ.
Ông Chánh án: ông bảo miền
Nam phải trung lập, trong khi miền Bắc có chánh thể vững chảy từ 20 năm nay,
đồng thời nghiêng hẳn về phe vô sản, như thế miền Nam sẽ làm mồi cho cộng sản
quốc tế thôn tính ?
Ông Nhung đáp : Chánh Sách
Hoà Bình Chung Sống chủ trương trong hiện tại. Chánh quyền đôi bên giữ nguyên
vẹn nền tự trị của mình để sau đó thành lập Chánh phủ liên bang lâm thời thay
mặt nước Việt Nam trước Liên Hiệp Quốc và điều hoà nền kinh tế tài chánh trong
nước.
Vĩ tuyến 17 chỉ còn một
ranh giới hành chánh, việc lưu thông toàn quốc được tự do, trong khi chánh quyền
hai miền phải thi đua nhân nghĩa, khi dân tộc đã trưởng thành trong tự do dân
chủ và khối dân tộc đã thống nhứt.
Tổng tuyển cử sẽ được tổ
chức để bầu cử Quốc Hội duy nhứt do Liên Hiệp Quốc giám sát, nước Việt Nam sẽ
có thể chế thiệt thọ một chánh phủ duy nhứt trung lập và tự do. Như vậy chúng
tôi chủ trương một nước Việt Nam trung lập khi nào chúng ta được thống nhứt và
độc lập.
Ông Chánh án hỏi tiếp về
cuộc họp báo không giấy phép:
- Ông Nhung đáp : Chúng
tôi có đến Dinh Gia Long yết kiến Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu trước sự hiện diện
của Trung tá bên Tổng nha cảnh sát. Chúng tôi có trình bày đường lối của Đức Hộ
Pháp. được sự chấp thuận trên nguyên tắc của Quốc Trưởng cũng là người đồng Đạo
với chúng tôi. Sau đó tôi có phái ông Sĩ Tải Ngời hiện diện trong phiên toà này
đến gặp ông Trần Văn Tuyên (Phó Thủ Tướng) tại tư dinh để giải thích đường lối
Hoà Bình Chung Sống. Ông Tuyên ngỏ lời mời tôi bàn kế hoạch họp báo. Gặp tôi,
ông bảo để phần ông lo về phía chánh quyền và mời ký giả ngoại quốc, phần tôi
mời báo chí trong nước.Tất cả phiên họp đừng quá 20 người và cứ việc họp báo
vào ngày giờ nào cũng được.Tin cậy thiện ý của ông, chúng tôi tiến hành cuộc
họp báo.
Không ngờ khi phải đối
chấp trước toà dự thẩm ông vắng mặt hai lần và khai rằng ông tin tưởng đường
lối của Đức Hộ Pháp là cao cả nhưng không nhận rằng có sự đồng ý với chúng tôi
trong cuộc họp báo.
Thiếu Uý uỷ viên chánh phủ
nói : Tôi nhìn nhận lòng ái quốc cao cả của Đức Hộ Pháp khi Đức Ngài đưa ra chủ
trương hoà giải Nam Bắc. Nhưng ông kêu gọi ngưng bắn toàn diện trong khi âm mưu
đen tối của cộng sản làm cho quốc gia không thể tin được, thì lời kêu gọi đó
ngược lại giúp cho cộng sản vừa đánh phá miền Nam vừa tuyên truyền sách động
quần chúng ?
- Ông Nhung đáp : Chúng
tôi lấy chánh quyền miền Nam làm căn bản pháp lý thì trước khi tiến tới ngưng
bắn toàn diện, miền Nam phải được bình định, chánh phủ phải vững mạnh, đủ nhân
đạo đủ tinh thần cách mạng phục vụ dân và thu phục lòng dân.
- Ông Thiếu Uý uỷ viên
chánh phủ nói : Trong lúc chánh phủ còn đương đầu với bọn du kích, phá hoại
cộng sản còn bận rộn về các cuộc biểu tình chống đối bị can họp báo bất hợp
pháp để nêu ra lý thuyết Chung Sống Hoà Bình Trung Lập gây hoang mang cho dư
luận đại chúng đồng thời làm rối thêm cho chánh phủ.
- Ông Nhung đáp : Kính
thưa ông Uỷ viên chánh phủ, chúng tôi kêu lên tiếng than về sự rời rạc trong
nội bộ miền Nam, làm rạn nứt khối Quốc gia và suy yếu chánh phủ. Do đó chúng
tôi kêu gọi tình thương chơn thật và thống nhứt toàn thể giúp chánh phủ giải
quyết mọi bế tắc.Trong tuyên cáo của chúng tôi, chúng tôi không chấp nhận mọi
cuộc biểu tình gây rối cho chánh phủ
- Ông Uỷ viên chánh phủ
nói: Trong bức thư gởi ngoại quốc ông đề cao vai trò lãnh đạo kháng chiến Hồ
Chí Minh với một chánh quyền vững mạnh đồng thời cộng sản Bắc Việt lủng đoạn cả
giới công nông miền Nam, có đúng vậy không ?
- Ông Nhung đáp: Tôi muốn
so sánh hai chánh thể Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh. Dầu cộng sản mỵ dân và bưng
bít thế mấy đi nữa, họ nắm nhân tâm, nhờ vậy chánh quyền họ mạnh. Hơn nữa, với
công kháng chiến chống Pháp giành độc lập, ông Hồ Chí Minh hẳn có uy thế đối
cùng với công nông miền Nam. Trong lúc chánh phủ Ngô Đình Diệm có những hành
động thất nhơn tâm, gây chia rẽ Đảng phái, Tôn Giáo, đàn áp đối lập, bóc lột
dân chúng trắng trợn là nhận xét xác đáng không phiến diện.
Đó là một nhận xét khách
quan để tìm lối thoát cho chánh phủ miền Nam, khi kiểm điểm được ưu và nhược
thế, tôi không có ý đề cao ông Hồ Chí Minh.
- Ông Uỷ viên chánh phủ
đáp: Ông kêu gọi thương yêu và thống nhứt để giải quyết vấn đề Việt Nam. Liệu
cộng sản ông lấy tình thương lay chuyển họ được không ?
- Ông Nhung đáp: Không
phải những người theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đều là cộng sản. Cũng không
phải toàn dân Bắc Việt là cộng sản, chúng tôi kêu gọi sự thống nhứt toàn thể trong
tình thương thật sự để cứu quốc và kiến quốc.
Những mưu đồ khác ngoài ý
muốn và chủ trương của Đức Hộ Pháp lưu lại sẽ không tồn tại
Cuộc thẩm vấn ông Nhung
đến đây kết thúc.
Ông Chánh án gọi lần lượt
2 ông Sĩ Tải Nguyễn Thanh Nguyên và Nguyễn Minh Ngời, đại để ông chánh án thẩm
hỏi chức vụ của 2 ông và ý kiến về bản Tuyên cáo của ông Nhung.
Cả hai trả lời: Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với
ông Nhung về bản Tuyên cáo.
- Ông Chánh án hỏi: Các
ông hoạt động chánh trị từ hồi nào ?
- Đáp: Thưa ông Chánh án,
chúng tôi hoạt động từ năm 1956 là năm Đức Hộ Pháp xuất ngoại lên Nam Vang đề
xướng Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống trong một Cương Lĩnh ngày 26-3-1956 gởi
chung với nhiều thơ cho chánh phủ hai miền NAM BẮC và LIÊN HIỆP QUỐC, các cường
quốc Tây Phương. Chúng tôi nghĩ rằng việc làm của Đức Hộ Pháp công khai minh
bạch từ trong và ngoài nước nên không ngần ngại phổ biến đường lối cứu thế ấy.
- Ông Chánh án hỏi: Công
việc phổ biến ấy đi đến đâu ? Có được sâu rộng không ?
- Đáp: Chúng tôi phổ biến
Đường lối trong Đạo lẫn ngoài Đời, nhứt là trong Đạo chúng tôi. Chúng tôi hy
vọng nó sẽ lan tràn sâu rộng cả Quốc dân thì càng hay.
Cụ Luật sư Trịnh Đình Thảo
biện hộ cho 3 bị can nêu lên trên pháp lý hành động của ba ông gọi "phá rối trị an ".
"Một hành động phạm pháp là khi nào nó được thi
hành. Đàng này các ông Sĩ Tải vừa mở cuộc họp báo thì bị cảnh sát đến ngăn, như
vậy hành động chưa thành hình, thế nào làm tội người ta được. Tuy nhiên ba ông
đã bị giam cầm 1 năm rồi. Bây giờ lại lên án nữa sao ?
Gần đây, người ta biểu tình hành hung cảnh sát, đả
thương cả người Mỹ, gây thiệt hại vật chất, mà có ai bị lôi ra toà không ?
Người ta hoan hô cả Hồ Chí Minh nữa kia !
Nói phá rối trị an thì các ông Nguyễn An Ninh, Tạ Thu
Thâu, Trần Văn Thạch đã bị nhà cầm quyền Pháp lên án rồi. Nhưng khi họ qua đời
thì tên họ được đặt cho mấy con đường ở Sài Gòn. Biết đâu các ông này (chỉ 3 bị
can) sẽ là ân nhân của Quốc dân ?
Về đường lối Hoà Bình Chung Sống, tôi xin đọc bức thơ
Xuân của Đức Hộ Pháp gởi cho Quốc dân năm 1955.
Cụ Luật sư nhắc lại lời Gallile khi biết mình chịu oan
ức trước Toà Công Giáo ngửa mặt lên trời than: nhưng trái đất vẫn quay kia mà !
” và kết luận xin toà tha bổng các thân chủ của ông
Sau khi năm ông chánh án
và phụ thẩm vào phòng kín nghị án 15 phút, trở ra đứng lên bàn móng ngựa giữa
toà có lính quân cảnh cầm súng giàn chào.
Toà tuyên án.
- Sĩ Tải Phạm Duy Nhung 8
tháng tù treo.
- Sĩ Tải Nguyễn Thanh
Nguyên 6 tháng tù treo.
- Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời
6 tháng tù treo.
Phiên toà bế mạc đúng 12
giờ trưa.
Sau phiên toà anh chị em
đến nhà Luật sư Trịnh Đình Thảo để ủng
hộ chi phí biện hộ. Cụ Trịnh Đình Thảo nói : Anh em vâng lịnh Đức Hộ Pháp làm
Hoà Bình bị tù tội nhiều lần, còn tôi làm cố vấn pháp luật cũng do Đức Hộ Pháp
giao phó, đó là bổn phận, anh em đừng ngần ngại, có việc gì cứ đến cho tôi hay.
* * *
THẦN MỘNG ỨNG THI
Hồi 2 giờ sáng
ngày 14/02/Tân Mão (9-01-52)
Cho Luật Sự Phạm
Duy Nhung.
Cảnh khuya tiếng nhạn khóc sương rơi
Thấu đến Huyền Khung vội dẫn lời
Đạo Đức chiến bào tâm định thế
Kinh luân tịnh thuỷ trí an đời
Vinh hư lý nhiệm quang khai rạng
Huyền ẩn pháp linh huệ chiếu ngời
Khuyến trẻ dập tàn cơn lửa khổ
Vãng lai Bồng Đảo có đâu nơi.
* * *
PHIÊN TOÀ QUÂN SỰ NHA TRANG
XỬ ÁN HOÀ BÌNH
(20-4-1966)
TOÀ ÁN QUÂN SỰ
(Điều 47 Bộ Quân Luật)
Chúng tôi Thiếu tá Trần Văn Thục, Dự Thẩm Quân
Sự Toà án Quân Sự Nha Trang.
Chiếu thủ tục thẩm cứu các bị can:
1 . Trần Quang Hiển, sinh năm 1901 tại Điện
Sơn, Hoà Vang, Quảng Nam, con của Trần Đạm và Nguyễn Thị Nhự, hiện bị giam tại
Quân lao Nha Trang số đính bài 18.347/CTP.
2 . Võ Trọng Hồng, sinh năm 1930 tại Phan Rang,
Thanh Hải, Ninh Thuận con của Võ Trọng Thể và Nguyễn Thị Phương, hiện bị giam
tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.348/CTP.
3 . Hứa Huyển, sinh năm
1906 tại An Phước, Hoà Vang, Quảng Nam con của Hứa Chi và Nguyễn Thị Da, hiện
bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 349/TCP.
4 . Phạm Lực, sinh năm
1917 tại Phú Mỹ, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi, con của Phạm Sức và Trương Thị Hoà, hiện
bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.350/CTP.
5 . Nguyễn Diên, sinh năm
1900 tại Văn Giang, Phú Vang, Thừa Thiên, con của Nguyễn Liên và Nguyễn Thị
Giá, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.351/CTP.
6 . Đỗ Xuân Cư, sinh năm
1925 tại Đà Lạt, con của Đỗ Xuân Xên và Võ Thị Thâm, hiện bị giam tại Quân lao
Nha Trang, số đính bài 18.352/CTP.
7 . Lê Thành Dương, sinh
năm 1917 tại Cát Hiệp, Phù Cát, Bình Định, con của Lê Huấn và Trần Thị Sửu,
hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.353/CTP.
8 . Nguyễn Hữu Phước, sinh
năm 1918 tại Vọng Thạnh, Vĩnh Xương Khánh Hoà, con của Nguyễn Phao và Dương Thị
Thứ, hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.354/CTP.
9 . Nguyễn Thuận, sinh năm
1913 tại An Trạch, Hoà Vang, Quảng Nam con của Nguyễn Nhan(c) và Nguyễn Thị Nha
(c), hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.355/CTP.
10 . Lê Hữu Đức, sinh năm 1932 tại Cát Hiệp, Phù Cát,
Bình Định con của Lê Huấn và Trần Thị Sửu hiện bị giam tại Quân lao Nha Trang,
số đính bài 18.356/CTP.
11 . Trần Phan, sinh năm 1915 tại Cát Hiệp, Phù Cát,
Bình Định, con của Trần Hoan (c ) và Lê Thị Chút (c ), hiện bị giam tại Quân
lao Nha Trang, số đính bài 18.357/CTP.
12 . Hứa Tỵ, sinh năm 1908 tại Bồ Bảng, Hoà Vang,
Quảng Nam con của Hứa Chi và Nguyễn Thị Da, hiện bị giam tại Quân lao Nha
Trang, số đính bài 18.358/CTP.
13 . Lê Sỹ, sinh năm 1909
tại Tham Hội, Bình Sơn, Quảng Ngãi con của Lê Trang và Trịnh Thị Phương, hiện
bị giam tại Quân lao Nha Trang, số đính bài 18.359/CTP.
Phiên toà này cũng do luật
sư Trịnh Đình Thảo biện hộ Toà tuyên bố trắng án và trả tự do cho anh chị em
hoà bình.
Sau hai lần biện hộ cho
Hoà Bình ở toà án quân sự Bạch Đằng và toà án quân sự ở Nha Trang, một người
bạn trí thức đến hỏi luật sư Trịnh Đình Thảo.
- Anh có biết mấy người
Đạo Cao Đài Hoà Bình đó không
- Cụ Thảo đáp: Biết rõ chứ,
tôi có bị giam chung với họ mà. Lại nữa, các văn kiện Hoà Bình từ Đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc đến mấy ông sau này đều có nghiên cứu.
- Đạo Cao Đài không nhìn
nhận mấy người Hoà Bình được anh biện hộ (ý nói 6 Sĩ Tải bị Hội Thánh Toà Thánh
Tây Ninh trục xuất ra khỏi Đạo).
- Cụ Thảo đáp: Tôi không
phải là người Đạo Cao Đài nên không cần biết chi về việc của họ. Tôi chỉ biết
họ tranh đấu không có lợi lộc, không có quyền thế, không dựa vào ai, chỉ tranh
đấu cho lẽ phải và công lý với tinh thần trung lập thật sự. Tôi đồng ý với họ,
chớ còn nói tranh đấu cho đất nước, cho dân tộc mà chạy theo ngoại quốc, là bán
nước, là phản bội dân tộc.
Hồi trước tôi cũng binh
vực cho hai ông Nguyễn An Ninh và Tạ Thu Thâu. Có lần hai ông tuyệt thực đến
ngày thứ 9 tại khám lớn Sài Gòn, tôi đến gặp Thống Đốc Nam Kỳ Pages và qui
trách nhiệm cho ông này về sanh mạng của ông Ninh và ông Thâu.
* * *
Thời Tý ngày 17-6-Bính Ngọ
tại khám Chí Hoà, ông Nhung xuất Thần chấp bút bài Hội Kiến Huyền Thiên, thập
thủ liên huờn (10 bài thơ bát cú), 10 bài song thất lục bát của Đức Hộ Pháp.
* * *
LỄ QUỐC KHÁNH (1-11-1966)
(19-9-Bính Ngọ)
Ba ông Nhung, Nguyên, Ngời
được trả tự do, mặc sắc phục Đạo ra về làm cho tất cả anh em tù rất ngạc nhiên
và kính nể. Các ông giám thị ở đây cũng
tỏ vẻ cảm mến.
Ra tù lần này là lần thứ
ba, 19 tháng 16 ngày, anh chị em ban bộ tổ chức bữa tiệc mừng rất long trọng.
Ngày 15-10-Bính Ngọ, anh
chị em tổ chức cúng vía và kỷ niệm Đệ ngũ chu niên ngày lập nguyện tại Phụng Kỳ
1961, phát động phong trào Hoà Bình giai đoạn thứ nhì, hoạt động ra Quốc tế.
Đến ngày 30-11-1966 báo
Thần Chung có bài xã luận ở trang nhứt, trích lục nguyên văn như dưới đây:
GIẢI TOẢ HOÀ BÌNH
Thần Chung đã nhắc tới
những bản án Hoà Bình cần phải xét lại, nhưng chúng tôi cho rằng chánh quyền đã
nghĩ đến chuyện đi trước chúng tôi nên
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung mới ra kịp ngày Quốc Khánh sau khi đã trải qua bao nhiêu
thủ tục giấy tờ.
Thần Chung chỉ làm nhiệm vụ của một tờ báo đi theo hướng tiến của dư luận của đồng bào của lịch sử.
Trong khi dư luận trong
nước và thế giới đều cổ võ cho Hoà Bình và đều tha thiết mong mỏi và vận động
cho Hoà Bình sớm trở lại ở Việt Nam. Thần Chung thấy có bổn phận phải nhắc nhở
tới những người đã mang lại vì hai chữ Hoà Bình, những tội phạm “Hoà Bình” mà
trước đây người ta cho rằng cũng nguy hiểm như tội phạm chiến tranh.
Sĩ Tải đã bị câu lưu, đã
xét xử dã man án từ lâu nhưng chưa được về nhà là vì còn phải ở thêm theo biện
pháp hành chánh chiếu theo vụ số 6 của Ngô Tổng Thống hiện còn hiệu lực, do đó
mà nhiều người đã bị câu lưu mà không được Toà án xét xử.
Ký giả Nam Đình
Trong hai cuộc họp báo ở
Sài Gòn, thời đó có mấy chục tờ báo, nhựt báo và tuần báo đều có bài tường
thuật tỏ vẻ hài lòng về cuộc vận động Hoà Bình của ông Nhung với nhóm người Đạo
Cao Đài đúng lúc cuộc chiến tranh leo thang. Ký giả Nam Đình chủ nhiệm báo Thần
Chung viết nhiều loạt bài ca ngợi. Luật sư Nguyễn Long sáng chế ra danh từ “Hoà
phạm” mà từ trước tới giờ chỉ có danh từ chiến phạm mà thôi. Nhà văn Thiếu Sơn
viết bài bênh vực trong báo Liên Á báo Đất Tổ, báo Dân Chủ Mới, báo Đuốc Nhà
Nam, báo Chính Luận, báo Sống v.v…
Báo Hoà Bình của Linh Mục
Trần Du đăng liên tiếp tài liệu Hoà Bình của Đức Hộ Pháp và của Sĩ Tải Phạm Duy
Nhung.
NHÓM HỌP HOÀ BÌNH
Ngày 20-10-Bính
Ngọ (31-11-1966)
Ban Châu Thành Thánh Địa
Nam phái họp tại nhà ông Lễ sanh Ngọc An Thanh là Trưởng ban bị ông Chánh sự
Lời (Tám Lời) đến Hương Đạo sở tại thuộc phạm vi gần văn phòng Khâm Thành Thánh
Địa báo cáo Công an Tây Ninh đến bắt 15 người.
Việc báo cáo Hoà Bình là
lịnh của các anh lớn xuống Bàn Trị Sự địa phương, nhưng cũng có nhiều Bàn Trị
Sự địa phương không có báo cáo vì cho rằng làm Hoà Bình của Đức Hộ Pháp thì đâu
có gì mà báo cáo.
*
* *
BUỔI LỄ TIẾP TÂN
TẠI THÁNH THẤT PHỤNG KỲ
(Tân Vạn Biên Hoà)
Khai mạc buổi tiệc vào lúc
10 giờ ngày Chúa nhật 23-10-Bính Ngọ (4-12-1966).
Hiện diện có ông bà Luật
sư Trịnh Đình Thảo, bà Bác sĩ Phạm Văn Huyến, bà Luật sư Long, bà Ký giả Chiếm,
ông bà Kỹ sư Cang, ông bà kỹ nghệ gia Cảnh, ông Thanh Nghị, ông Thiếu Sơn, ông
Minh Tải, ông Đặng Văn Ký v.v…
Thành phần bên Đạo có quí
Ngài Đạo Nhơn Phú, Giáo Hữu Dự, Truyền Trạng Nhơn, Sĩ Tải Nhung, Sĩ Tải Nguyên,
Sĩ Tải Hưởng, Sĩ Tải Ngời, Sĩ Tải Tú, Sĩ Tải Giảm, ông Quản, ông Ninh, ông Tâm
Thành … Cùng quí bà Chí Thiện Ngưu, bà Nhung, bà Quản, bà Nguyên, bà Hưởng, bà
Ngời, bà Phụng, bà Mùa trong ban miền Nam và Châu Thành Thánh Địa, bà Đỗ Thị
Tư, cô Trần Thị Cất trong ban nấu chay và tiếp khách, anh chị em Ban Trị Sự
cùng ban bộ sở tại.
Cuộc tiếp đãi nồng hậu và vui vẻ.Món ăn chay nấu lạ miệng làm cho quí quan khách thưởng thức không ngớt lời khen tặng.
Cuộc đàm đạo trong bữa tiệc cũng rất thân mật với nhiều hứa hẹn ngày tái ngộ.
Hai giới Hoà Bình cùng chung một lý tưởng phụng sự cho đất nước giống nòi, sớm
chấm dứt chiến tranh, hướng đến Hoà Bình thống nhứt Tổ quốc.
Sau bữa tiệc ông Nhung
đứng lên tỏ lòng tri ân ông bà Luật sư Trịnh Đình Thảo đã dày công giúp đỡ anh
em Hoà Bình trong các phiên toà quân sự Sài Gòn và Nha Trang với lời lẽ biện hộ
đanh thép làm cho anh em Hoà Bình vô cùng cảm động.Ân cao trọng ấy anh em Hoà
Bình càng ghi sâu mãi mãi. Chúng tôi cầu chúc Quí Ngài và Quí bạn được an khang
quí thể, hầu phụng sự Tổ quốc giống nòi đến ngày thành đạt.
Cụ Thảo đứng lên thay mặt
Quí ông bà để lời cám ơn chung toàn thể với bữa tiệc rất long trọng ngoài sự
tưởng nghĩ của cụ. Cụ đã để lời chúc lành cho anh chị em và hẹn ngày tái ngộ.
Trước khi ra về ông Minh
Tải thay mặt một số trí thức đô thành có bài thi nhắn các bạn Hoà Bình.
Đôi lời nhắn nhủ bạn Hoà Bình
Đoàn kết đến ngày dứt chiến tranh
Ly gián chúng gây mầm ác cảm
Đồng tâm ta giữ mối thâm tình
Bắc Nam già trẻ đều cương quyết
Âu Á xa gần thấy chứng minh
Dân tộc Việt Nam đầy dũng khí
Năm châu nhìn nhận chủ quyền mình.
Đặng Văn Ký
(Minh Tải )
Ngày 5-11-Bính Ngọ (15-1-1967)
Năm 1967
CUỘC VẬN ĐỘNG HOÀ BÌNH CUỐI CÙNG
CỦA SĨ TÃI PHẠM DUY NHUNG
Sau lần họp báo tại Lữ quán Majestic ngày
17-3-1965, ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung bị bắt giữ tại Tổng Nha Cảnh Sát quốc gia
và câu lưu tại Khám Chí Hoà cho đến ngày 2-11-1966 được trả tự do. Lần này ông bị
tù 19 tháng 16 ngày và cũng là lần chót
trong cuộc đời đấu tranh chánh trị ôn hoà của ông theo chân Đức Hộ Pháp.
Ông Nhung định tìm nơi yên
tỉnh dưỡng bệnh nhưng sứ mạng Thiêng Liêng thúc giục ông phải ứng phó đúng nhu
cầu của thời cuộc nên không thể tạm nghỉ được. Từ cuối năm 1966 qua đầu năm
1967 các cuộc vận động Hoà Bình cho Việt Nam được lan tràn khắp nơi.
Phần nhiều những điểm đề
nghị Hoà Bình thiếu công bằng, thiếu vô tư, thiên bên này hoặc bên kia không áp
dụng được. Trong khi mặc dầu đang dưỡng bệnh nhưng ông cũng cố gắng viết thơ
cho hai chánh phủ hai miền Nam Bắc Việt Nam.
- Gởi cho ông Tổng Thơ Ký
Liên Hiệp Quốc
- Gởi cho ông Đại Sứ, Chủ
Tịch Uỷ Hội Quốc Tế kiểm Soát đình chiến (Sài Gòn)
- Gởi cho Tổng Thống Mỹ
quốc Lyndon Johnson
- Gởi cho ông Tổng Lãnh sự Ấn Độ (Sài Gòn)
Mỗi bức thư đều có kèm 5
điểm đề nghị tiên khởi hoà đàm nguyên văn như sau :
1 . Thiết lập một phái
đoàn Tôn giáo cùng nhân sĩ trí thức đến công nông ở miền Nam để chánh phủ miền
Nam (Sài Gòn) gặp Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ở một Quốc Gia Trung lập như Cam
Bốt, Lào, Miến Điện chẳng hạn và gặp Chánh phủ miền Bắc tại Hà Nội hầu tìm
phương hoà hợp ý thức và quan điểm để đi đến hoà đàm.
Phái đoàn này phải có tinh
thần Trung lập trong vấn đề và Trưởng phái đoàn phải là người Tôn giáo đã có
thành tích vô tư và Hoà Bình.
2 . Sau khi phái đoàn
tuyên bố đã có hoà đồng quan điểm, lực lượng ngoại quốc lập tức ngưng oanh kích
Bắc Việt vô điều kiện.
3 . Do sự điều đình của phái đoàn Hoà Giải thành phần
và địa điểm hoà hội sẽ được ấn định cùng lúc phái đoàn tuyên bố hoà đồng quan
điểm.
4 . Ngưng các cuộc chiến kể cả các sự di chuyển quân
sự trong toàn quốc khi bắt đầu mở cửa hoà đàm.
5 . Một hội nghị sơ bộ của hoà đàm định hình thức
đóng quân của ngoại quốc và của Giải phóng Miền nam trong lúc diễn tiến hoà hội
và thảo chương trình cho Hội nghị Hoà Bình chánh thức.
Giải pháp Hoà Bình của Đức
Hộ Pháp, một giải pháp có đầy đủ bác ái công bình trung lập, không theo bên nào
cũng không bỏ bên nào, hợp tình hợp lý. Một đường lối dân tộc thuần tuý, thích
ứng duy nhứt để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam, còn 5 điểm đề nghị tiến
khởi hoà đàm của ông Nhung rất thiết thực với hoàn cảnh nội tình của cuộc chiến
Việt Nam đã gởi đến ông Tổng Thơ Ký Liên
Hiệp Quốc, nhưng ông không công bố 5 điểm đề nghị này. Ông đưa ra 3 điểm đề
nghị của ông rất thiên lệch.
Trên đây là cuộc vận động
của ông Nhung ra quốc tế. Còn trong nước, ông Nhung giao cho ông Hưởng và Giảm
đi đến mỗi chi phái Cao Đài và các Tôn giáo bạn trình bày việc hoạt động Hoà
Bình từ trước đến nay và phân phát các tài liệu.
Đầu tiên đến Bến Tre vì
ông Giáo Sư Ngưu và Tài là hai vị Chức Sắc của ban Chỉnh Đạo đã gia nhập Hoà
Bình Chung Sống,đến Thánh Tịnh của phái Tiên Thiên gặp ông Thượng Đầu Sư trao
đổi ý kiến trong 1 ngày.Ông Đầu Sư cho biết là ông rất có cảm tình với ông
Thượng Sáng Thanh ở Toà Thánh Tây Ninh, hai ông này cùng bị đày ở Côn Đảo vì
Đạo hồi thời Pháp thuộc.
Hai ông đến Thánh Thất
Minh Tân Khánh Hội phái Cao Đài thống nhứt tiếp xúc cụ Phan Khắc Sửu (đã tiếp
xúc với cụ nhiều lần về Hoà Bình )và đến văn phòng phái Cao Đài Truyền giáo ở
đường Cống Quỳnh.Cuộc tiếp xúc cũng rất thân mật vì Giáo sư Trần văn Quế cũng
có ở Toà Thánh một thời gian, còn ông Đỗ vạn Lý thường xuyên lên xuống Toà
Thánh Tây Ninh.
Đến Nam thành Thánh thất
gặp ông Huệ Chơn, ông này hạch vấn đủ điều nhưng ông cũng thành thật nhìn nhận
rằng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là tuyệt đối vì Ngài làm được nhiều việc lớn lao
cho Đạo về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Đến Việt Nam Quốc Tự gặp
Thượng Toạ Thích Tâm Châu Viện Trưởng Viện Hoá Đạo tiếp chuyện thân mật về Đạo
sự, thời sự. Khi mời dùng trà Thượng Toạ Thích Tâm Châu hỏi ông Giảm và ông
Hưởng được bao nhiêu tuổi, hai ông đều đáp 46 tuổi. Thượng Toạ nói như vậy ba
người mình đây chỉ có một tuổi, sanh năm Nhâm Tuất (1922).
Đến Chùa Ấn Quang được
Thượng Toạ Thích Huyền Quang Tổng Thơ Ký Viện Hoá Đạo Ấn Quang tiếp chuyện cho
biết là Thượng Toạ Thích Trí Quang đang tịnh khẩu không tiếp khách. Ở đây hai
ông biết được nhiều về tình hình Phật giáo đối với chánh quyền miền Nam.
Hai ông Hưởng và Giảm đến
Toà Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình nhưng ông này đi vắng, có Đức Giám Mục phụ tá
tiếp. Sau đó hai ông đến Hội Khổng Học Việt Nam ở Đa Kao.
Sáng hôm sau hai ông đến
văn phòng Đại Diện Phật Giáo Hoà Hảo (Sài Gòn) gặp ông Lương Trọng Tường. Buổi
chiều qua chùa Tam Tông Miếu kết thúc chuyến đi. Khi đến nơi nào cũng có trao
đầy đủ tài liệu về Hoà Bình của Đức Hộ Pháp.
Một chuyến đi hào hứng tuy
gặp phải những câu hạch vấn với nhiều điểm thắc mắc nhưng nhờ sự giải đáp tường
tận, mọi sự việc được thoả đáng làm hài lòng nhiều người. Việc làm của Đức Hộ
Pháp được sáng tỏ thích ứng với thời đại, dầu cho người Đạo hay người đời,
không ai phủ nhận được.
Sau đây là nguyên văn các
bức thơ cuối cùng tranh thủ Hoà Bình cho Việt Nam của Sĩ Tải Phạm Duy Nhung
Kính gởi Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc
NewYork
(Do sự chuyển đạt của Ông
Chủ Tịch Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến ở Sài Gòn)
Kính Ông Tổng Thơ Ký,
Qua các cuộc vận động nhằm
đem lại Hoà Bình cho Việt Nam kể cả ba điều kiện của Ông Tổng Thơ Ký,cuộc chiến
tranh ở Việt Nam vẫn bị leo thang, tuy không ồ ạt như trước.Nhưng, nếu cuộc
chiến vẫn không ngã ngũ thì sẽ vì quyết định chiến thắng của cả đôi bên mà rồi
đây nhứt định không tránh được sự leo thang khốc liệt.
Trước hiểm hoạ đại chiến
thế giới thứ ba mà vũ khí hạt nhân đang sẵn sàng tiêu diệt nhân loại, nước Việt
Nam chúng tôi đang chịu thảm khổ về nhân mạng cũng như tài sản để làm mồi một
cuộc chiến tranh có thể nói là không kẻ thắng và không biết đang và sẽ có lợi
cho ai trong khi những sự cố gắng bám víu vào ảnh hưởng hoặc về chủ nghĩa, hoặc
về quyền lợi đã là sự kiện khó khăn cho các cuộc vận động Hoà Đàm về Việt Nam
Xét lại vấn đề, chúng ta
phải nhận định rõ ràng về ảnh hưởng và chiều hướng của cuộc chiến tranh huynh
đệ hiện nay thì mảnh đất miền Nam Việt Nam là chủ đích cho cuộc hơn thua và
chánh quyền miền Nam là định hướng sanh tử vậy.
Do đó, các điều kiện tiên
quyết dẫn đến hoà đàm do các nứơc đưa ra đã vấp phải trở lực là sự thiên vị và
không tương phù yêu cầu, làm cho bên này hoặc bên kia không chấp nhận.
Vì vậy, những cuộc vận
động đã trở thành vô nghĩa và sẽ trở thành vô nghĩa nếu người ta không thay đổi
được chân thể của nó. Nói rõ hơn, nếu lý thuyết còn được đặt nặng trên vấn đề
và sự hữu hiệu của chủ nghĩa vốn là trọng tâm thì người ta không thể đi đến đâu
cả.
Những cuộc vận động cho
Việt Nam từ ngoài đến vốn dĩ nhiều cố gắng, song không đạt được kết quả, vì
không đáp ứng khía cạnh.Chánh phủ miền Bắc Việt Nam không khi nào chịu bỏ rơi
các cố gắng đã có, và Chánh phủ miền Nam hiện tại cũng không thể bị xoá đi để
nhường cho một chánh phủ khác cho rằng đã do Chánh phủ miền Bắc un đúc. Dĩ
nhiên, khía cạnh tranh chấp là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Trở lại quá khứ, chúng tôi
đã từng vận động cho Hoà Bình Việt Nam với các thơ gởi cho quý vị Đại Sứ cùng
Nguyên thủ Pháp, Anh, Mỹ từ năm 1961, tôi đã gởi tất cả đến cho Oâng Tổng Thơ
Ký các văn thơ tương tự số: 004/ĐDHP-QN/TM ngày 15 tháng 11 năm 1962,
10/TUNHP-QN/TM ngày 19 tháng 4 năm 1965, 20/ĐCT ngày 30 tháng 8 năm 1966 tiếp
theo Cương lĩnh Hoà Bình Chung Sống của
ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC đã gởi đến hai chánh phủ Nam và Bắc Việt Nam cùng
Liên Hiệp Quốc 26-5-1956. Trong các thơ đó chúng tôi đã tiên liệu cho sự kiện
chiến tranh sa lầy ngày nay.
Nếu người ta đã nghe chúng
tôi thì ngày nay nhân dân và tài sản của dân tộc chúng tôi không bị tàn sát,
huỷ diệt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã không là khía cạnh nan giải.
Ngày giờ đây không còn là
lúc chần chờ để ngoại quốc điều giải nội bộ cho Việt Nam vì vấn đề Việt Nam thuộc
địa hạt tâm lý dân tộc mà sự việc qua đã làm chứng cho điều đó.
Chúng tôi nói thẳng là chỉ
có dân tộc Việt Nam mới dàn xếp nổi cho cuộc hoà đàm về Việt Nam mà thôi.
Vậy cho nên chúng tôi xin
ông Tổng Thơ Ký chấp nhận và ủng hộ giải pháp sau đây đặng điều giải đôi bên mở
cửa hoà đàm :
1 . Thiết lập một phái đoàn Tôn Giáo cùng Nhân sự từ
trí thức đến Công, Nông ở miền Nam để gặp gỡ chánh phủ miền Nam tại Sài Gòn,
gặp Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ở một quốc gia Trung lập như Cam Bốt, Lào hoặc
Miến Điện chẳng hạn và gặp chánh phủ miền Bắc tại Hà Nội hầu tìm phương hoà hợp
ý thức và quan điểm để đi đến hoà đàm.
Phái đoàn này phải có tinh
thần trung lập trong vấn đề và Trưởng phái đoàn phải là người Tôn giáo đã có
thành tích vô tư và Hoà Bình.
2 . Sau khi phái đoàn tuyên bố đã có hoà đồng quan
điểm, lực lượng ngoại quốc lập tức ngưng oanh kích Bắc Việt vô điều kiện.
3 . Do sự điều đình của Phái đoàn Hoà giải, thành
phần và địa điểm hoà hội sẽ được ấn định cùng lúc Phái đoàn tuyên bố hoà đồng
quan điểm.
4 . Ngưng các cuộc chiến kể cả các sự di chuyển quân
sự trong toàn quốc khi bắt đầu mở cửa hoà đàm.
5 . Một Nghị hội sơ bộ của hoà đàm định hình thức
đóng quân của ngoại quốc và của Giải Phóng Miền Nam trong lúc diễn tiến hoà hội
và thảo chương trình cho Hội Nghị Hoà Bình chánh thức.
Chúng tôi nghĩ rằng hãy
còn sớm để đưa ra theo đây một giải pháp để tiến tới độc lập thống nhất dân tộc
và xứ sở của chúng tôi. Tuy nhiên, giải pháp này cũng không ngoài CƯƠNG LĨNH
CHÁNH SÁCH HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG của ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC đã gởi đến Liên
Hiệp Quốc ngày 26-3-1956 và trong Bản Tuyên Cáo của chúng tôi đã trao cho Báo
chí trong và ngoài nước ngày 17 tháng 3 năm 1965 mà báo chí ngoại quốc đã đăng
tải vào lúc đó.
Trân trọng kính
chào Ông Tổng Thơ Ký.
Toà Thánh Tây
Ninh, ngày 30 tháng 1 năm 1967
Sĩ Tải Phạm Duy
Nhung
* * *
Kính gởi Đại Sứ, Chủ Tịch
Uỷ Hội Quốc Tế
Kiểm Soát Đình Chiến.
Sài Gòn
Kính Đại Sứ,
Vì thời cuộc Việt Nam đã
lâm vào tình trạng quá trầm trọng mà Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đã
phải nhiều nổ lực và còn đang tìm phương thế cho một giải pháp hoà bình ở Việt
Nam.
Chúng tôi rất đổi mang ơn Quí Uỷ Hội về
các nổ lực hữu ích cho dân tộc chúng tôi.Vậy cho nên chúng tôi tin rằng ông Đại
Sứ rất sẳn sàng giúp đỡ chúng tôi hầu sớm cứu vãn tình thế của Việt Nam. Do đó,
văn thơ số 003/ST-Tổng Thống của chúng tôi gởi cho Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp
Quốc để đưa ra giải pháp tiên khởi hầu đi đến hoà đàm, chúng tôi xin gởi kèm
theo đây mong nhờ sự chuyển đạt của ông Đại sứ đến ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp
Quốc.
Xin ông Đại Sứ
nhận nơi đây sự tri ân của chúng tôi.
Toà Thánh Tây
Ninh, ngày 30 tháng 1 năm 1967.
Sĩ Tải Phạm Duy
Nhung.
* * *
Kính gởi Tổng Thống Lyndon Johnson
Hiệp Chủng
Quốc Hoa Kỳ.
Kính nhờ sự
chuyển đạt của ông Đại Sứ Mỹ Quốc tại Sài Gòn
Kính Tổng
Thống,
Sau bao
nhiêu cố gắng của Tổng Thống cũng như của toàn dân Mỹ Quốc cốt mong đem lại tự do dân
chủ cho miền Nam Việt Nam của chúng tôi, tình trạng hiện thời vẫn
chưa
sáng sủa nếu không nói là sẽ đen tối thêm.
Sự kiện bất nhứt về ý chí
trong khối Quốc gia Việt Nam cũng như sự bất đồng tâm lý của nhân dân Việt Nam
đã là điểm quan yếu khiến cuộc chiến tại đây càng ngày càng khó giải quyết.
Để giải quyết vấn đề,
chúng ta cần nhận thức về xuất xứ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và các nguyên
tố giúp cơ hội tạo hình và nuôi dưỡng nó lớn mạnh như ngày nay.
Qua các văn thư của chúng
tôi hoặc đã gởi đến Quý Đại Sứ ở Sài Gòn ngày 23-10-1961, số 1-62/ĐDHP-QN/TM,
ngày 8-3-1962, số 030/ĐDHP-QN/TM, ngày 18-8-1962, số 30/Phạm Công Tắc ngày
6-9-1966, hoặc đã gởi đến Tổng Thống Kenedy số 084/ĐDHP-QN/TM ngày 4-8-1963,
chúng tôi đã cố tình nêu các khuyết điểm cần sửa chữa để cứu vãn tình thế của
khối Tự do cũng như của miền Nam Việt Nam vào lúc bấy giờ. Việc làm đó của
chúng tôi không ngoài ý chí giúp đỡ cho sự bảo trọng danh dự Mỹ Quốc và chặn
bớt các hy sinh vô ích về nhân mạng và tài sản của toàn thể chúng ta. Tuy
nhiên, trong đó chúng tôi buộc lòng phải có những va chạm làm phật ý Quý Chánh
phủ lúc phô bày sự thật đặng cứu xét vấn đề.
Nhưng, nếu gạt qua một bên
những tự ái thông thường của một cường quốc cần có và những lời lẽ của chúng
tôi đã được coi là khả dĩ hữu ích vào lúc ấy, thì ngày giờ đây Tổng Thống đã
không vấp phải trở lực riêng đối với Tổng Thống và trở lực chung đối với Chánh
phủ Mỹ Quốc.
Thử hỏi mỗi tháng Mỹ quốc
phải tiêu hao trên chiến trường Việt Nam một số lớn đạn dược: 1 triệu đạn trong
pháo, 700.000 đạn súng cối và 100 triệu đạn súng trường, ngoài các tổn phí nặng
nề về quân dụng kể cả phi cơ siêu thanh, hoả tiển không không và không địa cùng
sanh mạng để rồi kết quả sẽ ra sao ? Nếu muốn tránh đụng độ với Trung Cộng tức
là tránh hiểm hoạ đại chiến thế giới thứ ba bằng võ khí hạt nhân thì Mỹ khó thể
giải quyết với Cộng sản về Việt Nam mà không tổn thất danh dự. Trái lại, Mỹ
Quốc và Đồng Minh sẽ lâm chiến mà nguy cơ khó tránh khỏi cho cả thế giới và
trách nhiệm cuối cùng chỉ có Mỹ Quốc và Cộng sản đồng gánh chịu.
Một khi đã như vậy, người
thừa cơ hội để thực hiện mộng thực dân vẫn là kẻ thắng cuối cùng sau khi cuộc
chiến không ngã ngũ.
Vậy cho nên, với tinh thần
quốc gia thuần túy và ý chí biết ơn cũng như cảm mến Mỹ Quốc qua các nổ lực của
Chánh phủ và nhân dân Mỹ đã giúp đỡ nước Việt Nam chúng tôi, chúng tôi mong
rằng Tổng Thống không để cho sự hiểu lầm giữa nhân dân Việt Nam và Mỹ Quốc lên
cao hơn nữa với cố gắng tạo thành sự hoà dịu về tâm lý. Đó mới thật là điều
kiện yếu trọng để chiến thắng cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Vì đó là một cuộc
chiến tranh giữa tâm lý tiềm tàng và tâm lý thực tiễn.
Vậy cho nên những sự việc
xảy ra hằng ngày trên địa hạt giao tế cũng như địa hạt quân sự, dân chúng Việt
Nam đã lấy đó làm quan điểm khiến sức mẻ tâm lý giữa hai nước chúng ta.
Chánh phủ Mỹ đã đưa ra
chương trình bình định nông thôn và tin tưởng rằng đó sẽ là phương pháp giải
quyết hữu hiệu cho vấn đề, chúng tôi cũng mong được vậy, nhưng các bài học qua
ở các chánh phủ từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 6 năm 1965 đã là bài học chua cay
cho sự việc tiền mất tật còn. Chúng ta không thể thành công trên nền tảng cầu
may được. Hơn nữa, sự hoạt động của Cộng sản hầu như gần lấn vào nội tâm hoạt
động của chúng ta.
Trong tình trạng nguy ngập
này và cũng là theo ý muốn của Tổng Thống cũng như trên bình diện Mỹ quốc và
Việt Nam Cộng Hoà cùng cả thế giới.
Chúng tôi vừa gởi đến ông
U Thant, Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc qua sự chuyển giao của Uỷ Hội Quốc tế ở Sài
Gòn một giải pháp gồm 5 điểm tiên khởi để đi đến hoà đàm cho vấn đề Việt Nam.
chúng tôi xin đính theo đây để Tổng Thống nghiên cứu và mong được Tổng Thống
xem đó là các điều kiện khả dĩ chấp nhận về phía Mỹ quốc và Chánh phủ Việt Nam
Cộng Hoà để sớm thực hiện hoà bình cho Việt Nam chúng tôi mà Mỹ Quốc chẳng
những giữ nguyên vẹn lại còn có thể nêu cao thêm danh dự vì lẽ nắm được phần
công lý của vấn đề.
Trân trọng kính gởi đến
Tổng Thống, Quý Chánh phủ và toàn dân Mỹ sự thân ái nồng nàn của chúng tôi.
Toà Thánh Tây
Ninh, ngày 30 tháng 1 năm 1967
Sĩ Tải Phạm Duy
Nhung
* * *
Kính gởi ông Đại Sứ Mỹ Quốc
Sài Gòn
Kính ông Đại Sứ,
Đối với các biến chuyển
của Việt Nam, chúng tin chắc rằng ông Đại Sứ đã là người am hiểu tường tận.
Hẳn ông Đại Sứ cũng đã
hiểu chúng tôi qua các thơ của chúng tôi đã gởi cho Quý Toà Đại Sứ từ năm 1961
đến nay và qua bốn điểm mà cựu Thiếu
Tướng Cao Đài Trương Văn Quảng, Phó Chủ Tịch của chúng tôi, đã trao và
giải bày với vị Đệ Nhị Bí Thơ của Quý Đại Sứ trước lễ Noel 1966 vừa qua.
Những việc tiên liệu của
chúng tôi về hiện tình đã chứa đựng trong các tài liệu nói trên, nhưng rất tiếc
là Chánh phủ Mỹ vẫn cương quyết trên chương trình đã có nên không tránh khỏi
các rối rắm về quân sự và chánh trị ở Việt Nam mà đang là việc bận rộn của Toà
Bạch Ốc.
Vẫn biết đó là vấn đề danh
dự, nhưng chúng tôi thiết tưởng rằng chúng ta cần cứu vãn tình thế thì mới nêu
cao danh dự hơn được, ngược lại thì chúng ta sẽ phải phủi tay mà tiếc rẻ.
Tình hình Việt Nam đã trở
thành vấn đề tế nhị, vậy cho nên sự giải quyết quả đã rất khó khăn. Nếu chúng
ta không tìm thấy sự khôn ngoan khi đặt tâm trí vào vấn đề, thì chúng ta không
thoát khỏi định luật sa dốc mà khách bàn quan không hiểu đó là việc làm của kẻ
liều mạng hay của chúng ta.
Chúng tôi có thể nhắc lại
thế cờ mà chúng tôi đã đề cập trong thơ gởi cho Tổng Thống Kenedy ngày 4-8-1963
và đã được Tổng Thống Kenedy tuyên bố sau đó là thế cờ Domino quả quan trọng ở
Việt Nam.
Vậy cho nên chúng ta cần
giải quyết càng sớm càng hay cho vấn đề Việt Nam.
Với chủ trương trên nền
tảng Quốc gia thuần tuý và nhìn nhận Mỹ Quốc là thân hữu, nên chúng tôi vừa gởi
cho ông U Thant, Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc 5 điểm để tiến tới hoà đàm và chúng
tôi cũng gởi đến Tổng Thống Johnson những lời tâm huyết của chúng tôi.
Vậy chúng tôi xin gởi kèm
theo đây để ông Đại Sứ coi đó là tài liệu nghiên cứu của ông Đại Sứ để vừa là
bổ túc cho hồ sơ của ông Đại Sứ vừa là giúp đỡ dân tộc Việt Nam chúng tôi.
Do đó, chúng tôi chân
thành yêu cầu ông Đại Sứ hiểu rõ chúng tôi hơn và giúp đỡ chúng tôi để các điều
khoản tạo nên một nền hoà bình trong công lý cho Việt Nam được thành hình càng
sớm càng hữu ích hơn.
Chúng tôi cũng không quên
đến sự giúp đỡ của ông Đại Sứ hầu chánh phủ Việt Nam Cộng Hoà cũng đồng quan
điểm với Chánh phủ Mỹ trên sự nâng đỡ cho chương trình của chúng tôi được thực
hiện.
Trân trọng kính Ông Đại Sứ
nhận nơi đây sự thân mến của chúng tôi.
Toà Thánh Tây
Ninh, ngày 30 tháng 1 năm 1967
Sĩ Tải Phạm Duy
Nhung
* * *
Kính gởi :
- Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
Chủ Tịch Uỷ Ban lãnh đạo Quốc Gia.
Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hoà miền Nam.
Sài Gòn.
- Cụ Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Chánh Phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà miền Bắc Hà Nội
- Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Uỷ Ban Hành
Pháp Trung Ương Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà miền Nam Sài Gòn.
- Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, Chánh Phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà miền Bắc Hà Nội.
(Nhờ sự chuyển đạt của Ông
Chủ Tịch Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ở Sài Gòn ).
Kính Quý Chủ Tịch và Thủ Tướng,
Chánh phủ Nam Bắc Việt Nam
Do thơ số 21/HP-HN và
Cương Lĩnh Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống gởi đến Cụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm
và Cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh ngày 26 tháng 3 năm 1956, Đức Hộ Pháp đã tiên liệu
sự kiện huynh đệ tương tàn và định thể thức vãn hồi sự thống nhứt dân tộc cùng
lãnh thổ trong độc lập toàn vẹn
Tiếc thay, lời kêu gọi
thống thiết của Đức Hộ Pháp lúc bấy giờ đã chẳng được nghe theo mà Tổng Thống
Ngô Đình Diệm còn vịn vào đó để mong chế ngự Đạo Cao Đài bằng cách bắt bớ, tra
tấn lưu đày gần ngàn chức sắc và đạo hữu trung thành, hưởng ứng thi hành chương
trình của Đức Ngài, làm cho 6 vị Chức Sắc bỏ chương trình của Đức Ngài, làm cho
6 vị Chức Sắc bỏ mình trong khám đường từ năm 1957 đến năm 1964.
Trong lúc đó, mầm nội
chiến từ từ tiến triển và Mặt trận Giải Phóng Miền Nam thành hình năm 1960.
Kính thưa Quý Chủ Tịch và
Thủ Tướng, Chánh Phủ Nam Bắc Việt Nam,
Nhìn lại giang san gấm vóc
thuở nào, chúng ta không khỏi đau lòng trước sự tan tác dư đồ nước Việt, Tổ
Quốc thân yêu của chúng ta. Đặt qua bên các luận lý diễn đạt tư tưởng và thể
hiện hành động, hẳn quý vị cũng như toàn dân đều biết rằng các chiến cụ đang
tàn phá đất nứơc ta không do ta chế tạo. Tin tức hằng ngày rêu rao về vũ khí
nào của Nga, của Trung Cộng, Tiệp Khắc, Đông Đức, nào của Mỹ, Úc Đại Lợi, Mã
Lai v.v… tàn sát bên này hay bên kia
biết bao thanh niên trong hàng ngũ quân đội và thường dân vô tội. Đó là chưa
nói đến các cuộc giết hại trong những vụ bắt bớ giam cầm phi pháp và ám sát vô
nhân đạo. những kẻ ngã gục do ngọn súng mũi gươm của dân Việt Nam và ngoại
quốc, trong khi những tiếng kêu gọi vang lên khắp thế giới hướng về nhân dân và
tổ quốc Việt Nam.
Sự thảm nhục quá nhiều và
nơi đây chúng tôi không muốn đề cập đến sự thật tâm hay mưu đồ trên việc trợ
giúp của ngoại quốc cho đôi bên Nam Bắc.Chúng tôi chỉ muốn nói lên tình thương
dân tộc, nghĩa đồng bào lưu truyền trên 4.000 năm chung sống. Sự tương thân
tương trợ, lòng vị tha bác ái, lý trí công bình, độ lượng khắc cốt ghi xương,
người Việt Nam không chấp nhận những sự kiện vô nhân bất nghĩa, không từ bỏ dây
liên hệ gia tộc hương lân, không thể rời xa ngọn rau tấc đất khả dĩ tạo thành
gia đình nghiệp sở.
Vì thế, những sở hành trái
ngược là nguyên nhân hỗn loạn ngày nay và nạn tương tàn khó giải quyết trong
khi những luận lý sau đây đang xoay tròn trên thế giới.
Nói rằng sự tranh đấu của
Mặt trận Giải Phóng Miền Nam là do dân miền Nam nổi dậy chống một Chánh phủ ư ?
Chánh phủ miền Bắc không
liên hệ với Mặt trận Giải Phóng miền Nam ư ? Mặt trận Giải Phóng miền Nam không
phải là Cộng sản ư ?
Có thể rằng Chánh phủ miền
Nam là công cụ của Mỹ và Mỹ là đế quốc xâm lăng hay chăng ?
Phải chăng Chánh Phủ miền
Bắc là công cụ của Cộng sản quốc tế ?
Đọc các câu hỏi trên, hẳn
chúng ta đã nhận định rõ rệt thực nghĩa.
Tới tâm thư này, chúng tôi
nhận thức rằng Quý Chủ Tịch và Thủ Tướng Nam Bắc Việt Nam từng đứng trên cương
vị Quốc gia dân tộc sẽ quyết chí tái lập thống nhứt và độc lập hoàn toàn cho
Việt Nam để tiến tới đoàn kết mật thiết và thịnh vượng phú cường.
Theo đó, xin Quý Chủ Tịch
và Thủ Tướng đôi bên hãy tạm quên tư kiến trong hiện tại mà thời cuộc bắt buộc
phải có nơi mỗi vị, hầu cùng nhận chân nguyên căn hiện trạng của đất nước.
Chúng tôi ước mong tâm hồn
quang minh chánh đại, khí dõng oai hùng, đức liêm khiết cách mạng của Quý vị sẽ
kiến tạo căn bản của sự lưu tồn quốc gia.
Chúng tôi muốn nói đến vấn
đề Hoà Bình Việt Nam.
Xuyên qua các cuộc vận
động Hoà Bình khắp thế giới hiện nay, chúng tôi nhận thấy tất cả vấp phải trở
lực khó giải quyết là vấn đề Mặt trận Giải Phóng miền Nam.
Chúng tôi cầu xin Quý vị
hãy bình tâm trước ngưỡng cửa tình thương và đặt trọng tâm nhiệm vụ đối cùng
Quốc dân bằng sự giải quyết thuận hoà vấn đề với các câu hỏi bổ túc:
- Phải chăng Mặt trận Giải
Phóng miền Nam được thành hình với một biến thể của một chương trình cố hữu ?
- Phải chăng Mặt trận Giải Phóng miền Nam là
của nhân dân miền Nam ?
- Phải chăng sự gia nhập và sự giúp đỡ Mặt trận
Giải Phóng miền Nam của dân miền Nam là một sự quyết tâm?
- Phải chăng với Hiệp Định Geneve 1954, Chánh
Phủ miền Nam Việt Nam được công nhận trước công pháp Quốc tế cũng như Chánh phủ
miền Bắc, mặc dầu cả hai không ở trong tổ chức Quốc tế ?
- Được sự Uỷ nhiệm của Đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc sau khi Đức Ngài gởi thơ và Cương Lĩnh Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống cho Chánh phủ hai miền từ
năm 1956, chúng tôi liên tục tiến hành công tác Hoà Bình ở Quốc nội, mặc dầu
phải qua bao gian nguy mà lần sau cùng là 19 tháng 16 ngày tù với án treo 8
tháng, chúng tôi rời khám đường lúc 19 giờ ngày 2 tháng 11 năm 1966
Vì bổn phận một công dân
trước diễn biến của Quốc gia chúng tôi cầu xin Quý vị hãy nhận sự bình diện của
hai Chánh phủ trước công pháp là nhu cầu tất yếu để giải quyết nội tình và sự
vươn mình của một khối trong một Chánh phủ là một khía cạnh quan trọng của vấn
đề cần giải quyết với nguyên tắc bình phương.
Chúng tôi xin đề đạt đến
Quý Chủ Tịch và Thủ Tướng Chánh phủ Nam Bắc Việt Nam năm điều khoản sau đây,
mong được sự chấp nhận của hai Chánh phủ để làm lối thoát cho sự tiên khởi đi
đến hoà đàm :
1 . Thiết lập một Phái
đoàn Tôn Giáo cùng nhân sĩ từ trí thức đến Công, Nông ở miền Nam để gặp gỡ
Chánh phủ miền Nam tại Sài Gòn, gặp Mặt trận Giải Phóng miền Nam ở một Quốc gia
trung lập như Cam Bốt, Lào hoặc Miến Điện chẳng hạn, và gặp Chánh Phủ miền Bắc
tại Hà Nội hầu tìm phương hoà hợp ý thức và quan điểm để đi đến hoà đàm.
Phái đoàn này phải có tinh
thần trung lập trong vấn đề và Trưởng phái đoàn phải là người Tôn Giáo đã có
thành tích vô tư và Hoà Bình.
2 . Sau khi Phái đoàn
tuyên bố đã có hoà đồng quan điểm, lực lượng ngoại quốc lập tức ngưng oanh kích
Bắc Việt vô điều kiện.
3 . Do sự điều đình của
Phái đoàn hoà giải, thành phần và địa điểm hoà hội sẽ được ấn định cùng lúc
Phái đoàn tuyên bố hoà đồng quan điểm.
4 . Ngưng các cuộc chiến
kể cả các cuộc di chuyển quân sự trong toàn quốc khi bắt đầu mở cửa hoà đàm.
5 . Một nghị hội sơ bộ của hoà đàm định hình thức
đóng quân ngoại quốc và của Giải Phóng miền Nam trong lúc diễn tiến hoà đàm và
thảo chương trình cho một Hội nghị Hoà Bình chánh thức.
Cùng với thơ này, chúng
tôi cũng gởi năm điều khoản trên đây cho Ông U Thant, Tổng Thơ Ký Liên Hiệp
Quốc để nhờ Ông vận động trước hai khối Quốc tế.
Vì sự tồn vong của đất
nước, vì dân tộc Việt Nam chúng ta phải lách khỏi thảm trạng diệt chủng ngõ hầu
sớm nhận được tự do, dân chủ và ấm no khi có hoà bình trong thông cảm và thương
yêu chân thật, chúng tôi kính mong hai chánh phủ bắt tay nhau trước hoà hội.
Trân trọng đề đạt đến hai
Chánh phủ tất cả lòng mong muốn của toàn dân trong công bình và bác ái, chúng
tôi cầu nguyện Đức CHÍ TÔN ban hồng ân cho nước Việt Nam.
Toà Thánh Tây
Ninh, ngày 30 tháng 1 năm 1967
Sĩ Tải Phạm Duy
Nhung
Kính gởi :
Ông Chủ Tịch Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến.
Sài Gòn
Kính Ông Chủ Tịch,
Đồng thời với thơ gởi cho
Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc, chúng tôi cũng có thơ gởi đến bốn vị lãnh đạo
hai Chánh phủ hai miền Nam Bắc Việt Nam
Với thiện chí giúp đỡ cho
Việt Nam chúng tôi và sự công bình trên tình thương nhơn loại của Quý Đại Diện
của ba Chánh phủ trong Uỷ Hội,chúng tôi kính nhờ sự chuyển đạt của Quý Uỷ Hội
về bốn bức thơ kèm theo đây cho bốn vị Nguyên Thủ của Nam và Bắc Việt Nam y như
trong thơ đã đề.
Trân trọng kính xin Ông
Chủ Tịch và Quý Uỷ Hội nhận nơi đây sự cảm mến sâu xa của chúng tôi cũng như
của toàn dân Việt Nam.
Toà Thánh Tây
Ninh, ngày 30 tháng 1 năm 1967
Sĩ Tải Phạm Duy
Nhung
* * *
Kính gởi: Ông Tổng
Lãnh Sự Ấn Độ.
Sài
Gòn.
Kính Ông Tổng Lãnh Sự,
Chúng tôi rất hoan nghinh
kế hoạch Hoà Bình Việt Nam gồm sáu điểm của bà Indira Gandhi, Thủ Tướng Ấn Độ,
trong tháng 7 năm 1966.
Người Á Đông, nhứt là dân
tộc Việt Nam, rất cảm thông nước Ấn Độ, nơi phát sinh Phật Giáo của Đức Thích
Ca Mâu Ni, đất lành cho tinh thần hiếu hoà nhưng bất khuất trước vũ lực của
Thánh Gandhi.Vì thế, chúng tôi không ngần ngại gởi đến Ông Tổng Lãnh Sự tường tri
các văn thơ :
- Số 003/ST-T ngày
30-1-1967, gởi Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc, trong đó chúng tôi trình bày
giải pháp năm điểm để đi đến Hoà Hội cho Việt Nam.
- Số 004/ST-T và số
008/ST-T ngày 30-1-1967, gởi Ông Chủ Tịch Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ở
Sài Gòn.
- Số
005/ST-T ngày 30-1-1967, gởi Tổng Thống Johnson.
- Số
006/ST-T ngày 30-1-1967, gởi Ông Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn.
- Số
007/ST-T ngày 30-1-1967, gởi các Nguyên Thủ Nam và Bắc Việt Nam
Đồng thời
chúng tôi cũng đính theo đây các văn kiện nêu trên (bản chính) số 003/ST-T, số
004/ST-T và 4 văn kiện đồng số 007/ST-T, và số 008/ST-T, để yêu cầu Ông Tổng
Lãnh Sự giúp đỡ chuyển đạt đến Ông Chủ Tịch Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến
ở Sài Gòn.
Trân trọng
kính xin Ông Tổng Lãnh Sự nhận sự tri ân nồng hậu của chúng tôi.
Toà Thánh
Tây Ninh, ngày 30 tháng 1 năm 1967
Sĩ Tải Phạm
Duy Nhung
* * *
Đức Thầy có
giảng dạy: “Các em hãy chia cơm xẻ áo và đùm bọc lẫn nhau hơn lúc nào hết ”.
Ông Nhung triệu tập anh em
Ban thống Nhất và các Ban Bộ Nam, Nữ ngỏ ý cùng anh em theo Thánh ý của Đức
Thầy cần làm kinh tế tự túc để chia sống với nhau. Cũng may chị Tư Tranh là con
của Đức Thầy có sẵn một trại cưa ngưng hoạt động từ lâu. Chị đồng ý cho anh em
mượn để làm cơ sở kinh tế tự túc nhờ đó anh em mua máy móc để lập trại cưa để
bảng hiệu Hoà Bình kêu gọi được 38 cổ phần, mỗi cổ phần 20.000 đồng.
Nhằm ngày qui thiên của
Đức Thầy mùng 10 tháng 4 năm Đinh Mùi anh chị em làm lễ khai trương trại cưa.
Ông Nhung tuy bệnh nhiều nhưng cũng ráng đến dự.
* * *
SĨ TẢI PHẠM DUY
NHUNG TỪ TRẦN
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung từ trần đúng 12 giờ trưa
ngày 30-5-1967, nhằm ngày 22 tháng 4 năm Đinh Mùi, tại Toà Thánh Tây Ninh, sau
10 năm mắc bệnh phổi.
Một tin làm cho toàn thể
anh chị em đồng tâm chí trong toàn quốc vô cùng cảm xúc và cũng là một tin làm
sôi nổi dư luận trong Đạo, ngoài đời, vì ông Nhung đã trở thành người của thời
cuộc Việt Nam mấy năm gần đây. một người được Đức Hộ Pháp giao phó tiếp tục sứ
mạng Hoà Bình của Đức Ngài để lại.
Đến chia buồn có đông đủ
các Ban vận động trong nước. Các cơ quan trong Đạo các giới trí thức cùng nhà
văn, nhà báo từ thủ đô đến.
Trên 11 năm phục vụ đường
lối cứu dân cứu nước do Đức Hộ Pháp đề xướng, ông Nhung đã hăng hái, tận tuỵ
vận động Hoà Bình, đã có đầy đủ thiện chí kêu gọi thương yêu với các trào lưu
chánh phủ. Với quốc tế, với báo chí cùng các đồng bào trong nước, tánh chịu khó
siêng năng, trầm tĩnh lo phận sự, không khoe khoang, thành thật với mọi người
hay chiều chuộng bạn tác, khiêm cung không để mất lòng ai cả.
Đặc tính ông là can đảm
với chí hy sinh cao cả, không lui bứơc trước một trở lực nào. Con đường của Đức
Thầy đã vạch sẵn để cứu vãn tình thế nguy ngập Việt Nam, ông kiên nhẫn thi hành
sứ mạng thiêng liêng không ngại gian lao nguy hiểm.
Tóm lại, Sĩ Tải Phạm Duy
Nhung là một chiến sĩ anh dũng. Ông liên tục tranh đấu gian khổ để kế chí vận
động Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống do Đức Hộ Pháp Giáo Chủ Đạo Cao Đài đề
xướng.Ông đã chịu đựng nặng nề mọi thử thách, khổ đau về thể xác lẫn tinh thần
hơn các anh chị em trong đường lối.
Mắc bệnh phổi hơn 10 năm,
lại bị liên tiếp vào tù ra khám, không có cơ hội và hoàn cảnh điều trị cho đến
lành mạnh, Ông đã phải bỏ mình.Thật vậy, ông Nhung mất đi là một cái tang chung
đối với các bạn đồng tâm và đồng chí của ông, cũng là tâm trạng đối với những
bậc ưu thời mẫn thế có bầu nhiệt quyết đang lo âu đến tiền đồ Tổ Quốc.
Tuy vậy, toàn thể anh chị
em trong Chách Sách Hoà Bình Chung Sống vẫn tin tưởng nơi anh linh bất khuất
của người lãnh đạo nơi cõi vô hình hộ trì cho đường lối sớm thành công để thống
nhứt Hoà Bình cho Tổ Quốc.
* * *
BÀI ĐIẾU VĂN
Của Cụ Thiếu Tướng Cao Đài
Trương Văn Quảng đọc trước mộ phần ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung Chủ Tịch Chánh
Sách Hoà Bình Chung Sống vừa từ trần ngày 30-5-1967. Lễ an táng được cử hành
ngày 2-6-1967 tại Toà Thánh Tây Ninh rất trọng thể, có đủ đồng đạo cùng đồng
bào các giới tham dự.
Kính Hội Thánh, Chư Chức
Sắc Chức Việc và toàn Đạo Nam Nữ,
Thưa Quý quan khách,
Chúng tôi nhân danh các
Ban vận động Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp trong toàn quốc xin
có đôi lời phân ưu trước mộ phần Ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung
Chúng tôi lấy làm bùi ngùi
đứng trước linh cửu một người bạn đồng hành đau khổ trong giờ phút thiêng liêng
ngàn năm vĩnh biệt này.
Cái tin ông Sĩ Tải Phạm
Duy Nhung từ trần làm cho nhiều người xúc động mến tiếc.
Trong khi đất nước còn bị
chia đôi và tình hình càng thêm nguy biến chưa giải quyết được, một người
có thành tích tranh đấu Hoà Bình cao đẹp
như Ông lại vội từ trần, một cái tang đau buồn chung cho những người có thành
tâm lo cho vận mạng đất nước.
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung năm
nay 42 tuổi xuất thân từ một gia đình trung lưu tại làng Bồ Cang, huyện Hoà
Vang, tỉnh Quãng Nam làm việc Sở Hoả Xa hồi thời Pháp thuộc.
Năm 1948 Ông về Toà Thánh
hiến thân làm việc Đạo. Năm 1949, ông đậu khoa Luật Sự Hiệp Thiên Đài và được
tuyển chọn làm thơ ký Đức Hộ Pháp.
Năm 1954 ông được Đức Hộ
Pháp cho thăng phẩm Sĩ Tải, ông là nhân viên Bộ Pháp Chánh tại Toà Thánh ở địa
phương nhiều tỉnh. Ông cũng là người đặc biệt được Đức Hộ Pháp cho một chứng
minh thư thay mặt cho Đức Ngài để vận động Hoà Bình cho Việt Nam. Ông tỏ ra
xứng đáng người kế chí, tiếp tục sự nghiệp Hoà Bình của Đức Hộ Pháp để lại, là
người có đủ can đảm dám xung phong vào đường cứu khổ. Việc làm khó khăn đến đâu
ông cũng làm được dầu phải đương đầu với biết bao trở lực.
Từ năm 1961, sau ngày Đức
Hộ Pháp qui thiên ông khởi đầu lên tiếng Hoà Bình đúng lúc chiến tranh Việt Nam
vừa mở màn gây hấn rồi từ đó đến nay, tiếng nói Hoà Bình của ông được thường
xuyên rất phù hợp trong mọi giai đoạn biến chuyển quan trọng của đất nước. Nhờ
vậy danh thể Đạo Cao Đài với giải pháp cùng tên tuổi ông được các giới đồng bào
trong nứơc và thế giới chú ý. Ông đã gởi nhiều bức thư cho các Liệt cường.Những
sự việc ông tiên đoán trong các thơ đó ngày nay thời cuộc biến chuyển đều đúng.
Ông đã hai lần họp báo được báo chí trong và ngoài nước tham dự, một lần ở nhà
hàng Soái Kình Lâm trong Chợ Lớn vào tháng 11 năm 1963 và một lần tại Lữ quán
Majestic ở Sài Gòn vào tháng 3 năm 1965. Đầu năm 1967 ông đã gởi một bức thư cho
chánh phủ hai miền Nam Bắc Việt Nam, một bức thơ cho Tổng Thơ Ký Liên Hiệp
Quốc, một bức thơ cho Tổng Thống Johnson của Mỹ Quốc để đưa ra năm điểm đề nghị
tiên khởi hoà đàm cho Việt Nam.
Nhìn lại kiếp sanh của ông
trọn trung thành với Đạo, với nước trọn tuân hành lời dạy của Đức Thầy, Ông như
đơn thân độc mã đứng ra gánh vác nặng nề sự nghiệp cứu nước của Đức Thầy giao
lại đã chẳng được sự che chở giúp sức, ông còn bị chê bai biếm nhẻ, bị nhiều áp
lực đè nặng lên người ông, nhưng ông vẫn bền gan nhẫn nại chịu đựng mọi khổ đau
chẳng có giờ phút nào thối chí ngã lòng miễn sao cơ cứu khổ và cứu thế của Đức
CHÍ TÔN để tại mặt thế này được thực
hiện. Ông không màng danh lợi, phế cả gia đình, đã chịu khổ trên 11 năm qua từ
ngày lãnh phận sự kêu gọi Hoà Bình do Đức Hộ Pháp đề xướng. Đã ba lần vào tù ra
khám với muôn đắng ngàn cay mặc dầu chí lớn có thưà, nhưng sức người có hạn.
Ông chịu không nổi cơn trọng bịnh phải qua đời trong khi nước nhà còn phải
trông cậy nơi ông, ông mất đi để lại cha già, một vợ với bốn con khờ.
Người ta thường nói : Khi
đậy nắp quan tài mới định đặng giá trị trọng khinh của đời người. Việc làm của
ông lịch sử cùng quốc dân đồng bào chứng minh điều ấy.
Trên đường phụng sự Đạo
Giáo cùng Quốc gia dân tộc, chúng tôi mất một người bạn đồng hành có tài đức
rất đáng buồn, nhưng cũng còn phần an ủi là ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung tuy đã
mất mà vẫn còn lưu lại một sự nghiệp tinh thần có đủ quyền năng cứu nguy dân
tộc và những người còn sống trong giờ phút thiêng liêng này đều để hết lòng
thương yêu vào người đã khuất.
Chúng tôi thành tâm phân
ưu cùng tang quyến và cầu nguyện ơn trên Đức CHÍ TÔN Đức Phật Mẫu ban hồng ân
cho Sĩ Tải Phạm Duy Nhung được cao thăng phẩm vị nơi cõi hằng sống.
Toà Thánh ngày 25
tháng 4 năm Đinh Mùi
(DL 2-6-1967)
BÀI ĐIẾU VĂN
Của Bà Trần Kim Phụng Tổng
Thơ Ký Kiêm Biên Phó Ban Châu Thành Thánh Địa, Đại diện cho Ban Miền Nam Nữ
phái Chánh sách Hoà Bình Chung Sống. Đọc trước phần mộ cố Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài
Phạm Duy Nhung ngày 25 tháng 4 năm Đinh Mùi (DL 2-6-1967)
Nhân danh Ban Miền Nam và
Ban Châu Thành Thánh Địa Nữ Phái Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống, chúng tôi xin
có đôi lời vĩnh biệt người quá cố.
Kính thưa Chư Chức Sắc Hội
Thánh,
Kính thưa Quý khách.
Kính thưa Chư Chức Việc và
Đạo Hữu lưỡng phái.
Hôm nay là ngày quí vị
đồng đạo Nam Nữ đưa xác cố Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài Phạm Duy Nhung đến nơi an nghỉ
cuối cùng.
Sanh trưởng trong một gia
đình Nho phong lễ giáo, nhờ sự un đúc của thân sinh, cố Sĩ Tải Nhung đã sớm có
tinh thần trung cang nghĩa khí. Nhận thấy đời sống nha lại trong ngành công
chức tại Quảng Nam không phù hợp với chí bình sanh, Sĩ Tải có một thời ra kháng
Pháp rất hăng, cho đến khi hữu cơ duyên gặp Đạo Cao Đài là nơi có thể thoả mãn
ý chí hiên ngang trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi tối cao của Quốc gia và nhân
loại.
Đắc khoá Luật Sự năm 1949,
rồi thăng Sĩ Tải năm 1954 làm thư ký tại văn phòng Hộ Pháp Đường, kế lãnh nhiệm
vụ Pháp Chánh tại các tỉnh: Tây Ninh. Gia Định, Mỹ Tho, Gò Công … với tinh thần
công bình và nhân đạo Sĩ Tải được sự cảm mến của Hội Thánh và nhứt là Đức Hộ
Pháp, cố giáo chủ Đạo Cao Đài.
Sau khi các bậc đàn anh từ
chối trách vụ cứu thế và cứu khổ vạn linh, cố Sĩ Tải được Đức Hộ Pháp ban Uỷ
Nhiệm Thơ thay mặt cho Đức Ngài trong Chánh Sách Hoà Bình Chung Sống tại Quốc
nội từ năm 1956 đến nay là năm 1967, đã 11 năm dài trải qua biết bao gay cấn
của thế tình khe khắt
Mười một năm sau này, thừa
Uỷ Nhiệm Đức Hộ Pháp cố Giáo Chủ, Sĩ Tải Phạm Duy Nhung đã đưa ra đường lối Hoà
Bình Dân Tộc, thống nhất đất nước với giải pháp do Đức Hộ Pháp đề xướng đã gởi
cho Liên Hiệp Quốc, các cường quốc và Chánh phủ hai miền Nam và Bắc Việt Nam.Sĩ
Tải bị các chánh quyền từ triều Ngô Đình
Diệm và kế tiếp bắt câu lưu tại các trung tâm cải huấn : Gia Định, Thủ Đức, Phú
Lợi, Tân Hiệp, Chí Hoà rồi ra Toà án Quân sự đặc biệt Sài Gòn chỉ vì trong bản
Tuyên cáo buổi họp báo tại Lữ quán Majestic Sài Gòn, Sĩ Tải đã mạnh dạn đưa ra
chủ trương:
TÔN GIÁO KHÔNG DỊ ĐỒNG.
TÔN GIÁO LÀ HOÀ BÌNH.
TÔN GIÁO LÀ THỐNG NHỨT
TRONG TÌNH THƯƠNG CHƠN THẬT.
TÔN GIÁO LÀ CÔNG BÌNH, VÔ
TƯ, KHÔNG KHEN AI MÀ CŨNG CHẲNG CHÊ AI, CHỈ BIẾT NÓI LÊN SỰ THẬT VÀ XÂY DỰNG.
QUỐC DÂN LÀ MỘT KHỐI
THƯƠNG YÊU.
TÔN GIÁO LÀ MỘT KHỐI
THƯƠNG YÊU.
DÂN QUÂN LÀ MỘT KHỐI
THƯƠNG YÊU.
CHỈ CÓ TÌNH THƯƠNG YÊU
THẬT SỰ MỚI GIẢI QUYẾT ĐỰƠC MỌI SỰ BẾ TẮC…
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét