Chân Dung Hộ-Pháp Phạm Công Tắc - 3 / 7 (Hiền Tài - Trần Văn Rạng)


Chân dung Đức Hộ Pháp trong chương này, tư tưởng và hành động của Đức Ngài đều thuận chiều để đi tới Đạo cao và đắc vị Vi Đà Hộ Pháp (một trong bốn vị Thiên Vương trấn giữ các chùa). Đức Vi Đà đã giáng linh ngự thể giúp Đức Ngài biểu hiện dần huyền diệu bí pháp của Đạo.
- 1 . Đền Thánh của "Giáo Tông" Đạo Cao Đài ở Tây Ninh mà bức ảnh này dựng lại một đền thờ hoành tráng.
2 . Đạo Cao Đài là một phái Đạo rất quan trọng và phổ cập trong toàn miền Nam Việt Nam. Nền đạo đức rất đặc sắc có khuynh hướng tổng hợp và qui hợp...

CHƯƠNG III

CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
(1930 - 1934)

- Bát Đạo Nghị Định. Quyền Chí Tôn nơi Giáo Tông và Hộ Pháp
- Ba Hội lập quyền Vạn Linh
- Ngài Lê Văn Trung đăng tiên

1 . Bát Đạo Nghị Định.
Quyền Chí Tôn nơi Giáo Tông và Hộ Pháp.

Kể từ khai Đạo đến nay, thì Đức Hộ Pháp vẫn giữ vị thế của nhà tư pháp, cầm cân nảy mực và kiêm nhiệm những văn kiện "lập qui", vì Đức Chí Tôn và các Đấng mượn đôi tay của Ngài để vẽ nên cơ chế của nền Đại Đạo, cùng những luật lệ. Có lần Đức Chí Tôn hỏi hai ông Cư Tắc:
"Thầy muốn dùng các con mà hoằng khai nền Đạo, các con dám lãnh trọng trách ấy không?".

Ngài Phạm Công Tắc bạch:
"Thầy dạy thì chúng con tuân lệnh, nhưng chúng con từ nhỏ tới lớn chẳng ai thông đạo lý, duy nhờ Thầy dạy bảo bấy lâu thì sự hiểu biết e chưa xứng đáng đảm nhận trọng trách lớn lao ấy".
Vào ngày 22-11-1930 (mùng 3-10-Canh Ngọ), Đức Phạm Hộ Pháp thiết lập một đàn cơ cầu tại nơi Hiệp Thiên Đài (Tòa Thánh Tây Ninh), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban phẩm Quyền Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (thế danh Lê Văn Trung).

Đạo Nghị Định thứ hai, ban hành ngày 15-10-Canh Ngọ, Đức Lý Giáo-Tông phán rằng: "Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, còn phần thiêng liêng có Lão".

Có tất cả tám Đạo Nghị Định do Đức Lý Giáo-Tông và Đức Phạm Hộ Pháp lập, gồm hai thời gian:
- Ngày 3-10-Canh Ngọ chỉ có sáu Nghị Định và ban hành ngàỵ Rằm tháng 10 năm đó. - Ngày 15-7-Giáp Tuất (25-8-1934) ban hành hai Nghị Định 7 và 8. Gồm chung gọi là Bát Đạo Nghị Định.

1 . Đạo Nghị Định thứ nhất: buộc các chức sắc Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải tuân y Tân-Luật và Pháp Chánh Truyền mà hành Đạo, lớn nhỏ giữ phận.
2 . Đạo Nghị Định thứ hai: Ban Quyền Giáo Tông cho Thượng Đầu Sư và qui định rõ quyền hạn của Chánh Phối Sư được giao tiếp với chánh quyền và nhân sanh, tức hành sự về phương diện Chánh trị Đạo.
3 . Đạo Nghị Định thứ ba: Nam nữ Chánh Phối Sư phải hành chánh riêng và chia phận sự như sau:
- Phối Sư phải ở tại Tòa Thánh.
- Giáo Sư làm đầu một tỉnh.
- Giáo Hữu làm đầu một họ.
- Lễ Sanh làm đầu một quận.
- Chánh trị sự làm đầu một làng.
- Phó trị sự và Thông sự làm đầu một xóm.
Từ ban hành Đạo Nghị Định này thì việc phân nhiệm vùng mới rõ rệt và chức sắc mới được tuyển bổ đi khắp nơi.

Ba phẩm Chánh Trị Sự, Phó trị sự và Thông sự gọi chung là Bàn Trị sự. Vốn buổi ban đầu, Pháp Chánh Truyền chỉ định đến phẩm Lễ Sanh mà thôi. Về sau nền Đạo mỗi ngày một thêm phổ thông, người theo Đạo mỗi ngày một nhiều, Đức Lý Giáo Tông đặt thêm hai phẩm chức việc là Chánh trị sự và Phó Trị sự; Đức Hộ Pháp đặt thêm phẩm Thông sự. Họ trông coi trực tiếp các đạo hữu. Họ là người sở tại, là cơ cấu hạ tầng kiên trì và hiệu năng nhất của Đạo, quen gọi là Hội Thánh em. Thông Sự là chức việc của Đức Lý Giáo Tông khuyên Hộ Pháp thành lập, như vậy là người của Hiệp Thiên Đài để tùng quyền của Chánh Trị Sự (gọi là Đầu Sư Em) mà hành Đạo, đồng thể cùng Phó trị sự (gọi là Giáo Tông em vì do Giáo Tông lập thành) trong một ấp Đạo. Song có quyền về luật lệ chứ không có quyền về chánh trị, nên được gọi là Hộ Pháp em, để giữ lẽ công bình trong địa phận của Phó Trị sự cai quản.

4 . Đạo Nghị Định thứ tư: phân rõ quyền hạn của ba vị Chánh Phối Sư.
5 . Đạo Nghị Định thứ năm: buộc tất cả chức sắc phải phế đời hành Đạo, còn những người ngoài vòng chẳng đặng dự vào việc Chánh Trị Đạo.
Từ đây các chức sắc có áo tràng y chín nút cho Cửu Trùng Đài và sáu nút cho Hiệp Thiên Đài.
6 . Đạo Nghị Định thứ sáu: chỉ định Đức Giáo Tông và Hộ Pháp chú giải Pháp Chánh Truyền.
Nhờ vậy Pháp Chánh Truyền từ đây mới được chú giải rõ ràng như ngày nay.
7 . Đạo Nghị Định thứ bảy: tất cả nam nữ chức sắc Cửu Trùng Đài được trọn hiến thân hành Đạo buổi sơ khai đều thăng nhứt cấp, trừ những người phạm tội hoặc phế phận sự hoặc mới được thăng.
8 . Đạo Nghị Định thứ tám: qui định những chi phái không tùng mạng lịnh Hội Thánh (Tòa Thánh Tây Ninh) đều coi là bàng môn tả đạo.

Nghị định này ban hành, bị nhiều chi phái đả kích và tình trạng phân chia vẫn không bớt. Nhân lễ Triều Thiên của Ngài năm Giáp Thìn, Ngài giáng cơ có khoản như vầy: "Bần Đạo để lời khuyên chức sắc và toàn Đạo ráng thống nhứt nền Đạo cho được mới có đủ sức mạnh để làm gương cho vạn quốc".

Từ khi Đạo Nghị Định thứ hai ban Quyền Giáo Tông cho Ngài Lê Văn Trung, nhiều kẻ đố kỵ, nhưng quyền thiêng liêng đã định vị, lòng phàm ganh hiền ghét ngỏ cũng chỉ tự hoại thân danh. Thánh Giáo ngày 23-12-1931, Đức Chí Tôn giáng cơ nơi Thảo Xá Hiền Cung ban quyền Chí Tôn tại thế nơi Hộ Pháp và Quyền Giáo Tông. Nội dung:
"Các con hãy nhớ rằng: toàn thế giới càn khôn chính có hai quyền: quyền hành Chí Tôn của Thầy, dưới là quyền của sanh chúng. Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy là Hội Thánh của Đại Đạo, rồi Thầy cũng ban quyền trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy, đặng đủ phương tiện tận độ chúng sanh. Còn các con cả thảy đều đứng vào hàng chúng sanh, dưới quyền hành chuyển thế của Đời, nghĩa là toàn thể nhân loại đồng quyền cùng Thầy. Mà tạo hóa vạn linh vốn con cái của Thầy. Vậy thì, vạn linh cũng có thể đoạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.
"Thầy nói rõ: quyền Chí Tôn là Thầy, quyền vạn linh là sanh chúng. Ngày nào quyền lực Chí Tôn đặng hiệp cùng vạn linh thì Đạo mới ra thiệt tướng.

"Thầy đã ban quyền hành Chí Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội Thánh là Giáo Tông và Hộ Pháp. Vậy thì quyền hành Chí Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo Tông cùng Hộ Pháp hiệp một. Quyền hành Chí Tôn của Thầy duy chỉ có quyền hành vạn linh đối phó mà thôi".

Vì Thánh Ngôn này mà Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung đã thống nhất tạo luật, đôi khi không thông qua ban Nội luật và ba Hội lập quyền Vạn linh, như chương trình hành Đạo sau:
"Chương trình hành Đạo đáng lẽ phải đem ra cho Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phê chuẩn, nhưng vì các khoản định trong chương trình đều không trái với Pháp Chánh Truyền, Tân Luật và Đạo Nghị Định và nhất là cần phải thi hành lập tức; cho nên chúng tôi nhất định dùng quyền Chí Tôn giúp cho ba vị Chánh Phối Sư đủ quyền thi hành chương trình hành Đạo ấy, khỏi đem ra ba Hội phê chuẩn" (Tờ châu tri số 1 ngày 7-3- Quí Dậu [1-4-1933] d Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông Ký Ban Hành ).
Vịn vào đó, vào ngày 19-5-Quí Dậu (dl.11-6-1933) một số chức sắc và một ít đạo hữu các nơi, do sự triệu của nhà báo Nguyễn Phan Long về Tòa Thánh, họ lập Hội Vạn Linh (?) trong nội điện Tòa Thánh.

Họ đề cử các thành phần sau đâyđiều khiển buổi hội để vấn nạn Đức Quyền Giáo Tông và cũng lộ vẻ trích điểm Đức Hộ Pháp:
- Ông Nguyễn Phan Long --- Nghị Trưởng
- Ông Trương Duy Toản ----- Phó Nghị Trưởng
- Ông Tuyết Tấn Thành ------ Từ Hàn

Phiên họp chỉ có một ngày; vào khoảng một ngàn người tham dự, buổi chiều vắng bớt vài trăm vì họ cảm thấy phiên họp có tính cách đả phá hơn là xây dựng. Bị cáo không có người biện hộ. Cử ai đại diện, Đại hội cũng viện lý lẽ từ chối. Xin trích một vài đoạn trong phiên họp buổi chiều:
"Mấy ông Phái viên an vị rồi, ông Diệp Văn Kỳ thay mặt cho ông Hộ Pháp để biện luận trong buổi nhóm này. Câu chót có mấy lời như vầy: "Tôi sở dĩ chọn ông Diệp Văn Kỳ thay mặt là vì trong buổi nhóm này, chẳng những Hội viên mà ngay trong Ban Ủy viên cũng có người ngoại Đạo dự vào".

Đọc xong ông Nghị Trưởng liền nói:
"Buổi nhóm họp này để vấn nạn ông Quyền Giáo Tông, chớ không phải vấn nạn ông Hộ Pháp, thì chỉ có Quyền Giáo Tông phái người thay mặt của Ngài mà thôi. Vả lại, hội nhóm này để bàn tính việc Đạo, mà ông Diệp Văn Kỳ không phải là người trong Đạo, chỉ được dự thính mà thôi, đâu có quyền tranh luận.

"Còn câu chót chắc ông Hộ Pháp nhắc xéo tôi. Ông Hộ Pháp tưởng như thế là lầm. Tôi đã vào Đạo ba năm nay, được ban chức Giáo Sư; song ít khi đến đặng Tòa Thánh, nên người trong Đạo không rõ".

Diệp Văn Kỳ: "Việc thay mặt được cùng không tưởng cũng không quan hệ. Tôi chỉ xin cho Hội biết rằng, tôi đến đây không có ý định binh ai bỏ ai, hay xu phụ theo phe đảng nào. Ông Hộ Pháp cậy tôi thay mặt, là cốt giải bày một ít Đạo Luật cho Hội biết mà thôi.
"Chỉ như nói ông Hộ Pháp là người không dính dấp đến Hội này, tôi e chẳng đúng. Hội đã công khai giữa Bửu Điện, thì bất kỳ tín đồ nhỏ nhen cũng được quyền tranh luận, phương chi Hộ Pháp là người giữ Pháp Luật Đạo, trên hết chư chức sắc.
"Còn nói như Quyền Giáo Tông sai người đến thay mặt, tức nhìn nhận buổi nhóm này đúng luật lệ là một cách buộc Ngài chạy chung quanh cái đường tròn chẳng có đường ra. Không đến mấy ông trách, sai người thay mặt, mấy ông bảo nhìn nhận buổi họp này".

Chưởng (?) Pháp Nguyễn Trung Hậu: "Ông Diệp Văn Kỳ vừa nói rằng ông Hộ Pháp ủy quyền biện giải luật Đạo giữa Hội, vì Hộ Pháp chưởng quản về phần luật, không luật nào qua khỏi tay Ngài được, nhưng Ngài ủy quyền cho ông Diệp Văn Kỳ, lại là một điều sái luật đó".

Giáo Sư Thượng Chữ Thanh: "Tôi xin trả lời cho ông Hậu. Ông Hộ Pháp có phái ông Tiếp Thế thay mặt cho Ngài, song vì tình anh em không thể nhóm được, nên ông Tiếp Thế phải về. Tôi xin hỏi bên Hiệp Thiên Đài, nay quyền Chưởng Pháp bảo giữ luật lệ của Đạo, tôi không công nhận ông Diệp Văn Kỳ được quyền dự Hội hôm nay".

Diệp Văn Kỳ: "Vậy xin mấy ông nán đợi tôi về trả lời với ông Hộ Pháp coi Ngài có phái ai đi thế quyền của Ngài nữa chăng?".

... Ông Tiếp Thế và ông Diệp Văn Kỳ trở vào Bửu Điện.

Ông Tiếp Thế trình thư; ông Nghị Trưởng xem rồi nói rằng: "Buổi sớm mai, ông Tiếp Thế đã từ hội về, thì hai cái giấy của Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp ủy quyền cho ông Tiếp Thế kể như đã hủy rồi. Chiều nay ông trở lại, chỉ cần thơ này là thơ riêng của Hộ Pháp gởi cho ông, chẳng phải là giấy của Quyền Giáo Tông phái đến thay mặt vậy ông nên về xin Quyền Giáo Tông ký vào bức thơ này, đặng chứng tỏ Ngài còn giao quyền cho ông hôm nay nữa".

Đến đây ông Thượng Bảy Thanh đứng dậy lên tay nói lớn: "Xin lỗi ông, tôi thuở nay vẫn kính trọng ông là người hữu tâm với Đạo, nhưng cử chỉ ông ngày hôm nay thật là bất minh. Ông lấy quyền nào chủ tọa Hội này; còn Hội này là Hội gì? Vả lại ông vào Đạo hồi nào không ai biết?".

Nghị Trưởng: "Tuy việc đời ràng buộc, tôi ít đến đây chớ tôi thường hầu đàn nơi khác. Tôi thọ chức Giáo Sư; ông không biết thì thôi tôi biết làm sao được".

Ông Thượng Bảy Thanh lại nói thêm rằng: "Nhà thờ này lập ra, nay thành ra trường diễn thuyết, chớ không phải chỗ thờ phượng", nói rồi ông ngó ngay Quyền Ngọc Đầu Sư (Ngọc Trang Thanh) mà nói lớn rằng: "Hiền Huynh Ngọc Trang Thanh, tôi cùng hiền huynh sẽ đối diện ngày về cùng Thầy, hiền huynh thọ Thiên điều đừng trách".

Sau khi ông Thượng Bảy Thanh, ông Diệp Văn Kỳ và Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh rời khỏi nơi họp, thì ông Nghị Trưởng đọc Vi bằng có 12 khoản cáo trạng, mà khoản thứ năm có đoạn như vầy:
"Sau khi hội viên bàn tính thì Thượng Hội quyết định:
A - Hủy bài giáng cơ ngày 14 Février 1933 vì không y theo thể lệ cầu cơ đã lập ra rồi.
B - Hủy bài chấp bút của Hộ Pháp ngày 10 Mars 1933, tại Hộ Pháp hay Giáo Tông Đường. Chấp bút dùng để học hỏi cho mình, không được đem ra ban hành.
C - Bài giáng cơ ngày 23 Décembre 1931 tại Thảo Xá Hiền Cung thì phải giao cho ban kiểm duyệt xem xét trước rồi mới ban hành.
D - Hủy tờ Châu tri số, ngày 1 Avril 1933 (ngày 7 tháng 3 năm Quí Dậu) vì Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp lấy ý riêng mà đặt ra".

Về việc Hội Vạn Linh (?) có hợp lẽ Đạo không, ông Nguyễn Văn Lịch (không phải ông Lê Văn Lịch Đầu Sư) có tội không, ông Nguyễn Phan Long có xứng đáng ngồi ghế chủ tọa không, xin đọc một khoản trong ba Vi bằng thì rõ:
"Thượng Chữ Thanh: "Xin hãy kể tội của Đạo Hữu Lịch cho công chúng rõ".
Nghị Trưởng: "Trong Vi bằng chả có nói Đạo hữu Lịch có tội hay là không tội".

Khi ấy một nữ Giáo Sư hỏi lớn lên rằng: "Ông Nghị Trưởng chủ tọa trước Bửu Điện sao không mặc Thiên phục?"

Lê Kim Tỵ: "Mặc Thiên phục cùng không, ấy là điều không quan hệ chi cho mấy".

Nghị Trưởng: "Trình cùng chư hội viên, tôi mới được giấy ông Diệp Văn Kỳ, xin Hội cho phép ông hỏi vài câu trong luật lệ Đạo".

Chư hội viên đều cho phép.
Ông Diệp Văn Kỳ liền đứng dậy nói: "Thưa quí Ngài, trước khi xin hỏi việc vài câu, tôi xin tỏ trước cho quí Ngài biết rằng tôi là người ngoại Đạo. Song tôi thấy suốt trong bổn Đạo dự nhóm đây, chọn cử ông bạn đồng nghiệp Nguyễn Phan Long lên làm Nghị Trưởng chứng buổi hội nghị này; và cũng nhờ đó mà tôi được biết rằng ông bạn đồng nghiệp đã vào Đạo lâu rồi, lại được Ơn Trên ban Thiên chức, thì tôi lấy làm mừng dùm cho Đạo.

"Tôi sở dĩ muốn hỏi vài điều là cốt cho thấu hiểu pháp luật của Đạo, chớ chẳng phải lãnh thay mặt ai cùng binh vực ai.

'Theo như Tân Luật mà tôi được thấy, thì có một khoản nói về Giáo Tông như vầy: "Chưởng Pháp phải can gián, sửa lỗi của Giáo Tông, nếu cả ba thấy lẽ vô Đạo của Giáo Tông có quyền đem đơn kiện nơi Tòa Thánh".
"Một việc rất quan trọng là đem ông Giáo Tông ra xử, mà luật lệ nói tóm tắt như vậy thì tôi sợ chưa hoàn toàn.

"Còn quyền Vạn Linh là gì?
"Có phải là quyền gồm cả cơ quan trọng yếu: Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh chăng?
"Ngày hội hôm nay có phải là ngày Hội Vạn Linh chăng?
'Tôi xin hỏi rõ: thế nào là Thượng Hội, thế nào là Hội Thánh, thế nào là Hội Nhơn Sanh?

"Ấy vậy mà hôm nay, Thượng Hội thời như tuồng sáu vị, sáu vị là người đứng buộc tội Giáo Tông; thì bữa nay là ngày xử, tôi e cái quyền hành của sáu vị ấy phải ở trong phạm vi rất hẹp hòi: vừa buộc tội, vừa xử cũng hơi khó liệu.
"Còn Hội Thánh, Hội Thánh hôm nay có những ai hiện diện.Theo số chức sắc mặc Thiên phục mà tôi thấy đây, thì tôi tưởng e về phương diện Hội Thánh cũng còn thiếu nhiều lắm.

"Hội Nhơn Sanh là ai? Cứ theo luật là một cái hội gồm đủ các chức sắc trong các địa phận, trong các Thánh Thất, các Phái Viên của các tín đồ nam nữ...

"Số Thánh Thất của Đạo thì là 130 cái. Số tín đồ theo thống kê lấy số triệu mà kể. Ấy vậy, mà quí Ngài hãy nhìn thử chung quanh mấy Ngài, tính luôn cả mấy đứa trẻ em nhỏ dại đương ngồi ngó, không hiểu chi hết, cũng chưa lên số vài trăm người, thì sao gọi là nhơn sanh?".

Chưởng Pháp Nguyễn Trung Hậu: "Nếu mấy kỳ nhóm trước không có số quyết định thì bây giờ không thể bắt chặc về số bổn Đạo nhiều hay ít".

Ông Kỳ cười đoạn cùng với ông Phương kiếu hội ra về". (Ban Đạo Sử, tài liệu lưu trử )
Xem như thế, thì việc đem xử Đức Quyền Giáo Tông có định kiến rồi. Dù Đức Hộ Pháp có cử thêm ai thì cũng không biện biệt gì hơn. Cuộc hội nghị một ngày đó, chẳng khác gì lửa rơm bạo phát bạo tàn. Rồi không còn ai để ý gì. Nhưng nếu phải đưa ra một nhận xét, thì phiên hội đó đã không hợp luật pháp (tức Tân Luật và Pháp Chánh Truyền) và truyền thống nghi lễ Cao Đài Giáo không chấp nhận bất cứ ai ngồi chủ tọa một phiên hội mà mặc thường phục, chưa kể một hội nghị tối cao như Thượng Hội hay Hội Nhơn Sanh.

2 . Ba Hội lập quyền Vạn Linh

Đạo Nghị Định thứ năm buộc tất cả chức sắc phải phế đời hành Đạo, còn người ngoài vòng chưa hiến thân chẳng được dự vào Chánh Trị Đạo. Về hình thức ắt có và đủ của ba Hội lập quyền Vạn Linh, thì phải theo Nội luật ngày 22-1-Nhâm Thân (dl.17-12-1932) do Đức Hộ-Pháp và Đức Quyền Giáo Tông đồng ký và ban hành như sau:
1 . Thượng Hội gồm có:
- Giáo Tông . . . . . . . . . . . . . . . Hội Trưởng
- Hộ Pháp . . . . . . . . . . . . . . . . . Phó Hội Trưởng
- Thượng Phẩm . . . . . . . . . . . . Nghị Viên
- Thượng Sanh . . . . . . . . . . . . Nghị Viên
- Ba vị Chưởng Pháp . . . . . . . Nghị Viên
- Ba vị Đầu Sư Nam phái . . . . Nghị Viên
- Đầu Sư Nữ phái . . . . . . . . . . Nghị Viên
- Giáo Sư (trở lên) . . . . . . . . . Từ hàn

Mục đích của Thượng Hội là xem xét và phê chuẩn.

Các điều của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh bàn luận về việc Đạo.
Các điều ước của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh. Trừ các điều nào do Hội Nhơn Sanh mà Hội Thánh để thì không được phép đưa vào Thượng Hội, nếu không có đơn của hai ông chủ tọa kêu nài.

_ Thượng Hội bàn luận và định đoạt các việc cần gấp hoặc yếu trọng phải ban hành trong Đạo.

2 . Hội Thánh gồm có:
- Thái Chánh Phối Sư . . . . . . . . . . Chủ Trưởng
- Từ Giáo Hữu đến Phối Sư . . . . . Hội viên
Hội Thánh xem xét các việc của Hội Nhơn Sanh dâng lên và việc hành chánh trong Đạo, rồi đệ lên Thượng Hội.
3 . Hội Nhơn Sanh gồm có:
- Thượng Chánh Phối Sư . . . . Nghị Trưởng
- Nữ Chánh Phối Sư . . . . . . . . Phó Nghị Trưởng
- Lễ Sanh, Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sư ï: Nghị viên, Phái viên.
- 1 nam và nữ Nghị viên : Từ hàn

Mục đích của Hội Nhơn Sanh là trù tính các việc:
- Giáo hóa nhơn sanh. - Lo liệu phương hay cho Đạo đời khỏi điều phản khắc và nâng cao tinh thần trí thức của nhơn sanh.
- Phổ độ nhơn sanh vào cửa Đạo, dìu dắt tín đồ cho khỏi trái bước, trọn vâng các luật lệ Đạo.
- Sửa sai, thêm bớt hay hủy bỏ những luật lệ của Đạo không phù hạp với trình độ trí thức, tinh thần của nhơn sanh.
- Lo cho nền Đạo được trong ấm ngoài êm và đủ phương tiện đặng phổ thông nền chơn giáo.
- Xem xét và công nhận về phương diện Chánh Trị Đạo, quan sát sổ sách, phân phát tài sản và nghị sổ.

Khi hành Đạo, Đức Phạm Hộ Pháp phải chấp nhận bao nhiêu khó khăn và trở ngại. Đức Ngài vẫn khăng khăng tiến bước trên con đường đi than lửa. Đức Ngài từng tỏ nổi ưu tư nghiệp Đạo, kẻ làm thì ít mà người trích điểm thì nhiều:
"Trước khi Đức Chí Tôn đến gieo truyền mối Đạo là Thiên Điều đã định mở cửa thập nhị khai thiên đặng đem cờ cứu khổ để tại mặt thế này mà cứu vớt toàn cả cửu nhị ức nguyên nhân con cái của Ngài. Đức Chí Tôn giao phó cho Hiệp Thiên Đài, mà trong chức sắc Hiệp Thiên Đài chỉ có 15 vị: Thập Nhị Thời Quân với Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Bần Đạo. Trong 15 vị thì chỉ có bốn đến năm vị lãnh lịnh mà thôi... Mà Hiệp Thiên Đài chỉ lãnh lịnh có bốn, năm vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được". (Lời Đức Hộ Pháp nhân lễ khánh thành các dinh thư ngày 4 tháng 2 năm 1955 )

Bên trong thì như vậy, bên ngoài, chính quyền bảo hộ sợ Đạo bành trướng mạnh mẽ, một mai trở thành một phong trào ái quốc sẽ gây khó khăn cho họ. Họ tìm đủ mọi cách để ly gián, giục loạn dưới mọi hình thức, để tâm lắm mới rõ âm mưu thâm độc của họ. Nào gây mâu thuẫn trong việc làm, gây ý thức trọng bằng cấp hơn Thiên phẩm giữa các chức sắc cao cấp. Họ tạo thành một trường đàm tiếu: Đốc phủ sao đi phò tá hạng Thư ký? Kịp đến khi Ngài Bảo Văn Pháp Quân chấp bút tạo ra bài dâng Tam Bửu mới thay ba bài cũ. Vì trong đó, hai bài dâng rượu và dâng trà cũ giống hệt nhau, chỉ khác năm chữ đầu. Họ vịn vào những sự kiện đó để bày trò chia rẽ. Khởi đầu là Nguyễn Văn Ca tách rời khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về lập Đạo ở Cầu Vỹ (Mỹ Tho). Thấy cơ Đạo sắp phân chia, nên Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh có ra Châu Tri số 31 ngày 22-9-Tân Mùi (1-11-1931) như sau:
"Ngày nay mối Đạo sắp phân chia, vì có một phần chức sắc và tín đồ tự quyền lập Đạo ra nhiều chỗ. Tòa Thánh có khuyên lơn, Tòa Tam Giáo có phán đoán rồi, mà cũng không ai tuân mạng lịnh. Lại cách thi thố, cách hành Đạo của các chức sắc ấy, nhiều khi không tuân phép nước. Nên xin chư hiền hữu hãy xem xét lại cho kỹ càng, rồi biên tên họ những chức sắc nào không tuân mạng lệnh Tòa-Thánh, gởi về trước cho tôi trong kỳ hạn 10 ngày đặng cho chính phủ biết rằng các Đạo hữu ấy hết thuộc Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và tự hậu, Đạo không còn can dự chi tới việc hành động của các vị ấy nữa".

Sau đó, Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh (tức ông Nguyễn Ngọc Tương) gởi cho ông Nguyễn Văn Ca thơ đề Tây Ninh ngày 1-11-1932 với lời lẽ thống thiết, kêu gọi ông Ca mau trở về Tòa Thánh Tây Ninh để tiếp tục hành Đạo. Nhưng tấm lòng chung thủy của ông Nguyễn Ngọc Tương không được lâu bền. Vì ảnh hưởng của dư luận bên ngoài quá nặng, nên sau đó ông cùng Lê Bá Trang tách rời Tòa Thánh Tây Ninh về Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo. Đức Hộ Pháp mới ra Đạo Nghị Định số 17 ngày 28-7-1933 không nhận hai ông này nữa.

Châu tri số 6 ngày 12-6-Ất Hợi (12-7-1935) có ghi:
"Bần Đạo chưa hề đặng lịnh cơ bút của Đại Từ Phụ hay của Đức Lý định nhượng phẩm ấy (Phẩm Giáo Tông ) cho người nào cả.
'Sự hành động mê hoặc tín đồ của Đạo hữu Thượng Tương Thanh đều là giả dối, huống chi sự hám vọng của người đã nảy sinh ra từ khi Đức Quyền Giáo Tông còn tại thế, chỉ cố xô ngã Thượng Trung Nhựt để tìm phương tiếm vị.

"Bần Đạo chỉnh nguyện cho Thượng Tương Thanh lấy thủ đoạn thu phục nhân tâm sao cho đặng toàn hết thiên hạ, rồi Bần Đạo sẽ đem hết áo mão Giáo Tông ra quì trước cửa Tòa Thánh đặng dâng cho người, nâng đỡ người lên ngôi báu đặng làm chúa cả toàn sanh chúng.

"Hại thay cái sở nguyện ấy e không đắc nguyện đặng vì dưới mắt Bần Đạo thấy, ba tay kiện tướng của người là ông Qui, ông Hậu, ông Kim cũng phản người rồi đó". (Ông Nguyễn Trung Hậu, Nguyễn Văn Kinh sau trở về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo, ông Cao Quỳnh Diêu cũng rời bỏ ban Chỉnh Đạo trở về Tây Ninh )

Rồi từ đó sự phân chia ngày càng nhiều. Thánh Thất này đôi trăm người lập ra một phái, Thánh Thất kia vài trăm người độc lập không phụ thuộc ai. Chung cuộc vẫn thờ Đấng Cha chung là Ngọc Hoàng Thượng Đế.

3 . Ngài Lê Văn Trung đăng tiên

Đức Quyền Giáo Tông rồi cũng theo gót Đức Cao Thượng Phẩm qui thiên (13-10-Giáp Tuất) để một mình Đức Hộ Pháp chiếc thân lèo lái thuyền Đạo lướt qua bao cơn thử thách nhọc nhằn.
Trong ngày lễ an táng xác Đức Quyền Giáo Tông (26-10-Giáp Tuất nhằm ngày 2-12-1934), Đức Hộ Pháp đọc văn tế có đoạn như sau:
"Giữa thế kỷ 20 này, toàn địa cầu nhơn sanh đều xu hướng về đường vật chất, đua tranh náo nhiệt, mạnh đặng yếu thua, khôn thì còn, dại thì thác, làm cho cá nhân và cả xã hội sanh hoạt khó khăn mà quên cả tinh thần vi chủ...
"Đời chẳng khác nào chiếc thuyền chịu sóng gió ba đào lênh đênh khổ hải. Những khách giang hồ của Tạo Công ai lại chẳng phập phồng rơi châu đổ ngọc. Trong cơn khổ não tâm hồn ấy, ngẫu nhiên gặp cứu tinh giải nạn là: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ của Đức Thượng Đế chấn hưng tôn giáo.

"Ngài đến đặng nhìn nhận các Đạo là phương giáo hóa của Ngài và dung hợp các triết lý của đời dưới khuôn phép lương tâm làm chủ.
"Từ năm Bính Dần (1926) là năm Đạo mở tại Nam Kỳ đến nay, Anh Cả chúng tôi Lê Văn Trung, Đạo tịch Thượng Trung Nhựt đảm nhiệm vai tuồng rất lớn lao là phổ độ dìu dắt nhơn sanh vào đường chánh giáo.
"Một mối Đạo rất cao thâm mầu nhiệm mà chính Đức Thượng Đế gieo truyền trong nước nhỏ Việt Nam, thiết tưởng sự khó khăn mà Anh Cả chúng tôi trọn chịu chín năm, chẳng quản nhọc nhằn một tay chống vững thuyền Đạo, bền chí lướt qua mọi khổ hải.
"Đạo mở vào buổi nhơn sanh đương khuynh hướng về đường vật chất thì cái tôn chỉ Đạo phải có thực lực gì cực kỳ mãnh liệt mới dung hòa nổi hai thuyết duy tâm và duy vật; phải hợp thời thì nhơn sanh mới chịu hoan nghênh mà bước vào cửa Đạo. Nếu Đạo không có cái tôn chỉ duy tân cải cách theo trình độ tiến hóa của nhơn sanh thì Đức Thượng Đế chẳng cần nhọc công tái lập vì Đạo đã có sẵn từ tạo thiên lập địa rồi.
"Trong các tôn giáo: Phật Giáo, Lão Giáo, Nho Giáo, Cơ Đốc Giáo cũng có nhiều triết lý cao siêu theo đó mà hành Đạo cũng tiến hóa. Mỗi tôn giáo ấy đều có một tôn chỉ đặc thù phù hợp với phong hóa tùy mỗi thời đại chớ không hợp thời buổi bây giờ. Đạo có những điều tối ưu như thế, tất phải có người tài đức làm hướng đạo mà truyền bá cho nhơn sanh, khỏi lầm đường lạc lố và cũng phải có đại hùng, đại lực mới gánh vác nổi trách nhiệm lớn lao của Đại Đạo.
"Anh Cả chúng tôi trước khi vào Đạo vẫn là người duy vật cũng như mọi người ngoài đời; về đường danh lợi Người chẳng nhượng cho ai; kịp khi Đạo mở Đức Thượng Đế kêu đích danh Người mà phó thác Đạo Trời.
"Phong trào duy vật (đây muốn nói chuộng bả lợi danh, đua đòi vật chất ) đang sôi nổi, Người đương thời phấn đấu mà Người cũng vui lòng phế hết việc đời để hiến thân cho Đạo. Buổi ban sơ chỉ có vài ba anh em theo Đạo, cũng có kẻ trắng người đen, không đồng tâm chí, nghịch lẫn nhau. Nhưng vì lòng háo đức của Người sẵn có, Ngài không chút ngại ngùng bạo gan chí sĩ mà hiến mình trọn vẹn lập Đạo mới thành, công ấy thưởng nầy làm Anh Cả chúng sanh cũng đáng.
"Vào Đạo rồi, khi thì lập đàn thương giáo cùng các Đấng Thiêng Liêng, khi đi phổ độ khắp Nam Kỳ. Không nói ra ai ai cũng rõ, những nỗi khó khăn về hiệp hội ở xứ mình. Cho nên lúc khai Đạo gặp nhiều nỗi tân khổ, lại còn nhiều nỗi cam go với Đạo hữu các nơi. Khi Đạo có mòi hoằng hóa. Sau đó, Hội Thánh Ngoại Giáo thành lập ở Kiêm Biên, tuy gặp lắm nỗi truân chuyên mà Người cũng cứ nhứt tâm, nhứt đức theo đường thẳng tiến hành không bao giờ nãn lòng thối chí.
"Vì sao Đức Thượng Đế không chọn người nào khác mà đem mối Đạo lớn trao cho Người lúc ban sơ? Có ai dám nói Đức Chí Tôn dùng lầm!
"Vậy thì, tôn chỉ của Đại Đạo đã biểu lộ rõ ràng, bí quyết đạt Đạo chẳng phải do một mặt yếm thế để tịnh dưỡng tinh thần, mà phải lịch lãm về nhân sự và phải xuất chúng, rồi lấy đạo đức mà cứu nhơn quần.
"Xã hội phải tùy sở nguyện của chúng sanh mà lập phương phổ hóa, thì cái công tu luyện kia mới bổ ích. Vì vậy Anh Cả chúng tôi mới đắc dụng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
"Anh Cả chúng tôi có nhiều điều kiện hợp lý với tân thời mà cũng không nghịch với phong hóa cũ.
"Vậy nên, Đức Chí Tôn mới dùng Người để làm mô phạm cho cả anh em Đạo hữu và cho đời thấy rõ một phần chơn lý trong tôn chỉ Đại Đạo.

"Theo thời đại khoa học đang nổ lực phát dương này, nếu đem cái thuyết duy tâm cực đoan mà phổ hóa chúng sanh không khỏi bĩ hậu; còn nếu chuyên một mặt duy vật mà tiến hành thì xã hội có ngày ắt bị tiêu diệt về nạn cạnh tranh. Vậy phải chiết trung hai thuyết mà dung hòa thì đời mới đặng vừa tấn hóa theo văn minh khoa học, vừa duy trì đặng tâm hồn đạo đức. Nhờ hiểu ý nghĩa cao thâm như vậy mà Anh Cả chúng tôi không vì hoàn cảnh mà quá ư thiên lệch về một mặt nào. (Đạo Cao Đài theo thuyết Trung Dung, không theo duy tâm mà cũng không theo duy vật, vì tâm vật đều do khí hóa tạo thành, mất quân bình âm dương sẽ rối loạn, nên Đạo chủ trương Tâm Vật bình hành )

"Chúng tôi còn nhớ rất rõ lời tuyên bố của Anh Cả chúng tôi như vầy:
"Ngày nào nhơn sanh còn khốn khổ thì chưa phải ngày anh tọa hưởng an nhàn, dầu anh đắc quả mà qui Tiên, anh cũng nguyện tái kiếp để độ tận chúng sanh".
'Bác ái thay lời tuyên bố ấy, không cần khoe khoan bằng văn chương, với những lời chất phác trên kia cũng tả đặng tâm tình của một trang đại đức.

"Theo thế thường, người đi tu nào cũng hy vọng thành Tiên, chứ ít ai ở lẫn lộn trong chốn hồng trần. Vậy mà Anh Cả chúng tôi chẳng hề nao núng, thậm chí có người lo sợ khuyên Người giải quyền (tước) nhập tịnh cho yên. Người nói rằng dầu phải tử vì Đạo Người cũng vui lòng, chớ Người không sợ chết mà bỏ quên phận sự. Xem đó, đủ thấy cái đại chí của Người vì Người thấu mục đích tối cao của Đạo. Tôn chỉ của Đạo không dữ mà hùng, hòa mà không nhược.

"Cái ý nghĩa đó, Anh Cả chúng tôi hiểu và đã thực hành, nên Đạo mới đứng vững đến ngày nay.

" Anh Cả chúng tôi còn hiểu rộng nghĩa chữ "Từ Bi Bác Ái" nên gặp phải nhiều phản động lực của những người thiển kiến... Anh Cả chúng tôi không vì sự thương thấp thỏi của thường tình mà bỏ cái thương đại đồng thế giới cho nên phải gặp nhiều nỗi tân toan...

"Ngày nay Anh Cả chúng tôi đã vào cõi hư vô, thiết tưởng những phản động lực kia (Dự vào châu tri số 1 ngày 7 - 3 - Quí Dậu. Ông Nguyễn Phan Long [ở đây ghi là nhóm duy vật] hướng dẫ một số người lên Tòa Thánh mở Hội Vạn Linh bị nhóm duy tâm của Giáo sư Thượng Chữ Thanh cống lại.) cũng lần lần giảm bớt...Cái khó nhứt là phải có đủ đức kiên nhẫn để chống lại các phản động lực trong Đạo và ngoài đời. Nhiều lý thuyết tương phản nhau vì trí độ của con người không thể đồng đều nhau: kẻ thì ưa thuyết duy tâm, cứ chuyên chú một mặt tiêu cực; còn người thích duy vật thì chuyên chú một mặt tích cực. Mỗi phía đều cực đoan, tránh sao khỏi xung đột. Hai phía xung đột nhau mà bắt Đạo ở trung gian là nơi chiến địa thì kẻ cầm quyền trong Đạo tránh sao khỏi những nỗi khó khăn. Vì vậy Anh Cả chúng tôi chịu nhiều đau đớn.

Ôi! Một đấng anh hùng như thế, một tay kiện tướng của Đạo nay đã ra người thiên cổ. Dẫu gan sắt dạ đồng cũng phải rơi châu mà thương tiếc. Anh Cả ơi!". (Tiểu Sử Đức Quyền Giáo Tông, Tây Ninh 1973, tang 123-128 )

Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung mất đi để lại trong Đạo một khoảng trống rất lớn. Khi Ngài lên cầm quyền Giáo Tông thì phẩm Đầu Sư khuyết vị nên ba vị Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh lên nắm quyền Đầu Sư. Khi hai ông Tương, Trang về Bến Tre thì Tòa Thánh khuyết vị Đầu Sư. Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp đồng ý đưa ba vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài qua Cửu Trùng Đài cầm quyền Chánh Phối Sư mà lập thành Hội Thánh. Khai Đạo Phạm Tấn Đãi làm Thái Chánh Phối Sư, Khai Pháp Trần Duy Nghĩa là Ngọc Chánh Phối Sư , Khai Thế Thái Văn Thâu là Thượng Chánh Phối Sư. Quyết định này bị một số chức sắc phản đối, yêu cầu trả các Thời Quân về Hiệp Thiên Đài. Như vậy Cửu Trùng Đài là một ngôi nhà trống không Giáo Tông, không Đầu Sư, không Chánh Phối Sư.

Sau việc qui thiên của Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ Pháp thừa hưởng sự trống vắng như vậy. Sau thời gian dài suy nghĩ, chức sắc Cửu Trùng Đài, chức sắc Hiệp Thiên Đài, toàn thể quyết nghị triệu tập hội Nhơn Sanh vào ngày lễ Đại Tường của Đức Quyền Giáo Tông (8.11.35) để giải quyết tình hình bức thiết của nền Đạo. Hội Nhơn Sanh là trí huệ tập thể, là ý dân cao nhứt trong nền Đạo với quan niệm "Thiên Nhân hợp nhất", "ý dân là ý Trời". Thầy đã dạy: "Việc gì hợp với lòng chư môn đệ là hiệp với ý Thầy". Thế nên việc đưa Đức Hộ Pháp lên nắm Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài đó là ý muốn của nhơn sanh lúc bấy giờ và được sự đồng tình của Hội Thánh Cao Đài. Quyết định ấy cũng có tính cách giai đoạn đoản kỳ để cứu lấy nền Đạo một khi khống khuyết chức sắc bên Cửu Trùng Đài.

Chuyện này nổi lên Hội Vạn-Linh, một đứa con hoang ngoài luật pháp Đạo. Vì chỉ có "Ba Hội lập quyền Vạn Linh" chớ không hề có "Hội Vạn Linh". Người ta hiểu mập mờ: lấy quyền Vạn Linh mới đánh đổ Đạo quyền Chí Linh. Từ sau khi Bát Đạo Nghị Định ban quyền hành cho Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, kế đến đàn cơ tại Thảo Xá Hiền Cung ban quyền Chí Tôn tại thế cho nhị vị Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp. Một số chức sắc ở Sài gòn lôi kéo thêm một số tín hữu về Tòa Thánh Tây Ninh mở Hội Vạn Linh (?) để chống lại Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và thử sức người cầm luật là Hộ Pháp (bảo hộ luật pháp).

Động cơ nào thúc đẩy nhà báo Nguyễn Phan Long mặc âu phục ngồi giữa Đền Thánh chủ tọa một hội nghị lớn như vậy. Số là thực dân Pháp quá khó chịu trước hành động đưa "Tờ Khai Đạo" rồi ngang nhiên hành Đạo của Đức Quyền Giáo Tông. Thêm vào đó Đức Ngài còn trả Bắc Đẩu Bội Tinh, huy chương cao quí mà Pháp ban tặng. Mặt khác Đức Phạm Hộ Pháp bỏ việc về hành Đạo chỉ vì thực dân Pháp đổi Ngài đi Cái Nhum. Hai vị ấy, Pháp phải trừng trị qua việc xúi giục nhà báo Nguyễn Phan Long để "bôi bẩn" Đức Quyền Giáo Tông; thuận lợi sẽ lật đổ. Nhưng với sự cương quyết của Đức Hộ Pháp, Đức Ngài thừa hiểu: họ khảo dượt Đức Quyền Giáo Tông nhưng để thử thách "viên thơ ký" cầm luật Đạo. Đức Ngài phải nhờ luật sư Diệp Văn Kỳ để đối phó luật đời lẫn luật Đạo. Sở dĩ có hành động như vậy vì nhóm Nguyễn Phan Long am hiểu luật đời nhiều hơn luật Đạo nên sai lầm mà lập Hội Vạn Linh (?).

Cơn dông bão nào rồi cũng qua đi, để lại những vết hằn cho lời đàm tiếu của nhơn sanh.

PHOTO
Đức Hộ Pháp quan sát trước Lễ Đức Chí Tôn

PHOTO
Hộ Pháp Đường xây dựng năm 1948


CHƯƠNG IV

CHƯỞNG QUẢN NHỊ HỮU HÌNH ĐÀI
(1935 - 1940)

1 . Nắm quyền Chánh Trị Đạo
Từ khai Đạo đến đây, Đức Phạm Hộ-Pháp vẫn giữ đúng vai trò tư pháp và đồng tử trung gian giữa Trời và người. Có thể nói thời gian trước Ngài là cái bóng mờ. Năm Ất Sửu (1925), thuở tìm học Đạo thì Ngài chỉ là Nhị ca mà Đức Cao Thượng Phẩm là Đại ca. Khi Đức Chí Tôn dự kiến phong cho Ngài Ngô Văn Chiêu làm Giáo Tông thì Ngài vẫn vào hàng áp út.
Ngao ngán không phân lẽ thiệt không ,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.

Khi Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung cầm giềng mối Đạo là Anh Cả, Đức Ngài vẫn là hàng em(Xem lại các bài giảng Đạo lúc ấy ta thấy Đức Ngài xưng Em )

Những sự kiện đó đánh tan những ai cho Ngài lập Đạo để làm hậu thuẫn hoặc mưu đồ gì (?). Cao Đài Giáo là do Thiêng Liêng lập ra mà Đức Ngài và Đức Cao Thượng Phẩm chỉ là cặp cơ phong Thánh đầu tiên để tạo cơ chế Đạo.

Đức Ngài đã chứng kiến ba cơn khảo của ba vị Đại Thiên Phong: Đức Ngô Minh Chiêu, Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư và Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.

1) Vụ Ngài Ngô Minh Chiêu không nhận Thiên Phẩm Giáo Tông chỉ vì quan niệm "ngô thân bất độ hà thân độ". Hơn nữa "ông Chiêu vẫn là người dè dặt, nếu không phải là bạn đồng tâm mật thiết thì không bao giờ ông khuyên tu hành". (Theo "Đại Đạo căn Nguyên" của Nguyễn Bảo Pháp)

Đạo hiệu của Ngài Ngô là Minh Chiêu tức Chiêu Minh Linh Giác. Hai Ngài Ngô Phạm có huệ nhãn nhìn biết áo Giáo Tông thêu bát quái chỉ là áo Tiểu phục, còn Đại phục Giáo Tông là áo tràng trắng có thêu hoa sen vàng, đến khi lập Pháp Chánh Truyền toàn Đạo mới rõ. Việc định ban phẩm Giáo Tông là Thầy thử Ngài có trọn Đạo vô vi và đắc vị tại thế chưa! Một ít suy luận điều này điều nọ làm cho nền Đại Đạo ly tán là trí lực còn hẹp hòi. Đức Phạm Hộ Pháp lúc nào cũng xem Ngài Ngô là Anh Cả. Vào vía Đức Phật Mẫu năm 1954, Đức Hộ Pháp giới thiệu Ngô Khai Minh, con trai út của Đức Ngô với chức sắc tại Tòa Thánh: "Đây là con trai Đức Ngô Minh Chiêu giáo chủ Đạo Cao Đài". (Tiểu Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu, Sài Gòn 1962 )

Nhờ sự quan tâm đó của Đức Hộ Pháp mà Ngô Thanh Phong con thứ chín của Đức Ngô dời nhà về Tây Ninh ở gần Mít Một. Chính đồng đạo Ngô Thanh Phong tặng soạn giả bức hình của Đức Ngô khi nhận thờ Thiên Nhãn. (Hình này từ trước đến nay chưa được công bố )

2) Vụ Đức Cao Thượng Phẩm xảy ra vì sự hiểu lầm của một vài tín hữu (Xem Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư cùng người viết ). Trong khi đó Đức Hộ Pháp phải tịnh pháp ở Thủ Đức. "Cho đến bảy tháng, lúc xuống ở Thủ Đức, năm thiên hạ bị bệnh chướng, khi không khởi phù mình rồi chết, nhứt là ở Thủ Đức lắm bịnh nhân quá chừng. Đức Chí Tôn bảo xuống Thủ Đức cứu bệnh cho họ trong bảy tháng, xuống ở Thánh Thất của Đạo. Nhờ Đức Lý giáng dạy với ngòi bút, trọn bảy tháng trường mới biết Đạo. Cái hay ho hơn hết là những gì Ngài dạy trong cơ bút là những sở hành trong kiếp sanh của Bần Đạo". (Đức Hộ Pháp thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 17 - 8 - Quí Tỵ, [tức năm 1953] )

Người gây bệnh khổ cho Đức Cao Thượng Phẩm là Nguyễn Phát Trước. Một tay "anh chị" ở vùng Sài gòn - Chợ Lớn được Đức Quyền Giáo Tông độ vào Đạo, nên Tư Mắt (tức Nguyễn Phát Trước) chỉ có Ngài Lê Văn Trung nói mới nghe.

Tư Mắt làm chức gì trong Đạo (?) xưa nay ít ai để ý điều này. Trong đàn cơ ngày 26-10-Bính Dần, ông Trần Văn Tạ được phong Hộ Đàn Pháp Quân (coi trong đàn lễ), và Nguyễn Phát Trước được phong Chưởng Nghiêm Pháp Quân (coi bên ngoài đàn lễ) (Theo Nguyễn Hương Hiếu, "Đạo Sử" , Q. II, trang 12 ). Theo Đạo sử quyển II, nơi trang 55 ghi:
"Mắt! Thầy dặn con cứ nghe lời Thầy...
"Còn sắc phục, con phải mặc áo nịt một sợi dây lưng ba màu: vàng, xanh, đỏ; có chữ ngay giữa: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và một cây Trượng, trên có lá cờ cũng đề như vậy. Bộ y phục như của Tạ, nghe à!".
Nên biết lầu nhà Tư Mắt hiến làm Thánh Thất, sau thành Trước Lý Minh Đài. Chính nơi đây khai sanh quyển Đại Thừa Chơn Giáo, nội giáo tâm truyền của phái Chiêu Minh. Dù ở Thủ Đức, khi hay tin Đức Cao Thượng Phẩm bệnh nặng, Đức Hộ Pháp về Tòa Thánh ngay. Trước khi lâm chung, Đức Thượng Phẩm chỉ mời Đức Hộ Pháp đến dặn dò thì đủ hiểu tình của Đức Hộ Pháp đối với Đức Cao Thượng Phẩm là thân ái nhường nào!

3) Vụ Đức Quyền Giáo Tông tuy có sơ xuất một vài nguyên tắc hành chánh, nhưng Đức Ngài cũng đưa ông Diệp Văn Kỳ đến bênh vực cho biết phiên họp đó ông Nguyễn Phan Long ngồi ghế Nghị Trưởng không hợp với lẽ Đạo. Ba vụ trên chứng tỏ được nghĩa khí của Ngài là thế nào đối với người đồng hành. Chưa kể khi Ngài Bảo Văn Pháp-Quân Cao Quỳnh Diêu bỏ Bến Tre trở về Tòa Thánh; lúc qui vị, Đức Ngài cho hành đại lễ liệm trong liên đài và táng trước Đại Đồng Xã.

Vào ngày lễ Đại Tường của Đức Quyền Giáo Tông (ngày 8 tháng 11 năm 1935), đồng thời cũng là Đại Hội Đồng gồm tất cả Nhơn Sanh và Hội Thánh nhóm tại Tòa Thánh Tây Ninh vào ba ngày 8, 9, 10 tháng 11 năm 1935, có hàng vạn tín đồ các nơi về tham dự.

Toàn Đại Hội đã đồng thanh tín nhiệm Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cầm quyền thống nhất Chánh Trị Đạo cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị (Sài Gòn ngày 8-11-1935 ).

Tờ của Hội Nhơn Sanh đã biểu quyết như vầy:
"Nghị viên nam nữ Hội Nhơn Sanh nhóm Đại Hội thường niên tại Tòa Thánh ngày 17-10-Ất Hợi, đồng lòng bỏ thăm tín nhiệm chánh sách độc tài của Đức Hộ Pháp và xin đem hết tâm trí giúp Ngài đạt thành sở vọng, đưa cả chúng sanh đi tận trên con đường Thánh Đức của Đức Chí Tôn.
"Thảng như phải dụng hết khổ tâm để làm màu cho thiên thơ thì chúng tôi cũng đều vui lòng hiến thân cho nên chánh giáo, đặng Hội Thánh cầm giữ quyền hành và nhặc giữ pháp luật".

Và tờ của Hội Thánh như vầy:
"Nghị viên nam nữ Hội Thánh nhóm Đại Hội bất thường tại Tòa Thánh ngày 18-10-Ất Hợi, sau khi Đức Hộ Pháp giải bày về tình hình hiện thời của Đạo, đồng thời bỏ thăm tín-nhiệm chánh sách độc tài của Ngài, hầu vùa giúp Ngài có đủ quyền hành giữ nghiêm pháp luật Đạo".
Thế là từ đó về sau, Đức Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài, Hiệp Thiên và Cửu Trùng để lo xây dựng chánh pháp và Đạo sự đặng bảo tồn chơn truyền, dìu dắt con cái Đức Chí Tôn trên đường Thánh Đức.

Đức Lý Giáo Tông giáng cho bài thi quán thủ:
Hộ giá Chí Tôn trước tới giờ,
Pháp luân thường chuyển máy Thiên cơ.
Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi vị,
Quản xuất Càn Khôn định cõi bờ.
Nhị kiếp Tây Âu cầm máy tạo,
Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ.
Hình hài Thánh Thể chừ nên tướng,
Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ.

Tiếp Dẫn Đạo Nhơn G. Gobron cũng viết "Sa Sainteté Phạm Công Tắc fut proclamé Supérieur du Caodaisme par le Conseil Populaire et par le Conseil Sacerdotal en remplacement du feu Pape intérimaire M. Lê Văn Trung désincarné en 1934". (G. Gobron, Histore et Philosophie du Caodaisme-Paris, Dervis 1949, trang 85 )

Lục Nương Diêu Trì Cung giáng cơ bày giải việc này như sau:
"Em đặng tin lành: Ngọc Hư lo chung giữ pháp. Cả thiên thơ hủy phá, sửa cải pháp chơn truyền. Chư Thần , Thánh, Tiên, Phật vui mừng chẳng xiết. Diêu Trì Từ Mẫu đẹp dạ vô cùng, ngâm bài:
Vú mẹ chưa lìa đám trẻ con,
Độ sanh chưa rõ phải mộng tròn.
Quyền cao Ngự Mã đà vinh lấy,
Phận mỏng Hiệp Thiên biết giữ còn.
Lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo,
Vẻ tươi bợn thế nét dò đon.
Thà xưa ví bẵng nay gìn vậy,
Lòng mẹ ngại ngùng, con hỡi con!

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, các Đấng cho biết: Thiên thơ cải sửa, để cho Đức Phạm Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài vì Cửu Trùng Đài bất lực.

Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Thành Pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì

Ngày 18-10-Ất Hợi (13-11-1935), Đức Lý giáng cơ tại Giáo Tông Đường, có đoạn viết:
"Thảng như Lão có muốn làm nên cho Đạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội Thánh hữu hư vô thực như vậy. May thay! Thiên thơ do một mặt chẳng chi dời đổi trở ngăn. Từ đây Lão có phương cầm quyền trị thế.
"Hộ Pháp bạch: Đệ tử xin giao quyền Giáo Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ tài cầm Thiên thơ chặc.

"Cười, Lão cho, không lẽ lấy lại, hai là hành pháp thì dễ, hành hình thì khó. Cứ để y.

Nghe thi này và kiếm hiểu.
Bát nhã từ đây vững lái thuyền,
Tuông pha khổ hải độ nhơn duyên.
Gay chèo thoát khổ đầy linh cảm,
Rạch nước trừ oan đủ diệu huyền.
Thổi thẳng cánh buồm thì Lão thủ,
Nâng an lòng bảng cậy Thần Tiên.
Phong ba mấy độ đà qua khỏi,
Ném thử Giáng Ma đóng Cửu Tuyền."

Ngày 1-12-Quý Tỵ, Đức Lý giáng cơ cho biết:
"Hiền hữu có nghĩ tại sao Lão phải ban quyền Giáo Tông cho Hiền hữu đặng trọn quyền Chí Tôn hữu hình tại thế chăng?
"Do lòng từ bi vô tận của Đại Từ Phụ. Người sợ oai của Lão quá chấp nệ phàm tánh, không dung thứ tội cho con cái của Người, nên giao cho Hiền hữu là bạn đồng sanh biết đau đớn, khổ cực với mảnh thi phàm mà rộng dung cho họ.

"Quyền Chí Tôn trong tay Hiền hữu thì cứ tự dụng đặng định vị cho Thánh Thể của Người. Lão chẳng can thiệp vào đó".

Tổ chức Đạo Cao Đài quá phân quyền, đó là một điều hay nếu trình độ trí thức của toàn Đạo cao, và mỗi người biết chịu lấy phần trách nhiệm của mình. Nếu không được vậy guồng máy trở nên nặng nề và khó mà đối phó với tình thế dầu sôi lửa bỏng về tình hình trong nước cũng như quốc tế. Trong bối cảnh lịch sử như thế, quyết định của Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh là một quyết định thức thời. Nhờ tập trung quyền hành trong tay mà Đức Hộ Pháp đã lái con thuyền Đạo khỏi bao cơn phong ba bão tố.

Không những chính phủ Pháp làm khó dễ, mà chính triều đình Huế cũng cấm truyền Đạo: "Bảo Đại tự nhiên cấm bất đắc truyền giáo Trung Kỳ". Chức sắc nào được bổ ra Trung đều bị bắt phóng trục về Nam.

Trong khoảng thời gian này khó khăn nhất cho nền Đạo, bên trong thì chia rẽ chi phái lũng đoạn tuyên truyền xuyên tạc bôi bẩn các Chức sắc và Hội Thánh. Bên ngoài thì người Pháp hạn chế việc truyền giáo, bí mật lồng người vào Đạo để theo dõi và tìm tài liệu và phóng đại gởi về chính quốc báo cáo để diệt Đạo.

2 . Chức sắc Hiệp Thiên Đài cấp dưới

Vì thế, các chức sắc cao cấp bị mật thám theo dõi. Hầu hết Thập Nhị Thời Quân rời Tòa Thánh về quê. Không thể để bộ phận pháp chánh bị trống vắng, nên Đức Phạm Hộ Pháp cầu xin các Đấng cho thành lập các chức sắc Hiệp Thiên Đài cấp dưới Thời Quân.

Ngày 16-02-Ất Hợi (20-3-1935), đàn cơ tại Tòa Thánh Đức Chưởng Đạo dạy như sau:
"Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ou Victor Hugo
Cười...khi nảy có Thượng Phẩm và Quyền Giáo Tông nơi đây, song hai vị mới hộ tiễn nữ phái...cười...Quí hóa dữ ha!
Thưa Hộ Pháp, Bần Đạo để lời chia vui cùng Ngài, hôm qua nhờ có Thánh Chỉ Chí Tôn, nên mới đặng rộng đường xuất Thánh...Bần Đạo có để lời trân trọng cầu thưởng cho Học Tu nên mới đặng cao phong phẩm giá.

Cười...Phẩm trật rắc rối khó nói rõ, nhưng chia ba pháp, đạo, thế thì sự hiểu biết của Bần Đạo như vầy:
Sĩ Tải là Sécrétaire Archiviste.
Lên phẩm Truyền Trạng là Greffier.
Rồi lên phẩm Thừa Sử là Commissaire de la Justice.
Lên phẩm Cải Trạng là Avocat.
Lên phẩm Chưởng Ấn là Chancelier.
Lên phẩm ấy rồi tùy phái lên địa vị Hiệp Thiên Đài, nhưng phải biết rằng Chưởng Ấn phải lên địa vị Tiếp Dẫn Đạo Nhơn mà đắc phong phổ thông đặng một nước rồi mới vào chánh vị (Hương Hiếu, "Đạo Sử II", trang 318 ).
Ngoài ra, còn thêm phẩm Luật Sự dưới cấp Sĩ Tải được thành lập bởi sắc lệnh của Đức Phạm Hộ Pháp số 34/SL ngày 23-5-Bính Tý (11-7-1936). Phẩm này do khoa mục tuyển chọn.

Theo Sắc Lịnh 34 ký ngày 23-5-Bính Tý (11-7-1936) của Đức Phạm Hộ Pháp, ngoài các thí sinh có bằng cấp ra, các chức việc sau đây cũng được dự thi:

"Bần Đạo mở khoa mục, tuyển chọn hàng Luật Sự trong chức việc nam nữ kể ra sau đây:
1 . CHÁNH TRỊ SỰ nam nữ đặng dự thi, khi đã hành Đạo trên ba năm.
2 . THÔNG SỰ nam nữ đặng dự thi, khi đã hành đạo trên năm năm.
3 . TÍN ĐỒ nam nữ giữ luật pháp và trọn trung, trọn nghĩa cùng Đạo từ buổi ban sơ.
Chức Luật Sự Hiệp Thiên Đài trấn nhậm một họ Đạo, làm đầu Chánh Trị Sự và Thông Sự về mặt luật pháp nhưng tùng quyền Sĩ Tải và không được xử đoán".

Theo quyển Nền Chánh Trị Đạo của Khai Pháp Trần Duy Nghĩa soạn dưới sự chỉ đạo của Đức Hộ Pháp, nơi trang 61 viết như sau:
"Chức sắc Hiệp Thiên Đài ngoài Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân, còn có Thập Nhị Bảo Quân là: Bảo Huyền Linh Quân, Bảo Thiên Văn Quân, Bảo Địa Lý Quân, Bảo Văn Pháp Quân, Bảo Sĩ Quân, Bảo Nông Quân, Bảo Công Quân, Bảo Thương Quân, Bảo Sanh Quân, Bảo Học Quân, Bảo Y Quân, Bảo Cô Quân".

3 . Qui định về Lễ Sĩ, Giáo Nhi và Bộ Nhạc

Trong thời gian kiêm mhiệm Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài, Đức Ngài chăm lo mọi mặt không những cho chức sắc, chức việc mà còn ưu ái mọi nhân viên công quả. Dưới đây là Sắc Lịnh 51/SL về Lễ Sĩ và Giáo Nhi và Thánh Lịnh 25 về Bộ Nhạc.

SẮC LỊNH
Số 51/SL

Nghĩ vì Tân Kinh là kinh tận độ đã ra nên cần nhất phải có Lễ Sĩ, Giáo Nhi dạy mấy em Đồng nhi rỗi phần linh hồn cho con cái Đức Chí Tôn khắp cả các nơi mà phướn Đạo đã đủ huyền vi che chở;
Nghĩ vì Hội Thánh mong mõi mở rộng con đường Thánh Đức cho đoàn hậu tấn bước vào hàng Thánh thể của Đức Chí Tôn đặng lập vị;

Nghĩ vì các em Đồng Nhi từ 11 năm mở Đạo đến nay trưởng thành, nên buộc Hội Thánh định phần phong thưởng công nghiệp, nên:

SẮC LỊNH

Từ đây mở khoa mục các năm cho LỄ SĨ và GIÁO NHI thi cử.
Lễ Sĩ: thì mặt kinh luật của Đạo về phần QUAN HÔN TANG TẾ, nhứt là Lễ Nhạc. Buộc Lễ Sĩ cho biết một món đờn trong mấy món Tam, Tiêu, Tranh, Đản, Kìm, Tỳ, Cò, Độc.

Giáo Nhi: phải thuộc lòng TÂN KINH và cũng phải thuộc một món âm nhạc như Lễ Sĩ. Những đồng nhi nam nữ có đủ giấy chứng của Tòa Thánh, lớn hơn hai mươi bốn tuổi mới đặng thi Lễ Sĩ và Giáo Nhi và phải biết viết, biết đọc chữ quốc ngữ.

Mỗi năm mở khoa thi ngày 15-10 tại Tòa Thánh. Hội Thánh chia ra hai thứ Lễ Sĩ và Giáo Nhi.
1 . Thi đậu Lễ Sĩ và Giáo Nhi hiến thân trọn đời cho Hội Thánh, nhứt là Giáo Nhi đã tuyên thệ thủ trinh hành Đạo, thì sẽ đặng thuyên bổ hành chánh trong các Thánh Thất, bất cứ nơi nào kể năm năm công nghiệp, thì thăng vị khỏi cầu phong.

Lại nữa, Lễ Sĩ và Giáo Nhi nầy trên quyền Chánh Trị Sự và dưới quyền Lễ Sanh, nhưng về mặt Lễ Nhạc Quan, Hôn, Tang, Tế mà thôi, chớ không đặng dự về mặt chánh trị hay là mặt luật pháp của Tòa Đạo.

2 . Là hàng Lễ Sĩ và Giáo Nhi còn ở lại gia đình, nhứt là Giáo Nhi có chồng con, theo thế không đặng vào Thánh Thất nào mà hành sự hết, duy hành sự nơi xóm làng mình mà thôi, lại buộc mỗi năm phải dạy ít nữa là trên 36 Đồng Nhi, Lễ Sĩ thì dạy nam, còn Giáo Nhi thì dạy nữ, chớ không đặng dạy lộn xộn nam nữ chung nhau.

Cấm nhặt Lễ Sĩ không đặng dạy Đồng Nhi nữ. Nếu mỗi năm một chức sắc, chức việc sở tại nói rằng dạy thiếu, không đi hành Đạo thì ngưng chức liền.

Hội Thánh không cần minh tra lại nữa, hạng này tùng quyền Chánh Trị Sự về Quan, Hôn, Tang, Tế mà thôi, chớ không đặng dự vào chánh trị và luật pháp Tòa Đạo, tám năm công nghiệp đổ lên mới đặng cầu phong vào hàng Lễ Sanh, nhưng do nơi tờ yêu cầu của chức sắc và chức việc sở tại mới đặng.

Lễ Sĩ ăn mặc: như Lễ Sanh nam phái, nhưng trên mảo ngang trán có tam sắc Đạo và Cổ Pháp của Giáo Tông là: Thư Hùng Kiếm, Long Tu Phiến và cây Phất Chủ thêu trên.

Giáo Nhi ăn mặc: Đại Phục như Lễ Sanh nữ phái, nhưng không đặng vắt bông sen trên đầu tóc, còn tiểu phục cũng vậy, nhưng trước ngực có choàng một tấm choàng đen.

Kiểu y phục này do nơi sở may Linh Đức may cho các Lễ Sĩ và Giáo Nhi đương thời hành Đạo trong Hội Thánh và có lời yêu cầu công nhận chánh thể rồi.

Hội Thánh cấm nhặt không ai đặng xưng danh Lễ Sĩ và Giáo Nhi nếu không có khoa mục cấp bằng của Toà Thánh ban cho đủ lẽ.

Khai Pháp, Tiếp Đạo, Tiếp Thế Hiệp Thiên Đài, Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư, Nữ Chánh Phối Sư và Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo nên tùy phận sự thi hành Thánh Lịnh này.
Lập tại Tòa Thánh, ngày mồng 9 tháng 11 Bính Tý.
(22 Décembre 1936)
Hộ Pháp
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
(ấn ký)

THÁNH LỊNH
Số 25/TL
Hộ Pháp
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng

Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (15-2-1938) giao quyền thống nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị,

Chiếu y Sắc Lịnh số 51 ngày mùng 9 tháng 11 Bính Tý (22-12-1936) định phần và phong thưởng cho Lễ Sĩ và Giáo Nhi đầy đủ năm năm công nghiệp,

Nghĩ vì Ban Lễ đã định phận thì Bộ Nhạc cũng được hưởng đặc ân của Hội Thánh đặng tiến bước lập vị, nên:

THÁNH L ỊNH

Điều thứ nhứt: Trong Bộ Nhạc của Tòa Thánh có chín phẩm ân phong như sau đây:
1 - Nhạc Sĩ
2 - Bếp Nhạc
3 - Cai Nhạc
4 - Đội Nhạc
5 - Quản Nhạc
6 - Lãnh Nhạc
7 - Đề Nhạc
8 - Đốc Nhạc
9 - Nhạc Sư

Điều thứ hai: Bộ Nhạc chuyên chú về tài năng nghệ thuật thì từ hạ phẩm dẫn thượng phẩm mỗi cấp có khoa mục đặng tuyển chọn danh nhơn để điều khiển nội ban.
Trong mỗi kỳ khoa mục, vị nào ứng thi thì xin thi và mỗi khi thi đậu, mỗi lần được thăng phẩm, nhưng không được xin ứng thi vuợt bực.

Điều thứ ba: Nếu thi rớt thì không đủ tài, phải ở lại phẩm cũ cho đủ năm năm công nghiệp mới được cầu ân phong.
Phần Nhạc Sư đủ năm năm công nghiệp thì thăng lên Phối Sư hay là Tiếp Lễ Nhạc Quân, nếu có khuyết.

Điều thứ tư: Chín phẩm trong Bộ Nhạc đối với chín phẩm của Hiệp Thiên Đài hay bậc phẩm khác của Cửu Trùng Đài và Phước Thiện như sau nầy:
Lưu ý: sẽ bổ sung bảng đối phẩm sau

Điều thứ năm: Chư vị Bảo Thế Tổng Thơ Ký Chánh Trị Đạo, Khai Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Thượng Thống Lại Viện, Đạo Nhơn Chưởng Quản Phước Thiện, Nhạc Sư Bộ Nhạc, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh này.

Tòa Thánh, ngày 29 tháng 3 Tân Mão.
(DL 4-5-1951)
Hộ Pháp
(ấn ký)

4 . Kinh Thiên Đạo, Thế Đạo

Dù hoàn cảnh khó khăn, Đức Ngài cũng cố lướt qua và hằng tâm cầu xin Các Đấng ban cho kinh tận độ. Từ 23 tháng 7 đến mồng 4 tháng 8 năm Ất Hợi (21 đến 31 tháng 8 năm 1935), các Đấng mới giáng cho Tân Kinh. Phần kinh Thiên Đạo thì do Đức Ngài và Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng phò loan, trong đó có kinh Di Lặc Đức Thích Ca giáng cho đặc sắc nhất. Phần kinh Thế Đạo thì do Đức Ngài và Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh phò loan. Sau đó Ngài đi Kiêm Biên để được Kinh Phật Mẫu. Đức Ngài cho biết:
"Kinh Phật Mẫu cho tại Kiêm Biên Tông Đạo (Cao Miên quốc), nơi Báo Ân Đường của Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi. Lúc chưa có kinh này, chúng ta chỉ biết Phật Mẫu giáng cơ tại Hiệp Thiên Đài, khai Đạo Cao Đài. Nhờ thi phú văn từ của Cửu Vị Tiên Nương cho biết nguyên do Đạo khai.
"Tại Kiêm Biên chư chức sắc, Hội Thánh Ngoại Giáo cầu xin kinh Phật Mẫu. Khiến khi đó, Bần Đạo đến nhằm lúc cúng vía, Bát Nương đến cầm cơ viết, chính mình Bần Đạo phò loan nơi Đại điện.
"Trong lúc giáng cơ, có nhiều Đạo hữu và một người chưa biết Đạo là gì (tức ông Hiếu kêu Bần Đạo bằng chú) ngồi trước sân chơi, thấy trước Báo Ân Đường đều có hào quang giáng hạ.
"Tới chừng cho trọn bài kinh rồi, trong nhà mới hay có huyền diệu thiêng liêng, thì bổn kinh này thiệt là Kinh Đức Diêu Trì Kim Mẫu".(Đức Hộ Pháp thuyết Đạo trên Cửu Long Đài ngày 15 tháng 8 năm Đnh Hợi )

Khi ban hành Kinh Thiên Đạo, Thế Đạo (Còn gọi là Kinh Lễ, bản in ở Paris 1952 ) , Hội Thánh có đề tựa như sau (theo bản in đầu tiên 1936):

"Từ khi mở Đạo, Chí Tôn duy giáng cơ truyền cho Phật Giáo: Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý dạy dâng kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, song kinh tận độ vong linh chưa hề giáng cơ cho nơi nào cả".
Bản Kinh đầu tiên in năm 1928 tại Chợ Lớn có nhan đề là Tứ Thời Nhật Tụng Kinh do nhị vị Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt phụng soạn và ban hành chỉ có kinh chính như: Kinh Ngọc Hoàng và Kinh Tam Giáo mà thôi.

Bài tựa viết tiếp:
"Đức Quyền Giáo Tông khi còn tại thế) và Đức Hộ Pháp trót mười năm trường, nghĩa là từ ngày mở Đạo đã nhiều phen dâng sớ lên Đại Từ Phụ và các Đấng Thiêng Liêng đặng xin Kinh Tận Độ nhưng mà Chí Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vẫn chưa định ban ân cho toàn chúng sanh.
"Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 năm Ất Hợi (21 au 31 Aoủt 1935) mới giáng cho Tân Kinh".

Vậy Kinh Lễ gồm hai phần: Kinh Thiên Đạo (tức Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh) và Kinh Thế Đạo (tức Kinh Tận Độ). Đó là cuốn Kinh căn bản nhất của Đạo Cao Đài. Để trọn nghĩa câu "Tận độ chúng sanh", Đức Phạm Hộ Pháp ra lệnh cho Thập Nhị Thời Quân làm thuyền Bát Nhã theo Thánh giáo Đức Chí Tôn:
Khuôn thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm,
Nổi quá như bông, nặng tợ kim.
Có Đạo trăm muôn ngồi cũng đủ,
Vô duyên một đứa cũng là chìm.

Mục đích của thuyền Bát Nhã được Bà Bát Nương giải thích:

Trung khổ hải độ thuyền Bát Nhã,
Phước Từ Bi giải quả trừ căn.
Huờn hồn chuyển đọa vi thăng,
Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng âm.

Đức Di Lạc là vị chủ quyền kêu gọi 92 ức nguyên nhân thức tỉnh theo Đạo Cao Đài để sớm được Thuyền Bát Nhã đưa về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Nên biết, đời Thượng Ngươn có 100 ức nguyên nhân xuống trần để độ rỗi chúng sanh nhưng bị mùi trần hãm sát. Phật Tổ chỉ độ được 6 ức, Lão Tử độ được 2 ức, còn lại 92 ức giao cho Tam Kỳ Phổ Độ, nên Đức Chí Tôn mới hạ lệnh "Đại Ân Xá" và "tận độ chúng sanh" là vậy.

Trong ngày khánh thành Thuyền Bát Nhã (1935), ông Trần Khai Pháp và ông Bảo Văn Pháp-Quân có làm tuồng "chèo thuyền". Ông cho biết ý nghĩa như sau:

Các nhân vật trong buổi tối chèo thuyền là:
Tổng Lái là chơn linh Hắc Sát Tinh, tượng trưng cho Bát Quái Đài.
Tổng Mũi là chơn linh Bạch Hổ Tinh, tượng trưng cho Hiệp Thiên Đài.
Tổng Thương là chơn linh Huỳnh Long Tinh tượng trưng cho Cửu Trùng Đài.
Tổng Khậu tượng trưng cho nhơn sanh, buồn vui lẫn lộn.

12 bá trạo tượng trưng cho 12 con giáp. Còn ông Nguyễn Bảo Pháp thì đề câu đối trước thuyền là:
Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh huờn tại thổ,
Thiên niên tự hữu, linh hồn Thiên phú phản hồi Thiên.

5 . Lời cảnh cáo không cần thiết

Trước sức bành trướng và lớn mạnh của Đạo Cao Đài, chánh quyền Pháp sợ Đạo trở thành một phong trào ái quốc, sẽ gây khó khăn cho họ. Họ tìm đủ mọi cách để ly gián làm cho người Đạo nghi kỵ lẫn nhau mà chia rẽ. Từ năm 1931, ông Nguyễn Văn Ca tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về lập Đạo ở Cầu Vỹ (Mỹ Tho), rồi ông Nguyễn Ngọc Tương về Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo; đến năm 1940 thì đủ 12 chi phái.
Trong tình trạng các nhà hướng đạo ý hướng bất nhất, Ngài Thượng Sanh tập hợp đa số Thập Nhị Thời Quân để chấn chỉnh và thống nhất lại nền Đạo.

Ngày 16-11-1937, Ngài Thượng Sanh đứng đầu danh sách ra tờ Kỉnh Cáo như sau:

Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ
Hiệp Thiên Đài
Kỉnh Cáo

"Hiện thời, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã sai biệt với Chơn Truyền, bất đồng tín ngưỡng, mất trật tự tôn ti, kém tinh thần liên lạc. Điều ấy dù không giải rõ tưởng chư Đạo hữu cũng chán biết.
"Đem chúng sanh trở về Chánh Giáo, nối chặc dây thân ái đặng cùng chung một tín ngưỡng chơn chánh, một tôn chỉ bác ái từ bi, đó là trách nhiệm hiện thời của chức sắc Hiệp Thiên Đài do theo mạng lịnh Đức Lý Đại Tiên, Nhứt Trấn Oai Nghiêm ngày 22 Aoủt 1937.

"Không thái quá mà cũng không bất cập, chức sắc Hiệp Thiên Đài sẽ cẩn thận từ ly từ bước một trong việc hành Đạo, nguyện đem hết dạ vô tư chí thành liêm khiết đặng bảo thủ Chơn Truyền và nêu cao danh thể Chí Tôn nơi cõi Việt.

"Ngày 2 Novembre 1937, chức sắc Hiệp Thiên Đài vì muốn giữ trọn nghĩa vụ chức sắc đối với ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc nơi Tòa Thánh Tây Ninh, nên lần cuối cùng có gửi cho Người một bức thơ. Ông Phạm Công Tắc không lấy chánh danh mình trả lời lại mà để cho một kẻ khác đứng tên trả lời.

"Vậy chiếu theo điều lệ thứ ba trong Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài lập tại Tòa Thánh ngày 21 Mars 1932, chức sắc Hiệp Thiên Đài không nhìn nhận Ông Phạm Công Tắc là Hộ Pháp Hiệp Thiên Đài nữa.
"Phú Nhuận ngày 18 Novembre 1937
Hiệp Thiên Đài
Thượng Sanh Cao Hoài Sang"

Hầu hết Thập Nhị Thời Quân đều ký tên vào tờ kỉnh cáo này, trừ có bào huynh của Ngài Cao Thượng Sanh là Tiếp Đạo Cao Đức Trọng và Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.

Thật ra, điều thứ ba Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài ghi như vầy: "Nếu Hộ Pháp chuyên quyền không do theo phần đông thì phần đông ấy đặng phép không tuân lịnh của Hộ Pháp và công bố cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài biết đặng đợi ngày cầu xin Đức Chí Tôn phán xét".

Đầu xuân năm 1970, tác giả có đến Giáo Tông Đường nơi Ngài Cao Thượng Sanh làm việc để tỏ về việc viết tiểu sử của Ngài. Ngài rất từ tốn không nói gì nhiều, chỉ cho tôi một ít bài mà trong buổi đầu học Đạo Ngài đã xây bàn với Ngài Bảo Văn Pháp Quân, vì các sách trong Đạo hiện chưa có những bài này (Xem Thượng Sanh Cao Hoài Sang cùng người viết ). Trong suốt quá trình công phu, công quả, Ngài tùy cho nhơn sanh định lượng, Ngài chỉ nhấn mạnh về tờ Kỉnh Cáo năm 1937 mà Ngài cho là bị nhiều người trích điểm nhất, nhưng chẳng bao giờ Ngài chính thức biện hộ cho mình, mà để cho công luận và lịch sử soi xét. Ngài nói:

"Ai có sống trong những ngày nền Đạo suy vi chia rẽ thì mới thấy những nỗi khổ tâm, lo lắng của những người có sứ mạng lúc bấy giờ. Bao nhiêu Thánh Thất đều thuộc về ông Tương. Các vị Thời Quân thì bấp bênh trước lời kêu gọi của ông Tương đang thiết có một bộ phận của Hiệp Thiên Đài, chư Đạo hữu chẳng biết ngã về đâu? Tờ Kỉnh Cáo có tác dụng trấn an các vị Thời Quân và chư Đạo hữu từ vùng Sài gòn trở xuống Hậu Giang. "Chư Đạo Hữu muốn hỏi điều chi về việc Đạo xin do nơi văn phòng tạm thời ở Từ Vân Tự, Phú Nhuận, Gia Định". Câu này hàm ý nhằm ngăn chặn không để một ai ngã về chi phái." Theo Ngài, con đường nào rồi cũng về Tòa Thánh Tây Ninh.

Thật vậy, ngày 7-11-1930, ngày lễ Khai Đạo tại Bến Tre, ông Nguyễn Ngọc Tương có mời Ngài Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân đảm nhiệm cơ quan Hiệp Thiên Đài. Ngài Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân không ai đến Bến Tre dự lễ cả, nhưng Ngài chỉ gởi chương trình hành Đạo, coi như một lời cảnh cáo, một lời khuyên bảo đạo đức, chớ không phải khế ước hợp tác, vì Ngài không có đến dự hội. Đó chỉ là tấm lòng ưu tư vì nền Đạo phân chia của Đức Cao Thượng Sanh và các vị Thời Quân. Thật ra, Thập Nhị Thời Quân đều về Tòa Thánh và làm việc hòa thuận với Đức Phạm Hộ Pháp.

6 . Pháp đàn áp Đạo

Vào trung tuần tháng 8 năm 1936, Đức Hộ Pháp nhân danh Hội Thánh Tây Ninh xin phép khánh thành Thánh Thất Trảng Bàng. Chỉ còn ba ngày tới lễ mới được lệnh Thống Đốc Nam Kỳ là Pagès ra lịnh cấm khánh thành Thánh Thất Trảng Bàng.
Đức Hộ Pháp cử ban đại diện xuống Sài gòn gặp Thống Đốc Pagès, đồng thời cho người hỏi ý kiến Luật sư Trịnh Đình Thảo. Luật sư Thảo là người có cảm tình và từng biện hộ binh vực cho Đạo Cao Đài, ông đồng ý đánh điện cho Georges Mandel, Tổng Trưởng Bộ Thuộc Địa biết. Bộ Thuộc Địa trả lời:

"Tôi đã ra lịnh để cho Đạo Cao Đài được tự do khánh thành Thánh Thất Trảng Bàng và được tự do tín ngưỡng. Nếu có xảy ra việc gì xin ông lập tức báo tin cho tôi hay". Ký tên G. Mandel. (Nguyễn Kỳ Nam, Hồi Ký 1925-1964, Tập II, trang 102 )
Trước khi đánh điện cho Trịnh Đình Thảo, ông Mandel chỉ thị cho Toàn Quyền Đông Dương Robin (1934-1936) để ngăn chặn sự tấn công bất thường của Thống Đốc Nam Kỳ. Ông Pagès căm tức ra lệnh cho Tỉnh Trưởng Tây Ninh tăng cường binh lính vây quanh Thánh Thất Trảng Bàng. Hội Thánh không dám khánh thành. Luật sư Trịnh Đình Thảo phải viết một lá đơn chịu hết trách nhiệm. Nhà cầm quyền mới cho làm lễ. Ba chục vạn tín đồ khắp nơi đổ về Thánh Thất Trảng Bàng. Lễ khánh thành kết quả tốt đẹp đem lại uy tín lớn cho Hội Thánh Cao Đài nhất là Đức Hộ Pháp.

Thống Đốc Pagès quyết hạ uy tín của Đức Ngài bằng cách mời Ngài xuống dinh Thống Đốc hội kiến. Đức Hộ Pháp và 3 chức sắc Cửu Trùng Đài đều mặc Đạo phục. Phái đoàn đến dinh lúc 9 giờ sáng mà đến 12 giờ trưa Pagès mới chịu tiếp kiến. Pagès bắt lỗi Đức Hộ Pháp sao ăn mặc "dị kỳ" đến hầu ông. Đức Hộ Pháp trả lời:
- Chúng tôi mặc sắc phục theo Đạo chúng tôi.

Pagès nổi nóng la lớn:
- Tôi không muốn các ông ăn mặc như hát bội.

Tay đập bàn ông nói tiếp:
- Tôi có thể bỏ tù các ông, hiểu không?

Đức Hộ Pháp nhẹ nhàng đáp:
- Thưa Thống Đốc, nếu phải bị giam, Bần Đạo sẵn sàng vào tù. Lịch sử từng có nhiều người tu hành bị ngược đãi là sự thường. Bần Đạo sẽ là một nạn nhân chớ không sao. (Nguyễn Kỳ Nam, Hồi Ký 1925-1964, Tập II, trang 103 )

Pagès giận quá đuổi Đức Hộ Pháp và ba vị chức sắc ra ngoài. Trong lòng Pagès quyết bỏ tù công dân Phạm Công Tắc mà không bị mang tiếng là đàn áp Đạo Cao Đài nên phải chờ dịp.

Đức Hộ Pháp phải chịu đựng trãi qua gian khổ của 6 đời Toàn Quyền sau đây: Alexandre Varenne (1925-1928), Pierre Pasquier (1928-1934), Robin (1934-1936), Brévié (1936-1939), Catroux (1939-1940), Decoux (1940-1945) không viên Toàn Quyền nào bỏ lơ việc theo dõi và đàn áp Đạo Cao Đài.

Tháng 11 năm 1937, Tổng Thống Pháp cử Chủ tịch Ủy ban điều tra các thuộc địa hải ngoại (Le Président de la Commission d'enquête dans les Territoires d'Outre-Mer) sang Việt Nam, Đức Hộ Pháp phải làm bản phúc trình nói rõ mọi chi tiết va chạm giữa Đạo Cao Đài và các tôn giáo khác và sự hiểu lầm giữa nhà cầm quyền và Đạo Cao Đài.
Home        1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét