Lời Giới
Thiệu
của Ngài Chưởng-Ấn Hiệp-Thiên-Đài
Nguyễn Văn Hợi
Bộ Pháp-Chánh Tòa-Thánh Tây-Ninh
Kính thưa quí chư tôn liệt
vị,
Người ta thường nói:
"Hùm chết để da, người ta chết để tiếng". Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
là người tiền bối đứng vào bậc tam đại vĩ nhân cùng Đức Cao Thượng Phẩm
và Đức
Cao Thượng Sanh đầu công khai sáng nền Đạo Cao Đài.
Quyển tiểu sử Đức Hộ Pháp
được ông Hiền Tài Trần Văn Rạng - Trưởng Nhiệm Giáo Lý Ban Thế-Đạo soạn thảo
rất công phu.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
là một đấng siêu phàm được Đức Chí Tôn thâu dụng đứng hàng đầu trong Hiệp Thiên
Đài. Đức Ngài rất dày công khai cơ phổ độ, lập Đạo từ lúc sơ khai, là một ân
nhân của toàn Đạo, khai mở ngôi Thánh Địa ngày nay trở thành Tổ Đình của Cao
Đài Giáo lưu truyền vạn đại.
Tôi xin có lời giới THIỆU
với toàn quý đạo tâm có lòng hoài cổ ân sâu của Bậc tiền hiền khai cơ lập Đạo
cho chúng ta và chúng sanh đời đời sùng ngưỡng.
Tòa Thánh, ngày 9
tháng Giêng năm Giáp Tý
(d.l. ngày
23-02-1972)
Chưởng Ấn Hiệp
Thiên Đài
Nguyễn Văn Hội
(ấn ký)
LỜI TỰA
Đạo Cao Đài từ thuở manh
nha đã thể hiện nguyên lý Âm (Khôn) Dương (Càn). Từ năm 1920, Đức Cao Đài (phần
Dương) đến dạy Đạo ông Ngô văn Chiêu, đến năm 1925, Đức Phật Mẫu (phần Âm) đến
lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với nhóm Cao Phạm, phù hợp với truyền thống trọng Âm
của các nước Đông Á.
Trong đó, vị thiên sứ Phạm
Công Tắc, về thế tục từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành đã phản ảnh đầy đủ Tam
Giáo và dung hợp cả Ki Tô Giáo và Hồi Giáo. Thuở nhỏ, Ngài đi học chữ Nho tại
chợ Tây ninh và đã từng tham quan chùa Chàm Hồi Giáo bên cạnh chợ này. Trong
thời gian học chữ Nho, Ngài được cụ Đồ dạy đạo Trung Dung của Đức Khổng Tử. Khi
lớn lên Ngài học trường Chasseloup Laubat tại Sài gòn và đã rửa tội theo Ki Tô
Giáo với tên Thánh Phê-rô (cả gia đình Ngài đều theo Công Giáo thuộc họ Đạo Tha
La).
Vào những năm 1906 - 1908
phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, Trần Chánh Chiếu lên cao, Ngài bỏ học
theo phong trào yêu nước xuất ngoại này. Chánh quyền thực dân Pháp phát hiện,
đàn áp, Ngài trở lại quê cha, sống cuộc đời từ bi theo các sư ông niệm Phật.
Năm 1910, vì gia cảnh
thanh bạch, Ngài vào làm thư ký Sở Thương Chánh Sài gòn. Đời sống công chức
không làm cho Ngài thích thú, nên hợp cùng các bạn làm thơ, xây bàn thỉnh Tiên.
Nhờ đó Ngài tiếp cận với Đức Phật Mẫu dạy việc vọng Thiên cầu đạo Cao Đài
(1925). Vô hình trung trong bản thân của Ngài tích hợp các đạo Nho, Phật, Lão,
Thiên Chúa Giáo và cả Hồi Giáo kết thành "Vạn Giáo Nhất Lý". Sự dung
hợp linh hoạt đó là một dạng tiếp biến văn hóa truyền thống nhằm đối phó với
môi trường xã hội. Từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần nhiều nhà sư đồng thời là Đạo sĩ,
Thiền sư muốn đọc được kinh Phật phải biết chữ Hán, mà chữ Hán thì phải học
sách của Nho Giáo. Thế nên, Tam Giáo mới thoáng nhìn tưởng khác nhau, nhưng
nghiên cứu kỹ thì thấy chỉ là những cách nói khác nhau. Vua Trần Thái Tôn (1217
- 1277) nói rằng: " Sách Nho thì dạy thi Nhân bố Đức; Kinh Đạo Đức dạy yêu
vật, quí sự sống; còn Phật chủ trương giữ giới, cấm sát sanh". Tiến sĩ Ngô
Thì Sĩ (1726 - 1780) lại giải rằng: "Phật Giáo chủ trương từ bi, Đạo Giáo
ưa thanh tịnh, Nho Giáo lấy thuyết nhân nghĩa, trung chính, mở cương thường của
Trời để dựng nên một trật tự cho Người. Nhập thế và xuất thế, dụng thì khác
nhau mà thể thì như nhau". Vua Trần Thái Tôn kết rằng: "Khi chưa tỏ
thì người đời còn lầm lẫn phân biệt Tam Giáo, lúc đạt tới gốc rồi thì cùng ngộ
một Tâm".
Ngài Phạm Công Tắc đã tiếp
thu truyền thống đó trong nội tạng. Ngài nhận mảnh đất Việt nam làm vườn ươn
Quốc Đạo để làm sức bật thành Đại Đạo hòa đồng các Tôn Giáo hoàn cầu, thể hiện
"Vạn Giáo nhất lý". Hãy nhìn Tòa Thánh Tây ninh do chính Ngài xây
dựng để thấy được sự dung hòa tích hợp Đông Tây Kim Cổ.
Thêm vào đó, đời hành đạo
của Ngài lắm nỗi thăng trầm như các hàng Giáo lãnh khác khi phát biểu triết
thuyết mới chưa thuận hợp với đời thường. Bao nhiêu đó cũng đủ tôn vinh Ngài là
đấng cứu thế đứng đầu trong Cơ Phổ Độ nền Đạo Cao Đài.
Thế giới ca ngợi Đức Ngài,
Hội Thông Thiên Học tôn vinh Đức Ngài, đồng đạo sùng ngưỡng Đức Ngài. Đức Ngài
về cõi Thiêng Liêng hằng sống là sự mất mát to lớn, không gì có thể đền bù
được. Cơ Đạo sau thời Đức Ngài cứ nghiêng dần, khiến cho bao người muốn Đức
Ngài giáng linh trở lại.
Vinh diệu thay!
Kỷ niệm ngày triều thiên
lần thứ ba của Đức Phạm Hộ Pháp
GS Sử học Trần văn Rạng
PHOTO
Đức Hộ Pháp ban
phép lành
Từ Bạch Ngọc Cung:
"Ta truyền lệnh xuống cho loài người qua Con của Ta".
CHƯƠNG I
Giáng-sinh vào tiết Đoan Ngọ
(1890 - 1924)
1 . Một thiếu niên diệu thường
Vào tiết Đoan Ngọ (5-5)
năm Canh Dần (21-6-1890), bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, thuộc làng Bình Lập, tại tỉnh
lỵ Tân An (nay là Long An), một chơn linh giáng lâm trong gia đình ông Phạm
Công Thiện, một công chức. Đó là Phạm Công Tắc (Theo giấy tờ hộ tịch thì Ngài
sanh tại Bình Lập; và cũng được xác nhận trong quyển "Tiểu Sư Đức Hộ-Pháp
Phạm Công tắc", xuất bản năm 1954 lúc Ngài còn sanh tiền ).Ngài sanh nhằm
năm Thành Thái thứ hai, lúc bấy giờ, Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, do Pháp trực
tiếp cai trị. Vì thế Nam Kỳ coi như một phần lãnh thổ của Pháp. Phủ Thống Đốc
Nam Kỳ đặt tại Sài gòn.
Ông Phạm Công Thiện kết
hôn với bà La thị Đường, sanh được tám người con mà Ngài Phạm Công Tắc là người
con thứ bảy. Song thân Ngài trước ở làng An Hòa, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây
Ninh. Vì là công chức, ông Phạm Công Thiện được đổi đến Long An.
Thuở thiếu thời, Ngài Phạm
Công Tắc là một thiếu niên khỏe mạnh, tư chất thông minh đỉnh ngộ. Có điều lạ,
vì sanh nhằm ngày Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, cũng là ngày Lưu
Thần, Nguyễn Triệu nhập Thiên thai, nên thỉnh thoảng Ngài ngủ thiếp đi như
người chết, linh hồn lạc khuất đâu đâu, khiến cho huyên đường âu lo; nhất là bà
cụ cố tỏ vẻ buồn rầu sợ Ngài mệnh bạc.
Cảnh trạng Ngài chết đi
sống lại như thế, cả làng xã đều biết (*). Người ta cố gắng lo thuốc thang cho
Ngài, nhưng vốn tiền định, lâu lâu Ngài ngủ lịm đi đôi ba giờ, có khi kéo dài
nửa ngày.
(Nhật báo Điện Tín số ra ngày
9/9/1911 có đăng tin "1 thiếu niên 19 tuổi sau khi đỗ tú tài thì đôi mắt
tự nhiên lòa hẳn đi, kéo dài trong 1 tháng thì thiếu niên lâm trọng bịnh. Trong
lúc mê sảng thiếu niên cho cho già biết là anh được Thiên tướng xuống đưa về
Thiên đình chữa bịnh. Anh sẽ chết rồi 15 ngày sau mới sống dậy, miễn đừng đem
xác chôn và ngày ngày vẫn cho anh uống 3 lần nước lạnh vào 6 giờ sáng, 12 giờ
trưa và 8 giờ tối". Dẫn chuyện xảy ra ở Tân Châu (Châu Đốc) này để chứng
tỏ chuyện thiếp đi của Ngài Phạm Công Tắc là chuyện thật )
Năm 1896, đến tuổi cấp
sách đến trường tiểu học, có lúc học chữ Nho, rồi sau theo học trường
Chasseloup-Laubat (nay là trường Jean-Jacques Rousseau, đường Hồng Thập Tự, Sài
gòn). Bằng hữu ai cũng thích Ngài vì tính tình khoan hòa, ưa họat động, nhất là
nhiều sáng kiến, bày biện các cuộc chơi, hay đánh đổ một vài nhân vật trong
lịch sử nước Pháp. Việc này khiến cho các bạn ái ngại xa lánh Ngài. Phong trào
Đông Du (1904 - 1907) do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm Minh chủ và hai nhà cách
mạng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng để nâng cao dân trí, bằng cách
gởi các thanh niên du học ngoại quốc nhất là Nhật Bản.
Tại Sài gòn, phong trào
Đông Du do hai ông Gilbert Chiếu (tức Trần Chánh Chiếu) và Dương Khắc Ninh lãnh
đạo. Các ông thành lập các Kinh Thương Hội như: "Minh Tân công nghệ"
và khách sạn "Nam Trung" làm nơi lưu trú hội họp cho đảng viên. Ngài
Phạm Công Tắc dù đang theo học năm thứ hai trường Chasseloup-Laubat, cũng lén
bỏ học đến họp với anh em.
Hai ông Gilbert Chiếu và
Dương Khắc Ninh tập họp các đảng viên chia nhiều nhóm để xuất dương. Ba nhóm đã
tới Nhật. Ngài được ghi tên vào nhóm thứ tư. Lòng Ngài như mở hội, bao nhiêu
mộng hải hồ viễn phương kéo lũ lượt qua võng mô Ngài. Bút nghiên tạm xếp, hành
trang sẵn sàng chờ ngày lên đường. Đùng một tiếng, phong trào bị khám phá. Mật
thám Pháp đến tra xét cơ sở Minh Tân công nghệ. Ông Dương Khắc Ninh đã lẹ tay
hành động, tiêu hủy tất cả hồ sơ và tài liệu nên không ai bị lôi thôi gì cả.
Tuy nhiên mật thám vẫn chú ý, luôn luôn theo dõi, dò xét các nhà lãnh đạo và
chính Ngài cũng bị chúng để ý và nhà trường lưu tâm. Buộc lòng Ngài phải nghĩ
học về làng An Hòa (Tây ninh) tạm tránh sự dòm ngó của mật thám Pháp. Khi tình
hình êm dịu, Ngài lại lăn mình vào trường tranh đấu. Lần này Ngài hoạt động cẩn
thận hơn, rồi tham gia viết báo như: Công luận, La Cloche Fêlée (Chuông rè) của
Nguyễn An Ninh, La Voix Libre (Tiếng nói tự do) vv... Tờ Lục Tỉnh Tân Văn của
ông Pierre Jeantet, ông Gilbert Chiếu làm chủ bút. Ngài cộng tác thường xuyên
với tờ này vì là đồng chí. Hơn nữa, ông Chiếu ngấm ngầm làm cơ quan tuyên
truyền chống Pháp và khích động lòng yêu nước của nhân dân rất đắc lực. Các bài
"Thượng bất chánh, hạ tắc loạn" (đăng ngày 12/12/1907), bài "Dân
tộc đoàn kết và thời đàm" (đăng ngày 23/01/1908) là những lời thẳng thắn
cảnh cáo nhà cầm quyền Pháp. Khi ông Chiếu bị bắt, tờ báo đình bản, Ngài lại về
quê.
Vì ảnh hưởng cách mạng và
các tiên Vương, về sau Ngài lập Báo Quốc Từ thờ Tổ Hùng Vương, bôn ba sang Nhật
rước tro Cường Để, về Sài gòn rước linh vị Thành Thái và Duy Tân đem thờ nơi
Báo Quốc Từ (gần chợ Long Hoa). Tất cả các sự việc đó để cho tấm lòng nuôi
dưỡng ý chí các liệt sĩ bất khuất và di dưỡng vang bóng một thời của tuổi trẻ
hào hùng.
Âu cũng là thiên thơ dĩ
định, mộng Đông Du không thành, bạn bè cùng chí hướng mỗi người mỗi ngã, Ngài
chẳng lẽ ngồi đây nhìn quê hương mỗi ngày một thêm tan nát, hay chỉ còn biết
làm bạn cùng cây cỏ gió trăng. Đêm rằm tháng Giêng năm Đinh Mùi, Ngài nằm trên
sập kê trước nhà nhìn vầng trăng hư ảo mà khẽ ngâm bài "Nhân nguyệt vấn
đáp", rồi tâm thần dần dần tê mê theo cơn gió nhẹ ru. Khi mở mắt ra Ngài
thấy chan hòa một thứ ánh sáng huyền diệu mà Ngài đang lửng thửng đi trên đường
bằng phẳng sạch sẽ và trắng như tuyết.
Bỗng thấp thoáng đằng xa
đi lại một vị sư già, mặc áo cà sa vàng, nét mặt từ bi và cất tiếng hỏi:
"Em có nhớ qua không?". Ngài nhìn vị sư, chợt nhớ ra vội đáp:
"Dạ nhớ".
Vì năm lên mười tuổi theo
học chữ Nho, thường hầu Thầy đi cân thuốc ở tiệm Đức Vọng, chợ Tây Ninh, Ngài
đã gặp vị sư này bàn với thầy Ngài về tương lai Ngài như vầy: "Cậu bé này
vào bậc siêu phàm, sự nghiệp vô cùng cao cả".
Vị sư già đưa Ngài đến một
tòa lâu đài, một màu trắng tinh "Một tòa thiên các ngọc làu làu" và
bảo Ngài: "Em chờ ngoài này qua vào trong một chút nhé". Ngài chờ lâu
quá không thấy vị sư trở lại, bèn vừa kêu vừa gõ cửa, vẫn không thấy ai trả
lời. Ngài mới đi vòng quanh thấy nhà có tám góc và tám cửa đều giống nhau và
đóng kín. Nhìn kỹ, Ngài mới nhận ra mỗi cửa đều có một con đường trắng chạy về
phía chân trời xa. Trong lúc băn khoăn chưa biết chọn con đường nào, bỗng thấy
phía có bóng đèn loé sáng, Ngài liền phăng tới, gặp một tòa nhà mà cửa vẫn đóng.
Ngài gõ liên tiếp mấy tiếng, không thấy ai trả lời. Ngài bấn loạn, muốn thối
lui thì một tiểu đồng xuất hiện và chỉ tay vào Ngài mà hỏi:
"Anh có phải là anh Tắc không?".
"Sao em biết qua?".
Cậu bé mĩm cười: "Sao tôi lại không biết".
Nói xong tiểu đồng tiếp: "Thầy gọi anh trong nhà".
Ngài ngạc nhiên hỏi:
"Thầy là ai hở em ?".
"Rồi anh sẽ biết".
Nói xong tiểu đồng bước
vào nhà. Ngài bước theo gặp "con chó lông vàng" nằm chặn ngang đường,
Ngài ngần ngại nên tiểu đồng giục: "Có gì mà sợ, nó không phải là chó nên
chẳng cắn đâu. Anh cứ theo tôi đừng sợ gì cả." Ngài vừa bước qua, cửa từ
từ đóng lại. Ngài và chú tiểu đứng trong hành lang rộng mênh mông. Theo chiều
dài hành lang có năm phòng lớn, mỗi phòng có một cửa đều đóng. Chú tiểu đưa
Ngài đến cuối phòng và dặn: "Anh chờ đây. Lúc nào Thầy kêu tôi sẽ cho anh
hay". Chờ lâu quá sốt ruột, phần vì sợ con Kim Mao Hẩu (tức là con chó
lông vàng), nên Ngài bạo dạn gõ cửa. Chú tiểu nghe tiếng gõ cửa gắt gỏng:
"Anh làm gì rối thế? Anh nhát quá, thôi ở đấy mà chờ Thầy". Ngài ngắm
xung quanh phòng, thấy dài đến 20 thước, rộng 10 thước, bốn mặt tường và nền
nhà là một khối cẩm thạch phẳng liền cực đẹp. Từ ngoài một ông già cao lớn, mặc
áo xanh, râu tóc bạc trắng bước vào, Ngài chấp tay xá. Nhìn kỹ, Ngài nhớ ra, ông
già này là người đi với nhà sư mà Ngài đã gặp trong tiệm Đức Vọng độ nào. Ông
đi thẳng lại chiếc ghế bành ung dung ngồi xuống và bảo Ngài: "Con ngồi
xuống đi". Trước nhất, ông già hỏi thăm về gia đình, nhưng trừ người chị
thứ tư đã mất thì không hỏi, làm Ngài ngạc nhiên vô cùng.
Sau lúc phê phán từng
người trong gia đình, ông già gọi tiểu đồng: "Con đem bánh cho anh con
ăn".
Tiểu đồng mang vào đặt
trước mặt Ngài một đĩa bạc lớn, trên đựng đầy bánh bốc hơi thơm phức. Các bánh
trong ngần như bột lọc, hình tròn, nửa đỏ nửa trắng, sắp theo hình nón. Ngài
được ông già mời ăn và uống nước bằng tô lớn vàng ròng. Đợi Ngài ăn xong, ông
già trầm ngâm nói:
"Hôm nay con ăn hai
cái bánh rưỡi và uống một tô nước. Những thứ đó sẽ ám hợp vào đời hành đạo của
con sau này".
Ngài tạ từ ông già, nhưng
nhớ đến con Kim Mao Hẩu, Ngài vái xin con vật đó. Ông già tỏ vẻ ưng lòng và
đáp:
"Con cứ về đi, sau
này nó sẽ xuống với con".
Khi trở ra, Ngài bước lên
lưng con Kim Mao Hẩu và đạp lên mông thì cánh cửa tự mở. Lúc đến tòa lâu đài tám
góc, tiểu đồng ra từ tạ:
"Bây giờ em chưa thể
cùng đi với anh được. Sau này Thầy sẽ cho em xuống với anh. Thôi anh về
đi".
Ngài sực nhớ đi chơi lâu
quá, vội chạy nhanh về, vô ý vấp phải mô đất, té lộn đi một vòng. Ngài giựt
mình tỉnh dậy, thoang thoáng bên tai tiếng kêu khóc vang vầy, mở mắt ra thấy
mọi người tấp nập chung quanh mình. Kẻ thì kéo tóc, người thì giật tay, gọi tên
ầm ĩ. Ngài chờn vờn ngồi dậy nói như trong mơ: "Con chó của tôi đâu
rồi?". Người người ngơ ngác, nhưng Ngài lại nhớ đến con Kim Mao Hẩu trong
giấc mộng dài diện kiến Thiên Cung. ập Thật ra, đây không phải là một giấc mộng
mà là một cuộc xuất hồn của một chơn linh hiển đạo. Cuộc vân du này, năm 1927,
Đức Ngài viết thành quyển "Thiên Thai Kiến Diện" đúng hơn là
"Tam thập lục thiên hồi ký" mà bài số 75 gần như gom ý cuộc hội kiến
với Đức phân thân Đức Cao Đài mặc áo xanh nói trên:
Bài 75
Xa trông cảnh vật đã xây tròn,
Bát hướng Đài ngưng thấy nước non.
Động cũ Thần Tiên còn để dấu,
Chùa xưa Phật Tích nát hư mòn.
Chấp Kinh Khổng sĩ nho phong dõi,
Nắm nghiệp Đào quân nhấp thuốc khôn.
Nẻo Thánh tuy quên tay đẩy cỏ,
Nền Văn miếu thấy khói hương còn.
Trong cuộc vân du kể trên,
trước hết Ngài gặp vị sư già mặc áo vàng (biểu tượng Đạo Phật), ông già mặc áo
xanh (biểu tượng Đạo Lão) đó là nhân vật chính Đức Hồng Quân Lão Tổ phân thân
của Đức Cao Đài. Đĩa bánh bạc màu trắng (màu Đạo Cao Đài) đựng những chiếc bánh
hình tròn (biểu tượng Trời hay Thái Cực) có hai màu đỏ và trắng (biểu tượng Âm
Dương) tức Thái cực sanh lưỡng nghi. Âm Dương hay Khôn Càn là đầu mối sinh biến
sinh ra vạn vật. "Đạo vốn chỉ một Âm một Dương mà thôi..., có cái gì thích
hợp mà chẳng một Âm một Dương(Trần Thúc Lượng, Tống nguyên học án. quyển 3,
trang 643 ).
Ngài được uống một tô nước
cam lồ. Theo Dịch lý mọi việc khởi đầu ở cung Tý (Thủy) tức Thiên khai ư Tý, 12
giờ đêm thuộc Thiếu Dương số một, ứng vào quẻ Phục (biểu tượng phục hưng nền
Đạo mới).
Thật sự, Ngài chỉ ăn có
hai cái bánh, cái bánh thứ ba chỉ ăn nhưn mà bỏ vỏ hàm ý chỉ gom lấy cái tinh
hoa của các Đạo mà bỏ những điều cặn bã, phản tiến hóa. Ông già áo xanh nói:
"Con ăn hai cái bánh rưởi và uống một tô nước.
Những thứ đó sẽ ám hợp vào
đời hành đạo của con sau này". Nếu Ngài ăn đủ ba cái thì xong không còn gì
để nói. Như vậy không phù hợp với đạo Âm Dương: "Sinh rồi lại sinh".
Thế nên Ngài chỉ ăn có hai cái rưởi mà lại " ám hợp vào đời hành đạo sau
này", tức là chưa xong. Cuộc đời, trường đời, việc Đạo là hỏa thủy vị tế
(quẻ Ly trên, quẻ Khảm dưới). Đó là quẻ thứ 64 trong Kinh Dịch, quẻ 63 ký tế mà
quẻ 64 lại bắt đầu biến hóa. Trường đời, việc Đạo biến hóa vô thường, Ngự Mã
Thiên Quân phải đối phó để giữ vững thuyền Đạo lướt qua những cơn sóng dữ và đá
ngầm của biển cả. Đó là lời tiên tri của ơn Trên:
"Muốn giàu Thầy hứa
đem cho của, Cái của cái công phải trả đồng" (Xem hình "Ngôi mộ tổ
nhà họ Phạm).
Sau đây, chính Đức Ngài kể
lại về thời thanh thiếu niên của mình:
"Bần Đạo thứ tám, còn
con em thứ chín ở trong cái ổ nghèo, ổ rách. Mấy anh chị họ lớn hơn, lập nên
danh. Kẻ có chồng, người có vợ chỉ có Bần Đạo chưa biết gì hết chỉ biết thương
nhau mà thôi, thương cha có công sanh dưỡng, thương mẹ bảo trọng gia đình lo
tảo tần nuôi con, thương anh em trong gia đình, duy có biết thương mà lo học,
sợ không học ông bà buồn rầu..."
"Cha đã chết hồi Bần
Đạo mới 12 tuổi, chỉ ở với mẹ. Thương mẹ sợ mẹ chết nữa không biết ở với ai? Ở
tỉnh Tây Ninh, người ta thường chôn đám xác vào ban đêm. Khi ngủ nghe họ hò
giựt mình dậy mò kiếm bà già. Bà già hỏi con làm gì vậy? Con nghe người ta đưa
đám xác, con sợ mẹ chết quá. Cũng vì sự thương yêu, được 17 tuổi quyết định ra
làm việc để trả hiếu cho mẹ".
"Lúc ấy Bần Đạo đã
thi đậu, nếu ra làm việc với hãng buôn ăn lương lớn mà không biết nuôi mẹ được
không? Người anh rễ nói "Em làm việc hãng buôn tư không có danh dự gì
hết". Bần Đạo nghe lời nên xin làm việc ở sở nhà nước, làm việc mỗi tháng
lương 70-80 đồng, ăn xài cũng còn dư một đôi chục bạc để nuôi mẹ. Đến chừng
lương còn 20 đồng một tháng, lúc đó thiếu nợ lại thêm một bà vợ nữa, công việc
bối rối không biết bao nhiêu, tới chừng đó không còn lo cho mẹ nữa. Trong gia
đình, khi đó chưa tạo được hạnh phúc thì bà mẹ đã chết" "Năm Bần Đạo
được 22 tuổi, đau đớn biết bao nhiêu, chỉ biết lo một điều là lo lập thân danh
đặng nuôi mẹ bảo trọng anh em. Đến chừng thành danh rồi khổ đáo để, cha mẹ đã
khuất hết, dẫu thương bao nhiêu cũng không còn, lại tai ác nữa là vợ con gia
đình sanh đẻ mãi, đâu có lo bên ngoài được nữa, khởi thống khổ tâm hồn. Tới
chừng cao sang sung sướng ngó lụng lại không thấy cha mẹ. Hai Đấng ấy đã chết
hết, thôi mình đeo theo anh em. Em chết nữa, lần lượt bao nhiêu người thân ái
cũng đều chết hết. Bao nhiêu cái thương nồng nàn chỉ để nơi một người anh rễ,
thương hơn anh ruột. Người em thứ chín là người bạn thân mến trong kiếp sanh
của Bần Đạo mà đã qui liễu. Tới chừng ấy tâm hồn ngơ ngẩn, xác thịt bơ thờ,
nghe tiếng chim, tiếng hát của mấy em cấy lúa, nghe tiếng hò của người chèo ghe
cũng nhắc tới nỗi đau thương.
Từ ngày ấy không buổi nào
vui chỉ muốn tu, muốn tìm cảnh tu. Hễ biết tu, thì biết Đạo rồi biết dìu dắt
anh chị em tới tình yêu thương nồng nàn"(Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống,
Tây Ninh 1970, trang 76-77 ).
2 .
Một thanh niên ái dân
Xem thế, ông là một người
con hiếu thảo với cha mẹ, rất thương yêu và tôn kính anh chị và nhường nhịn các
em.
Năm 1910, lúc đó, ông đã hai
mươi tuổi. Gia đình lâm vào cảnh quẩn bách túng thiếu. Ông xin làm Sở Thương
Chánh ở Sài gòn. Năm sau, ông vâng lệnh cha mẹ thành lập gia đình với bà Nguyễn
thị Nhiều. Bà là phụ nữ theo luật tam tòng, rất hiếu lễ tần tảo thờ phụng cha
mẹ chồng hết lòng. Bà sanh được ba người con. Trai đầu lòng tên Phạm Công
Huyền, gái thứ ba tên Phạm Hồ Cầm và gái thứ tư tên Phạm Tần Tranh. Đó là tên
ba loại đàn cổ truyền.
Người trưởng nam Phạm Công
Huyền sinh ra để báo hiệu huyền cơ của Tạo Hóa có Dương có Âm sắp ra đời. Thế
nên lên bốn thì Huyền trở lại cõi trên: "Quản Huyền đâu đã giục người sinh
ly". Dù chỉ còn hai người con gái, ông thấy không cần thiết phải sinh thêm
trai vì trai gái ngang nhau. Sanh con trai mà nó không nên mặt đàn ông, không
đáng mặt đấng trượng phu để người đời trông gương thì thà không đẻ thêm còn
hơn. Vả lại lúc đó ông đang theo đuổi làm việc từ thiện giúp nhân quần xã hội.
Đời sống công chức không
làm cho ông thích thú, còn nếp sống gia đình đều đều buồn chán không trói buộc
được Ngài. Ngài đâm ra mê lý tưởng hướng về Đạo, "làm những việc thiện
hàng ngày để giúp đỡ những kẻ cô đơn xung quanh. Ngài giàu tình thương đời,
nhất là thương kẻ cô đơn trụy lạc. Ngài đã làm một cử chỉ rất ý nghĩa. Đang là
công chức Sở Thương Chánh, đồng tiền chẳng được dồi dào chi lắm, vậy mà Ngài
dám vay nợ để giải phóng một đoàn nhi nữ ra khỏi chốn thanh lâu, cho họ thoát
vòng nhục nhã, được trở về đời sống lương thiện, hưởng hạnh phúc gia
đình"(Theo Tiều Sử Hộ Pháp Phạm Công Tắc 1954 )
. Thật ra, Ngài có người
bạn tên Trần Thành Chơn cho Ngài biết có một gia đình nghèo khổ có hai đứa con
gái bị tú-bà gạt gẫm bán cho lầu xanh. Ông Chơn nhờ Ngài giúp đỡ gia đình ấy.
Ngài dùng tiền dành giụm của mình chuộc cô Nguyễn thị Cẩm và Nguyễn thị Hồng
trở về hoàn lương.
Người Pháp thấy Ngài có
hành động khác thường, họ liệt Ngài vào hàng có tâm huyết, nên họ tìm cách đổi
Ngài đi Cái Nhum (Hậu Giang) ,sau đổi ra Qui Nhơn (Trung phần); rốt cùng lại
đổi về Sài gòn, để rồi những ngày sẽ tới, Ngài hiến trọn cuộc đời cho Đạo Pháp.
Chân dung Đức Phạm Hộ Pháp
trong chương này hé lộ cho ta thấy, từ thuở thanh thiếu niên, Đức Ngài đã là
người yêu nước thương người. Trong cơ thể đã kết hợp Tam Giáo và nhất là Thiên
Chúa Giáo. Những vốn sống ấy được nuôi dưỡng ra nụ, đơm hoa rồi sẽ kết trái
trong những chương kế tiếp.
CHƯƠNG II
THIÊN PHONG HỘ PHÁP
(1925 -
1930)
1 . Ngộ Đạo Cao Đài (1925)
Ngài có một
nỗi băn khoăn lớn lao là tầm Đạo để giải thoát cho cả loài người khổ ải. Ngài
sinh ra trong một gia đình Công Giáo, nhưng Đạo cứu thế với lòng bác ái của Đức
Giêsu chưa chiếm hết lòng tin của Ngài. Ngài có óc phán đoán và nhận thấy rằng
Đạo Phật khuyên người từ bi hỉ xả; Đạo Lão đặt nền tảng dưỡng tính tồn chân;
Đạo Khổng dìu dắt người trên con đường trung dung, dầu có những ưu điểm nhưng chưa
thấy có cùng chung cội nguồn. Vì vậy Ngài đêm ngày suy nghĩ, muốn tổng hợp cả
bốn Đạo lớn hiện có trên thế gian, và hòa hợp giữa hai nền văn minh Đông Tây.
Việc đó không phải là không-tưởng, vì tất cả các vị Tổ sư của các môn phái đều
hướng tư tưởng về một hướng chung: thiện và mỹ. Như vậy, tư tưởng đó rất có thể
hợp nhất được.
Để đạt mục đích trên, Ngài
cùng mấy người bạn thân nghiên cứu và so sánh đối chiếu những Giáo lý của bốn
Đạo. Một nhận xét chung được nêu lên: cứu cánh chỉ có một, còn phương tiện khác
nhau, và một hoài bảo chung được phát biểu; kết tinh cả bốn Đạo thành một Đạo
lớn duy nhất cả về tín ngưỡng lẫn phương tiện thực hành.
Nhưng hành động như thế
nào để thực hiện sự kết tinh đó?
Thật là một công cuộc khó
khăn vượt sức lực con người trần gian.
Khi đó, đại úy P. Monet
(Thần linh học), một người bạn của Ngài ở Pháp sang. Ông là một con đồng vẫn
thường ngồi cảm thông với các Thần linh trong các cuộc giáng thần. Ông rất chú
ý đến sự nghiên cứu của nhóm Ngài, nhưng ông cũng không quan niệm nổi là có thể
tổng hợp những phương tiện thực hành của các Đạo. Ông khuyên nên cầu xin các
Đấng Thần linh chỉ giáo. Và một đàn cơ được tổ chức. Những lời khuyên của Đấng
Thần linh sau đây đã cho Ngài cái chìa khoá mở cửa bí mật để thông hiểu vấn đề
khó khăn huyền diệu kia:
"Tín ngưỡng bắt nguồn
từ lương-tâm. Lương-tâm khác nhau tùy theo trạng thái tinh thần của mỗi con
người. Nó không có cá tính, cũng chẳng bao giờ bị tiêu diệt, bởi vì nó phát
sinh ra từ nơi Thượng Đế. Vậy tự do tín ngưỡng phải được tôn trọng cho tất cả
mọi người; nhưng sự hòa hợp trong tinh thần: Chân, Thiện, Mỹ phải là một nhiệm
vụ bắt buộc" (theo tiểu sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc).
Để theo đuổi những ý niệm
trên, Đức Ngài hay lui tới nhà ông Cao Quỳnh Cư, người gốc ở Tây Ninh, xuống
làm việc tại Sở Hỏa Xa Sài gòn. Ông Cư mướn phố ở tại đường Bourdais (số 134).
Ông có một người vừa là đồng hương vừa là bạn thiết, là ông Phạm Công Tắc,
nguyên làm việc tại Sở Thương Chánh Sài gòn, và một người cháu là ông Cao Hoài
Sang cũng làm việc tại Sở Thương Chánh. Ba người này thân thiết với nhau lắm,
đêm nào cũng hiệp nhau một chỗ, khi đờn địch lúc ngâm thi, tiêu diêu với thú
phong lưu tài tử"(Theo Đại Đạo Căn nguyên của Nguyễn Bảo Pháp ).
Năm Ất Sửu (1925) là năm
việc xây bàn hay "sai ma" rất thịnh hành trong các giới tại miền Nam
Việt Nam, nhất là tại đô thành Sài gòn.
Trước hết, vì sự hiếu kỳ
mà quý ông bạn chí sĩ Cao Quỳnh Cư (sau đắc phong Thượng Phẩm), Phạm Công Tắc
(sau đắc phong Hộ Pháp) và Cao Hoài Sang (sau đắc phong Thượng Sanh) mới nghĩ
ra việc xây bàn để tiếp chuyện với người khuất mặt ở thế giới bên kia (theo Đạo
Sử cơ bút của Trương Hiến Pháp).
Do đó, vào ngày 25-07-1925
(ngày mồng 5 tháng 6 năm Ất Sửu), hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến nhà
ông Cao Hoài Sang bên cạnh chợ Thái Bình (Sài gòn) để thăm viếng và hàn huyên
tình đời thế sự. Càng lúc càng khuya, vì Thần Linh thúc giục, các ông mới nghĩ
đến việc xây bàn. Ba ông đem ra trước hiên nhà một cái bàn vuông bốn chân (bàn
này hiện để ở Nữ Đầu-Sư Đường), kê một chân hỏng đất rồi đồng để tay lên bàn
khấn vái. Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, ba vị đốt nhang khấn nguyện từ 21 giờ
tối đến 2 giờ đêm, có nhiều vong linh nhập bàn viết tiếng Anh, Pháp và Hoa ngữ,
cũng có một vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng quốc ngữ.
Cái bàn gõ khi chững chạc,
khi lựng khựng dường như có nhiều vong linh tranh nhau để nói chuyện. Do đó,
các ông nãn lòng ngưng xây bàn.
Việc xây bàn thật vất vả
vì chỉ có khẩu ước với các Đấng vô hình trong vần quốc ngữ. Như nhịp một lần là "A", hai lần là
"Ă" và ba lần là "Â" vv... Khi chân bàn ngừng chỗ nào thì
người ngồi ngoài biên chữ ấy, rồi nhiều chữ ghép lại thành một tiếng; nhiều
tiếng mới ghép lại thành lời văn hay câu thơ. Nhưng về sau nhờ thuần điển và
quen việc nên sự tiếp chuyện với các Đấng Thiêng liêng càng mau lẹ và dễ dàng.
Qua đêm thứ nhì
(26-7-1925), ba ông lại xây bàn đúng 24 giờ, có một vong linh nhập bàn, gỏ chữ
ráp thành bài thi bát cú Đường luật như sau:
THI
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màn đôi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Ký tên CAO QUỲNH
TUÂN
Cao Quỳnh Tuân là thân phụ
của Ngài Cao Quỳnh Cư, qua đời đã 25 năm, đắc vị Xuất Bộ Tinh Quân, đọc tới câu
thứ 7 các Ngài quá ngậm ngùi. Cả ba cảm phục ý tứ của bài thơ.
Đến đêm 30-7-1925 (10-6-Ất
Sửu), ba Ngài lại họp nhau tại nhà Ngài Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn. Hôm ấy
có một nữ vong linh giáng bàn cho thi:
THI
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào Ngọc Các,
Nào dè phủi nợ xuống Tuyền Đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự ngỏ cùng ai?
Ký tên Đoàn Ngọc
Quế
Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi:
"Hồi tại thế xứ ở đâu?". Cô Đoàn Ngọc Quế đáp: "Ở Chợ Lớn".
Ngài Phạm Công Tắc hỏi: "Cô học ở đâu?". "Học trường đầm".
Tên Đoàn Ngọc Quế chỉ là
tên mượn (tá danh), tên thật của cô là Vương thị Lễ, cháu ông Vương Quan Kỳ
(Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Tây Ninh 1970, trang 76-77 ). Nhưng tầm
nguyên còn bí hiểm hơn nữa. Kiếp trước cô là công chúa, con một vị vua bên Tàu,
nhưng vì "ngỡ trao duyên vào Ngọc Các, nào dè phủi nợ xuống Tuyền
Đài". Thế nên còn vương vấn bụi hồng trần phải tái sanh vào gia đình Tổng
Đốc họ Vương ở Việt Nam, nhưng vẫn không tròn câu tình ái.
Khi cô mang bịnh nặng, gia
đình rước bác sĩ thuốc thang cho cô và hứa: nếu ai trị lành bịnh thì sẽ gã cô
cho bác sĩ. Nhưng vì không phải duyên nợ, cô biết rõ lời hứa cửa song thân, nên
lúc bác sĩ đến tận tình săn sóc cho cô, cô uất lên mà chết (Theo Đại Đạo Bí Sử,
Trần văn Rạng ).
Ba Ngài đều có họa bài thi
trên, riêng bài của Ngài Phạm Công Tắc họa như vầy:
Họa vận
Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai,
Trời xanh vội lấp nữ anh tài.
Tình thâm một gánh còn dương thế,
Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài,
Để thảm thung đường như ác xế,
Gieo thương lữ khách ngóng tin mai.
Hiềm vì chưa rõ đầu đuôi thế,
Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai.
Cũng đêm đó, Ngài Cao
Quỳnh Cư hỏi cô bệnh chi mà chết, cô đáp bằng hai bài thơ như vầy:
THI
Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một mãnh tình.
Mấy bữa nhăn mày lâm chước quỉ,
Khiến ôm mối thảm lại Diêm Đình.
Người thời Ngọc Mã với Kim Đàng,
Quên kẻ dạ đài mối thảm mang.
Mình dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.
Hôm sau, Ngài Cao Quỳnh Cư
mời hai Ngài Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang qua nhà mình xây bàn mời cô Đoàn
Ngọc Quế về dạy làm thi. Nhân tiện ba Ngài hỏi cô Quế về việc Thượng Giới, cô
tiết lộ đôi điều khiến các Ngài càng thêm mê học hỏi. Rồi cô gọi Ngài Cao Quỳnh
Cư là Trưởng ca, Ngài Phạm Công Tắc là Nhị ca, Ngài Cao Hoài Sang là Tam ca,
còn cô là Tứ muội.
Đến ngày 03-08-1925
(15-07-Ất Sửu), thiết đàn xây bàn, các Ngài được cô Đoàn Ngọc Quế báo tin có
một Đấng đến tiếp xúc với ba Ngài.
THI
Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.
A-Ă-Â
Ngài Phạm Công Tắc nghe
thi lạ lùng có ý hơi khó chịu, liền đó Đấng này cho thêm bài thi:
THI
Đời hiếp lẫn nhau nỡ chẳng thương,
Thương đời nên mới đến đem đường.
Đường dài vó ngựa tua bền sức,
Sức yếu lòng người khó để gương.
Gương Đạo noi theo đường Thuấn Đế,
Đế dân vẹn giữ lối Văn Vương.
Vương hầu lê thứ ai là chí,
Chí quyết làm cho thế khác thường.
A-Ă-Â
Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi Đấng
A-Ă-Â mấy tuổi, tên họ là gì. Ông gõ bàn hoài không ngừng. Ngài Phạm Công Tắc
hỏi ông ở đâu thì được cho bài thi:
THI
Tròi trọi mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náu nương thân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ bước nhờ con hạc trắng ngần.
Bố hóa người đời gây mối Đạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng nào đất dậy trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.
Đến ngày 18-8-1925
(01-08-Ất Sửu), cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn, các Ngài hỏi rằng: "Em còn có
chị em nào nữa biết làm thi, xin cầu khẩn đến dạy ba anh em qua làm thi".
Cô Đoàn Ngọc Quế trả lời: "Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương với Nhứt Nương
làm thi hay lắm". Và cô lại thêm: "Ba anh muốn cầu thì ngày đó ba anh
phải ăn chay, cầu mới được" (Những lời đối thoại trên đây đều tr1ch trong
sách "Đạo Sử Xây Bàn" của Bà Đầu Sư Hương Hiếu )
. Ba Ngài vâng ý cô Đoàn
Ngọc Quế, ngày cầu, ba Ngài ăn chay.
Đến 25-08-0925 (08-08-Ất
Sửu), Đấng A-Ă-Â giáng dạy ba Ngài, vào rằm tháng tám năm đó thiết tiệc chay
thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và chư vị Cửu Nương đến dự. Đến 14 Âm lịch thì Đức
Nhàn Âm Đạo Trưởng giáng cho thơ mời các Ngài họa.
THI
Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,
Non sông dạo khắp lối đêm Xuân.
Bài họa của Ngài Phạm Công
Tắc như vầy:
Họa vận
Cuộc thế lầm than đã quá chừng,
Ai là những bậc vẹn Thường Luân?
Thiều quang nhặc thúc không chờ đợi,
Tế thế an bang phỉ kiếp xuân.
Đến 01-09-1925 (15-08-Ất
Sửu), tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư số 134 Bourdais (nay là Calmette, Sài gòn),
giữa nhà lập bàn hương án, chưng các hoa thơm và xông trầm trọn ngày. Các Ngài
mặc quốc phục quì trước hương án cầu nguyện các Tiên Nương dự tiệc. Lễ bái
xong, các Ngài cũng ngồi vào bàn tiệc. Bà Nguyễn thị Hiếu (tức bà Nữ Đầu Sư
Hương Hiếu) gắp đồ ăn để vào chén cho chín vị và trên bàn thờ Đức Phật Mẫu. Đó
là thể pháp tượng trưng cho bí pháp của Đạo Cao Đài, mà hàng năm về sau đến
ngày tháng này đều tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung do Hiệp Thiên Đài chủ trì.
Sau đó các Ngài xây bàn,
Đấng A-Ă-Â giáng cho bài thi và Đức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương mỗi vị đều
giáng cho một bài, mà ngày nay hàng năm thài để hiến lễ (Xem Công Đức Phật Mẫu
và Cửu Vị Nữ Phật cùng soạn giả )
Phật Mẫu
Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc thiên,
Thiên thiên cửu phẩm đắc cao huyền,
Huyền hư tác thế Thần Tiên nữ,
Nữ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.
Nhứt Nương
Hoa thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba e tuyết Đông về.
Non sông trải cánh Tiên lòe,
Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.
Nhị Nương
Cẩm tú văn chương hà khách đạo?
Thi Thần, tửu Thánh vấn thùy nhân?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh Tiên còn mến, cõi trần anh thư.
Tam Nương
Tuyến Đức năng hành đạo,
Quãng trí đắc cao quyền.
Biển mê lắc lẻo con thuyền,
Chở che khách tục Cửu tuyền ngăn sông.
Tứ Nương
Gấm lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa,
Đợi trang nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng chẳng ngừa Tiên thi.
Ngũ Nương
Liễu yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiu hiu nhẹ gót phong trần,
Đài sen mấy lượt
gió thần đưa hương.
Lục Nương
Huệ ngào ngạt đưa hơi vò diệu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tú phong.
Nương mây như thả cánh hồng,
Tiêu diêu phất phướn cõi tòng đưa Tiên.
Thất Nương
Lễ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
Ngày Xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.
Bát Nương
Hồ Hớn hoa Sen Trắng nở ngày,
Càng gần hương đẹp lại càng say.
Trêu trăng bằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.
Cửu Nương
Khiết sạch duyên trần vẹn giữ,
Bạc liêu ngôi cũ còn lời.
Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,
Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương.
Nhờ mười bài thi trên mà
ta biết tên, phong cách và việc làm của Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương (Xem
Công Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật cùng soạn giả )
. Lễ Hội Yến Diêu Trì
Cung, ngày rằm tháng 8, là ngày các con nhớ ơn báo hiếu Đức Mẹ, biểu tượng cho
Nguồn Sống (vườn đào là sự trường tồn) và Nguồn Vui (ngày lễ anh em tứ phương
về sum họp). Ngày 16-8 â.l. là ngày Đức Mẹ đãi yến các con (giờ phát quà cho
nhi đồng tại Trai đường).
Đức Phạm Hộ Pháp giải rõ
(15-8 Kỷ Sửu) như sau: "Cổ pháp định cho các chơn hồn về nơi Diêu Trì Cung
hưởng được Hội Yến Bàn Đào, uống được Tiên tửu, mới nhập vô cảnh Thiêng liêng
hằng sống".
Khi tái cầu, cô Lục Nương
(tức Jeanne d'Arc) giáng cho thêm bài (Xem Đại Đạo Sử Cương, Quyển I ) và mời
Ngài làm thi liên ngâm. Bà xướng:
1 . Liên ngâm I
Trót đã đa mang cái nợ đời,
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.
LỤC NƯƠNG
Oằn vai Thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi đời.
CAO QUỲNH CƯ
Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công danh phú quí nhắm trò chơi.
PHAÏM CÔNG TẮC
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.
CAO HOÀI SANG
1 . Liên ngâm II
Ở thế sao chê tiếng thế buồn,
Buồn vui hai lẽ lấy cho đong.
LỤC NƯƠNG
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lấm bụi hồng.
CAO QUỲNH CƯ
Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy,
Phồn hoa mờ mịt giấc Huỳnh lương.
PHẠM CÔNG TẮC
Bờ dương chờ đặng phong trần rảnh,
Quảy gánh thơ đờn dạo bốn phương.
CAO HOÀI SANG
(Đạo Sử Xây Bàn Tây Ninh
1967, trang 16 )
THU
Im lìm cây cỏ
vẫn in màu,
Mờ mịt vườn
xuân điểm sắc thu.
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruỗi gió thoi đưa sáng,
Thơ ngọc trao gương đậm vẽ làu.
Non nước đìu hiu Xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.
Lục Nương
Nhờ tình thân mật đó, Lục
Nương cho biết cô Đoàn Ngọc Quế là Thất Nương Diêu Trì Cung.
Đêm 14-9-1925 (29-8-Ất
Sửu), khi xây bàn, Đấng A-Ă-Â giáng, ba vị hỏi sao lâu quá không đến. Ngài đáp
rằng vì tiết lộ thiên cơ cho ba vị, nên bị Ngọc Hư bắt tội. Ba Ngài phải lập
hương án giữa trời để chịu tội thay cho Đấng A-Ă-Â. Đến ngày rằm tháng 9 năm đó
Đấng A-Ă-Â giáng cho một bài thi:
THI
Một tòa thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then cài ngăn Bắc đẩu,
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào.
Chư Thần lóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nỗi,
Vững bền muôn kiếp chẳng hề xao.
Qua đến 04-11-1925
(18-9-Ất Sửu), một người bạn trong phong trào Đông Du đến thăm Ngài Phạm Công
Tắc, nhân đó quí Ngài xây bàn hỏi các Đấng về tương lai tổ quốc, được Đức Nhàn
Âm giáng cho bài Thập thủ liên hoàn, mà bốn câu nhập đề, bài đầu và bài cuối
như sau:
Nhập Đề
Thi họa vừa khi bước hứng nhàn,
Vòng trần luân chuyển luống lo toan.
Cày mây cuốc nguyệt, chờ Thang Võ,
Rằng biết cho dân chịu buộc ràng.
Bài đầu
Buộc ràng túng thiếu cả năm châu,
Trị loạn vần xây cuộc bể dâu.
Phép nước đòi cơn mây gió thảm,
Nghiệp nhà lắm lúc nước non sầu.
Thương nhân để dấu noi người trước,
Hiệp chủng làm gương dắt lũ nhau.
Cá chậu chim lồng chi dễ chịu,
Rừng xưa bến cũ thảnh thơi đâu?
Bài cuối
Ăn nằm nín nẩm đợi Chơn Quân,
Ta quyết sẽ cho kẻ hạ trần.
Nắm mối xa thơ ra sức gánh,
Thâu giềng xã tắc sửa đầu cân.
Thái bình trăm họ nhìn chơn Chúa,
Thạnh trị năm châu trổ trí thần.
Độc lập gần ngày vui sắp đến,
Bỏ cơn đất Việt chịu tam phân.
Nhàn Âm Đạo Trưởng
Mười bài thập thủ liên
hoàn này gây xôn xao trong giới cách mạng lúc bấy giờ. Một số nhà ái quốc đến
nhờ ba Ngài xây bàn để hỏi việc nước, được Tả Quân Lê Văn Duyệt giáng bàn cho
thi:
1 . Đã ghe phen phấn khởi can qua,
Thuộc địa trách ai nhượng nghiệp nhà.
Trăm họ than van nòi bọc lại,
Ba Kỳ uất ức phép Tây tà.
Xa thơ
biếng trẩy rời vương thất,
Nam đảnh hầu thay sáng quốc gia.
Ách nước nạn dân gần muốn mãn,
Hết hồi áp chế tới khi hòa.
2 . Khi hòa tùy
có chí đồng thinh,
Vận nước nên hư cũng bởi mình.
Tôi giặc lắm người xô vũ trụ,
Lòng trung
mấy kẻ xót sanh linh.
Đường dài chớ nệ ngàn công gắng,
Bước nhọc đừng nao
một dạ thìn.
Đồ sộ giang sơn xưa phủi sạch,
Trông vào tua vẹn nỗi đinh ninh.
Tả Quân Lê Văn Duyệt
Ngài Cao
Hoài Sang bạch với Đức Ngài: "Trong tình thế hiện tại, các nhóm Cần Vương đất Việt có
nên họp nhau đứng dậy làm cách mạng để thoát ách nô lệ chăng?". Đức Ngài
Lê Văn Duyệt trả lời bằng bài thi:
Mạnh yếu hai đàng đã hiển nhiên,
Đôi mươi năm nữa nước nhà yên.
Dằn lòng ẩn nhẫn xem thời thế,
Đừng vội gây nên cuộc đảo huyền.
Việc xây bàn của các Ngài
lan rộng trong quần chúng, kẻ hiếu kỳ đến xem cho biết, người không tin muốn
đến thử coi chân giả. Một Phật tử hỏi Đấng A-Ă-Â làm thế nào để phân biệt thiệt
giả. Đấng A-Ă-Â nhịp bàn cho thi:
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng để mũi gần chẳng biết hương.
Hiền ngõ rủi sinh đời bạo ngược,
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.
Ngài Phật tử
đó hỏi tiếp: "Làm sao biết được chánh tà?". Đấng A-Ă-Â đáp:
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà,
Chánh tà hai lẽ đoán sao ra?
Sao ra Tiên Phật người trần tục,
Trần tục muốn thành phải đến Ta.
Cũng hôm ấy (14-11-1925),
ông Nguyễn Trung Hậu (sau đắc phong Bảo Pháp) đến hầu đàn được Đấng A-Ă-Â cho
thi:
THUẦN văn chất ĐỨC rất tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Gặp thời búa Việt, giục cờ Mao.
Và cho ông Phạm Minh Kiên
cùng ông Lê Thế Vĩnh (sau đắc phong Tiếp Thế) chung một bài như vầy:
THI
Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xưa trước giặc vạn binh lang.
Đạo Đời ví biết Đời là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.
A-Ă-Â
Nhờ điểm danh đúng bút
hiệu Thuần Đức của ông Nguyễn Trung Hậu và chỉ đúng nghề nghiệp của hai ký giả
Lê Thế Vĩnh và Phạm Minh Kiên, các ông mới chịu làm môn đệ Đấng A-Ă-Â.
Về sau có người hỏi ông
Nguyễn Trung Hậu rằng: "Các ông đều học khá hơn ông Phạm Công Tắc, sao mà
phục ổng dữ vậy, tôi tiếp chuyện ổng thấy ổng đâu có gì xuất sắc?". Ông
Nguyễn Trung Hậu đáp: "Ông nói có phần đúng. Lúc bình thường, con người ấy
cũng mang thi phàm xác thịt như chúng ta. Có điều con người ấy khi ngươn linh
Hộ Pháp nhập vào ông ta rồi, không ai có thể sánh nổi. Tôi đâu phải là kẻ cả
tin hay mê tín. Một lần đã chứng kiến ông chấp bút viết một mạch 24 trang giấy
mà không sửa một chữ nào. Là một nhà thơ mà tôi cũng không làm được việc ấy,
hỏi sao tôi không tin có Thần Linh nhập điển quang cho ông Phạm Công Tắc".
Đến 27-11-1925 (12-10-Ất Sửu), một người bạn trong phong trào Đông Du bị bắt,
Ngài Phạm Công Tắc lo cho số mạng của ông ấy nên xây bàn hỏi các Đấng. Ông
Huỳnh Thiên Kiều tự Quí Cao, bạn văn thơ thuở còn sinh tiền với thi sĩ Thuần
Đức, giáng bàn cho biết:
Tử sanh dĩ định tự thiên kỳ,
Tái ngộ đồng hoan hội nhứt chi.
Bắc Ngụy Quan Vân tâm mộ hữu,
Giang Đông kháng thụy lụy triêm y.
QUÍ CAO
Đến 12-12-1925 (27-10-Ất
Sửu), Đức Diêu Trì Kim Mẫu giảng dạy: "Mùng 1 tháng 11 này, tam vị đạo hữu
vọng thiên cầu đạo". Các Ngài không biết phải làm thế nào. Ngày hôm sau ba
Ngài cầu Thất Nương để hỏi: " Thất Nương dạy dùm Cầu Đạo là gì?".
Thất Nương đáp: "Không phải phận sự của em, xin hỏi ông A-Ă-Â". Ngày
sau nữa, các Đấng có giáng bàn, ba Ngài hỏi thì cũng được đáp: " Không
phải phận sự của tôi, xin hỏi ông A-Ă-Â. Ngày 30-10-Ất Sửu (15-12-1925) tam vị
phải vọng thiên cầu đạo, tắm gội cho tinh khiết ra quì giữa trời cầm chín cây
nhang mà vái rằng: "Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang
vọng bái Cao Đài Thượng Đế ban ơn giũ phúc lành cho ba tôi cải tà qui
chánh".
Tịnh tâm quì tàn hết ba
cây nhang mới vào, rồi đến nhà ông Tý mượn Đại Ngọc Cơ, Đấng Cao Đài Thượng Đế
giáng cho bài thi nhiều ẩn ngữ:
Vọng niệm phân thùy sự sự phi,
Cá lý thiên tâm thường thế nhẫn.
Thiên tâm tu hướng cá trung cầu,
Quân vấn thiên tâm mạc tri tường.
Các Ngài không rõ nghĩa,
nên cầu Đức A-Ă-Â giải nghĩa. Đức A-Ă-Â giải thông như vầy: "Đức Cao Đài
Thượng Đế muốn nói tam vị chưa đủ đức tin về Ngài, nên hỏi gạn lại, Tam vị phải
nghĩ cho thấu".
Đức A-Ă-Â cho thi dạy Đạo:
Cứ níu theo chân Đức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn lấy cành dương hưởng đạo nhàn.
Thế là việc xây bàn đến
đây chấm dứt và việc cầu cơ bắt đầu để khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nghĩa là
thời dẫn dắt vào đường Đạo đã hết.
Khi ba Ngài vọng thiên cầu
Đạo ngoài đường kẻ qua người lại dập dìu, nào xe cộ lượn qua, nào người đi coi
hát về, họ hiếu kỳ dừng chân lại coi ba Ngài cúng vái ai mà quì ngoài sân. Bỗng
đâu có thi sĩ Bồng Dinh (tức Giáo Sỏi) đến vịn cái bàn chỗ ba Ngài quì mà ngâm
thi. Mọi người càng đến coi đông hơn. Nhưng các Ngài cũng tâm nguyện chờ cho 9
cây nhang tàn mới vào nhà, đoạn thiết đàn cầu cơ.
Đấng Cao Đài Thượng Đế
giáng viết:
"Ngọc Hoàng Thượng Đế
viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát giáo đạo Nam phương".
THI
Thiên đàng nhứt thế biến Lôi âm,
Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm.
Chánh Giáo phát khai thiên thế mỹ,
Thâu hồi hiệp nhứt Đạo kỳ tam.
Cao Đài Thượng Đế
Các Ngài không thông suốt
được bài thi nên thỉnh Đấng A-Ă-Â xin giải nghĩa, được giải như vầy:
"Ngọc Hoàng Thượng Đế
là Trời, viết là dạy rằng, Cao Đài chỉ Nho Giáo, Tiên ông chỉ Đạo Giáo, Đại Bồ
Tát Ma Ha Tát chỉ Thích Giáo, giáo đạo Nam phương là dạy Đạo ở phương
Nam".
Việc Cao Đài Thượng Đế
giáng cơ lập Đạo qui Tam Giáo làm cho bậc tri thức và giới tu sĩ bàn tán. Cụ
Yết Ma Luật quyết đến đàn cơ thử coi hư thực. Cụ viết sẵn một bài thơ ở trong
túi áo và xin họa vận như vầy:
Hãy tỉnh cho mau giấc mộng tràng,
Đời cùn Tiên Phật giáng phàm gian.
Chẳng ai hay giỏi bày thi phú,
Chính thật ta đây Đấng Ngọc Hoàng.
Cao Đài Thượng Đế
Cụ Yết Ma Luật bái phục,
xin theo Đạo và đưa bài thi mà ông đã viết như sau:
Ấm ức tâm tư suốt mộng tràng,
Có đâu Tiên Phật giáng phàm gian.
Văn hay chữ giỏi bày thi phú,
Họa đặng thơ đây mới Ngọc Hoàng.
YẾT MA LUẬT
Ông Phan Khắc Sửu tuy có
dự đàn, nhưng vẫn không tin, nên làm một bài thơ rồi đốt mà không khấn vái gì
cả. Dù đang giảng dạy chư môn đệ, Đấng Cao Đài ngưng cơ họa liền:
Cơ trời khó tỏ hởi con ơi,
Nghiệp quả tiền khiên của giống nòi.
Bởi luyến mồi thơm, cam cá chậu,
Vì ganh tiếng gáy, chịu chim lồng.
Trời khai Đại Đạo nên yên dạ,
Đất dậy phong ba cứ vững lòng.
Gắng trả cho rồi căn nợ ấy,
Tu mà cứu thế dễ như không.
Cao Đài Thượng Đế
Nhận được bài họa, chánh
khách Phan Khắc Sửu chịu làm đệ tử và đọc lại bài của ông, hai câu đầu cố ý
gieo lạc vần như vầy:
Cao Đài Tiên Trưởng hởi ông ơi,
Linh hiển sao không cứu giống nòi.
Trăm họ điêu linh thân cá chậu,
Muôn dân đồ thán phận chim lồng.
Coi nòi diệt chủng càng đau dạ,
Thấy cảnh vong bang bắt não lòng.
Ách nước nạn dân như thế đấy,
Ngồi mà đạo đức có yên không?
PHAN KHẮC SỬU
Ngày 19-12-1925 (4-11-Ất
Sửu), sau khi thiết bàn, Đức A-Ă-Â giáng cho một bài thi:
Mừng thay gặp gỡ Đạo Cao Đài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Giữ lòng tu tánh chớ đơn sai.
Đức Minh Nguyệt Tiên Ông dạy tiếp:
Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
Cùng nhau một Đạo tức cùng cha.
Nghĩa nhân đành gửi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hòa.
Minh Nguyệt Tiên
Ông
Đêm 20-12-1925, Đấng A-Ă-Â
giáng dạy:
THI
Hảo Nam bang, hảo Nam bang,
Tiểu quốc tảo khai hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi ân tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt nhược hư
vạn đại an.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế sắc cao ban.
Cơ gõ cho tiếp
bài:
Có cơ, có thế, có tinh thần,
Từ đấy Thần Tiên dễ đặng gần.
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn thiên ân.
Ông Phan Khắc Sửu hỏi:
"Thưa Ngài, Đấng Cao Đài Thượng Đế có dạy: Tu mà cứu thế dễ như không,
nhưng trước sự lầm than của dân tộc, xin Ngài dạy phương pháp dứt khổ".
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ thay
Thầy giáng cho mười bài Thập thủ liên hoàn mà bài chót như vầy:
Nhà ta có tiếng giống anh phong,
Vẻ đẹp trời đông sắc Lạc Hồng.
Nam hải trổ nhiều tay Thánh đức,
Giao châu sanh lắm mặt anh hùng.
Tinh trung lửa thét thành Bình Định,
Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng Đông.
Văn hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng công.
Thanh Sơn Đạo Sĩ
Đến ngày 21-12-1925
(6-11-Ất Sửu), nhân Thất Nương giáng đàn, một người hỏi rằng: "Thưa Tiên
Nương, mấy năm qua buôn bán lỗ lã, tôi định đổi nghề, xin Tiên Nương chỉ
giúp". Thất Nương giáng dạy rằng:
THI
Hồ thỉ vẫy vùng đáng phận trai,
Trời chiều nay đã rạng cân đai.
Cành Nam mến đặng người tên tuổi,
Đất Bắc mừng an bước lạc loài.
Lộc nước
gắng đền ơn chín tháng,
Nợ nhà tua vẹn gánh hai vai.
Qui điền có lúc phong trần rảnh,
Đinh sắc một lòng chí chớ lay.
THẤT NƯƠNG
Người thương khách giả ấy
được thơ vội chắp tay xá, vì ông ấy vốn là một cựu thần nhà Nguyễn đang đi bôn
ba kết nạp Cần Vương.
Cũng nên biết, không phải
người ngoài nghi ngờ lòng tin mà ngay cả Ngài Cao Hoài Sang lúc đầu cũng rất
thận trọng. Ngài có làm một bài thi tự thuật cho các thi hữu họa chơi. Rồi cũng
xây bàn thỉnh Tiên, vong linh cụ Cao Hoài Ân (thân sinh ông Sang) giáng đàn.
Ngài Cao Quỳnh Cư thưa rằng: "Sẵn dịp anh về đây có bài thơ của Sang, cậy
mấy anh em tôi họa.Vậy anh họa chơi luôn thể". Ông Cao Quỳnh Diêu tiếp lời
mà nói rằng: "Anh đề thi mà khuyên dạy nó và lấy vận voi, mòi, còi, roi,
thoi của bài Từ Thứ Qui Tào mà họa lại". Chơn linh cụ Cao Hoài Ân cho thi:
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hần nên đã thấy mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm nở,
Rừng tòng buổi trước một cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruỗi đường mây khó nhọc roi.
Nín nẩm chờ qua cơn bỉ cực,
Thìn lòng chứng có lượn đôi thoi.
Vì có nhiều vị chưa vững
đức tin, đêm mùng 8-11-Ất Sửu (23-12-1925) Lục Nương giáng giải đáp thắc mắc
cho các Ngài. Sở dĩ chỉ có Thất Nương, Lục Nương và Bát Nương thường giáng đàn
là vì các Tiên Nương khác có nhiệm vụ riêng. Sau có Huệ Mạng Trường Phan (thầy
tu trên núi Bà Đen) giáng:
1 . Trước ước
cùng nhau sẽ hiệp vầy,
Nào dè có đặng buổi hôm nay.
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng Đảo ngày mai đặng hiệp vầy.
2 . Tây Ninh tu
luyện động Linh sơn,
Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn.
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.
"Xin chư vị gắng tu,
thấp thỏi như tôi, nhờ trọn tin Trời Phật, còn được ân hưởng Huệ Mạng Kim Tiên;
huống hồ chơn linh cao trọng như quí vị, nếu chịu tu ngày sau phẩm vị nơi Thiên
đình còn đến mức nào".
Lời báo tin may của Huệ
Mạng làm cho các ông nửa mừng nửa sợ, nên đêm sau thiết đàn để thỉnh Đấng A-Ă-Â
về giáng dạy. Lục Nương giáng đàn báo phải chỉnh đàn nghiêm để rước Đấng Cao
Đài Thượng Đế.
Bài I
Trước vốn thương sau cũng thương,
Một lòng nhơn đức giữ cho thường.
Trông ơn Thượng Đế trên cao rộng,
Sum hiệp ngày sau cũng một trường.
Bài II
Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.
Cao Đài Thượng Đế
"Đêm nay, 24
Décembre, phải vui mừng vì là ngày của Ta xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây
(Europe)".
"Ta rất vui lòng mà
đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà này (nhà ông Cư) sẽ đầy ơn Ta. Giờ
ngày gần đến, đợi lệnh nơi Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta
hơn nữa"
Nên biết thuở đầu, việc
xây bàn cầu cơ phần lớn thiết lập ở nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, vì thế khi đi làm
việc về, Ngài Phạm Công Tắc thường ghé luôn ở đây ăn cơm xong rồi cầu cơ thỉnh
Tiên. Các Ngài muốn mau biết việc Thượng giới nên đi làm việc chỉ mong mau tối
để về thiết dàn.
Cũng đêm hôm ấy Đức Lý
Thái Bạch giáng đàn cho thi:
Đường trào hạ thế hưởng tam quan,
Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.
Chén rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
Non Tiên vạn kiếp thế chưa tàn.
Một bầu nhật nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng đảo còn mơ khi múa bút,
Tả lòng thế sự
vẽ giang san.
Tiên ông Đỗ
Mục gõ cơ họa lại:
Chẳng kể công danh bỏ ấn quan,
Bồng lai vui Đạo hưởng thanh nhàn.
Thi Thần vui hứng ngoài rừng trước,
Rượu Thánh buồn sang dưới cội tàng.
Nồng hạ Trời thương đưa gió quạt,
Nắng thu đất cảm đổ mưa chan.
Vân du thế giới vui mùi Đạo,
Mơi viếng Kỳ Sơn tối Cẩm San.
Bà Lục Nương Diêu Trì Cung
mừng tam vị:
Vui nhơn, vui Đạo, lại vui Thiền,
Vui một bước đường, một bước yên.
Vui bóng Cao Đài che khắp chốn,
Vui gương Ngọc Đế thấy như nhiên.
Vui ngàn thế giới răn nhơn tự,
Vui một màu thiên đóng cửu tuyền.
Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,
Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.
Cuối cùng Đức A-Ă-Â dạy
tam vị:
"Hay lắm! Chỉ trông
cho ba vị đi càng ngày càng vững trên đường Đạo".
2 .
Tiêu ngữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Đêm 31-12-1925 (15-11-Ất
Sửu), Đấng A-Ă-Â giáng dạy:
"Ba con thương Thầy
lắm há?
"Con thấy đặng sự hạ
mình của A-Ă-Â như thế nào chưa? Con có thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa?
Người quyền thế lớn nhất như vậy có thể hạ mình bằng A-Ă-Â chăng?
"A-Ă-Â là Thầy.
"Thầy đến với các con
thế ấy, con thương Thầy không?
Cao Quỳnh Cư bạch:
"Thấy nhơn-sanh chưa rõ sự huyền-diệu của Thầy, họ nói phạm thượng, ba con
binh vực Thầy, ba con cãi vả với họ.
"Thầy biết ... Cười
...
"Sự nhỏ nhẹ của Thất
Nương đó, con bằng mảy mún gì chưa? Học hỏi sự nhỏ nhẹ ấy.
"Sự cao kỳ của Lục Nương,
con có đặng mảy mún gì chưa? Học hỏi sự cao kỳ ấy.
"Sự nhân đức của Nhất
Nương, con có chút đỉnh gì chưa? Phải học sự nhân đức của Nhất Nương.
'Tình nghĩa yêu mến của
con có bằng Bát Nương không? Phải học.
"Sự kính nhường, ba
con bằng Cửu Nương chăng? Phải học.
"Phải học tình nhân
ái, trung tín, cứu giúp. Ba con có đặng như Cửu Thiên Nương Nương (tức Đức Phật
Mẫu) chăng? Phải học gương.
"Hạ nguơn tận diệt,
Thầy sai Thần, Thánh, Tiên, Phật và chính mình Thầy, vì thương chúng sanh cũng
hạ mình đến với các con, mượn việc xây bàn đùa giỡn với các con, để các con vui
mà học Đạo, hầu khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt chúng sanh".
Tuyên ngữ Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ đến nay mới được khải chúng. Năm 1920, Đấng Thượng Đế đến dạy Đạo Ngài
Ngô Văn Chiêu ở Phú Quốc chỉ xưng là Cao Đài Ngọc Đế, nhiều người lầm tưởng Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phát xuất từ Phú Quốc. Trong "Đại Đạo Căn Nguyên"
của Nguyễn Bảo Pháp xác định rõ ràng: "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phát nguyên
tại Sài gòn. Trước kỳ Khai Đạo, Thượng Đế đã truyền lệnh cho chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật giáng cơ nhiều chỗ đặng cảnh tĩnh nhơn tâm, cùng để lời tiên tri
rằng Đại Đạo hoằng khai. Như đàn tại Miễu Nổi (Bến Cát, Gò Vấp, Gia Định) đêm
17-6 năm Quí Hợi (30-7-1923), Tào Quốc Cựu Đại Tiên giáng cơ dạy như vầy:
"Khá rán luyện Đạo
kẻo uổng, vì Đạo là món báu trong trời nên mới gặp Đạo mở kỳ ba. Hữu duyên đắc
ngộ Tam kỳ độ".
Đàn tại Đất Hộ (chùa Ngọc
Hoàng Đa Kao), đêm 22-7 năm Quí Hợi (02-10-1923), Huê Quang Đại Đế giáng cơ như
vầy:
HUÊ phát Tam Kỳ Đạo dĩ khai,
QUANG minh từ hướng thượng Tam Tài.
Đại phước Kim đơn thần đắc ngộ,
ĐẾ quân giáng hạ nhữ vô tai.
Xem thế, "Tam Kỳ Phổ
Độ" lập giữa chợ Sài gòn. Đó
là lối tu chợ hay tu tâm. Tu giữa chợ mới gọi là "đại ẩn ẩn thành
thị" hay "Nhất tu thị, nhị tu sơn". Cách tu, lối tu theo thời cuộc mà biến
đổi cho phù hợp với đời. "Thời còn ăn lông ở lổ, hang núi là nơi ở thiên
nhiên nên con người chọn lối tu núi tức tu tiên (Đức Ngô Minh Chiêu hành đạo
Vô-vi ở núi Phú Quốc). Khi con người biết quần tụ cất nhà để ở thì nảy ra lối tu
chùa. Người sanh đẻ càng ngày càng đông giành giựt nhau từ miếng ăn manh áo.
Khổng Tử kêu gọi con người phải giữ Bát Điều Mục, sinh ra lối Tu Tề của Nho
Giáo. Xã hội ngày càng tiến bộ, chỗ nào cũng có người, chỗ nào cũng có chợ thì
có lối tu chợ tức tu tâm (Đạo Tâm). Xét qua quá trình các phương pháp tu: từ tu
núi, tu chùa, tu tề, tu chợ, chắc chắn tu chợ là lối tu khổ luyện nhất" .
(Xin xem "Ngôi Thờ Đức Chí Tôn" cùng người viết )
Những điều vừa trình bày
trên, không thể nào nói cơ Phổ Độ thoát thai từ bên Vô-vi. Và cũng không thể
nói: "Một Thánh Thất (tức Trước Lý Minh Đài, nhà của Chưởng Nghiêm Pháp
Quân Nguyễn Phát Trước) thuộc phần Phổ Độ để các môn đệ bên Vô-vi ngữa Thánh ý
truyền Bí pháp lại cho hàng đệ tử thiện căn"(Đồng Tân, Lịch Sử Đạo Cao
Đài, Sai Gòn, Cao Hiên 1972, trang 113 ). Vì chính Thánh Thất này khai sinh
quyển Đại Thừa Chơn Giáo (1936), sau khi Đức Ngô Minh Chiêu qui vị ba năm. Thế
thường người ta phân biệt Vô-vi, Phổ-Độ là hai mà quên lời dạy của Đức Chí Tôn
"Cùng nhau một Đạo tức một Cha". Chẳng lẽ Vô vi mà không Phổ-Độ,
Phổ-Độ theo kiểu Vô-vi chớ! Còn Phổ-Độ chẳng lẽ không tịnh luyện (xem đoạn sau,
Đức Chí Tôn dạy các ông Cư, Tắc ... tịnh luyện) nhưng phần phổ độ chúng sanh
theo tuyên ngữ "Đại Ân Xá" vượt trội hơn mà thôi. Vô vi và Phổ-Độ
song hành như lẽ trời đất phải có Dương Âm: "Thầy lập Bát Quái (có quả Càn
Khôn ở trên) mà tác thành Càn Khôn thế giới"(Xin xem "Lý Giải Quả Càn
Khôn" cùng người viết ). Có Âm Dương mới sanh sanh hóa hóa. Nhờ đó mà Đạo
mới truyền tới thất ức niên đặng". Đức Cao Đài Tiên Ông (biểu tượng phần
Dương) dìu dẫn Đức Ngô Minh Chiêu thờ Thiên Nhãn. Đức Phật Mẫu và Cửu Nương
(biểu tượng phần Âm) độ dẫn nhóm Cao Phạm vào Đạo. Điều đó là một tiên triệu
quá hiển nhiên. Nói theo Dịch Lý, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Khi
gọi là Dương vì Dương trổi hơn Âm và khi gọi là Âm vì Âm nhiều hơn Dương có thế
thôi. Nói rõ hơn, khi gọi là Vô-vi vì lo Vô-vi nhiều hơn Phổ-Độ và khi gọi là
Phổ-Độ vì lo việc hoằng Đạo nhiều hơn tịnh luyện, chớ không phải không có tịnh
luyện. Đạo Cao Đài là bao la đại đồng, nếu không thấy được đại đồng mà chỉ thấy
tiểu dị thì làm sao gọi là Đại Đạo. Đạo đã truyền bao nhiêu thập niên mà người
Đạo lẽ nào chưa thông lý tưởng Đại đồng?
Các Ngài lúc bấy giờ, chưa
rõ mối Đạo lớn là thế nào và Giáo lý ra sao hay lấy Giáo lý các Tôn Giáo đã có.
Thế nên, đêm 02-01-1926
(18-11-Ất Sửu), Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng dạy:
"Cư Tắc hai con đừng
lấy làm việc chơi nhé. Thầy dặn hai con một điều: nhứt nhứt phải đợi lịnh Thầy,
chẳng nên lấy ý tứ riêng mà phán đoán nghe.
Phận sự hai con, trách
nhiệm hai con Thầy đã định trước, song ngày giờ chưa đến, phải tuân lời Thầy
nghe. Từ đây Thầy khởi sự dạy Đạo".
Ngày 02-01-1926 là ngày
lịch sử trong khoảng đời tâm linh của Ngài Phạm Công Tắc và Cao Quỳnh Cư, vì từ
đây Đức Chí Tôn mới thật sự dạy Đạo cho các Ngài. Vì vậy các Ngài gặp điều gì
khó khăn thì triệu hỏi các Đấng Thiêng liêng. Đêm mồng 4 tháng đó, Đức Chí Tôn
giáng cơ quở rằng:
"Thầy đã nói A-Ă-Â là
Thầy, Diêu Trì Cung là cung Diêu Trì, các Thánh đều có quả đó là những Đấng
Thầy lựa sai đến dạy dỗ mấy con, đừng triệu thường vì mỗi vị đều có phận sự
riêng.
Chư Tiên và chư Thánh đều
có quả, song đừng triệu về mà chơi, kỳ dư có điều gì học hỏi".
Đến ngày 9-1-1926
(25-11-Ất Sửu), Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng dạy các Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm
Công Tắc đến đường Quai Testard (Chợ Lớn) độ ông Lê Văn Trung, Ngài Phạm Công
Tắc có vẻ không bằng lòng vì:
"Buổi nọ, ông Lê Văn
Trung đang làm Thượng Nghị Viên, Hội đồng Thượng Nghị Viện thời Pháp lớn lắm.
Ông là người Nam duy nhất làm đến bậc đó thôi. Ông là người quá sức đời, tôi và
Đức Cao Thượng Phẩm (tức ông Cao Quỳng Cư) không hạp chút nào.Tôi kỵ hơn hết,
nhứt định không làm điều đó được. Một ông quan trong thời mất nước không thể tả
hết".
"Khi chúng tôi ôm cái
cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ. Mục đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo
đâu làm đó vậy thôi. Khi vô tới nhà chúng tôi thú thật với Ngài rằng:
"Chúng tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà anh phò loan cho Đức Chí Tôn dạy
Đạo". Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi (Vì vào khoảng tháng 5 - Ất Sửu
(tháng 6 - 1925), tại chợ Gạo (Chợ Lớn) nơi nhà Nguyễn Bá Vân có thiết đàn
thỉnh Tiên, ông Nguyễn Hữu Đắc có đưa ông Lê văn Trung đến hầu đàn nhiều lần.
Khi Đức Lý độ ông Trung ngộ đạo thì mắt ông sáng lại. Đàn Chợ Gạo từ đó bị bế.
Nghĩa là dù ai có cầu các Đấng vẫn không giáng. ). Lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn
buổi phò loan, rồi bắt ông nhập môn.
"Trong nhà có một
người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12 tuổi. Hai cha con kiếm được cơ đâu
không biết, vái rồi cầu cơ. Khi phò loan thằng nhỏ ngủ, ông thì thức. Cơ chạy
hoài. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi.
Từ đó ông mới tin có Đức Chí Tôn. (Theo bài thuyết Đạo đêm Giáp ngọ của Đức
Phạm Hộ Pháp )
Thật ra, nội dung của đàn
cơ là Đức Cao Đài cho Ngài Lê Văn Trung biết, chính Ngài đã truyền lịnh cho Đức
Lý độ dẫn ông nơi Đàn Chợ Gạo. Đức Chí Tôn dặn rằng: "Trung, nhứt tâm nghe
con. Sống cũng nơi Thầy và thác cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng của con mà suy
lấy" (Theo Đại Đạo Căn nguyên của Nguyễn Bảo Pháp, 1930 )
. Dù đã theo học Đạo với
Thầy-Trời, nhưng tấm lòng thương dân yêu nước vẫn chưa nguôi. Khi chính quyền
Pháp đàn áp các phần tử ái quốc, dòng máu cách mạng của Ngài lại bừng sôi. Bà
Thất Nương giáng cơ đêm 27-01-1926 (13-12-Ất Sửu) khuyên:
"Em xin quí anh coi lại đời là thế nào? Bông
Phù-dung sớm còn tối mất, còn hơn kiếp con người. Vì nó sống ngắn ngủi nhường
ấy nhưng mà lúc sống còn có cái sắc; chớ đời người sanh ra chỉ để khổ mà thôi,
dù sống trăm tuổi chưa một điều đắc chí, rồi chết. Cái đời đúng là một khổ hải.
Em xin quí anh coi sự trường sanh của mình làm trọng,
người không có phải kiếm cho có, mình có sẵn nỡ bỏ đi. Em tiếc dùm đó thôi.
Đã vào đường chánh, cứ dò theo đó bước tới hoài thì
trở về cựu vị đặng".
Từ lúc chấm dứt việc xây
bàn thay vào phò cơ thì hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc làm đồng tử, nên
tất cả những bài từ trước của các Đấng giáng cho đều do cặp cơ nguyên thủy này
viết ra. Vì vậy Ngài Cao Hoài Sang thấy mình hơi thừa, rồi lần lần ít chịu đi
hầu đàn. Các Ngài mới xin Đấng Cao Đài để lời dạy bảo. Đấng Cao Đài Thượng Đế
giáng rằng:
"Nó thật thà, vã lại nó còn mang xác phàm. Ai
dưới thế này đặng trọn vẹn, các con chỉ cho Thầy coi?".
Các Ngài đã thọ làm môn đệ Đấng Cao Đài đã lâu nhưng
chưa thờ vì chưa biết cách thức thờ thế nào, nên mới xin dạy cách thức để thờ,
thì Đấng Cao Đài Thượng Đế dạy: "Đến Chiêu xem cách thức nó thờ Thầy, bảo
nó hiệp một với các con". Vâng lệnh Đấng Cao Đài, các Ngài Lê Văn Trung, Cao
Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đến nhà ông Ngô Văn Chiêu ở số 110 đường Bonnard (nay
là Lê Lợi, Sài gòn) để quan sát cách thờ. Ngài Ngô Văn Chiêu thờ Thầy rất kỹ,
tận trên cao và ngay chính giữa nhà thật kín đáo. Có ai đến chơi nhà, khó mà
biết được vì ông là người rất dè dặt, không phải là bạn tu thì không bao giờ chỉ
dẫn.
Vào năm 1921 lúc làm chủ
quận Phú Quốc, một buổi sáng lối 8 giờ, Đức Chí Tôn đã hiện con mắt (Thiên
Nhãn) nhiều lần và dạy Ngài cách thờ. Năm 1924, Ngài đổi về Sài gòn thì cũng
tiếp tục thờ Thầy (Thiên Nhãn) và tu đơn như trước. Kịp đến khi Đức Chí Tôn
chuyển cơ Phổ-Độ cho nhóm Ngài Phạm Công Tắc thì các Ngài đến đây để xem cách
thờ phượng về truyền bá trong đạo hữu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét