VIII
. Những sự kỳ diệu của
Tòa Thánh.
Tòa Thánh
Tây Ninh là một công trình kiến trúc vĩ đại và kỳ diệu của Đạo Cao Đài. Nó kỳ
diệu về phương diện vị trí xây cất, kỳ diệu về kiểu cách hình dáng và kỳ diệu về
phương
pháp kiến trúc.
1/ . Kỳ diệu về vị trí xây cất, bởi vì Tòa Thánh được
cất ngay trên cuộc đất Lục Long Phò Ấn. Đó là Thánh địa, là đất linh trổ sanh
các bậc Thánh, Tiên, Phật, là nơi mà Thượng Đế lựa chọn để làm Đền Thờ cho Ngài
đến ngự.
2/ . Kỳ diệu về kiểu cách hình dáng, bởi vì Đức Chí
Tôn có nói : Đức Lý Thái Bạch cất Tòa Thánh theo kiểu vở của Thiên đình.
Kiểu cách hình dáng của
Tòa Thánh là một sự phối hợp hài hòa của các văn minh kiến trúc của các nền Tôn
giáo lớn trên thế giới.
Khi mới thoạt nhìn vào Tòa
Thánh, chúng ta thấy nổi bật 2 Lầu chuông trống cao chót vót, tương tự như
những tháp chuông của các nhà thờ Thiên Chúa giáo.
Ở giữa 2 tháp có tượng Đức
Phật Di-Lạc ngự trên nóc với những mái ngói đỏ cong cong chập chùng, tương tự
như kiểu dáng của các chùa Phật giáo Trung Hoa.
Nghinh Phong Đài thì bên
dưới hình vuông, bên trên hình tròn, chóp tròn, có dáng như những cái tháp của
những ngôi Đền Á Rập của Hồi giáo. Ngoài ra còn gợi cho chúng ta hình ảnh Trời
tròn Đất vuông, với những liên tưởng về Vũ Trụ Quan trong Kinh Dịch của Nho
giáo. Các nhà Dịch học, nếu nghiên cứu sâu vào các con số về kích thước của Tòa
Thánh và những bố trí bên trong, sẽ thấy được những điều kỳ diệu bất ngờ trên
những con số dịch học.
Bát Quái Đài có hình dáng
làm chúng ta liên tưởng đến Bát Quái Đồ của Đạo Tiên, và trên nóc Bát Quái có 3
pho tượng của 3 vị Phật mà Đạo Bà-La-Môn tôn thờ.
Trong Cửu Trùng Đài có 9
cấp bậc từ thấp dần lên cao, giống như 9 bậc phẩm của quan lại trong triều đình
vua chúa theo Nho giáo thời xưa ở nước Trung Hoa.
Tất cả những hình thức
trên thể hiện rất rõ tôn chỉ của Đạo Cao Đài là: Qui nguyên Tam giáo, Phục nhứt
Ngũ Chi.
3/ . Kỳ diệu về cách thức kiến trúc, bởi vì sự tạo tác
Tòa Thánh không giống với bất cứ một công trình xây dựng lớn lao của người đời.
Thông thường, trước khi
xây dựng một công trình lớn nào, người đời phải nhờ kiến trúc sư vẽ kiểu dáng
tổng quát, những sự trang trí chi tiết, nghiên cứu nền móng và những kết cấu bê
tông, tính toán chọn lựa các thứ vật liệu xây dựng đúng chất lượng cần thiết,
vv… rồi phải xin phép cơ quan nhà nước cấp phép xây dựng.
Đối với Tòa Thánh Tây
Ninh, Đức Phạm Hộ Pháp xây dựng không có một đồ án chi tiết nào vẽ ra trên giấy
hết, cũng như không có sự tham dự của một kiến trúc sư hay kỹ sư xây dựng nào,
cũng không có một thứ máy móc nào giúp đỡ, chỉ toàn trông cậy vào 2 bàn tay với
sức lực của con người, những người thợ nam nữ làm không lãnh tiền công, ăn chay
trường với cháo rau đạm bạc và đặc biệt có lập thệ là không được cưới vợ hay
lấy chồng trong suốt thời gian xây dựng Tòa Thánh, để có đủ Âm Dương và đủ tinh
khiết trong việc xây dựng Đền thờ, cũng không xin phép xây dựng với một Chánh
quyền nào hết. (cũng tương tự như khi lập Tờ Khai Đạo), bởi vì đây là mối Đạo
Trời, mối Đạo của Thượng Đế, chỉ có Thượng Đế cho phép mà thôi.
Đức Lý Thái Bạch giáng cơ
dạy Đức Phạm Hộ Pháp về vị trí xây cất Tòa Thánh, về kích thước tổng quát : bề
dài, bề ngang, bề cao. Đức Hộ Pháp cứ theo đó mà chỉ bảo lại cho công thợ làm,
chỉ tới đâu làm tới đó, không biết gì thêm. Hết phần đó rồi, Đức Lý Giáo Tông
giáng cơ dạy tiếp, hoặc Đức Hộ Pháp ban đêm xuất chơn thần đi lên gặp Đức Lý để
nhờ Đức Lý chỉ dạy trực tiếp, hay Đức Hộ Pháp vào Bạch Ngọc Kinh quan sát tỉ mỉ
kiểu vở, ghi nhớ để về bắt chước làm giống theo.
Làm như thế trong suốt gần
5 năm, công trình mới hoàn tất. Tòa Thánh trở thành một kỳ quan về kiến trúc
của nước Việt Nam.
Sau khi xây dựng Tòa Thánh
xong, Ban Kiến Trúc mới đo đạc kích thước, vẽ lại họa đồ kiến trúc Tòa Thánh
theo đúng qui định của khoa Đại học Kiến trúc ngoài đời.
Tòa Thánh Tây Ninh là một
công trình kiến trúc độc đáo, duy nhứt, có sự phối hợp Trời và Người, Thiên
khiển Nhơn tạo, nên được mệnh danh là Bạch Ngọc Kinh tại thế, xứng đáng tiêu
biểu cho nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn Thượng Đế cứu thế kỳ ba.
Cho nên Tòa Thánh là một
nơi rất thiêng liêng huyền diệu, hấp dẫn được các bậc chơn tu khắp nơi trên thế
giới đến chiêm ngưỡng và lễ bái. Quí vị nầy, sau khi Thiền định trong Tòa Thánh
một khoảng thời gian ngắn để dùng huệ nhãn quan sát sự thiêng liêng của Tòa
Thánh, họ đều nhìn nhận rằng hồng ân của Thượng Đế bao phủ dẫy đầy Tòa Thánh,
và điễn lành từ cõi thiêng liêng ban rải xuống cho Tòa Thánh liên tục không
ngớt, hơn hẳn các Tòa Thánh khác làm Đền thờ Đấng Thượng Đế trước đây như ở
Jérusalem, ở La Mã, hay ở Tây Tạng.
TAM THÁNH KÝ HÒA ƯỚC
I . Tổng quát.
Định nghĩa : Tam Thánh là
3 vị Thánh, ở đây chỉ 3 vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động nơi cõi Thiêng liêng.
Ba vị Thánh đó là :
- Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ, hay Thanh Sơn Chơn
Nhơn, đứng đầu Bạch Vân Động, mà trong kiếp giáng trần tại Việt Nam, Ngài là
Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm.
- Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, mà trong kiếp giáng
trần tại nước Pháp, Ngài là Đại văn hào Victor hugo.
- Đức Trung Sơn Chơn Nhơn,
mà trong kiếp giáng trần tại nước Trung Hoa, Ngài là nhà Đại Cách mạng Tôn Dật
Tiên, tức Tôn Văn.
Ký, theo nghĩa chữ Hán, có
nghĩa là ghi chép.
Hòa Ước là bản văn cam kết
thi hành những điều thỏa thuận giữa đôi bên. Đây là bản Hòa Ước giữ Trời và
Người, tức là giữa Thượng Đế và Nhơn loại, nên được gọi là THIÊN NHƠN HÒA ƯỚC.
Tam Thánh Ký Hòa Ước là 3
vị Thánh Bạch Vân Động ghi chép bản Thiên Nhơn Hòa Ước lên một tấm bia đá để
công bố lên cho toàn thể Vạn Linh trong Càn Khôn Vũ Trụ biết rõ.
Khi du khách bước vào cửa
chánh Tòa Thánh, nhìn ngay vào, liền thấy một bức họa thật lớn sừng sựng trên
vách, vẽ hình Tam Thánh Bạch Vân Động cao lớn và sống động như người thật, đang
cầm bút viết bản Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước trên một tấm bia đá tỏa hào quang
bằng 2 thứ chữ : Chữ Trung Hoa tức là chữ Nho của Việt Nam, và chữ Pháp :
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cầm
bút lông viết 8 chữ Nho :
(Thiên thượng Thiên hạ -
Bác ái Công bình.)
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
cầm bút lông ngỗng viết 6 chữ Pháp :
"DIEU
et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE"
Cả hai vị đều chấm bút lông vào nghiên mực đỏ
tỏa hào quang do Đức Trung Sơn Chơn Nhơn đứng cầm. Bên góc dưới Bức họa có ghi
:
" Tòa Thánh 1947
Họa sĩ
Lê minh Tòng"
Bên cạnh Bức họa nầy, Hội Thánh có đặt bản chú
thích bằng 5 thứ chữ : Chữ Việt, chữ Pháp, chữ Trung Hoa, chữ Anh và chữ Đức.
Bản chữ Việt, xin chép ra như sau đây :
"
TRUYỆN KÝ TAM THÁNH"
"Cụ NGUYỄN BỈNH KHIÊM, nhà tiên tri danh
tiếng lớn ở đời Mạc Lê, thi đậu Trạng nguyên, tước vị là Trình Quốc Công, tục gọi là Trạng Trình, giáng cơ tự xưng là Thanh
Sơn Đạo Sĩ, tức là Sư Phó của Bạch Vân Động.
Cụ VICTOR HUGO, nhà thi
gia trứ danh của Pháp quốc, giáng cơ tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là đệ
tử của Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm ở Bạch Vân Động.
Cụ TÔN DẬT TIÊN, đại cách
mạng gia nước Trung Hoa, nhũ danh là Tôn Văn, giáng cơ tự xưng là Trung Sơn
Chơn Nhơn, tức là đệ tử Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm ở Bạch Vân Động.
Ba vị Thánh nhơn trên đây
là Thiên Sứ đắc lịnh làm Hướng đạo cho nhơn loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhơn
Hòa Ước."
(GHI CHÚ : Sư Phó Bạch Vân
Động là vị Thầy dạy chư Thánh trong Bạch Vân Động, nên cũng là Động chủ Bạch
Vân Động).
II . Lễ
Trấn Thần Tam Thánh
Vào năm 1947, Hiền Tài Lê
minh Tòng là một họa sĩ, lãnh ý kiến của Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc để vẽ bức
họa "Tam Thánh ký Hòa ước". Khi vẽ xong, trình với Đức Hộ Pháp thì
được Đức Ngài chấp thuận bản vẽ nầy.
Sau đây là Bài tường thuật
của Luật Sự Võ quang Tâm (Tốc ký viên) về buổi lễ Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần
bức họa Tam Thánh ký Hòa ước.
" Cuộc lễ rước tượng
Tam Thánh ký Hòa ước khởi hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 10-7-Mậu Tý (dl
11-8-1948).
Hiện diện : Chư Chức sắc
HTĐ, CTĐ, Phước Thiện, Chức việc, Đạo hữu NamNữ, chư Thượng Hạ Sĩ quan thamdự.
Đúng giờ, Lễ Viện và Dàn
Nhạc đến Hộ Pháp Đường rước Đức Hộ Pháp qua Văn phòng Quốc Sự Vụ, vì nơi đây là
nơi khởi đầu cuộc rước tượng ảnh.
Lộ trình, trước hết hai
hàng Đồng nhi nam nữ, kế Bảo thể cầm đồ Lỗ bộ đi hai bên Dàn Nhạc, có 4 Lễ sĩ
mặc áo phái Ngọc (áo tràng đỏ), 2 vị cầm lọng, 2 vị cầm tàn, hầu hai bên bàn
đưa tượng ảnh, có 4 vị Lễ Sanh thuộc Hội Thánh Ngoại Giáo khiêng đi.
Bức tượng Tam Thánh nầy do
vị Hiền Tài Lê minh Tòng vâng lịnh Đức Hộ Pháp truyền họa, khuôn khổ : 2 m 80 X 1 m 90.
Hình tượng bằng người
thường. Đức Thanh Sơn cầm bút lông mèo, Đức Nguyệt Tâm cầm bút lông ngỗng, và
Đức Tôn Sơn cầm nghiên mực.
Hai Đấng đang viết trên
bia đá những chữ :
Hán văn :
Thiên thượng Thiên hạ -
Bác ái Công bình
Pháp văn : DIEU
et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE
Đi tiếp bàn đưa có Đức Hộ Pháp mặc Tiểu phục
vàng, đội Tam quang mạo, kế đó là Ngài Bảo Thế, Khai Đạo mặc Tiểu phục trắng,
đội Tam quang mạo, kế tiếp là Chức sắc HTĐ, CTĐ, Phước Thiện, Chức việc, Sĩ
quan, Đạo hữu và trên 200 học sinh Đạo Đức Học Đường đi sau rốt.
Đến Đền Thánh, đi vào cửa hông phía Đông, tiến
lên Cung Đạo, day mặt tượng ảnh vào Bát Quái Đài, Bảo thể cầm đồ Lỗ bộ đứng hầu
hai bên.
Trước hết, Đức Hộ Pháp xông tay vào lư hương và áp
vào mặt 3 lần, rồi Ngai bước xuống cầm lư hương xông tượng ảnh 3 lần để khử
trược. Xong rồi, Đức Hộ Pháp lấy nước Âm Dương hòa lại, rải lên tượng ảnh 3
cái, bắt đầu từ Đức Thanh Sơn đến Đức Nguyệt Tâm, rồi đến Đức Trung Sơn.
Rồi Đức Hộ Pháp lấy 9 cây
nhang trấn Thần Tam Thánh : Đức Thanh Sơn trước, Đức Nguyệt Tâm kế đó, và sau
rốt là Đức Tôn Trung Sơn.
Đồng nhi đứng trên lầu HTĐ
đọc kinh Xưng Tụng Công Đức. Khi dứt kinh, Đức Hộ Pháp giải rằng :
" Trấn Thần 3 vị
Thánh rất khó, vì phải kêu Chơn linh họ đến nhập vào tượng ảnh, mà muốn Chơn
linh họ đến, phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng. Còn 9 cây nhang dùng để
trấn Thần là 9 cái thang bắc lên Cửu Trùng Thiên cho các Chơn linh nương theo
đó. Chẳng biết họ ở từng Trời thứ mấy, mình cứ đưa lên đủ, họ gặp họ tới ngay,
quan hệ là trước khi trấn Thần, phải xem lại coi có tắt cây nhang nào không.
Thảng như họ ở từng thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi, thành ra bị cách
khoảng, họ không thể tới được.
Bây giờ chúng ta chỉ thông
công với các Đấng trong Cửu Thiên Khai Hóa, rồi đây cũng có ngày Bần đạo kêu
lên Đức Di-Lạc ở từng thứ 11 chưa biết chừng, khi ấy sẽ phải dùng đến 11 cây
nhang, chớ không phải 9 cây nữa. "
Khi Đức Hộ Pháp trấn Thần
tượng ảnh Tam Thánh xong, cả nhân viên tùng sự lui theo cửa hông trở ra, vòng
ra cửa trước, đi vào HTĐ, thỉnh Thánh tượng đặt lên vách tường, ngó mặt ra
trước cửa Đền Thánh.
Đức Hộ Pháp giải thích :
1 . Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn,
2 . Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ,
3 . Đức Tôn Trung Sơn,
là đại diện của Hội Thánh
Ngoại Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo Ngoại quốc (Missionnaires
étrangers), cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên Đài, day mặt ra ngoài cho thiên
hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi thiêng liêng của các Ngài.
Cả 3 vị Thánh đều mặc cổ
phục. Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn Trung Sơn có hào quang chiếu diệu, tượng
trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung Hoa. Cái khuôn xi măng đúc trên
vách HTĐ, từ ngày tạo tác Tổ đình, là để dành ngày nay đặt tượng ảnh Tam Thánh
lên đó. Trước kia, Bần đạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh
của Đức Lý Giáo Tông.
Ngày nay thời cuộc biến
thiên, vị Hiền Tài LÊ MINH TÒNG ở Hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh cho vẽ
tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng : Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến.
Trước tượng ảnh không có
bàn thờ chi hết vì Chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy.
Kể từ ngày 10-7-Mậu Tý (dl
19-8-1948), tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp Thiên Đài, là biểu
hiệu cho Chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn
chúng sanh Vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi đoan sự bành trướng
ngoại giáo.
Cuộc lễ bế mạc lúc 9 giờ
cùng ngày."
Tòa Thánh, ngày 10-7-Mậu
Tý (dl 19-8-1948).
Luật Sự VÕ QUANG TÂM tường
thuật.
Trên bức họa Tam Thánh ký
Hòa ước, chúng ta thấy :
- Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ ,
tức là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, mặc triều phục của một văn quan Đại thần
VN thuở xưa, Ngài cầm bút lông mèo viết vừa xong 8 chữ Nho, phiên âm là : Thiên
thượng Thiên hạ - Bác ái Công bình.
- Đức Nguyệt Tâm Chơn
Nhơn, tức văn hào Victor Hugo, mặc áo mão giống vị Bá Tước Âu Châu thời Trung
Cổ, vì Ngài là một Hàn Lâm Học Sĩ lúc bấy giờ. Ngài cầm bút lông ngỗng viết 6 chữ Pháp : Dieu et Humanité - Amour et
Justice.
Sáu chữ Pháp nầy nghĩa là : Trời và Nhơn loại - Bác ái
và Công bình.
- Đức Tôn Trung Sơn, tức là Tôn dật Tiên hay
Tôn Văn của nước Trung Hoa, mặc quốc phục Trung Hoa, vì Ngài là nhà Đại Cách
mạng đứng lên lật đổ chế độ Quân chủ của vua quan nhà Thanh, lập nên chế độ Dân
chủ Cộng hòa với thuyết Tam Dân chủ nghĩa : Dân tộc, Dân quyền, Dân sinh.
Đức Tôn Trung Sơn cầm nghiên mực rực rỡ ánh hào
quang, để cho 2 vị kia chấm bút vào mà viết ra chữ. Điều đó tượng trưng cho sự
hiểu biết giữa Đông phương và Tây phương hòa hợp cùng nhau đặt trên nền tảng Triết lý Nho giáo của Đức Khổng Tử nước
Trung Hoa.
Nghiên mực rực rỡ ánh hào quang tượng trưng nền văn
minh Nho giáo của Trung Hoa rất rực rỡ vào thuở xưa.
Bản Thiên Nhơn Hòa Ước
được viết lên tấm bảng đá cũng rực rỡ ánh hào quang, được 2 vị Thánh đứng đầu
Bạch Vân Động viết ra để công bố cho toàn cả chúng sanh biết bằng 2 thứ chữ :
- Chữ Trung Hoa, cũng là
chữ Nho của VN, là chữ viết có ảnh hưởng lớn ở vùng Á Đông.
- Chữ Pháp của nước Pháp ở
Âu Châu, là chữ viết có nhiều ảnh hưởng ở các nước Tây Âu.
Nội dung của Bản Thiên
Nhơn Hòa Ước nầy rất đơn giản, chưa có bản Hòa ước nào trên thế gian lại đơn
giản hơn, vì nội dung chỉ gồm có 4 chữ : BÁC ÁI - CÔNG BÌNH.
Tam Thánh công bố Bản
Thiên Nhơn Hòa Ước nầy để chúng sanh biết rõ sự Cam Kết giữa Thượng Đế và Nhơn
loại.
Người nào trong nhơn loại
mà thực thi 4 chữ nầy được trọn vẹn thì Thượng Đế sẽ rước về cõi Thiêng liêng
để ban thưởng cho những phẩm vị Thánh, Tiên, Phật tương xứng.
Còn nếu Nhơn loại không
thực hiện được 4 chữ nầy, mà lại làm nhiều điều trái ngược thì sẽ bị đọa, không
thể kêu nài được nữa.
Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ cũng chỉ có mục đích dạy dỗ nhơn sanh thực hiện 4 chữ BÁC ÁI và CÔNG
BÌNH trong tờ Hòa ước nói trên.
III . Thiên
Nhơn Hòa Ước
Thiên Nhơn Hòa Ước là bản
Hòa ước giữa Trời và Người, tức là giữa Thượng Đế và Nhơn loại.
Như vậy, trong bản Hòa Ước
nầy, một bên là Trời, tức là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, và một bên là
Nhơn loại, hai bên thỏa thuận ký kết với nhau.
+ Nhưng Đức Chí Tôn ở cõi
Thiêng liêng vô hình, làm sao ký kết Hòa Ước với Nhơn loại nơi cõi hữu hình ?
Thật ra, Đức Chí Tôn ký
Thiên Nhơn Hòa Ước với Vạn linh nơi cõi thiêng liêng. Vạn linh nầy đầu kiếp
xuống cõi trần làm chúng sanh. Trong chúng sanh, Nhơn loại ở phẩm cao hơn hết,
nên xứng đáng đại diện cho chúng sanh. Cho nên, Đức Chí Tôn ký Hòa ước với Vạn
linh, tức là ký Hòa ước với Nhơn loại vậy.
+ Bản Thiên Nhơn Hòa Ước
nầy ký vào năm nào ?
Đức Chí Tôn ký bản Thiên
Nhơn Hòa Ước nầy kể từ khi Đức Chí Tôn mở lòng Đại từ Đại bi Đại khai Ân Xá mở
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm Bính Dần (1926) cứu vớt nhơn sanh trong thời kỳ
cuối Hạ nguơn Tam Chuyển, trước khi mở Đại Hội Long Hoa.
+ Kể từ khi có Nhơn loại
đến nay, có bao nhiêu lần Đức Chí Tôn ký Hòa ước với Nhơn loại ?
Kể từ khi có nhơn loại
trên quả Địa cầu đến nay, giữa Trời và Người, đã có 3 lần ký Thiên Nhơn Hòa
Ước, tương ứng với 3 thời kỳ Phổ độ :
- Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa
Ước được ký kết lúc mở Nhứt Kỳ Phổ Độ.
- Đệ nhị Thiên Nhơn Hòa
Ước được ký kết lúc mở Nhị Kỳ Phổ Độ.
- Đệ tam Thiên Nhơn Hòa
Ước được ký kết lúc mở Tam Kỳ Phổ Độ.
1 . Đệ
nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước :
Khi loài người mới xuất
hiện trên quả Địa cầu nầy, thì đó là các Hóa nhân, do loài cầm thú cao cấp tiến
hóa lên, nên còn mang ít nhiều thú tánh, nhưng bản chất sống rất hồn nhiên. Đức
Chí Tôn Thượng Đế liền cho 100 ức Nguyên nhân giáng trần để khai hóa đám Hóa
nhân ấy, cho có được đời sống văn minh, có đạo đức và luân lý. (1 ức là 1 trăm
ngàn, 100 ức là 10 triệu).
Nhưng loài người càng tiến
bộ về đường vật chất thì càng xa dần đạo đức, các Nguyên nhân lại nhiễm trược
trần, nên không thể trở về cõi Thiêng liêng. Đức Chí Tôn thương xót, muốn cứu
vớt đám Nguyên nhân nầy, nên mở ra Nhứt Kỳ Phổ Độ, khai Đạo Thánh tại nước Do
Thái với Ông Môi-se làm Thiên sứ, công bố Đệ Nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước.
Bản Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa
ước nầy chính là 10 Điều Răn mà Đức Chúa Trời (Thượng Đế) đã ban cho Ông Môi-se
trên đỉnh núi Si-nai nước Do Thái. Thánh Môi-se công bố bản Đệ nhứt Thiên Nhơn
Hòa Ước nầy cho dân chúng biết, nếu ai giữ đúng 10 Điều Răn nầy thì sẽ được Đức
Chúa Trời ban cho phẩm tước xứng đáng và rước về Thiên đường sống đời đời hạnh
phúc.
Nếu người nào không tu,
chẳng giữ được 10 Điều Răn, lại phỉ báng tôn giáo, thì phải bị đọa vào Địa
ngục, hoặc bị luân hồi trở lại cõi trần mà đền bồi tội lỗi.
Bản Đệ nhứt Thiên Nhơn Hòa
Ước được người đời nay gọi là CỰU ƯỚC, được chép trong Thánh Kinh của Đạo Do
Thái, mà về sau, Thiên Chúa giáo và Đạo Tin Lành đều nhìn nhận.
Những tôn giáo mở ra trong
thời Nhứt Kỳ Phổ Độ với Đệ Nhứt Thiên Nhơn Hòa Ước chỉ độ được 6 ức Nguyên nhân
trở về cựu vị nơi cõi Thiêng liêng, còn lại 94 ức Nguyên nhân chìm đắm trong
cõi trần.
2 . Đệ nhị Thiên Nhơn Hòa Ước:
Phần lớn nhơn loại vẫn say
đắm mùi trần, không lưu tâm đến linh hồn, không kể chi đến việc tu hành. Các
mối đạo mà Đấng Thượng Đế đã cho mở ra vào thời Nhứt Kỳ Phổ Độ đã bị nhơn loại
sửa cải làm sai lạc chơn truyền, khiến nhiều người tu lầm lạc.
Đức Thượng Đế với lòng Đại
từ Đại bi mở ra Nhị Kỳ Phổ Độ, cho các Đấng Tiên Phật giáng trần, lập ra nhiều
mối đạo trên khắp hoàn cầu, với Đệ Nhị Thiên Nhơn Hòa Ước, mà Đức Chúa Jésus
(Gia Tô Giáo Chủ) lãnh nhiệm vụ công bố cho nhơn loại rõ. Bản Đệ Nhị Thiên Nhơn
Hòa Ước nầy lúc đó được gọi là TÂN ƯỚC (để đối lại với Cựu Ước thời Ông
Môi-se).
Các mối đạo được mở ra
trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ là :
- Đạo Thiên Chúa ở Trung
Đông và Âu Châu.
- Phật giáo ở nước Ấn Độ.
- Lão giáo và Khổng giáo ở
nước Trung Hoa.
- Thần giáo ở Trung Hoa,
Ai Cập, Hy Lạp, Nhựt bổn.
- Hồi giáo ở các nước Á
Rập Trung Đông.
Trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ,
nhơn loại càng bị thâm nhiễm trược trần hơn thời Nhứt Kỳ Phổ Độ, nên số người
quay về đường đạo đức vẫn còn quá ít so với số nhơn loại. Nhị Kỳ Phổ Độ chỉ cứu
độ được 2 ức Nguyên nhân. Như vậy, vẫn còn 92 ức Nguyên nhân đang trầm luân nơi
cõi trần.
3 . Đệ
tam Thiên Nhơn Hòa Ước
: Các nền tôn giáo mở ra
thời Nhị Kỳ Phổ Độ, sau mấy ngàn năm truyền bá cứu độ nhơn sanh, lần lần bị
người đời sửa cải làm sai lạc chơn truyền, nên tất cả các tôn giáo ấy đều bị
Thiên điều bế lại, người tu thì nhiều mà vì lầm lạc nên đắc quả rất ít.
Nhơn loại đồng lòng kêu
nài lên Đấng Thượng Đế : " Các nền tôn giáo thuở trước đã bị Ngọc Hư Cung,
chiếu theo Thiên điều, bế lại hết, mà Phật giáo vô ngôn. Đức Chí Tôn lại không
cho khai đạo mới thì nhơn sanh biết đường đâu mà tu hành, biết đường nào lành
mà đi theo, biết đường nào dữ mà tránh."
Bởi đó, Đức Chí Tôn mở
lòng đại từ đại bi lần thứ 3, khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, ký với nhơn loại một
tờ Hòa Ước thứ 3, gọi là Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước, giao cho 3 vị Thánh đứng
đầu Bạch Vân Động nơi cõi Thiêng liêng, viết ra công bố cho toàn nhơn loại rõ,
đồng thời Đức Chí Tôn ra lịnh cho Tam Thánh làm Thiên sứ hướng dẫn nhơn loại
khắp hoàn cầu đi vào con đường Đại Đạo.
Tại sao Đức Chí Tôn không
chọn ai khác để công bố Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước, mà lại chọn Tam Thánh Bạch
Vân Động ?
Bởi vì chư Thánh có nhiệm
vụ Thể Thiên Hành Hóa, điều hành tất cả các hoạt động của Càn khôn Vũ trụ. Cho
nên Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói rằng : " Bần đạo nói, họ đương nói
chuyện mà trên đầu họ muôn ánh hào quang xẹt tứ tung ở không trung, họ đương
nói chuyện ở đây mà họ đương điều hành tới các địa giới khác, cả CKVT."
(Con đường Thiêng liêng Hằng sống, trang 8).
Mặt khác, bực Thánh đứng
trung gian giữa Trời và Người trong nấc thang tiến hóa của Vạn linh, nên Tam
Thánh Bạch Vân Động đại diện chư Thánh, được Đức Chí Tôn chọn để công bố Đệ Tam
Thiên Nhơn Hòa Ước là một điều hợp lý.
Chọn 3 vị Thánh của 3 nước
có ân oán với nhau : một là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, người Việt Nam; hai
là Victor Hugo, người Pháp; ba là Tôn dật Tiên, người Trung Hoa; để có ý chỉ
rằng, Đức Chí Tôn muốn nhơn loại xóa bỏ hết các ân oán dân tộc, nhìn nhau là
anh em một nhà, đồng là con cái của Đức Chí Tôn để tiến tới một xã hội đại đồng
trong tình thương yêu huynh đệ và công bằng, tạo lập thời kỳ Thượng nguơn Thánh
đức. (Nói rằng 3 nước nầy có ân oán với nhau là bởi vì theo dòng lịch sử, Việt
Nam bị Trung Hoa đô hộ 1000 năm và bị nước Pháp đô hộ 80 năm).
Nội dung của bản Đệ Tam
Thiên Nhơn Hòa Ước được Tam Thánh Bạch Vân Động công bố bằng 2 thứ ngôn ngữ
quan trọng nhứt là :
- Chữ Trung Hoa, cũng là
chữ Nho của Viêt nam, là chữ viết quan trọng phổ biến của giống dân da vàng.
- Chữ Pháp, là chữ viết
quan trọng của giống dân da trắng ở Châu Âu và Bắc Mỹ Châu.
- Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ tức
Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm viết chữ Nho, phiên âm ra tiếng Việt là :
" THIÊN
THƯỢNG THIÊN HAÏ BÁC ÁI CÔNG BÌNH"
- Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
tức Victor Hugo, viết chữ Pháp :
" DIEU et HUMANITÉ AMOUR et JUSTICE"
Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước rất đơn giản, chỉ gồm 4 chữ :
BÁC ÁI - CÔNG BÌNH, hay AMOUR et JUSTICE.
Giải Thích :
Thiên thượng : Trên Trời, tức là Thượng Đế (Dieu).
Thiên hạ : Dưới Trời, tức
là Nhơn loại (Humanité).
Bác ái : (Amour) "
Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình. Cho nên, kẻ có lòng Bác ái
coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi Thiên hạ trọng bằng Trời Đất." (TNHT)
Công bình : (Justice)
Không nghiêng về bên nào, không có ý riêng tư, theo đúng Đạo lý.
Theo bản Hòa Ước nầy, Đức
Chí Tôn cam kết với Nhơn loại, nếu người nào thực thi được 4 chữ Bác ái - Công
bình, thì Đức Chí Tôn rước về cõi Thiêng liêng Hằng sống, được ban thưởng các
ngôi vị Thần Thánh Tiên Phật, thoát khỏi Luân hồi; còn nếu không thực hiện được
4 chữ nầy thì phải bị đọa Luân hồi, không được đổ thừa hay khiếu nại vào đâu
được nữa.
Đức Chí Tôn lại ban cho
một ơn huệ đặc biệt là Đại Ân Xá : " Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho
cả nhơn loại Càn khôn Thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng
Thầy đặng." (TNHT)
Nhơn loại muốn thực hiện
được bản Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước nói trên thì phải nhập môn vào Đạo Cao Đài,
tùng giáo Đức Chí Tôn, lo việc tu hành. Do đó, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ tức là Đạo Cao Đài, lấy 4 chữ : Bác ái - Công bình làm tiêu chuẩn cho
Luật và Quyền trong việc phổ độ nhơn sanh :
- Luật là Bác ái (Thương
yêu),
- Quyền là Công bình (Công
chánh).
" Các liệt cường ký
với nhau khoản nầy khoản nọ, khoản kia đủ thứ, ký không biết bao nhiêu khoản;
với Đức Chí Tôn chỉ có 2 khoản thôi :
1 ./
LUẬT : Thương yêu. Ngài định luật cho chúng ta là Thương yêu. Không phải thương
yêu nhơn loại mà thôi, mà phải thương yêu toàn cả Vạn linh nữa.
2 ./ QUYỀN : Ngài chỉ định là Quyền
Công chánh.
Từ thử, ta chưa thấy Hòa
ước nào đơn sơ như thế." (Trích trong thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, Quyển 2
trang 168)
" Đức Chí Tôn Ngài
đến, do tay Ngài ký một Hòa ước với một sắc dân nô lệ, sắc dân hèn mọn, đặng
Ngài nài nỉ xin cho đặng 2 điều trọng yếu làm cho nhơn loại sống tồn tại là :
Luật Thương yêu và Quyền Công chánh.
Ngài đã ký, Ngài đã hứa
với Thánh thể của Ngài, tức nhiên là cả quốc dân nầy đặng tạo ra hình ảnh Luật
Thương yêu. Nếu toàn cả quốc dân VN lấy Quyền Công chánh làm thành tướng ra,
rồi Ngài sẽ lấy tướng diện của nó Ngài làm môn thuốc cứu sanh mạng của nhơn
loại đó vậy."
" Ngài đã ký kết với
nhơn loại bản Hòa Ước thứ ba.
Hai Hòa Ước kỳ trước, nhơn
loại đã phản bội, không giữ sở tín của mình, vì cớ cho nên phải thất Đạo, nhơn
loại đi trong con đường diệt vong, tương tranh tương sát nhau.
Vì lòng bác ái từ bi, Đức
Chí Tôn đến ký Hòa Ước thứ ba nữa để trong Luật điều. Chúng ta thấy các Đấng
Thiêng liêng chỉ tấm tượng Tam Thánh biểu nhơn loại tín ngưỡng : Thiên thượng
Thiên hạ, về Luật có Bác ái, Pháp có Công bình, ngoài ra dầu luật pháp muôn
ngàn hình tướng, Hội Thánh Đạo Cao Đài dìu dẫn tâm lý nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô
mặt luật tối cao là Luật Bác ái và vô một nền Chơn pháp tối trọng là Pháp Công
bình.
Luật pháp của Đạo Cao Đài,
ngoài Luật Bác ái và Pháp Công bình, tất cả luật điều khác đều là phương pháp
lấy giả tạo chơn mà thôi." (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp)
Nội dung của Đệ Tam Thiên
Nhơn Hòa Ước gồm 4 chữ rất đơn sơ, nhưng muốn thực hiện trọn vẹn 4 chữ đó không
phải là điều dễ dàng, mà cũng không phải quá khó khăn để không thể thực hiện
được.
Có lòng Bác ái mới rõ lẽ
Công bình. Muốn có lòng bác ái, phải có lòng nhân, phải biết bố thí. Sự bố thí
làm cho ta có sự cảm xúc tinh thần trước những nỗi đau khổ của nhơn sanh. Từ
đó, chúng ta mới thể hiện được tình thương yêu trên muôn loài vạn vật, tức là
Bác ái vậy, và nhờ đó, chúng ta mới biết rõ được lẽ Công bình của Tạo Hóa.
Nói một cách khác, muốn
thực hiện Bác ái và Công bình thì chúng ta phải làm Công Quả phụng sự chúng
sanh. Nói như thế tức là việc làm Công Quả phụng sự chúng sanh là hình thức tốt
nhất để thực thi Bác ái và Công bình, tức là thực thi Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước
vậy. Mà thực thi được Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước là đắc đạo và được Đức Chí Tôn
rước về Bạch Ngọc Kinh.
Bởi lẽ đó mà Đức Chí Tôn
nhiều lần dạy bảo và khuyên nhủ nhơn sanh phải lo làm Công Quả.
" Thầy đến độ rỗi các
con là lập thành một Trường Công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng
chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Nếu chẳng đi đến Trường Thầy lập
mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ."
(TNHT)
" Vì vậy mà Thầy hằng
nói cùng các con rằng : Một Trường thi Công Quả, các con muốn đến đặng nơi Cực
Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi." (TNHT)
IV .
Tiểu sử của Tam Thánh
Tam Thánh đứng đầu Bạch
Vân Động gồm :
1 . Thanh Sơn Đạo Sĩ: Ngài giáng trần ở VN là Trạng
Trình Nguyễn bỉnh Khiêm (1491-1585).
2 . Nguyệt Tâm Chơn Nhơn : Ngài giáng trần tại nước
Pháp là đại văn hào Victor Hugo (1802-1885).
3 . Trung Sơn Chơn nhơn : Ngài giáng trần ở Trung Hoa
là nhà cách mạng Tôn dật Tiên,tức Tôn văn (1866-1925). Sau đây là Tiểu sử chi
tiết của 3 vị Thánh kể trên.
Tiểu sử THANH SƠN ÐẠO SĨ
Trạng Trình Nguyễn bỉnh
Khiêm
Thanh Sơn Đạo Sĩ, cũng gọi
là Thanh Sơn Chơn Nhơn, là Thánh hiệu của Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm
(1491-1585), người Việt Nam. Tiền kiếp của Ngài là Bạch Vân Hòa Thượng ở bên
Tàu, mà chơn linh của Bạch Vân Hòa Thượng là một chiết linh của Từ Hàng Bồ Tát.
Sau đây là Tiểu sử của
Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, trích trong quyển sách "Công Dư Tiệp
Ký" của Vũ Phương Đề, dịch giả Tô Nam Nguyễn đình Diệm.
Ông Nguyễn bỉnh Khiêm, Đạo
hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, người làng Trung Am huyện Vĩnh Lại. Tiên tổ ngày xưa tu
nhân tích đức đã nhiều (nay không thể khảo cứu được), chỉ biết từ đời cụ Tổ
được tập phong Thiếu Bảo Tư Quận Công, mỹ tự là Văn Tĩnh, cụ Bà được phong
Chính Phu Nhân Phạm thị Trinh Huệ, nguyên trước các cụ lập gia cư ở nơi có núi
sông bao bọc, hợp với kiểu đất Cao Biền.
Phụ thân được tặng phong
Thái Bảo Nghiêm Quận Công, mỹ tự là Văn Định, Đạo hiệu là Cù Xuyên Tiên Sinh,
nguyên người học rộng tài cao, lại có đức tốt, được sung chức Thái Học Sinh.
Thân mẫu họ Nhữ, được
phong Từ Thục Phu Nhân, nguyên người ở Ân Tử Hạ, thuộc huyện Tiên Minh, là con
gái quan Hộ Bộ Thượng Thư Nhữ văn Lan. Bà vốn là người thông minh, học rộng văn
hay, lại tinh cả môn tướng số, ngay thời Hồng Đức mà bà đã tính được rằng : Vận
mệnh nhà Lê chỉ sau 40 năm nữa thì sẽ suy đồi. Vì có một chí hướng phò vua giúp
nước của bậc trượng phu, muốn chọn một người vừa ý mới chịu kết duyên, nên đã
chờ ngót 20 năm trời, khi gặp Ông Văn Định có tướng sinh được quí tử nên bà mới
lấy.
Nhưng lại gặp một trang
thiếu niên trong lúc sang bến đò Hàn thuộc con sông Tuyết giang, thì Bà ngạc
nhiên than rằng : Lúc trẻ chẳng gặp, ngày nay tới đây làm gì! Những người theo
hầu không hiểu ra sao, cầm roi đánh đuổi thiếu niên ấy đi, rồi sau Bà hỏi lại
tánh danh, mới biết người ấy là Mạc Đăng Dung, khiến Bà phải sanh lòng hối hận
đến mấy năm trời.
Tiên sinh sanh vào năm
Hồng Đức thứ 21 (tức năm Tân Hợi 1491), lúc sơ sanh, vóc người có vẻ hùng vĩ,
khi chưa đầy năm đã biết nói. Một hôm, vào buổi sáng sớm, Văn Định đang bế cậu
ở trên tay, bỗng thấy cậu nói ngay lên rằng : "Mặt Trời mọc ở phương
Đông." Ông lấy làm lạ ! Rồi năm lên 4, thì Phu nhân dạy cậu học kinh
truyện, hễ dạy đến đâu là cậu thuộc lòng đến đó, và thơ quốc âm cậu đã nhớ được
đến mấy chục bài.
Lại một hôm Bà đi vắng,
Ông ở nhà bày trò kéo dây đùa với lũ trẻ, nhân đọc bỡn một câu rằng :
"Nguyệt treo cung, Nguyệt treo cung", rồi Ông muốn đọc tiếp câu nữa
nhưng chưa nghĩ kịp thì cậu đứng bên đọc luôn ngay rằng : " Vén tay Tiên,
nhẫn nhẫn rung".
Ông thấy cậu mẫn tiệp như
vậy thì có ý mừng thầm, đợi khi Bà về thuật lại cho nghe. Bà lấy làm bất mãn
nói với Ông rằng : Nguyệt là tượng bề tôi, cớ sao Ông lại dạy con mình như thế
?
Ông cả thẹn xin lỗi, nhưng
Bà vẫn không nguôi giận, bỏ về ở bên cha mẹ đẻ, cách ít lâu thì mất.
Lại có truyền ngôn rằng :
Lúc Ông còn để chỏm, cùng với lũ trẻ ra tắm ở bến đò Hàn, khi ấy có chú thuyền
buôn người Tàu nhìn thấy tướng mạo của Ông, chú bảo với mọi người rằng, cậu bé
nầy có tướng rất quí, chỉ hiềm một nỗi là da hơi thô, về sau chỉ làm đến Trạng
nguyên Tể Tướng mà thôi. Vì thế nên ai cũng đoán chắc rằng, Ông sẽ là bậc tể
phụ của quốc gia sau nầy.
Như Ông lúc còn niên
thiếu, học vấn sở đắc ngay tự gia đình, đến khi lớn tuổi, nghe nói có quan Bảng
Nhãn Lương đắc Bằng, nổi tiếng văn chương quán thế, Ông bèn tìm đến để xin nhập
học.
Lương Công là người làng
Hội Trào, thuộc huyện Hoằng Hóa, lúc Ngài phụng mệnh sang sứ nhà Minh, có học
được phép Thái Ất Thần Kinh của người cùng họ, tức là dòng dõi của Lương Nhữ
Hốt (Ông Hốt trước hàng nhà Minh, được phong tước là Lãng Lăng Vương). Lương
Công rất tinh thông về lẽ huyền vi, đem truyền lại cho Ông, đến khi Ngài bị ốm
nặng, lại đem con là Lương hữu Khánh ký thác với Ông, Ông săn sóc dạy dỗ chẳng
khác con mình, sau nầy ông Khánh cũng được thành đạt.
Những năm Quang Thiệu
(1516-1526), gặp lúc loạn lạc, Ông về ẩn cư để dạy học trò, lấy Đạo làm vui,
chẳng cầu danh tiếng, nhưng sang đến thời đầu niên hiệu Thống Nguyên (tức Lê
Hoàng Đệ Thung) thì Trịnh Tuy và Mạc Đăng Dung cũng đều có ý hiếp chế Thiên tử
để sai khiến chư hầu, hai bên gây cuộc nội chiến, khiến trong nước chịu cảnh
lầm than, lúc ấy Ông có cảm hứng một bài thơ rằng :
Thái hòa vũ trụ bất Ngu Chu,
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu,
Uyên ngư tùng trước vị thùy khu.
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Túy ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
DỊCH :
Thái hòa chẳng thấy cảnh Ngu Chu,
Hai phái thù hằn chém giết nhau.
Nhuộm máu phơi xương đà khắp chốn,
Xua chà đuổi sẻ vị ai đâu ?
Trùng hưng duỗi ngựa qua sông trước,
Hậu hoạn phòng beo tiến cửa sau.
Ngán nỗi việc đời thôi phó mặc,
Say rồi dạo suối hát vài câu.
Sở dĩ có bài thơ trên vì
Ông biết rõ nhà Lê sẽ được trung hưng, dẫu rằng ngày nay tạm phải tìm kế an
thân, nhưng rồi sau đây tất nhiên sẽ lại khôi phục được nước, mà câu : Beo tiến
cửa sau, chỉ là nói kín đó thôi.
Quả nhiên về sau, nhà Lê
trung hưng, bốn phương trở lại yên tịnh, bấy giờ bạn hữu đều khuyên Ông ra làm
quan, đến năm 44 tuổi Ông mới chịu ra ứng thí, khoa hương thi ấy, Ông được đỗ
đầu, rồi năm sau, tức là năm thứ 6 đời nhà Mạc (1535), lại ra tỉnh thì được đỗ
thứ nhứt, khi vào đình đối, lại đỗ Tấn Sĩ đệ nhứt danh, được bổ chức Đông Các
Hiệu Thư, trong thời Thái Tông nhà Mạc, Ông có làm 2 bài thơ " Xuân thiên
ngự tửu", đều được hạng ưu, rồi thăng chức Hữu Thị Lang Hình Bộ, sau thời
gian ngắn lại thăng chức Tả Thị Lang, kiêm chức Đông Các Đại Học Sĩ.
Trong 8 năm ở triều, Ông
có dâng sớ hạch tội 18 kẻ nịnh thần, xin đem chém để làm gương, bởi vì bổn tâm
của Ông chỉ muốn làm trăm họ đều được an vui, những người tàn tật mù lòa cũng
cho họ được có nghề ca hát bói toán, nhưng rồi gặp phải con rễ tên là Phạm Dao
ỷ thế lộng hành, vì sợ liên lụy đến mình nên Ông cáo quan xin về trí sĩ.
Thế là giữa năm Quảng Hòa
thứ 2 (1542), Ông mới 52 tuổi đã xin trí sĩ, treo mũ về làng, dựng Am Bạch Vân
ở phía tả chỗ làng Ông ở và vẫn lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Khi ấy Ông có bắc 2
chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân để khi hóng mát, dựng một ngôi quán gọi là
Trung Tân ở bến Tuyết giang, có bia để ghi sự thực.
Ngoài ra, Ông còn tu bổ
chùa chiền, có lúc cùng các lão tăng đàm luận, có khi thả một con thuyền dạo
chơi Kim Hải, Úc Hải để xem đánh cá. Còn chỗ danh sơn thắng cảnh, như núi An
Tử, Ngọa Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn, nơi nào Ông cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng
ngâm vịnh, quên cả sớm chiều; mỗi khi thấy chỗ rừng cây chim đổi giọng ca thì
Ông hớn hở tự đắc, quả là một vị Lục địa Thần Tiên.
Nhưng trong thời gian dưỡng
lão ở chốn gia hương, tuy rằng không dự quốc chính, thế mà họ Mạc vẫn phải kính
trọng như một ông thầy, những việc trọng đại thường sai sứ giả về hỏi, có khi
lại đón lên kinh thành để hỏi, Ông đều ung dung chỉ dẫn, nhờ đó bổ ích rất
nhiều. Xong rồi Ông lại trở về am cũ, họ Mạc ân cần giữ lại cũng chẳng được, về
sau phải liệt vào hạng nhứt công thần, phong tước là Trình Tuyền Hầu, dần dần
thăng đến Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công. Ông Bà nhị đại cũng được
phong ấm, 3 người thê thiếp với 7 người con cũng theo thứ tự phong hàm.
Thế rồi đến năm Cảnh Lịch
thứ 3 thời nhà Mạc (tức Mạc Phúc Nguyên 1550), Thư Quốc Công , người xã Khoa
Hoạch huyện Thanh Oai tên là Nguyễn Thiến, con là Quyện và Mỗi về hàng Quốc
triều, Ông có làm một bài thơ gởi cho Thiến có những câu rằng :
"Cố ngã tồn cô duy nghĩa tại,
Tri quân xử biến khởi tâm cam."
DỊCH :
Ta giúp mồ côi vì trọng nghĩa,
Ông khi xử biến há cam lòng.
Lại có câu rằng :
"Khí vận nhất chu ly phục hợp,
Trường giang khởi hữu hạn đông nam."
DỊCH :
Vận chuyển một vòng tan lại hợp,
Trường giang đâu có hạn đông nam.
Thiến xem thơ, trong lòng
cảm thấy bứt rứt, còn Quyện cũng là tướng tài, luôn luôn lập được chiến công.
Phúc Nguyên lấy làm lo ngại, hỏi kế nơi Ông thì Ông thưa rằng : Cha Quyện với
thần là chỗ bạn thân từ trước, và đã ở trong nhà thần, hiện nay được ra trấn
thủ Thiên Trường, ở vào tình thế bán tín bán nghi, nay muốn dùng kế bắt lại,
thực chẳng khác chi thò tay vào túi để lấy một vật gì mà thôi.
Rồi Ông xin với Mạc Phúc
Nguyên trao cho 100 tráng sĩ, sai đi phục sẵn ở bên bắc ngạn. Ông gởi thơ cho
Quyện, hẹn sang bên thuyền nâng chén rượu nhạt kể lại tình xưa, rồi nhân lúc đã
quá say, phục binh nổi dậy bắt cóc đem về nam ngạn, Ông mới đem ân nghĩa quốc
gia để khuyên nhủ. Quyện cảm động khóc nức nở, Ông bèn dẫn về qui thuận họ Mạc,
rồi sau trở thành một viên danh tướng, nhờ đó nhà Mạc duy trì thêm được mấy
chục năm nữa.
Trong thời gian ấy, Đức
Thế Tổ (Trịnh Kiểm) đã dấy nghĩa binh , thanh thế vang khắp xa gần, đánh nhau
mấy trận
ở cửa Thần Phù. Khiêm
Vương Mạc Kính Điển đại bại, Thế Tổ thừa cơ tiến binh theo đường Tây Sơn ra
đánh Kinh Bắc, khiến cho trong ngoài nơm nớp lo sợ, Ông hiến kế sách hư hư thực
thực, họ Mạc theo đó thi hành, bấy giờ trong cõi mới tạm ổn định.
Mạc Mậu Hợp, năm Diên
Thành thứ 8 (1585), tức năm Ất Dậu tháng 11 thì Ông lâm bệnh. Mậu Hợp sai sứ
đến vấn an và hỏi về quốc sự. Ông chỉ trả lời rằng : "Tha nhựt quốc hữu sự
cố, Cao Bằng tuy tiểu khả duyên sổ thế." Nghĩa là : Sau nầy quốc gia hữu
sự thì đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng giữ thêm được mấy đời.
Quả nhiên, cách 7 năm sau
thì họ Mạc mất, rồi các Chúa nhà Mạc như Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh
Xương, rút lui lên giữ Cao Bằng được 70 năm, nghĩa là sau 3, 4 đời thì mới hoàn
toàn bị diệt, coi đó thì lời nói của Ông dự đoán chẳng sai chút nào.
Nhưng rồi trong tháng ấy,
giữa ngày 28 thì Ông tạ thế, hưởng thọ 95 tuổi, học trò suy tôn hiệu là
"Tuyết Giang Đại Phu", phần mộ ở trên một cái gò đất trong làng. . .
. . . . . . . .
Năm Thuận Bình thứ 8
(1556), Lê Trung Tông mất, không có hoàng nam nối ngôi. Thế Tổ (Trịnh Kiểm) do
dự không biết lập ai, hỏi Trạng nguyên Phùng khắc Khoan, cũng không quyết định
nổi, nên mới phải sai gia nhân ngầm đem lễ vật về tận Hải Dương để hỏi, Ông
không trả lời mà chỉ quay lại bảo các gia nhân rằng : "Vụ nầy lúa không
được mấy, chỉ tại thóc giống không tốt, vậy các ngươi phải đi tìm giống cũ để
mà gieo mạ." Nói xong, Ông lại lên xe ra chùa, sai các chú tiểu quét dọn
đốt hương, ngoài ra không hề đá động gì đến chuyện khác, bởi vì Ông đã hơi tỏ
cho biết cái thâm ý là : Cứ việc thờ Phật thì được ăn oản.
Rồi Trạng Phùng thấy thế
vội vàng về báo, Thế Tổ hiểu ngay, bèn đón Anh Tông (Lê duy Bang) về lập, tình
thế trong nước mới được ổn định.
Trong thời gian ấy, Đoan
Quốc Công Nguyễn Hoàng là con Chiêu Huân Tĩnh Vương, đương lúc ở trong tình thế
nguy ngập vì sợ không thoát khỏi tay Trịnh Kiểm, thân mẫu của người vốn dòng họ
Phạm đã được tôn là Thánh mẫu, nguyên quán ở làng Phạm Xá thuộc huyện Tứ Kỳ,
với Ông là chỗ đồng hương, nên thường bí mật sai người về làng nhờ Ông chỉ giúp
cho con trai bà một đường sống. Sứ giả đặt gói bạc nén ở trước mặt Ông, rồi bái
lạy lia lịa.
Ông thấy sứ giả năn nỉ
mãi, nhưng vẫn không nói gì, rồi đứng phắt lên, tay cầm chiếc gậy, thủng thỉnh
ra lối vườn sau, là nơi có hơn 10 tảng đá xanh xếp thành một dãy núi giả (non
bộ) quanh co, trước núi lúc ấy có những đàn kiến dương men theo tảng đá leo
lên, Ông ngắm nghía chúng một lát rồi mỉm cười đọc một câu :"Hoành sơn
nhất đái vạn đại dung thân", nghĩa là : Một dãy Hoành sơn có thể dung thân
được.
Sứ giả hiểu ý trở về thuật
lại với Nguyễn Hoàng. Hoàng bèn xin vào trấn thủ Quảng nam, đến nay hùng cứ cả
một vùng đó. . . . . . . . .
Nói về môn sinh của Ông,
thực sự không biết bao nhiêu mà kể, nhưng nói riêng về những người có tiếng tăm
lừng lẫy thì có : Phùng khắc Khoan, Lương hữu Khánh, Nguyễn Dữ, và Trương Thì
Cử, đều đã nhờ ơn truyền thụ số học từng đi đến chỗ uyên thâm, và sau đều là
các bậc danh thần trong thời Trung hưng.
Nhắc lại khi Phùng khắc
Khoan còn theo học Bạch Vân Tiên Sinh, lúc thành tài rồi, bỗng có một đêm Tiên
Sinh đến chỗ nhà trọ của Khoan, Tiên Sinh gõ cửa bảo rằng : Gà gáy rồi đấy, sao
anh chưa dậy nấu ăn mà còn nằm ỳ ở đó.
Khắc Khoan hiểu rõ ý thầy
nên vội thu xếp lẻn vào vùng Thanh Hóa, nhưng lại ẩn cư với Ông Nguyễn Dữ, chớ
chưa chịu ra làm quan. Trong thời gian nhàn rỗi ấy, Nguyễn Dữ có soạn ra bộ
Truyền Kỳ Mạn Lục, được Ông phủ chính rất nhiều, cho nên mới thành ra một cuốn
Thiên cổ kỳ bút. Coi đó, ta thấy việc đào tạo nhân tài để giúp cho bổn triều
lúc ấy, phần lớn là nhờ ở Tiên Sinh vậy.
Còn nói về cá nhân của
Tiên Sinh, ta thấy Tiên Sinh là người có lòng khoáng đạt, tư chất cao siêu, xử
sự hồn nhiên, không hề có chút cạnh góc, ai hỏi thì nói, không hỏi thì thôi, mà
đã nói ra câu gì, thực là bất di bất dịch, dẫu rằng ở nơi thôn dã vui cảnh cúc
tùng, hơn 40 năm mà lòng vẫn không quên nước, tấc dạ ưu thời mẫn thế thường
thấy chan chứa trong các vần thơ, văn chương viết rất tự nhiên, không cần điêu
luyện, giản dị mà rất lưu loát, thanh đạm mà nhiều ý vị, câu nào cũng có quan
hệ đến sự dạy đời.
Riêng về thơ phú quốc ngữ,
Tiên sinh soạn cũng rất nhiều, trước đã xếp thành một tập gọi tên là Bạch Vân
Thi Tập, tất cả đến hơn ngàn bài, ngày nay sót lại độ hơn một trăm, và một
thiên Trung Tân Quán Phú , còn thi thì thất lạc hết cả. Nhưng xem đại lược cũng
toàn những thể gió mát trăng thanh, dẫu ngàn năm sau vẫn còn có thể tưởng tượng
thấy vậy. Thử coi những câu :
Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ ?
An nhàn ngã thị địa trung Tiên.
Nghĩa là :
Cao sạch ai làm thiên hạ sĩ ?
Thanh nhàn ta cũng địa trung Tiên.
Đó là mấy
câu Tiên sinh tự thuật chí hướng của mình thì đủ rõ.
Nói về gia
đình Tiên sinh có 3 thê thiếp. Bà Chánh thất họ Dương hiệu Từ Ý, quê ở Hải
Dương,
cũng thuộc bổn huyện, nguyên là ái nữ của quan Hình Bộ Tả Thị Lang Dương đắc Nhan. Thứ
Phu nhân họ Nguyễn, hiệu là Nhu Tĩnh. Á Phu nhân họ Nguyễn hiệu Vi Tĩnh. Con
cái cộng 12 người, 7 trai 5 gái. Con trưởng hiệu là Hàn Giang Cư Sĩ, được tập
ấm hàm Trung Trinh Đại Phu, rồi sau làm đến Phó Hiến. Con thứ 2 hiệu là Túy Am
Tiên Sinh, phong hàm Triều Liệt Đại Phu, tước Quảng Nghĩa Hầu. Con thứ 3 phong
hàm Hiển Cung Đại Phu, tước Xuyên Nghĩa Bá, con thứ 4 là Thuần Phu, phong hàm
Hoằng Nghị Đại Phu, tước Quảng Đô Hầu, con thứ 5 là Thuần Đức, tước Bá Thứ Hầu,
con thứ 6 là Thuần Chính tước Thắng Nghĩa Hầu. Tất cả mấy người con đều có lập
được quân công.
Rồi sau Hàn Giang sinh
Thiết Đức, Thiết Đức sinh Đạo Tấn, Đạo Tấn sinh Đạo Thông, Đạo Thông sinh Đăng
Doanh, Đăng Doanh sinh Thì Đương. Lúc ấy Thì Đương đã 65 tuổi, sinh được 3 người
con trai, đều là cháu 8 đời của Tiên Sinh vậy.
Năm Vĩnh Hựu nguyên niên
(tức là năm Ất Mão 1735), người trong làng nhớ tới thịnh đức của Tiên sinh, có
dựng 2 tòa miếu ngay ở nền nhà của Tiên sinh ngày trước, rồi người hàng Tổng vì
nhớ ơn đức cũng đến Xuân Thu hằng năm tế tự Tiên sinh; còn người trong họ là
các Ông Nguyễn hữu Lý, vì sợ sau nầy gia phả sẽ bị thất lạc, nên có nhờ ta soạn
một bài tựa. Ta đây sinh sản ở đất Hồng Châu, đối với Tiên sinh ngày trước ,
dẫu là đồng hương, nhưng nay cách đã 190 năm rồi thì còn biết đâu mà nói. . . .
. . . . . .
Nhưng ta nhận thấy Kỳ Lân,
Phượng Hoàng đâu phải là vật thường thấy ở trong vũ trụ, tất nhiên nó phải ra
chơi ở vườn nhà Đường và núi nhà Chu thì nó mới là điềm tốt.
Còn như Tiên sinh, sẵn có
tư chất thông tuệ, thêm vào Đạo học Thánh Hiền, ví thử đắc thời để mà thi thố
sở học, chắc sẽ tạo ra cảnh trị bình, thay đổi phong tục phù bạc thành ra lễ
nghĩa văn minh. Thế mà trái lại, một người có đức đủ phò tá vương, lại sinh ra
giữa thời bá giả, thành ra sở học trở nên vô dụng, thực đáng tiếc thay !
Tuy nhiên, đời dùng thì
làm, đời bỏ thì ẩn. Đối với Tiên sinh, dù chẳng đắc dụng cũng có hề chi.
Ta rất hâm mộ Tiên sinh về
chỗ đó. Thử coi sinh trưởng trên đất nhà Mạc, khi thử ra làm quan để hành sở
học, thì cũng muốn bắt chước Đức Khổng Phu Tử vào yết kiến Công Sơn Phất Nhiễu,
rồi khi biết rằng không thể giúp được thì vội bỏ đi, lại muốn theo trí sáng của
Trương Lương để hỏi thăm Xích Tùng Tử.
Nay đọc những văn chương
còn lại, khác chi nghe thấy những tiếng ném ngọc gieo vàng, rực rỡ như mây năm
sắc, sáng sủa như vừng thái dương, mà cái phong vị tắm sông Nghi, hóng mát cầu
Vũ Vu của Ông Tăng Điểm ngày trước, và cái phong thú yêu sen, hái lan của tiền
nho ngày xưa, hình như ta được nhìn thấy Tiên sinh và Ta được bái kiến ở trong
Giáng Trướng.
Bởi vì Tiên sinh chẳng
những chỉ tinh thâm một môn Lý học, biết rõ dĩ vãng cũng như tương lai, mà sự
thực thì trăm đời sau cũng chưa thấy có ai hơn được vậy.
Ôi ! Ở trong thiên hạ, các
bậc quân vương, các vị hiền giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống thì
được phú quí vinh hoa, còn sau khi mất thì những cái đó lại cũng mai một đi với
thời gian, hỏi còn ai nhắc nữa ?
Còn như Tiên sinh, nói về
thế hệ đã truyền đến 7, 8 đời, gần thì sĩ phu dân thứ ngưỡng vọng như bóng sao
Đẩu trên trời, dẫu cách ngàn năm cũng còn tưởng tượng như một buổi sớm. Xa thì
sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng đã có câu :
"An-Nam Lý học hữu Trình Tuyền" , tức là công nhận về môn Lý học của
nước An-Nam chỉ có Trình Tuyền là người số một, rồi chép vào sách truyền lại
bên Tàu.
Như thế, đủ thấy Tiên sinh
quả là một người rất mực của nước ta về thời trước vậy.
Hậu học Ôn Đình Hầu Võ
Khâm Lâm cẩn thuật.
GHI THÊM CHO RÕ :
Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm,
trước được phong là Đông Các Đại Học Sĩ, sau được phong tước là : Trình Tuyền
Hầu, rồi dần dần thăng lên Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công.
Cụ mất ngày 28 tháng 11
năm Ất Dậu (1585), thọ 95 tuổi.
Cụ Trạng Trình Nguyễn bỉnh
Khiêm, ngoài việc dùng thi ca ngâm vịnh làm thú tiêu khiển, Cụ còn muốn dùng
văn chương để giáo hóa người đời, truyền bá những tư tưởng đạo đức, giác ngộ
dân chúng, vì trước mắt Cụ, hoàn cảnh đất nước thật điêu tàn, chiến tranh nồi
da xáo thịt, chém giết nhau vì quyền lợi riêng tư, không còn biết đạo đức nhơn
nghĩa. Cụ đã thực hành chủ trương "Văn dĩ tải Đạo" của Thánh Hiền.
Cụ có viết một tập thơ chữ
Hán gọi là " BẠCH VÂN AM THI TẬP " . Tập thơ nầy gồm hằng ngàn bài
thơ vịnh cảnh, tả tình, hiện đã bị thất lạc gần hết.
Vê thơ Nôm, Cụ có viết tập
"BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP ", gồm nhiều bài thi Đường luật và Cổ
phong, với những chủ đề như sau :
- Thú ẩn cư, an nhàn tự
tại,
- Than trách đời nhân tình
thế thái,
- Khuyên răn người đời.
Ngoài ra, Cụ Trạng Trình
còn lưu truyền lại cho con cháu một quyển SẤM KÝ trường thiên, mà con cháu Cụ
sau nầy chép vào cuốn BAÏCH VÂN GIA PHẢ BÍ TRUYỀN TẬP, gọi là SẤM TRẠNG TRÌNH.
+ Sau đây xin chép lại vài
bài thi tiêu biểu trong cuốn Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập :
THÚ THÔN CƯ
Một mai một cuốc một cần câu,
Thơ thẩn mặc ai vui thú nào.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp,
Nhìn xem phú quí tợ chiêm bao.
THẾ GIAN BIẾN ĐỔI
Thế gian biến đổi vũng nên đồi,
Mặn lạt chua cay lẫn ngọt bùi.
Còn tiền còn bạc còn đệ tử,
Hết cơm hết gạo hết ông tôi.
Xưa nay vẫn trọng người chân thực,
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.
Ở thế mới hay người thế bạc,
Giàu thì tìm đến, khó tìm lui.
CỦA NẶNG HƠN NGƯỜI
Đời nầy nhân nghĩa tợ vàng mười,
Có của thì hơn hết mọi lời.
Trước đến tay không nào thiết hỏi,
Sau vào gánh nặng lại vui cười.
Anh anh chú chú mừng hơ hải,
Rượu rượu chè chè thết tả tơi.
Người, của, lấy cân ta sẽ nhấc,
Mới hay rằng của nặng hơn người.
+ Sau đây xin
trích vài đoạn trong SẤM TRẠNG TRÌNH
CẢM ĐỀ
Thanh nhàn vô sự là Tiên,
Năm hồ phong nguyệt nổi thuyền buông chơi.
Cơ Tạo Hóa, phép đổi dời,
Đầu
non mây khói tỏa,
Mặt
nước cánh buồm trôi.
Hươu
Tần mặc kệ ai xua đuổi,
Lầu
Hán trăng lên ngẫm mệnh Trời.
Tuổi
già thua kém bạn,
Văn
chương gởi lại đời.
Dở hay
nên tự lòng người cả,
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời.
Bí truyền cho con cháu,
Dành hậu thế xem chơi.
SẤM KÝ
Nước Nam từ họ Hồng bàng,
Biển dâu cuộc thế, giang san đổi dời.
Từ Đinh Lê Lý Trần thuở trước,
Đã bao đời ngôi nước đổi thay.
Núi sông Thiên định đặt bày,
Đồ thơ mấy quyển, xem nay mới rành.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Kìa kìa gió thổi lá rung cây,
Rung Bắc rung Nam , Đông tới Tây.
Tan tác kiến kiều an đất nước,
Xác xơ cổ thụ sạch am mây.
Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng địa tràn dâng
hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái,
Nhắn con nhà Vĩnh Bảo cho hay.
Tiền ma bạc quỉ trao tay,
Đồ Môn Nghệ Thái dẫy đầy can qua.
Giữa năm hai bảy mười ba,
Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Cửu cửu Càn Khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.
Nực cười
những kẻ bàng quan,
Cờ tan lại muốn toan đường đá xe.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh,
Can qua xứ xứ khởi đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Thần Kinh Thái Ất suy ra,
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn.
Ngày thường
xem thấy quyển vàng,
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi.
Bởi Thái Ất thấy lạ đời,
Ấy thuở Sấm Trời vô giá thập phân.
Phú quí hồng trần mộng,
Bần cùng bạch phát sinh.
Hoa thôn đa khuyển phệ,
Mục giả dục nhơn canh.
Bắc hữu Kim Thành tráng,
Nam hữu Ngọc Bích Thành.
Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh.
Bảo giang Thiên Tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Cơ Tạo Hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.
Thấy Sấm từ đây chép vào,
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.
Trong thời ĐĐTKPĐ, Cụ
Nguyễn bỉnh Khiêm, Thánh danh là THANH SƠN ÐẠO SĨ, thường giáng cơ dạy đạo nơi
Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kim Biên (Nam Vang).
Sau đây, xin chép ra 2 bài
Thánh giáo quan trọng :
Báo Ân Đường (Nam Vang),
đêm 13-8
Bính Thân (dl 17-9-1956)
Hợi thời.
Phò loan :
Giám Đạo Lợi, Hữu Phan
Quân Thoại.
THANH SƠN ÐẠO SĨ
Bần đạo xin chào Hộ Pháp,
Bảo Đạo, và chư Hiền Nam Nữ.
Thắm thoát nền Đại Đạo
khai nơi Tần quốc đã 30 năm. Ngày ấy chính Chí Tôn sai Hộ Pháp đến để gieo hột
Thánh cốc. Từ ấy những nay thì các tay chấp chánh Đạo quyền nơi nầy không tô
bồi thêm, trái lại làm cho phân chia tâm lý. Cớ ấy là chỗ ham quyền trọng vị.
Các Chức sắc Thiên phong lãnh Thiên mạng nơi mình không làm xong phận, Ngôi thì
ham, quyền thì muốn, mà hành động cho xứng lại không. Thử hỏi họ vưng Thiên
mạng đến để làm gì kia chớ ?
Họ phải cho xứng phận là
anh, thầy, để gần gũi nhơn sanh, chia việc đau, an ủi điều khổ.
Hôm nay Hộ Pháp đã đến thì
cả Chức sắc Thiên phong phải ráng thiệt thi quyền của mình, hư thì bỏ, nên thì
để, rửa ráy Thánh thể Đức Chí Tôn cho nên hình. Vậy khá liệu lấy.
Có Quyền Giáo Tông đến.
THĂNG.
TÁI CẦU :
Phò loan : Hộ Pháp - Bảo
Đạo.
THƯỢNG TRUNG NHỰT Qua chào
mấy em.
Khi nảy, Đức Thanh Sơn có
ý khuyên mấy em gắng công hành đạo. Chính Qua cũng nhìn nhận mấy em thiếu kém
công nghiệp cùng Đạo. Mấy
em Nam Nữ đã thấy rõ vì thế nào mà Chưởng Đạo Nguyệt Tâm đã từ bỏ chức vụ mà
mấy em từ thử hay chăng ?
Mấy em nhớ lại coi, từ khi
Phong Chí (Giáo Sư Thượng Bảy Thanh) nắm quyền đến nay, sự nghiệp Đạo đã hư
hoại thế nào ? Thì cũng do nơi bội phản Hộ Pháp và anh em giành quyền mà sanh
ra rối loạn.
Qua nói thiệt cùng mấy em
rằng, vì hổ thẹn ấy mà Chưởng Đạo từ chức và hủy bỏ Hội Thánh Ngoại Giáo.
Các em đã hiểu rõ điều ấy.
Qua chỉ thương Thanh Sơn mang tiếng phụ phàng, lỗi tình cùng Hộ Pháp. Qua đã
nhiều phen cầu xin Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tha thứ, nhưng Ngài quyết hẳn, vì cớ là
chúng đã mạo danh Bạch Vân Động đặng chia phe phân phái lập quyền đời của họ.
Các em có biết chăng, Đấng
đã mang trọn ân của Hộ Pháp là Bạch Vân Hòa Thượng, tức là Đức Thanh Sơn, vì
khi lãnh lịnh Ngọc Hư thì người đã hứa rằng : Hộ Pháp trọn quyền sử dụng các
Chơn linh Bạch Vân Động. Hôm nay lời hứa ấy đã thất. Qua nhường cơ lại cho Đức
Thanh Sơn Chơn Nhơn.
Mấy em sẽ hưởng đặng một
điều quí báu. THĂNG.
TÁI CẦU :
THANH SƠN CHƠN NHƠN
Bần đạo trở lại là vì lời
kêu nài của Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt. Chư Thiên phong đủ hiểu rõ rằng
: Mạng số Việt Nam nó liên quan mật thiết cùng kiếp sanh của Bần đạo là thế
nào, và vì lẽ gì mà Bần đạo phải giao trọn quyền điều khiển Bạch Vân Động cho
Hộ Pháp.
Bảo Đạo ! Thì Bần đạo cũng
đồng tâm bịnh với Hiền Hữu. Cười . . . Bảo Đạo nghe :
THI :
Hoành sơn
phân nước trót đôi lần,
Khí số bấy chừ dứt Nguyễn quân.
Lời sấm đoán văn khi thật quả,
Tiên tri toán số gẫm không lầm.
An dân buồn thiếu trang hiền sĩ,
Bảo quốc vui nhờ đức Thánh nhân.
Suy thạnh nước nhà do trị loạn,
Cũng như Đông mãn tới hồi Xuân.
Đọc lại rồi kiếm nghĩa đặng hiểu.
Bần đạo sẽ tái giáng đặng hiệp ý cùng nhau. THĂNG.
Ghi chú về : BẠCH VÂN ĐỘNG.
Đức Phạm Hộ Pháp giải
thích về Bạch Vân Động :
" Xưa nay người ta
vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước
khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu
để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy.
Từ cổ, Thần thoại đã mệnh
danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh
danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).
Giáo chủ của Bạch Vân Động
là Bạch Vân Hòa Thượng, miêu duệ của Từ Hàng Đạo Nhơn, dòng dõi Đức Phật Quan
Âm.
Bạch Vân Hòa Thượng đã 2
lần giáng trần ở Pháp : Một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu, một lần là Quận
Công La Roche Foucault.
Ở VN, Ngài giáng trần là
Trình Quốc Công Nguyễn bỉnh Khiêm, tức gọi Trạng Trình."
Tiểu sử NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
Victor Hugo
Nhân ngày vía của Đức
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tại Tòa Thánh, đêm 22-5-1949 (25-4-Kỷ Sửu), Đức Phạm Hộ
Pháp thuyết đạo nói về Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn như sau :
" Đức Victor Hugo, tự
xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, là một Đấng thiêng liêng tại Quảng Hàn Cung.
Khi tái kiếp, Ngài sanh
tại thành Besancon, Pháp quốc, nhằm ngày 26-2-1802. Ngài từ trần tại Paris ngày
22-5-1885, hưởng thọ được 83 tuổi.
Từ buổi Đạo khai nơi Tần
quốc, thì Ngài giáng cơ với danh hiệu là Chưởng Đạo Nguyệt Tâm, Chưởng quyền
Hội Thánh Ngoại Giáo.
Ngài là một nhà thi sĩ trứ
danh của nước Pháp trong thế kỷ 19. Lúc còn thiếu thời, Ngài thường châu lưu ở
nước Ý, ở nước Tây Ban Nha, kế trở về Paris. Khi lên 10 tuổi thì Ngài đã sẵn có
tài thi văn, đến lúc trưởng thành thì những văn từ thi phú của Ngài đều là
những tác phẩm lỗi lạc, tình tứ cao thâm, nên trong trường đời, Ngài đã nổi
danh là thi bá, đứng đầu các bậc kỳ nhân trong thời buổi ấy. Lần hồi tên tuổi
của Ngài đã nêu danh nơi Hàn Lâm Viện và Ngài trở nên một đại công thần danh dự
của Pháp triều buổi ấy.
Đến sau cuộc Cách mạng
1848 tại nước Pháp, Ngài đắc cử vào Hạ Nghị Viện để bảo tồn nền chánh trị và
luật pháp trong nước. Lúc Ngài lãnh trách nhiệm trọng yếu ấy, Ngài đã lắm phen
trổ tài hùng biện mà binh vực quyền lợi
cho dân Pháp với những lẽ
công chánh, nhứt là sự tự do. Nước Pháp trong buổi ấy chưa yên, nên cách 3 năm
sau, ngày 2-12-1851, lại có cuộc nội biến. Ngài phải buộc lòng từ giã Paris ra
ngoại quốc, mãi đến năm 1970 ngày 4-9 Ngài mới trở lại trường chánh trị. Lúc đó
Ngài đặng 68 tuổi. Từ ấy đến sau, Ngài đem hết nhiệt tâm mà chuyên lo cần mẫn
vì nước vì dân cho đến ngày qui vị.
Trong kiếp sanh của Ngài
rất vinh diệu cho nước Pháp, ngoài những chuyện thi văn kiệt tác đối với quê
hương dân tộc Pháp, Ngài còn để dấu trong trường chánh trị một danh thể bất hủ.
Vì vậy mà khi Ngài qui vị,
đám táng Ngài rất long trọng, quan cữu và linh vị đặng hưởng đặc ân của nước
Pháp để vào Công Thần Miếu (Panthéon). Ấy vậy, thật là một vĩ nhân và một đại
công thần nước Pháp đó vậy.
Bần đạo cũng nên cho toàn
đạo hiểu rồi đừng lầm tưởng chúng ta ngày nay đương tôn sùng lễ bái kỷ niệm một
vị vĩ nhân công thần của Pháp như trên đã nói, đó là tôn sùng người Pháp.
Nghĩ vì Ngài cũng có công
trình khai đạo từ sơ khai, thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn lãnh quyền Chưởng Đạo cầm
đầu Hội Thánh Ngoại Giáo, Ngài thường giáng cơ giáo hóa và phong Thánh cho chư
Chức sắc Ngoại giáo, huống chi chúng ta ngày nay cả thảy đều đặng hiểu biết
tiền kiếp của Ngài trước kia, tái kiếp nước Pháp thì Ngài đã có một kiếp sanh
tại nước Việt nam là Đức Nguyễn Du, là một nhà thi sĩ, tác phẩm Truyện Kim Vân
Kiều mà ngày nay cả thế giới đều nhận bản tác phẩm ấy là vô giá, nhứt là chúng
ta, dân tộc VN, càng vinh hạnh hơn hết."
Sau đây là Tiểu sử chi
tiết của Văn hào Victor Hugo :
VICTOR HUGO (1802-1885)
Victor Hugo sanh ngày
26-2-1802 tại Besancon nước Pháp. Khi mẹ cậu sanh ra, cậu rất bé nhỏ và yếu ớt,
đã tưởng khó nuôi, nhưng mẹ cậu cố gắng săn sóc và cứu được cậu.
Cha của Victor Hugo là
Léopold Hugo, gốc ở Loraine, làm chức Đại Tá trong quân đội dưới triều vua
Napoléon.
Mẹ là Sophie Trébuchet,
gốc ở Bretagne.
Victor Hugo có 2 người anh
tên là : Abel Hugo và Eugène Hugo.
Ông Léopold và bà Sophie
đều là người rất tốt, săn sóc các con chu đáo, nhưng tư tưởng và tánh tình lại
đối nghịch nhau, ông thì có tư tưởng cộng hòa và tánh ham vui, còn bà thì bảo
hoàng và nghiêm khắc.
Ông Léopold thường ở ngoài
mặt trận, chỉ huy quân đội, hết đi từ Ý đến Y Pha Nho, dắt theo một cô tình
nhân là Catherine Thomas. Bà Sophie sống tại Paris với các con trong một ngôi
nhà có vườn rộng, trồng nhiều hoa ở đường Feuillantines.
Một Linh mục già đã hoàn
tục tên là Larivière được giao phó cho việc dạy học vỡ lòng cho cậu Victor. Ông
thấy cậu đã tự học lấy và đã biết đọc rồi, nên liền dạy ngay cho cậu tiếng La
tinh và cậu Victor rất thích học cổ ngữ nầy.
Năm 1811, Léopold Hugo
được thăng lên cấp tướng, phong làm Công Tước, cai trị 3 tỉnh ở Y Pha Nho. Bà
Sophie dắt con qua ở với chồng, cũng mong cùng chồng hưởng cảnh phú quí. Nhưng
2 ông bà lại bất bình với nhau, bà trở về Paris với 2 con là Eugène và Victor,
để Abel ở lại với cha.
Trở về nhà ở
Feuillantines, Victor lại học với thầy cũ và đọc rất nhiều sách của J.J.
Rousseau, Diderot, Voltaire, … rồi lại tự tập làm thơ. Chẳng cần biết vần, biết
cước, cứ làm. Làm xong lại ngâm lên, nghe không êm tai thì sửa, dò dẫm như thế,
cậu Victor đã tìm được những qui tắc của một loại thơ 12 cước (Alexandrin).
Năm 1814,
cha của Victor trở về Pháp. Ông đưa các con vào trọ học ở một tư thục đường Saint
Marguerite. Thế là chấm dứt thời kỳ vui vẻ của tuổi thơ.
Năm 1816, cậu theo học tại
trường Trung học Louis Le Grand cùng với anh Eugène. Chương trình học rất nặng,
học suốt từ sáng đến chiều, nhưng hễ rảnh lúc nào là cậu Victor làm thơ lúc ấy.
Đến cuối năm 1817, Victor
15 tuổi, cậu đã có một tập thơ đầu tiên : Poésies diverses gồm mấy ngàn câu
thơ. Cậu cũng viết được một vở hài kịch, một vở bi kịch năm hồi, một thiên anh
hùng ca.
Hàn Lâm Viện Pháp mở một
cuộc thi về thơ với đề tài : Cái vui của sự học trong mọi hoàn cảnh của đời
người.
Cậu Victor liền làm xong
một bài thơ gồm 334 câu và nhờ một thầy Giám thị trong trường nội trú dắt học
sinh đi chơi về phía Hàn Lâm Viện, rồi trong lúc các bạn đang đứng ngắm lâu
đài, thì cậu và thầy Giám thị chạy vào Hàn Lâm Viện nộp bản dự thi.
Tác phẩm dự thi của cậu
Victor Hugo được xếp hạng 9 và viên thư ký của Viện Hàn Lâm ghi rằng : Nên
khuyến khích thi sĩ trẻ tuổi nầy nếu quả thực mới 15 tuổi.
Tập thơ không được giải
thưởng, nhưng cậu Victor lại nổi danh. Các báo ở Paris đều viết bài khen cậu là
thần đồng. Các vị giáo sư dạy cậu cũng có biệt nhãn đối với cậu.
Ít lâu sau, cậu viết được
một truyện trung bình đặt tên là Buozargal, nói về cuộc nổi loạn ở Saint
Dominique. Kỹ thuật viết đã có đoạn già dặn không kém những truyện hay nhất của
Mérimée.
Cậu Victor Hugo đã sớm
phát triển tài năng về 2 mặt : Thơ và Văn.
Tháng 2 năm 1818, hai ông
bà Léopold và Sophie ly thân nhau. Abel đã đi làm có tiền, còn Eugène và Victor
được cha trợ cấp đủ tiền để học môn luật. Họ chỉ ghi tên học chớ không đến lớp
mà về nhà ở với Mẹ. Bà cho 2 anh em được tự do vì tin rằng con mình không thể
hư và chắc chắn sẽ nổi danh sau nầy.
Thi đàn Académie des Jeux
floraux ở Toulouse tổ chức một cuộc thi về thơ với đầu đề là : Dựng lại tượng vua
Henri IV.
Victor liền lao vào làm
một bài dự thi : Cậu dùng thể thơ 12 cước xen lẫn 8 cước, kỹ thuật đã cao, cân
đối nhịp nhàng. Bài được chấm giải nhất, thắng Lamartine, lúc đó hơn cậu 10
tuổi.
Victor gặp lại cô bạn gái
thuở ấu thơ tên là Adèle Foucher rất đẹp. Họ yêu nhau ngay, nhưng mẹ của Victor
Hugo không đồng ý cho Victor cưới Adèle, nên 2 gia đình tuyệt giao với nhau.
Victor lúc ấy 17 tuổi, đã nếm mùi đau khổ của ái tình. Để quên đau khổ, Victor
vùi đầu vào nghiên cứu sách vở rồi viết lách.
Tháng 12 năm 1819, Victor
cùng với 2 anh quyết định cho ra một tờ Tuần báo Văn nghệ lấy tên là
Conservateur littéraire. Abel viết được ít bài, Eugène góp được vài bài thơ,
còn bao nhiêu Victor lãnh hết. Cậu viết đủ thứ đề tài văn học
như : Văn, Thơ, Kịch, Truyện
ngắn, phê bình, giới thiệu. Cậu làm việc rất thận trọng, tra cứu tài liệu kỹ
lưỡng, suy nghĩ chính xác. Tờ báo đứng được 16 tháng. Victor viết được 112 bài
báo, 22 bài thơ, ký 10 bút hiệu khác nhau.
Hơn một năm gắng sức làm
việc để xây dựng tờ báo, tuy không đem lại cho gia đình một nguồn lợi vật chất
đáng kể nào, nhưng lại đem đến cho Victor một cái lợi rất lớn về tinh thần.
Victor có dịp suy nghĩ về mọi vấn đề : Văn nghệ, chính trị, tôn giáo và tình
yêu. Victor luyện tập được cây bút của mình, tăng lòng tự tin, nhất là có dịp
gắng sức tối đa để phát triển tài năng. Một cái lợi nữa là Victor có được một
số bạn văn nghệ sĩ đang nổi tiếng lúc bấy giờ.
Tháng 6 năm 1821, mẹ của
Victor đau nặng qua đời. Ba anh em lo chôn cất mẹ trong nỗi nhớ thương, u sầu
và chán nãn.
Victor tìm đến người yêu
cũ là Adèle Foucher nối lại cuộc tình. Ba anh em bây giờ rất nghèo. Victor xin
cha cho cưới Adèle. Ông không cản nhưng khuyên cậu hãy đợi đến lúc làm có nhiều
tiền.
Năm 1922, Victor Hugo xuất
bản tập thơ ODES (đoản thi) được trả tác quyền là 750 quan. Kế đó, triều đình
Pháp ân cấp cho Vicor một khoản tiền là 1200 quan mỗi năm để khuyến khích tài
năng.
Có được khá nhiều tiền,
chàng Victor cử hành lễ cưới Adèle tại nhà thờ Saint Sulpice ngày 22-10-1822,
lúc đó Victor Hugo 20 tuổi.
Sau đêm tân hôn vui vẻ thì
sáng lại, anh của Victor nổi điên, đập phá lung tung. Trong nhà ai cũng nghĩ
rằng Eugène trước đây thầm yêu Adèle nên bây giờ thất vọng hóa điên.
Victor phải đưa anh về ở
chung với cha đang ở Blois, rồi sau đó đưa Eugène vào nhà thương điên và ở đó
tới chết.
Năm 1823, Victor xuất bản
tập truyện HAN D'ISLANDE gồm 4 quyển, tả những cảnh rùng rợn tàn ác phi nhân
xen với một cuộc tình của một đôi nam nữ yêu nhau cuồng nhiệt. Trí tưởng tượng
của Victor thật phong phú ghê gớm làm cho độc giả phải say mê và phát hoảng.
Victor Hugo lại được Bộ
Trưởng Nội Vụ Chánh phủ ân cấp cho 2000 quan mỗi năm, nhập với ân cấp cũ của
triều đình là 1200 quan, tổng cộng là 3200 quan mỗi năm. Rồi tác quyền của các
tập thơ và truyện được 3000 quan nữa. Lúc đó, Victor Hugo đã khá phong lưu rồi.
Năm 1824, hai vợ chồng
mướn một nhà riêng tại đường Vaugirard. Vợ Hugo sanh được một gái đặt tên là
Léopoldine Hugo.
Năm 1825, Victor được ân
tứ Bắc Đẩu Bội Tinh, cùng một lượt với Lamartine. Dòng Bourbon đang làm vua
nước Pháp, đối với Victor Hugo như vậy là ân hậu lắm, nhưng Victor lại ngưỡng
mộ Bonaparte hơn. Victor vẫn làm thơ theo com-măn của triều đình : Bài ODE SUR
LE SACRE DE CHARLES X, đã tả buổi lễ gia miện của vua Charles X với lời thơ thật
trang nghiêm và hoa mỹ, được vua rất thích, liền ân tứ cho tác giả 2000 quan và
cho phép vào bệ kiến vua.
Nghệ thuật làm thơ của
Victor cũng tăng tiến. Chàng sáng tác ra những thể điệu mới : 3 cước xen lẫn 5
cước hoặc 10 cước, dùng nhiều chữ thích hợp để tạo nhạc cho thơ.
Victor Hugo xuất bản tập
thơ : ODES et BALLADES (Đoản ca và tục dao). Lamartine thân mật góp ý : Đừng
lập dị, cái đó là trò tiểu xảo không hợp với anh. Saint Breuve, một nhà phê
bình, viết trên tờ báo Globe một bài phân tích tỉ mỉ thơ của Victor Hugo, khen
là thơ hay, tuy tác giả có tài nhưng lại khuyên là đừng nên thái quá. Victor
say mê sáng tác, Ông dự định viết một kịch về Cromwell, Ông tìm tài liệu trong
cả 100 quyển sách, rồi từ tháng 8 năm 1826, Ông bắt đầu xây dựng kịch. Viết kịch
CROMWELL xong, Ông đọc cho các bạn thân nghe theo tục lệ đương thời. Các bạn
đều nhận xét : Kịch vừa bi vừa hài, kỹ thuật mới mẻ, ý tứ mạnh bạo. Do đó kịch
không được diễn.
Victor liền viết một Bài
Tựa cho vở kịch để bênh vực ý kiến của mình, là muốn mở ra một chân trời mới
cho ngành kịch. Bài Tựa nầy rất dài, đầy đủ ý nghĩa, được xem là một bản Tuyên
ngôn khai sanh một trường phái mới trong văn học Pháp : Đó là trường phái Lãng
mạn (Romantisme) mà Victor Hugo là lãnh tụ.
Trong bộ ba : Lamartine,
Alfred de Vigny, Victor Hugo, thì Victor nhỏ tuổi nhứt, nhưng lại uy tín nhứt.
Tiếp theo, Victor Hugo cho
ra đời tập thơ LES ORIENTALES, để tả cảnh những xứ phương Đông của Âu Châu như
Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ.
Tập thơ nầy ra đời rất hợp
thời vì lúc đó Hy Lạp đang chiến đấu với Thổ Nhĩ Kỳ để giành độc lập. Cả Âu
Châu đang hướng về cuộc chiến đó. Tập thơ nầy rất linh động, phong phú về hình
thức lẫn nội dung. Những đoạn viết rất hùng hồn như tiếng kèn tiếng trống thúc
quân, những đoạn tả cảnh thật đẹp và nên thơ, cảnh hoàng hôn, thiếu nữ mơ mộng
nằm đưa võng bên hồ.
Victor chưa bao giờ đến
những nước phương Đông ấy, toàn là chuyện tưởng tượng thôi, nhưng lại rất hấp
dẫn. Sức tưởng tượng của Victor Hugo thật kinh khủng. Kịch bản Cromwell không
diễn được, Victor Hugo viết tiếp kịch MARION DE LORME, đề tài lấy trong lịch sử
đời vua Louis XIII : Một kỹ nữ được cải hóa nhờ một tình yêu trong sạch và
nghiêm trang của một thanh niên. Kịch nầy cũng bị kiểm duyệt, không diễn được.
Nhưng không nãn chí,
Victor soạn tiếp một bi kịch lấy tên là HERMANI (1830) : Một thiếu nữ đẹp là
nàng Donasol có tới 3 người đàn ông theo đuổi, một ông lão, một ông vua, và một
thanh niên bị đày tên Hermani. Nàng chỉ yêu Hermani. Hai người sống hoàn toàn
với nhau trong một đêm rồi họ cùng tự tử để giữ cho mối tình chung thủy. Kịch
nầy được phép diễn. Khán giả chia làm 2 phe : Ủng hộ và chống đối làm cho náo
loạn cả lên.
Nhà xuất bản Mane xin trả
cho Victor 5000 quan để được in kịch. Thực may cho Hugo, trong nhà chỉ còn 50 quan.
Báo chí lúc
đó cũng phê bình sôi nổi, khen chê có đủ, chỉ lợi cho ông bầu rạp hát và tác
giả.
Victor Hugo
ký hợp đồng với nhà xuất bản Gosselin để giao tiểu thuyết NOTRE DAME DE PARIS
(Nhà thờ Đức Bà Ba-Lê), Ông mới soạn xong tài liệu nhưng chưa viết vì bận viết
kịch Hermani và tập luyện các vai diễn kịch.
Chỉ còn 6
tháng nữa là tới hạn hợp đồng, nếu để trễ thì bị phạt. Victor quyết tâm hoàn
thành tác phẩm đúng hạn hợp đồng. Ông chuẩn bị đầy đủ giấy mực, rồi khóa kín
cửa lại, nhứt định không ra khỏi nhà để dành thời giờ hoàn toàn lo viết cho
xong tác phẩm. Truyện được viết theo chủ đề là : Con người đều có số mạng an bày.
Số mạng bám chặt con người như con diều hâu quắp lấy con gà, hay con nhện ôm
lấy con ruồi. Truyện bắt đầu tả lại đời sống cơ cực của giới dân nghèo dưới
triều vua Louis XI của nước Pháp. Trong đám người nầy, có Cô Esméralda, sống
bằng nghề phù thủy, bói tướng số. Cô còn trẻ, rất đẹp và ngây thơ, trong sạch,
được nhiều người yêu mến. Cô bị ông Phó Giám Mục tên là Claude Frollo ở trong
Nhà thờ Đức Bà Ba-lê yêu thầm nhớ trộm. Vị Phó Giám Mục nầy lòng còn phàm tục,
nên cho người bắt cóc Cô Esméralda. Một người gù lưng , vừa câm vừa điếc, tên
là Quasimodo có phận sự kéo chuông nhà thờ, thấy vậy mới cứu thoát cô và đem
giấu kín trong giáo đường. Sau đó, Cô Esméralda cũng không thoát nạn, bị bắt và
bị đem ra xét xử. Cô bị thương nặng, sắp chết, thì Quasimodo lại hiện ra cứu
thoát Cô lần thứ nhì và đem giấu vào một nơi thật kín. Một thời gian sau, người
ta mới tìm được xác của Cô Esméralda nằm trong tay của xác Quasimodo chết khô
bên cạnh.
Tiểu thuyết nầy không có
tính cách bài xích giáo hội Thiên Chúa giáo mà chỉ rõ rằng Nhơn hư chớ Đạo bất
hư.
Toàn truyện gần như xảy ra
trong bối cảnh Nhà thờ Đức Bà Ba-lê, được mô tả rất tỉ mỉ, linh động và chính
xác.
Victor Hugo vẫn dùng kỹ
thuật sở trường của mình là đưa ra những cái tương phản để đập vào óc độc giả :
tương phản giữa Thánh tâm và dục vọng cuồng loạn của một tu sĩ cao cấp như
Claude Frollo, tương phản giữa hình dáng xấu xí và tâm hồn cao quí của
Quasimodo, tương phản giữa tánh tình ngây thơ trong trắng và số phận đen tối
của Cô Esméralda.
Tác phẩm NOTRE DAME DE
PARIS được giao cho nhà xuất bản đúng thời hạn và độc giả mọi giới đọc say mê
và hoan nghinh nhiệt liệt.
Trong gia đình, Victor
Hugo rất đau buồn vì vợ là Adèle lại lén lút thư từ qua lại với Saint Breuve là
bạn của Victor Hugo, nhưng vì Victor là thủ lãnh của trường phái Lãng mạn nên
phải giữ thái độ kẻ cả, và nỗi lòng đau khổ đó được trút vào các vần thơ tuyệt
tác.
Do đó, năm 1831, tập thơ
FEUILLES D'AUTOMNE ra đời, rằng hay thì thật là hay, nghe ra ngậm đắng nuốt cay
thế nào ! Chính Saint Breuve cũng nhìn nhận tập thơ nầy quá hay. Nghệ thuật của
Victor Hugo đã nhờ sự đau khổ trui luyện thêm già dặn, hết bồng bột cuồng nhiệt
như lúc trẻ, mà lại đăm chiêu sầu muộn của người già. Lúc đó Victor 33 tuổi.
Victor Hugo trở lại viết
kịch để mau có tiền nuôi gia đình đông con đã lớn rồi. Năm 1832, Ông viết bi
kịch lịch sử : LE ROI S'AMUSE (Ông vua ăn chơi) tả lại đời sống trụy lạc của
vua Fran cois I. Kịch bản nầy không hay và bị cấm.
Năm 1833, Victor Hugo bèn
viết tiếp kịch : LUCRÈCE BORGIA, nội dung nói lên tình mẫu tử của một bà quí
tộc tên là Lucrèce Borgia đối với đứa con riêng của bà, mặc dầu đứa con riêng
nầy là Đại Úy Gennaro luôn luôn oán ghét và khinh bỉ bà.
Trong thời gian diễn kịch
nầy, Victor Hugo gặp một mối tình thứ 2 : Đào hát Juliette Drouet. Tài năng của
nàng không hay nhưng nhan sắc của nàng rất quyến rủ. Nàng là một kỹ nữ qua tay
nhiều người đàn ông giàu có, nhưng nàng luôn luôn ao ước gặp một người thực sự
yêu nàng để nàng có thể sống một đời còn lại được lương thiện để nuôi nấng và
dạy dỗ đứa con gái yêu quí của nàng.
Victor Hugo và Juliette
gặp nhau thì yêu nhau ngay một cách tha thiết. Nàng quyết định hy sinh tất cả
và chịu đựng tất cả để xây dựng cuộc đời với Victor Hugo. Bây giờ thì Victor
cảm thấy rất sung sướng. Ông không còn yêu Adèle tha thiết như thuở ban đầu.
Adèle cứ sốngg cuộc đời của Adèle với các bạn tâm tình lần lượt là Saint
Breuve, vàThéophile Gautier. Còn Victor Hugo thì sống cuộc đời của Hugo cùng
với người tình Juliette. Những nghẹn ngào trong Feuilles d'automne (Lá thu) đã
dứt để bắt qua những tiếng hát hoàng hôn : LES CHANTS du CRÉPUSCULE (1835).
Giọng thơ trong tác phẩm nầy rất cảm động, nhạc thì tuyệt.
Năm 1836, Victor Hugo ứng
cử vào Hàn Lâm Viện nhưng lại thua phiếu một nhà soạn kịch tầm thường là
Mercier Dupaty. Victor đợi kỳ bầu cử sau, nhưng lại rớt nữa.
Trong lúc nầy, Victor viết
vở kịch RUY BLAS (1838).
Năm 1839, hai vị trong
Viện Hàn Lâm qua đời, nên bầu 2 vị mới thay thế. Victor lại bị rớt 2 lần nữa.
Tất cả bị rớt 4 lần. Lần nào 2 bậc thiên tài Chateaubriand và Lamartine đều ủng
hộ và bỏ thăm cho Victor Hugo nhưng vẫn bị rớt.
Mãi đến năm 1841, Victor
mới thắng cử và được vô Hàn Lâm Viện.
Năm 1843, Ông viết kịch
LES BURGRAVES. Kịch nầy viết rất hay, tả tâm trạng của 2 anh em ruột cùng yêu
một cô gái đẹp, rồi hai anh em lại sanh thù oán nhau. Kịch nầy có nhiều đoạn
rất hùng tráng, nhưng khi diễn, khán giả không hoan nghinh vì họ đã chán Hý
khúc, họ muốn trở về với bi kịch cổ điển.
Victor Hugo buồn rầu vì
kịch thất bại, lại đau buồn hơn khi hay tin con gái lớn và chàng rễ đi du lịch,
tắm biển cùng bị chết đuối (1843).
Nỗi buồn nầy được ghi lại
trong tập thơ bất hủ LES CONTEMPLATIONS (Trầm tư).
Năm 1848, cách mạng Pháp
bùng nổ lật đổ vua Louis Philippe và thành lập chế độ cộng hòa. Victor Hugo ủng
hộ rất hăng Chính phủ cộng hòa. Ông cùng với Lamartine và Louis Napoléon
Bonaparte được bầu vào Quốc hội Lập hiến để thàh lập Hiến Pháp.
Gần tới ngày bầu cử Tổng
Thống, Louis Napoléon Bonaparte được dân chúng ủng hộ nồng nhiệt và sau đó đã
đắc cử Tổng Thống của Chánh phủ Cộng hoà. Victor Hugo trước đây đã ủng hộ Louis
Napoléon Bonaparte, nhưng lần lần thấy Napoléon lo củng cố địa vị đặng làm vua
chớ không mở rộng tự do dân chủ. Victor đâm chán và trở lại chống Napoléon một
cách dữ dội.
Ngày 2-12-1851 lúc 8 giờ
sáng, Victor Hugo đang làm việc thì có người tới báo tin là có cuộc đảo chánh,
Louis Bonaparte giải tán Quốc Hội, tự mình lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là
Napoléon III.
Victor Hugo vội vàng thay
quần áo, nói vắn tắt cho vợ hiểu tình hình chánh trị đang đổi thay nghiêm
trọng. Ông đi tìm các bạn, tập hợp lại, hô hào tranh đấu, viết tuyên ngôn, tổ
chức biểu tình lật đổ Napoléon III. Nhưng dân chúng Pháp đã chán nãn cảnh hỗn
loạn đổ máu, nên phong trào xẹp dần. Các bạn lần lượt bị bắt, còn Victor Hugo
thì nhờ Juliette làm giấy tờ giả mạo trốn qua được Bruxelles nước Bỉ, sống lưu
vong, chỉ có Juliette đi theo Ông và nàng sung sướng tưởng rằng sẽ được chung
sống với Ông, nhưng Victor Hugo gạt ngang bảo nàng phải mướn nhà ở riêng gần
đó.
Ông vẫn viết và hô hào
chống lại Napoléon III, đồng thời Ông viết tập HISTOIRE D'UN CRIME (Lịch sử một
tội ác) để kể tội Napoléon III, nhưng vì thiếu tài liệu chính xác nên Ông đành
bỏ dở, rồi viết tập sách trào phúng tựa đề NAPOLÉON, LE PETIT (Napoléon, thằng
bé con) để mạt sát Napoléon III. Victor Hugo ngại rằng khi tập sách nầy in ra
thì vợ con Ông đang sống tại Paris sẽ bị bắt giam và Chánh phủ Bỉ có thể trục
xuất Ông ra khỏi Bruxelles. Do đó Ông viết thơ về bảo vợ bán hết gia sản,
chuyển qua ở Saint Hélier của đảo Jersey thuộc nước Anh, gần bờ biển nước Pháp.
Tháng 8 năm 1852, cả nhà
đều qua tới đảo Jersey. Ông và Juliette cũng qua đó. Juliette mướn một căn nhà
gần biệt thự của Ông để ở. Xong rồi, Victor Hugo mới tung ra tập sách Napoléon
Le Petit về Pháp. Dân chúng lén truyền tay nhau đọc say mê. Người ta lại dịch
ra tiếng Anh và tiếng Y Pha Nho, in cả triệu bản.
Tiếp theo, Victor Hugo
viết một tập thơ nhan đề LES CHÂTIMENTS (1853) cũng để mạt sát Napoléon.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét