Lịch Sử Kiến Trúc Tòa Thánh Tây Ninh - 7 / 8 (HT. Nguyễn văn Hồng)


Khi xưa, vua Phục Hy thấy tinh hoa của 5 vì sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là thứ gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Đất, có thể làm đồ nhã nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm 3 đoạn để phân Thiên, Địa, Nhơn. Đoạn ngọn thì tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc thì tiếng quá đục mà nặng, duy có đoạn giữa thì tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa dòng sông nước chảy ngâm đủ 72 ngày đêm,
rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt , thợ khéo là Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước Nhạc Cung Dao Trì, vì thế đặt tên là Dao cầm.
Dao cầm nầy dài 3 thước 6 tấc, án theo 360 độ chu Thiên , phía trước rộng 8 tấc án theo Bát tiết, sau rộng 4 tấc án theo Tứ Tượng, dầy 2 tấc án theo Lưỡng Nghi, đầu như Kim đồng, lưng như Ngọc Nữ, trên chạm Long Phụng, gắn phím vàng trục ngọc. Đàn ấy có 12 phím tượng trưng 12 tháng, lại thêm một phím giữa tượng trưng tháng nhuận, trên mắc 5 dây, ngoài tượng Ngũ Hành, trong tượng Ngũ Âm : Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ.
Vua Thuấn khảy đàn Ngũ Huyền (Dao cầm), ca bài Nam Phong, thiên hạ đại trị. Vua Châu Văn vương bị Trụ vương giam cầm nơi Dũ Lý, con trưởng là Bá Ấp Khảo thương nhớ không nguôi, nên thêm một dây đàn nữa gọi là dây Văn, đàn nghe thêm ai oán.
Võ vương đem quân phạt Trụ, thêm một dây phấn khích gọi là dây Võ (Võ huyền).
Như thế, Dao cầm lúc đầu có 5 dây, sau thêm 2 dây Văn và Võ nữathành 7 dây, gọi là Thất huyền cầm.
Đàn ấy có 6 kỵ, 7 không, 8 tuyệt, kể ra :
* Sáu Kỵ là : Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều.
* Bảy Không là : Nghe tiếng bi ai và đám tang thì không đàn, lòng nhiễu loạn thì không đàn, việc bận rộn thì không đàn, thân thể không sạch thì không đàn, y quan không tề chỉnh thì không đàn, không đốt lò hương thì không đàn, không gặp tri âm thì không đàn.
* Tám Tuyệt là : Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.
Đàn ấy đạt đến tận thiện tận mỹ, hổ nghe không kêu, vượn nghe không hú, một thứ nhã nhạc tuyệt vời vậy.
Bá Nha nghe xong , kính phục bội phần, hỏi thêm :
- Quí hữu quả thấu triệt nhạc lý. Khi xưa, Đức Khổng Tử đang khảy đàn, Nhan Hồi từ ngoài bước vào, thoảng nghe tiếng đàn u trầm, nghi là có ý tham sát, lấy làm lạ, liền vào hỏi Đức Khổng Tử. Ngài đáp : Ta đang khảy đàn, bỗng thấy mèo bắt được chuột, liền khởi lên ý niệm tham sát mà hiện ra tơ đồng. Nhan Hồi đã nghe tiếng đàn mà biết lòng người khảy đàn. Nay Hạ quan khảy đàn, lòng tư lự điều gì, quí hữu có thể đoán biết chăng?
- Đại nhân thử dạo một khúc xem.
Bá Nha nối lại dây đàn, tập trung tinh thần đến chốn non cao, khảy lên một khúc. Tiều phu khen rằng :
- Đẹp thay vòi vọi kìa, chí tại non cao.
Bá Nha ngưng thần, ý tại lưu thủy, khảy lên một khúc nữa. Tiều phu lại khen rằng :
- Đẹp thay, mông mênh kìa, chí tại lưu thủy.
Bá Nha thấy tiều phu đã thấy rõ lòng mình qua tiếng đàn, lấy làm kính phục, liền gác đàn, sai bày tiệc rượu, đối ẩm luận đàm.
Hai người hỏi nhau tên họ, nguyên quán, nghề nghiệp. Bá Nha lại sanh lòng cảm mến Tử Kỳ về sự hiếu với phụ mẫu, nên xin kết nghĩa làm anh em với Tử Kỳ, để không phụ cái nghĩa TRI ÂM mà suốt đời Bá Nha chưa từng gặp. Hai người đến trước bàn hương án lạy cầu Trời Đất, rồi lạy nhau 8 lạy kết làm anh em. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha 10 tuổi nên làm em. Hai anh em đối ẩm cùng nhau tâm sự mãi cho đến sáng mà không hay. Tử Kỳ vội đứng lên từ biệt.
Bá Nha bùi ngùi xúc động, hẹn ước với Tử Kỳ, đúng ngày Trung Thu năm sau, hai anh em sẽ hội ngộ nhau tại ghềnh đá nầy. Bá Nha lấy ra 2 đỉnh vàng, 2 tay nâng lên nói :
- Đây là chút lễ, kính dâng bá phụ và bá mẫu. Tấm tình chí thành, em đừng từ chối.
Hai người từ biệt, lòng đầy lưu luyến.
Chẳng bao lâu, thuyền về tới bến. Bá Nha vào kinh đô tâu trình Tấn Vương các việc, được Tấn vương khen tặng.
Thời gian lặng lẽ trôi qua. . . Nhớ ngày ước hẹn với Tử Kỳ, Tử Nha tâu xin vua Tấn cho nghỉ phép về thăm quê nhà.
Bá Nha thu xếp hành trang để đến núi Mã Yên kịp ngày Trung Thu ước hẹn.
Kìa là núi Mã Yên mờ mờ sương lạnh, tịch mịch, không một bóng người. Bá Nha nghĩ thầm, năm trước nhờ tiếng đàn mà gặp được tri âm, đêm nay ta phải đàn một khúc để gọi Tử Kỳ. Rồi sai đốt hương trầm, đem Dao cầm ra so dây. Bá Nha đặt hết lòng nhớ nhung của mình vào tiếng đàn réo rắt, bỗng trong tiếng đàn lại có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha dừng tay suy nghĩ : Cung Thương có hơi ai oán thảm thê, ắt Tử Kỳ gặp nạn lớn. Sáng mai ta phải lên bờ dọ hỏi tin tức của Tử Kỳ.
Đêm ấy, Bá Nha hồi hộp lo âu, trằn trọc suốt đêm, chờ cho mau sáng, truyền quân hầu mang theo Dao cầm, 10 đỉnh vàng, vội vã lên bờ, tiến vào núi Mã Yên. Khi qua cửa núi, gặp ngã ba đường, chưa biết nên đi theo đường nào, đành ngồi đợi để chờ người trong xóm đi ra hỏi thăm. Không bao lâu, gặp một lão trượng tay chống gậy, tay xách giỏ, từ từ đi lại. Bá Nha thi lễ, hỏi :
- Xin lão trượng chỉ giùm đường nào đi Tập Hiền Thôn ?
- Thượng quan muốn tìm nhà ai ?
- Nhà của Chung Tử Kỳ.
Vừa nghe 3 tiếng Chung Tử Kỳ, lão trượng bỗng nhòa lệ, nức nở nói :
- Chung Tử Kỳ là con của lão. Ngày rằm Trung thu năm ngoái, nó đi đốn củi về muộn, gặp quan Đại Phu nước Tấn là Du Bá Nha kết bạn tri âm. Khi chia tay, Bá Nha có tặng cho nó 2 đỉnh vàng, rồi dùng tiền nầy mua sách về học thêm, ngày đi đốn củi, tối về học sách, mãi như vậy, sức khỏe hao mòn, sanh bệnh rồi mất.
Bá Nha nghe vậy thì khóc nức nở, thương cảm vô cùng. Lão trượng ngạc nhiên hỏi quân hầu thì biết thượng quan đây chính là Du Bá Nha, bạn tri âm của Chung Tử Kỳ. Chung lão biết vậy lại càng bi thảm hơn nữa nói :
- Mong ơn thượng quan không chê con lão hàn tiện. Lúc mất, nó dặn rằng : Con lúc sống không vẹn niềm hiếu dưỡng, lúc chết không vẹn nghĩa tri giao, xin cha chôn con nơi cửa núi Mã Yên để thực hiện lời ước hẹn với quan Đại Phu Du Bá Nha.
Lão phu y lời con trối lại. Con đường mà thượng quan vừa đi qua, bên phải có một nấm mộ mới, đó là mộ của Tử Kỳ. Hôm nay là đúng 100 ngày, lão mang vàng hương lên cúng mộ, không ngờ gặp được thượng quan.
Bá Nha ngậm ngùi nói :
- Việc đời biến đổi, may rủi không lường. Xin Lão bá đưa đến mộ Tử Kỳ, bốn lạy cho vẹn tình tri kỷ.
Khi đến phần mộ, Bá Nha sửa lại áo mũ, sụp lạy khóc rằng : " Hiền đệ ơi, lúc sống thông minh anh tuấn tuyệt vời, nay chết , khí thiêng còn phảng phất, xin chứng giám cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt. "
Lạy xong, Bá Nha phục bên mồ, khóc nức nở. Sau đó, Bá Nha gọi mang Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu lên một khúc nhạc thiên thu, tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng. Bỗng thấy gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi lâu mới tan. Có lẽ đó là anh hồn của Tử Kỳ hiển linh chứng giám.
Tấu khúc nhạc xong, Bá Nha phổ lời ai oán, thay lời ai điếu, vĩnh biệt bạn tri âm, rồi đến vái cây Dao cầm một vái, tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ, đàn vỡ tan nát, trục ngọc phím vàng rơi lả tả. Chung lão không kịp ngăn, sợ hãi nói rằng :
- Sao đại quan hủy cây đàn quí giá nầy ?
Bá Nha liền ngâm 4 câu thơ thay câu trả lời :
Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai ?
Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,
Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay !

- Nguyên do là vậy. Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật cao siêu. Nhân đây, xin mời thượng quan đến nhà lão để lão cảm tạ tấm lòng tốt đẹp của thuợng quan đối với con lão.
- Cháu quá bi thương trong lòng, không dám theo bá phụ về quí phủ e gợi thêm nỗi đau lòng. Nay nghĩa đệ vắng số mất rồi, cháu kính dâng lên bá phụ vá bá mẫu 10 đỉnh vàng, một nửa dùng mua mấy mẫu ruộng làm Xuân Thu tế tự cho Tử Kỳ, một nửa xin để phụng dưỡng bá phụ và bá mẫu trong tuổi già. Chừng cháu về triều, dâng biểu lên vua xin cáo quan về quê cũ thì cháu xin đến rước bá phụ, bá mẫu đến an hưởng tuổi già.
Nói xong, Bá Nha lấy vàng dâng lên, rồi khóc lạy mộ Tử Kỳ một lần nữa, mới trở về thuyền.
Chung lão cảm động không cùng, nghẹn ngào đứng lặng nhìn theo bóng Bá Nha cho đến khi khuất bóng.

Khuôn hình số VII : Mục
Sào Phủ - Hứa Do

Sào Phủ và Hứa Do là 2 ẩn sĩ nổi tiếng thanh bạch vào thời vua Nghiêu nước Tàu.
Vua Nghiêu là vị vua hiền đức, sanh được 9 người con trai và 2 con gái, nhưng 9 người con trai nầy không có ai hiền như Ngài, nên Ngài không dám truyền ngôi cho con, mà muốn đi tìm người hiền để truyền ngôi vua.
Vua Nghiêu giả trang thường dân, đi đến chơn núi Trung Nhạc, phía Nam sông Dịch Thủy, thấy một người đang cầm cái bầu nhỏ múc nước dưới khe. Người đó là Hứa Do. Vua Nghiêu hỏi :
- Ngươi làm gì đó vậy ?
Hứa Do cười rằng :
- Tôi ngán cuộc đời, không ham danh lợi, lánh mình một cõi, vui thú thanh nhàn, đói ăn trái cây, khát uống nước suối, giữ mình trong sạch cho mãn kiếp thì thôi.
Vua Nghiêu nghe nói thì mừng thầm trong bụng, nghĩ rằng : Người nầy hiền đức, không tham phú quí, chẳng chác thị phi, đáng được truyền ngôi, chắc là trị nước thái bình.
Nghĩ vậy rồi, vua Nghiêu nói rằng :
- Ta đây thiệt là vua Nghiêu giả dân mà đi tìm người hiền đức, đến đây mới gặp, xin mời hiền sĩ về trào để ta truyền ngôi cho mà trị vì thiên hạ cho an ổn thái bình.
Hứa Do nghe vua Nghiêu nói thế, lòng thiệt khó ưa, vì mình chỉ muốn thanh nhàn mà vua Nghiêu đem buộc vào danh lợi, lòng đã cương quyết, liền đập bể cái bầu nước và đáp rằng :
- Con chim tiêu liêu làm ổ không quá một nhánh cây, con yến thử uống nước dòng sông chẳng quá đầy bụng. Kẻ quê mùa nầy đã quen cảnh thanh nhàn, cách sống riêng biệt, Bệ hạ muốn nhường ngôi cho cũng vô ích.
Hứa Do nói xong, liền bịt chặt 2 lỗ tai, chạy riết xuống bờ sông Dịch Thủy , khoát nước sông rửa lỗ tai lia lịa.
Vừa đâu có Sào Phủ dắt trâu đến đó, thấy Hứa Do liền nói rằng :
- Anh rửa lỗ tai mau mau rồi bước lên cho trống chỗ để tôi dắt trâu xuống cho uống nước.
Hứa Do không đáp lại, cứ rửa tai hoài. Sào Phủ hỏi :
- Lỗ tai anh dơ lắm sao mà rửa hoài không sạch ?
- Hồi nảy tôi gặp vua Nghiêu, kêu tôi về triều để truyền ngôi cho tôi. Tôi nghe điều danh lợi dơ bẩn cả 2 lỗ tai, nay xuống đây rửa nảy giờ đã lâu, nhưng tiếng ấy vẫn còn văng vẳng trong tai, tôi rán rửa thêm cho hết, trễ việc trâu của anh uống nước.
- Anh đã làm gì để cho vua Nghiêu biết anh là người hiền đức mà muốn truyền ngôi cho anh ? Nếu người ta biết anh hiền đức, tức là anh đã muốn cho người ta biết anh như thế, chắc chắn hơn nữa là tại anh tỏ cho thiên hạ biết anh là hiền đức. Nếu anh đừng tỏ cho thiên hạ biết anh là hiền đức thì ai biết anh mà truyền ngôi cho, cần chi phải rửa tai.
Sào Phủ nói xong, liền dắt trâu lên phía trên dòng nước chảy rồi mới cho trâu xuống uống nước.
Hứa Do lấy làm kỳ, hỏi :
- Sao anh không cho trâu uống nước tại bến nầy mà lại dắt trâu đi đâu vậy cho mất công ?
- Đồ dơ trong tai anh rửa ra, uống dơ miệng trâu của tôi, nên tôi phải dắt trâu lên phía trên dòng nước.
Theo lời người ta kể lại thì hiện nay trên núi Cơ Sơn, ở huyện Đăng Phong tỉnh Hà Nam, còn ngôi mộ của Hứa Do. Ở chân núi ấy có gò Khiên Ngưu Khư (Gò đất trâu). Ở bên bờ sông Dĩnh thủy có một dòng suối tên là Độc Tuyền (Suối trâu uống), trên một hòn đá có vết chơn trâu. Đó là nơi mà khi xưa Sào Phủ dắt trâu đến đó uống nước.

Khuôn hình số VIII : Sĩ
Châu Mãi Thần

Châu Mãi Thần, người đất Cối Kê, đời nhà Hán, nhà rất nghèo, nhưng rất ham đọc sách. Thuở hàn vi, chàng phải đi đốn củi rừng đem bán để sanh sống, thường treo sách nơi đầu gánh, vừa đi vừa đọc.
Vợ của Châu Mãi Thần không thể chịu nổi cảnh nghèo túng mãi như vậy được nên đòi thôi chồng, để đi lấy chồng khác khá giả hơn mà nương nhờ tấm thân.
Châu Mãi Thần khuyên vợ :
- Năm nay tôi 49 tuổi rồi, qua năm 50 tuổi, tôi biết tôi thế nào cũng lập được công danh. Bấy lâu nay, chúng ta sống trong cảnh cơ cực cũng đã quen rồi, nay nàng rán chờ tôi một năm nữa thì nàng sẽ hưởng được phú quí.
Người vợ liền trả lời :
- Đến chừng Ông làm quan thì tôi đã chết đói rồi.
Thế là vợ của Châu Mãi Thần nhứt quyết bỏ chồng, nàng đi lấy một anh nông dân khá giả trong làng.
Châu Mãi Thần rất đau buồn. Chàng lại càng quyết tâm học tập hơn nữa, bất luận ngày đêm, cuốn sách đều kế bên mình.
Năm sau, Châu Mãi Thần được Nghiêm Trợ tiến cử lên vua Hán Võ Đế, được vua thâu dụng, phong chức Trung Đại Phu. Lúc bấy giờ xảy ra giặc giã ở vùng Đông Việt. Hán Võ Đế sai Châu Mãi Thần lo chuẩn bị khí giới, thuyền bè, để cho binh sĩ đi dẹp giặc. Sau đó, Châu Mãi Thần được thăng chức làm Thái Thú Cối Kê.
Cối Kê là quê hương của họ Châu. Khi Châu Mãi Thần đến nhậm chức Thái Thú Cối Kê, quân dân địa phương phải ra nghênh đón. Tới nơi, bỗng thấy người vợ cũ chạy đến đón trước đầu ngựa, xin Châu Mãi Thần bỏ qua chuyện lầm lỗi xưa của nàng, cho nàng trở lại làm vợ chàng.
Châu Mãi Thần bèn lấy một bát nước đầy, đổ xuống đất trước đầu ngựa, rồi bảo người vợ cũ :
- Nếu nàng hốt nước lại cho đầy bát như trước thì tôi sẽ đem nàng về với tôi như trước.
Bát nước đã đổ, làm sao hốt lại cho đầy. Bởi vậy, người vợ biết ý Châu Mãi Thần đã quyết nên hổ thẹn bỏ đi.
Tuy vậy, để đáp đền tình nghĩa vợ chồng ngày trước, Mãi Thần cấp cho người vợ cũ và chàng nông dân một ngôi nhà và một số tiền đủ để sống suốt đời. Nhưng người vợ cũ cảm thấy quá xấu hổ, nên treo cổ tự tử.
Người nông dân đem xác nàng táng bên bờ ao gần đường lộ.
Người đời có khắc một bài thơ 4 câu trên cái bia đặt trước mộ nàng để làm gương cho phụ nữ đời sau :
Thanh thảo trì biên mộ nhứt khu,
Thiên niên mai cốt bất mai tu.
Đinh ninh ký ngữ nhơn gian phụ,
Tự cổ tào khang đáo bạch đầu.
Tạm dịch :
Một nấm mộ xanh cạnh vũng bờ,
Ngàn năm chôn xác chẳng chôn nhơ.
Đinh ninh nhắn gởi đoàn nhi nữ,
Từ cổ vợ chồng trọn tóc tơ.

6 . Cây Cân Công bình

Khi chúng ta đứng tại thềm nơi dưới bao lơn Tòa Thánh, chúng ta ngước mắt nhìn lên thấy một bức họa, trong đó có vẽ một bàn tay từ trong mây đưa ra, cầm một Cây Cân Công bình đặt trên quả Địa cầu của nhơn loại.
Đó là bàn tay của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế cầm Cây Cân Công bình thiêng liêng để cân tội phước của mỗi chơn hồn nơi quả Địa cầu nầy, sau khi qui liễu, trở về cõi thiêng liêng, để Đức Chí Tôn có quyết định thưởng phạt một cách thật công bình.
Trong Con Đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo có thuật lại, Đức Ngài thấy Đức Chí Tôn cầm Cây Cân Công bình thiêng liêng nơi Bạch Ngọc Kinh :
" Khi Bần đạo vô trong, Đại Từ Phụ, muốn biết Ổng là ai ? Ông nầy có phải là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế không ? Làm sao cho tôi được biết Ổng với.
Bần đạo vừa tưởng thì xa lắm, thấy cái gì bao phủ như tấm màn che vậy, vô gặp rồi, biết Ổng ở trỏng, có tấm màn che, ý muốn cái màn nầy vạch ra đặng thấy Ổng. Vừa muốn thì thấy cái màn vẹt ra, dường như có từng nấc xa lắm, không thể gì tả đặng, kế đó ngó thấy Ổng bước ra, mặc áo trắng, bịt khăn trắng (giống như bộ đồ Tiểu phục của Thượng Chưởng Pháp mặc vậy), cũng có 2 miếng vải lòng thòng sau lưng, râu bạc trắng coi đẹp lắm, thấy thương làm sao đâu !
Trong bụng nói Ổng ngồi tại Linh Tiêu Điện, mình ngó thấy Ổng mặc bộ đồ khác, không lẽ 2 người, chắc không phải là Ổng. Vừa nói rồi thì thấy Ổng bước ra đứng ngay chính giữa , ngó ngay Bần đạo, dường như thể biểu con coi đây, ngó ngay lên Ổng, thấy đạo hào quang chiếu diệu ra, tay cầm cây gậy coi đẹp lắm, cây gậy của Ổng quảy cái bầu, bên mình Ổng mang một cái bị, mặc bộ đồ Ngọc Hoàng Thượng Đế, nắm ngang cây gậy trên tay thành cây đòn cân, Ổng kéo cái bầu ra thành giá cân, Ổng kéo cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy hiệp lại thành Cây Cân Công bình thiêng liêng mà chính mình đã thấy Ổng nơi Linh Tiêu Điện, không còn ai xa lạ nữa. Cũng Đại Từ Phụ, nhưng thiên biến vạn hóa của Ổng mà tạo Càn khôn Vũ trụ vậy."

7. Hai pho tượng : Ông Thiện- Ông Ác

Hai bên cửa chánh Tòa Thánh, có đặt 2 pho tượng lớn:
+ Pho tượng đứng sát Bạch Ngọc Chung Đài (phía bên Nam phái), đầu đôi kim khôi, mình mặc áo giáp, tay cầm đại đao, gương mặt hiền từ, đứng trên tòa sen, đó là Ông Thiện, gọi đúng là Thiện Thần, tượng trưng điều thiện, điều chánh.

* Pho tượng bên kia, đứng sát Lôi Âm Cổ Đài, (phía bên Nữ phái), đầu đội kim khôi, mình mặc giáp, một tay cầm cái búa, một tay cầm cục Ngọc Tỷ, gương mặt hung dữ, đứng trên tòa lửa (Hỏa đài), đó là Ông Ác, gọi đúng là Ác Thần, tượng trưng điều Ác, điều tà.

Sự tích Ông Thiện và Ông Ác như sau :
Thời Thượng cổ, vua Tỳ Kheo có 2 người con trai là Tỳ Văn và Tỳ Võ. Tỳ Văn rất hiền lành, trái lại, Tỳ Võ rất hung dữ.
Vua Tỳ Kheo rất hâm mộ đạo đức. Lúc ấy, Đức Nhiên Đăng Cổ Phật khai Phật giáo ở Ấn Độ (Nhứt Kỳ Phổ Độ), độ được vua Tỳ Kheo . Vua Tỳ Kheo lo lập chùa để tu niệm và muốn nhường ngôi lại cho con trưởng là Tỳ Văn hiền lành, nhưng lại sợ đứa con thứ là Tỳ Võ hung dữ không chịu.
Vua Tỳ Kheo lập kế, sai Tỳ Võ đi các trấn vỗ an bá tánh và đến Hàng Châu chiêu mộ anh tài. Nơi triều đình, vua Tỳ Kheo tuyên bố nhường ngôi cho con trưởng là Tỳ Văn cai trị đất nước, còn ông thì vào chùa tu niệm.
Khi Tỳ Võ hoàn thành nhiệm vụ, trở về triều thì thấy anh mình là Tỳ Văn đã lên ngôi vua rồi.
Tỳ Võ liền nói :
- Anh hiền lắm, làm vua sao được, dân không sợ đâu. Anh hãy để ngai vàng lại cho tôi. Tôi dữ là dữ với kẻ hung ác bạo tàn vô đạo, chớ không dữ với người đạo đức bao giờ.
Tỳ Văn nghe em nói vậy, biết là Tỳ Võ muốn lên làm vua, sợ là phải thất lời với vua cha, nên Tỳ Văn vội vàng cầm Ngọc tỷ (ấn của vua bằng ngọc), chạy lên chùa để báo cáo với vua cha sự việc. Nhưng khi Tỳ Văn chạy tới cửa chùa thì bị té chết, linh hồn thoát xác đăng Tiên.
Tỳ Võ đuổi theo anh lên chùa, đến nơi thấy xác của anh nằm chết, cúi xuống lấy Ngọc tỷ cầm lên, lòng đầy hối hận ăn năn, thấy con người khi chết đi, không ai đem theo được tiền tài danh vọng, nên cũng quyết bỏ hết sự đời, theo vua cha tu niệm, cuối cùng cũng đắc quả đăng Tiên.
Một người dầu lòng dạ hung ác, nhưng biết ăn năn sám hối, giác ngộ tu hành, thì trong một kiếp cũng có thể đắc thành Chánh quả.
Hai pho tượng Ông Thiện và Ông Ác, tức Thiện Thần và Ác Thần, tiêu biểu cho sự Thiện và sự Ác, sự Chánh và sự Tà, đối chiếu 2 mặt trái ngược nhau trong cuộc đời.
Đời chỉ ra 2 con đường : con đường Thiện và con đường Ác. Dù con người đi theo đường Ác mà đến giờ phút cuối, biết ăn năn sám hối, quày đầu hướng Thiện, thì cũng được Đức Chí Tôn cứu rỗi linh hồn.
Khi Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần 2 pho tượng nầy, Đức Phạm Hộ Pháp có giải thích :
" Đời thường lầm lạc, làm điều ác cho là thiện, và thường lấy điều lành cho là ác. Nên từ đây, năng lực của Thiện Thần sẽ phô bày ra mặt Đời, thế nào là Chánh, việc nào là Thiện, làm thế nào là phước, cho thiên hạ rõ.
Còn Ác Thần thì phô bày ra mặt Đời, thế nào là Tà, việc nào là Ác, sao gọi là tội, cho nhơn loại rõ.
Hai Ông Thần nầy rất linh hiển, dùng quyền năng thiêng liêng đưa ra thiệt tướng 2 con đường : Phước và tội, siêu và đọa, để cho con cái Đức Chí Tôn khỏi lầm lạc, hầu tránh khỏi con đường tự diệt. Đi vào con đường sanh thì nhơn loại mới mong hòa bình được."

8 . Lôi Âm Cổ Đài & Bạch Ngọc Chung Đài

* Lôi Âm Cổ Đài : Lôi Âm là tiếng sấm, cổ là cái trống, đài là cái lầu cao. Lôi Âm Cổ Đài là cái lầu cao trong đó có đặt cái Trống Lôi Âm. Trống Lôi Âm là cái trống mà khi đánh lên, tiếng trống phát ra lớn như tiếng sấm nổ.
Tiếng trống Lôi Âm có tác dụng rất mầu nhiệm, theo ý nghĩa của bài Xướng Kệ Trống Lôi Âm, mỗi khi cúng đàn. Bài Kệ nầy gồm 4 câu, có viết ra giấy dán vào nơi giá trống :
Lôi Âm Thánh cổ triệt hư không,
Truyền tấu Càn khôn Thế giái thông.
Đạo pháp đương kim dương Chánh giáo,
Linh quang chiếu diện Ngọc Kinh Cung.

Nghĩa là :
Tiếng trống Lôi Âm thiêng liêng huyền diệu vang rền đến các cõi Hư không,
Tiếng trống truyền đi như tỏ bày cho tất cả các cõi trong Càn khôn Thế giới biết rõ.
Giáo lý và Luật pháp của Đạo Cao Đài hiện nay nêu cao cho mọi người biết đây là một nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn.
Ánh sáng thiêng liêng chiếu sáng rực rỡ Tòa Bạch Ngọc Kinh.

Khi tiếng trống Lôi Âm khởi lên là để báo hiệu cho chư Thần Thánh Tiên Phật biết đến giờ chầu lễ Đức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh.

* Bạch Ngọc Chung Đài : Chung là cái chuông, bạch ngọc là ngọc trắng, đài là cái lầu cất cao lên. Bạch Ngọc Chung Đài là cái lầu cao trên đó có đặt một cái chuông lớn bằng ngọc trắng.
Tiếng chuông Bạch ngọc phát ra có tác dụng rất mầu nhiệm theo ý nghĩa của bài Xướng Kệ Chuông Bạch ngọc mỗi khi cúng đàn. Bài xướng nầy gồm 4 câu, có chép ra giấy dán vào giá chuông :

Thần chung thinh hướng phóng Phong đô,
Địa Tạng khai môn phóng xá cô.
Tam Kỳ vận chuyển kim quang hiện,
Sám hối âm hồn xuất u đồ.
Nghĩa là : Tiếng chuông thiêng liêng huyền diệu phát ra truyền đến cõi Phong đô,
Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Giáo chủ cõi Phong đô mở cửa tha tội và phóng thích các tội hồn.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Đạo Cao Đài, vận chuyển và làm hiện ra một lằn ánh sáng vàng,
Các chơn hồn nơi cõi Âm biết ăn năn sám hối tội tình sẽ đi ra khỏi những con đường tăm tối (tức là được siêu thăng)

9. Bó hoa

Nơi mặt tiền của Lầu chuông (Bạch Ngọc Chung Đài) và Lầu trống (Lôi Âm Cổ Đài), chỗ khoảng rộng nhứt, có đắp hình một bó hoa nhiều màu sặc sỡ, như đang rơi xuống biển lúc mặt trời mọc.
Hình ảnh nầy lấy theo sự tích của vua U Vương nhà Châu (781 trước Tây lịch, trước thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu). Vua U Vương nằm chiêm bao thấy một bó hoa nhiều màu từ trên trời rơi xuống mặt biển trong lúc mặt trời mọc. Sáng ra nhà vua thuật lại điềm chiêm bao cho vị quan đoán mộng xem đó là điềm gì ?
Vị quan giải mộng tâu rằng : Bệ hạ thấy biển, ấy là nước của Bệ hạ, thấy mặt trời mọc, ấy là một mối đạo sắp được mở ra, thấy bó hoa ấy là sự tinh túy cao khiết. Như vậy, theo điềm chiêm bao nầy, trong nước của Bệ hạ sắp có một mối đạo mở ra cao quí tốt đẹp.
Quả nhiên, sau đó Đức Lão Tử, một hóa thân của Đức Thái Thượng Đạo Quân, hiện xuống cõi trần, mở Đạo Tiên để cứu độ nhơn sanh.
Ý nghĩa nầy gợi cho chúng ta nhớ lại 4 câu kinh đầu trong Bài Khai Kinh :
Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh Thái dương giọi trước phương Đông.
Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời.
Đó là chuyện thời xưa. Ngày nay, hình ảnh bó hoa rơi lúc mặt trời mọc, cũng là để tượng trưng cho một điềm lành, báo cho nhơn loại biết là Đạo Cao Đài mở ra tại một nước ở phương Đông để cứu độ nhơn sanh, đem vào tham dự Đại hội Long Hoa.

10. Hiệp Thiên Đài

Giữa Lầu chuông và Lầu trống có một kiến trúc 3 từng, gọi chung là Hiệp Thiên Đài.
Từng trệt, được gọi là Tịnh Tâm Điện. Người tín đồ bước vào nơi đây, phải giữ cái tâm cho trong sạch, tư tưởng thanh khiết, trước khi vào Chánh điện chầu lễ Đức Chí Tôn.
Từ Tịnh Tâm Điện, 2 bên có 2 cầu thang hẹp đi lên từng trên : Lầu 1.
Lầu 1 nầy khi xưa được gọi là Tham Thiền Điện, nhưng ngày nay vì có bàn thờ chư vị Chức sắc Đại Thiên Phong Hiệp Thiên Đài, nên thường được gọi là Lầu Hiệp Thiên Đài.
Lầu 2, tức là từng cao hơn hết, khi xưa gọi là Tiêu Diêu Điện, nay gọi là Phi Tưởng Đài, ở mặt trước có đắp hình Thiên Nhãn rất lớn, và bên trong cũng có hình Thiên Nhãn, có bàn thờ và đốt nhang.
Phi Tưởng Đài là nơi để Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp lên thông công cùng Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng, quyết định những điều quan trọng trong nền Đạo.
Trên nóc Phi Tưởng Đài là tượng Đức Di-Lạc Vương Phật ngự tòa sen đặt trên lưng một con cọp vàng.

11. Thất Đầu Xà

Thất Đầu Xà là con rắn có 7 đầu. Phật giáo ví Thất Tình (Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục) của con người như 7 đầu rắn độc, vì Thất Tình làm hại con người giống như nọc độc của 7 đầu rắn.
Dưới 3 cái ngai của Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh, có đắp hình Thất Đầu Xà, đuôi rắn quấn ngôi Thượng Sanh, mình rắn quấn ngôi Thượng Phẩm, còn 7 đầu rắn ở ngôi Hộ Pháp chia ra : 3 đầu Hỷ, Ái, Lạc, ngóc lên ở phía sau ngai Hộ Pháp, 2 đầu Ai và Nộ gục xuống thấp nhất để 2 chân của Đức Hộ Pháp đặt lên chế ngự nó, 2 đầu O Á và Dục gục xuống vừa thấp để 2 tay của Đức Hộ Pháp đặt lên như đè nén nó xuống.
Đức Phạm Hộ Pháp có một bài thuyết đạo Giải nghĩa Thất Đầu Xà, 7 nọc độc của rắn, xin chép ra sau đây :
" Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục ở trong châu thân con người. Phàm con người ở thế, từ ngôi thiên tử cho đến hàng thứ dân, ai cũng có đủ 7 cái Tình ấy tất cả, nhưng do người biết độ lượng cho vừa theo bực trung thì mới khỏi hại đến châu thân và sự nghiệp.
1 . Chữ Hỷ là mừng : Con người khi gặp việc đáng vui mừng thì cũng phải trầm tĩnh như thường, chẳng nên mừng thái quá mà biến thành sự hại.
Ví như Ông Trình Giảo Kim, nghe tin dòng họ Tiết, Tiết Giao, Tiết Quỳ, phò Lý Đáng, đem binh về phục nghiệp Đường trào, trừ Võ Hậu, thì Ông ta mừng quá độ, phát thinh đại tiếu, cười ngất cho đến tắt hơi. Ấy là mừng quá mà chết. Đời nay có kẻ trúng số độc đắc mà chết.

2 . Chữ Nộ là Giận : Con người vì giận quá mà sanh hại đến gia đình, hoặc bị tù tội là khác. Nên có câu : "Nhứt Nộ sầu tâm khởi, bát vạn chướng môn khai." Nghĩa là : Một phen giận nổi lên thì trăm ngàn nghiệt chướng sanh ra, có thể làm tiêu nhà hại mạng, đến khi biết sự chẳng lành, tỉnh lại ăn năn thì đã muộn, nghĩ thôi đáng tiếc.
Ví như Ông Châu Công Cẩn (Chu Du), lầm mưu Khổng Minh Gia Cát Lượng, mà nộ khí xung thiên, đến đổi thổ huyết lâm lụy mà chết. Ấy là một gương nêu cho đời lưu ý, còn nhiều sự giận mà chiụ khổ hình.

3 . Chữ Ai là Buồn : Ấy cũng là một điều hư hại đến thân thể và trí não tinh thần. Có nhiều người gặp việc sanh ly tử biệt, hay là đấu lực tranh tài mà chẳng may thất bại, thì cũng buồn thảm đến lụy thân.
Ví như Thạch Sùng đấu của nhà giàu, mà thiếu mẻ kho, phải chịu mất hết gia tài, rồi ông buồn rầu mà thất chí đến lụy thân. Ấy là sự buồn rầu đến hại lớn, đáng làm gương cho người sau. Nếu khi gặp cảnh chẳng may, phải có năng lực đạo đức tinh thần mạnh mẽ mà làm kế bảo tồn tức là phương an ủi tâm hồn mát mẻ.

4 . Chữ Lạc là Vui : Sự vui vẻ hân hoan khoái chí, sự vui vẻ phải có chừng mực, thì mới tránh khỏi các điều tai hại biến sanh. Có câu : "Cực lạc sanh bi." Hễ sự vui thích đến quá mức thì trở nên buồn thảm, điều ấy vẫn hiển nhiên.
Ví như Trụ Vương Ân Thọ, đắm mê nàng Đắc Kỷ, vui say tửu sắc, đến nỗi mất nước tiêu nhà hại mạng. Sự vui chơi của ông có lắm điều tàn ác, nào là chế bào lạc hại quan trung thần, nào là lập Sái bồn, Tửu trì, Nhục lâm, sát hại cung nga thể nữ, vui cho đến mất cả sự nghiệp Thành Thang, làm cho bá tánh điêu tàn, sanh linh đồ thán. Ấy là sự vui chơi mà mắc tội với Thiên đình.

5. Chữ Ái là Thương yêu : Có câu : "Ái nhơn như ái kỷ", nghĩa là : Thương hết mọi người như thương mình vậy, mới gọi là Bác ái. Bác ái là rộng thương, mà thương vì công bình chánh trực, nhơn nghĩa đạo đức tinh thần, thương nước thương dân, chớ chẳng phải thương riêng vì cá nhân vật chất, hay vì bợ đỡ nịnh hót mà thương, hoặc thương vì ái tình tài sắc. Trong sự thương giới hạn phân minh mới tránh khỏi điều tai hại.
Có tích xưa đời Tam Quốc, có Đổng Trác và Lữ Phụng Tiên (Lữ Bố), đã kết nghĩa minh linh dưỡng tử, mà vì ái tình với một gái Điêu Thuyền, đến đổi cha con giết hại lẫn nhau. Ấy là do nơi dây ái tình mà điêu tàn chết thảm. Còn nhiều người tài hay, phá núi lấp sông, văn chương trí tuệ, mà chẳng vì đạo đức, mảng sa mê sắc dục mà phải hư hại thân thể.

6 . Chữ Ố là Ghét : Người tu hành không nên chất chứa sự ghét trong tâm, vì sự ghét giận mà sanh ra thù nghịch lẫn nhau cho đến tàn hại nhau, mà gây thành oan trái, trả vay đời đời kiếp kiếp.
Nên Đức Chí Tôn có dạy rằng : Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Tam thập lục Thiên, đặng vào nơi Bạch Ngọc Kinh, còn sự ghét là phương tà mị, nó làm cho lòng người chia rẽ, mất tình đoàn thể, cốt nhục phân ly cũng do sự ghét.
Vấn đề chữ Ố, nó làm cho lòng người nhiều điều tai hại nói không cùng.
Tóm lại, chỉ nhớ một câu của Thầy dạy ra : Từ đây các con chẳng đủ sức thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau." Sau lại có câu phương ngôn của Thầy rằng : " Thương người khác thể thương thân, Ghét người khác thể vun phân cho người."

7 . Chữ Dục là Tham muốn : Người có 100 muốn, 1000 muốn, muốn hoài không dư, nào là muốn nhà cao lầu rộng, áo đẹp vợ xinh, đồ ăn mỹ vị, muốn thế nào cho được giàu sang trên thiên hạ. Các điều muốn ấy là về sự ích kỷ. Nếu được tấm lòng tham muốn về đạo đức nhơn nghĩa, ích nước lợi dân, ấy là sự muốn trở nên cao thượng.

Tóm tắt lại, sự dục vọng của con người rất bao la quảng đại, đến khi còn một hơi thở cuối cùng mà mọi điều ham muốn cũng chưa đầy đủ, nên có câu : "Nhơn tâm bất túc xà thân tượng, Thế sự đáo đầu đường bộ phàn." nghĩa là : Lòng người chẳng đủ như rắn nuốt voi, Việc đời đến lúc cùng tận chẳng khác châu chấu bắt ve.
Cũng vì lòng tham muốn mà rốt cuộc mạnh yếu sang hèn, cũng vì lòng tham muốn mà mà tương sát lẫn nhau.

12 . Cửu Trùng Đài & Nghinh Phong Đài

Cửu Trùng Đài là một kiến trúc lớn, gồm 9 cấp từ thấp dần lên cao, nối liền Hiệp Thiên Đài và Bát Quái Đài.
Cấp thứ 1 thấp nhứt (từ HTĐ đếm vào), cấp thứ 2 cao hơn cấp thứ 1 là 18 phân, lên đến cấp 5 là cấp chính giữa CTĐ, vị trí ngang với 2 cửa hông Tòa Thánh.
Nơi cấp thứ 5 nầy dành cho Chức sắc phẩm Giáo Hữu và tương đương chầu lễ Đức Chí Tôn. Phía trên nóc của cấp nầy có một kiến trúc đặc biệt gọi là Nghinh Phong Đài, để nghinh tiếp các Chức sắc được phong thưởng vào hàng Thánh. (Ngài Khai Đạo Phạm tấn Đãi dịch Nghinh Phong Đài ra tiếng Pháp là : Le Dôme de Canonisation) [Nghinh là nghinh tiếp, Phong là phong thưởng, Đài là cái lầu cao]. Cho nên cấp bên dưới Nghinh Phong Đài dành cho phẩm Giáo Hữu là phẩm khởi đầu của hàng Thánh, đối phẩm Địa Thánh.
Nghinh Phong Đài gồm có 3 phần :
- Phần dưới hình vuông, tượng trưng Đất.
- Phần giửa hình ống tròn, tượng trưng Trời, vì người xưa cho rằng Trời tròn Đất vuông (Thiên viên Địa phương).
Trời là Dương, Đất là Âm, Âm Dương tương hiệp mới phát khởi Càn khôn Vũ trụ và hóa sanh vạn vật.
- Phần trên của Nghinh Phong Đài là một bán cầu úp xuống, có vẽ bản đồ các lục địa và đại dương của Địa cầu, tượng trưng cõi trần của nhơn loại. Phía bên trên bán cầu nầy là hình Long Mã phụ Hà Đồ (Xem giải thích nơi mục số 18).
Trở xuống các cấp CTĐ, 2 cây cột rồng xanh giữa 2 cấp thứ 5 và thứ 6 có đúc 2 cái Giảng đài. Sau mỗi đàn cúng có Chức sắc lên đứng trên Giảng đài nầy thuyết đạo. Chức sắc Nam phái đứng thuyết đạo bên Giảng đài phía Nam phái, Chức sắc Nữ phái lên đứng trên Giảng đài phía Nữ phái. Đặc biệt trong các thời cúng Tiểu đàn hay Đại đàn, một vị Giáo Sư phái Ngọc lên Giảng Đài Nam phái để xướng lễ, và một Chức sắc Bộ Nhạc lên Giảng đài Nữ phái để ra hiệu lịnh điều khiển 3 Ban Nhạc, Lễ và Đồng nhi.
Lên đến cấp thứ 9 là cấp cao nhứt CTĐ, tiếp giáp với Cung Đạo, ở chính giữa có 7 cái Ngai sơn son thếp vàng rất long trọng và lộng lẫy, đặt trên bục gỗ, chia làm 3 lớp : 1 Ngai Giáo Tông đặt trên cao hơn hết, kế dưới là 3 Ngai Chưởng Pháp nhỏ hơn, dành cho 3 vị Chưởng Pháp 3 phái, đặt theo hàng ngang, và chót hết là 3 Ngai Đầu Sư dành cho 3 vị Đầu Sư 3 phái Thái, Thượng, Ngọc.
Thượng Chưởng Pháp và Thượng Đầu Sư ngồi trên 2 cái Ngai đặt ở hàng chính giữa, trước Ngai của Đ. Giáo Tông.
Thái Chưởng Pháp và Thái Đầu Sư ngồi trên 2 cái Ngai đặt hàng bên tay trái của Đức Giáo Tông.
Ngọc Chưởng Pháp và Ngọc Đầu Sư ngồi trên 2 cái Ngai đặt hàng bên tay mặt của Đức Giáo Tông.
Việc làm 7 cái Ngai nầy do Đức Chí Tôn giáng cơ chỉ dạy Ông Giáo Hữu Kiệt coi sóc mướn thợ làm vào ngày 12-8-Bính Dần (dl 17-9-1926).
TNHT. I. 44 : " Kiệt ! Con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh Thất. Thầy giao cho con phải săn sóc mướn thợ làm 7 cái ngai : Một cái trọng hơn hết cho Giáo Tông, 3 cái cho 3 vị Chưởng Pháp, 3 cái cho 3 vị Đầu Sư; nhứt là cái ngai của Giáo Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ Tứ linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm 2 con Rồng, còn của Chưởng Pháp chạm 2 con Phụng, của Đầu Sư chạm 2 con Lân, nghe à!"
Hai bên 7 cái Ngai nầy là 2 hàng tàn, mỗi hàng 3 cây tàn với 3 màu : Vàng, Xanh, Đỏ.
Cấp thứ 8 (dưới cấp thứ 9 có 7 cái Ngai), 2 bên có 2 Dàn Bát Bửu, mỗi bên có 3 cây lọng đặt xen kẽ vào.(Xem giải thích Dàn bát Bửu nơi mục số 20).

13. Bát Quái Đài

Bát Quái Đài là cái đài cao có hình 8 cạnh đều nhau, mỗi cạnh là một cung của Bát Quái. Tám cạnh là 8 cung Bát Quái, gồm : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Bát Quái Đài dùng làm nơi thờ Đức Chí Tôn, các Đấng Giáo chủ và chư Thần Thánh Tiên Phật. Mỗi khi cúng đàn tại Tòa Thánh, đều có Đức Chí Tôn và chư Thần Thánh Tiên Phật giáng ngự chứng lễ.
Khoảng giữa Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài là Cung Đạo.
Các cây cột Rồng (Long trụ) nơi Bát Quái Đài đều quấn rồng vàng.
Ở từng trệt, Bát Quái Đài có 12 cấp hình 8 cạnh đều nhau, bên ngoài lớn và thấp, vô trong nhỏ lại và cao hơn, xếp như bực thang, mỗi cấp cao 10 phân. Tất cả các cấp Bát Quái đều làm bằng đá mài màu vàng, cả các mái cong trên nóc cũng được sơn màu vàng.
Trung tâm của Bát Quái Đài ở từng trệt nầy là một cây trụ lớn, rất chắc chắn để giữ vững Quả Càn Khôn bên trên.
Trên mặt của phần Trung tâm Bát Quái có cẩn đủ 8 Cung Bát Quái, 8 Cung nầy có vị trí đặc biệt khác hơn Tiên Thiên Bát Quái Đồ của Phục Hy và Hậu Thiên Bát Quái Đồ của Văn Vương, vì đây là Bát Quái Cao Đài. (Xem hình vẽ)
Đức Chí Tôn giáng cơ dạy về vị trí các cung Bát Quái của Đạo Cao Đài như sau :
" Thầy dạy : Tòa Thánh day mặt về hướng Tây, tức là chánh Cung Đoài, ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là Cung Càn, bên tay mặt Thầy là Cung Khôn. Đáng lẽ Thầy phải để 7 cái ngai của phái Nam bên tay trái Thầy, tức bên Cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn Đạo cho đủ Ngũ Chi, cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là Cung Đoài, cho đủ số." (Trich Pháp Chánh Truyền Chú Gỉải, trang 41).

Các quẻ trong Bát Quái Cao Đài, nếu đem so sánh với Hậu Thiên Bát Quái Đồ thì thấy rằng : thứ tự các quẻ giống nhau, nhưng chiều quay khác nhau. Bát Quái Hậu Thiên quay theo chiều kim đồng hồ, còn Bát Quái Cao Đài quay ngược chiều kim đồng hồ, tức là cùng chiều quay tự nhiên của Địa cầu, cũng là chiều quay tự nhiên của vũ trụ.
Trục Đông Tây của Bát Quái Cao Đài giống với trục Đông Tây của Bát Quái Hậu Thiên, tức là trục của 2 cung Chấn, Đoài; nhưng trục Bắc Nam của Bát Quái Cao Đài và của Bát Quái Hậu Thiên đối ngược nhau, 2 Cung Khảm và Ly đổi chỗ cho nhau.
Nếu so sánh Bát Quái Cao Đài với Bát Quái Tiên Thiên, vị trí các Cung hoàn toàn khác nhau. (Xem hình vẽ)

14 . Hầm Bát Quái

Phần dưới của 12 cấp Bát Quái Đài, tức là thuộc phần nền của Bát Quái Đài, có đào một cái hầm lớn, được xây cất kiên cố theo hình Bát Quái, có thông hơi và có nắp đậy chắc chắn, có cầu thang đi xuống, gọi là Hầm Bát Quái.
Hầm Bát Quái được dùng làm nơi cất giữ tro thiêu hài cốt của các Chức sắc Đại Thiên Phong từ hàng Tiên vị trở lên, tức là từ phẩm Đầu Sư hay tương đương trở lên. Hài cốt nầy đặt trong liên đài, được lấy ra từ các bửu tháp, đem làm lễ hỏa thiêu tại Cửu Trùng Thiên nơi Đại Đồng Xã trước Tòa Thánh, lấy tro đựng vào thố, bên ngoài có ghi rõ phẩm tước, Thánh danh, năm sanh năm tử, và ngày hỏa thiêu, để lưu truyền kỷ niệm về sau.
Trong đám tang Ngài Bảo Đạo Ca minh Chương (đăng Tiên ngày 19-10-Đinh Mão, dl 13-11-1927), Đức Chí Tôn dạy Đức Phạm Hộ Pháp như sau :
" Thầy cũng nhắc lại với con rằng : Đủ 3 năm phải thiêu hài cốt, lên tượng, đặng đem nó vào Bát Quái Đài nghe ! Nơi mộ nó phải để quan tài khỏi mặt đất một tấc mà xây tháp y như lời Thầy đã dặn. Trên mặt tháp để chữ vàng "Bảo Đạo Chơn Quân", nhớ à ! " (Trích trong Đạo Sử II trang 314 của Bà Nữ Đầu Sư Nguyễn Hương Hiếu).

Trong Hầm Bát Quái hiện nay có đặt 6 cái thố đựng tro thiêu hài cốt của 6 vị Chức sắc Đại Thiên phong đã đăng Tiên, kể ra sau đây :
- Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung.
- Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh.
- Thái Đầu Sư Thái Thơ Thanh.
- Ngọc Đầu Sư Ngọc Trang Thanh.
- Thượng Phẩm Cao quỳnh Cư.
- Bảo Đạo Ca minh Chương.

15 . Tứ Linh

Tứ Linh là 4 con thú thiêng liêng : Long, Lân, Qui, Phụng. Long là rồng, Lân là con Lân, Qui là con rùa, Phụng là con chim phụng. Bốn con thú nầy đều có tánh linh, mỗi khi xuất hiện là báo điềm lành có Thánh nhân ra đời.
I. LONG : Rồng.
Rồng là con vật ở cõi vô hình, theo truyền thuyết kể lại, chớ khoa khảo cổ học chưa chứng minh được rồng là con vật có thật như các con vật khác như Rùa, chim Phụng.
Theo Thần thoại, Rồng có hình dạng rất lạ kỳ : Đầu rồng giống như đầu đà, sừng giống như sừng nai, cổ giống như cổ rắn, bụng giống như bụng con giao, mắt giống như mắt thỏ, tai giống như tai bò, chân giống như chân cọp, móng giống như móng chim ưng, vảy rồng giống như vảy cá ly.
Có rất nhiều loại rồng, được phân chia theo màu sắc, hoặc theo hình dạng, hay phận sự của nó.

1 . Phân chia theo màu sắc :
Rồng có 5 loại theo 5 màu :
- Rồng trắng : Bạch Long, chúng ta thấy nơi Bát Quái Đài Tòa Thánh có 8 con rồng trắng nằm canh giữ nơi thờ phượng trong Bát Quái Đài.
- Rồng vàng : Huỳnh Long, chúng ta thấy có 8 con rồng vàng quấn 8 cây cột nơi Bát Quái Đài, và 2 con rồng vàng quấn quanh 2 cây cột nơi Cung Đạo.
- Rồng xanh : Thanh Long, chúng ta thấy rồng xanh quấn trên 18 cây cột của Cửu Trùng Đài.
- Rồng đỏ : Xích Long, chúng ta thấy rồng đỏ quấn trên 2 cây cột dưới bao lơn trước Tòa Thánh.
- Rồng đen : Hắc Long.

2 . Phân chia theo hình dáng : Có 3 loại :
- Rồng trẻ, đầu chưa có sừng, gọi là Ly Long.
- Rồng sống được 500 năm thì mọc sừng, gọi là Cù Long.
- Rồng sống được 1000 năm thì mọc thêm cánh, gọi là Ứng Long.

3. Phân chia theo nhiệm vụ : Có 4 loại :
- Thủ Thiên Cung Long : Rồng giữ Thiên Cung.
- Hành Võ Long : Rồng làm mưa.
. Rồng làm mưa gió thuận hòa gọi là Thiện long.
. Rồng làm mưa to, bão lụt gọi là Ác long.
- Địa Long : Rồng ở dưới đất sâu, làm hầm, khoét hang, làm cho đất khuyết thành sông thành hồ.
- Phục Tạng Long : Rồng gìn giữ kho tàng của vua Chuyển Luân Thánh Vương và của các nhà phước đức lớn.

Rồng là loài biến hoá, làm sáng được, làm tối được, làm lớn được, làm nhỏ được để có thể chun vào một cái lọ nhỏ, làm dài được để có thể quấn quanh một hòn núi.
Nhằm tiết Xuân phân, Rồng bay lên Trời, nhằm tiết Thu phân, Rồng trầm xuống vực sâu.
Tương truyền, Rồng ở đáy biển, gọi là Long Vương, có cung điện, lâu đài, có tổ chức vua, quan, và dân. Rồng làm vua, cá lớn làm quan, cá nhỏ làm dân.
Theo Truyện Phong Thần và Truyện Tây Du, bốn biển có Tứ Hải Long Vương:
. Đông Hải Long Vương tên là Ngao Quảng,
. Nam Hải Long Vương tên là Ngao Thuận,
. Tây Hải Long Vương tên là Ngao Khâm,
. Bắc Hải Long Vương tên là Ngao Nhuận.

Con ngựa trắng (Bạch mã) mà Thầy Tam Tạng cỡi đi Tây phương thỉnh kinh là do một con rồng nhỏ biến thành. Con Tiểu long nầy vốn là con của Bắc Hải Long Vương Ngao Nhuận, phạm tội nặng , bị bắt treo lên chờ xử trảm. May mắn gặp Đức Quan Âm Bồ Tát đi ngang qua, thấy vậy thương tình, tâu xin Thượng Đế tha chết cho Tiểu long, để sau nầy Tiểu long biến hóa thành con Bạch mã đỡ chân Tam Tạng, đi Tây phương thỉnh kinh, lấy công chuộc tội. Nhờ vậy, sau nầy bạch mã biến trở lại thành Rồng, trở về Long Cung.
Có loại rồng lai với ngựa, tạo thành một con thú linh mình ngựa đầu rồng, gọi là Long mã.

II . LÂN : Con Lân, cũng gọi là Kỳ Lân, vì con đực được gọi là Kỳ, con cái gọi là Lân. Lân có hình giống như con hươu nhưng lớn hơn, mình có vảy, đuôi giống đuôi trâu, chân giống chân ngựa, miệng rộng, mũi to, đầu có một sừng, lông trên lưng có 5 màu, lông dưới bụng chỉ có màu vàng, tánh rất hiền lành, không đạp lên cỏ tươi, không làm hại các sanh vật, nên được gọi là Nhân thú (con thú có lòng nhân từ).
Vua chúa nào là người nhân thì được gặp Kỳ Lân.

III. QUI : Rùa : Rùa là con vật sống rất lâu năm, chuyên ăn rau cỏ, nhiều khi không ăn, chỉ hớp sương mà sống và lớn lên.
Qui sống trên 5000 năm thì gọi là Thần Quy.
Thần Kim Quy là con Thần Quy mình vàng.
Qui sống trên 10 000 năm được gọi là Linh Quy.
Tương truyền, rừng nào có Thần Quy ở thì rừng ấy không có cây cỏ độc hại, không có các loài thú độc như : Rắn, rít, beo, vv…

IV . PHỤNG : Chim Phụng hay chim Phượng, con mái được gọi là Loan, con trống được gọi là Phụng. Đó là loài chim có bộ lông ngũ sắc rất đẹp, được xem là vua loài chim, nên mới gọi là Phượng Hoàng.
Chim Phụng thích đậu trên cây ngô đồng, vì cây ngô đồng rất cao, để nhìn các con chim khác bay lượn bên dưới.
Mỗi khi chim phụng hót lên, các loài chim khác nghe được liền bay đến, nhảy múa và hót theo.

Bốn con vật : Long, Lân, Quy, Phụng, đều có tánh linh, nên được gọi là Tứ Linh. Mỗi khi có 1 trong 4 con linh vật nầy xuất hiện thì nơi ấy ắt có điều lành xảy đến, hoặc có Thánh nhân ra đời.
Xin kể ra sau đây những trường hợp có ghi trong sử sách về sự linh hiển của Tứ Linh :
- Theo Sử Ký nước Việt Nam ta, Lý Công Uẩn lên ngôi vua hiệu là Lý Thái Tổ, thấy đất Hoa Lư chật hẹp, nên muốn đóng đô ở La Thành. Khi nhà vua đến La Thành xem xét, thấy có một con rồng vàng xuất hiện bay thẳng lên Trời. Nhà vua biết đó là điềm lành, nên chọn La Thành làm kinh đô và đổi tên lại là Thăng Long (Rồng bay).
Nhà Lý truyền được 9 đời vua, kéo dài được 215 năm.
- Ở nước Tàu thời Thượng cổ, vua Hiên Viên Huỳnh Đế cùng Hoàng Hậu tu hành đắc đạo thành Tiên. Khi đúc xong cái đỉnh có hình cái hồ lô thì có rồng vàng (Huỳnh long) hạ giáng, chấm râu vào đỉnh, sau đó, vua và hoàng hậu cỡi rồng bay lên cõi Tiên.
- Thời Đông Châu Liệt Quốc, Tiêu Sử cưới nàng Lộng Ngọc, con gái út của vua Tần Mục Công. Sau đó 2 vợ chồng đều thành Tiên, Tiêu Sử cỡi rồng, Lộng Ngọc cỡi phụng, cùng bay lên Trời.
- Trước khi bà Nhan Thị sanh ra Đức Khổng Tử, Bà nằm mộng thấy một con Kỳ Lân đến trước mặt bà, nhả ra một tờ ngọc thư có đề chữ : "Thủy Tinh chi tử, kế suy Châu vi Tố Vương." (Nghĩa là : Con của Thủy Tinh, nối nhà Châu suy làm vua không ngôi.)
Năm Đức Khổng Tử 71 tuổi, người nước Lỗ đi săn, bắt được một con Kỳ Lân nhỏ và què chân trái. Đức Khổng Tử hay được, đến xem thì Ngài biết rằng Ngài sắp trở về cõi thiêng liêng.
Hai năm sau, Đức Khổng Tử mất, thọ 73 tuổi.
- Theo phong tục cổ truyền của người Tàu và Việt Nam, trong những ngày Tết, thường rước Lân và Rồng đến múa, bởi vì người ta tin tưởng rằng, con Lân, con Rồng sẽ đem lại điềm lành và điều may mắn cho gia đình.
- Theo Sử Ký nước ta, Thần Kim Qui xuất hiện tặng cho An Dương Vương một cái móng rùa để làm chiếc nỏ thần. Lúc nào có quân địch tới đánh thành, lấy chiếc nỏ thần ra bắn một phát, quân địch chết hằng lọat và tan vỡ. Thần Kim Qui lại ban cho nhà vua Phép trừ yêu quái để nhà vua xây được thành Cổ Loa, giữ yên bờ cõi.
- Bình Định Vương Lê Lợi, khi mới khởi binh, được một con Thần Quy nổi lên dâng cho một cây bửu kiếm. Nhờ có bửu kiếm giúp uy, Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh về Tàu, dựng nền độc lập cho nước ta, mở ra nhà Lê. Về sau, vua Lê Thái Tổ ra chơi nơi hồ thì gặp Thần Quy đón trước đầu thuyền, nhà vua rút gươm chém, Thần Qui lẹ làng hả miệng ngậm chặt lưỡi kiếm rồi lặn mất, nên cái hồ đó được vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đặt tên là hồ Hoàn Kiếm.
- Vua Hạ Võ, khi trị thủy nơi sông Lạc, bắt gặp một con Linh Quy, trên lưng của nó, có những dấu chấm đen trắng đặc biệt, ở vào những vị trí đặc biệt. Vua Hạ Võ ghi lại các dấu chấm ấy làm thành một bức đồ, tạo thành sách gọi là Lạc Thư, cũng gọi là Quy Thư. (Lạc thư là sách ghi lại bức đồ trên lưng Linh Quy ở sông Lạc; Quy thư là sách ghi lại bức đồ trên lưng Linh Quy.) Vua Hạ Võ nghiên cứu Lạc Thư, phát minh ra Hồng Phạm Cửu Trù, để tổ chức việc cai trị đất nước.
Về sau, người ta cũng căn cứ vào Lạc Thư để chế ra Ngũ Hành : Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ.
- Phụng gáy Kỳ Sơn, hay Phụng gáy non Kỳ, là điềm Thánh Vương là Văn Vương vàVõ Vương ra đời, dẹp nhà Trụ, mở ra nhà Châu, dân chúng được thái bình, an cư lạc nghiệp.
Trong các Đền, Chùa ở Việt Nam, các đồ vật thường được trang trí chạm khắc hay vẽ hình Tứ Linh.

Đặc biệt nơi Tòa Thánh Tây Ninh, sự trang trí nổi bật nhứt là hình các con rồng đủ màu, quấn trên các cây cột tròn to lớn : Tại bao lơn Tòa Thánh có 2 cây cột quấn rồng đỏ, nơi Cửu Trùng Đài có các cây cột quấn trồng xanh, nơi Bát Quái Đài có các cây cột quấn rồng vàng, và lại có 8 con rồng trắng nằm theo tư thế giữ gìn nơi thờ phượng trong Bát Quái Đài.
Trên Plafond dù ở lồng căn giữa nơi CTĐ, có trang trí hình 6 con rồng (2 rồng vàng, 2 rồng xanh, 2 rồng đỏ) quấn nhau từng đôi một, với ý nghĩa theo 2 câu kinh trong bài Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế :
"Thời thừa lục long,
Du hành bất tức."

Nghĩa là :
Đấng Thượng Đế thường cỡi 6 rồng,
đi du hành khắp nơi không ngừng nghỉ.

Nơi plafond bằng ở 2 bên, có trang trí khung hình bầu dục, trong đó có đắp một con Phụng, một con Lân, và một con Rùa, tức là 3 con trong Tứ Linh, hợp với các con rồng nơi plafond dù, thì đủ tứ Linh.
Đặc biệt, 7 cái ngai đặt ở cấp thứ 9 Cửu Trùng Đài, sơn son thếp vàng, có chạm trổ đủ Tứ Linh. (Xem lại mục số 12 : Cửu Trùng Đài và Nghinh Phong Đài).
Như thế, Tứ Linh được sắp theo thứ tự cao thấp là :
- Rồng đứng đầu,
- Phụng ở hàng thứ nhì,
- Lân đứng hàng thứ ba,
- Quy đứng hàng chót hết.
16. Kim Mao Hẩu

16. Kim Mao Hẩu Kim mao là lông vàng, Hẩu là tiếng Tàu phiên âm, có nghĩa là con sư tử. Kim Mao Hẩu là con sư tử lông vàng.
Theo truyện tích xưa thì :
- Đức Văn Thù Bồ Tát cỡi Kim Mao Hẩu mỗi khi đi.
- Đức Từ Hàng Bồ Tát cũng cỡi Kim Mao Hẩu.
Con Kim Mao Hẩu của Đức Từ Hàng Bồ Tát, nguyên là một con thú sống rất lâu năm, biến hóa được thành người, học tu luyện với Đức Thông Thiên Giáo Chủ, nên đạt được nhiều phép tắc thần thông, đắc thành một vị Địa Tiên, hiệu là Kim Hoa Tiên. Trong trận Vạn Tiên thời Phong Thần, Kim Hoa Tiên bị Đức Từ Hàng Bồ Tát bắt được, không giết chết, thâu phục làm đệ tử, đem về Tây phương, nhưng buộc phải hiện trở lại nguyên hình là một con Kim Mao Hẩu, để Đức Từ Hàng Bồ Tát cỡi mỗi khi ra trận.
Nơi Tòa Thánh Tây Ninh, phần CTĐ và BQĐ, mỗi bên có 2 cầu thang đi lên, mỗi cầu thang đều có đắp hình 2 con Kim Mao Hẩu để trấn giữ. Như vậy, có tất cả 8 con Kim Mao Hẩu, và 8 con Kim Mao Hẩu nầy đều là 8 con đực, vì 8 con đều có lông bờm chung quanh cổ. (Sư tử đực mới có lông bờm, sư tử cái không có).
Sự tích 8 con Kim Mao Hẩu nầy như sau :
Trong quyển Tiểu sử Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc, do trường Trung học Lê văn Trung ấn hành, có thuật lại đoạn Đức Phạm Hộ Pháp xuất Chơn thần về Bạch Ngọc Kinh, gặp các con Kim Mao Hẩu :
" Thuở nhỏ, Đức Phạm Hộ Pháp còn đi học, có một đôi lần nằm mê luôn 2 ngày. Lúc xuất Thần ra đi, Ngài có một người Em thiêng liêng vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống rước Ngài về. Ngài cùng với người Em đến cửa Bạch Ngọc Kinh thì thấy 8 con gì như con chó xù, to lớn mạnh mẽ, coi đáng ghê sợ, có con nằm đưa bàn chân trước ra chắn ngang để giữ cửa. Người Em bước lên chân nó, thì nó nâng lên đưa vào cửa, còn Ngài thì sợ, đứng lại. Người Em ngó ngoái lại thấy sao Ngài không vào, nên cười và nói : Anh cứ vào, anh đi không bao lâu mà lạ.
Rồi Ngài liền bước lên chơn con chó xù đó thì nó cũng đưa Ngài vào trong cửa Bạch Ngọc Kinh.
Người Em nói : Anh chờ một chút, Em vào bạch Đức Chí Tôn.
Ngài ngồi xem cung điện rất nguy nga tráng lệ, thấy toàn bằng trân châu báu ngọc, dưới lót bằng hào quang sáng đẹp vô cùng. Chờ hồi lâu, Ngài kêu lớn lên thì người Em chạy ra nói : Anh đừng sợ, chờ tôi một chút.
Bỗng thấy Đức Chí Tôn đi ra phán rằng : Con có đói không ?
Ngài đáp : Thưa Thầy con đói.
Đức Chí Tôn biểu người Em đem ra 3 cái bánh ít trần. Ngài ăn 2 cái thì vừa no, còn một cái thứ 3, Ngài nghẹn, nuốt không vô, Ngài muốn liệng nhưng vì sợ lấm cung điện, Ngài rán nuốt cho được nhưng ngán lắm !
Đức Chí Tôn hỏi : Con còn đói không ?
Đức Hộ Pháp bạch : Con no lắm rồi.
Đức Chí Tôn hỏi : Con có khát nước không ?
Đức Hộ Pháp bạch : Bạch Thầy con khát.
Đức Chí Tôn dạy đem tô nước trong thật đầy. Ngài uống ngon lắm, khi uống vào, Ngài thấy nhẹ nhàng như cũ.
Đức Chí Tôn bảo người Em đưa Ngài trở về.
Trước khi ra về, Ngài bạch : Thưa Thầy, cho con xin một con chó xù đem về giữ nhà.
Đức Chí Tôn bảo : Con về trước đi, Thầy sẽ cho nó xuống sau."
Đức Phạm Hộ Pháp giải thích :
. 3 cái bánh ít là Tam giáo qui nguyên, là việc rất khó, như 3 cái bánh ít đó vậy,
. Còn việc nước thì dễ như uống nước Cam Lồ.
. Con chó xù là con Kim Mao Hẩu.

Ngày nay Đền Thánh cất xong, Đức Chí Tôn cho 8 con Kim Mao Hẩu xuống trần để trấn CTĐ và BQĐ tại thế, là không ai dùng bạo quyền nào mà chạm đến nó vậy.

17 . Hai con Hạc và Dây Nho

Phía bên hông Tòa Thánh, dưới các mái hiên, trên những đường viền giữa các cây cột, có trang trí Dây Nho, lá Nho và trái Nho và bên trên là một khung tròn vẽ hình 2 con hạc bay thong thả trên cánh đồng vào lúc bình minh.
1. Hình 2 con Hạc bay : lấy ý nghĩa theo 2 câu thơ trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển :

Bụng trống thảnh thơi con hạc nội,
Lúa đầy túng thiếu phận gà lồng.
Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng giáng cơ giải thích 2 câu thơ nầy theo điển tích :
" Lý Bạch viết :

Lung kê hữu mễ than oa cận,
Dã hạc vô lương Thiên Địa khoan.
Thích nôm : Gà lồng có lúa đầy bụng hằng ngày mà nồi nước sôi hằng cận bên, không biết phải bị giết ngày nào.
Còn con hạc nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng Trời Đất rộng thinh, mặc tình cao bay xa liệng.
Tóm lại, thà cực mà thong thả, còn hơn sướng mà phải chịu nguy hiểm.
Có mối Đạo dìu mình được tự do thiêng liêng, mà cái tự do thiêng liêng ấy, ta hãy làm con hạc nội mới mong chiếm được."

2. Hình Dây Nho, lá Nho, trái Nho :
- Đây là cách nói đồng âm dị nghĩa, dùng hình ảnh cây Nho để chỉ Đạo Nho (Nho giáo); cũng như trồng cây Sung trước nhà để cho gia đình được sung túc.
Đạo Cao Đài chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, dùng tinh hoa của Giáo lý Nho giáo để dạy dỗ nhơn sanh, làm cho đời hung ác bạo tàn lần lần trở nên hiền lương đạo đức.
Để biểu thị chủ trương nầy, Hội Thánh dùng biểu tượng dây Nho, lá Nho và trái Nho để trang trí chung quanh Tòa Thánh.
- Ngoài ra, việc dùng hình ảnh Dây Nho, Trái Nho, cũng để tượng trưng Tam Bửu (Tinh, Khí, Thần) của con người trong Phép Luyện đạo nơi Tịnh Thất :

. Trái Nho: tượng trưng TINH,
. Nước Nho: tượng trưng KHÍ,
. Rượu Nho: tượng trưng THẦN.

18 . Long Mã phụ Hà Đồ

Long Mã là một loài thú linh, đầu rồng, mình ngựa, có vảy rồng, bề cao 8 thước 5 tấc (thước Tàu), xương cổ dài, mình không thấm nước. Hà Đồ là bức vẽ có liên hệ đến sông Hoàng Hà bên Tàu, phụ là mang, đội. Long Mã phụ Hà Đồ là con Long Mã có mang trên lưng một bức đồ xuất hiện ở sông Hoàng Hà.
Truyện xưa chép lại sự xuất hiện của Long Mã vào thời vua Phục Hy (2852 trước Tây lịch) như sau :
" Vào thời vua Phục Hy, trên dòng sông Hoàng Hà, thình lình có một trận giông lớn nổi lên, nước sông dâng cao, giữa dòng sông có nổi lên một con quái mình ngựa đầu rồng, đứng khơi khơi trên mặt nước, trên lưng thấy có mang một cây bửu kiếm.
Dân chúng thấy sự lạ, cấp báo cho vua Phục Hy biết.
Nhà vua liền đi đến tận nơi, đứng trên bờ quan sát. Vua Phục Hy là một vị Thánh Đế, biết con quái ấy là một linh vật, tên gọi Long Mã, rất hiếm có và ít khi xuất hiện. Ngài phán rằng : " Nếu phải ngươi đem vật báu đến dâng cho ta thì hãy lại gần đây."
Long Mã như biết nghe tiếng người, liền từ từ đi vào bờ, quì xuống trước mặt nhà vua. Phục Hy thấy trên lưng Long Mã có một bức đồ gồm 55 chấm đen trắng, vua ghi nhớ rồi gỡ lấy báu kiếm trên lưng Long Mã. Xong, Long Mã đứng dậy, trở ra giữa sông và đi mất. Mặt nước sông Hoàng Hà sụt xuống trở lại như cũ.
Vua Phục Hy vẽ lại các chấm đen trắng trên lưng Long Mã, tạo thành một bức đồ gọi là Hà Đồ.
Vua Phục Hy nhận xét : Các điểm trắng ứng với các con số lẽ : 1, 3, 5, 7, 9 và Ngài cho đó là những số Dương; những điểm đen ứng với các con số chẵn : 2, 4, 6, 8. 10 và Ngài cho đó là những con số Âm. Ngài có được Âm, Dương.
Ngài biểu diễn một vạch liền tượng trưng Dương và một vạch đứt tượng trưng Âm, Ngài được 2 Quẻ đơn. Ngài thử đem 2 vạch ấy chồng lên nhau, rồi thay đổi vị trí trên dưới, Ngài được 4 Quẻ đôi (Quẻ có 2 vạch).
Vua Phục Hy tiếp tục chồng thêm 1 vạch nữa vào 4 Quẻ đôi, rồi thay đổi vị trí các vạch, Ngài được 8 Quẻ ba.
Vua Phục Hy đặt tên cho 8 Quẻ ấy là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Vua Phục Hy sắp đặt vị trí các quẻ theo 8 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam, và căn cứ trên các hiện tượng tự nhiên như : Trời, Đất, Nóng, Lạnh, Núi, Đầm, Sương mù, Sấm sét, vv. . .
CÀN là Dương, tượng trưng Trời; KHÔN là Âm tượng trưng Đất. Càn thì ấm áp, đặt ở phương Nam, Khôn thì lạnh lẽo đặt ở phương Bắc.
Ấm lạnh tạo ra hơi nước, sương mù, nên đặt ĐOÀI tiếp theo Càn. Còn LY là lửa, là mặt trời, đặt ở phương Đông, là phương mặt trời mọc, nên Ly tiếp theo Đoài. Hơi nước và khí nóng phát động tạo ra sấm sét, đồng thời giúp cây cỏ nẩy sanh , nên đặt CHẤN tiếp theo Ly.
Mặt đất thì lồi lõm, nơi cao thành núi nên đặt CẤN kế quẻ Khôn; còn nơi thấp thì nước đọng lại tạo thành sông, biển, đầm, nên đặt KHẢM tiếp theo.
Các sự chuyển động đều phát sanh ra gió, nên đặt TỐN sau cùng.
Đó là Bát Quái của vua Phục Hy có đủ Âm Dương, Trời Đất, mặt trời, mặt trăng, và Thủy, Hoả, Phong.
Bát Quái Đồ của Phục Hy được bố trí các quẻ theo hình tròn, đứng từ tâm hướng ra ngoài, vì Phục Hy quan niệm Vũ Trụ có rộng lớn bao la đến đâu đi nữa nhưng khởi điểm vẫn phải ở trung tâm là Thái Cực.
Trở lại hình Long Mã trên nóc Nghinh Phong Đài :
Long là rồng, bay lên Trời, tượng trưng Dương; Mã là ngựa, chạy trên mặt Đất, tượng trưng Âm. Long Mã tượng trưng Âm Dương, tức là tượng trưng cho Đạo.
Mình Long Mã hướng theo chiều Tòa Thánh, bộ điệu như đang chạy về hướng Tây, ý nghĩa là Đạo xuất nơi hướng Đông và truyền qua hướng Tây, nhưng đầu Long Mã ngó ngoéo lại hướng Đông, ý nghĩa là Đạo cuối cùng lại trở về hướng Đông, vì hướng Đông là gốc của Đạo. Hướng Đông ở đây là chỉ nước Việt Nam, vì người Tây phương gọi Việt Nam là nước Viễn Đông.
Long là rồng, cũng tượng trưng Không gian, vì rồng bay trong không trung; Mã tượng trưng thời gian vì ngựa chạy có mau có chậm, cho nên Long Mã tượng trưng Không gian và Thời gian, tức là tượng trưng Càn khôn Vũ trụ, luôn luôn vận chuyển không ngừng.
Trong Đạo Cao Đài, nghi thức tiếp rước quan khách cao cấp, hàng lãnh đạo quốc gia, hay lãnh đạo các tôn giáo, hoặc tiếp rước Hội Thánh, đều có nghi thức múa Long Mã. Đây là điểm đặc biệt nổi bật của Đạo Cao Đài mà không một nơi nào khác trên thế giới có được. Điệu múa Long Mã rất đẹp, tập luyện rất công phu, hình Long Mã lại đẹp, lạ mắt, nghệ thuật múa đạt được đỉnh cao.

19 . Tam Thế Phật

Tam Thế Phật là 3 vị Phật lãnh lịnh Đức Chí Tôn xuống trần điều khiển 3 Nguơn : Thượng Nguơn, Trung Nguơn và Hạ Nguơn.
Trên nóc Bát Quái Đài của Tòa Thánh có đắp một tòa sen lớn, trên đó có tượng Tam Thế Phật, gồm 3 vị Phật :
- Đức Phật Brahma đứng trên lưng con Thiên nga (Ngỗng trời), mặt nhìn về hướng Tây.
- Đức Phật Civa đứng trên mình Thất Đầu Xà (Con Rắn 7 đầu), mặt nhìn về hướng Bắc.
- Đức Phật Christna đứng trên mình con Giao long, mặt nhìn về hướng Nam. Trong Di-Lạc Chơn Kinh, chúng ta thấy 3 vị Phật nầy (Brahma Phật, Civa Phật, Christna Phật), đều ngự nơi từng Trời Hỗn Nguơn Thiên, cùng với các vị Phật : Thanh Tịnh Trí Phật, Diệu Minh Lý Phật, Phục Tưởng Thị Phật, Diệt Thể Thắng Phật, Phục Linh Tánh Phật, cùng với vô số các vị Phật khác, có biết có cảm, có sanh có tử, biết rõ cái khổ do nghiệp chướng gây ra, luân hồi chuyển kiếp hóa sanh ra, có khả năng đi khắp các cõi trần cứu giúp tất cả chơn linh được trở về ngôi vị Phật.
Ba vị Phật nầy rất được đạo Bà-La-Môn (nay gọi là Ấn Độ giáo) tôn sùng. Theo Đạo Bà-La-Môn, nhiệm vụ 3 vị Phật nầy là :
- Brahma Phật là vị Phật Sáng tạo ra CKVT và vạn vật
- Civa Phật là vị Phật Tiến hóa, hủy diệt cái cũ và tạo ra cái mới để tiến hóa. Ngài có nhiệm vụ dạy bảo loài người trở về con đường lành, tiến hóa theo Thiên lý.
- Christna Phật là vị Phật Bảo tồn, luôn luôn che chở cứu giúp người đời.
Theo Giáo lý của Đạo Cao Đài, Tam Thế Phật có nhiệm vụ điều khiển 3 Nguơn : Thượng Nguơn, Trung Nguơn, và Hạ Nguơn.
1. Thượng Nguơn : là Nguơn Tạo hóa, ấy là Nguơn Thánh đức, tức là Nguơn Vô tội, do Đức Phật Brahma điều khiển. Ngài là ngôi thứ nhứt, tượng trưng ngôi Thánh đức, thuộc Cơ Sanh hóa, ấy là Đấng Sáng tạo ra Vũ trụ và vạn vật.

2. Trung Nguơn : là Nguơn Tấn hóa, ấy là Nguơn Tranh đấu, tức là Nguơn Tự diệt, do Đức Phật Civa điều khiển. Ngài đứng trên mình con rắn 7 đầu (tượng trưng Thất Tình của con người) để chế ngự Thất Tình, khiến cho nhơn loại khỏi bị Thất Tình cám dỗ, Lục dục khiến sai, thoát khỏi họa tranh đấu tự diệt.
Đức Civa Phật cầm Ống sáo thổi, như muốn dùng âm thanh trầm bổng cảm hóa tâm hồn nhơn loại để thức tỉnh hồi tâm, lo việc tu hành. Đức Civa Phật là ngôi thứ nhì, tượng trưng phần Âm Dương, Cơ sanh và Cơ diệt.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo : " Bần đạo cũng nên chỉ rõ Đức Phật Mẫu đến tại thế gian nầy, đã tượng trưng bên Ấn Độ, Phật giáo Ấn Độ gọi Ngài là Civa Phật, là cái hình ở trên Bát Quái Đài, chúng ta để trên nóc đó, thấy có "Tinh nhũ" nơi ngực Ngài đó.
Hồi buổi Chí Tôn phân định, phân tánh của Ngài, lấy Khí, tức nhiên là Ngài, dùng cái linh pháp của Ngài biến tướng ra, Phật Mẫu thuộc về Âm, Chí Tôn thuộc về Dương. Âm Dương hiệp lại biến hóa ra CKVT và sanh ra vạn vật.
Đức Civa Phật, Ấn Độ làm một cái hình, phân nửa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông, bởi hồi đó, con người chưa phân rõ chắc chắn Nam Nữ, Âm Dương. Đức Civa trong huyết khí tức nhiên là huyết, còn Chơn linh đào tạo Chơn thần là Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn là Phật, Đức Phật Mẫu là Pháp, Pháp mới sanh ra vạn vật. Vạn vật ấy do Tinh mà ra, tức nhiên là Tăng. Thần tức nhiên là Đức Chí Tôn, Thần phân định Khí, Khí mới phát sanh ra Tinh. Phật là Đức Chí Tôn, Pháp là Civa Phật tức Phật Mẫu, Tăng là vật loại trên CKVT nầy.
Ấy vậy, Đạo Phật thờ Phật Mẫu mà không biết. Dầu không thờ mà Đức Phật Mẫu vẫn ngồi từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, tức nhiên là Đấng tạo ra Vạn linh đó vậy."

3. Hạ Nguơn : là Nguơn Bảo tồn, ấy là Nguơn Tái tạo, tức là Nguơn Qui cổ, do Đức Phật Christna điều khiển. Ngài là ngôi thứ ba, tượng trưng cuộc tuần hoàn, tiên tri cho nhơn loại biết việc trí xảo thuộc cơ Tranh đấu, cũng là cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển, khởi xướng Thượng Nguơn Tứ Chuyển.
Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp : " Dầu cho những người nào chết nơi chơn trời góc bể đi nữa mà đầy đủ công nghiệp, tâm đức thì Phật Christna cũng lãnh lịnh Đức Chí Tôn tuần du trên mặt thế mà rước Chơn linh ấy về ngay Bạch Ngọc Kinh."

Tóm lại, Đạo Cao Đài tạo tượng Tam Thế Phật nơi nóc Bát Quái Đài Tòa Thánh là để tiêu biểu sự tuần hoàn trong định luật Tiến hóa của CKVT, khởi đi từ Thượng Nguơn, rồi dần qua Trung Nguơn, Hạ Nguơn, để trở lại Thượng Nguơn của Chuyển kế tiếp. Ba vị Phật ấy thay phiên nhau điều khiển 3 Nguơn, làm cho CKVT luôn luôn tiến hóa.

20 . Bát Bửu - Dàn Bát Bửu

Bát Bửu là 8 món quí báu, đó là 8 bửu pháp (hay Bửu bối) của Bát Tiên. Mỗi vị Tiên có thể luyện thành nhiều bửu pháp. Các Bửu pháp của Bát Tiên có thể kể ra sau đây :
. Đại Tiên Lý Thiết Quả có 2 Bửu pháp : Gậy sắt và Hồ lô.
. Hớn Chung Ly có 2 Bửu pháp là : Quạt Long tu và Phất chủ.
. Lữ Đồng Tân có 3 Bửu pháp là : Gươm, Phất chủ, Ống Tiêu.
. Lam Thể Hòa có Đôi Ngọc bản (Cặp Sanh ngọc).
. Trương Quả Lão có : Con lừa giấy và Cây gậy.
. Hà Tiên Cô có Bửu pháp là Bông sen.
. Hàn Tương Tử có : Giỏ Hoa Lam và Ống sáo.
. Tào Quốc Cựu có : Ngọc Thủ quyển.
Mỗi Bửu pháp của Bát Tiên được làm tượng trưng hình bằng đồng thau, được một con thú chở trên lưng, được đánh bóng sáng loáng, gắn vào một cái cán bằng gỗ dài và sơn màu đỏ. Tám cây có gắn Bát bửu của Bát Tiên được cắm vào trong một cái giá, thành một hàng dài, gọi là Dàn Bát bửu.
Có 2 Dàn Bát bửu giống nhau đặt ở cấp thứ 8 CTĐ, dọc theo 2 hàng cột rồng xanh. Trên Dàn Bát bửu có đặt xen kẽ 3 cây lọng. Kể từ trong ra ngoài, Dàn Bát bửu hiện nay đặt tại Tòa Thánh gồm có theo hình vẽ sau đây :
l . Cái bầu Hồ lô có con Nai chở : Bửu pháp của Lý Thiết Quả.
2 . Quạt và Phất chủ có con Chim chở : Bửu pháp Hớn Chung Ly.
3 . Gươm và Phất chủ có con Chim chở : Bửu pháp Lữ Đồng Tân.
4 . Thủ quyển bằng ngọc có con Nai chở : Bửu pháp Tào Quốc Cựu.
5 . Cây Gươm có con Phụng chở : Bửu pháp của Hàn Tương Tử.
6 . Hoa sen có Rùa chở : Bửu pháp của Hà Tiên Cô.
7 . Cây Gậy có Cá chở : Bửu pháp của Trương Quả Lão.
8 . Cặp Ngọc bản (Cặp Sanh ngọc) có con Công chở : Bửu pháp của Lam Thể Hòa.

Công dụng của Dàn Bát Bửu :
- Về phương diện hình thức, Dàn Bát bửu với 8 Bửu pháp của Bát Tiên đặt thành 2 hàng dài trước chỗ thờ phượng, thay thế 2 Dàn Lỗ bộ thường thấy, để làm tăng thêm vẻ uy nghi trang trọng của nơi thờ phượng.
- Về phương diện thiêng liêng, 8 Bửu pháp của Bát Tiên trấn giữ ngôi thờ Đức Chí Tôn, không cho Tà Quái xâm nhập, vì hễ xâm nhập vào thì bị 8 Bửu pháp nầy đánh đuổi.

21. Bát Tiên

Bát Tiên là 8 vị Tiên ở 8 động đá của núi Bồng Lai trên đảo Bồng Lai nơi cõi Thiêng liêng.
Bát Tiên gồm 8 vị Tiên kể tên ra sau đây :
1. Lý Thiết Quày, (Thiết Quày là cây gậy sắt) nhưng thường gọi là Lý Thiết Quả. 2. Hớn Chung Ly. 3. Lữ Động Tân, (Động là cái hang núi, Tân là khách), nhưng thường gọi là Lữ Đồng Tân. 4. Lam Thể Hòa. 5. Trương Quả Lão. 6. Hà Tiên Cô. 7. Hàn Tương Tử. 8. Tào Quốc Cựu.
Trên tấm diềm phía bên Nữ phái của Bát Quái Đài, có đắp tượng Bát Tiên trên những cụm mây lành 5 sắc. Trong Bát Tiên, có 4 vị cỡi thú bay và 4 vị cỡi thú chạy. Sau đây là sự tích của Bát Tiên, viết theo Truyện Đông Du Bát Tiên :

1. Lý Thiết Quả :
Ngài họ Lý, tên là Huyền, hiệu là Ngưng Dương, nên thường gọi là Lý Ngưng Dương, diện mạo nghiêm trang, tánh hạnh trong sạch, học rộng biết nhiều, không mộ công danh, muốn đi tu Tiên. Biết được Lý Lão Tử đang dạy Đạo trên núi Họa Sơn, Lý Ngưng Dương liền tìm đến đó để xin học Đạo. Đi dọc đường, Ông ngâm thơ rằng:

Tâm tánh con người có thấp cao,
Khen lò Tạo Hóa đúc anh hào.
Làm trai biết thấu vòng vinh nhục,
Đặng chữ thanh nhàn khỏi chữ lao.

Khi đến núi Họa sơn thì Trời đã tối. Lý Ngưng Dương tự nhủ : Mình là đệ tử đi tìm thầy cầu học Đạo, lẽ nào ban đêm dám gõ cửa. Chi bằng ngủ đỡ trên bàn thạch trước cửa động, chờ Trời sáng sẽ xin vào ra mắt.
Ở trong động, Đức Lão Tử đang đàm đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, xảy có cơn gió thanh, Đức Lão Tử hỏi :
- Ông có biết gió ấy là điềm chi chăng ?
- Chắc có người gần thành Tiên đi tới.
- Ta đã rõ Lý Ngưng Dương gần thành Tiên và là Tiên đứng đầu sổ hết thảy.
Nói rồi, Đức Lão Tử truyền Tiên đồng ra mở cửa động mà đón. Xảy thấy một Đạo sĩ đang đứng trước động, liền hỏi :
- Có phải Lý Ngưng Dương đó không ?
- Sao Tiên đồng lại biết tên tôi ?
- Tôi vâng lịnh Lão Quân ra cửa đón anh.
Lý Ngưng Dương vô cùng mừng rỡ, chắc là mình có phước lớn nên mới được Lão Quân biết đến, liền đi theo Tiên đồng vào ra mắt, thấy Lão Quân có hào quang sáng lòa, dung nhan tươi nhuận, râu tóc bạc phơ, và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cũng vậy. Lý liền quì lạy ra mắt Lão Quân và Huyễn Khưu. Hai vị đáp lễ rồi mời ngồi. Lý Ngưng Dương quì thưa rằng : " Đệ tử tầm sư học Đạo, lẽ nào dám ngồi. Xin Thầy dạy bảo."
Lão Tử bảo : "Ngươi ngồi xuống rồi ta nói cho nghe :
Học Đạo cho minh,
Lẳng lặng làm thinh,
Đừng lo đừng rán,
Cho tịnh cho thanh,
Chẳng nên nhọc sức,
Chớ khá tổn tinh,
Giữ đặng tánh tình,
Là thuốc trường sanh."
Lý Ngưng Dương mừng rỡ lạy tạ Lão Quân.
Huyễn Khưu nói : "Ngươi có tên trong Sổ Tiên, đứng đầu hết thảy. Về tu như vậy thì thành."
Nói rồi truyền Tiên đồng đưa Lý Ngưng Dương ra khỏi động, xuống núi. Lý Ngưng Dương lạy tạ rồi theo Tiên đồng rời khỏi động, trở về quê, lên núi cất nhà bên động đá, tu theo lời Đức Lão Tử dạy, cứ tu luyện hoài như vậy. Chẳng bao lâu cảm thấy nhẹ mình, bước đi như gió.
Một người dân quê tên là Dương Tử lên núi thấy vậy cũng phát tâm mộ đạo, xin Lý Ngưng Dương thâu làm đệ tử , ở lại tu hành.
Ngày kia, Lý Ngưng Dương thấy hào quang chiếu vào cửa sổ, thì biết có Thần Tiên giáng hạ, rồi mau sửa soạn lên núi đón tiếp. Xảy nghe tiếng hạc, ngó lên thấy Đức Lão Tử và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cỡi hạc đáp xuống.
Lý Ngưng Dương lạy chào mừng rỡ.
Đức Lão Tử nói :
- Bữa nay tinh thần hơn trước. Ta nhắm ngươi xuất hồn đã đặng. Vậy 10 ngày nữa, ngươi sẽ xuất hồn đi dạo các nước với ta.
Nói rồi liền từ giã, và 2 vị cỡi hạc bay trở về núi.
Cách 9 ngày sau, Lý Ngưng Dương kêu học trò là Dương Tử đến dặn rằng : " Thầy sẽ xuất hồn đi thiếp 7 ngày, ngươi phải gìn giữ xác ta cẩn thận. Nếu sau 7 ngày ta không trở về thì hãy thiêu xác."
Dặn dò xong, Lý Ngưng Dương nằm thiếp xuất hồn đi.
Khi Dương Tử giữ xác thầy được 6 ngày thì có người nhà đến báo tin rằng : Mẹ anh bịnh nặng, đang hấp hối, trông anh mau về cho mẹ thấy mặt mà tắt hơi. Dương Tử khóc lớn than rằng : "Thầy đi thiếp chưa về, nếu ta đi, lấy ai giữ xác thầy, bằng không đi thì làm sao thấy mặt mẹ, ôi khổ biết chừng nào ! "
Người nhà liền hỏi rõ Dương Tử về sự đi thiếp của thầy, rồi nói : " Xác người chết đã 6 ngày, ngũ tạng thảy đều hư hết, lẽ nào sống lại bao giờ. Vả lại, thầy có dặn 7 ngày thì thiêu xác, chắc thầy đã thành Tiên. Nay 6 ngày mà thiêu xác thầy cũng không lỗi. Mau thiêu xác thầy rồi về gặp mặt mẹ."
Dương Tử bần dùng không nỡ, nhưng túng thế cũng phải nghe lời, liền đặt nhang đèn, hoa quả tế thầy, rồi thiêu xác. Vừa khóc vừa đọc bài kệ sau đây:

Mẹ bịnh ngặt hầu kề, Thầy đi thiếp chưa về,
Mẫu thân tình một thuở, Sư phụ nghĩa nhiều bề,
Vẹn thảo nên quyền biến, Lỗi nghì luống ủ ê,
Hồn linh xin chứng chiếu, Khoái lạc chốn non huê.
Thiêu xác thầy xong, Dương Tử liền gấp rút chạy về nhà, vừa đến cửa nhà thì mẹ vừa tắt thở. Rủi ơi là rủi ! Lỗi hết 2 đàng, đã bất nghĩa với thầy, lại không tròn hiếu sự.
Nhắc lại, Lý Ngưng Dương, hồn xuất về chầu Đức Lão Tử, được thầy dẫn đi khắp các nước trên cõi thiêng liêng, đến núi Bồng Lai, gặp các Thánh Tiên, ra mắt đủ mặt, đến 7 ngày thì xin về. Đức Lão Tử cười nói rằng :
- Hãy nghe bài kệ nầy thì rõ :

Tịch cốc ăn lúa mì, Đường quen xe phơi phới,
Muốn tìm cốt cách xưa, Lại gặp mặt mày mới.

Lý Ngưng Dương nghe bài kệ của thầy thì ghi nhớ chớ không hiểu ngụ ý gì, nhưng cũng lạy thầy từ tạ ra về. Khi hồn về tới nhà thì không thấy xác , không thấy học trò, coi lại thì xác đã ra tro bụi.
Lý Ngưng Dương rất giận đứa học trò bất nghĩa nầy. Hồn bay phưởng phất xuống chơn núi, gặp một thây ăn mày nằm dựa bên đường, kế bên cây gậy, có một chân cùi.
Lý Ngưng Dương nghĩ lại bài kệ của thầy cho, chợt hiểu, biết phận mình phải vậy chớ không nên oán trách học trò, liền nhập hồn vào xác ăn mày, rồi ngậm nước phun vào gậy tre hóa ra gậy sắt. Bởi cớ đó, người đời không biết họ tên ông ăn mày nầy, thấy cầm cây gậy sắt, nên gọi là Ông Thiết Quày, sau gọi trại ra là Thiết Quả.
Sở dĩ Đức Lão Tử không cho hồn Lý Ngưng Dương về kịp trước khi học trò thiêu xác là vì Đức Lão Tử muốn Lý Ngưng Dương bỏ xác phàm cho tuyệt sự hồng trần mà về luôn nơi Tiên cảnh, còn xác ăn mày là mượn tạm để tu, chớ muốn biến hóa thế nào cũng được.
Thiết Quả đánh tay biết rõ các việc đã xảy ra với đứa học trò mình là Dương Tử. Thiết Quả liền đem bầu linh dược đến cứu tử mẹ nó, kẻo đứa học trò mình tức tối ân hận cả đời tội nghiệp. Đến nơi thấy Dương Tử đang ôm quan tài mẹ khóc ngất, rồi rút gươm ra định tự vận. Thiết Quả kịp đến ngăn cản và nói :
- Ngươi có lòng thành nên Trời khiến ta đến đây đem bầu linh dược cứu tử mẹ ngươi. Vậy ngươi mau giở nắp quan tài ra, cạy miệng mẹ ngươi ra mà đổ thuốc.
Nói rồi lấy ra một hoàn thuốc đưa cho Dương Tử. Dương Tử làm y lời, giây lát, bà mẹ hắt hơi lấy lại hơi thở, rồi ngồi dậy bước ra khỏi quan tài, xem có vẻ mạnh khỏe hơn trước. Cả nhà vô cùng mừng rỡ. Dương Tử quì lạy Thiết Quả, thưa rằng :
- Cảm tạ Tiên ông, xin Tiên ông cho biết danh hiệu.
- Ta đây là Lý Ngưng Dương, là thầy của ngươi. Bởi ngươi thiêu xác ta nên hồn ta phải nhập vào xác ăn mày nầy. Biết rõ việc làm của ngươi, nên ta không chấp, lại đến cứu tử mẹ ngươi để ngươi nuôi mẹ phỉ tình. Ta tặng thêm cho ngươi một hoàn thuốc nữa để ngươi uống vào sống lâu nuôi mẹ. Thầy trò sẽ gặp lại sau nầy.
Dương Tử cúi đầu lạy tạ thầy, chưa kịp hỏi thăm thì Thiết Quả đã biến mất.
Thiết Quả biến hóa về núi Họa sơn, hầu thầy. Đức Lão Tử cười nói :
- Vậy mới chắc thành Tiên, không lo trở lại trần thế.
Nói rồi truyền dọn tiệc ăn mừng Thiết Quả.

2. Hớn Chung Ly :
Hớn Chung Ly, họ là Chung Ly đời nhà Hớn (Hán), tên là Quyền, hiệu là Vân Phòng, làm Đại Tướng trong triều đình nhà Hớn.
Khi mới sanh, Chung Ly Quyền có điềm khác lạ, trên nóc nhà hào quang sáng đỏ, ai nấy đều kinh. Lớn lên thành một vị tướng quân, võ nghệ như thần, oai danh quá cọp.
Khi ấy triều đình nhà Hớn nhận được sớ khẩn cấp của tướng trấn ải báo có binh Phiên do Bất Dực thống lãnh đánh vào ải rất nguy kịch, xin triều đình cử binh cứu viện.
Xem xong, Hớn Đế rất kinh hãi, liền hạ chiếu sai Đại Tướng Chung Ly Quyền làm Nguyên soái, Phùng Dị làm Phó Tướng, kéo đại binh 50 vạn gấp rút đi ra quan ải cứu viện.
Nguyên Soái Chung Ly tế cờ, hiểu dụ tướng sĩ xong thì kéo quân đi ngay tới ải Kỳ Thủy đóng trại. Rạng ngày hôm sau, 2 bên ra trận. Bất Dực đánh không thắng nổi Chung Ly, quân Phiên bại trận chạy dài. Tin chiến thắng liên tiếp báo về triều đình, danh tiếng Nguyên soái Hớn Chung Ly vang dậy.
Lúc đó, Lý Thiết Quả đang ở Cung Tiên, đánh tay biết Hớn Chung Ly đã thắng quân Phiên nhiều trận, uy danh lừng lẫy, và lại biết kiếp trước của Hớn Chung Ly là Tiên coi sổ bộ ở Thượng giới, phạm tội bị đọa trần, nay mê việc chiến tranh mà không lo tu hành, biết chừng nào trở về ngôi vị cũ. Lý Thiết Quả muốn độ Chung Ly, nhưng nếu để Chung Ly thắng trận hoài, triều đình sẽ gia phong quan tước, thì bị mê đắm trong vòng phú quí vinh hoa, nên Thiết Quả định làm cho Chung Ly bại trận thì mới độ được. Tính rồi liền hóa ra một Ông già bay xuống dinh Phiên Bất Dực.
Lúc bấy giờ Bất Dực đang ngồi trong dinh, thở vắn than dài, không tìm được kế chi để đánh lại binh Hớn. Xảy thấy quân vào báo : Có một ông già cốt cách Thần Tiên xin vào ra mắt.
Bất Dực lấy làm lạ, liền cho mời vào, hỏi :
- Lão trượng đến tôi có việc gì ?
- Tôi đến đây bày cho Tướng quân kế thắng binh Hớn. Đêm nay tôi biết bên dinh Hớn có hỏa hoạn lớn, Tướng quân thừa dịp nầy kéo quân vào cướp dinh thì chắc thắng 10 phần.
Ông già nói xong liền từ giã đi mất.
Bất Đực, lòng bán tín bán nghi, sợ lầm kế của Nguyên soái Chung Ly, nhưng cũng truyền lịnh chuẩn bị canh hai đến cướp dinh Hớn. Nếu thấy dinh Hớn bị hỏa hoạn như lời của ông già thì sẽ tràn quân đánh vào, bằng không thì rút binh về.
Bên dinh Hớn, tuy vừa mới thắng quân Phiên, nhưng cũng không dám kiêu, cắt đặt canh phòng ban đêm rất cẩn mật vì sợ cướp dinh.
Khoảng giữa canh ba, Lý Thiết Quả hóa phép đốt dinh Hớn, ngọn lửa cháy lan rất mạnh, binh lính không dập tắt nổi. Bất Dực thấy đúng thời cơ, liền kéo đại binh đánh vào. Chung Ly Nguyên soái cầm giáo lên ngựa đánh với Bất Dực, thấy binh Hớn hoảng sợ chạy hết thì cả kinh, quày ngựa bại tẩu. Bất Dực muốn bắt sống Chung Ly Nguyên soái nên buông tên nhắm vào con ngựa của Chung Ly đang cỡi, làm cho ngựa trúng tên té nhào, may có Phó tướng Phùng Dị chạy đến tiếp cứu, bắt một con ngựa khác đưa cho Nguyên soái. Hai người bại tẩu, ngó lại dinh Hớn bị lửa thiêu rụi, binh Hớn bỏ chạy tán loạn. Nguyên soái tức quá té nhào xuống ngựa chết giấc. Khi tỉnh lại than rằng :
- Ta làm Đại Tướng vâng chỉ đánh Phiên, ngỡ là cứu nước rạng danh, nào hay Trời khiến ta thảm bại thế nầy, chẳng những mắc tội với vua, lại còn hổ mặt với triều thần, thiệt là Trời muốn giết ta, ta còn sống làm chi nữa.
Than rồi, Hớn Chung Ly toan rút gươm tự vận. Phùng Dị cứ mãi khuyên can. Xảy thấy binh Phiên kéo đến truy nã. Phùng Dị cản hậu, Hớn Chung Ly chạy trước. Chạy tới sáng thì lạc mất, Hớn Chung Ly đến một nơi không có nhà cửa dân chúng, phía trước là núi, vừa đói vừa khát, tiến thoái lưỡng nan. Xảy thấy một ông sãi mắt xanh chống gậy đi tới. Chung Ly mừng rỡ bước đến thưa rằng :
- Tôi là Hớn Nguyên soái Chung Ly Quyền đem quân đi đánh Bắc Phiên, bị bại trận nên chạy lạc tới đây, xin thầy chỉ nhà cho tôi tá túc để trở về triều đình xin binh cứu viện.
Ông sãi gật đầu, dắt Chung Ly đi một đổi, chỉ một cái am, nói rằng :
- Đây là chỗ ở của Đông Huê Chơn nhơn, tướng quân vào đó mà tạm nghỉ.
Nói rồi đi thẳng như bay. Hớn Chung Ly đi đến am, nhìn thấy cảnh vật xinh tươi yên tĩnh, phải chỗ của Thần Tiên, đến trước cửa am, định gõ cửa thì nghe có tiếng ngâm thơ từ trong am vọng ra :
Việc thế chẳng đua tranh,
Thanh nhàn lánh lợi danh,
Thân nương theo động đá,
Tình gởi tại mây xanh.
Chơi dạo say mùi đạo,
Thong dong dưỡng tánh lành,
Hỏi ai là bạn tác ?
Gió mát với trăng thanh.

Lý Thiết Quả sắp đặt trước, giả làm sãi mắt xanh dẫn đường đến cho Đông Huê Chơn Nhơn dạy đạo.
Hớn Chung Ly nghe tiếng ngâm thơ vừa dứt thì có một ông Lão cốt cách Thần Tiên, chống gậy bước ra hỏi :
- Có phải là Chung Ly Quyền, Nguyên soái của Hớn triều chăng ?
Hớn Chung Ly kinh hãi thưa :
- Phải, tôi vâng chỉ đi đánh Phiên, chẳng may thất trận chạy lạc đến đây, xin Thượng Tiên từ bi cho tôi tá túc.
Đông Huê Chơn Nhơn mời vào am đãi cơm chay, nói :
- Công danh như bọt nước, phú quí như ngọn đèn trước gió. Từ xưa đến nay, giang sơn nhiều chủ, phước thọ ít người. Bần đạo chán cảnh đời đau khổ, tìm nơi u nhã, sống thanh nhàn, thoát vòng lợi danh trần tục. Tướng quân cũng nên thừa dịp nầy mà tu tâm dưỡng tánh, còn ham công danh phú quí làm chi.
Chung Ly Nguyên soái lắng nghe, liền tỉnh ngộ, muốn theo học đạo, hỏi :
- Tiên ông luyện phép chi mà đặng trường sanh ?
- Phép trường sanh có gì lạ đâu, lòng phải trống mà bụng phải đặc. Lòng trống là không lo lắng, để cho thơ thới như không; bụng đặc là không theo sắc dục, nguơn khí chẳng hao, được như vậy thì thành Tiên, trường sanh bất tử.
Hớn Chung Ly nghe vậy thì mừng rỡ thưa rằng :
- Nhờ Tiên ông chỉ dạy, tôi xin lạy để làm học trò. Xin thầy cho biết tôn hiệu.
- Ta là đạo sĩ thời thượng cổ, nay đã thành Tiên, hiệu là Đông Huê.
Nói rồi truyền cho Hớn Chung Ly phép tu luyện và dạy luôn cho Chung Ly phép chỉ đá hóa vàng, rồi tặng cho một cây gươm thanh long chém quỉ.
Hôm sau, Hớn Chung Ly lạy thầy xin trở về nhà lo thu xếp việc nhà. Đông Huê Chơn Nhơn chỉ đường về nhà. Khi Chung Ly ngó lại thì thấy thầy và nhà cửa đều biến mất, suy nghĩ biết là Tiên ông biến hóa để độ mình. Chung Ly Quyền tự đặt hiệu cho mình là Vân Phòng, rồi cải trang đi riết về nhà đặng thăm gia quyến.
Gia đình Chung Ly Nguyên soái hay tin thất trận và mất tích, tin tưởng là đã chết nên cả nhà than khóc để tang. Nay lại thấy Chung Ly Nguyên soái cải trang trở về thì thất kinh mừng rỡ, hỏi thăm cớ sự. Chung Ly thuật lại đủ hết. Gia quyến mừng rỡ nói rằng : Khi mới sanh ra có điềm lành, chẳng lẽ lại thác về nghiệp dữ.
Chung Ly Quyền không dám ở nhà lâu, sợ vua hay tin bắt tội, liền ăn mặc theo Đạo sĩ, từ giã gia quyến để đi tu, lại đến thăm anh ruột là Chung Ly Giảng, đang làm chức Lang Trung. Chung Ly Giảng ham mộ đạo đức đã lâu, nay nghe em nói, mừng rỡ bội phần, liền sắp xếp hành trang, cùng em trốn lên non tu luyện. Hai người nhắm núi Họa sơn đi tới. Dọc đường, thấy con cò trắng đang ngóng cổ, Vân Phòng nói với anh rằng :
- Con cò cổ dài, le le cổ ngắn, không thể nào cắt bớt mà can bổ cho bằng. Việc đời cũng vậy, kẻ ưa danh lợi, người mến thanh nhàn.
Nhờ có gươm phép của thầy trao tặng, Vân Phòng giết được cọp tinh đang phá hại dân làng, lại thấy dân quá nghèo khổ, nên dùng phép chỉ đá hóa vàng, lấy vàng phát cho dân.
Ngày kia, Đông Huê Chơn Nhơn tìm đến để dạy đạo thêm, truyền thêm phép tu luyện cho 2 người. Chung Ly Vân Phòng đi dạo chơi đến núi Tứ Hạo, thình lình một tiếng sấm nổ vang, núi nứt ra một cái khe. Vân Phòng thấy lạ, liền tiến vào khe, gặp một cái hộp đá có một cuốn kinh, liền lấy kinh đem ra ngoài xem thì khe núi biến mất, vách núi liền lại như cũ. Vân Phòng thầm biết là Thần Tiên đã ban kinh cho mình tu luyện, nên càng cố công. Chẳng bao lâu thì đạt đến mức cao siêu.
Bỗng nghe tiếng nhạc vang Trời, nhìn lên thấy mây lành năm sắc, Tiên hạc bay xuống đáp trước mặt Vân Phòng, nói tiếng người rằng : "Thượng Đế sai tôi xuống rước Vân Phòng trở về phục chức cũ ở Thượng giới,"
Vân Phòng liền đưa sách lại cho anh, dặn dò và giã từ, cỡi hạc lên Trời. Chung Ly Giảng ở lại tu theo sách đó, lâu ngày cũng thành Tiên, được Vân Phòng cỡi hạc xuống rước.

3 . Lam Thể Hòa :
Lam Thể Hòa là Xích Cước Đại Tiên đầu thai xuống trần, nên còn nhớ tánh cũ, thường mặc áo rộng xanh, buộc dây lưng đen, một chân đất, một chân mang giày, mùa hè mặc áo bông mà không biết nóng nực, mùa đông chỉ mặc áo chiếc mà không biết lạnh, thật lạ lùng.
Thường ngày, Ông Lam Thể Hòa hay cầm cặp sanh dài 3 thước (thước Tàu), đi ra ngoài chợ, vừa ca vừa nhịp, để xin tiền bố thí. Những bài ca do Ông tự đặt ra đều có ý khuyên đời bỏ dữ theo lành. Tiền xin được, Ông cột vào dây lưng, vừa đi vừa ca, khi tiền rớt cũng không thèm ngó lại, khi lại dùng tiền nầy bố thí lại cho người nghèo khổ.
Những trẻ nhỏ có dịp thấy Ông Lam Thể Hòa, đến chừng lớp trẻ nầy lớn lên rồi già (tức là 60 hay 70 năm sau) thì vẫn gặp ông Lam giống y như thuở trước, vẫn ăn mặc như trước, vừa đi vừa ca vừa nhịp, không già như người thường.
Về sau, Ông Lam Thể Hòa gặp Lý Thiết Quả, hai người đàm đạo trên lầu ở quận Hào Lương. Kế nghe tiếng nhạc vang Trời, đôi chim hạc từ trên không đáp xuống, rước 2 vị Tiên về Thượng giới.
Khi cỡi hạc, Ông Lam bỏ cặp sanh rơi xuống đất, hóa thành ngọc, giây phút biến mất.
Trong Bát Tiên, Ông Lam Thể Hòa là thuần hậu nhứt.

4 . Trương Quả Lão :
Trương Quả Lão gốc là một con dơi trắng hồi tạo Thiên lập Địa, tu luyện lâu năm, hóa hình người, sau đến núi Trung Điều ở Hàng Châu, học đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, làm bạn với Lý Thiết Quả.
Home               1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] [ 7 ]  8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét