Lịch Sử Kiến Trúc Tòa Thánh Tây Ninh - 5 / 8 (HT. Nguyễn văn Hồng)


Tử Nha nói rồi cầm gươm toan chém, 5 con yêu khóc lóc van xin :
- Chúng tôi ra công tu luyện nên mới được như ngày nay, xin Tiên Ông tha mạng chúng tôi làm phước, chúng tôi hứa từ đây về sau chẳng dám làm càn nữa.
- Thôi ta cũng dung tha cho chúng bây một lần làm phước, nhưng chúng bây không được ở đây nữa, phải đến núi Kỳ Sơn tạm trú, chờ lúc chiến chinh ra cho ta sai khiến rồi ta sẽ phong Thần cho.

Dị Nhơn cất nhà được bình an, nên mừng rỡ nói :
- Hiền đệ có tài phép như vậy thật không uổng công tu luyện 40 năm. Hiền đệ lại có tài coi bói, nên tôi dành cho Hiền đệ một căn phố nơi chợ Triều ca để Hiền đệ mở tiệm coi bói, ngày đêm ở đó luôn.

Ngọc Mỹ Nhơn thử quẻ Khương Thượng :
Tử Nha nghe lời Tống Dị Nhơn mở tiệm coi bói, bói đâu trúng đó, nổi tiếng là vị Thánh nhân, dân chúng tấp nập đến xem bói, thâu được rất nhiều tiền giao cho Mã thị. Mã thị vui mừng và trọng chồng hết sức, không còn chê bai hay đay nghiến chồng như trước nữa.
Bói được nửa năm thì xảy ra vụ Tỳ Bà Tinh.
Tỳ Bà Tinh là một con yêu do cây đàn Tỳ Bà bằng đá hấp thụ khí Âm Dương của Trời Đất qua hàng ngàn năm biến thành. Hôm đó, Tỳ Bà Tinh đi thăm Đắc Kỷ trở về, lúc bay ngang qua căn phố của Tử Nha thấy thiên hạ tấp nập vào xem bói, ai cũng nói thầy bói linh lắm. Tỳ Bà Tinh không tin, cho là chuyện lừa bịp, nên biến hình thành một người đàn bà đẹp gọi là Ngọc Mỹ Nhơn, vào tiệm để thử quẻ Khương Thượng.
Thần nhãn của Khương Thượng thấy rõ người đàn bà nầy là một con yêu quái hiện hình, nên định giết đi để trừ hại cho dân, liền bảo Ngọc Mỹ Nhơn đưa bàn tay ra để xem bói.
Tử Nha nắm lấy cổ tay, ấn chặt vào mạch môn, dùng phép âm, không cho yêu quái biến hình. Dân chúng thấy vậy tưởng Tử Nha nắm tay con gái làm chuyện dâm đảng nên la lối. Tử Nha đáp :
- Đây là con yêu tinh nguy hiểm chớ không phải là người đàn bà bình thường, cần phải giết nó để trừ hại cho dân.
Nói rồi lấy nghiên mực đập vào đầu Ngọc Mỹ Nhơn, máu chảy đỏ ối. Ngọc Mỹ Nhơn giãy giụa lung tung nhưng không biến đi được. Dân chúng thấy vậy rất phẫn nộ, đi báo quan. Lúc ấy Thừa Tướng Tỷ Can cỡi ngựa đi qua. Dân chúng kéo cổ Tử Nha ra cho Thừa Tướng xét xử. Dân chúng nói :
- Có lão thầy bói tên là Khương Thượng Tử Nha làm chuyện phạm pháp, lợi dụng nghề coi bói nắm tay đàn bà con gái. Cô ả không chịu, lão thầy bói làm ngang, lấy nghiên mực đánh nàng đổ máu.
Tỷ Can nghe nói vậy thì nổi xung mắng Tử Nha :
- Trên đầu ngươi đã hai thứ tóc, sao không biết xét mình mà làm chi chuyện xấu xa như vậy ?
Tử Nha thưa rằng :
- Tôi là người có học, lẽ đâu không biết phép vua. Dầu có lì lợm đến đâu cũng không thể đối xử với đàn bà như vậy. Nhưng quả thật, người đàn bà nầy là yêu quái trá hình. Tôi thấy tại Triều ca có khí yêu quá lộng, e không trừ sớm thì nước nhà không yên. Xin Thừa Tướng xét lại cho.

Tỷ Can thấy người đàn bà nằm mê man như chết, nói : - Người đàn bà nầy bị ngươi đánh chết rồi, ngươi tiếc gì mà còn nắm tay ? Tử Nha đáp :
- Nó làm bộ yêu đó. Nếu tôi thả tay ra, nó liền biến mất thì còn đâu bằng cớ. Dầu Thừa Tướng không xét, chém đầu tôi, tôi cũng không dám thả tay ra.
Tỷ Can bảo quan địa phương giải Tử Nha và người đàn bà đến trước Đền vua, rồi vào tâu với vua Trụ. Vua Trụ truyền dẫn Tử Nha vào. Tử Nha vẫn nắm tay kéo thây Ngọc Mỹ Nhơn theo, quì trước bệ rồng tâu rằng :
- Tôi là Khương Thượng, quê ở Hứa Châu, trước đây có học phép Tiên nên biết rõ được yêu quái. Nay tôi đang xem bói, gặp con yêu nầy giả hình vào quấy rối, nên bắt nó dâng cho Bệ hạ trừ họa cho dân.
Trụ Vương hỏi :
- Nó là người đàn bà rõ ràng, sao ngươi nói nó là yêu quái ?
Lúc ấy, Đắt Kỷ ở trong cung biết chuyện, than thầm : Khổ quá ! Sao em không chịu về thẳng vào động mà lại ghé thử quẻ Khương Thượng làm gì cho phiền. Để chị báo thù cho.
Khương Thượng tâu với Trụ Vương :
- Con mắt người thường không thể phân biệt được yêu quái hay người thường. Xin Bệ hạ cho tôi dùng lửa đốt nó thì nó sẽ hiện nguyên hình cho Bệ hạ thấy.
Trụ Vương bằng lòng. Tử Nha hoạ bùa trên xoáy của Ngọc Mỹ Nhơn để nó không biến đi được, rồi quăng vào lửa. Lửa đốt ngót 2 giờ mà xác con yêu vẫn còn nguyên, không hề bị cháy. Mọi người lấy làm lạ, có phần tin lời của Khương Thượng nói nó là yêu quái, vì xác người thường thì đã cháy thành tro rồi.
Trụ Vương sai Tỷ Can hỏi xem nó là yêu quái gì ?
Tử Nha nói :
- Để tôi bắt nó hiện hình cho mọi người thấy.

Nói xong, Tử Nha dùng lửa Tam Muội trong con mắt và lỗ mũi phun ra. Tỳ Bà Tinh thất kinh, lồm cồm ngồi dậy nói lớn :
- Ta không cừu oán chi với ngươi, sao ngươi dùng lửa Thần đốt ta ?
- Ngươi là yêu quái tác hại mọi người, ta giết ngươi để cứu dân chớ đâu phải thù oán.
Vua Trụ và triều thần thấy người đàn bà đã chết, lửa củi đốt không cháy, lại ngồi dậy trong lửa nói được thì thất kinh hồn vía, hoảng sợ thối lui. Tử Nha tâu :
- Xin Bệ hạ lui vào trong cho mau kẻo sấm nổ.
Đợi cho vua Trụ vào khuất bên trong, Tử Nha vỗ hai tay, tức thì sấm nổ vang, yêu tinh liền hiện nguyên hình là cây đàn Tỳ Bà bằng ngọc thạch rất đẹp nằm giữa sân chầu.
Hoạn quan vào cung báo cho vua Trụ biết.
Vua Trụ hỏi Đắc Kỷ :
- Đàn Tỳ Bà bằng ngọc thạch làm sao thành tinh được?
Đắt Kỷ rất đau xót, nhưng cố cứu Tỳ Bà Tinh, nói :
- Xin Bệ hạ cho thần thiếp cây đàn Tỳ Bà ấy để thần thiếp đờn cho Bê hạ nghe.
Trụ Vương sợ đàn Tỳ Bà thành tinh trở lại nên không muốn đem vào cung. Đắt Kỷ nói :
- Yêu tinh đã chết thành cây đàn vô tri, làm sao thành tinh trở lại được, Bệ bạ chớ lo.
Vua Trụ nghe theo, truyền lấy cây đàn Tỳ Bà giao cho Đắc Kỷ. Đắc Kỷ đem đàn Tỳ Bà đặt trên lầu Trích Tinh để cho hấp thụ khí Âm Dương của Nhựt Nguyệt trong 6 năm, Tỳ Bà Tinh sẽ hiện hình trở lại thành người.
Đắc Kỷ lập kế trả oán Khương Thượng, nên tâu với vua Trụ :
- Khương Thượng có tài giỏi trừ được yêu quái, đáng được trọng dụng, xin Bệ hạ phong tước cho Khương Thượng
Trụ Vương truyền đòi Khương Thượng vào triều, phong cho chức Tư Thiên, coi việc Thiên văn. Tử Nha vâng mạng lãnh chức và lãnh áo mão làm quan.

Tử Nha trở về nhà, Dị Nhơn thấy áo mão xuê xang thì mừng lắm, nhứt là Mã thị, nay thấy chồng làm quan vinh hiển thì trọng chồng hết sức, mở tiệc ăn mừng.
Đắc Kỷ luôn luôn tìm cách hãm hại Khương Thượng để trả thù cho Tỳ Bà Tinh. Ngày kia, Đắc Kỷ vẽ một họa đồ rất công phu xây cất Lộc đài theo kiểu cảnh Tiên ở Bồng Lai, để vui thú cùng Trụ Vương, lại có thể trả thù được Khương Thượng. Đắc Kỷ tiến cử Khương Thượng làm chức Đốc Công xây cất Lộc đài. Vua Trụ nghe theo, đòi Khương Thượng vào dạy việc. Khương Thượng được lịnh liền bói một quẻ thì biết rõ tai họa sắp đến với mình.
Khương Thượng rất có cảm tình với Thừa Tướng Tỷ Can, nên viết mấy lời tiên tri bỏ vào bao thơ niêm kín lại, đem đến trao cho Tỷ Can và nói :
- Nếu sau nầy Ngài có điều nguy hiểm, Ngài nên theo lời dặn trong thơ nầy mà làm thì may ra tránh khỏi tai vạ. Đó là tôi đền ơn Ngài vậy.
Tử Nha vâng chiếu vào triều yết kiến Trụ Vương, thấy Trụ Vương đang ngồi uống rượu với Đắc Kỷ. Vua phán :
- Nay Trẫm muốn cất Lộc đài, nhưng trong triều xem ra không ai đủ tài giúp Trẫm. Khanh thay mặt Trẫm hoàn thành Lộc đài thì công của Khanh chẳng nhỏ.
Tử Nha tiếp lấy họa đồ Lộc đài xem thì thấy công trình nầy rất xa xí, dùng rất nhiều châu ngọc để trang trí, chạm trổ tinh vi, bèn nghĩ thầm : Triều ca là chỗ ở tạm của ta, lẽ đâu ta hùa theo hôn quân để hại dân hại nước. Chi bằng ta tìm lời thoái thác, không được thì bôn tẩu, chẳng để lụy thân.
Tử Nha tâu :
- Lộc đài cao 49 thước, dùng rất nhiều châu ngọc gắn khắp nơi, đâu đâu cũng đều chạm trổ tinh vi. Muốn hoàn thành đài nầy, ít nhất phải làm trong 35 năm.
Đắc Kỷ bắt bẻ :
- Lão thầy bói nầy quen tánh nối dối, cất một cái đài, dầu lâu đến đâu cũng không quá 3 năm. Tử Nha có ý khi quân, không muốn làm tôi Bệ hạ, xin đem xử bào lạc cho rồi.
Trụ Vương còn đang lưỡng lự thì Tứ Nha tâu tiếp :
- Tôi xin Bệ hạ chớ nghĩ đến việc hưởng hết lạc thú ở đời mà quên cái khổ của muôn dân. Trong lúc kho tàng trống rỗng, dân gặp hạn hán, lúa không đủ ăn, tôi trung chán nãn triều chánh, lũ nịnh lợi dụng tình thế gièm pha, cái nguy vong của nước nhà thấy rõ. Xưa vua Kiệt lập cung Quỳnh Dao mà mất nước, nay Bệ hạ lập Lộc đài là đi theo con đường ấy, e cơ nghiệp sẽ về tay một chư Hầu khác. Tuy đã muộn, nhưng cũng còn có thể cứu nguy được nếu Bệ hạ biết sửa mình, chinh phục nhơn tâm, lo cho xã tắc. Tôi tri ân Bệ hạ, nên có lời tâm huyết, không nỡ lấy mắt nhìn.
Vua Trụ nổi giận mắng :
- Đứa già miệng dám mắng vua, nếu không trừng phạt thì còn ai kính nể Trẫm nữa. Quân bây, hãy đem bào lạc đốt lão gìa nầy để làm gương cho kẻ khác.
Võ sĩ áp tới bắt Tử Nha, Tử Nha lẹ chân nhảy xuống lầu, chạy một mạch đến cầu Cửu Long, quân ngự lâm của vua Trụ cũng đuổi theo gần tới. Tử Nha nói lớn :
- Vua Trụ truyền đem bào lạc đốt ta, tánh ta không ưa lửa, nên thà chết dưới nước cho được mát thân.
Nói rồi nhảy ùm xuống nước mất dạng.
Quân ngự lâm trở về báo với vua Trụ là Tử Nha đã nhảy xuống sông tự vận, chết mất xác.
Tử Nha là học trò Tiên, có phép thần thông, nên khi nhảy xuống nước thì độn thủy trở về nhà, đi vào trang viện của Tống Dị Nhơn. Mãthị nghe chồng về, tưởng Tử Nha còn làm quan, nên vội vã đón tiếp.
Tử Nha thuật rõ đầu đuôi công việc xảy ra, rồi nói với vợ là Mã thị nên cùng trốn qua Tây Kỳ lánh nạn. Mã thị thấy Tử Nha không còn làm quan nữa, lại là kẻ đang có tội với vua, nên tức giận nói :
- Tôi là dân triều ca, không phải kẻ trôi sông lạc chợ mà quên tổ tông, bỏ quê bỏ xứ. Nay đã sanh ra cớ sự như vầy, ông là kẻ có tội với vua, không ở đây được nữa, còn tôi không thể theo ông qua xứ khác, vậy từ đây, mạnh ai nấy lo, ông làm tờ ly dị cho tôi.
Tử Nha khuyên can vợ mấy lần mà không được, buộc phải viết tờ ly dị giao cho Mã thị, buồn bã ngâm 4 câu thơ :
Miệng con rắn hà nàm,
Nọc con ong vò vẽ,
Hai món độc còn vừa,
Bụng đàn bà quá lẽ.

Tử Nha vội sửa soạn hành lý, vào từ giã Dị Nhơn :
- Nhờ anh chị đùm bọc bấy lâu nay, tôi chưa trả được ơn sâu, lại phải tìm đường trốn tránh. Nay tôi qua lánh nạn nơi Tây Kỳ, ở đó có sanh chúa Thánh, chờ đợi ít lâu để tiến thân.
Dị Nhơn hết sức an ủi, rồi làm tiệc tiễn hành, dặn Tử Nha sớm gởi thơ về cho biết tin tức. Tử Nha tạ ơn rồi từ biệt lên đường.
Tử Nha qua khỏi sông Mạnh Tân và sông Hoàng Hà, đến ải Đồng quan là ải địa đầu của triều ca, thấy một số người rất đông vừa đi vừa than thở. Nhìn lối ăn mặc, Tử Nha biết họ là dân ở Triều ca, vội hỏi :
- Các ngươi ở Triều ca, sao lại đến đây than khóc ?
Trong đám ấy, có người biết Tử Nha nên đáp :
- Chúng tôi thật là dân Triều ca, nhưng vì vua Trụ cất Lộc đài, khiến Sùng Hầu Hổ làm Đốc Công, nó ăn của nhà giàu, bắt dân nghèo làm thục mạng, một số đã chết vì đói khát, chúng tôi phải bỏ trốn, vì chịu không nổi.
- Các ông trốn đến đây thoát nạn rồi, sao còn than thở?
- Chúng tôi bị Tổng Binh trấn ải không cho qua ải tỵ nạn, lại đuổi chúng tôi trở lại Triều ca, chắc phải chết.
Tử Nha bảo dân chúng hãy yên tâm, để ông làm phép đưa dân qua ải, vào canh ba, khi nghe có gió lớn thì nhắm mắt lại, kẻ nào mở mắt ra thì mang họa đó, xin báo trước.
Đến canh ba, Tử Nha hướng về núi Côn Lôn quỳ lạy một hồi rồi niệm chú. Tức thì giông gió nổi lên, Tử Nha bảo dân chúng nhắm mắt lại, chừng gió hết thổi mới được mở mắt ra. Trận gió thần thổi đám dân chúng bay qua các ải Xuyên Vân, Tỵ Thủy, Giới Bài, đến núi Kim Kê xứ Tây Kỳ thì Tử Nha thâu phép lại, giông gió lặng yên. Tử Nha bảo dân chúng hãy mở mắt ra rồi nói :
- Đây là núi Kim Kê thuộc xứ Tây Kỳ, đợi sáng, chúng ta sẽ đi vào Tây Kỳ.
Sáng sớm, dân chúng dắt díu nhau vào Tây Kỳ xin tỵ nạn. Còn Tử Nha đến ẩn mặt tại Bàn Khê, gieo câu sông Vỵ chờ thời, đói ăn trái cây, khát uống nước suối, vui thì xem kinh luyện phép, buồn thì câu cá giải khuây, ngâm thơ :
Về thế tám thu chầy,
Trần ai chịu đọa đày,
Nửa năm nương đất Trụ,
Một khắc đến non Tây.
Sợi nhợ kinh luân đó,
Miếng mồi thao lược đây.
Trước là câu cá nước,
Sau đợi hội rồng mây.

Có một chú tiều tên Võ Kiết nghe Tử Nha ngâm thơ thì đến hỏi, Tử Nha đáp :
- Tôi ở Hứa Châu, họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha, biệt hiệu là Phi Hùng,
Võ Kiết cười lớn nói :
- Ông xưng hiệu là con khỉ ốm thì khỏi ai bắt bẻ.
Võ Kiết lại nắm cần câu dở lên thấy lưỡi câu ngay đơ thì vỗ tay cười ngất rồi chắc lưỡi than :
- Hễ có trí thì tuổi thơ cũng có trí, hễ không mưu thì đầu bạc cũng không mưu. Muốn câu cá mà để lưỡi câu ngay đơ thì đời nào bắt được cá, để tôi dạy ông uốn lưỡi câu.
Tử Nha nói :
- Ngươi biết một mà chẳng biết hai. Ta không dùng lưỡi câu cong để câu cá câu tôm, chỉ dùng lưỡi câu ngay để câu thời câu vận.
Ngày chờ thời giờ quý,
Vậy được của không cầu,
Chẳng kiếm tôm kiếm cá,
Mà kiếm công kiếm hầu.

Rồi Tử Nha nhìn ngay mặt Võ Kiết nói :
- Khí sắc của ngươi xấu lắm !
Nói rồi ngâm bài thơ :
Mắt nọ đỏ bầm bầm,
Tròng kia xanh dạng sạng,
Ra phố đánh chết người,
Chúng bắt thường nhơn mạng.

Võ Kiết nạt lớn :
- Nãy giờ tôi nói giỡn với ông một chút không hại gì, sao ông lại độc miệng rủa tôi như vậy ?
Dứt lời, Võ Kiết hậm hực gánh củi lên vai đi thẳng xuống chợ Tây Kỳ, không thèm quay đầu lại.

Hôm ấy, vua Văn Vương ngồi xe qua Linh đài bói quẻ, quan quân theo hầu rất đông. Võ Kiết quay gánh củi tránh đường, rủi đụng vào màng tang của một tên lính làm tên lính chết tươi. Võ Kiết bị bắt phải thường nhơn mạng. Văn Vương vẽ một vòng tròn dưới đất làm trại giam, cắm một cái cây trước cửa Nam làm tên quân canh, bắt Võ Kiết đứng trong vòng tròn. Xong rồi ai nấy đi hết.
Võ Kiết ngồi trong vòng 3 ngày, nhớ tới mẹ, khóc lớn. quan Đại phu Táng Nghi Sanh đi ngang qua thấy vậy hỏi :
- Hôm trước ngươi đụng chết tên lính, mạng thế mạng là lẽ thường, oan ức gì mà khóc dữ vậy ?
- Tôi rủi làm chết người nên đâu dám than thở, ngặt tôi còn mẹ già, không ai nuôi dưỡng, không có tôi chắc mẹ tôi phải chết đói. Tôi nghĩ tôi bất hiếu nên tủi phận khóc than.
Táng Nghi Sanh thương tình nên tâu với vua Văn Vương cho Võ Kiết trở về lo châu cấp cho mẹ nó rồi đến mùa thu năm tới sẽ trở lại nạp mạng. Văn Vương bằng lòng.
Võ Kiết trở về gặp mẹ than khóc, rồi thuật lại hết các việc xảy ra cho mẹ nghe. Bà mẹ nói :
- Ông già câu cá ở Bàn Khê có tài coi tướng rất hay, con đến cầu khẩn may ra ông già ấy cứu được con.
Võ Kiết nghe lời mẹ, lật đật chạy đến Bàn Khê, xin Tử Nha cứu mạng. Tử Nha thương Võ Kiết là con hiếu thảo, nên chịu cứu, nhận Võ Kiết làm đồ đệ, dặn Võ Kiết về nhà đào một cái huyệt dưới gầm giường, bề sâu 4 thước (thước Tàu), tối xuống nằm dưới huyệt ấy mà ngủ, dặn bà mẹ thắp 2 ngọn đèn chong : một đặt dưới chân, một đặt trên đầu, rồi hốt 3 nắm gạo rắc lên mình, tủ một mớ cỏ xanh trên miệng huyệt. Còn ta ở đây, sẽ làm phép cứu ngươi. Sáng dậy, ngươi cứ leo lên đi đốn củi như thường, ngươi sẽ bình an vô sự, không cần phải đi nạp mạng.
Võ Kiết mừng rỡ, lạy thầy rồi thoát chạy ngay về nhà lo làm các việc đúng như lời thầy dạy.
Sau đó, Tử Nha dạy võ nghệ cho Võ Kiết luyện tập thuần thục chờ ngày sau xông pha trận mạc để lập công danh.
Mùa thu năm sau, Táng Nghi Sanh không thấy Võ Kiết đến nạp mạng nên tâu cho vua Văn Vương rõ. Văn Vương xủ quẻ thấy Võ Kiết đã chết nên bỏ qua.
Mùa Xuân năm sau, Văn Vương cùng triều thần cỡi ngựa du Xuân ngoài thành Tây Kỳ, chợt Táng Nghi Sanh trông thấy Võ Kiết, truyền lính bắt lại, đem trình Văn Vương. Táng Nghi Sanh hỏi :
- Ngươi hứa với Chúa công là ngươi trở về lo châu cấp cho mẹ già xong thì trở lại chịu tội, sao không giữ lời hứa.
- Bẩm Chúa Công, tôi đâu dám bỏ phép. Bởi có Ông già câu cá ở Bàn Khê, họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha, biệt hiệu là Phi Hùng, bảo tôi làm học trò thì cứu tôi toàn tánh mạng. Tôi còn mẹ già, không nỡ chịu chết bỏ mẹ, nên nghe lời để cho thầy tôi làm phép cứu tôi trốn pháp luật, xin Chúa Công nghĩ lại.
Táng Nghi Sanh nghe nói thì mừng rỡ tâu rằng :
- Võ Kiết nói có ông già câu cá ở Bàn Khê biệt hiệu là Phi Hùng thì quả là người mà Chúa Công ứng mộng. Xưa, vua Thương Cao thấy gấu bay mà được ông Phó Duyệt ra phò, nay Chúa Công thấy cọp có cánh chắc là ứng với Khương Thượng. Xin Chúa Công tha tội cho Võ Kiết, khiến nó dẫn đến Bàn Khê rước Khương Thượng về triều.
Văn Vương ra lịnh cho triều thần cùng ăn chay 3 ngày, tắm gội cho tinh khiết, sắm sửa lễ vật đến Bàn Khê rước người hiền về triều. Văn Vương rước được Tử Nha về triều thì trọng dụng ngay, phong Tử Nha làm Thừa Tướng, cầm quyền trị nước.
Vua Văn Vương hay tin Sùng Hầu Hổ cùng con là Sùng Ứng Bưu a dua theo vua Trụ, nhập bọn với 2 tên nịnh thần là Vưu Hồn và Bí Trọng, hà khắc dân chúng, tiếng oán than thấu đến Trời xanh. Vua Văn Vương cùng với Khương Thượng, đem búa Việt cờ Mao, kéo quân Tây Kỳ chinh phạt Sùng Hầu Hổ, bắt được Sùng Hầu Hổ và Sùng Ứng Bưu, truyền bêu đầu răn chúng. Dân chúng nghe tin thảy đều hả dạ, còn các chư Hầu khác đều thán phục. Văn Vương kéo binh trở về Tây Kỳ.
Sau đó, Văn Vương lâm trọng bịnh, gọi Thái tử Cơ Phát đến bảo làm lễ gọi Khương Thượng là Thượng phụ, rồi gởi gấm con lại cho Khương Thượng. Văn Vương từ trần, hưởng thọ 97 tuổi. Thái tử Cơ Phát lên nối ngôi xưng hiệu là Võ Vương.
Thái Sư Văn Trọng tại triều đình vua Trụ, thấy thế lực Tây Kỳ càng ngày càng lớn mạnh, e nguy hiểm cho triều đình Trụ Vương, nên cử Trương quế Phương, Tổng Trấn ải Thanh Long đem 10 muôn binh chinh phạt Tây Kỳ.
Trương quế Phương có tà thuật, binh của Tử Nha đánh không lại. Tử Nha bế cửa thành, dặn Na Tra và Võ Kiết giữ thành, Tử Nha độn thổ lên núi Côn Lôn cầu cứu với thầy là Đức Nguơn Thủy. Tử Nha được thầy trao cho BẢNG PHONG THẦN, và dặn nếu đi ra mà có ai kêu thì đừng dừng lại và đừng nói chuyện với người ấy. Nếu không làm y lời thì sẽ bị người ấy kêu 36 đạo binh đến đánh. Tử Nha ôm Bảng Phong Thần đi ra, gặp Thân Công Báo là sư đệ, cũng ở Cung Ngọc Hư kêu lại nói chuyện, nên sau nầy bị Thân Công Báo kêu 36 đạo binh Triệt giáo đến đánh Tử Nha. Nhưng số oan nghiệt của Tử Nha phải trả, làm sao tránh khỏi.
Thái Sư Văn Trọng mời được 4 vị đạo sĩ ở Cửu Long đảo đến giúp Trương quế Phương. Bốn vị nầy là : Vương Ma, Dương Sum, Cao hữu Càng và Lý Hưng Bá, cỡi những con thú lạ, làm cho các ngựa chiến của Tử Nha sợ hãi ngã lăn xuống đất. Tử Nha cự không lại nên phải độn thổ lên núi Côn Lôn lần nữa để cầu cứu thầy.
Lần nầy, Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn ban cho Tử Nha một con thú linh để cỡi tên là Tứ Bất Tướng, và 2 bửu bối là cây Đả Thần tiên, và Hạnh Huỳnh Kỳ. Nhờ các sư huynh của Tử Nha cho các học trò Tiên có phép báu xuống núi giúp Tử Nha nên Tử Nha đánh thắng và giết chết được 4 đạo sĩ ở Cửu Long Đảo.
Thái Sư Văn Trọng lại sai Lỗ Hùng cùng với Vưu Hồn và Bí Trọng đem quân tiếp chiến với Trương quế Phương.
Tử Nha làm phép tuyết sa, bắt sống được cả 3 người, chém lấy 3 thủ cấp để tế đài Phong Thần tại núi Kỳ Sơn.
Thái Sư Văn Trọng lại mời được 10 vị Địa Tiên ở Kim Ngao đảo lập trận Thập Tuyệt đánh Khương Thượng. Trận nầy rất dữ, Đức Nhiên Đăng Đạo Nhơn ở núi Linh Tựu động Kim Giáp chỉ huy 12 vị Đại Tiên ở Cung Ngọc Hư, học trò của Đức Nguơn Thủy Chưởng giáo, mới phá được trận.
Thập nhị Đại Tiên ở Cung Ngọc Hư, học trò Xiển Giáo, kể ra như dưới đây :

1 . Thái Ất Chơn Nhơn, núi Càn Nguơn, động Kim Quang, có học trò là Na Tra.
2 . Ngọc Đảnh Chơn Nhơn, núi Ngọc Tuyền, động Kim Hà, có học trò là Dương Tiễn.
3 . Xích Tinh Tử, núi Cửu Tiên động Đào nguyên, có học trò là Ân Hồng.
4 . Quảng Thành Tử, núi Thái Hòa động Vân Tiêu, có học trò là Ân Giao.
5 . Vân Trung Tử, núi Chung Nam động Ngọc Trụ, có học trò là Lôi Chấn Tử.
6 . Đạo Hạnh Thiên Tôn, núi Kim Đình động Ngọc Ốc, có học trò là Vi Hộ.
7 . Cù Lưu Tôn, núi Giáp Long động Phi Vân, có học trò là Thổ Hành Tôn.
8 . Thanh Hư Đạo Đức Chơn Quân, núi Thanh Phong động Tử Dương, có học trò là Dương Nhậm.
9 . Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn, núi Ngũ Long động Vân Tiêu, có học trò là Kim Tra.
10 . Phổ Hiền Chơn nhơn, núi Phổ Đà động Lạc Đà, có học trò là Mộc Tra.
11 . Từ Hàng Chơn nhơn, núi Cửu Cung động Bạch Hạc.
12 . Huỳnh Long Chơn Nhơn, núi Nhị Tiên động Ma Cô.

Trận Thập Tuyệt đã bị phá tan. Lần nầy Thái Sư Văn Trọng thân chinh đánh Khương Thượng, bị các Tiên Xiển Giáo vây đánh, phải bỏ mạng nơi núi Tuyệt Long, hồn bay lên đài Phong Thần. Về sau, Đức Khương Thượng đọc sắc phong cho Thái Sư Văn Trọng làm Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn, đứng đầu Lôi Bộ.
Trụ Vương sai thêm nhiều tướng tài khác chinh phạt Tây Kỳ, nhưng tất cả đều thất bại.
Ngày 15 tháng 3 năm thứ 13 đời Châu Võ Vương, nhà vua lập đàn bái tướng, phong Tử Nha làm Đại Nguyên Soái Chinh Đông, họp binh với 800 chư Hầu tại sông Mạnh Tân, cùng đi phạt Trụ. Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn giáng hạ ban lời huấn dụ Tử Nha, rồi sai Bạch Hạc Đồng tử rót 3 chung rượu đem đến tiễn hành Tử Nha :
- Chung nầy khuyên ngươi gắng công phò Chúa.
Tử Nha tiếp lấy chung rượu uống cạn.
- Chung nầy khuyên ngươi trị nước công minh.
Tử Nha cũng lãnh lấy uống cạn.
- Chung nầy khuyên ngươi sớm họp mặt chư Hầu.
Tử Nha cũng lãnh lấy chung rượu uống cạn.
Tử Nha bạch thầy :
- Nhờ ơn thầy dạy dỗ, đệ tử mới dám lãnh ấn chinh Đông, song không biết đường đi hung kiết thế nào, xin thầy chỉ dạy.
- Ngươi đừng ngại chi cả, hãy nhớ bài kệ nầy :
Ải Giải Bài, Tru Tiên lập trận,
Xuyên Vân sao khỏi gặp Ôn Hoàng.
Giữ gìn Đạt, Triệu, Quang, Tiên, Đức,
Qua trận Vạn Tiên thân mới an.

Sau đó, Đức Nguơn Thủy trở về Cung. Các vị Tiên, sư huynh của Tử Nha, cũng rót rượu mừng và tiễn hành Tử Nha chinh Đông.
Từ Nha chuẩn bị đầy đủ 60 muôn binh, vào thỉnh Võ Vương ngự giá thân chinh.
Hai nghĩa sĩ ở núi Thú Dương là Bá Di và Thúc Tề ra cản đầu ngựa, không cho Võ Vương đi đánh Trụ. Tử Nha cố gắng giải thích nhưng 2 người nhứt định không chịu nghe. Quân sĩ phải gỡ tay 2 người ra, Võ Vương mới đi khỏi được.
Đi vừa tới núi Kim Kê thì gặp đạo binh của Khổng Tuyên, tướng của vua Trụ cản đường. Nhờ Chuẩn Đề Bồ Tát ở Tây phương đến thâu phục Khổng Tuyên, bắt Khổng Tuyên hiện nguyên hình là một con công đỏ (Châu Khổng Tước), được Đức Chuẩn Đề thâu làm đệ tử, cỡi bay về Tây phương.
Tử Nha kéo binh đến ải Giảùi Bài thì gặp trận Tru Tiên, trận nầy rất dữ, do Thông Thiên Giáo chủ lập ra để đánh các Tiên Xiển giáo.
Đức Lão Tử, Đức Nguơn Thủy cùng 12 vị Tiên giáng phàm phá trận Tru Tiên nầy, có Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và Tiếp Dẫn Đạo Nhơn ở Tây phương đến giúp sức. Đức Lão Tử dùng Nguyên khí hoá Tam Thanh, đồng đánh vào 4 cửa trận, làm rối trí Thông Thiên Giáo chủ. Hôm sau, Đức Lão Tử, Nguơn Thủy, Đức Chuẩn Đề và Tiếp Dẫn Đạo Nhơn dẫn các đệ tử đến đánh tan trận Tru Tiên, Thông Thiên giáo chủ đại bại hóa hào quang bay trốn mất.
Tử Nha thâu được ải Giải Bài, rồi kéo quân đến ải Xuyên Vân, gặp trận Ôn Hoàng của Lữ Nhạc và Trần Canh. Tại đây, Khương Thượng bị nạn 100 ngày trong trận Ôn Hoàng. Thanh Hư Đạo Đức Chơn Quân sai học trò là Dương Nhậm đem cây quạt Ngũ Hỏa Thần Diệm xuống quạt tiêu trận Ôn Hoàng, cứu Tử Nha.
Binh Châu đoạt ải Xuyên Vân, liền kéo binh đến ải Đồng Quan. Tướng giữ ải là Dư Hóa Long có 5 người con trai là : Dư Đạt, Dư Triệu, Dư Đức, Dư Quang, Dư Tiên, đều có học phép Triệt giáo, luyện được 5 sắc đậu, rải xuống dinh Châu làm cho tướng sĩ đều bị bịnh đậu đau đớn không dậy nổi. Nếu không có thuốc cứu chữa, thì trong 5 ngày, bịnh phát ra phải chết. Ngọc Đảnh Chơn Nhơn sai Dương Tiễn lên Hỏa Vân Động, vào lạy 3 vị Hoàng Đế : Phục Hy, Thần Nông, Huỳnh Đế, để xin thuốc cứu bịnh. Thần Nông ban cho 3 hoàn thuốc và cây Thăng ma để trị bịnh đậu. Nhờ uống được thuốc, Tử Nha và tướng sĩ đều lành bịnh, đồng kéo quân đến đánh ải, giết cha con họ Dư, lấy được ải Đồng Quan.
Thông Thiên Giáo chủ bị bại mấy trận, tức mình lập trận Vạn Tiên, vô cùng lợi hại để đánh các Tiên Xiển giáo trả thù. Đức Lão Tử, Đức Nguơn Thủy và 2 vị Phật ở Tây phương phải xuống phàm một lần nữa để phá trận Vạn Tiên. Thông Thiên Giáo chủ phải thua chạy, đến một chân núi kia mới dừng lại ngồi nghỉ, trong lòng rất tức giận, định lập thêm một trận nữa gọi là trận Địa Thủy Hỏa Phong để giết chết 2 vị Giáo chủ Xiển giáo thì mới hả dạ.
Giữa lúc đó, nơi hướng Nam có một vừng mây Ngũ sắc hiện ra, hào quang sáng lòa, mùi hương thơm nực, rồi có một Ông Lão đi đến ngâm lớn :
Từ đời Bàn Cổ ẩn trong rừng,
Dạy được ba trò, dạ rất ưng,
Xiển giáo chia ra cùng Triệt giáo,
Cho hay cũng một gốc Hồng Quân.

Thông Thiên Giáo chủ giật mình, biết Thầy mình là Hồng Quân Lão Tổ đi đến, liền quì mọp xuống nghinh tiếp. Hồng Quân Lão Tổ phán :
- Các ngươi, 2 bên đều có lỗi lầm cả. Nay phải bỏ lỗi lầm để hòa thuận cùng nhau. Nếu đứa nào không nghe lời, Ta không nhìn là đệ tử của Ta nữa. Hồng Quân Lão Tổ dắt Thông Thiên đến Lư Bồng để gặp Lão Tử và Nguơn Thủy. Hai vị nầy lật đật chạy ra khỏi Lư Bồng, quì mọp xuống đất nghinh tiếp Lão Tổ.
Hồng Quân Lão Tổ nói :
- Bởi các ngươi dạy đệ tử không nghiêm, nên sanh ra sát kiếp, Xiển giáo và Triệt giáo giao tranh nhau. Nay Ta xuống đây lo việc giải hòa. Tai Ta không muốn nghe cãi lý, từ nay phải ăn năn chừa lỗi.
Lão Tử và Nguơn Thủy đồng cúi đầu dạ một tiếng rồi thưa rằng :
- Chúng con không dám cải lịnh.
Hồng Quân Lão Tổ nói :
- Ba đệ tử hãy lại đây Ta bảo.
Lão Tử, Nguơn Thủy và Thông Thiên đến quì trước mặt Đức Hồng Quân Lão Tổ. Lão Tổ phán :
- Trên bước đường hành đạo, vì giáo lý của hai bên khiếm khuyết nên mới có cuộc tranh hành. Nhưng cũng do mệnh Trời định, gấp rút cho đủ số phong Thần. Song về lỗi lầm thì Thông Thiên lỗi nhiều hơn, không phải Ta thiên vị.Tuy vậy, Ta đến đây không phải để luận phải quấy mà chỉ muốn giảng hòa, vì phải quấy không ích gì, chỉ có thuận hòa mới quí. Mỗi bên phải nhịn nhau một chút, rồi bỏ những tánh khí của mình, trở về núi tu hành, đừng sanh sự lôi thôi nữa. Hồng Quân Lão Tổ lấy trong bầu thuốc ra 3 viên chia cho 3 đệ tử, rồi nói :
- Chúng bây nuốt mỗi đứa 1 viên thuốc rồi Ta giảng cho nghe.
Ba vị đệ tử uống thuốc xong, Lão Tổ nói :
- Thuốc nầy không phải thuốc bổ mà là thuốc bịnh, bịnh ấy là bịnh nóng giận. Hãy nghe bài kệ :
Bởi vì ba gã khiến đua tranh,
Lỗi đạo làm em, lỗi phận anh.
Từ ấy còn mong lòng cự địch,
Thuốc linh khắc phạt, mạng tan tành.

Ba vị đệ tử đồng tạ ơn Thầy. Hồng Quân Lão Tổ bảo Thông Thiên theo chơn mình về Cung Tử Tiêu, đừng dạy học trò nữa. Lão Tử, Nguơn Thủy và các học trò Tiên đồng lạy đưa Hồng Quân Lão Tổ. Xong, Nguơn Thủy nói :
- Nay hai ta và 12 vị đệ tử trở về động tu hành. Còn Tử Nha lo việc phạt Trụ, hoàn thành Bảng Phong Thần rồi mới trở về núi tu luyện.
Khi Nguơn Thủy Thiên Tôn đi được một lúc, Bạch Hạc Đồng tử thấy Thân Công Báo cỡi cọp chạy trốn. Nguơn Thủy liền trao Ngọc Như Ý và truyền Huỳnh Cân Lực sĩ bắt Thân Công báo trị tội. Huỳnh Cân Lực sĩ đem nạp Thân Công Báo. Nguơn Thủy nói :
- Khi trước ngươi thề làm sao thì bây giờ chịu vậy.
Thân Công Báo cúi mặt làm thinh chịu tội. Nguơn Thủy lấy tấm nệm quăng ra, Huỳnh Cân Lực sĩ bó Thân Công Báo lại rồi đem nhận đầu xuống biển Bắc cho chết đuối.
Tử Nha vào chiếm ải Lâm Đồng, chiêu an bá tánh.
Sau đó, Tử Nha tiến quân đến huyện Dẫn Trì, nhờ lá bùa của Cù Lưu Tôn, Vi Hộ mới giết được tướng thủ thành Dẫn Trì là Trương Khuê.
Tử Nha thỉnh Võ Vương qua sông Hoàng Hà, rồi kéo quân đến Mạnh Tân đóng trại để hội các chư Hầu.
Lúc bấy giờ, Trụ Vương phong Viên Hồng làm Đại Nguyên Soái, đem binh đến Mạnh Tân đánh với Khương Thượng.
Viên Hồng là con vượn bạch tu lâu năm, có Thất thập nhị Huyền Công giống như Dương Tiễn, nên Dương Tiễn đánh nó không thắng nổi, may nhờ bà Nữ Oa cho mượn phép báu là Sơn hà Xã Tắc Đồ, mới lập kế bắt Viên Hồng giết đi. Chư Hầu đã họp tại Mạnh Tân đủ mặt, Tử Nha mừng rỡ nói :
- Trời định ngày Mậu Ngũ, chư Hầu nhóm đủ mặt để kéo quân đến Triều ca, nay quả thật như vậy.
Các tướng xin Tử Nha cho đánh gấp thành Triều ca, Tử Nha không chịu, sợ chết nhiều dân chúng. Tử Nha bèn thảo Tờ Hịch kể tội vua Trụ, nêu cao nhơn đức của Võ Vương, khuyên dân chúng trong thành sớm hàng đầu dâng thành, hoặc tìm phương trốn lánh để bảo vệ tánh mạng và tài sản khi quân lính đánh thành. Tờ Hịch nầy được chép ra nhiều bổn, rồi kẹp vào tên, bắn vào thành Triều ca. Dân chúng trong thành nhận được, xem xong thì hưởng ứng, nửa đêm mở cửa thành rước Tử Nha và các trấn chư Hầu nhập thành.
Trụ Vương hay tin, biết không còn cách nào thoát chết nên lên lầu Trích Tinh tự thiêu mình. Hồn vua Trụ bay lên đài Phong Thần.
Còn 3 con yêu : Đắc Kỷ, Hồ Hỷ Mỵ, Tỳ Bà Tinh, bị Bà Nữ Oa dùng dây Phược yêu bắt trói giao cho Tử Nha. Ba con yên đồng kêu oan :
- Năm xưa, Nương Nương dùng cây phướn chiếu yêu gọi chị em tôi đến, sai vào cung phá trí khôn của Trụ Vương, phá tan cơ nghiệp Thành Thang. Chúng tôi vâng lịnh làm cho Trụ Vương hết vây cánh, nước nhà nghiêng ngửa. Nay chúng tôi đến định tâu cùng Nương Nương thì bị Dương Tiễn và 2 tướng đuổi theo, xin Nương cứu mạng. Nếu Nương Nương bắt chị em tôi giao cho Khương Thượng thì Nương Nương xuất hồ phản hồ sao ?
Nữ Oa Nương Nương nói :
- Ta sai chúng bây phá cơ nghiệp vua Trụ là hợp ý Trời. Ta dặn các ngươi đừng giết hại kẻ vô tội, song chúng bây không nghe, làm nhiều điều tội ác, tội đáng chết. Sao chúng bây bảo ta xuất hồ phản hồ ?
Ba con yêu cúi mặt làm thinh chịu tội. Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử và Vi Hộ đem 3 con yêu nạp Tử Nha.
Nhờ bầu gươm báu của Lục Yểm, Tử Nha mới chém đầu được 3 con yêu, rồi cho đem bêu đầu ngoài cửa thành.
Võ Vương bảo Tử Nha phá Lộc đài, lấy châu báu chia cho dân nghèo, mở kho lúa tại Cự Kiều phát chẩn cho dân bớt đói khổ.
Các trấn chư Hầu đồng tôn Võ Vương lên ngôi Thiên Tử, chấm dứt nhà Ân, mở ra nhà Châu, đại xá thiên hạ.
Tử Nha và Châu Công Đán sắt đặt các việc xong xuôi thì phò Võ Vương trở lại Tây Kỳ. Tử Nha tâu rằng :
- Tôi phạt Trụ đã xong, Bệ hạ dựng nghiệp nhà Châu đã yên, song còn mấy trăm người tử trận chưa được phong Thần, xin Bệ hạ cho tôi lên núi Côn Lôn ít bữa để lãnh sắc nơi Tôn Sư thi hành cho xong việc.
Võ Vương y tấu. Xảy có quân vào báo :
- Có Phi Liêm và Ác Lai là tôi của vua Trụ, trước đây bỏ trốn, nay đem Ngọc Tỷ đến dâng Bệ hạ.
Tử Nha tâu :
- Có Phi Liêm và Ác Lai là 2 đứa nịnh của vua Trụ, trong loạn lạc ẩn mình, nay thái bình đến đây nhờ tước lộc. Loài gian hùng như vậy còn để làm chi, song tôi có việc dùng, xin Bệ hạ cứ đòi vào phong chức.
Sau đó, Tử Nha độn thổ lên Cung Ngọc Hư, vào ra mắt Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn. Ngài nói :
- Ta đã định rồi, Tử Nha hãy trở về đài Phong Thần, sẽ có sắc chỉ đến đó, Tử Nha lạy thầy rồi độn thổ trở về tâu lại cho Võ Vương rõ, xong đến đài Phong Thần chờ sắc chỉ tới. Bỗng nghe tiếng nhạc inh ỏi, mùi hương sực nức, ngó thấy Huỳnh Cân Lực sĩ cầm phướn che tàn, Bạch Hạc Đồng tử bưng Sắc ấn từ trên mây hạ xuống. Tử Nha đón nhận sắc chỉ để lên bàn Hương án rồi lạy tạ. Bạch Hạc và Huỳnh Cân Lực sĩ từ giã trở về.
Tử Nha sửa soạn đệ Sắc ấn lên núi Kỳ sơn. Bá Giám hay tin, vội ra nghinh tiếp. Tử Nha vào trong đài, để Sắc ấn trên hương án, truyền cho Võ Kiết và Nam Cung Hoát làm phướn Bát Quái bằng giấy trấn 8 hướng, làm 10 cây cờ Thiên Can và 12 cây cờ Địa Chi, dẫn binh mã ba ngàn, lập trận Ngũ phương chung quanh đài.
Khương Thượng tắm gội sạch sẽ, truyền đặt bàn Hương án, bên tả dựng Hạnh Huỳnh Kỳ, bên hữu dựng Đả Thần tiên, mặc áo giáp hẳn hoi, mở Sắc ra tuyên đọc cho các hồn nghe cho rõ :

"Hỗn Nguơn Giáo Chủ Nguơn Thủy Thiên Tôn ban sắc:
Hỡi ôi ! Tiên phàm khác bậc, người không đạo đức khó thành, quỉ riêng phần, kẻ ở gian tà phải đọa.
Địa Tiên dầu rõ điều biến hóa, không lòng lành cũng mất lẽ trường sanh. Thiên Tiên tuy thông hiểu huyền quan, ra trận dữ cũng khó thành Chánh quả.
Các ngươi, tuy thông đạo cả, một điều không dập được lửa lòng, ra trận giao phong, sa trường bạc mạng; kiếm kẻ tôi ngay con thảo, vì trung nầy hiếu nọ bỏ mình; có người đức hạnh tiết trinh, bởi lẽ ấy tiết trinh hủy hoại; bị luân hồi báo oán, mắc nhân quả trả oan; nên ta chẳng an, động lòng phải thưởng.
Nay ban sắc cho Khương Thượng, thay mặt ta đứng phong Thần, từ 3 bậc 3 phần, phong vào 8 Bộ. Các ngươi khỏi luân hồi chịu khổ, một lòng cố báo bổ giúp đời, nếu có công được hưởng lộc Trời, bằng có lỗi sẽ bị oai sấm sét."

Tử Nha đọc sắc rồi đem để trên bàn Hương án. Tay tả cầm Hạnh Huỳnh Kỳ, tay hữu cầm Đả Thần tiên, gọi lớn :
- Bá Giám, hãy treo Bảng Phong Thần trước đài cho các hồn xem rõ, lúc nào kêu tên, các hồn mới được lên đài. Bá Giám tuân lệnh, mở Bảng Phong Thần thấy tên mình đứng trên hết. Các hồn đồng đến xem.
Bỗng Tử Nha goị : Bá Giám nghe sắc. Bá Giám liền cầm phướn đi lên đài quì xuống. Tử Nha đọc :
- Thái Thượng Nguơn Thủy truyền sắc : Bá Giám xưa là Nguyên soái của Huỳnh Đế, vâng lịnh đánh Xi Vưu, trước cũng lập công nhiều phen, sau bị chết nơi biển Bắc, hồn trung lạnh lẽo, cũng khá thương, chừng gặp Khương Thượng đem về giữ đài Phong Thần, đứng đầu 8 Bộ, gồm 365 vị.
Bá Giám lạy tạ ơn rồi xuống đài.
Rồi lần lượt Tử Nha đọc sắc Phong Thần cho các hồn khác đủ trong 8 Bộ. Các vị Thần được phong đều rời khỏi đài, bay đi đến các nơi nhận lãnh phận sự. Tử Nha xuống đài, truyền cho Nam Cung Hoát về triều ra lịnh cho bá quan văn võ, ngày mai phải đến Kỳ sơn đủ mặt.
Ngày hôm sau, Tử Nha truyền lịnh trói Phi Liêm và Ác Lai đem xử trảm. Hai người kêu oan. Tử Nha nói :
- Hai đứa bây là lũ nịnh gian hùng, bày cho vua Trụ nhiều điều hại dân hại nước, lại trộm ngọc ấn đi đầu Châu, thật không chút lương tâm, sao hai ngươi bảo là vô tôi.
Võ sĩ chém xong hai người, Tử Nha lên đài Phong Thần đọc sắc :
- Thái Thượng Nguơn Thủy truyền sắc : Phi Liêm và Ác Lai là 2 tên gian nịnh, ngỡ trộm ngọc ấn cầu vinh, không dè đem thân đi nạp. Bởi có tên trong Bảng Phong Thần nên khó trốn. Nay phong cho Phi Liêm làm Băng Tiêu, Ác Lai làm Ngõa Giải, tuy là chức xấu, không được làm hung.
Phi Liêm và Ác Lai quì nghe đọc sắc xong thì lạy tạ rồi bay đi lãnh chức.
Việc Phong Thần chấm dứt, bá quan lui trở về triều.
Hôm sau, Võ Vương lâm triều. Bảy vị Thánh (Thất Thánh) gồm : Lý Tịnh, Mộc Tra, Kim Tra, Na Tra, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử và Vi Hộ, đồng quì tâu :
- Chúng tôi là người ở núi non, vâng lịnh thầy xuống giúp Bệ hạ. Nay đã thành công, chúng tôi xin trở về núi tu hành, còn việc phú quí, chúng tôi không muốn.
Võ Vương rất buồn rầu, nhưng biết không thể cầm giữ Thất Thánh được, nên truyền làm tiệc tiễn hành tại Trường đình. Võ Vương và Tử Nha gạt lệ chia tay cùng Thất Thánh.

Hôm sau, Võ Vương lâm triều phán :
- Hôm qua 7 vị về non, Trẫm buồn quá sức. Nay đến việc phân phong cho các tướng có công trận, Trẫm giao cho Thượng Phụ và Ngự đệ Châu Công Đán thay mặt Trẫm làm cho công bằng.
Hai vị liền trở về dinh, bàn tính với nhau, rồi làm sớ tâu trình. Trong sớ xin truy phong cho 3 vị Vương tổ : Thái Vương, Vương Quí, Văn Vương, đồng làm Thiên Tử. Châu Công Đán làm Lỗ Hầu cai trị nước Lỗ, Khương Thượng làm Tề hầu cai trị nước Tề, vv . . . . . . .
Võ Vương truyền dời đô về phủ Tây An, huyện Hàm Dương. Sau đó, ban búa Việt cờ Mao cho Khương Thái Công về nước Tề an dưỡng tuổi già, được quyền chinh phạt các nơi. Khương Thái Công đến nước Tề, nhớ đến người anh kết nghĩa Tống Dị Nhơn là ân nhân của mình, nên tìm đến rước về chung hưởng giàu sang, nhưng vợ chồng Dị Nhơn đều đã qua đời, con cháu đều rất giàu sang.

Khương Thái Công cai trị nước Tề được 5 tháng thì dân chúng nghiêm trang, thái bình thạnh trị.
Thái Công có vợ, sanh được 2 người con trai, con trưởng tên là Cáp. Thái Công nhớ lời thầy dặn, truyền ngôi cho con là Cáp, rồi Thái Công trở về non tu luyện. Còn con trai kế được Võ Vương phong làm Kỷ Hầu, cai trị nước Kỷ.

Trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, có đăng một bài Thánh giáo của Khương Thái Công giáng cơ ban cho, xin trích lục ra dưới đây :

Đêm 16 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1932)
THI :
NGÃ ý tần giao kết thiện nhơn,
KHƯƠNG ninh duy hữu đức tài chơn.
THÁI dương nhứt xuất giang sơn hiện,
CÔNG trực phò trì hữu thiện duơn (duyên)

DIỄN DỤ : Con người ở thế gian là chỗ ân oán trả vay, đền bồi đòi kéo, ấy là nợ tiền khiên oan trái. Còn một điều khổ nhứt là : Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Người làm quan, dầu đeo ấn soái, đề binh khiển tướng, chinh Nam phạt Bắc, quản xuất vạn binh, sức mạnh như hùm, vạn phu nan địch, rủi cảm sương phong, nhuốm trầm kha chi bệnh, thì gió thổi cũng xiêu, có lấy chi làm võ nghệ, còn rủi bị sàm thần vu tấu, gặp lúc hôn quân mà bị hình thì vinh hiển như huỳnh lương chi mộng.
Làm giàu chịu chữ bất nhơn, cả nhà quyến thuộc chung hưởng, tội bất nhơn gánh vác một mình. Khi giàu sang, thiếu chi thân bằng cố hữu, thê thê thiếp thiếp; gặp lúc nghèo, vợ ở lảng, thiếp làm ngơ, bà con biếng ngó, lời ngạn ngữ cũng chẳng thông, tôi tớ đều lờn mặt.
Vậy, người ở thế gian, dầu giàu sang danh lợi, có ích chi mà lại buộc điều oan gia trái chủ, xét lại chẳng hơn một chữ nhàn, tu hành khỏi lo ràng buộc. Khuyên thế trước lo xở nợ tiền khiên và đừng gây thêm mối nợ rồi bị luân hồi mà vay trả
Ta khi ở thế, xét đủ việc đời bĩ thới, nên ngã lòng việc thế gian, tầm thầy học đạo, đặng mối chơn truyền. Học đạo Tiên gia đã 40 năm, cũng vì kiếp trước gây nợ với Thân Công Báo 36 khoản, cho nên lúc phạt Trụ hưng Châu, thầy ta sai trở lại dương trần mà phụ tá Võ Vương cho thành đế nghiệp, và trả việc cừu hận của Thân Công Báo cho rồi rảnh.
Ta khuyên thiện nam tín nữ lo tu và xở cho hết nợ hồng trần thì ngày sau khỏi tái sanh mà trả nợ.

THI rằng :
Trần gian là chỗ kết oan gia,
Nợ nước ơn vua với đạo nhà.
Trái chủ khi cho ra có một,
Người vay lúc trả phải huờn ba.
Bưng vinh thẳng bước niên còn trẻ,
Gánh nhục dừng chơn tuổi đã già.
Thuyền lỡ chơi vơi dòng khổ hải,
Nhắm chừng bỉ ngạn rán lần qua.
                                                  KHƯƠNG THÁI CÔNG

Tam Trấn Oai Nghiêm

Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo tại Tòa Thánh, ngày 28-6-Mậu Dần (dl 25-7-1938), có giảng giải : Tại sao thờ Tam Trấn Oai Nghiêm ?
" Bởi Hạ nguơn cận mãn, nhơn vật đổi dời, đạo đức nhơn nghĩa luân lý cang thường đều bị lượn sóng văn minh vật chất làm hư hoại. Tam giáo đã thất chơn truyền do nơi tay phàm canh cải thành ra dị đoan bất chánh, nên Đức Chí Tôn khai Đại Đạo là cơ quan chuyển thế, phục lại Thượng nguơn cho thuận theo lẽ tuần hoàn qui cổ.
Ba vị Tam Trấn hiện nay đức hạnh hoàn toàn, đủ tư cách độ đời, rọi gương cho đoàn hậu tấn.

ĐỨC LÝ ĐẠI TIÊN, buổi còn tại thế, Ngài làm quan đời nhà Đường, danh lưu ngôn ngữ, đánh đuổi bình giặc bằng tinh thần, chẳng tốn lương thảo tướng binh, mà cả cơ nghiệp đặng hòa bình, bảo an thiên hạ. Tánh chất của Ngài không thích công danh phú quí, thường ưa vui thú cờ rượu thi ngâm, hưởng cảnh thanh nhàn non Tiên động Thánh. Ngài phế quan từ chức, mộ Đạo tu hành, mới đắc quả vị Đại Tiên.
Nay là buổi Hạ nguơn, chấn hưng Tam giáo, Đức Chí Tôn chọn Ngài cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm, thủ cơ truyền Đạo, lập Luật pháp, Nghị Định, Chơn truyền, công thưởng tội trừng, vô tư vô vị, chấp chưởng cơ quan, tạo thời cải thế, đương kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thay mặt choTiên giáo.

ĐỨC QUAN ÂM BỒ TÁT, buổi còn sanh tiền, giữ trọn câu trung trinh tiết liệt, mộ đạo đức, chẳng mến cuộc phú quí vinh huê, đủ nghị lực, trọn tâm trải qua nhiều hoàn cảnh khổ sở truân chuyên mà chí tu hành không đổi, Bà mới đoạt thành phẩm vị Nữ Phật Tông Quan Âm Bồ Tát.
Kỳ Phổ Độ thứ ba nầy, thừa lịnh Đức Chí Tôn cùng Diêu Trì Phật Mẫu, cầm quyền Nhị Trấn Oai Nghiêm, thay mặt Thích giáo, rọi gương bác ái từ bi, tế độ đoàn Nữ phái.

ĐỨC QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN, Ngài giáng trần nhơn đời Tam Quốc phân tranh, Ngài hết dạ tâm thành phò vua giúp nước, diệt tà tôn chánh, khuôn phò Lưu Tiên Chúa, giúp nên cơ nghiệp Hớn trào.
Ngài giữ trọn Tam cang, Trung, Nghĩa, Chánh trực, Công bình, đến buổi qui vị thì đặng hiển Thánh, nhờ Phổ Tịnh Thiền sư khai linh nên đặng phi thăng yết kiến Thượng Đế. Về sau, Ngài tiếp tục tu hành, trừ tà diệt quỉ, cứu độ sanh linh, nên mới đắc phẩm Phật Dà Lam.
Nay đến kỳ Phổ Độ thứ ba, Đức Chí Tôn chọn Ngài cầm quyền Tam Trấn Oai Nghiêm, thay mặt cho Nho giáo, nắm luật công bình, diệt trừ những kẻ tà tâm, phản loạn chơn truyền, phân phe lập phái, làm cho nền đạo đức ra thiệt tướng. Thuở bình sanh, Ngài thường chú tâm bao biếm thiện ác, chỉ rõ 2 đường lành dữ khen chê. Lại nữa, là nhơn thời kỳ Nho giáo chuyển luân, nên thờ Đức Quan Thánh là rọi gương trung thành cho toàn Nam phái.

Tam Kỳ Phổ Độ thờ Tam Trấn Oai Nghiêm để thay mặt Tam giáo, đổi cũ ra mới, cho chúng sanh thấy rõ một tấm gương trong lịch sử.
Ấy là để cho đời nối chí lập tâm tu hành cho trở nên đời mỹ tục thuần phong, tức là đời Thánh đức.
Bởi Tam giáo qui phàm, thất chơn truyền, nên Đức Chí Tôn cho Tam Trấn cầm quyền vô vi lập Pháp Chánh Truyền đào tạo đời gọi là Chấn hưng Tam giáo.
Tại sao thờ Tam Trấn ? Tại thời kỳ khai Đại Đồng Tam giáo : Nho, Thích, Đạo qui nguyên, Đức Chí Tôn làm chủ cầm quyền Chưởng pháp cho phù hợp trong buổi Hạ nguơn tuần hoàn chuyển thế. Ba vị Tam Trấn chấp chưởng cơ quan mầu nhiệm, trấn nhậm quyền hành, lập luật pháp, Đạo Nghị Định cho hiệp với Thiên thơ.
Vì thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn nên trong toàn bổn đạo phải để tâm thành kính và phụng thờ Tam Trấn."

Đức Lý Đại Tiên Trưởng
Nhứt Trấn Oai Nghiêm

Đức Lý Thái Bạch là một vị Đại Tiên Trưởng (vào hàng Phật vị), thọ lịnh Đức Chí Tôn làm Đệ Nhứt Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Tiên giáo thời Tam Kỳ Phổ Độ, kiêm nhiệm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Giáo Tông của Đạo Cao Đài.
Trong một kiếp giáng trần ở nước Trung Hoa, Ngài sanh năm 701 đời vua Võ Tắc Thiên (Võ Hoàng Hậu của vua Đường Cao Tông), tại huyện Xương Minh đất Tây Thục. Bà mẹ của Ngài nằm mộng thấy sao Thái Bạch (tức sao Trường Canh hay Kim Tinh) rơi vào lòng Bà mà sanh ra Lý, nên đặt tên là Lý Thái Bạch, gọi tắt là Lý Bạch.
Lý Bạch có dung nhan đẹp đẽ, cốt cách thanh kỳ, 10 tuổi đã đọc được sách của Bách gia chư tử, nhiều người khen là kỳ tài. Năm 15 tuổi, vừa học kiếm thuật vừa luyện văn chương, mở miệng thành thơ, ai nấy đều cho là Tiên dưới thế, nên gọi là Lý Trích Tiên.
Ngài thường đến Trúc Khê cùng với 5 vị là : Khổng Sào Phủ, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Trương thúc Minh, Đào Miện, tối ngày uống rượu ngâm thơ, mang tên là nhóm Trúc Khê Lục Dật.
Đức Lý Thái Bạch lấy hiệu là Thanh Liên Cư sĩ.
Bản tánh thích thơ và rượu, chẳng thiết tha đến danh lợi quyền, chỉ mong du ngoạn khắp danh lam thắng cảnh.
Năm 30 tuổi thành gia thất nhưng vẫn ôm mộng hải hồ. Nghe đồn quận Ô Trình đất Hồ Châu có thứ rượu tuyệt ngon, Ngài chẳng quản đường xa ngàn dặm, lần đến nơi, lên lầu gọi rượu uống tràn. Khi đó, Tư Mã Hồ Châu là Giả Diệp đi qua, nghe tiếng Lý Bạch ngâm thơ vang trên lầu, sai người hỏi xem ai ? Lý Bạch liền đáp bằng 4 câu thơ :
Thanh Liên Cư sĩ, Tiên trần giới,
Quán rượu ba mươi tuổi chẳng cầu.
Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi,
Như Lai Kim túc ấy thân sau.
Giả Diệp nghe, giật mình hỏi :
- Có phải Lý Trích Tiên ở đất Thục đó chăng ?
Rồi Giả Diệp ân cần mời Lý Bạch về tư dinh đàm đạo, thơ rượu suốt 10 ngày và thành thật khuyên :
- Lấy tài cao của túc hạ thì đoạt bào tía đai xanh dễ như nhặt cọng cỏ, tại sao không đến Trường An dự khoa thi sắp tới ?
Nét mặt chán chường, Lý Bạch đáp :
- Triều chánh thối nát, kẻ khéo nịnh thì được chức lớn, người đút lót nhiều thì được đậu cao. Vì vậy, Bạch nầy lang thang bầu rượu túi thơ, tránh bực mình trước bọn khảo quan dốt nát mà cứ làm ra ta đây là Thần Thánh, nhai đi nhai lại mấy chữ sáo của cổ nhân, đóng khung tư tưởng và tình cảm, trong đáy giếng nông cạn mà cứ tưởng là mênh mông biển cả.
Tiếc cho một tài năng quán thế mà chưa có chỗ dùng, Giả Diệp cũng rán khuyên :
- Tuy thế, cái danh chói lọi của túc hạ ai mà không biết, cứ đến Trường An, lo gì không có người biết mình mà tiến cử.
Lý Bạch rất cảm động với tấm chơn tình của Giả Diệp, bèn từ giã đi Trường An, Lý Bạch đến Cung Tử Cực du ngoạn thì gặp Hạ Tri Chương, quan Hàn Lâm Học Sĩ trong triều. Khi xưng tên họ thì cả 2 đều mộ danh nhau. Hạ Tri Chương rước Lý Bạch về nhà kết làm anh em, thù tạc tương đắc.
Khoa thi sắp mở, Hạ Tri Chương bảo Lý Bạch :
- Mùa Xuân năm nay mở khoa thi, quan Chủ Khảo Nam Tỉnh là Thái Sư Dương Quốc Trung, anh ruột của Dương Quí Phi, Giám Sát là quan Thái Úy Cao Lực Sĩ. Đó là một bọn tham ô điển hình của thời đại. Hiền đệ không có vàng bạc để đút lót, lại không chịu cúi lòn bọn tiểu nhân thì làm thế nào đạt được mục đích, mặc dầu văn tài của Hiền đệ xuất chúng. Tôi có quen biết 2 người ấy, để tôi viết một bức thơ tiến cử Hiền đệ, may ra họ nể tình tôi mà để cho Hiền đệ có dịp thi thố sở học bình sanh của mình.
Dương Quốc Trung xem thơ của Hạ Tri Chương liền nói với Cao Lực Sĩ :
- Không biết Hạ Tri Chương nợ Lý Bạch bao nhiêu vàng bạc mà lại viết thơ suông cho bọn mình. Thực cái bọn thi nhân mơ mộng ấy không hiểu gì về nhơn tình thế sự. Đến ngày nhập trường thi, cứ thấy quyển nào đề tên Lý Bạch là đánh hỏng, chẳng cần biết văn hay văn dở.
Đến ngày thi, quan Chủ Khảo ra đề. Lý Bạch xem qua, liền vẩy bút là xong bài, đem lên nộp. Dương Quốc Trung tiếp lấy xem, thấy đề tên là Lý Thái Bạch, liền loạn bút son ngang dọc, đánh rớt ngay không thương tiếc, lại còn bỉ mặt Lý Thái Bạch :
- Hạng thí sinh nầy chỉ đáng mài mực hầu người.
Cao Lực Sĩ lại a dua thêm :
- Thứ văn chương bã mía ấy chỉ đáng tháo giày xỏ tất cho người.
Hai người nói xong truyền lính tống cổ Lý Bạch ra khỏi trường thi.
Lý Bạch rất phẫn uất, về nhà phàn nàn với Hạ Tri Chương và thề rằng : Nếu sau nầy đắc chí sẽ bắt Thái Sư Dương Quốc Trung mài mực, Thái Úy Cao Lực Sĩ tháo giày thì mới hả dạ.
Hạ Tri Chương rất ân hận, vì chẳng những không giúp được Lý Bạch mà còn làm cho 2 tên tham quan nghi ngờ mà xử nhục Lý Bạch, nên hết lời an ủi khuyên lơn. Từ đó, Hạ Tri Chương không đá động gì tới việc thi cử, sợ khơi dậy nỗi phẫn uất của Lý Bạch. Hai người cứ uống rượu ngâm thi làm vui.
Thời gian thấm thoát trôi qua, bỗng một hôm có Sứ Thần Phiên quốc đưa thư đến triều đình. Vua Đường Huyền Tôn (thường gọi là Đường Minh Hoàng) sai Hạ Tri Chương nhận quốc thư và tiếp đãi Sứ giả. Khi mở quốc thư ra đọc thì không một ai biết đọc một chữ nào cả. Vua Đường triệu tập toàn thể các Đại Học Sĩ và triều thần để xem ai biết được thứ chữ Phiên đó. Cả triều thần đều nín lặng.
Vua Đường Huyền Tôn nổi giận phán :
- Trong triều có bao nhiêu người bảng vàng bia đá, mang lộc nước ơn vua, mà không ai biết tỏ lòng trung khi lâm đại sự. Chẳng lẽ bằng nầy cẩm bào hoa hốt mà không có lấy một người học rộng biết nhiều để gánh vác cùng Trẫm hay sao ? Lá thơ nầy không đọc được thì biết phúc đáp ra sao ? Đến nỗi bị Phiên bang chê cười sỉ nhục thì Trẫm còn dùng các khanh để làm gì ! Hạn cho 6 ngày, nếu không tìm ra người nào đọc được Phiên thư thì Trẫm sẽ cách chức hết thảy, đuổi tuốt về vườn.
Thánh chỉ ban ra, các quan đứng lặng như phỗng đá, mặt mày tái mét, nhìn nhau ngơ ngác.
Hạ Tri Chương làm quan Hàn Lâm Học Sĩ trở về dinh, mặt mày buồn bã, kể lại cho Lý Bạch nghe mọi việc vừa mới xảy ra ở triều đình. Lý Bạch nghe xong, thủng thỉnh nói :
- Nếu khoa thi trước, Bạch nầy không bị bọn Dương Quốc Trung và Cao Lực Sĩ làm nhục đánh hỏng thì triều đình hôm nay đâu bị cái nhục nầy.
Nghe vậy, Hạ Tri Chương mừng quýnh hỏi lại :
- Hiền đệ đọc được chữ Phiên đó hả ?
Lý Bạch hững hờ đáp :
- Đâu có gì khó, đệ đã biết thứ chữ Phiên ấy từ nhỏ. Hôm sau, Hạ Tri Chương đi chầu thật sớm, đợi 3 hồi chuông Cảnh Dương và trống Long Phung xong, Đường Minh Hoàng ra ngự điện, Hàn Lâm Học Sĩ Hạ Tri Chương liền bước ra quì tâu :
- Muôn tâu Thánh Thượng, hiện ở nhà thần có một người bạn tên là Lý Thái Bạch, học rộng biết nhiều, có thể đọc được Phiên thư, xin Bệ hạ triệu đến.
Minh Hoàng chuẩn tấu, sai sứ đến phủ triệu Lý Bạch.
Lý Bạch gởi lời sứ giả về tâu : "Thần là kẻ áo vải phương xa, kém tài kém đức, đâu dám phụng chiếu."
Sứ về triều tâu lại, nhà vua hỏi Hạ Tri Chương :
- Lý Bạch không phụng chiếu, không hiểu ý tứ ra sao ?
Hạ Tri Chương tâu bày :
- Tâu Bệ hạ, chắc Lý Bạch nhớ cái nhục năm trước trong trường thi, bị khảo quan không xem bài mà đánh hỏng, đuổi ra khỏi trường. Nay áo vải vào triều, cái hận năm xưa vẫn còn đè nặng trong lòng con người tài hoa tuyệt thế ấy, xin Bệ hạ rộng ban cho y tất y sẽ phụng chiếu.
Đường Minh Hoàng liền khâm tứ cho Lý Thái Bạch Tiến Sĩ Cập Đệ, ban cho bào tía đai vàng, hốt ngà, mão gấm để Lý Bạch vào chầu cho vẻ vang, rồi sai Hạ Tri Chương mang chiếu chỉ và đồ gia ban về cho Lý Bạch. Lý Bạch vâng lời, mặc triều phục vào, đi cùng Hạ Tri Chương vào chầu vua Đường và tạ ơn Thiên tử.
Đường Minh Hoàng nhìn thấy Lý Bạch có phong độ khác phàm, như Thần Tiên giáng thế, nên có lòng yêu trọng, dụ rằng :
- Nay có thư nước Phiên gởi đến, quần thần không ai hiểu được nên đặc triệu khanh vào để đọc thư và trả lời cùng Phiên quốc.
Nói rồi sai Thị thần đem thư giao cho Lý Bạch. Lý Bạch mở thư ra, cao giọng đọc trước triều đình thật lưu loát. Đại ý vua Bột Hải đòi vua Đường dâng nạp nước Cao Ly, nếu không thì chúng khởi binh đánh chiếm.
Minh Hoàng nghe xong cả sợ, hỏi văn võ triều thần :
- Các quan có kế chi để chế ngự Phiên quốc ?
Hạ Tri Chương liền tâu, xin hỏi Lý Bạch, may ra có diệu kế đối phó với Phiên bang.
Lý Bạch liền tâu :
- Việc nầy có đáng gì để Thánh Thượng lo âu. Ngày mai, xin triệu Sứ Phiên vào triều, thần sẽ đối Phiên sứ mà viết thơ phúc đáp theo tự tích của người Phiên, trong thư tỏ rõ sức mạnh của Thiên triều, đồng thời sỉ nhục chúng, rồi phủ dụ chúng, để bắt chúng phải phục tùng.
Đường Minh Hoàng nghe vậy rất hài lòng, thấy rõ tài năng của Lý Bạch, liền phong Lý Bạch làm Hàn Lâm Học Sĩ, lại ban yến tại điện Kim Loan, truyền Lý Bạch được tự do chè chén, không cần bó buộc lễ nghi.
Lý Bạch vui say thả cửa, say túy lúy, nhà vua phải bảo nội thị đỡ Lý Bạch vào nằm ở Thiên điện.
Đầu canh năm hôm sau, Lý Bạch vẫn còn say, ngủ li bì. Minh Hoàng thăng điện, truyền nội thị bắt ngự trù nấu canh cá chua dã rượu, đem đến để ban cho Lý Bạch. Minh Hoàng chính tay trao đến cho Lý Bạch dùng. Bạch tạ ơn vua, dùng xong cảm thấy hết say, tinh thần sảng khoái.
Lát sau, Sứ thần vào chầu. Lý Bạch tay cầm Phiên thư, đứng cạnh ngự tọa, cao giọng đọc hết lá thư, không nhầm một chữ. Phiên sứ thất kinh. Lý Bạch thay lời vua, dụ rằng :
- Nhà ngươi là Sứ của một nước nhỏ, dám vô lễ với Thiên triều, Thánh Thượng lượng bể bao dung, không nỡ hỏi tội, sẽ có chiếu xuống phúc đáp cho vua nước ngươi biết đâu là phải, biết đâu là quấy, nhà ngươi cứ ở đó mà đợi lịnh.
Minh Hoàng truyền đặt văn kỷ thất bảo cạnh ngự tọa, ban cho Lý Bạch cẩm đôn ngồi cạnh vua để thảo chiếu.
Lý Bạch tâu :
- Thần có một lời tâu, xin Bê hạ xá tội cuồng vọng.
Đường Minh Hoàng liền chuẩn hứa :
- Khanh cứ tâu bày, dù có lầm lỗi, Trẫm cũng không bắt tội. Lý Bạch phấn khởi tâu xin :
- Trước thần vào thi bị Thái Sư Dương Quốc Trung và Thái Úy Cao Lực Sĩ xua đuổi. Nay thấy 2 người ấy tại triều, văn khí của thần bị bế tắc. Vậy cúi xin Bệ hạ sai Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy tháo giày để thần được hùng tâm phấn khởi mà thảo chiếu thư làm cho Phiên vương phải bội phục mà triều cống.
Minh Hoàng đã lỡ hứa, không làm sao được, đành phải chiều ý Lý Bạch. Thế là Lý Bạch trả được cái hận năm xưa, trong lòng rất hả hê khoái chí nhứt đời, ngạo nghễ ngồi trên cẩm đôn, nhìn Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy cởi giày, vểnh mặt múa bút, loáng một chốc đã xong tờ chiếu, dâng lên long án.
Minh Hoàng thấy chữ viết trong tờ chiếu không khác chi Phiên thư, tuy miệng không nói ra, nhưng trong bụng rất bằng lòng nghĩ rằng : Con người tài hoa uyên bác đến bực nầy, dù bắt Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy tháo giày, cũng không trách Trẫm được, rồi truyền Lý Bạch đọc chiếu cho Phiên sứ nghe.
Minh Hoàng nghe đọc, văn chương trác tuyệt, ý tứ tân kỳ, tô điểm Thiên triều, hạ thị Phiên quốc, hùng tâm đởm lược, lấy làm vui sướng, truyền nội thị giao chiếu cho Phiên sứ. Phiên sứ nhận chiếu rất kinh sợ, không dám hó hé một lời, cúi đầu lạy tạ, lặng lẽ rút lui.
Hàn Lâm Hạ Tri Chương đưa tiễn Sứ Phiên ra khỏi triều. Phiên sứ hỏi :
- Quan thảo chiếu là hạng người nào mà khiến Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy tháo giày ?
Hạ Tri Chương liền đáp :
- Người ấy họ Lý, tên là Thái Bạch, làm quan Hàn Lâm Đại Học Sĩ, là một vị Tiên Thượng giới giáng trần để giúp Thánh triều. Thái Sư và Thái Úy bất quá chỉ là kẻ hiền ở thế gian, tất phải phụng sự bậc Thần Tiên ở Thượng giới.
Phiên sứ ghi nhớ mọi điều, trở về Phiên bang mà tâu trình các việc. Phiên Vương nghe sứ trở về tâu rõ các việc, rồi mở thư ra xem thì càng thêm sợ hãi. Thiên triều có Thần Tiên xuống giúp thì bao nhiêu vọng tưởng đều tiêu tan hết, bèn truyền viết biểu xưng thần, năm năm xin triều cống. Nhờ đó mà Minh Hoàng rất quí trọng Lý Bạch, ban cho Lý Bạch nhiều bạc vàng châu báu, nhưng Lý Bạch đều dửng dưng từ chối.
- Bạc vàng châu báu không phải là sở nguyện của hạ thần, xin Thánh Thượng cho làm Vô Ưu Học Sĩ, du ngoạn, thi tửu một bầu, nghênh ngang vui thú.
Đường Minh Hoàng biết Lý Bạch là người thanh cao, không dám cưỡng ép. Từ đó, vua thường ban yến, giữ Lý Bạch ngủ lại Long điện để bàn việc chính sự trong nước.

Một ngày kia, Lý Bạch cỡi ngựa dạo chơi nơi đường phố Trường An, bỗng thấy một bọn đao phủ dẫn chiếc tù xa, hỏi ra mới biết viên tướng chịu tội là Quách Tử Nghi ở Tinh Châu. Lý Bạch biết họ Quách là một vị tướng tài ba, cần phải cứu nạn, liền chạy đến dặn bọn đao phủ tạm dừng xử quyết, chờ Lý Bạch vào triều trần tấu. Lý Bạch liền bay ngựa vào triều, yết kiến Minh Hoàng, cầu xin một đạo chỉ ân xá, rồi lại bay ngựa trở lại pháp trường, tuyên đọc chiếu ân xá Quách Tử Nghi và khuyến nhủ nên rán sức đái công chuộc tội.
Tử Nghi lạy tạ ơn cứu mạng, rồi hỏi họ tên, được biết người vừa cứu mình là Lý Bạch.

Dương Quí Phi là em ruột của Dương Thái Sư, thấy Minh Hoàng quá yêu mến Lý Bạch, thì đem lòng ghen ghét, thường tâu vua chê bai Lý Bạch kiêu ngạo, không giữ đúng lễ quân thần.
Nghe Dương Quí Phi nói vậy, Đường Minh Hoàng không triệu Lý Bạch vào cung yến tiệc, mà cũng không giữ lại trong cung để bàn việc nước. Lý Bạch thấy vậy biết ngay rằng bọn Dương Quốc Trung và Cao Lực Sĩ hiệp cùng Dương Quí Phi gièm pha với vua để tìm cách báo thù Lý Bạch.
Mấy lần Lý Bạch tâu vua xin đi du ngoạn, nhưng vua Đường vẫn giữ lại không cho đi. Lý Bạch chỉ biết cùng 7 người bạn thân cùng nhau thơ rượu, chén tạc chén thù, ngâm thơ đàn hát, vui thú tháng ngày, nổi danh là ẨM TRUNG BÁT TIÊN, gồm : Lý Bạch, Hạ Tri Chương, Lý Thích Chi, Nhữ Vương Dương Tiến, Thôi Tông Chi, Tô Tấn, Trương Húc, và Tiêu Toại.
Một ngày kia, Đường Minh Hoàng triệu Lý Bạch vào cung để phóng thích con phượng hoàng về nơi cỏ nội mây ngàn, non xanh nước biếc.
- Trẫm thấy khanh tánh tình cao khiết, không thích ràng buộc chốn quan trường, nên Trẫm tạm cho khanh về quê vui thú, khanh có cần thứ gì, Trẫm sẽ ban cấp.
Lý Bạch liền quì tâu :
- Tâu Bệ hạ, thần cảm đội ơn đức của Bệ hạ, thần không cần gì ngoài một ít tiền để mua rượu, thơ rượu là nguyện vọng.
Đường Minh Hoàng liền ban cho Lý Bạch một tấm Kim Bài, trên đó khắc chữ ngự phê vào một mặt : "Lý Bạch là Thiên hạ Vô Ưu Học Sĩ, đến đâu uống rượu thì công khố phải chi tiền, Phủ cấp ngàn quan, Huyện cấp năm trăm. Văn Võ quân dân ai thất kính sẽ bị khép tội không tuân chiếu."
Nhà vua lại ban cho ngàn lạng vàng, bào gấm đai ngọc, yên vàng ngựa quí, và 12 người tùy tùng theo hầu Lý Bạch. Lý Bạch tạ ơn ông vua tri kỷ, rồi từ tạ. Minh Hoàng thân cắm 2 đóa hoa vàng lên mũ của Lý Bạch, thân tiễn 3 chung ngự tửu, truyền nội thị đỡ Lý Bạch lên ngựa ngay trước ngai vàng để đi ra khỏi triều môn. Đó là một ân huệ chưa từng có của thời phong kiến. Đường Minh Hoàng bùi ngùi trông theo bóng của Lý Bạch đến khuất mới lui vào trong nội điện.
Trăm quan đưa rượu tiễn hành đến ngoài 10 dặm. Hạ Tri Chương và 6 bạn nữa đưa tiễn rượu thơ đến ngoài trăm dặm, viết mấy trăm bài thi, đưa tiễn suốt 3 ngày mà vẫn chưa nỡ dứt tình tri kỷ. Hạ Tri Chương là người buồn nhứt vì yêu Lý Bạch nhứt.
Khi Lý Bạch về đến đất Thục, bạn bè quan viên hay tin đều đến thăm, thơ rượu xướng họa vui say. Hứa Phu nhân đón Lý Bạch, hân hoan nối lại khúc cầm đài của giai nhân và danh sĩ.
Sau nửa năm sống ở quê nhà, Lý Bạch lại động lòng bốn phương, liền nói với vợ là muốn đi du ngoạn sơn thủy. Hứa Phu nhân rất buồn thảm, đau đớn nỗi chia ly, nhưng phải cố làm vui để tiễn chàng thi sĩ.
Lần nầy, Lý Bạch không xênh xang trào phục, mà giả trang theo hàng Nho sĩ nghèo, dắt theo một đứa tiểu đồng, cỡi một con lừa tai vểnh để nghe thơ rượu ngâm vịnh dọc đường.
Ngày kia đi đến huyện Hoa Âm, dân chúng than thở quan Huyện hà khắc nhũng lạm thối nát. Lý Bạch có ý cảnh tỉnh quan Huyện, liền cho lừa nghênh ngang thẳng vào Huyện đường, vói tay đánh 3 hồi trống, làm như không biết có Huyện quan đang xét việc trên công đường. Huyện quan nghe trống, nhìn ra thấy một người đang cỡi lừa thì giận lắm, sai lính lệ ra lôi cổ tống giam vào ngục và bắt khai cung. Ngục quan sai quăng giấy bút vào cho Lý Bạch khai, nếu không sẽ đánh cho một trận. Lý Bạch cười, lượm giấy bút viết luôn : " Người khai cung là Lý Bạch, quê ở Cẩm Châu, Hàn Lâm Học Sĩ, say rượu thảo hồi thơ, sứ Phiên sợ thất phách, Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy cổi giày, Kim Loan làm điện ngủ, thanh danh khét bốn phương, trước sân rồng lên ngựa, giữa huyện Hoa Âm, các ngươi là thứ gì mà không cho ta cỡi lừa ?"
Ngục quan xem xong, hồn bay phách rụng, khấu đầu lạy Lý Bạch như tế sao, cầu xin tha tội. Lý Bạch cười bảo :
- Việc nầy không can gì đến ngươi, hãy gọi quan Huyện tới đây nói rằng ta phụng chỉ tra xét tội tham nhũng của bọn ngươi.
Ngục quan vội vàng mang tờ cung lên quan Huyện, thuật lại lời Lý Bạch. Tri Huyện hoảng sợ hết vía, chạy bay vào ngục, lạy van Lý Bạch, thỉnh Lý Bạch lên công đường để được nghe lời giáo huấn.
Chờ các quan hành lễ xong, Lý Bạch móc Kim Bài của vua ban cho đặt lên bàn, cho các quan trong huyện xem rồi phủ dụ :
- Lũ các ngươi ăn lộc nước, chịu ơn vua, tại sao còn vơ vét tài sản của dân, nếu không hối cải, ta theo Kim Bài mà xử đoán, các ngươi sẽ bị xử trảm cả lũ.
Quan Huyện lạy như tế sao, nhận tội và xin khoan dung, hứa trở thành một vị quan thanh liêm gương mẫu.
Tin nầy đồn đại ra khắp nơi, các quan địa phương khác đều tin là vua Huyền Tôn sai Lý Bạch đi các nơi tuần sát các quan, thăm hỏi dân tình, nên đều lo sợ, không dám làm điều bạo ngược với dân chúng.

Nói về giặc An Lộc Sơn nổi lên đánh vào kinh đô làm vua Đường Huyền Tôn phải bỏ chạy vào đất Thục; còn Thái Tử Lý Hanh được quần thần thuyết phục ở lại chiêu tập binh mã đánh lại An Lộc Sơn.
Thái Tử đến Linh Vũ rồi đưa hịch đi khắp nơi, thu thập những người trung nghĩa, tích thảo đồn lương, chuẩn bị phản công An Lộc Sơn. Các quan đồng tâu xin Thái Tử lên ngôi Hoàng Đế. Thái Tử bằng lòng, lên ngôi tại Linh Vũ, lấy hiệu là Túc Tôn, niên hiệu Chí Đức, tôn vua Huyền Tôn làm Thái Thượng Hoàng, tất cả các quan đều được thăng trật.
Túc Tôn định dâng biểu cho Huyền Tôn thì chiếu của vua Huyền Tôn vừa tới, phong Thái Tử làm Đại Nguyên Soái, cầm binh đánh dẹp giặc An Lộc Sơn.
Cuộc lên ngôi của Túc Tôn khi chưa có chiếu chỉ của vua cha bị nhiều người cho là bất hợp pháp, có nhà Nho lại nói : Nhân lúc khốn đốn, con cướp ngôi cha.
Lúc đó, Vĩnh Vương Lý Lân (em của Thái tử Lý Hanh) đang trấn ở Giang Lăng thấy vậy không phục, nói rằng :"Thái Tử tự ý lên ngôi khi chưa có chiếu chỉ của Phụ Hoàng, thì ta đây cũng có quyền lên ngôi. Cả vùng Giang Lăng rộng lớn và trù phú thế nầy, sao ta không mưu lấy nghiệp riêng ?"
Nói rồi, Lý Lân lên ngôi làm vua ở Giang Lăng, lập triều đình riêng, mở cửa chiêu hiền đãi sĩ.
Nghe tin Lý Bạch là danh sĩ đang ẩn cư tại Lư Sơn, Lý Lân cho sứ giả đến mời. Lý Bạch nói :
- Ta đã được vua Huyền Tôn phong làm Hàn Lâm Đại Học Sĩ, Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy cổi giày cho ta, say rượu ngủ tại Kim Loan điện, lên ngựa trước ngai vàng, đi uống rượu thì quan Phủ , Huyện phải trả tiền, danh vọng đến thế mà ta còn không màng, huống chi ra làm mưu thần cho một tên phản loạn triều đình,
Nói xong, Lý Bạch đuổi sứ giả về.
Lý Lân liền cho quân lính đến bắt cóc Lý Bạch đưa về Giang Lăng, chiêu dụ nhiều lần nhưng Lý Bạch nhứt định thà chịu chết chớ không nhận làm quan cho Lý Lân. Lý Lân tức giận, đem Lý Bạch giam vào ngục Tần Dương.
Vua Túc Tôn, dẹp yên được giặc An Lộc Sơn, liền sai Hoài Nam Tiết Độ Sứ Cao Thích và Phó Sứ Lý Thành Vũ kéo quân đi hỏi tội Lý Lân ở Giang Lăng. Vĩnh Vương Lý Lân đại bại nên phải tự tử, còn Lý Bạch ở trong nhà ngục Tần Dương bị bắt giải về triều.
Vua Túc Tôn định xử tội Lý Bạch, thì Phó soái Quách Tử Nghi vội viết biểu tâu rằng :
" Lý Bạch là đại tài tử, lại là người có phẩm cách tuyệt vời. Xưa Thượng Hoàng từng ban yến mời Lý Học Sĩ ra làm quan, mấy lần Lý Bạch đều từ chối. Nay Lý Lân tiếm xưng, cho người đi bắt Lý Học Sĩ ép buộc làm quan, nhưng Lý Học Sĩ cương quyết từ chối, nên bị Lý Lân bắt giam tại Tần Dương. Thần nguyện đem tánh mạng của dòng họ nhà thần trên 100 người ra để bảo đảm việc nầy. Xin Bệ hạ đừng giết oan một người tài giỏi và trung hậu như Lý Học Sĩ."
Vua Túc Tôn cho pháp ty tra xét thì quả đúng như lời tâu của Quách Tử Nghi, nên Túc Tôn tha cho Lý Bạch.
Sau đó, vua Túc Tôn đi rước Thái Thượng Hoàng Đường Huyền Tôn nơi đất Thục trở về kinh đô Tràng An.
Thượng Hoàng nói với Túc Tôn :
- Hai tướng Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật đều có công lớn, nhưng công của Quách thì lớn hơn Lý nhiều. Việc thất bại vừa rồi không phải lỗi của Quách Tử Nghi mà bởi Quách Tử Nghi không được trọn quyền quyết định.
Túc Tôn vâng mệnh, nên về sau phong thưởng cho Lý Quang Bật làm Thái Úy Trung Thư Lệnh, còn Quách Tử Nghi làm Phàn Dương Vương.
Nhân đó, Thượng Hoàng nói :
- Bây giờ, mới biết Lý Bạch có con mắt tinh đời : Chỉ có anh hùng mới biết anh hùng ! Nếu Lý Bạch không cứu Quách Tử Nghi lúc đó thì ai cứu được nhà Đường buổi nay ? Nói đúng hơn là Lý Bạch đã cứu nhà Đường ta đó.
Vua Túc Tôn nghe Thượng Hoàng nói thế thì lấy làm ân hận vì đã đối xử không tốt với Lý Bạch.
Sau vụ Lý Lân, Lý Bạch càng chán nãn sự đời. Từ đó, Lý Bạch thả một lá thuyền cùng bầu rượu túi thơ, du ngoạn Động Đình Hồ.
Nột đêm trăng sáng tuyệt vời, thuyền đến ven sông Thái Trạch, khung cảnh huyền ảo, Lý Bạch ngồi lặng đầu thuyền, nhấp chén men say, hồn lâng lâng như bay bổng. Từ không trung có tiếng nhạc đưa đến, một con cá kình lớn nổi lên, Tiên đồng hiện ra giữa Trời, cầm phướn đến trước Lý Bạch, thưa : " Phụng lịnh Thượng Đế, xin rước Tinh Quân trở về ngôi cũ."
Quan địa phương dâng biểu về triều, báo cáo sự việc Lý Thái Bạch thoát trần về Tiên.
Năm đó là năm 762, Lý Thái Bạch thọ 61 tuổi. Vua Đường Túc Tôn dạy lập Đền thờ tại bờ sông đề là "Lý Trích Tiên Từ", ghi ngày kỷ niệm thoát trần, hằng năm cúng tế.

Đức Lý Thái Bạch có giáng cơ cho một bài thi tóm tắt cuộc đời của Ngài như sau :

LÝ BẠCH (Noel 1925)
Đường trào hạ thế hưởng Tam quan,
Chẳng vị công danh, chỉ hưởng nhàn.
Ly rượu trăm thi, lời vẫn nhắc,
Tánh Tiên muôn kiếp, vốn chưa tàn.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thi văn đổ chứa chan.
Bồng đảo còn mơ khi bút múa,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.
                                                                                                 (TNHT)

Đức Lý Thái Bạch giáng cơ cho biết quyền hành của Ngài mà Đức Chí Tôn đã giao trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ qua bài thơ sau đây :
Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng vưng thuở Thiên triều,
Càn Khôn Thế giới dắt dìu Tinh Quân.
Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Đường triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế,
Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.
Động Đình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng Đảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân.
                                      Lý Thái Bạch

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát
Nhị Trấn Oai Nghiêm

Quan có nghĩa là quan sát, xem xét, cũng có nghĩa là nghe biết. Thế là đời, là cõi trần. Âm là tiếng nói, âm thanh.
Quan Thế Âm Bồ Tát là một vị Bồ Tát nhận biết được tiếng kêu cứu của chúng sanh nơi cõi trần , Ngài liền hiện đến để cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh.
Do đó, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát còn được gọi là : Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, hay gọi vắt tắt là : Quan Âm Bồ Tát hay Quan Âm Như Lai.
Ngài là một vị Nữ Phật, nhưng còn mang danh hiệu Bồ Tát là vì Ngài còn nhiệm vụ cứu độ chúng sanh.
Phật giáo Tây Tạng gọi Ngài là Quán Thế Âm Phật, là vị Phật Nam, hộ trợ xứ Tây Tạng. Người Tây Tạng đều tin rằng , chính Ngài chuyển hóa vào thân Đức vua Đạt-Lai-Lạt-Ma cai trị xứ Tây Tạng, nên dân Tây Tạng xem Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma là vị Phật sống của họ.
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có một hiện thân gồm 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt, có 108 hồng danh. Ngài ngự tại Đền Potala nơi kinh đô xứ Lhassa, Tây Tạng.
Ở Trung Hoa và Việt nam, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Nữ Phật do 2 truyện tích : Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện.
Bất cứ hạng nào trong chúng sanh, khi bị lâm nguy tánh mạng, như gặp phải tai nạn lửa cháy, tai nạn chìm tàu, bị cướp hãm hại, bị tra khảo, tù đày oan ức, vv . . . nếu thành tâm niệm danh hiệu của Ngài để cầu cứu thì Ngài liền hiện đến mà cứu giúp cho tai qua nạn khỏi.
Trong Đạo Cao Đài, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Nữ Phật, đại diện Đức Phật Thích Ca, lãnh lịnh Đức Chí Tôn làm Đệ Nhị Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Phật giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Trên tấm diềm phía trước Bát Quái Đài Tòa Thánh, tượng của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ngự trên tòa sen, gần bìa phía tay mặt của Đức Lão Tử, thuộc bên Nữ phái.
Trong LUẬT TAM THỂ, Bát Nương có giáng cơ dạy rằng : " Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về Cơ Giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về Cơ Phổ độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát là Đấng cầm đầu. Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải, ở An Nhàn Động, còn Cung Diêu Trì thì ở tại Tạo Hóa Thiên."

Theo các kinh sách truyền lại, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có 33 kiếp giáng trần, khi thì làm Nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì giáng sanh vào nơi cao sang quyền quí, khi thì vào nơi bần cùng nghèo khổ, khi thì làm Đạo sĩ, khi thì làm Tỳ Kheo, vv . . .
Có 2 kiếp giáng trần làm phụ nữ của Ngài được người đời truyền tụng, đó là kiếp thứ 10 : Ngài giáng trần làm nàng Thị Kính ở nước Cao Ly (Triều Tiên), tu hành đắc đạo, gọi là Quan Âm Thị Kính; và kiếp giáng trần sau chót ở nước Ấn Độ là Công Chúa Diệu Thiện, cũng tu hành đắc đạo tại Phổ Đà Sơn ở Nam Hải, nên gọi là Quan Âm Diệu Thiện.
Sau đây xin ghi lại 2 sự tích nổi tiếng nầy :

Sự tích 1 : QUAN ÂM THỊ KÍNH

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã đầu thai xuống trần tu hành được 9 kiếp rồi, đến kiếp thứ 10, Ngài giáng sanh vào nhà họ Mãng ở nước Cao Ly. Hai Ông Bà họ Mãng đã lớn tuổi rồi, nhà lại giàu có, nhưng chưa có con. Ngày kia, hai vợ chồng lên chùa cầu tự, sau đó có thai và sanh được một gái, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang, đặt tên là Thị Kính.
Khi nàng Thị Kính đến tuổi cặp kê, gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà họ Sùng, cậy mai mối đến hỏi cưới Thị Kính. Vợ chồng Mãng Ông thấy phải đôi vừa lứa nên bằng lòng gả Thị Kính cho Thiện Sĩ.
Nàng Thị Kính rất buồn bã vì phải về ở nơi nhà chồng, không ai săn sóc cha mẹ. Cha mẹ nàng an ủi : " Cha mẹ sanh con gái đến tuổi khôn lớn gả chồng, làm đẹp mày đẹp mặt cho cha mẹ là đủ rồi. Vả lại, nhà bên chồng của con cũng ở gần đây thì sự thăm viếng cũng thuận tiện."
Từ khi về nhà chồng, nàng Thị Kính giữ một mực tôn kính, phụng sự nhà chồng, trong ấm ngoài êm, ai nấy đều khen ngợi.
Một ngày kia, nàng đang ngồi may vá, chàng Thiện Sĩ đọc sách mỏi mệt, đến gần chỗ nàng ngồi may nằm nghỉ và ngủ quên. Nàng thấy nơi càm chồng có mọc sợi râu bất lợi, nên sẵn cầm dao nhíp nơi tay, nàng đưa dao cắt đứt. Bỗng chàng Thiện Sĩ giựt mình thức dậy, thấy vợ đang cầm dao đưa ngay vào cổ mình, vụt la hoảng : " Vợ tôi muốn giết tôi."
Trong nhà vỡ lỡ, cha mẹ chồng chạy ra gạn hỏi, nàng cứ tình thiệt trình bày. Không ngờ cha mẹ chồng quá nghiêm khắc, bắt tội nàng mưu giết chồng, buộc Thiện Sĩ phải làm tờ thôi vợ, rồi cho mời Mãng Ông tới để lãnh con gái về.
Nàng Thị Kính phải mang mối hàm oan, đành lạy từ cha mẹ chồng, theo Mãng Ông trở về nhà. Nàng buồn bã muôn phần, một là buồn cho số phận xui xẻo, hai là buồn cho cha mẹ phải mang điều phiền não. Nàng than rằng : Nếu nàng có anh em đông thì nàng đành quyên sinh để khỏi mang tiếng nhơ như thế. Nhưng vì nàng là con một, nên nàng không dám hủy mình, sợ mang tội bất hiếu, mà ở như thế nầy thì cũng rất khổ tâm, cho nên nàng quyết định xuất gia, lo tu hành cho đắc đạo, rồi sẽ trở về độ cha mẹ.
Nàng lén cải trang thành một Nam tử, rồi bỏ nhà trốn đi, đến một ngôi chùa nọ thì gặp Sư cụ đang thuyết pháp. Nàng thấy Sư cụ là bực chơn tu, nên xin Sư cụ cho thọ pháp qui y.
Sư cụ gạn hỏi nhiều lần, vì Sư cụ thấy trang thiếu niên nầy còn trẻ quá mà sao lòng chán đời, đến nương nhờ cửa Phật, gột rửa lòng phàm. Sư cụ thấy lòng thành và chí quả quyết của người thiếu niên, nên cho thọ pháp qui y, đặt Pháp danh là Kỉnh Tâm, và nhận Kỉnh Tâm làm đệ tử.
Sãi Kỉnh Tâm là gái giả trai, nên dung mạo đẹp đẽ, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhứt là nàng Thị Mầu, con của một vị trưởng giả giàu có ở vùng ấy. Thị Mầu nhiều lần trêu ghẹo Sãi Kỉnh Tâm, đưa lời ong bướm, nhưng Kỉnh Tâm vẫn trơ trơ như không hay biết. Thị Mầu quá si mê Kỉnh Tâm, trong một lúc quá bồng bột, không kềm giữ được lòng dục, nàng tư thông với đứa tớ trai của nàng, khiến nàng có thai.
Làng xã thấy nàng Thị Mầu không chồng mà có chữa, nên gọi nàng và cha mẹ nàng đến tra hỏi.
Nàng khai rằng, nàng có tư tình với Sãi Kỉnh Tâm nên mới ra cớ sự, và xin làng rộng tình cho Kỉnh Tâm hoàn tục kết duyên với nàng.
Trống mõ inh ỏi, cửa Thiền xưa nay êm lặng, phút chốc trở nên huyên náo, người làng đến đòi Sư Ông và Sãi Kỉnh Tâm ra làng dạy việc. Thầy trò không biết việc gì, cùng dắt nhau đi, đến nơi mới hay tự sự.
Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao cứ khai cho thiệt. Kỉnh Tâm một mực kêu oan, chớ không dám nói điều chi khác nữa.
Kỉnh Tâm bị làng đem ra tra tấn, đòn bộng, máu đổ thịt rơi, mấy lần bất tỉnh, nhưng Kỉnh Tâm vẫn một mực kêu oan. Sư Cụ động mối từ tâm, đứng ra xin bảo lãnh cho trò để đem về khuyên nhủ dạy răn.
Thấy thế, Hương chức làng cũng niệm tình ưng thuận.
Sau đó Sư Cụ bảo Kỉnh Tâm phải ra ngoài cổng Tam quan của chùa mà ở để tránh tiếng không tốt cho chùa.
Thời gian trôi qua, Thị Mầu sanh được một đứa con trai, nàng liền bồng đứa hài nhi đến cổng chùa giao cho Sãi Kỉnh Tâm, nói rằng : "Con của ngươi thì đem trả cho ngươi."
Sãi Kỉnh Tâm đang tụng kinh, đứa hài nhi bị bỏ dưới đất, giãy giụa khóc la. Kỉnh Tâm nghe tiếng trẻ khóc, động mối từ tâm, chẳng cần dư luận, bèn ra ẵm đứa bé đem vào nuôi dưỡng.
Sư Cụ trách Kỉnh Tâm : " Trước kia, con nói con bị hàm oan, mà nay con lại nuôi đứa bé nầy, chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa, huống chi là ai," Kỉnh Tâm bạch rằng : " Bạch Sư phụ, khi xưa Sư phụ có dạy đệ tử rằng, cứu đặng một người thì phước đức hà sa. Đệ tử vâng theo lời thầy nên mới cứu mạng đứa bé nầy, chớ kỳ thật con không có ý chi hết."
Đứa trẻ càng lớn càng giống Kỉnh Tâm như hệt, lại có vẻ thông minh. Khi đứa bé được 3 tuổi thì Kỉnh Tâm lâm trọng bịnh, biết mình sắp lìa trần theo Phật, nên Kỉnh Tâm rán ngồi dậy viết 2 bức thơ : Một gởi cho Sư Cụ, hai là gởi cho cha mẹ ruột, ông bà họ Mãng, rồi dặn kỹ hài nhi làm đúng theo lời dặn.
Khi Sãi Kỉnh Tâm tắt hơi, đứa bé kêu cha khóc lóc một hồi, rồi nhớ lời cha dặn, liền đem thư vào đưa cho Sư Cụ .
Sư Cụ mở thư ra, xem xong trong lòng rất bùi ngùi thương tiếc, sai vài vị Ni cô ra khám xét thi thể của Kỉnh Tâm, thì rõ ràng Kỉnh Tâm là gái giả trai.
Tin Sãi Kỉnh Tâm là gái giả trai được truyền đi mau lẹ trong làng, làm mọi người hết sức ngạc nhiên.
Hương Chức trong làng đòi Thị Mầu tới, buộc tội cáo gian, phạt phải chịu tổn phí về các cuộc tống táng và làm ma chay cho Kỉnh Tâm.
Thị Mầu quá xấu hổ, bèn liều mình quyên sinh.
Đến ngày an táng Sãi Kỉnh Tâm, tức là nàng Thị Kính, mọi người đều nhìn thấy Đức Phật ngự tòa sen hiện ra ở trên mây, rước hồn của nàng Thị Kính về cõi Tây phương.
Chàng Thiện Sĩ rất ăn năn hối lỗi, nên phát nguyện tu hành. Tục truyền rằng, Đức Quan Âm Bồ Tát nhận thấy chàng Thiện Sĩ thật tâm hối lỗi và quyết chí tu hành, nên hiện đến cứu độ, đem về Nam Hải, hóa thành một con chim đậu một bên Đức Quan Âm Bồ Tát, mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề.
Quan Âm Bồ Tát cũng cứu độ đứa con nuôi, con ruột của Thị Mầu, đem về Nam Hải, đứng hầu bên Ngài.
Do đó, người ta họa hình Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo tràng trắng, ngự trên tòa sen, bên tay mặt có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chấp tay đứng hầu.
Đó là lấy theo sự tích Quan Âm Thị Kính.

Sự tích 2 : QUAN ÂM DIỆU THIỆN
hay QUAN ÂM NAM HẢI.

Theo sự khảo cứu của học giả De Groot, người Hòa Lan, kiếp chót của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là Công Chúa Diệu Thiện, con của vua Linh Ưu nước Hưng Lâm, một Tiểu quốc của Ấn Độ, ở về phía Đông Ấn Độ.
Từ ngày nhà vua lên ngôi đến nay đã 40 năm mà Hoàng Hậu Bửu Đức không hạ sanh được một vị Hoàng tử nào. Nhà vua cùng Hoàng Hậu đi lên núi Huê sơn cầu tự. Trên núi Huê sơn có một vị Thần rất linh hiển, ai cầu chi được nấy. Cầu tự xong, ít lâu sau, Hoàng hậu có thai, sanh đặng một Công Chúa, đặt tên là Diệu Thanh. Sau đó lại tiếp tục có thai sanh thêm 2 nàng Công Chúa nữa là : Diệu Âm và Diệu Thiện; không sanh được một Hoàng Tử nào.
Ba nàng Công Chúa lớn lên, nhà vua định hôn cho 2 chị của Diệu Thiện là Diệu Thanh và Diệu Âm, với 2 vị quan trẻ tuổi và tài giỏi trong triều đình; còn nàng con gái út Diệu Thiện thì nhứt định không chịu lấy chồng, mà lại còn có ý xin phép vua cha và mẫu hậu xuất gia tu hành.
Vua Linh Ưu tức giận, đày nàng Diệu Thiện vào ở trong Hoa Viên lo việc gánh nước tưới hoa, và làm các công việc cực khổ khác; đồng thời cho người khuyến dụ nàng từ bỏ ý định đi tu, nhưng nàng nhứt định cam chịu khổ sở chớ không chịu từ bỏ ý định tu hành.
Thấy vậy, Hoàng Hậu rất đau lòng, liền xin với vua Linh Ưu cho Diệu Thiện vào chùa Bạch Tước tu hành. Nhà vua chấp thuận, và ngầm ra lịnh cho các tăng ni trong chùa bắt Diệu Thiện làm các công việc nặng nhọc vất vả, để nàng không chịu nổi mà sớm trở về Cung nôïi.
Diệu Thiện, tâm vẫn cương quyết, làm đầy đủ các bổn phận, dầu rất cực khổ, nhưng không một tiếng than, và luôn luôn lo việc tu hành.
Nhà vua thấy cách nầy thất bại, nên nghĩ ra cách sai lính đốt chùa, để nàng Diệu Thiện không còn nơi tu hành, đành phải trở về Cung nội. Quân lính phóng hỏa khắp 4 mặt, các tăng ni hốt hoảng lo chạy thoát thân, riêng nàng Diệu Thiện vẫn điềm tỉnh, nàng lâm râm cầu nguyện, rồi lấy cây trâm chích vào lưỡi, ngước mặt phun máu lên không, tức thì mây đen hiện ra, giây lát mưa tuôn xối xả, dập tắt hết các ngọn lửa. Quân lính đều hết sức kinh ngạc.
Nhà vua không vì sự mầu nhiệm đó mà hối hận việc làm, lại bắt nàng Diệu Thiện về triều, tổ chức các cuộc đàn hát vui chơi, để làm cho nàng Diệu Thiện say mê, bỏ việc tu hành. Nhưng vua cha vẫn thất bại với Đạo tâm vững chắc của nàng con gái út.
Nhà vua quá tức giận vì không thực hiện được ý mình, nên ra lịnh tối hậu cho nàng Diệu Thiện chọn một trong 2 điều : Một là phế việc tu hành, lo bề gia thất; Hai là chịu xử trảm vì cải lịnh vua cha.
Nàng Diệu Thiện nhứt quyết chịu chết chớ không chịu bỏ việc tu hành. Thần Hoàng Bổn Cảnh vội vã bay về Trời tâu trình Thượng Đế, và Đức Thượng Đế ra lịnh cho Thần mau trở về bảo hộ nàng Diệu Thiện.
Diệu Thiện bị đưa ra pháp trường hành quyết. Khi đao phủ đưa đao lên định chém xuống thì đao liền gãy nát; lại lấy cung tên đặng bắn cho chết thì khi mũi tên gần tới Diệu Thiện thì mũi tên bị gãy nát. Thấy không giết được Diệu Thiện bằng 2 cách trên, kẻ hành quyết liền dùng 2 bàn tay đến siết cổ Diệu Thiện. Bỗng đâu cuồng phong nổi lên, cát bay đá chạy, thiên ám địa hôn, một đạo hào quang bay đến bao phủ nàng Diệu Thiện, rồi Thần Hoàng hóa thành một con hổ lớn cõng Công Chúa Diệu Thiện chạy bay vào rừng. Các quan giám sát cuộc hành quyết bị một phen hoảng vía, trở về triều báo cáo lại với vua Linh Ưu tất cả các việc.
Nhà vua không chút nao núng phán rằng : "Công Chúa mang tội bất hiếu nên bị cọp tha mất xác cho đáng kiếp."
Công Chúa Diệu Thiện bất tỉnh, hồn Công Chúa thấy một vị Sứ giả mặc áo xanh, tay cầm tờ giấy nói rằng : "Diêm Vương mời nàng xuống Diêm Cung để xem các cảnh khổ não và những hình phạt nặng nề những linh hồn mà trong kiếp sanh đã làm nhiều điều ác độc."
Thập Điện Diêm Vương cũng muốn nghe nàng thuyết pháp. Công Chúa vâng lịnh, dùng tâm từ bi và sức thần thông thuyết pháp cho 10 vua nghe, các tội hồn trong ngục cũng được nghe và liền giác ngộ. Trong phút chốc, chốn U Minh thành Lạc Cảnh, và các tội hồn đều được thoát ra khỏi ngục, đầu kiếp trở lại cõi trần.
Thấy các cửa ngục đều trống trơn, Thập Điện Diêm Vương vội đưa hồn Diệu Thiện trở lại dương thế và cho nhập vào xác. Nàng tỉnh dậy, thấy mình đang nằm giữa rừng vắng vẻ, không biết phải làm sao và đi phương nào.
Đức Phật Nhiên Đăng hiện ra trên mây, bảo nàng hãy đi ra biển Nam Hải, đến núi Phổ Đà, tu hành thêm một thời gian nữa thì sẽ đắc đạo, đạt vị Như Lai. Muốn đi đến đó, phải trải qua 3000 dặm đường. Đức Phật Nhiên Đăng lại tặng cho nàng một trái Đào Tiên , ăn vào không biết đói khát trọn năm, mà còn được trường sanh bất lão.
Nàng Diệu Thiện nhận lãnh và bái tạ Đức Phật, đoạn nàng tìm đường đi đến Nam Hải. Thái Bạch Kim Tinh hiện xuống, truyền cho Thần Hoàng biến ra Thần hổ, cõng Diệu Thiện đến Phổ Đà Sơn cho mau lẹ.
Tại Phổ Đà Sơn, nàng Diệu Thiện tu thiền định trong 9 năm, đạo pháp đạt được cao siêu.
Ngày 19 tháng 2 năm ấy, là ngày thành đạo của Công Chúa Diệu Thiện. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đến chúc mừng và xưng tụng vị Bồ Tát mới đắc đạo. Công Chúa Diệu Thiện ngự trên tòa sen, hào quang sáng lòa, xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát.
Lúc ấy chư Thánh muốn lựa một Đồng tử để theo hầu Ngài, thì may đâu lúc đó có một vị tên là Hoàn Thiện Tài, mồ côi cha mẹ, phát nguyện tu hành, qui y Phật pháp, nhưng chưa chứng quả, nay nghe nơi Phổ Đà Sơn có một vị Bồ Tát mới đắc đạo, nên xin đến hầu Ngài.
Trước khi chấp thuận lời thỉnh cầu ấy, Đức Quan Âm muốn thử xem tâmchí của Thiện Tài ra sao. Ngài truyền cho Sơn Thần Thổ Địa hóa làm ăn cướp đến bắt Ngài, Ngài giả bộ sợ sệt kêu la cầu cứu và ngã té xuống hố sâu. Thiện Tài chạy đến cứu thầy, và nhảy theo xuống hố. Thiện Tài thiệt mạng, chơn hồn liền xuất ra khỏi xác, đến hầu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát và được thâu làm đệ tử.
Về sau, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thâu thêm Long Nữ, con gái của Đệ Tam Thái Tử của Long Vương Nam Hải, làm đệ tử.
Nguyên ngày kia, Long Nữ hóa làm con cá đi dạo chơi trên mặt biển, chẳng may bị một ông chài bắt được. Ông đem cá ấy ra chợ bán. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát biết được, sai Thiện Tài Đồng tử hóa ra một người thường, đi ra chợ hỏi mua con cá ấy, rồi đem ra biển Nam thả xuống.
Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử cháu nội của mình, nên dạy Long Nữ đem một cục ngọc quí là Dạ Minh Châu đến dâng cho Bồ Tát để Bồ Tát đọc sách ban đêm mà không cần đèn.
Long Nữ đến dâng ngọc xong, lòng hết sức cảm phục Bồ Tát, nên xin qui y và được Bồ Tát thâu làm đệ tử.
Từ ấy, Thiện Tài Đồng Tử và Long Nữ luôn luôn theo bên cạnh để lo phụng sự Bồ Tát.
Nhắc lại, từ khi vua Linh Ưu ra lịnh giết chết Diệu Thiện, và Diệu Thiện được Thần Hoàng cứu thoát, nhà vua mắc một chứng bịnh nan y vô cùng khổ sở, thân thể nhà vua bị lở loét ngoài da cùng mình, mùi hôi thối xông ra nồng nặc, nhức nhối đau đớn vô cùng. Nhiều danh y tới điều trị mà bịnh vẫn không thuyên giảm chút nào.
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ở Nam Hải hay biết việc đó, nên Ngài hóa ra một vị sư già, đi đến kinh thành xin vào trị bịnh cho vua Linh Ưu.
Sau khi xem mạch vua, vị sư già tâu : " Bịnh của Bệ hạ do oan nghiệt nhập với chất độc cao lương mỹ vị và tửu nhục hằng ngày, nên phát sanh ra ngoài da thành bịnh nan y. Nếu muốn chữa lành thì phải có đôi mắt và đôi cánh tay của một người con thì mới chế thuốc được.
Nghe vậy, nhà vua cho đòi 2 Công Chúa Diệu Thanh, Diệu Âm và 2 Phò Mã đến, rồi nhà vua lập lại lời nói của vị sư già, hỏi xem có đứa con nào dám hy sinh để trị bịnh cho vua cha không ?
Hai Công Chúa cùng tâu : " Xin Phụ vương đừng nghe lời ông sãi mầm nầy, bởi vì một người bị khoét đôi mắt và bị chặt hết 2 tay thì dù có sống cũng chẳng ra chi. Chẳng lẽ cứu bịnh một người mà lại hủy hoại một người khác hay sao ? "
Vua Linh Ưu chợt nhớ tới Công Chúa út là Diệu Thiện, liền than : " Nếu Diệu Thiện còn sống thì Trẫm ắt lành bịnh, vì Diệu Thiện sẽ hy sinh cho Trẫm."
Vị Sư già liền tâu : " Tâu Bệ hạ, Bần tăng biết rõ Công Chúa Diệu Thiện hiện vẫn còn sống, ở tại núi Phổ Đà, biển Nam Hải. Xin Bệ hạ cho người đi đến đó, tìm Công Chúa thì may ra chế được thuốc cho nhà vua. Bần tăng xin để thuốc lại đây, khi nào có đôi mắt và đôi tay của Diệu Thiện đem về thì nhập với thuốc nầy, nấu chung lại, rồi trong uống, ngoài thoa, bịnh của Bệ hạ sẽ hết ngay."
Vị Sư già nói xong thì từ giã nhà vua trở về núi.
Vua Linh Ưu rất mừng, liền cho sứ giả sắp đặt hành trang lên đường đi Nam Hải, tìm Công Chúa Diệu Thiện. Khi sứ giả đến được Phổ Đà Sơn thì gặp một Đồng tử bưng ra một cái mâm phủ vải trắng còn thấm máu tươi, trong đó có đôi mắt và đôi tay của Diệu Thiện, đem ra trao cho sứ giả và nói :
" Đây là đôi mắt và 2 cánh tay của Công Chúa Diệu Thiện, sứ giả hãy mau đem về chế thuốc trị bịnh cho vua."
Hoàng Hậu khi nhìn thấy sứ giả đem đôi mắt và đôi tay của Diệu Thiện về, còn dính máu tươi thì òa lên khóc mướt. Thị vệ liền đem nấu với thuốc do vị Sư già để lại, cho nhà vua uống phân nữa, còn phân nữa để thoa lên khắp mình mẩy, phút chốc, thân thể nhà vua lành lặn như xưa, hết đau nhức, mà lại còn cảm thấy khỏe khoắn hơn trước.
Vua Linh Ưu và Hoàng Hậu cảm mến ơn nghĩa của Diệu Thiện, nên quyết định đi ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình, gặp không biết bao nhiêu nguy hiểm, nhưng đều được Quan Âm Bồ Tát dùng thần thông cứu khỏi.
Đến nơi, vua Linh Ưu và Hoàng Hậu thấy một vị Bồ Tát đang ngự trên tòa sen, nhưng mất cả 2 cánh tay và 2 con mắt. Vua biết đó là Công Chúa Diệu Thiện, con của mình, nên vô cùng xúc động, nhớ lại mà ăn năn sám hối lỗi lầm, rồi đồng quì xuống cầu nguyện cùng Trời Phật xin cho Công Chúa được lành lặn như xưa.
Sự thành tâm cầu nguyện của vua và Hoàng Hậu có kết quả, Bồ Tát Diệu Thiện liền hiện hào quang với đầy đủ 2 tay và 2 mắt như lúc trước.
Lúc ấy, vua và Hoàng Hậu đều giác ngộ, quyết rời bỏ điện ngọc ngai vàng, đem mình vào chốn Thiền môn, lo tu hành cầu giải thoát.

Nguyên căn của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát :
Đức Chí Tôn giáng cơ cho biết, nguyên căn của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là do Đức Từ Hàng Bồ Tát biến thân.
TNHT. I. 31 : " Người ta gọi Quan Âm là Nữ Phật Tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân. Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần đời nhà Thương." (Nhà Thương bên Tàu khởi đầu từ năm 1766 và dứt vào năm 1122 trước Tây lịch ). Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nhân ngày Vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, tại Đền Thánh, thời Tý ngày 19-2-Kỷ Sửu (1949), cũng có nói như sau :
" Hôm nay là ngày vía của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Bần đạo đã thường nói, nơi cửa Thiêng liêng Hằng sống, Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng ở trong gia tộc sang trọng và oai quyền hơn hết.
Cái nguyên căn của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là do nơi Pháp thân của Từ Hàng sản xuất. . . ."
Do đó, trong Kinh Đệ Bát Cửu có câu :
Cung Tận Thức thần thông biến hóa,
Phổ Đà Sơn giải quả Từ Hàng.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, Đức Từ Hàng Bồ Tát chiết chơn linh giáng trần, tu hành qua nhiều kiếp, cuối cùng đắc đạo tại Phổ Đà Sơn, hiệu là Quan Thế Âm Bồ Tát.
Trong con đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo cho biết, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vâng lịnh Đức Phật Vương Di-Lạc "chèo thuyền Bát Nhã Ngân Hà độ sanh".
" Bần đạo chỉ nói nơi xa xăm của chúng ta đi qua, chúng ta thấy hình trạng Bát Quái Đài, dưới chân có Thất đầu xà, và dưới mình của Thất Đầu Xà là Khổ Hải, tức là cảnh trần của chúng ta đó vậy.
Bên kia, có liên tiếp mật thiết vô một nẻo sông Ngân Hà, rồi Bần đạo chỉ cho hiểu rằng, từ Khổ Hải về cảnh Thiêng liêng Hằng sống phải đi ngang qua Ngân Hà, có một chiếc Thuyền bát Nhã của Đức Quan Âm Bồ Tát, vâng lịnh Đức Di-Lạc Vương Phật, chèo qua lại sông Ngân Hà và Khổ Hải đặng độ sanh thiên hạ,"
Hội Thánh của Đạo Cao Đài chọn ngày 19 tháng 2 âm lịch là ngày thành đạo của Công Chúa Diệu Thiện làm ngày Vía Kỷ niệm Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Hằng năm, khi đến ngày nầy, tại Tòa Thánh và các Thánh Thất địa phương đều thiết lễ Đại Đàn cúng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại công đức và nhiệm vụ của Ngài trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
KINH CỨU KHỔ là bài kinh đặc biệt cầu nguyện Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn chúng sanh.
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có giáng cơ ban cho 2 Bài Kinh Thiên đạo là :
- Kinh Hạ Huyệt
- Kinh Khai Cửu, Đại Tường và Tiểu Tường.

Trong TNHT, có đăng nhiều bài Thánh giáo của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Mặt khác, trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, cũng có một bài Thánh giáo của Ngài, xin trích ra sau đây :
Đêm mùng 2 tháng 11 năm Tân Mùi (1931).
THI :
Nhựt hoành nhị thập kiến giai thì,
Lục nhựt đạo thành hiệp nhứt chi.
Thứ kỷ thương nhơn tâm bất tại,
Nhị nhơn thê mộc diệt nguyên qui

Giải rõ thi chiết tự :
Nghe ta giải, khá chép mỗi hàng là 12 chữ :

Hai mươi, chữ Nhựt, chữ Giai hiệp chữ Kiến là chữ : QUAN.
Chữ Lục hiệp với chữ Nhứt và chữ Nhựt là chữ : ÂM.
Chữ Thứ mà bỏ bớt chữ Tâm còn lại chữ : NHƯ.
Chữ Mộc mà thêm vô 2 chữ Nhơn gọi là chữ : LAI.

DIỄN DỤ :
Phàm làm người ở thế gian, một kiếp phù sanh, nghĩ lại chẳng bao lâu, tuy số định trăm năm chớ ít người bảy chục, còn e 2 nẻo rủi may : Đường may là người nhờ kiếp làm quan trung quân ái quốc, giữ tánh thanh liêm, dạy dân lễ nghĩa, hồi đầu tỉnh ngộ lo tu, đời sau hưởng phước; còn gặp đường rủi là : làm quan chẳng dạ ngay vua, mạnh thế lộng quyền, hữu hoài soán nghịch chi tâm, chẳng giữ thanh liêm, hiếp dân, thâu hối lộ làm giàu, bức hiếp kẻ nghèo mà làm cự phú, chác sự oan gia trái chủ, thời phải bị sanh liễu hựu tử, tử liễu hựu sanh, luân hồi chẳng dứt.
Nay gặp Trời ân xá lần ba,khuyên thiện nam tín nữ lo tu bồi đạo đức mà hưởng phước ngày sau, còn người mộ việc tu hành cũng thành Chánh quả.
Nếu tu thời bỏ hết cuộc giàu sanh vui sướng ở thế gian. Hãy biết thế gian, muôn việc đều giả, trăm kế cũng không.

THI rằng :
Khán đắc phù sanh nhứt thế KHÔNG,
Điền viên sản nghiệp diệc giai KHÔNG.
Thê nhi phụ tử chung ly biệt,
Phú quí công danh tổng thị KHÔNG.
Cổ ngữ vạn ban đô thị giả,
Kim ngôn bá kế nhứt trường KHÔNG.
Tiền tài thâu thập đa tân khổ,
Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ KHÔNG.
                                                              Quan Âm Như Lai

Đức Quan Thánh Đế Quân
Tam Trấn Oai Nghiêm

Đức Quan Thánh Đế Quân, hay gọi đầy đủ là : Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân, là Đệ Tam Trấn Oai Nghiêm, đại diện Đức Khổng Tử, cầm quyền Nho giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Trên tấm diềm trước Bát Quái Đài Tòa Thánh, tượng của Đức QuanThánh Đế Quân với tư thế đang ngồi xem sách Xuân Thu, ở về phía tay trái và bên dưới của Đức Khổng Tử, gần bìa phía trái, thuộc bên Nam phái.
Ngài có nhiều danh hiệu, xin kể ra sau đây các danh hiệu thường gặp : Quan Công, Quan Thánh, Quan Đế, Nhân Đức Thánh Quân, Phục Ma Đại Đế, Thần Oai Viễn Trấn, Phật Già Lam, Cái Thiên Cổ Phật, . . .
Ngài giáng trần nơi nước Trung Hoa vào cuối thời nhà Hán, họ Quan, tên Võ (hay Vũ), tự là Thọ Trường, sau đổi lại là Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh Hà Đông (có sách chép Ngài sinh tại Bồ Châu).
Theo Trung quốc Sử lược, Ngài bị giết chết năm 219 sau Tây lịch, và theo truyện Tam Quốc Chí, Ngài bị Tôn Quyền xử trảm, năm đó là năm Kiến An thứ 24, hưởng được 58 tuổi. Do đó, ta có thể suy ngược ra năm sanh của Đức Quan Thánh là : 219 - 57 = 162 sau Tây lịch.
Vậy, Đức Quan Thánh sanh năm 162 và mất năm 219 sau Tây lịch, hưởng thọ 58 tuổi.
Theo sách Minh Thánh Kinh, thân phụ của Quan Võ là Quan Nghị, tự là Đạo Viễn, Ông nội là Quan Thẩm tự là Vân Chi, và Ông Cố là Quan Long Phùng.
Theo truyện Tam Quốc Chí, Quan Võ đi đến Trác Quận, thì gặp Lưu Bị và Trương Phi. Lưu Bị nhìn Quan Võ thấy Quan Võ mình cao 9 thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phượng mày Ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm, liền mời nói chuyện để làm quen.
Quan Võ tự giới thiệu : Tôi họ Quan, tên Võ, tự là Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh Hà Đông. Nhân vì vùng tôi có một tên thổ hào ỷ thế hiếp đáp dân lành, tôi nổi giận giết nó, rồi bỏ đi lánh nạn. Tôi phiêu bạt giang hồ đã hơn 5 năm, nay nghe có giặc Khăn Vàng (Huỳnh Cân) nổi lên quấy nhiễu, nên muốn đầu quân trừ giặc, cứu an bá tánh.
Lưu Bị và Trương Phi cũng đem chí nguyện của mình tỏ bày, thì 3 người rất hợp chí hướng, đồng kéo nhau về nhà Trương Phi gần đó. Trương Phi nói :
- Muốn làm nên việc lớn, cốt phải hiệp sức đồng tâm. Sau nhà tôi có một Vườn Đào (Đào Viên) đang tiết nở hoa rất nhiều, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo Trời Đất, kết nghĩa làm anh em.
Lưu Bị (Lưu Huyền Đức) và Quan Võ (Quan Vân Trường) đều cho lời nói của Trương Phi (Trương Dực Đức) là phải. Ngày hôm sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng, bày đủ lễ nơi Đào Viên, ba người đứng trước Hương án, vái mỗi người 2 vái, rồi cùng nhau thề rằng :
" Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Võ, Trương Phi, tuy khác họ, nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng Thiên Hậu Thổ chứng giám lời thề nầy, ai bội nghĩa có Trời Đất tru diệt." Thề xong, 3 người so tuổi nhau, Lưu Bị 28 tuổi, lớn tuổi nhứt nên làm Anh cả, Vân Trường làm thứ và Trương Phi làm em út.
Trương Phi sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng làm thịt đãi tiệc tại Vườn Đào, tập trung tất cả các tráng sĩ trong vùng đến ăn uống. Các tráng sĩ tề tựu có tới hơn 300 người, vui say một bữa thật no nê. Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới. Mọi việc tạm yên, chỉ hiềm còn thiếu ngựa trận để cỡi.
Trong lúc lo tính, bỗng có người chạy vào báo : " Có 2 người khách thương cùng đoàn tùy tùng dẫn theo bầy ngựa khá đông đang đi về hướng trang trại nầy."
Lưu Bị nói : " Đây là Trời giúp ta."
Ba anh em vội ra khỏi trại. Hai vị khách thương nầy chính là thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người tên là Trương Kế Bình, một người tên là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống ngựa khỏe đem về bán ở Trường An. Nay vì miền nầy có giặc, nên không thể đem ngựa đi được.
Lưu Bị hối dọn tiệc đãi đoàn khách thương, rồi đem ý muốn chống giặc cứu dân của mình ra bày tỏ. Hai vị khách thương vui lòng hiến cho 50 con ngựa khỏe, lại tặng thêm 500 lượng vàng bạc, và 1000 cân thép tốt để rèn binh khí và làm giáp trụ.
Khách cáo từ. Lưu Bị tạ ơn, và tiễn chân khách đến mấy dặm đường mới trở về.
Sau đó, Lưu Bị cậy thợ rèn giỏi chế tạo một đôi Song Cổ kiếm; Quan Võ thì một cây đại đao Thanh Long Yển Nguyệt, còn gọi là Lãnh Diệm Cứ nặng 82 cân (Thanh Long là Rồng xanh, Yển nguyệt là trăng khuyết nửa vành), Trương Phi rèn một cây Xà Mâu gọi là Bát Điểm Cương Mâu.
Ai nấy đều trang bị cương giáp, rồi kéo 500 quân dũng sĩ đến ra mắt Thái Thú Lưu Yên. Lưu Yên hỏi danh tánh, 3 anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Lưu Bị còn nói cho Lưu Yên biết rằng mình là tông phái Hoàng gia. Lưu Yên mừng rỡ, nhận Lưu Bị tức là Lưu Huyền Đức làm cháu.
Vào thành được vài hôm thì có tin quân thám thính về báo : " Tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí thống lãnh 5 vạn quân kéo đến quấy nhiễu Trác Quận."
Lưu Yên liền sai Châu Tỉnh dẫn 3 anh em Lưu Bị cùng 500 quân dũng sĩ đi trước phá giặc. Anh em Lưu Bị không hề ngần ngại, lãnh quân đi tiền đạo trực chỉ đến chân núi Đại Hưng, vì vừa thấy quân giặc kéo tới đó.
Lưu Bị thúc ngựa ra trận, bên tả có Quan Võ, bên hữu có Trương Phi yểm hộ. Lưu Bị giơ roi mắng giặc : " Đồ phản loạn, đừng hòng múa rối, hãy xuống ngựa đầu hàng cho sớm."
Tướng giặc Khăn Vàng Trình viễn Chí nổi giận, sai Phó tướng ra đánh.
Đặng Mậu vừa xông ra thì Trương Phi thình lình lướt tới, đâm cho một xà mâu trúng ngay ngực, ngã lăn xuống ngựa chết liền.
Thấy Phó tướng của mình chưa ra tay đã bị hại, Trình viễn Chí liền múa đao xông tới đánh Trương Phi. Quan Võ liền vung đao cản lại. Uy lực của Quan Võ rất mạnh khiến Trình viễn Chí sợ hãi, trở tay không kịp, bị Quan Võ vớt một đao đứt làm 2 đoạn.
Đó là lần đầu tiên 3 anh em Lưu Bị, Quan Võ và Trương Phi ra trận chiến thắng vẻ vang.
Nhờ công tham gia dẹp giặc Khăn Vàng, vua Hán Hiến Đế triệu 3 anh em vào cung khen thưởng, nhận Lưu Bị là chú họ của vua, và phong chức là Tả Tướng Quân, còn Quan Võ và Trương Phi thì không kể đến. Do đó, nhiều người gọi Lưu Bị là Lưu Hoàng Thúc.
Bấy giờ, nơi triều đình, Đổng Trác chuyên quyền, phế vua Hán Thiếu Đế, lập Trần Lưu Vương lên làm Hán Hiến Đế lúc mới 9 tuổi, Đổng Trác làm Tướng Quốc, nắm hết binh quyền. Các trấn chư Hầu không phục. Tào Tháo nhân cơ hội nầy, phát hịch kêu gọi các trấn chư Hầu đến họp binh tại Đức Châu, bàn việc trừ Đổng Trác. Các chư Hầu đồng tôn Viên Thiệu lên làm Minh Chủ.
Đổng Trác sai một dõng tướng là Hoa Hùng cất quân đánh chư Hầu. Các tướng của chư Hầu không ai đánh lại Hoa Hùng, còn đang lúng túng, thì bỗng có tiếng nói : " Kẻ bất tài nầy xin lấy đầu của Hoa Hùng về dâng dưới trướng."
Mọi người nhìn lại thấy người mới nói đó là Quan Võ, em của Lưu Bị, đang đứng hiên ngang chờ lịnh.
Tào Tháo sai quân rót một chén rượu nóng thưởng Quan Võ trước khi lên ngựa ra trận.
Quan Võ nói : " Xin cứ rót rượu, tôi sẽ trở về ngay."
Dứt lời, Quan Võ bước ra ngoài, cầm Thanh Long đao phi thân lên ngựa bay ra mặt trận.
Các trấn chư Hầu ngồi trong trướng, nghe bên ngoài trống trận vang rền, quân sĩ hò hét như sấm dậy. Các quan đều lo sợ định cho người ra thám thính xem sao thì bỗng nghe tiếng nhạc ngựa trở về reo lên trước trướng. Quan Võ hiện ra uy phong lẫm liệt, tay cầm thủ cấp Hoa Hùng ném xuống đất, rồi đưa tay cầm lấy chén rượu còn nóng hổi, uống một hơi.
Tào Tháo mừng rỡ vô cùng, liền bàn kế tấn binh.
Đổng Trác hay tin Hoa Hùng tử trận, liền cử đại binh tiếp ứng đánh các chư Hầu, Lữ Bố dẫn binh đi tiên phong nhằm nơi Thái Thú Công Tôn Toản đóng binh khiêu chiến.
Công Tôn Toản buộc phải thúc ngựa ra đánh với Lữ Bố, nhưng chỉ được vài hiệp là Công Tôn Toản đuối sức, sắp nguy đến nơi, Trương Phi thúc ngựa chạy ra tiếp cứu.
Trương Phi cùng Lữ Bố đánh nhau được 50 hiệp vẫn chưa phân thắng bại, Quan Võ liền giục ngựa xông ra tiếp chiến. Lữ Bố vẫn không nao núng, 3 người đánh vùi. Lưu Bị nóng lòng múa cặp song cổ kiếm xông ra trợ chiến với hai em. Ba người vây đánh Lữ Bố, xoay tròn như đèn kéo quân.
Lữ Bố biết sức mình không cự nổi 3 người nên hoành kích nhắm Lưu Bị đâm một nhát, Lưu Bị né tránh thì Lữ Bố liền giục ngựa Xích thố nhảy vọt khỏi vòng chiến, chạy trở về thành cố thủ.
Cuối cùng Tào Tháo cũng diệt được phe Đổng Trác, Tào Tháo lên làm Thừa Tướng và cũng chuyên quyền như Đổng Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương, rất bất bình, kéo quân đến chiếm Từ Châu, chống lại Tào Tháo. Lưu Bị sai Quan Võ giữ thành Hạ Bì, Tôn Càng, Giản Ung, My Trúc giữ Từ Châu, còn Lưu Bị và Trương Phi đóng binh ở Tiểu Bái.
Tào Tháo đem binh đánh Tiểu Bái, Lưu Bị thua chạy sang nương náu với Viên Thiệu, Trương Phi chạy lạc đến Cổ Thành, giết chết quan Huyện, thu lấy ấn tín, chiếm đóng thành trì làm chỗ an thân.
Home               1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] [ 7 ]  8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét