Quan Võ ở Hạ Bì
cũng chịu thất thủ, bỏ chạy lên đỉnh núi Thổ San đóng binh. Trương Liêu, tướng
của Tào Tháo, đến gặp Quan Võ tỏ bày hơn thiệt. Trương Liêu nói:
- Tôi vì cảm nghĩa ngày
trước anh cứu tôi, nay tôi đến đây đem tin cho anh rõ : Lưu Bị hiện lưu lạc ở
đâu chưa rõ, còn Trương Phi chẳng biêt mất còn. Hôm qua, Tào Tháo đã chiếm
thành Hạ Bì, dân chúng trong thành đều không bị hại, gia quyến
của Lưu Bị được
Tào Tháo bảo vệ tử tế.
Quan Võ nổi giận hét lớn :
- Trương Liêu dám đến đây
dụ ta hay sao ? Ta thà chết chớ không đầu hàng ai cả. Hãy về đi, nếu không ta
chém đầu bây giờ.
- Anh nói thế không sợ
người ta chê cười anh sao ? Tôi vì sợ thiên hạ chê cười anh nên mới đến đây nói
cho anh rõ, chớ đâu dám đến dụ hàng.
- Ngươi nói thiên hạ cười
ta việc gì ?
- Tôi biết anh dũng lực có
thừa, song hiện nay thế binh của anh tan vỡ, nếu liều chết thật là có tội.
- Ta bình sanh không chịu
nhục, nay ta ra trận quyết sống thác với địch, nay chẳng may thất cơ thì liều
chết mà đền nợ nước, sao lại có tội ?
- Nếu anh liều chết, anh
sẽ phạm 3 tội. Anh thử nghĩ xem, Lưu Bị hiện nay thất lạc, nhưng chí cả chưa
đoạt, thế nào cũng cần người nghĩa dũng, nếu sau nầy Lưu Bị cần đến anh mà
không có anh tức là anh có tội thứ nhứt. Lưu Bị lại phó thác gia quyến cho anh
mà anh chết rồi thì ai bảo vệ gia quyến ấy, đó là tội thứ nhì. Anh là kẻ võ
nghệ siêu quần, há lại không khuôn phò nhà Hán để danh muôn thuở, lại liều chết
như thế phỏng có ích gì, đó là tội thứ ba.
Quan Võ nghe Trương Liêu
phân tách như thế thì dịu xuống, thở dài nói :
- Ngươi nói ta 3 tội, vậy
ngươi bảo ta bây giờ phải làm thế nào ?
- Nay 4 phía đều có binh
của Tào Tháo, nếu chống cự cũng không thoát khỏi, chi bằng hãy tạm đầu hàng để
nghe ngóng tin tức của Lưu Bị. Nếu người còn ở nơi nào thì anh sẽ đến đó tìm.
Như vậy, một là anh bảo vệ được 2 vị phu nhân của Lưu Bị, hai là chẳng phụ lời
ước thệ ngày xưa, ba là để dành cái thân hữu dụng ngày sau giúp cho nhà Hán. Ba
điều ấy, anh nên suy nghĩ.
Quan Võ nói :
- Ngươi nói 3 điều ấy, ta
lại có 3 điều ước : nếu Tào Thừa Tướng bằng lòng khứng chịu, ta sẽ cởi giáp
hàng đầu, còn thiếu một điều ta quyết liều chết mà thôi.
Một là ta với Lưu Bị có
thề với nhau một lòng giúp nhà Hán, nay ta đầu là đầu Hán Đế chớ không phải đầu
Tào.
Hai là xin lấy lương bổng
của Lưu Hoàng Thúc cấp cho nhị tẩu của ta, lại không một ai được bén mảng đến
chỗ ở của nhị tẩu của ta.
Ba là khi nào hay tin anh
ta ở đâu thì ta lập tức đến đó, dù đường xa ngàn dặm. Trương Liêu ưng chịu trở
về ra mắt Tào Tháo và nói rõ 3 điều ước của Quan Vân Trường. Tào Thừa Tướng
đành chấp nhận vì rất mến nghĩa khí của Quan Võ.
Hôm sau, Tào Tháo truyền
lịnh thâu binh về Hứa Xương. Quan Võ thỉnh nhị tẩu lên xe, tự mình đi theo hộ
vệ. Khi quân đến trạm dịch, Tào Tháo truyền quân đóng lại nghỉ ngơi, lại truyền
Quan Võ ở chung một nhà với nhị tẩu : Cam Phu nhân và My Phu nhân, hai bà vợ
của Lưu Bị, tức là 2 chị dâu của Quan Võ.
Đêm ấy, Quan Võ cầm đuốc
đứng trước cửa nhà suốt đêm để canh cho 2 chị dâu an giấc, đồng thời lấy Thanh
Long đao chém sạt một góc tường để người ngoài nhìn vào thấy rõ lòng quang minh
chánh đại của Quan Võ. Tào Tháo biết được đem lòng kính phục vô cùng.
Tào Tháo dắt Quan Võ vào
triều yết kiến vua Hán Hiến Đế, được vua phong cho chức Thiên Tướng Quân.
Quan Võ có bộ râu 5 chòm
rất đẹp, được vua khen là Mỹ Nhiêm Công (Mỹ là đẹp, Nhiêm là râu mọc, Công là
Ông).
Kể từ đó, Quan Võ và 2 chị
dâu nương nhờ nơi dinh của Tào Tháo. Tào Tháo hết sức trọng đãi để chiêu dụ
Quan Công, 3 ngày đãi một tiệc nhỏ, 7 ngày đãi một tiệc lớn, lên ngựa thưởng
vàng, xuống ngựa thưởng bạc.
Tào Tháo lại đem ngựa Xích
thố bắt được của Lữ Bố tặng cho Quan Công. Quan Công phục xuống lạy tạ ơn. Tào
Tháo ngạc nhiên hỏi :
- Ta đã bao phen trao tặng
nào mỹ nữ, nào vàng bạc, nào gấm vóc, sao chẳng thấy Vân Trường vui, nay tặng
cho con ngựa nầy Vân Trường lại tạ ơn hậu như vậy ? Quan Công nói :
- Tôi biết con ngựa quí
nầy ngày đi ngàn dặm. Nay được Thừa Tướng ban ơn, nếu biết anh tôi ở đâu thì
tôi có thể đi một ngày là gặp, nên tôi cảm ơn Thừa Tướng rất nhiều.
Tào Tháo nghe nói như vậy
thì có ý hối hận, nhưng đành thôi.
Lúc đó Viên Thiệu hưng
binh đánh Tào Tháo. Tướng Tiên phuông của Viên Thiệu là Nhan Lương rất tài
giỏi, các tướng của Tào Tháo không ai cự nổi. Tào Tháo phải vời Quan Công đến
cự địch. Tào Tháo nói :
- Nhan Lương giết luôn của
ta 2 tướng, chẳng ai dám ra đánh nên phải mời Vân Trường đến đây bàn định.
Quan Công liền nói :
- Tuy tôi bất tài, song
cũng xin ra trận lấy đầu Nhan Lương đem về nạp cho Thừa Tướng.
- Giữa chốn ba quân không
nên nói đùa.
Quan Công hăng hái nhảy
phóc lên ngựa xích thố, chạy bay đến chỗ Nhan Lương, vẹt quân Nhan Lương ra hai
bên, thấy Nhan Lương đang đứng dưới cây lọng. Nhan Lương thấy Quan Công vừa
muốn hỏi thì ngựa xích thố đã đến trước mặt rồi, Nhan Lương chưa kịp trở tay,
bị Quan Công vớt một đao, Nhan Lương ngã lăn xuống ngựa. Quan Công nhảy xuống
cắt lấy thủ cấp, rồi phi thân lên yên, vung đao lướt ra khỏi trận. Binh Tướng
của Nhan Lương nhốn nháo cả lên, thừa dịp binh Tào tràn sang chém giết tơi bời.
Quan Công phi ngựa đến
trước Tào Tháo dâng nạp thủ cấp của Nhan Lương. Tào Tháo hết sức khen ngợi :
- Tướng quân là Thần nhân
đó.
Tào Tháo làm biểu tâu với
Hán Đế, phong thưởng cho Quan Công làm chức Hán Thọ Đình Hầu, sai đúc ấn ban
cho Quan Công.
Sau đó, Viên Thiệu sai Đại
Tướng Văn Xủ lên thay cầm quân đánh Tào Tháo.
Tướng Tào là Trương Liêu
chống cự không nổi phải bỏ chạy, Quan Công lướt tới, Văn Xủ mắng :
- Mi đã giết Nhan Lương là
bạn của ta, lẽ nào ta không trả thù được hay sao ?
Nói rồi cầm thương xốc
ngựa đến đánh Quan Công. Hai bên cự địch được 3 hiệp, Quan Công giục ngựa Xích
thố bay đến bất ngờ chém Văn Xủ rơi đầu xuống đất.
Trần Chấn đem tin đến cho
Quan Công biết, hiện Lưu Bị đang ở Hà Bắc. Quan Công vào cho 2 chị hay để chuẩn
bị ra đi tìm Lưu Bị. Quan Công sai gia nhân thu thập hành trang, sửa soạn xe ngựa.
Tất cả những thứ gì mà Tào Tháo đã ban cho phải để lại hết, vàng bạc thì niêm
phong để hết vào kho, còn cái ấn Hớn Thọ Đình Hầu thì buộc treo lơ lửng nơi xà
nhà. Quan Công đến dinh Tào Tháo để từ biệt, đến 3 lần mà không gặp mặt, liền
viết một bức thơ để lại từ tạ Tào Tháo, đại lược như sau :
" Võ nầy tự thiếu
thời thờ Lưu Huyền Đức, thề sống chết có nhau, lẽ đâu dám phụ. Trước đây, thành
Hạ Bì thất thủ, có ước hẹn với Thừa Tướng 3 điều. Nay được biết chủ cũ hiện
đang ở nơi Hà Bắc. Hồi tưởng lời thề năm xưa, lòng nầy há dám phụ phàng. Vậy
xin dâng thư nầy cáo biệt Thừa Tướng. Còn ơn nào thiếu sót chưa đền, xin đợi
ngày mai báo đáp."
Quan Công sai niêm phong
các kho tàng cẩn mật, rồi mời nhị tẩu lên xe, Quan Công cỡi ngựa Xích thố, cầm
Thanh long đao, dẫn vài mươi đứa tùy tùng, nhắm hướng Hà Bắc tiến tới.
Quá Ngũ quan trảm Lục
tướng : + Quan Công đến ải Đông Lĩnh, tướng giữ ải là Khổng Tú không cho qua.
Quan Công đành phải giết chết Khổng Tú mới qua ải được.
+ Đến ải Lạc Dương, Thái
Thú Hàn Phúc và tướng Mạnh Thản ngăn chận, 2 người đều bị chết dưới ngọn Thanh
long đao.
+ Quan Công tiếp tục bảo
hộ 2 chị dâu đi đến ải Nghi Thủy. Tướng giữ ải là Biện Hỷ cho quân đao phủ mai
phục nơi Trấn Quốc Tự, rồi dụ Quan Công đến nghỉ ở đó. Trong Chùa Trấn Quốc nầy
có Đại Sư Phổ Tịnh, người cùng quê với Quan Công, báo cho Quan Công biết âm mưu
của Biện Hỷ. Quan Công kịp thời đối phó, giết chết Biện Hỷ, quân đao phủ chạy
tán loạn. Quan Công tạ ơn Phổ Tịnh :
- Nếu không nhờ Đại sư,
chắc tôi bị hại rồi.
- Bây giờ tôi cũng không
thể ở chùa nầy được nữa, phải đi vân du để tránh bè đảng của chúng, xin Tướng
quân rán giữ mình, ngày sau chúng ta còn dịp gặp gỡ.
Quan Công từ giã Phổ Tịnh,
rồi hộ tống xe đi thẳng đến ải Huỳnh Dương.
+ Tại ải Huỳnh Dương, quan
Thái Thú giữ ải là Vương Thực, sui gia với Hàn Phúc, nên lập kế giết Quan Công
trả thù cho Hàn Phúc.
Vương Thực chuẩn bị hỏa
công đốt quán dịch, nơi Quan Công và 2 chị dâu tạm nghỉ. Nhờ có Hồ Bang báo cho
biết, Quan Công vội phò nhị tẩu thoát đi. Vương Thực dẫn quân rượt theo, bị
Quan Công vớt cho một đao bay đầu.
+ Đến ải Hoàng Hà, Tần Kỳ
xông đến ngăn lại, đánh với Quan Công được vài hiêp rồi cũng bay đầu.
Quan Công vội lấy thuyền
đưa nhị tẩu qua sông Hoàng Hà, tới địa phận Hà Bắc. Tôn Càng đón Quan Công, báo
tin Lưu Hoàng Thúc đã qua Nhữ Nam, nên Quan Công bỏ đường đi Hà Bắc, rẽ qua Nhữ
Nam.
Khi đi ngang qua Ngọa Ngưu
Sơn thì thâu phục được một bộ tướng là Châu Thương.
Châu Thương, quê ở Quan
Tây, hai tay xách nổi ngàn cân, râu quai nón, hình dung dữ tợn, trước đây theo
giặc Khăn Vàng. Khi giặc Khăn Vàng tan rã thì Châu Thương ẩn nơi núi rừng làm
thảo khấu, nhưng rất hâm mộ uy danh của Quan Công, nên khi gặp được Quan Công
thì cải tà qui chánh, theo hầu Quan Công. Nhưng Quan Công bảo Châu Thương hãy
tạm ở lại đây, chờ sau sẽ đến rước.
Châu Thương nói với Quan
Công : " Trước mặt có một Cổ Thành rất kiên cố. Cách đây không bao lâu, có
một người tên là Trương Phi đến chiếm cứ, tập hợp được hơn 4000 binh mã, 4 phía
không ai dám cự địch cả.
Quan Công đưa nhị tẩu vào
Cổ Thành giao cho Trương Phi bảo vệ, rồi cùng với Tôn Càng đi Nhữ Nam tìm Lưu
Bị.
Dọc đường, Quan Công đến
một túp lều tranh xin trọ đỡ, gặp một Cụ già chống gậy bước ra, xưng danh là
Quan Định, cùng họ với Vân Trường. Quan Định có đứa con trai tên là Quan Bình
mới vừa 10 tuổi, cho theo hầu Quan Công, được Quan Công nhận làm con nuôi.
Tôn Càng đến gặp Lưu Bị,
rồi lập kế ra đi thoát khỏi tay Viên Thiệu, thẳng đến Ngọa Ngưu Sơn, để hiệp
với binh của Châu Thương ở đó, nhưng khi đến nơi thì binh của Châu Thương đã bị
Triệu Tử Long đánh tan và chiếm cứ nơi đó.
Thế là một nhà xum hiệp,
trở lại Cổ Thành, lại có thêm được Triệu Tử Long; Quan Công thì có thêm được
Châu Thương và Quan Bình. Anh em mừng rỡ, mở tiệc ăn mừng.
Trải qua một thời gian,
thế nước chia ba, Lưu Bị liên kết với Ngô Tôn Quyền chống lại Tào Tháo.
Tào Tháo đem đại binh 83
vạn quân xuống đóng dọc theo sông Trường giang, tập luyện binh sĩ thủy chiến,
chuẩn bị đánh Đông Ngô. Khổng Minh, Quân sư của Lưu Bị, sang Đông Ngô bày kế
giúp Chu Du, Đại Đô Đốc của Ngô Tôn Quyền, lập trận Xích Bích, dùng hỏa công
đánh tan 83 vạn quân Tào. Tào Tháo thảm bại, dắt tàn quân chạy qua Hoa Dung Đạo
để về Hứa Đô. Khổng Minh toán quẻ biết trước việc đó, nên sai Quan Công đem
binh đón bắt Tào Tháo.
Khổng Minh nói với Lưu Bị
:
- Sở dĩ tôi sai Vân Trường
đón bắt Tào Tháo nơi Hoa Dung Đạo là để Vân Trường trả nghĩa Tào Tháo, vì tôi
xem Thiên văn biết mạng Tào Tháo lớn lắm, chưa chết được.
Đúng như lời của Khổng
Minh, Tào Tháo đại bại ở trận Xích Bích, kéo tàn quân chạy qua Hoa Dung Đạo để
về Hứa Đô. Giữa đường bị Vân Trường chận đường, Tào Tháo chết đứng, hối các
tướng xuống ngựa năn nỉ :
- Tôi đã bị bại binh, thế
nguy đến đây cùng đường. Xin Quan Hầu nghĩ tình tôi ngày trước mà tha cho.
Quan Vân Trường đáp :
- Ngày trước, tôi tuy mang
ơn Thừa Tướng rất hậu, song công tôi chém Nhan Lương và Văn Xủ cũng đủ trả rồi.
Hôm nay Thừa Tướng lại lấy việc tư mà bỏ việc công sao ?
Tào Tháo năn nỉ tiếp :
- Thế lúc Quan Hầu qua 5
ải, chém chết 6 tướng, Quan Hầu còn nhớ không ? Hễ là đại trượng phu thì phải
lấy ơn làm trọng. Quan Hầu đã từng đọc Kinh Xuân Thu há chẳng nhớ việc Du Công
Chi Tư đuổi theo Tử Trạc Nhu Tử đó sao ? Hôm nay, với mấy tên tàn quân ở bước
đường cùng, đã xuống ngựa để cầu an mà Quan Hầu không niệm tình thì đâu phải là
đại trượng phu.
Vân Trường nhìn thấy Tào
Tháo xác xơ, quân sĩ tả tơi như muốn khóc, bắt động lòng, không nỡ ra tay, liền
quay ngựa bảo quân tránh ra mở đường sanh lộ cho Tào Tháo.
Tào Tháo hối quân sĩ chạy
thoát qua chỗ ấy. Vân Trường ngó theo, hét lên một tiếng, bao nhiêu quân Tào
đều khóc lạy dưới ngựa. Vân Trường thấy vậy càng thêm bất nhẫn
Lại thấy Trương Liêu giục
ngựa chạy đến, tình cố cựu động tâm, Vân Trường than dài rồi tha cho cả bọn đi
hết.
Sau đó, Vân Trường được
lịnh đi đánh Trường Sa. Thái Thú Trường Sa là Hàn Huyền bất tài nhưng có Lão
tướng Hoàng Trung tài giỏi phò tá.
Hoàng Trung ra đánh với
Quan Võ cả trăm hiệp mà sức cũng cầm đồng, bỗng con ngựa của Hoàng Trung bị quỵ
2 chân trước làm cho Hoàng Trung té ngã xuống dất. Quan Võ dừng đao hét :
" Ta tha chết cho ngươi, mau trở về thay ngựa khác ra đây đánh với
ta."
Nhờ nghĩa khí đó mà Hoàng
Trung tâm phục Quan Võ. Ngụy Diên nổi lên chém chết Hàn Huyền rồi cả hai mở
thành rước Quan Võ vào chiêu an bá tánh. Thế là bên cánh Lưu Bị có thêm được 2
đại tướng nữa là Hoàng Trung và Ngụy Diên. Đức Quan Thánh Đế Quân
Lưu Bị và Khổng Minh đem
đại binh đi đánh Tây Thục, giao Kinh Châu cho Quan Võ gìn giữ.
Phía Đông Ngô, Lỗ Túc bàn
kế với Tôn Quyền : " Nay tôi ra đóng binh ở Lục Khẩu, sai người qua mời
Quan Võ phó hội. Nếu hắn chịu đến, tôi sẽ dùng lời lẽ phải chẳng mà bảo hắn trả
đất Kinh Châu cho ta, nếu hắn không nghe thì tôi hô quân đao phủ ùa ra giết
hắn."
Tôn Quyền bằng lòng kế ấy,
liền cho sứ giả qua Kinh Châu mời Quan Võ qua Đông Ngô phó hội. Quan Võ nhận
lời
Quan Bình can nghĩa phụ :
- Sao nghĩa phụ xem thường
tấm thân muôn trượng, dấn thân vào hang hùm ổ sói, nếu rủi ro có bề nào có phải
phụ lòng bá phụ không ?
Quan Võ nói :
- Ta đã từng xông pha nơi
rừng tên mũi giáo, một đao một ngựa tung hoành, có sá gì lũ chuột Giang Đông.
Đời Chiến Quốc có Lạn Tương Như nước Triệu, tay trói gà không chặt, mà giữa Hội
Dân Trì, còn coi vua nước Tần như cỏ rác, huống chi ta là người có sức địch nổi
muôn người. Một lời đã hứa không thể thất tín.
Bên Đông Ngô, Lỗ Túc bàn
với Lữ Mông : Lữ Mông và Cam Ninh lãnh vài ngàn quân chia nhau phục nơi bờ
sông, nếu thấy Quan Võ đem binh đội theo thì đổ ra chận đánh. Còn Quan Võ không
đem quân theo thì cho phục sẵn 50 quân đao phủ sau đình, hễ nghe hiệu lịnh thì
nhảy ra giữa tiệc giết chết Quan Võ.
Đến giờ ước hẹn, Lỗ Túc
thấy Vân Trường ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, có Châu Thương cầm đao đứng hầu, có
khoảng 10 tay đại hán đất Quảng Tây đeo mã tấu đứng hầu 2 bên, trên thuyền có
một lá cờ đỏ đề chữ Quan rất lớn. Vân Trường mặc áo bào lục, đầu đội khăn xanh,
ngồi oai vệ giữa thuyền.
Lỗ Túc ra bến đón Vân
Trường vào dự tiệc nơi Thủy Đình. Vân Trường nét mặt như hoa, nói cười sang
sảng, không chút sợ sệt. Sau một hồi dự tiệc, Lỗ Túc đem chuyện đòi đất Kinh
Châu nói với Vân Trường. Vân Trường đáp :
- Việc đó của anh tôi, tôi
không tự ý quyết định được.
Châu Thương đứng hầu phía
sau xen vào nói lớn :
- Đất đai của thiên hạ, ai
có tài đức thì chiếm cứ, đâu phải của riêng Đông Ngô mà các ông đòi.
Vân Trường sa sầm nét mặt,
đứng phắt dậy, bước tới giật lấy cây đao trong tay Châu Thương nạt : - Đó là
việc quo
ác gia đại sự, sao mày dám
xen vào. Hãy cút đi mau lên.
Châu Thương hiểu ý, lập
tức lui ra bờ sông, phất cờ đỏ ra hiệu. Quan Bình thấy cờ hiệu, vội lướt thuyền
như bay qua sông, đến bờ bên Đông Ngô để tiếp ứng.
Bấy giờ Vân Trường đang ở
trong Đình, tay mặt cầm đao, tay trái nắm chặt Lỗ Túc, giả bộ say lè nhè nói :
- Hôm nay Ngài mời tôi
sang đây dự tiệc, xin đừng nhắc chuyện Kinh Châu làm mất vui. Tôi say rồi, nếu
xảy ra điều gì sẽ tổn thương đến tình cố cựu. Để hôm nào tôi rảnh, tôi sẽ cho
người sang mời Ngài qua Kinh Châu họp mặt.
Lỗ Túc bị Vân Trường nắm
chặt cánh tay, hồn phi phách tán, không còn biết xoay sở thế nào được. Vân
Trường giả say, nắm chặt Lỗ Túc từ từ đi xuống bờ sông. Lữ Mông cùng với Cam
Ninh phục sẵn nơi bờ sông, nhưng chẳng dám động thủ vì Vân Trường đang kềm chế
Lỗ Túc.
Vân Trường bước lên
thuyền, buông tay Lỗ Túc ra, rồi nói lời từ biệt. Lỗ Túc lúc nầy như người mất
vía, đứng trân nhìn đoàn thuyền của Vân Trường rẽ sóng lướt nhanh trở về Kinh
Châu.
Từ khi Lưu Bị sai Vân
Trường trấn thủ Kinh Châu, Lưu Bị có cưới vợ cho Vân Trường, sanh được một trai
đặt tên là Quan Hưng, và một gái đặt tên là Quan Ngân Bình.
Gia Cát Cẩn bàn kế với Tôn
Quyền là đi cầu hôn con gái của Vân Trường cho Thế tử của Đông Ngô. Vân Trường
nặng lời từ chối và đuổi Gia cát Cẩn trở về.
Vân Trường được lịnh đi
đánh Phàn Thành, chém chết Bàng Đức, bắt sống Vu Cấm, oai danh lừng lẫy. Trong
khi đánh phá Phàn Thành, Vân Trường bị Tào Nhơn bắn một mũi tên có tẩm thuốc
độc, trúng vào cánh tay mặt. Quan Bình điều binh rút về trại để chữa trị vết
thương cho Vân Trường. Thần y Hoa Đà nghe tin liền tìm đến nơi để điều trị vết
thương.
Vân Trường cởi áo bào ra,
đưa cánh tay bị tên cho Hoa Đà xem vết thương. Hoa Đà xem kỹ rồi nói :
- Ấy là tên ná, có tẩm
thuốc độc, chất độc đã thấm tới xương, nếu không trị sớm thì cánh tay nầy sẽ
trở nên vô dụng.
Bây giờ phải lựa một chỗ
vắng vẻ, trồng một cây trụ cho thật chắc, đóng vào đó một cái khoen. Tôi phải
cột tay tướng quân vào đó, bịt mắt tướng quân lại, rồi tôi mổ vết thương ra,
lóc thịt đã thấm chất độc bỏ đi, cạo bỏ chất độc đã thấm vô xương, rồi rịt
thuốc may lại, để tướng quân trông thấy chắc không chịu nổi.
Vân Trường cười nói :
- Như vậy có chi mà không
chịu nổi.
Liền bày tiệc rượu thết
đãi. Vân Trường uống mấy chén, rồi bày cờ ra đánh với Mã Lương, tay trái đánh
cờ, tay mặt đưa ra cho Hoa Đà mổ.
Hoa Đà cầm dao mổ lên nói
:
- Nào, tôi xin bắt đầu,
Ngài chớ giựt mình.
- Ta không phải là kẻ phàm
phu nhút nhát đâu.
Mọi người thấy Hoa Đà làm
mà rùn mình, nhưng Vân Trường vẫn thản nhiên ngồi đánh cờ. Hoa Đà làm xong, rịt
thuốc may lại, nói :
- Tôi chưa bao giờ thấy
một người khí phách như thế nầy, tiếng đồn thật chẳng sai.
Quan Vân Trường đứng dậy
nói :
- Cánh tay nầy bây giờ hết
đau nhức rồi, co dãn được như thường. Tiên sinh là Thần y đó.
Quan Công sai đem 100
lượng vàng thưởng công cho Hoa Đà, nhưng Hoa Đà từ chối, nói :
- Tôi nghe Vân Trường là
người trung nghĩa, nên đến trị bịnh, chớ đâu phải để lấy tiền. Xin Ngài chớ
nhọc lòng.
Nói xong từ giã Vân Trường
ra về.
Một hôm, Vân Trường vào
trướng phủ ngủ trưa, bỗng chiêm bao thấy một con heo lớn đen thui chạy đến cắn
nơi chân mình. Vân Trường thét lên định rút gươm ra chém, liền giựt mình tỉnh
dậy. Vân Trường trong lòng nghi ngại không yên, nói với Quan Bình :
- Ta nay đã gần 60 tuổi
rồi, làm tướng xông pha trong ba quân đã lâu, giá như nay chết đi cũng không ân
hận gì nữa.
Sau đó, Quan Vân Trường
lầm mưu của Lữ Mông và Lục Tổn để mất Kinh Châu, lại bị quân Tào phía Bắc đánh
xuống, lưỡng đầu thọ địch, nên thua trận chạy về Mạch Thành chống giữ. Quan
Công lại sai Liêu Hóa vượt vòng vây chạy đến Thương Dung kêu Lưu Phong (con
nuôi của Lưu Bị) và Mạnh Đạt đem binh tới giúp, nhưng Lưu Phong và Mạnh Đạt sợ
chết nên từ chối.
Liêu Hóa thấy không xong,
liền nhắm Thành đô chạy riết để cầu cứu với Hán Trung Vương Lưu Bị.
Tôn Quyền cho Gia Cát Cẩn
qua dụ hàng Quan Công, nhưng lòng Quan Công như sắt đá, không thể dụ được. Lữ
Mông dâng kế :
" Quan Công cố thủ
Mạch Thành, không chịu hàng đầu, chẳng bao lâu lương thực hết thì phải bỏ thành
tìm đường trốn về Tây Thục. Phía Bắc Mạch Thành có một con đường nhỏ rất hiểm
trở, nếu Vân Trường bỏ thành ắt phải theo con đường đó mà đi. Phải sai Chu Nhiên
đem quân đến phía Bắc Mạch Thành mai phục, gặp Vân Trường kéo quân đi ra thì
chớ đánh vội, cứ phía sau rượt nà, để hắn chạy qua ngã Lâm Thư. Lại sai Phan
Chương dẫn 500 binh hùng phục nơi đường Lâm Thư, chỗ núi non chật hẹp, dùng dây
giăng ngang đường và câu móc mà giựt thì các ngựa chiến phải té quị, binh túa
ra bắt sống Quan Công.
Quan Công trông mãi không
thấy binh cứu viện, kiểm điểm binh mã chỉ còn được 300, lương thực hết sạch, 3
mặt thành Đông, Tây, Nam, đều bị quân Đông Ngô công phá rất ngặt, chỉ còn mặt
Bắc là ít hơn.
Quan Công truyền Châu
Thương và Vương Phủ ở lại thủ thành, còn Quan Bình với Triệu Lụy và vài chục
quân đi theo Quan Công vượt trùng vây để đi Tây Thục theo cửa Bắc Mạch Thành
tiến ra.
Đi được vài dặm thì gặp
phục binh, Triệu Lụy tử trận. Quan Công đi trúng vào mưu kế của Lữ Mông, ngựa
Xích thố bị vấp chân ngã nhào, Quan Công té xuống đất, bộ tướng của Phan Chương
là Mã Trung bắt sống được Quan Công cùng với Quan Bình và toàn bộ mấy chục tên
quân đi theo.
Phan Chương giải Quan Công
và Quan Bình đến Tôn Quyền. Tôn Quyền chiêu dụ nhiều lần nhưng Quan Công nhứt
định không chịu đầu hàng. Tôn Quyền ra lịnh đem cha con Quan Công ra pháp
trường xử trảm. Quan Công thọ 58 tuổi.
Quân Đông Ngô đem thủ cấp
của Quan Công và Quan Bình đến Mạch Thành để gọi Châu Thương và Vương Phủ đầu
hàng. Châu Thương thấy chủ tướng đã chết, nên khóc lóc rồi tự vận chết theo,
Vương Phủ thì nhào đầu xuống chơn thành tự tử.
Còn con ngựa Xích thố của
Quan Công được Tôn Quyền thưởng công cho Mã Trung, nhưng ngựa bỏ ăn và vài ngày
sau thì chết, linh hồn bay theo chủ.
Tôn Quyền mở tiệc khao
thưởng các tướng và quân sĩ. Tôn Quyền nói :
- Nay nhờ mưu của Lữ Mông
mới bắt được Quan Công và giết đi, lấy được đất Kinh Châu, công ấy rất lớn.
Nói rồi rót một chén rượu
bưng đến thưởng Lữ Mông. Lữ Mông tiếp lấy chén rượu toan uống , bỗng dưng ném
chén rượu xuống đất, nhảy lại thộp ngực Tôn Quyền, mắng lớn :
- Thằng mặt xanh râu đỏ và
bọn chuột kia có biết ta là ai không ?
Chư tướng thất kinh, vừa
muốn bước lại gỡ Tôn Quyền và xô Lữ Mông ra thì Lữ Mông đã xô Tôn Quyền té nhào
xuống đất, rồi nhảy vọt lên ghế của Tôn Quyền ngồi, trợn đôi mắt tròn vo, hét
lớn :
- Hán Thọ Đình Hầu Quan
Vân Trường là ta đây.
Tôn Quyền và các tướng
hoảng sợ, quì lạy lia lịa. Bỗng Lữ Mông té nhào xuống đất, hộc máu chết tươi.
Tôn Quyền và các tướng
Đông Ngô phải một phen hoảng vía trước sự hiển linh báo thù của Quan Công.
Mưu thần của Tôn Quyền nói
:
- Quan Công chết rồi, thế
nào Lưu Bị và Khổng Minh cũng kéo đại binh đến đánh Đông Ngô để báo thù. Bây
giờ ta phải đem thủ cấp của Vân Trường gởi qua cho Tào Tháo, để cho Lưu Bị nghĩ
rằng Tào Tháo chủ mưu trong vụ nầy. Như vậy, Lưu Bị sẽ căm giận Tào Tháo, giải
được mối nguy cho Đông Ngô.
Tôn Quyền nghe theo, đóng
một cái thùng đựng thủ cấp của Quan Công, rồi sai sứ đem dâng cho Tào Tháo.
Tư Mã Ý nói với Tào Tháo :
- Quan Công cùng Lưu Bị và
Trương Phi kết nghĩa anh em với nhau. Nay Quan Công đã chết, thế nào Lưu Bị và
Trương Phi cũng đem binh báo thù. Đông Ngô lo sợ cái họa ấy nên đem đầu của Quan
Công đến đây gieo họa cho ta.
Tao Tháo hỏi :
- Như thế ta phải làm sao
?
- Đại Vương nên hết lòng
tử tế, sai quân tạc một hình gỗ trầm hương, đem đầu Quan Công chắp vào, rồi tẫn
liệm, làm lễ an táng theo hàng vương hầu. Lưu Bị hay được ắt cho Đại Vương là
người ơn, còn Đông Ngô chính là kẻ thù.
Tào Tháo mừng rỡ làm y
theo kế ấy, lại nhìn thủ cấp của Quan Công nói đùa một câu :
- Quan Hầu mạnh giỏi đấy
chứ ?
Bỗng cái đầu của Quan Công
trợn mắt tròn vo, tóc râu dựng ngược. Tào Tháo thất kinh té nhào xuống đất. Chư
tướng đỡ lên. Sứ giả Đông Ngô lại đem chuyện Lữ Mông bị Quan Công bắt hộc máu
chết kể lại cho Tào Tháo nghe nữa.
Tào Tháo khiếp vía, làm y
theo lời Tư Mã Ý, dùng Vương lễ an táng Quan Công. Tào Tháo bổn thân quì tế,
đặt quan giữ mộ và cúng tế 4 mùa.
Về phần linh hồn của Quan
Công, uất khí chưa tan, linh hồn bay lơ lửng về phía núi Ngọc Tuyền, trên núi
có một ngôi chùa mà Đại Sư Phổ Tịnh đang tu tại đó.
Đêm ấy trăng sáng, vừa mãn
canh ba, bỗng nghe trên không có tiếng kêu lớn : " Trả đầu cho ta".
Phổ Tịnh ngước mặt nhìn lên mây, thấy một người cỡi ngựa Xích thố, cầm cây
Thanh long đao, bên tả có một tướng mặt trắng khôi ngô, bên hữu có một tướng
mặt đen râu quai nón, theo hầu.
Phổ Tịnh lấy đuôi chủ gõ
vào cửa nói :
- Vân Trường ở đâu ?
Hồn Vân Trường lập tức
xuống ngựa, sa xuống trước chùa, hỏi :
- Sư Cụ là ai ? Xin cho
biết pháp hiệu.
Phổ Tịnh đáp :
- Lão Tăng là Phổ Tịnh,
khi trước nơi chùa Trấn Quốc, Quan Hầu quên rồi sao?
- Trước kia tôi nhờ ơn
Ngài cứu cho, nay tôi đã thác, xin Ngài chỉ đường mê muội cho tôi.
- Nay Quan Hầu bị Lữ Mông
làm hại, kêu lên : " Trả đầu cho ta ", thế còn Nhan Lương, Văn Xủ, 6
tướng qua 5 ải, và biết bao nhiêu cái đầu khác nữa, họ đòi vào đâu ?
Quan Công nghe Đại Sư Phổ
Tịnh nói câu ấy thì chợt tỉnh ngộ, liền biến mất. Phổ Tịnh biết Quan Công hiển
Thánh. (Viết theo truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa)
Khi Quan Công đã hiển
Thánh rồi, Ngài trừ tà diệt quỉ, cứu độ sanh linh, và từ đó đến nay, Ngài không
tái kiếp, mà dùng quyền hành thiêng liêng để lập công, đạt được Phật vị, gọi là
Cái Thiên Cổ Phật.
Trong Đạo Cao Đài, Hội
Thánh lấy ngày 24 tháng 6 âm lịch hằng năm làm ngày Đại lễ Vía Đức Quan Thánh.
Khi đến ngày nầy, tại Tòa Thánh và các Thánh Thất địa phương đều thiết lễ Đại
đàn cúng Vía Đức Quan Thánh Đế Quân, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại công đức
của Ngài.
Để bổ túc cho phần Tiểu sử
trên của Đức Quan Thánh, xin chép ra sau đây bài Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ
Pháp vào thời Tý ngày 24-6-Mậu Tý (dl 30-7-1948) tại Đền Thánh nhân Lễ Vía Đức
Quan Thánh :
" Hôm nay là ngày Vía
Đức Cái Thiên Cổ Phật Quan Thánh Đế Quân, tức là Hớn Thọ Đình Hầu Quan Vân
Trường nhà Hớn, đời Tam Quốc. Một vị hiển Thánh đời Hớn thời Tam Quốc, ngày nay
đạt phẩm vị đến Tam Trấn Oai Nghiêm trong nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn , sự
vinh hiển cao trọng đó, ta thấy gía trị vô đối.
Với một Đấng thiêng liêng
mà lập vị mình một cách oai quyền vinh hiển, ta thường thấy rất ít, thảng có
chăng trong nước Việt Nam ta, Ngài Trần Hưng Đạo gọi là có thể đương đầu với
Ngài được mảy may chút ít mà thôi, chớ phần đông từ thử đến giờ, kể cả các nước
Á Đông nầy hiếm có.
Vậy ta nên khảo cứu coi
Ngài làm thế nào đạt được Thiên vị vinh diệu đặc biệt dường ấy.
Hớn Thọ Đình Hầu Quan Vân
Trường buổi nọ là một vị tướng của Thục, tức Lưu Bị. Ta thấy đại nghĩa của
Ngài, trung can nghĩa khí của Ngài, nhứt là về bằng hữu chi giao, tình nghĩa
đối với bạn hữu của Ngài, dám chắc dầu chúng ta, dân tộc Việt Nam hằng chịu ảnh
hưởng văn hóa Nho Tông, chưa có được người nào giống như Ngài vậy. Tâm trung
nghĩa, chẳng vì sang mà theo Tào, chỉ chuộng Hớn, nghĩa chẳng vì bạn buổi khổ
não truân chuyên mà phụ rảy tình nhau. Trung và nghĩa ấy hy hữu.
Nói đến chí khí của Ngài,
Bần đạo tưởng luận không hết : Ngài bất sát hạ mã chi nhơn. Truyện sách lưu lại
rằng Ngài suýt bị Hạ Hầu Đôn giết vì nó biết cái sở yếu của Ngài mà lợi dụng,
nếu không có Trương Liêu đến cứu. Mỗi khi Ngài trở cây Yển Nguyệt Thanh long
đao định vớt nhà nớ thì nhà nớ nhảy xuống ngựa. Chí khí đó, thế gian hy hữu.
Hỏi, Ngài lập chí với bộ sách Xuân Thu mà thôi.
Người sau có tặng Ngài đôi
liễn :
Chí tại Xuân Thu, công tại
Hớn,
Trung đồng nhựt nguyệt,
nghĩa đồng Thiên.
(Chí hướng lập ở Kinh Xuân
Thu của Đức Khổng Tử, công lao lập với nhà Hán. Lòng trung sáng như vừng mặt
trời mặt trăng, cái nghĩa cao như trời.)
Trọn đời Ngài không lúc
nào rời bộ sách nầy, lúc nào cũng đọc để lấy tinh thần của sách, suy luận làm
tinh thần của mình.
Kể từ Đào Viên kết tình
bằng hữu cùng nhau, từ thuở bần hàn cho đến khi vinh hoa phú quí sang trọng,
Ngài vẫn một mực không hề thay đổi tâm đức bao giờ.
Tinh thần của người ấy là
tinh thần đứng riêng biệt một mình, một cảnh giới mà thôi. Thế gian khó tìm
thấy một kiểu vở thứ hai nữa đặng. Tinh thần của Ngài có oai quyền đặc sắc. Ta
thử tìm coi Ngài làm sao mà đặng như vậy ?
Nguơn linh
của Ngài là Xích Long Tinh. Buổi nọ dân Bắc Hớn phạm Thiên điều, bị Ngọc Hư
Cung phạt, hạn không cho mưa, đặng cho dân ấy phải đói. Dân làng biết mà cầu
nguyện nơi Ngài cứu nạn.
Ngài cũng thừa biết dân ấy
bị Thiên điều hành pháp, nhưng vì lòng ái tuất thương sanh, không nỡ để dân
chết đói, nên Ngài làm mưa. Ngọc Hư Cung bắt tội, sai Ngũ Lôi tru diệt. Ngài
chạy trốn vào một cái chùa, nhờ ông thầy chùa lấy chuông úp lại. Vị sư căn dặn
bổn đạo trong chùa đừng ai dở chuông cho đến ngày nào Ngài hết nạn. Chư Đạo trong
chùa tọc mạch dở chuông ra xem coi vật gì. Thành thử Ngài phải chịu đầu kiếp,
kiếp ấy là Hạng Võ. Hạng Võ thì ai cũng biết.
Nếu ta quan sát trong
Trọng Tương vấn Hớn, thì rõ tiền căn Hạng Võ, hậu kiếp Quan Công.
Bởi Hớn Bái Công khi lập
quốc rồi, nghe lời Lã Hậu, diệt công thần, giết Hàn Tín. Án ấy nằm dưới Phong
Đô mấy đời mà không ai xử đặng.
Buổi ấy có thầy Trọng
Tương là học trò khó, nhà nghèo nhưng rất hiếu hạnh. Cha chết, Trọng Tương cất
nhà mồ thờ cha mà ở. Thườnh hay buồn than thân trách phận, biết mình hữu tài mà
vô dụng, nên viết một bài thi có ý than rằng : "Thiên địa hữu tư, Thần
minh bất công." (Trời Đất có lòng riêng, Thần minh không công bình), dụng
ý trích điểm cái án nhà Hớn mà dưới Phong đô xử chưa có nổi. Vì vậy mà mắc tội
phạm thượng, bị bắt hồn dẫn đến Phong đô, đem cho Thập Điện Diêm Vương vấn tội.
Trọng Tương bình tỉnh trả
lời rằng : Nếu cho tôi ngồi làm Thập Điện Diêm Vương, tôi sẽ xử án ấy cho mà
coi.
Thập Điện Diêm Vương bằng
lòng.
Ngài xử : Tiền căn báo hậu
kiếp :
- Như Bành Việt, cho đi
đầu thai làm Lưu Bị,
- Anh Bố làm Ngô Tôn
Quyền,
- Hàn Tín làm Tào Tháo,
- Hạng Sư làm Nhan Lương,
Hạng Bá làm Văn Xủ,
- Hạng Võ làm Quan Công .
. .
Ta thấy 6 tướng của Hạng
Võ đem lòng phản bội, đầu nhà Hớn, rượt Hạng Võ đến bến Ô Giang, phải cắt đầu
trao cho Đình trưởng. Chú của Hạng Võ là Hạng bá, trở lại phản cháu, đã đầu lụy
Hớn Bái Công, còn trở lại phạt Sở.
Tiền căn hậu kiếp vay trả,
quả báo y nhiên.
Có một điều lạ là với Lữ
Mông, oan nghiệt có khác.
Tiền kiếp của Lữ Mông là
Ông thợ rèn. Quan Vân Trường đến mướn rèn Thanh long đao với một kiểu đặc biệt.
Khi rèn xong, Ngài cầm ra sân thử đao, chẳng ngờ vô tình làm chết oan ông thợ
rèn.(1)
Ông thợ rèn sau đầu kiếp
làm Lữ Mông. Cho nên buổi Ngài xuất thần qui vị, là trả cái ngày làm chết ông
thợ rèn là Lữ Mông đầu kiếp, trả báo giết lại Ngài.
Khi chơn linh của Ngài
xuất ngoại, Châu Thương và Quan Bình cung tự tử chết theo, ba người ấy bay giữa
không trung, đi ngang ngôi chùa, kêu Ông thầy chùa là Phổ Tịnh,
(1) Theo Tam Quốc Ngoại
Truyện, cái chết của Ông thợ rèn xảy ra như sau : Khi Quan Võ ra sân múa thử
đường đao, Ông thợ rèn biết cây Thanh long đao nầy oai lực rất mạnh nên chạy
núp trong bọng của một cây đại thọ gần đó. Quan Võ thử đao, muốn chém một vật
nào đó xem đao thế nào, thấy có cây đại thọ ở gần liền múa đao chém thử, thân
cây đại thọ bị đứt ngang ngã nhào, ông thợ rèn núp trong đó cũng bị đứt đầu
chết theo.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
đòi ông nọ trả đầu, ông
bèn lấy cái quạt gõ trên cửa, tụng 3 biến Vãng Sanh. Ngài hạ xuống tiếp đòi đầu
nữa. Ông nọ nói rằng : " Nhan Lương, Văn Xủ kia mới đòi đầu với ai ? Ấy là
tiền căn báo hậu kiếp thôi chớ.
Đức Quan Thánh tỉnh ngộ,
xin Ông Phổ Tịnh cho Ngài ở đó đặng tu. Chơn linh Ngài ở nơi chùa đó mà hiển
Thánh.
Khi hiển Thánh rồi, Ngài
trừ tà diệt quỉ, cứu độ sanh linh, và từ đó đến bây giờ, Ngài không tái kiếp
lần nào nữa, duy dụng cái quyền hành thiêng liêng hành đạo mà thôi. Với quyền
thiêng liêng ấy mà Ngài lập được Phật vị là Cái Thiên Cổ Phật, nhờ Vạn linh tôn
trọng Ngài lên.
Bần đạo dám quả quyết Ngài
không phải là Thiên phong mà chính là người của Vạn linh bầu cử.
Cho nên Đức Chí Tôn mở Đạo
là cơ quan hiệp nhứt Vạn linh, để Đấng ấy là Tam Trấn Oai Nghiêm đặng làm quan
Trạng sư cho Vạn linh đạt kiếp."
Đức Quan Thánh Đế Quân
không thường giáng cơ dạy Đạo như Đức Lý Đại Tiên, thỉnh thoảng Ngài mới giáng
cho một bài.
Sau đây, chúng tôi xin
chép lại bài giáng cơ của Ngài tại Minh Thiện Đàn, làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho,
ngày 19-6-Tân Mùi (dl 2-8-1931) với 4 câu thi đầu, khoán thủ la: CÁI THIÊN CỔ
PHẬT :
CÁI thế công danh thế quí
oai,
THIÊN tào kim phụng lịnh
Cao Đài.
CỔ kim độ chúng lao hà
nại,
PHẬT Thánh đạo tông tạo
thế lai.
Ta chào Giáo Hữu, cùng chư
Nhu. Biết Lão không ?
- Quan Thánh Đại Đế. Nay
chư Nhu cầu chi ?
Bạch : . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . .
- Việc ấy chẳng cần nói.
Chư nhu nhẹ tánh lắm âu
lo,
Lo vậy càng xa Thánh ý
trò.
Trò cứ một lòng vâng thửa
lịnh,
Lịnh trên nào để dễ gì
cho.
Vậy chư Nhu tuân mạng nghe
! Giáo Hữu khá nghe, vì bởi tiên tri của Lý Đại Tiên dạy trước rằng, phải coi
chừng Quỉ vương chen lấn mà thử thách chư Chức sắc Thiên ân, cùng cả Đạo lưỡng
phái.
Ta nói vậy khá kiếm hiểu,
chớ chẳng khá … trọn phận.
THI :
Huỡn vì việc Đạo ở nơi nào ?
Nhưng cũng tại lòng chẳng phải cao.
Sung sướng càng quen càng giả dối,
Gây nên oan nghiệt, tội dường bao !
Nay Lão cũng vì cơ chuyển
phục cũng cần , nên còn chưa tỏ cho cùng Thánh ý đặng. Vậy Lão xin chư Nhu cũng
rán lo cùng Lão mà chấn hưng Minh Thiện chuyển phục các nơi nghe !
Lão mong cho chư Nhu trọn
lời phú thác.
Lão mừng chư Nhu. Lão
thăng.
6 - Giải Thích Các Chi Tiết & Điển Tích
Giải thích các chi tiết & Điển tích
1 .
Tiểu sử tóm tắt của 5 vị có tượng tại Tòa Thánh
· Đức Quyền Giáo Tông Lê văn
Trung.
· Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương
Thanh..
· Đức Hộ Pháp Phạm công
Tắc..
· Đức Thượng Phẩm Cao
quỳnh Cư..
· Đức Thượng Sanh Cao hoài
Sang.
Đức Quyền Giáo Tông
Lê văn Trung (1876- 1934)
Ngài Lê văn Trung, sanh
năm Bính Tý (1876) tại làng Phước Lâm tổng Phước Điền Trung, Chợ Lớn. Thân phụ
là Lê văn Thanh (1845-1878) và thân mẫu là Văn thị Xuân (1949-1912). Ngài đậu
bằng Thành Chung năm 1894 và được thâu nhận làm Thơ Ký tại Dinh Thống Đốc Nam
Kỳ.
Năm 1906, Ngài xin nghỉ
việc và đắc cử vào Hội Đồng Quản Hạt Nam Ky,ø thuộc chánh quyền thuộc địa Pháp.
Năm 1911, Ngài Lê văn
Trung hợp với Bà Tổng Đốc Đỗ hữu Phương vận động cất Nữ Học Đường, kết quả là
xây được một ngôi trường Nữ đầu tiên tại Sàigòn, gọi là Collège des Jeunes
filles, và sau đặt tên là Nữ Trung Học Gia Long, nay là Trường Nữ Trung Học
Nguyễn thị Minh Khai.
Ngày 18-5-1912, Ngài Lê
văn Trung được Chánh phủ Pháp thưởng cho Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ ngũ đẳng.
Ngày 10-12-1914, Ngài được
nhà cầm quyền thuộc địa Pháp cử lên làm Nghị viên Hội Đồng Soái phủ Đông Dương,
thường gọi là Hội Đồng Thượng Nghị Viện Đông Dương.
Kể từ năm 1920 trở đi,
công việc kinh doanh của Ngài Lê văn Trung bắt đầu gặp khó khăn, sau đó thì
thua lỗ, đi dần đến chỗ phá sản. Ngài rất lo buồn nên sinh ra nghiện ngập và
đôi mắt bị bịnh, lờ mờ không thấy rõ.
Ngày 7-11-1926, Đức Chí
Tôn dạy 2 Ông Cao quỳnh Cư và Phạm công Tắc đem Đại ngọc cơ vào nhà Ngài Lê văn
Trung ở Chợ Lớn để Đức Chí Tôn dạy việc. Đức Chí Tôn giáng cơ thâu nhận Ngài
làm môn đệ, mà trước đó, Đức Chí Tôn đã dùng huyền diệu làm cho đôi mắt Ngài
hết bịnh, sáng tỏ trở lại như trước. Đức Chí Tôn cũng dạy Ngài Lê văn Trung
hiệp với 2 ông Cư, Tắc lo mở Đạo.
Ngày 27-1-1926, Đức Chí
Tôn dạy Ngài Lê văn Trung và 3 ông : Cư, Tắc, Sang đến nhà Ngài Đốc phủ Ngô văn
Chiêu, để ông Chiêu chỉ cho cách thờ phượng Thượng Đế bằng biểu tượng Thiên
Nhãn, và xem ông Chiêu là Anh Cả.
Ngày 22-4-1926, đàn cơ tại
Vĩnh Nguyên Tự Cần Giuộc, Đức Chí Tôn phong Ngài Lê văn Trung làm Đầu Sư phái
Thượng, Thánh danh là Thượng Trung Nhựt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Ngọc
Lịch Nguyệt.
Ngày 29-9-1926, Ngài vâng
lịnh Đức Chí Tôn hiệp cùng Chức sắc Đại Thiên phong và chư Đạo hữu, tổng cộng
247 người, họp tại nhà Ông Nguyễn văn Tường ở đường Galiéni, nay là đường Trần
Hưng Đạo, Quận 1 Sài gòn, để lập Tờ Khai Đạo gởi lên Chánh quyền Pháp. Tờ Khai
Đạo nầy được dâng lên Đức Chí Tôn duyệt trước.
Ngày 7-10-1926, Ngài Đầu
Sư Thượng Trung Nhựt đích thân đem Tờ Khai Đạo lên đưa cho Thống Đốc Nam Kỳ là
Ông Le Foll và được Ông Le Foll vui vẻ tiếp nhận.
Ngày Rằm Hạ nguơn năm Bính
Dần, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, hiệp cùng chư Chức sắc Đại Tiên Phong, vâng
lịnh Đức Chí Tôn, mượn chùa Từ Lâm Tự Gò Kén Tây Ninh làm Thánh Thất tạm, tổ
chức Lễ Khai Đạo Cao Đài, có sự hiện diện của quan chức các cấp của Chánh quyền
và đại diện các tôn giáo đến dự.
Ngài 22-11-1930, Ngài Đầu
Sư Thượng Trung Nhựt được Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho Ngài Lê văn Trung
cầm quyền Giáo Tông Hữu hình tại thế, theo Đạo Nghị Định thứ nhì, còn Đức Lý
vẫn nắm quyền Giáo Tông thiêng liêng.
Ngày 13-10-Giáp Tuất
(1934), Đức Q. Giáo Tông Lê văn Trung lâm bịnh và nhẹ nhàng thoát xác qui Thiên
tại Giáo Tông Đường Tòa Thánh, lúc 3 giờ chiều, hưởng thọ 59 t.
Nếu tính từ ngày Đức Quyền
Giáo Tông được Đức Chí Tôn thâu nhận làm môn đệ đến ngày qui Thiên, Đức Ngài
hành đạo được 9 năm. Trong những năm hành đạo, Đức Ngài lo xây dựng Hội Thánh
với đầy đủ các cơ quan, lo phổ thông nền đạo rất được kết quả, số tín đồ càng
lúc càng nhiều.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết
đạo cho biết, nguyên căn của Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung là Chơn linh của
Đại Tiên Lý Thiết Quả, đứng đầu Bát Tiên.
Nữ Đầu Sư
Lâm Hương Thanh (1874-1937)
Bà Lâm Hương Thanh có thế
danh là Lâm ngọc Thanh, sanh năm 1874 tại làng Trung Tín, Quận Vũng Liêm, Vĩnh
Long. Bà là vợ của Ông Huyện Huỳnh văn Xây, một nghiệp chủ giàu có tại Vũng
Liêm. Bà sanh một người con gái tên Huỳnh thị Hồ. Sau nầy Ông Huyện Xây chết,
Bà tái giá với Ông Huyện Hàm Nguyễn ngọc Thơ, ở Tân Định, Sài gòn.
Bà và Ông Thơ nhập môn
theo Đạo Cao Đài vào đầu năm 1926. Trước đó, 2 Ông Bà đều là đệ tử của Hòa
Thượng Như Nhãn, chủ chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén Tây Ninh. Nhờ huyền diệu cơ bút,
Đức Chí Tôn độ được Hòa Thượng Như Nhãn theo Đạo Cao Đài nên Như Nhãn cho mượn
chùa Từ Lâm làm Thánh Thất tạm để tổ chức Lễ Khai Đạo vào ngày 15-10-Bính Dần
(1926).
Trong dịp Lễ Khai Đạo, Đức
Chí Tôn giáng cơ phong cho Bà chức Nữ Giáo Sư , Thánh danh Lâm Hương Thanh.
Trong kỳ phong Thánh Nữ
phái lần thứ 1, ngày 14-1-Đinh Mão (1927), Bà được thăng lên Nữ Phối Sư.
Bà lãnh lịnh Ngài Đầu Sư
Thượng Trung Nhựt lo việc giao thiệp với Chánh quyền Pháp, xin mở cửa các Thánh
Thất bị Chánh quyền áp chế đóng cửa trước đây. Bà làm đơn cam kết Đạo Cao Đài
là Phật Giáo Chấn Hưng, thuần túy tu hành, không làm điều gì sai luật của Chánh
phủ.
Ngày 9-3-Kỷ Tỵ (dl
16-4-1929), Bà Lâm Hương Thanh được thăng phẩm Nữ Chánh Phối Sư.
Bà đăng Tiên vào ngày
8-4-Đinh Sửu (dl 17-5-1937), và được truy thăng Nữ Đầu Sư ngày 25-4-Đinh Sửu
(1937).
Đức Phạm Hộ Pháp cho biết
nguyên căn của Bà là chơn linh của Long Nữ, đệ tử của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Đức Hộ Pháp
Phạm công Tắc (1890-1959)
Ngài Phạm công Tắc sinh
ngày 5-5-Canh Dần (1890) tại làng Bình Lập, tỉnh Tân An, nhưng song thân của
Ngài quê quán ở tại làng An Hòa, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Thân phụ của Ngài là Ông
Phạm công Thiện và Thân mẫu là Bà La thị Đường. Ông Thiện là công chức dưới
trào Pháp thuộc, được đổi đến làm việc ở tỉnh Tân An, đem gia đình theo, và ở
nơi đó sanh ra Ngài Phạm công Tắc.
Năm 1907, Ngài thi đậu
bằng Thần Chung. Sau đó Ngài xin làm Thơ ký nơi Sở Thương Chánh Sài gòn.
Năm 21 tuổi, Ngài lập gia
đình với Bà Nguyễn thị Nhiều, sanh đặng 3 người con, chỉ nuôi được 2 người con
gái là : Phạm Hồ Cầm và Phạm Tần Tranh.
Đêm 24-7-1925 (Ất Sửu),
Ngài Tắc cùng 3 bạn : Cao quỳnh Cư, Cao quỳnh Diêu, Cao hoài Sang, họp nhau tại
nhà Ngài Sang ở phố hàng dừa Sàigòn, để thực hành việc Xây Bàn theo lối Thông
linh học tiếp xúc với thế giới vô hình.
Ông Cao quỳnh Tuân, thân
phụ của 2 Ngài Diêu và Cư giáng bàn cho một bài thi, khiến quí Ngài tin tưởng
có các vong linh nơi thế giới vô hình. Sau đó, Cô Vương thị Lễ, Thất Nương Diêu
Trì Cung giáng bàn, dùng thi phú xướng họa với quí Ngài, để lần lần dẫn dắt vào
đường Đạo. Sau cùng, Đức Chí Tôn tá danh AĂÂ giáng bàn dạy Đạo cho quí Ngài.
Đêm 14 rạng 15-8-Ất Sửu
(1925), Đấng AĂÂ dạy quí Ngài làm một cái tiệc chay đãi Đức Phật Mẫu và Cửu vị
Tiên Nương DTC gọi là Hội Yến Diêu Trì Cung, tại nhà Ngài Cư.
Ngày 1-11-Ất Sửu (1925),
Đấng AĂÂ dạy 3 Ngài Cư, Tắc, Sang, ra quì giữa Trời "Vọng Thiên cầu
Đạo".
Ngày 12-3-Bính Dần (1926),
tại Chùa Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc), Đức Chí Tôn phong Ngài Phạm công Tắc chức
Hộ Pháp, Ngài Cao quỳnh Cư chức Thượng Phẩm, Ngài Cao hoài Sang chức Thượng
Sanh. Hai vị Hộ Pháp và Thượng Phẩm lập thành cặp Phò Loan Phong Thánh.
Sau Đại lễ Khai Đạo tại
chùa Gò Kén Tây Ninh, Đức Phạm Hộ Pháp vâng lịnh Đức Chí Tôn lên Nam Vang mở
Đạo và thành lập Hội Thánh Ngoại Giáo tại đây. Ngày 28-3-Canh Ngọ, Đức Phạm Hộ
Pháp dẫn một phái đoàn đi xuống làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho để lấy Phép Ếm của Tàu
là Long Tuyền Kiếm, do Bát Nương chỉ dẫn.
Ngày 3-10-Canh Ngọ (1930),
Đức Lý Giáo Tông hiệp cùng Đức Phạm Hộ Pháp lập 6 Đạo Nghị Định để chỉnh đốn
nền Đạo. Ngày 16-7-Giáp Tuất (1934) Đức Lý Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp lập
thêm 2 Đạo Nghị Định để trị loạn trong nền Đạo. Tổng cộng tất cả 8 Đạo Nghị
Định.
Sau khi Đức Quyền Giáo
Tông Lê văn Trung qui Thiên, Đức Lý Giáo Tông giao cho Đức Phạm Hộ Pháp cầm
quyền Giáo Tông tại thế để điều hành nền Đạo cho được mau lẹ, nên lúc đó, Đức
Phạm Hộ Pháp chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài : Hiệp Thiên và Cửu Trùng.
Trong suốt 34 năm hành
đạo, Đức Phạm Hộ Pháp xây dựng được nhiều công trình vĩ đại cho Đạo, lưu lại
công nghiệp vĩ đại mãi mãi về sau, kể ra :
- Xây dựng Tòa Thánh đồ sộ
nguy nga thờ Đ. Chí Tôn.
- Xây dựng Báo Ân Từ làm
nơi thờ Đức Phật Mẫu.
- Xây dựng các cơ quan của
Đạo trong Nội Ô : Giáo Tông đường, Nữ Đầu Sư đường, Tòa Nội Chánh Cửu Trùng
Đài, Hộ Pháp đường, Văn phòng Hiệp Thiên Đài, Bộ Pháp Chánh, Đạo Đức Học đường,
Bộ Nhạc Lễ, vv. . .
- Lập Phạm Môn và sau đó
biến thành Cơ Quan Phước Thiện với Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng từ phẩm Minh
Đức lên đến phẩm Phật Tử.
- Lập các phẩm Chức sắc
HTĐ cấp dưới, theo ý kiến của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, từ phẩm Luật Sự lên
phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn để thi hành quyền Tư Pháp của HTĐ.
- Lập Ban Thế Đạo với 4
phẩm Chức sắc.
- Xây dựng Chợ Long Hoa,
mở mang vùng Thánh Địa.
- Xây dựng 3 Cung 3 Động :
Trí Huệ Cung Thiên Hỷ Động, Trí Giác Cung Địa Linh Động, Vạn Pháp Cung Nhơn Hòa
Động để dùng làm Tịnh Thất.
Trong lúc đang xây dựng
Tòa Thánh gần xong, ngày 28-6-1941 (Tân Tỵ), Chánh quyền Pháp vào Tòa Thánh bắt
Đức Phạm Hộ Pháp và một số Chức sắc cao cấp đày đi Madagascar, một hải đảo ở
Phi Châu, suốt 5 năm 2 tháng.
Vì áp lực của chánh quyền
Ngô đình Diệm, Đức Phạm Hộ Pháp phải rời Tòa Thánh, lưu vong sang Nam Vang, thủ
đô nước Cao Miên, vào ngày 5-Giêng-Bính Thân (1956).
Ngày 10-4-Kỹ Hợi (1959),
lúc 13 gờ 30 phút, Đức Ngài thoát xác qui Thiên, hưởng thọ 70 tuổi.
Nguyên căn và quyền hành
của Đức Phạm Hộ Pháp được Đức Lý thố lộ trong bài thơ khoán thủ sau đây :
HỘ giá Chí Tôn trước đến giờ,
PHÁP luân thường chuyển máy Thiên Thơ.
CHƯỞNG quyền Cực Lạc phân ngôi vị,
QUẢN xuất Càn Khôn định cõi bờ.
NHỊ kiếp Tây Âu cầm máy tạo,
HỮU duyên Đông Á nắm Thiên Thơ.
HÌNH hài Thánh thể chừ nên tướng,
ĐÀI trọng hồng ân gắng cậy nhờ.
Đức Thượng Phẩm
Cao Quỳnh Cư (1888-1929)
Ngài Cao quỳnh Cư sanh năm
Mậu Tý (1888) tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh thượng, tỉnh Tây Ninh. Thân phụ
là Ông Cao quỳnh Tuân, Thân mẫu là Trịnh thị Huệ, bào huynh là Cao quỳnh Diêu,
đắc phong Bảo Văn Pháp Quân.
Năm 1907, Ngài Cư lập gia
đình với Cô Nguyễn thị Hiếu, sau đắc phong Nữ Đầu Sư (1968).
Năm 1915, Ngài làm Thơ ký
tại Sở Hỏa Xa Sài gòn.
(Việc Xây bàn, tổ chức Lễ
Hội Yến Diêu Trì Cung, Vọng Thiên Cầu Đạo, việc thọ phong chức Thượng Phẩm, xin
xem nơi phần Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc).
Nhờ sự hướng dẫn của Đức
Lý Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm cùng Hội Thánh mua được miếng đất rừng ở làng
Long Thành để cất Tòa Thánh. Việc tổ chức di chuyển từ Chùa Từ Lâm ở Gò Kén về
đất mới mua, do Đức Cao Thượng Phẩm đảm nhiệm.
Đức Cao Thượng Phẩm chỉ
huy những người Miên làm công quả lo khai hoang, chặt cây phá rừng, để cất Tòa
Thánh tạm, cất Hậu Điện, Đông Lang, Tây Lang, Trù phòng, Trường học, đều làm
bằng cây, vách đất, lợp tranh, tạm thời có chỗ làm việc cho Hội Thánh.
Tạo dựng đâu đó xong xuôi,
Ngài bị bọn xấu vu oan cho Ngài nhiều việc xấu và buộc Ngài phải rời Tòa Thánh,
trở về tư gia của Ngài ở gần chợ Tây Ninh. Tại đây, Ngài dựng nên Thảo Xá Hiền
Cung làm nơi tu dưỡng. Ngài buồn phiền nên sanh bịnh và thoát xác đăng Tiên vào
ngày 1-3-Kỷ Tỵ (1929), lúc 11 giờ trưa, hưởng 42 tuổi.
Đức Phạm Hộ Pháp cho biết,
nguyên căn của Đức Cao Thượng Phẩm là Đại Tiên Hớn Chung Ly trong Bát Tiên.
Đức Thượng Sanh
Cao hoài Sang (1901-1971)
Ngài Cao hoài Sang, sanh
ngày 11-9-1901 (Tân Sửu) tại làng Thái Bình tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là Cao Hoài
Ân, Thân mẫu là Hồ thị Lự, sau đắc phong Nữ Đầu Sư hàm phong (1968), bào huynh
là Thời Quân Tiếp Đạo Cao đức Trọng.
Buổi xây bàn đầu tiên để
tiếp xúc với các vong linh được tổ chức tại nhà Ngài Sang ở phố Hàng dừa
Sàigòn.
(Việc Xây bàn, tổ chức Lễ
Hội Yến Diêu Trì Cung, Vọng Thiên Cầu Đạo, việc thọ phong chức Thượng Sanh, xin
xem nơi phần Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc).
Sau khi Đức Phạm Hộ Pháp
lưu vong sang Cao Miên năm 1956, Hội Thánh thiếu người trực tiếp cầm giềng mối
Đạo, nên thỉnh Đức Cao Thượng Sanh, từ Sàigòn về Tòa Thánh Tây Ninh đặng điều
hành nền Đạo.
Từ đây, Ngài trọn phế đời
hành đạo. Ngài tiếp nối Đức Phạm Hộ Pháp, xây dựng thêm các cơ quan trong đạo,
như Nhà Hội Vạn Linh, Cơ quan Phát thanh Giáo lý, Văn phòng Ban Thế Đạo, Bắc
Tông Đạo, Tần Nhơn, Nam Đầu Sư Đường, Học Đường Bộ Nhạc, vv . và phát huy việc
phổ thông giáo lý Đại Đạo.
Đức Cao Thượng Sanh có tài
năng đặc biệt về Cổ nhạc Việt Nam, nhờ vậy mà nền Âm Nhạc của Đạo Cao Đài được
Ngài chỉnh đốn hoàn hảo.
Tuổi già sức yếu, công
việc Đạo đa đoan, Đức Cao Thượng Sanh ngọa bịnh và đăng Tiên ngày 26-3-Tân Hợi,
lúc 5 giờ chiều, hưởng thọ 71 tuổi.
(LƯU Ý : Muốn biết Tiểu sử
chi tiết của 5 vị Chức sắc Đại Thiên Phong kể trên, xin xem quyển sách : Danh
Nhân Đại Đạo).
2. Đạo kỳ
Đạo kỳ là lá cờ đạo, tượng
trưng Đạo Cao Đài, gồm 3 màu : Vàng, Xanh, Đỏ.
Do đó, lá cờ đạo nầy còn
được gọi là Cờ Tam Thanh, vì Thái Thanh có màu vàng, Thượng Thanh có màu xanh
và Ngọc Thanh có màu đỏ.
Tại bao lơn trước Tòa Thánh,
trong những ngày lễ của Đạo đều có treo lá cờ Đạo rất lớn, hình chữ nhựt, có
màu vàng ở bên trên, màu xanh ở giữa và màu đỏ ở dưới chót.
Trên phần nền vàng, có
thêu 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, trên phần nền xanh ở giữa có thêu một Thiên
Nhãn và Cổ Pháp Tam giáo : Bình Bát Du, Cây Phất Chủ và quyển Kinh Xuân Thu.
Trên phần màu đỏ không có thêu gì cả.
Ý nghĩa của lá cờ Đạo Cao
Đài được Đức Phạm Hộ Pháp giải thích , xin tóm tắt như sau :
- Màu vàng là của phái
Thái, tượng trưng Phật giáo.
- Màu xanh là của phái
Thượng, tượng trưng Tiên giáo.
- Màu đỏ là của phái Ngọc,
tượng trưng Thánh giáo tức Nho giáo.
Ghép 3 màu lại trong một
khuôn hình chữ nhựt, với 3 phần đều bằng nhau, tượng trưng tôn chỉ của Đạo Cao
Đài là Tam Giáo Qui Nguyên.
Thiên Nhãn là biểu tượng
của Đức Chí Tôn, thờ Thiên Nhãn là thờ Đức Chí Tôn.
Thêu Thiên Nhãn và Cổ Pháp
Tam giáo trên Đạo Kỳ, dưới 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là để chỉ rằng, Đạo Cao
Đài do Đức Chí Tôn lập ra trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ Tam giáo
qui nguyên, nghĩa là đem 3 nền Tôn giáo lớn ở Á Đông qui về một gốc Đại Đạo do
Đức Chí Tôn làm chủ.
3 . Cổ Pháp Tam giáo
Trên lá cờ
Đạo, hay trên lan can lầu Phi Tưởng Đài, đều có hình Cổ Pháp Tam giáo.
Cổ Pháp Tam
giáo gồm : Bình Bát Vu, Cây Phất Chủ và Quyển Xuân Thu. Bình Bát Vu đặt ở giữa,
Phất Chủ và Xuân Thu đặt ở 2 bên.
- Bình Bát
Vu tượng
trưng Phật giáo.
- Cây Phất Chủ tượng trưng
Tiên giáo.
- Sách Xuân Thu tượng
trưng Nho giáo.
Ghép 3 món ấy lại với nhau
để tượng trưng tôn chỉ của Đạo Cao Đài là : Tam giáo qui nguyên, tức là đem 3
nền tôn giáo lớn ở Á Đông (Phật giáo, Tiên giáo và Nho giáo) hiệp trở về một
gốc, gốc đó là Đại Đạo, do Thượng Đế làm chủ.
Phật Mẫu Chơn Kinh : Xuân
Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
Hiệp qui Tam giáo hữu cầu
chí chơn.
Bát Vu : Bát Vu là cái
bình bát đựng đồ ăn của các tăng ni Phật giáo, phái Khất Sĩ, dùng để đi khất
thực.
Mỗi vị sư, sau khi thọ
giới cụ túc, được vị Hòa Thượng nhơn danh Giáo Hội, truyền cho một cái bát,
hoặc khi cái bát bị bể, thì Giáo Hội cũng phát cho cái khác.
Lúc thọ lãnh bát, vị sư
nguyện 3 lần bài chú sau đây :
" Thiện tai
Bát-đa-la, Như Lai ứng lượng khí : Phụng trì dĩ tư thân, trưởng dưỡng trí mạng.
Án chỉ rị chỉ rị phạt nhựt ra hồng phấn tra."
Nghĩa là : Lành thay cái
Bát-đa-la, món đồ ứng lượng của Phật. Tôi nay phụng trì để nuôi thân và nuôi
lớn cái mạng trí huệ. Sau cùng là Câu Thần chú bằng tiếng Phạn.
Bát-đa-la là phiên âm từ
tiếng Phạn :PATRA, có nghĩa là cái bát, cái bình bát hay Bình bát vu.
Bình Bát Vu còn là một
trong 2 tín vật của Phật giáo mà các Tổ Sư gìn giữ làm bảo vật để truyền kế
ngôi Tổ Sư.
Hai tín vật đó là : Y và Bát. Y là cái áo cà sa
và Bát là cái Bình Bát vu. Nguyên 2 tín vật nầy là của đức Phật Thích Ca xử
dụng trong lúc Đức Phật còn sanh tiền. Khi Đức Phật tịch, Phật truyền 2 món nầy
lại cho Ma-Ha Ca-Diếp làm tín vật để giữ ngôi Nhứt Tổ Phật giáo Ấn Độ.
Sau đó, Ma-Ha Ca-Diếp truyền Y Bát lại cho
A-Nan làm Nhị Tổ Phật giáo Ấn Độ. Y Bát nầy truyền dần xuống đến đời Tổ Sư thứ
28 là Bồ-Đề-Đạt-Ma, thì Đạt-Ma Tổ Sư đem Y Bát sang Trung Hoa để mở mang Phật
giáo tại nước nầy. Đat-Ma Tổ Sư trở thành Sơ Tổ của Phật giáo Trung
Hoa.
Đạt-Ma Tổ Sư truyền Y Bát
lại cho 4 đời Tổ Sư nữa thì đến đời Lục Tổ Huệ Năng. Sau đời Lục Tổ Huệ Năng,
không còn lệ truyền Y Bát nữa, vì theo lời di chúc của Đạt-Ma Tổ Sư, 200 năm
sau kể từ ngày Ngài lên Ngôi Tổ thì Y Bát không được truyền nữa.
Vì sự hệ trọng của Y và
Bát như thế, nên Đạo Cao Đài chọn Bình Bát Vu làm Cổ Pháp tượng trưng Phật
giáo.
Phất Chủ : Phất là quét,
chủ là con chủ. Con chủ là loài thú thuộc loài nai, hình dáng như con hươu
nhưng lớn hơn, lông đuôi dài chấm đất, khi đi thì cái đuôi phẩy qua phẩy lại để
quét cho sạch bụi.
Do đó, Phất chủ là cái
chổi quét bụi làm bằng lông đuôi con chủ, nên cũng gọi là Phất trần (quét bụi).
Các vị Tiên thường dùng
lông đuôi chủ để làm chổi quét bụi. Nhưng đây là cây chổi Tiên, nên nó có rất
nhiều phép tắc mầu nhiệm, nó dùng để quét sạch bụi trần bám vào che lấp cái
Tâm, để cho cái Tâm được trong sạch sáng tỏ.
Nguồn gốc cây Phất chủ là
của Đức Thái Thượng Lão Quân. Do đó, Phất chủ là bửu bối của Tiên gia. Đạo Cao
Đài chọn Phất chủ làm Cổ Pháp tượng trưng Tiên giáo.
Xuân Thu: Xuân Thu là tên
của một quyển sách do Đức Khổng Tử sáng tác vào lúc cuối cuộc đời của Ngài, sau
khi Ngài đã san định xong Ngũ Kinh.
" Xuân Thu là tên của
một bộ sử nước Lỗ do Đức Khổng Tử ghi chép những việc quan trọng xảy ra hằng
năm, từ đời Lỗ Ân Công nguyên niên, tức là từ năm thứ 49 đời vua Chu Bình
Vương, đến đời Lỗ Ai Công năm thứ 14, tức là năm thứ 39 đời vua Chu Kinh Vương,
trong thời gian 242 năm.
Đây là một giai đoạn lịch
sử Trung Hoa, thời kỳ mạt điệp nhà Chu (Châu), ngôi Thiên tử suy nhược, bị bọn
Ngũ Bá : Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Tống Tương Công, Sở Trang
Công, nổi lên lấn át quyền Thiên tử, các nước chư Hầu tranh chiếm lẫn nhau, các
sử gia gọi là thời đại hỗn loạn , nên người đời sau mượn tên Kinh Xuân Thu để
gọi thời đại ấy là thời Xuân Thu (722-480 trước Tây lịch).
Mặc dầu Kinh Xuân Thu là
một cuốn sách lịch sử, nhưng khi ghi chép, Đức Khổng Tử vận dụng văn tự và bút
pháp để khen chê, để phân biệt kẻ thiện người ác hết sức minh bạch và đanh
thép, nên người đời sau đã phải công nhận đó là búa rìu trong Kinh Xuân Thu
(Xuân Thu phủ việt), cũng như nói: Đức Khổng Tử làm Kinh Xuân Thu mà bọn loạn
thần tặc tử sợ (Khổng Tử tác Xuân Thu nhi loạn thần tặc tử cụ).
Vì thế Kinh Xuân Thu đã có
tác dụng về Đạo lý, đã giữ địa vị quan trọng trong nền văn hóa Đông phương nói
chung và Nho giáo nói riêng, trong sự biểu dương học thuyết "Chính danh,
Nhất quán, Trung Dung, Đại Đồng" của vị Vạn Thế Sư Biểu mà dân tộc Việt
nam đã chịu ảnh hưởng hơn 2000 năm nay.
Kinh Xuân Thu còn có tính
cách điển hình gương mẫu cho người đời sau phải tôn trọng danh dự và nhiệm vụ
trong khi viết sử, và được liệt vào 5 Bộ Kinh căn bản của Nho giáo : Kinh Thi,
Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu." (Theo Ông Lê phục Thiện,
chuyên viên Hán học, TTHL)
Xem như thế, Kinh Xuân Thu
là một bộ sách rất quan trọng, tiêu biểu cho Đức Khổnng Tử, mà cũng tiêu biểu
cho Nho giáo. Đức Quan Thánh thuở sanh tiền lấy Kinh Xuân Thu làm sách gối đầu.
Do đó, Đạo Cao Đài lấy
Kinh Xuân Thu làm Cổ Pháp tượng trưng Nho giáo.
4 .
Long Hoa
Phía dưới bao lơn trước
Tòa Thánh có 4 cây cột, mỗi bên 2 cây đứng kế nhau, một cây quấn rồng đỏ, một
cây quấn bông sen. Hai cây cột đứng kế nhau ấy tượng trưng 2 chữ LONG HOA. Long
là rồng, Hoa là cái bông).
Tượng trưng như vậy là có
ý nói rằng, Đại Hội Long Hoa kỳ nầy sẽ mở ra tại Tòa Thánh Tây Ninh , và Đức
Di-Lạc Vương Phật ngự trên nóc Phi Tưởng Đài sẽ làm Giáo chủ, với 8 khuôn hình
chung quanh bao lơn tượng trưng 8 hạng người của nhơn loại (Sĩ, Nông, Công,
Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục), tức là tượng trưng nhơn loại tụ họp về Tòa Thánh
để tham dự Đại Hội Long Hoa. Những người tham dự Đại Hội Long Hoa là những
người đã được Đức Di-Lạc Vương Phật chấm đậu trong kỳ thi công đức và sẽ được
thăng thưởng vào các phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật. Từ khi có nhơn loại đến nay,
Đức Chí Tôn đã mở 2 kỳ Đại Hội Long Hoa : Kỳ nhứt và Kỳ nhì. Sắp tới, Đức Chí
Tôn sẽ mở Đại Hội Long Hoa Kỳ ba :
* Cuối Chuyển thứ nhứt,
tức là cuối Hạ nguơn Nhứt Chuyển, có Đại Hội Long Hoa kỳ nhứt, gọi là Thanh
Vương Đại Hội, do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật làm Giáo Chủ.
(Kể từ khi có nhơn loại
đến nay đã trải qua 3 Chuyển : Nhứt Chuyển, Nhị Chuyển, Tam Chuyển. Mỗi Chuyển
có 3 Nguơn : Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn. Hiện nay, nhơn loại đang ở
vào cuối Hạ nguơn của Tam Chuyển, sắp bước qua Thượng nguơn của Tứ Chuyển).
* Cuối Chuyển thứ nhì, tức
là cuối Hạ nguơn Nhị Chuyển, có Đại Hội Long Hoa kỳ thứ nhì, gọi là Hồng Vương
Đại Hội, do Đức Phật A-Di-Đà làm Giáo Chủ.
* Cuối Chuyển thứ ba, tức
là cuối Hạ nguơn Tam Chuyển, sẽ có Đại Hội Long Hoa kỳ thứ ba, gọi là Bạch
Vương Đại Hội, do Đức Di-Lạc Vương Phật làm Giáo Chủ.
Đạo ví Đời là một trường
học vĩ đại, có đủ các bài học từ thấp đến cao, từ ác tới thiện, từ vật chất đến
tinh thần, để các chơn linh đầu kiếp xuống đây học hỏi, chiêm nghiệm và tiến
hóa. Người làm thiện thì tiến hóa hơn người làm ác; người ăn chay thì tiến hóa
hơn người ăn mặn; người tu hành đạo đức thì tiến hoá hơn người không tu. Đại
Hội Long Hoa là một cuộc thi tuyển sau một Chuyển học hỏi và tiến hoá của nhơn
loại. Ai đạt được trình độ tiến hóa cao thì được chấm đậu, sẽ lãnh được những
cấp bằng làm Thần Thánh Tiên Phật tương ứng với trình độ tiến hóa của mình. Ai
rớt thì phải ở lại cõi trần để tiếp tục học hỏi và tiến hóa, chờ kỳ thi tuyển
được mở ra vào cuối Chuyển tiếp theo.
Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ (tức là Đạo Cao Đài) là để chuẩn bị cho con cái của Ngài trước kỳ thi
tuyển vào Đại Hội Long Hoa kỳ thứ ba.
" Người dưới thế nầy,
muốn giàu có, phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn
Thần Thánh Tiên Phật, muốn cho đắc đạo, phải có công quả. Thầy đến độ rỗi các
con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Nếu chẳng đi đến
trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình, thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo
bao giờ." (TNHT. I. 27)
Trong Đại Hội Long Hoa kỳ
thứ ba nầy, người được chấm đậu sẽ được tưởng thưởng xứng đáng bằng những phẩm
vị Thần Thánh Tiên Phật, và sẽ được đưa vào những thế giới tiến hóa cao siêu
hơn. Những người có công đức ít sẽ được sống sót tại quả địa cầu nầy và trở
thành giống dân Thần Thông Nhơn để lập đời Thượng Nguơn Thánh đức.
Còn những người thi rớt ở
Đại Hội Long Hoa nầy , họ phải ở đó chờ đợi cho đến khi nào lớp thú cầm tiến
hóa lên phẩm nhơn loại thì họ mới nhập vào, để cùng bắt đầu một chu trình tiến
hóa mới. Sự chờ đợi đó đôi khi phải mất hằng triệu năm thì lớp thú cầm mới tiến
hóa lên được phẩm người.
Hội Long Hoa sa thải những
kẻ gian ác (kém tiến hóa) tức là những kẻ thi rớt bằng cách nào ?
- Bằng những tai Trời ách
nước như : Bão tố, lụt lũ, núi lửa, động đất, bịnh chướng sát hại. Mười phần
nhơn loại rớt hết 9 phần, chỉ đậu 1 phần. Do đó, trước ngày khai Đại Hội Long
Hoa, sẽ có một cuộc tang thương vĩ đại, để loại trừ 9 phần 10 nhơn loại kém
tiến hóa đó, mà nhiều tôn giáo gọi đó là Tận Thế, là cuộc Phán Xét cuối cùng.
TNHT.I. 87 : "Kỳ Hạ
nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tan, 10 phần chỉ còn lại 1 mà
thôi. Than ôi ! Buồn thôi ! Nghĩ vì Thiên cơ định vậy, thế nào mà cải cho đặng,
duy có mở tấm lòng từ thiện ăn năn sám hối, lo việc tu hành, đồng với nhau cả
quốc dân mà quì lụy khẩn cầu coi Trời có đoái tưởng đến chăng ?
Bởi thế nên Đức Ngọc Đế và
chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, mới lập Hội Tam Kỳ Phổ Độ đặng cứu vớt chúng
sanh đương linh đinh nơi bể khổ. Nếu gặp thuyền Bát Nhã mà không xuống, không
theo thì chắc thế nào cũng chơi vơi mé biển."
Sau cuộc biến động dữ dội
gọi là Tận Thế đó, thì quả Địa cầu trở lại yên tĩnh, thời tiết trở lại điều hòa
tốt đẹp, trược khí được thổi tan, nhơn loại còn lại là những người hiền lương
đạo đức với hình dáng tốt đẹp, mạnh khỏe sống lâu. Đó là khởi đầu của giống dân
Thần Thông Nhơn lập đời Thượng nguơn Thánh đức. Chư Tiên Phật sẽ giáng trần
hướng dẫn nhơn loại tiếp tục tiến hóa lên cao hơn nữa.
Do đó, Đức Chí Tôn có nói
:
Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên, xuống ở trần.
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết
đạo nói về Đại Hội Long Hoa, xin trích ra sau đây :
" Long Hoa Hội là gì ? Long Hoa Hội là một ngày, một buổi khảo lựa
của toàn thể các chơn hồn, dầu Quỉ vị hay trong Thần vị cũng vậy, định khoa mục đặng lập vị
thiêng liêng.
Chúng ta hiểu rằng, mỗi
Chuyển, tức nhiên là mỗi khoa mục. Hễ cuối một Chuyển, tức nhiên Hạ nguơn, là
ngày định vị của các đẳng linh hồn.
Thánh giáo Gia-Tô đã nói
rằng : " Ngày xét đoán cuối cùng ", mà kỳ thật là ngày định vị cho
chư Phật đó vậy.
Có một điều trọng hệ đương
buổi nầy là buổi náo nhiệt, tại sao ? Tại mãn Hạ nguơn Tam Chuyển, Thiên thơ đã
định Long Hoa Hội.
Thánh giáo Chí Tôn nói :
" Các con phải chung cùng nhau, tức nhiên lập Long Hoa Hội, định vị cho
các chơn linh trong kỳ Hạ nguơn Tam Chuyển nầy, định vị cho họ đặng mở Thượng
nguơn Tứ Chuyển cho các chơn linh." Ngài mở Long Hoa Hội ấy, tức nhiên
Ngài định chấm đậu rớt cho các chơn linh vậy. Vì cớ cho nên, chúng ta ngó thấy
có huyền vi bí mật nơi mặt thế nầy : Đức Chí Tôn đến mở Đạo ngày nay, chúng ta
thấy oan gia nghiệp chướng trả liền buổi nầy, không cho thiếu, trả mãn mới
thôi. "
TÓM LẠI : - Đại Hội Long
Hoa là một cuộc thi cần thiết để tuyển chọn người đạo đức trong thời kỳ cuối Hạ
nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, để tạo lập đời Thượng nguơn
Thánh đức.
- Những người bị loại ra
khỏi Đại Hội Long Hoa là những người kém tiến hóa, tức là họ còn gian ác xấu
xa, thiếu đạo đức. Họ phải ở đó chờ đợi hằng triệu năm sau để lớp thú cầm tiến
hoá lên phẩm người thì họ cùng nhập vào mà bắt đầu một giai đoạn tiến hóa mới.
- Tỷ lệ tuyển chọn của Đại
Hội Long Hoa kỳ ba nầy là 1/10. Trong 10 người chỉ có một người đậu mà thôi,
còn 9 người kia bị loại và bị tiêu diệt. Linh hồn của họ phải chờ đợi như vừa
trình bày bên trên.
- Đức Di-Lạc Vương Phật
đứng làm Giáo Chủ Đại Hội Long Hoa, chính Ngài là Chánh Chủ Khảo chấm thi đậu
rớt.
5 . Tám khuôn hình nơi bao lơn Tòa Thánh
I . Hạ Võ
trị thủy : tượng trưng NÔNG.
II . Ngu Thuấn cày voi : - - CANH.
III . Toại Nhân - Hữu Sào : - - CÔNG.
IV . Phạm Lãi - Tây Thi : - - THƯƠNG
V . Khương Thượng ngồi câu : - - NGƯ.
VI . Khương Thượng ngồi câu: - - TIỀU.
VII . Sào Phủ - Hứa Do : - - MỤC .
VIII . Châu Mãi Thần : - - SĨ.
Khuôn hình số I : Nông.
Hạ Võ trị thủy
Ông Hạ Võ
được vua Thuấn sai đi xẻ núi đào sông, làm cho nước chảy thông ra biển,
tránh lụt ngập cho dân, giúp cho nghề nông phát triển mau lẹ.
Hạ Võ là con Ông Cổn. Ông Cổn làm quan dưới triều vua
Nghiêu. Vua Nghiêu sai ông Cổn trị thủy , ông Cổn làm việc trong 9 năm nhưng
không thành công được điều gì.
Sau, Ông Thuấn lên nối
ngôi vua Nghiêu, lại sai con Ông Cổn là Hạ Võ tiếp tục công việc trị thủy. Hạ
Võ vất vả làm việc trong 10 năm, làm rất khẩn trương, đi qua cửa nhà mà không
có thời giờ vào thăm nhà. Ông đã khai thông được các sông ngòi, đào thêm các
kinh rạch, nhờ vậy, nước lụt thuận dòng chảy ra biển. Đất đai không còn bị ngập
lụt nên dân chúng cày cấy trồng trọt được, làm cho Nông nghiệp phát triển mau
lẹ.
Nhờ công nghiệp to lớn
nầy, Ông Hạ Võ được vua Thuấn phong làm chức Tư Không, điều khiển các quan.
Vua Thuấn ở ngôi được 33
năm, lúc đó đã được 93 tuổi, nhận thấy con là Thương Quân bất tài, không phải
là người hiền, nên vua Thuấn bắt chước vua Nghiêu, truyền ngôi cho người hiền
là Ông Hạ Võ.
Vua Thuấn phủ dụ Ông Hạ Võ
:
" Lại đây Ông Võ !
Trời ra tai họa nước lụt, có ý răn ta. Nay tin giữ được lời nói, làm được thành
công, ấy là tài của ngươi; chăm chỉ việc nước, tiết kiệm việc nhà, bụng không
tự mãn, ấy là đức tốt của ngươi. Ngươi không khoe tài, không khoe công, thiên
hạ không ai cùng ngươi tranh công. Ta quí các đức tốt của ngươi, khen cái công
to của ngươi. Lịch số của Trời nay đến lượt ngươi, ngươi đáng lên ngôi vua.
Lòng người dễ thiên về vật
dục, rất nguy ! Lòng mến đạo thì rất nhỏ. Cần phải xét cho tinh, giữ một mực,
tin theo đạo Trung Dung, không thái quá, không bất cập.
Những lời nói vu vơ, không
bằng cứ vào đâu, chớ nghe. Những mưu kế độc chuyên, không hỏi ý kiến công
chúng, chớ dùng.
Đáng yêu chẳng phải là vua
ư ? Đáng sợ chẳng phải là dân ư ? Dân không có vua, dân trông cậy vào đâu ? Vua
không có dân, vua cùng ai giữ nước?
Ngươi nên thận trọng ngôi
vua, tu tỉnh những nguyện dục của mình. Nhớ rằng, để dân chúng phải khốn cùng
thì lộc Trời sẽ hết. Lời nói ở miệng ra, có khi thiện cảm, có khi gây việc binh
nhung. Ngươi nên lưu ý."
Sáng ngày mùng 1 tháng
Giêng, Ông Võ chịu mệnh ở miếu thờ vua Nghiêu, tổng xuất trăm quan, lên ngôi
vua, nối đời vua Thuấn . Năm ấy là năm 2205 trước Tây lịch.
Khuôn hình số II : Canh
Ngu Thuấn cày voi
Ông Thuấn họ Ngu, cha là
Cổ Tẩu, mẹ là Ốc Đăng rất hiền đức mà mất sớm. Cổ Tẩu có tánh ương gàn, mê
muội, cưới vợ kế, sanh một con trai, đặt tên là Tượng.
Cảnh mẹ ghẻ con chồng thật
là khắc nghiệt. Em Tượng lớn lên rất điêu ngoa. Cổ Tẩu thường nghe lời vợ kế mà
đày đọa Thuấm làm nhiều điều khổ sở.
Có lần mẹ ghẻ xúi Cổ Tẩu
sai Thuấn đi cày ở đất Lịch Sơn, là nơi nổi tiếng có nhiều cọp dữ, mục đích là
để cho cọp ra ăn thịt Thuấn mà trừ khử Thuấn đi.
Thuấn nghe lời cha mẹ, đem
cày đến Lịch Sơn không chút than van. Lòng hiếu thảo của Thuấn cảm động Trời
cao, khiến cọp dữ không dám đến gần, voi trong rừng ra cày đất cho Thuấn, chim
muôn bay đến nhặt cỏ.
Thấy không hại được Thuấn
bằng cách đó, bà mẹ ghẻ lại xúi Cổ Tẩu sai Thuấn đi đánh cá ở đầm Lôi Trạch, là
nơi thường có gió to sóng lớn nhận chìm ghe thuyền, không ai dám bén mảng tới
đó. Thuấn vẫn nghe lời cha mẹ, đến đó đánh cá bình yên, sóng gió lúc đó êm lặng
như ngầm giúp cho người con hiếu thảo.
Dù bị hãm hại nhiều lần,
nhưng Thuấn không hề oán ghét mẹ ghẻ, và đối với em Tượng vẫn thương yêu như em
ruột, sống hiền hòa hiếu thuận, luôn luôn lo phụng dưỡng cha và mẹ ghẻ, van vái
Trời Phật cho cha mẹ và em được khỏe mạnh sống lâu.
Với tấm lòng cao cả của
Thuấn, bà mẹ ghẻ lần lần hối hận những việc làm độc ác vừa qua, trở lại sống
hiền lương và thương yêu Thuấn.
Tiếng hiếu thảo của ông
Thuấn được đồn vang trong dân chúng, đến tai vua Nghiêu đang trị vì thiên hạ.
Vua Nghiêu không muốn truyền ngôi cho con là Đan Chu, vì thấy con không đủ tài
đức đem lại hạnh phúc cho dân, lại nghe Thuấn là người hiền, nổi tiếng hiếu
thảo, đáng được truyền ngôi, nên vua Nghiêu hỏi ý kiến của quần thần :
- Trẫm ở ngôi được 70 năm,
ta muốn tìm một người hiền để truyền ngôi. Các khanh tiến cử ai ?
Các quan tâu rằng :
- Ở trong dân chúng có một
người hiền nổi tiếng hiếu thảo, đó là Ngu Thuấn ở đất Ngu.
- Phải, Trẫm cũng có nghe,
Nhưng người ấy thế nào ?
Quan Tứ Nhạc thưa rằng :
- Người ấy là con một
người mù lòa, cha ngoan cố, mẹ ghẻ lắm điều, người em dị bào tên Tượng lại có
tánh ngạo ngược, thế mà Thuấn vẫn một lòng hiếu thuận, khiến cho họ hối lỗi,
trở lại làm thiện, không xảy ra sự gian ác thêm nữa.
Vua Nghiêu nói :
- Ta thử xem sao, ta gả 2
con gái ta cho người ấy để xem cách người ấy tề gia như thế nào ?
Thế là vua Nghiêu sửa soạn
hành trang, đư a cả 2 con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh đến bờ sông Vỵ, gả hết cho
Thuấn. Vua Nghiêu răn hai con gái rằng :
- Phải kính cẩn giữ cho
trọn đạo.
Sau 3 năm dò xét, Vua
Nghiêu kêu Ông Thuấn bảo :
- Lại đây, ngươi Thuấn !
Ta hỏi công việc và xét lời nói của ngươi đều có thành tích. Đến giờ đã 3 năm,
ngươi đáng được lên ngôi làm vua thay ta.
Ông Thuấn tự khiêm mình là
đức kém, nhưng vua Nghiêu không chịu.
Ngày mùng 1 tháng Giêng,
Ông Thuấn chịu mệnh, lên ngôi vua nơi miếu thờ Đức Văn Tổ.
Khuôn hình số III : Công.
Toại Nhân - Hữu Sào
Toại Nhân là người có công
phát minh ra lửa, bằng cách lấy cây nhọn dùi vào gỗ, tạo sức nóng làm lửa phát
ra.
Hữu Sào là người phát minh
ra cách cất nhà trên cây, làm giống như cái tổ chim, để ở.
Sách Hàn Phi Tử viết :
Đời Thái cổ nước Tàu,
người ít mà cầm thú thì nhiều, dân không thắng nổi thú dữ như cọp, voi, sấu,
rắn, vv … Có Đấng Thánh nhân dấy lên, bày cho dân cách kết cây lại, làm giống
như một cái tổ chim trên cây để ở. Khi gặp nguy hiểm thì trèo lên cây, vào đó
cư trú an toàn. Dân chúng vui lòng, tôn lên làm vua, gọi là Hữu Sào. (Sào là
cái ổ)
Dân chúng lại ăn trái
sống, thịt sống, tanh hôi, làm thương tổn tỳ vị, thường mắc bịnh tật, bị chết
rất nhiều. Có Đấng Thánh nhân dấy lên, bày cho dân dùi vào gỗ để lấy lửa, dùng
củi đốt lên để nấu chín thức ăn, khử mùi tanh hôi, lại dễ tiêu hóa. Dân chúng
vui lòng, đồng tôn lên làm vua, gọi là Toại Nhân. (Toại là lấy lửa)
Việc phát minh ra lửa là
một thành tựu vĩ đại của loài người nguyên thủy, tạo ra một cuộc biến đổi toàn
diện về đời sống của con người. Nhờ có lửa, con người ăn các thức ăn được nấu
chín, cơ thể của con người biến đổi theo chiều hướng tiến hoá tốt đẹp. Cũng nhờ
có lửa, con người biết đốt nóng kim khí để rèn, đúc các dụng cụ bằng kim khí,
nâng mức sống lên một đẳng cấp rất cao so với loài cầm thú.
Toại Nhân và Hữu Sào, với
2 phát minh quan trọng, đã đưa con người nguyên thủy tiến hoá lên một bực cao,
thoát khỏi tình trạng ăn lông ở lỗ chung đụng với loài cầm thú.
Do đó, Toại Nhân và Hữu
Sào được xem là 2 vị Tổ Sư của ngành chế tạo công nghiệp.
Khuôn hình số IV : Thương.
Phạm Lãi - Tây Thi
+ Phạm Lãi là vị tướng tài
ba đã giúp vua nước Việt là Việt Vương Câu Tiễn đánh thắng và giết chết Vua Ngô
Phù Sai, trả được cái nhục mất nước, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu.
Sau khi thành công, Phạm
Lãi bí mật rút lui khỏi quan trường (Công thành thân thối), cùng với người đẹp
Tây Thi, lên thuyền đi vào Ngũ Hồ, sống cuộc đời phóng khoáng tự do.
Sau đó, Phạm Lãi thay đổi
tên họ, trở thành Đào Châu Công, chỉ huy một đoàn thương thuyền và một đoàn
thương xa, chuyên đi buôn bán, mua hàng hóa từ nơi dư thừa, chở đến bán ở các
nơi thiếu thốn, rất được các nước chư Hầu hoan nghinh. Đào Châu Công có một hệ
thống xe, thuyền vận tải hàng hóa đi khắp các thị trấn lớn của nước Tàu thời
bấy giờ.
Việc thương mãi của Đào
Châu Công thật là phát đạt.
+ Tây Thi, là người con
gái rất đẹp của nước Việt, giặt lụa ở Trữ La thôn.
Vua nước Việt là Câu Tiễn
muốn đem quân sang đánh nước Ngô. Phạm Lãi can rằng :
- Không nên, tôi nghe nói
việc binh là điều gở, đánh nhau là điều trái với đức, tranh nhau bằng quân sự
là việc thấp nhứt. Lo âm mưu làm trái với đức là việc Thượng Đế cấm. Nếu làm
tất bất lợi.
Việt Vương không nghe, đem
binh đánh Ngô, bị vua Ngô Phù Sai và Tướng Quốc Ngũ Tử Tư đánh cho đại bại, bị
bắt làm tù binh. Ngũ Tử Tư yêu cầu vua Ngô giết ngay Câu Tiễn để khỏi lưu hại
về sau. Nhưng Văn Chủng đã dùng nhiều tiền bạc lo lót cho Thái Tể Phỉ, một đại
thần của vua Ngô, tìm cách cứu mạng Câu Tiễn, nên Thái Tể Phỉ tâu với vua Ngô,
không nên giết Câu Tiễn, chỉ nên giam cầm mà thôi.
Vua Ngô sắp ưng thuận thì
Ngũ Tử Tư lại can nữa :
- Nếu nay mà Đại Vương
không tiêu diệt nước Việt, thì sau nầy sẽ hối hận. Câu Tiễn là người có chí khí,
lại có 2 bề tôi tài giỏi là Phạm Lãi và Văn Chủng phò tá, nước Việt sẽ mau hùng
cường, nhứt định sẽ đánh lại nước Ngô.
Vua Ngô không nghe, chỉ
bắt Câu Tiễn giam cầm đày đọa một thời gian rồi thả cho trở về nước.
Việt Vương Câu Tiễn được
tha về nước rồi thì giấu mình, nuôi chí phục thù, nhưng ngoài mặt giả bộ an
phận phục tùng vua Ngô, hằng năm triều cống.
Phạm Lãi bí mật luyện tập
quân đội, tích thảo đồn lương; Văn Chủng lo sửa sang việc chánh trị và kinh tế,
đồng thời tuyển lựa một đoàn mỹ nữ, huấn luyện đủ các ngón nghề mê hoặc Ngô Phù
Sai, để Việt Vương dâng hiến cho vua Ngô. Trớ thêu thay, trong đoàn mỹ nữ có
nàng Tây Thi đứng đầu lại là người yêu của Phạm Lãi. Nhưng cả 2 người đều hy
sinh tình riêng để lo báo đền ơn nước.
Ngô Phù Sai hết sức bằng
lòng đoàn mỹ nữ nầy và đặc biệt sủng ái Tây Thi. Ngũ Tử Tư vội vào triều can
vua Ngô nhiều lần, nhưng vua không nghe, lại còn có ý bực bội.
Bảy năm trôi qua, nước
Việt đã khá hùng mạnh. Việt vương nóng lòng phục thù, muốn đem binh đánh Ngô,
nhưng Phạm Lãi can vì chưa phải lúc.
Trong lúc đó, bên nước
Ngô, Ngô Phù Sai tin dùng Thái Tể Phỉ, lại được Văn Chủng đem vàng bạc đút lót
người để cố ý gièm pha hãm hại Ngũ Tử Tư. Âm mưu nầy dần dần thành công. Ngũ Tử
Tư bị vua Ngô bức tử.
Trước khi chết, Ngũ Tử Tư
bảo :
- Các ngươi hãy móc cặp
mắt của ta đặt ở cửa thành phía Đông để ta xem quân nước Việt tiến vào.
Việt Vương Câu Tiễn hay
tin Ngũ Tử Tư bị bức tử chết thì rất mừng, liền vời Phạm Lãi đến thương nghị
việc đánh Ngô, nhưng Phạm Lãi vẫn can, vì tuy nước Ngô mất tướng tài là Ngũ Tử
Tư, nhưng thế của nước Ngô còn mạnh lắm.
Mùa Xuân năm sau, vua Ngô
Phù Sai làm Bá Chủ chư Hầu ở phía Nam, đem đại quân lên phía Bắc, họp với các
chư Hầu ở Hoàng Tri. Tinh binh của nước Ngô đều đi theo, chỉ chừa lại những
lính già giữ thành mà thôi. Việt Vương Câu Tiễn lại thương nghị với Phạm Lãi và
Văn Chủng xem lúc nầy đánh Ngô được chưa. Phạm Lãi đáp :
- Đúng lúc nầy mà Đại
vương tấn binh thì nhứt định đại thành công, giết được Ngô Phù Sai, trả cái thù
thuở trước.
Việt Vương Câu Tiễn xuất
toàn lực bất ngờ tấn công nước Ngô. Quả nhiên quân Ngô đại bại. Ngô Phù Sai dẫn
binh trở về tiếp cứu, nhưng Ngũ Tử Tư đã chết rồi, trong triều không còn trung
thần, đâu có ai chống nổi Phạm Lãi và Văn Chủng. Ngô Phù Sai đành thảm bại, che
mặt ân hận nói :
- Ta không còn mặt mũi nào
nhìn thấy Ngũ Tử Tư nữa.
Nói rồi, Ngô Phù Sai rút
gươm tự sát. Toàn quân Ngô đều tan rã đầu hàng.
Phạm Lãi đã có kế hoạch
chuẩn bị sẵn từ trước, liền chạy thẳng lên Cô Tô Thành, vào ngay cung cấm để
tìm nàng Tây Thi, người yêu cũ 17 năm về trước, đưa nàng xuống ngay một chiếc
thuyền lớn đã đậu chờ sẵn, rồi dùng mũi kiếm khắc vào thẻ trúc một mật thơ gởi
cho Văn Chủng :
"Việt Vương có nói :
Chim đã hết thì cung tốt phải cất, thỏ khôn đã chết thì chó săn bị làm thịt.
Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu, có thể cùng chung lo lúc hoạn nạn,
nhưng không thể cùng chung hưởng với ông ta khi thành công. Sao bạn không bỏ đi
? Nếu Tử Hội còn tham mến công danh, ắt ngày sau không khỏi bị tai họa."
Phạm Lãi gọi một cận thần
đến dặn : " Đợi ta đi khỏi Cô Tô Thành chừng nửa giờ thì ngươi đem bức mật
thư nầy giao cho Đại Phu Văn Chủng. "
Xong, Phạm Lãi cho thuyền
rời ngay Cô Tô Thành, đi về phía Ngũ Hồ. Gió thổi mạnh, thuyền lướt nhanh, Thái
Hồ mênh mông nhìn thấy trước mặt. Phạm Lãi và Tây Thi cùng nhìn lại phía sau,
Cô Tô Thành đang còn ngập trong biển lửa, kết thúc một triều đại trong những
mối oan cừu.
Phạm Lãi thở dài : "
Tất cả đã kết thúc, hận cũ được tiêu tan, thì thù mới sẽ tới. Việt Vương ngày
nay rồi sẽ theo vết xe đổ của Ngô vương. Văn Chủng không chịu bỏ đi hôm nay thì
ngày kia cũng giống như Ngũ Tử Tư mà thôi."
Phạm Lãi nhìn Tây Thi nói
:
- Ân cừu, Ngô quốc, Việt
quốc, Sở quốc, có liên quan gì đến ta nữa chứ ? Tây Thi, từ rày về sau, chúng
ta không màng đến các chuyện ấy nữa. Sóng nước Ngũ Hồ sẽ rửa sạch tất cả, để
chúng ta không còn dính đến thế sự nữa. Tây Thi, để ta giới thiệu người nhà của
ta ra mắt nàng.
Phạm Lãi đưa Tây Thi vào
khoan thuyền giữa. Con lớn tên là Phạm Bình 15 tuổi, con kế là Phạm An 11 tuổi.
Cả hai lớn lên trong gian khổ, người hơi gầy nhưng chắc nịch.
Tây Thi nói :
- Phạm An giống hệt chàng
lúc chàng cách nay 17 năm. Phạm Lãi đưa Tây Thi đi xem khắp các nơi trên
thuyền. Trên thuyền tất cả có 10 thanh niên và 10 thiếu nữ. Phạm Lãi cho họ kết
làm vợ chồng với nhau. Phạm Lãi nói :
- Chúng ta sẽ đến một nơi
không có khói lửa của nhân gian, 10 cặp vợ chồng nầy sẽ sanh con đẻ cháu không
ngừng.
Rồi họ đi xem các đồ vật
trong thuyền, nào nông cụ, nào hạt giống, lương thực, muối ăn, rương tráp.
Tây Thi ngạc nhiên hỏi :
- Chàng đã chuẩn bị sẵn
hết à ?
- Phải, lúc rời Hội Kê đi
đánh nước Ngô, ta đã chuẩn bị đầy đủ tất cả.
- Nghĩa là chàng chắc chắn
chiến thắng ?
- Dĩ nhiên là phải chiến
thắng, bởi vì Ngô quốc tuy mạnh hơn Việt quốc, nhưng họ thiếu những tướng tài giỏi
cầm quân, trong triều, phần lớn là bọn dua nịnh. Ta đã chuẩn bị 17 năm rồi, vì
nàng mà ta lo liệu chu toàn tất cả.
Phạm Lãi và Tây Thi rời bỏ
tất cả, cắt đứt mọi mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Họ vô tư ca hát vui vẻ
trên thuyền, khi câu cá, lúc đọc sách, mặc cho thời gian trôi theo dòng nước
biếc.
Một hôm, chàng cho thuyền
ghé lại một bến sông, đem cá lên bờ để đổi lấy muối và lương thực. Người nhà
tên là A-Mang lên bờ một lúc lâu rồi trở về thuyền báo cáo với chủ nhân :
- Việt vương treo giải thưởng
nhiều vàng cho ai tìm được Phạm Đại Phu. Việt vương và Văn Đại Phu kéo đại quân
cùng với 800 xe lên phía Bắc hội minh với 2 nước Tề và Lỗ. Việt vương chia nước
Ngô thành quận, huyện, lấy đất ở sông Hoài cho Sở, trả cho nước Tống đất Ngô,
trả cho nước Lỗ dãy đất trăm dặm ở phía Đông sông Tứ. Việt vương Câu Tiễn bây
giờ làm Bá chủ chư Hầu ở phương Nam.
Tây Thi bảo :
- Thiếu Bá, chàng hỏi
nhiều như thế để làm gì ? Các việc ấy không liên quan gì đến chúng ta. Chúng ta
rày đây mai đó, mọi việc trên đất liền , chúng ta không nên biết tới.
- Nhưng Thái Hồ không rộng
lắm, lại rất gần nước Việt, e có hôm, chúng ta phải dời đi. Lúc Việt vương từ
Trung nguyên trở về, chúng ta không dễ gì an cư trong Thái Hồ.
Phạm Lãi cho thuyền vượt
biển sang Tề, tự đặt tên mới cho mình là Chi-Di Tử-Bì. Sau một thời gian, Phạm
Lãi cảm thấy là cũng khó ở yên được nơi nước Tề, nên quyết định chuyển sang ở
đất Đào, là nơi phát tích vua Nghiêu, ở phía Nam nước Tề, giờ đây trở thành một
nước nhỏ, không có xung đột, lại có thể giao lưu với các nước khác rất thuận
lợi.
Chàng đã sai Phạm An đến
đất Đào, lựa chỗ tốt mua 1000 mẫu đất làm cơ sở. Phạm Lãi cho đóng nhiều chiếc
thuyền buôn và nhiều chiếc xe chở hàng hóa. Chàng hoàn toàn chuyển sang ngành
thương mãi. Chàng nói với Tây Thi :
- Ta đã nghiên cứu kỹ đại
thể trong thiên hạ, biết rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có những cuộc biến động mới
lớn lao, nhưng chúng ta không sợ biến động, bởi vì biến động là cách nâng cấp
tiến bộ xã hội. Sau nầy, người làm chánh trị sẽ nhiều hơn, vì họ chọn con đường
chánh trị để vinh thân. Nhưng ngoài chánh trị, ta còn phát hiện được một con
đường khác rất quan trọng mà trước đây chưa biết. Đó là con đường thương mãi.
Thế giới của chúng ta mỗi
ngày thêm đông đúc, cuộc sống càng lúc càng phức tạp hơn. Dân chúng rồi đây sẽ
cần nhà thương mãi hơn nhà chánh trị. Ta sẽ dốc hết tinh lực còn lại để lo cho
công việc nầy : Đem cá, muối dư thừa nơi nước Tề, chở qua bán nơi nước Tần vì
nước Tần không có 2 thứ ấy; rồi lại chở bông vải từ nước Tần về Trung nguyên.
Thực phẩm của 2 nước Ngô, Sở dư thừa, trong lúc ở Tống , Trần, Trịnh lại thiếu
hụt; tơ lụa của Hàn, Sở có thể chở qua Tề, Lỗ đổi lấy đồng thau . Ôi ! Bao
nhiêu việc cần thiết cho ta làm !
Từ đây, ta lấy tên là Đào
Châu Công. Mọi người nhớ gọi ta như vậy.
Bấy giờ nước Tàu bước vào
thời kỳ Chiến Quốc, các nước chỉ lo đánh nhau, loạn lạc khắp nơi, nhưng lại
thấy xuất hiện những đoàn xe hay đoàn thuyền mang nhãn hiệu Đào Châu đi lại qua
các nước một cách dễ dàng để chở hàng hóa cần thiết đến đổi các hàng hóa dư
thừa của địa phương. Các đoàn xe, thuyền nầy đều xuất phát từ đất Đào. Nhờ các
đoàn xe, thuyền thương mãi nầy mà dân chúng có được nhiều hàng hóa tiêu dùng,
đời sống dân chúng được khá hơn, mặt khác nó cũng đem lại lợi tức cho Đào Châu
Công rất lớn.
Đào Châu Công cùng với bà
vợ tuyệt đẹp đi viếng kinh đô Hàm Dương của nước Tần, được vua Tần tiếp đãi vào
bực thượng khách. Trên đường về tới Hàn Đang có tin cấp báo từ đất Đào, nên cả
2 người phải tức tốc trở về đất Đào.
Nguyên do, con thứ Phạm An
gây chuyện ở nước Sở, tranh chấp và lỡ tay giết chết một vị công hầu. Phạm An
bị bắt và bị xử tử hình.
Vợ con của Phạm An quì
xuống trước mặt Phạm Lãi cầu xin cứu mạng cho chồng. Phạm Lãi rất bi thương,
song thần sắc vẫn tiêu dao, bảo con dâu :
- Chuyện nầy rất khó, ta
không nắm chắc được 10 phần, nhưng chỉ biết tận lực, còn tùy số mạng của nó.
Bây giờ ta sai Tử Hòa (đứa
con út) vào nước Sở để cứu An thì may ra khỏi được.
Phạm Bình lên tiếng thưa
rằng :
- Con là trưởng nam của
cha, trong nhà có việc gì quan trọng là cha sai con đi, lẽ nào chuyện sống chết
nầy lại sai em út của con đi thì thật là sỉ nhục cho con, làm mất truyền thống
trưởng tử của gia đình. Xin cha để cho con đi, nếu không con sẽ tự sát.
Tây Thi cũng cho lời nói
của Phạm An là đúng.
Phạm Lãi có dụng ý riêng,
khó nói ra mà trong nhà không ai để ý tìm biết, nên đành phải sai Phạm Bình đi.
Âu cũng là số mạng của Phạm An không thể cải lại được. Phạm Lãi căn dặn Phạm
Bình rất kỹ lưỡng : Vào nước Sở, tìm đến Trang Tiên Sinh, dâng 1000 lượng vàng
và bức thơ nầy của ta, đoạn ở chờ tại kinh đô nước Sở. Khi thấy An ra khỏi ngục
thì lập tức ra thành trở về đây. Nhớ đừng làm gì khác hơn mà thất bại.
Phạm Lãi dặn đi dặn lại
mấy lượt rồi mới cho Phạm Bình đi. Bình đi rồi, Phạm Lãi rất buồn, lòng trĩu
xuống :
- Hy vọng
cứu An rất ít. Các ngươi chuẩn bị lo chung sự cho An đi.
Tây Thi ngạc nhiên hỏi :
- Tại sao chàng lại nói
như thế ?
- Ta muốn sai Tử Hòa đi là
vì nguyên nhân ấy.
- Thiếp chưa hiểu được ý
chàng.
- Thằng Bình được sanh ra
trong hoàn cảnh khó khăn, nên coi trọng tiền bạc.Tử Hòa lại lớn lên trong cảnh
giàu sang, nên xem tiền bạc như cỏ rác. Đối với Bình, việc không đáng tốn 1000
lượng vàng, không phải không đáng tốn trước khi việc thành, mà là không đáng
tốn sau khi việc thành.
Bởi vì theo dự liệu của
ta, Trang Tiên sinh sẽ nghĩ cách nói cho vua Sở đại xá, nhân thể tha cho An
luôn mà không lộ điều gì. Nhưng rồi thằng Bình sẽ nghĩ rằng, đại xá tù nhân là
chủ ý của Sở vương, Trang Tiên sinh không có công lao gì, nên Bình sẽ đến đòi
vàng lại. Thế là người khác nhờ đại xá mà sống, còn Phạm An vì đại xá mà chết.
Ta mong dự đoán của ta sai. Nhưng Tây Thi !
Mạng sống của con người đâu phải vì một hai câu dặn mà thay đổi được, có số
mạng tất cả. Hãy chờ xem.
- Ôi ! Chàng luôn luôn liệu việc như Thần, nhưng mong
sao lần nầy chàng đoán sai, An được cứu sống trở về.
Chẳng bao lâu sau, Bình
chở xác em trở về tới đất Đào cùng với 1000 lượng vàng lấy lại từ Trang Tiên
sinh. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Khuôn hình số V : Ngư
Khương Thượng ngồi câu
Sau khi Khương Thượng giết
chết Tỳ Bà Tinh, Đắc Kỷ đem lòng thù oán. Đắc Kỷ vẽ họa đồ xây cất Lộc Đài rất
xa xỉ, rồi xúi vua Trụ cử Khương Thượng làm Đốc Công cất Lộc Đài.
Khương Thượng tìm cách từ
chối và khuyên vua Trụ không nên xa xí. Vua Trụ nổi giận, bắt Khương Thượng
hành hình bào lạc. Khương Thượng nhanh chân trốn thoát, độn thủy trở về nhà cho
vợ là Mã Thị biết, rồi đi qua Tây Kỳ ẩn mặt nơi Bàn Khê, đói ăn trái cây, khát
uống nước suối, lấy việc gieo câu sông Vỵ làm vui, chờ thời ra giúp nhà Châu.
(Xem thêm chi tiết nơi
Tiểu sử : Đức Khương Thượng Tử Nha, trong Phần thứ tư).
Khuôn hình thứ VI : Tiều
Bá Nha - Tử Kỳ
* Bá Nha họ Du tên Thụy,
người ở Sính Đô nước Sở (nay là phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng). Tuy là người
nước Sở, nhưng làm quan cho nước Tấn, chức Thượng Đại Phu.
* Tử Kỳ, họ Chung tên Huy,
nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương, là một danh sĩ ẩn
dật, báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, làm nghề đốn củi (Tiều).
Một hôm, Bá Nha phụng chỉ
vua Tấn đi sứ qua Sính Đô nước Sở, vào triều kiến vua Sở, trình quốc thư và
giải bày tình giao hiếu giữa 2 nước, được vua Sở và quần thần thiết tiệc khoản
đãi. Bá Nha nhơn dịp nầy đi thăm mộ phần tổ tiên, thăm họ hàng, xong vào từ
biệt vua Sở trở về nước Tấn.
Khi thuyền trở về đến cửa
sông Hán Dương, nhằm tiết Trung Thu, trăng sáng vằng vặc, phong cảnh hữu tình,
Bá Nha cho lịnh cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng
thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha liền sai quân hầu lấy chiếc lư ra,
đốt hương trầm xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so
dây vặn trục, đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói
trầm, chưa dứt, bỗng đàn đứt dây.
Bá Nha giựt mình tự nghĩ,
dây đàn bỗng đứt thế nầy ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai quân hầu lên
bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt.
Quân hầu lãnh lịnh lên bờ
thì bỗng có người từ trên bờ lên tiếng :
- Xin đại nhân chớ lấy làm
lạ, tiểu dân là tiều phu kiếm củi về muộn, trộm nghe được một khúc đàn tuyệt
diệu của Ngài.
Bá Nha cười lớn bảo :
- Người tiều phu nào đó
dám nói 2 tiếng "nghe đàn" với ta, sao ngông cuồng thế?
- Đại nhân nói sai quá
vậy. Há chẳng nghe : Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín (Một ấp 10 nhà ắt có
nhà trung tín). Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, thì
cũng không nên có người khảy lên khúc đàn tuyệt diệu.
Nghe đáp xong, Bá Nha hơi
choáng váng, hối hận những lời vừa thốt ra, vội bước ra mũi thuyền, dịu giọng
nói :
- Người quân tử ở trên bờ,
nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không ?
- Khúc đàn đại nhân vừa
tấu đó là : Đức Khổng Tử khóc Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời rằng :
Khá tiếc Nhan Hồi yểu mạng
vong,
Dạy người tư tưởng tóc như
sương.
Đàn, bầu, ngõ hẹp vui cùng
đạo,
Đến cuối câu thứ ba thì
dây đàn đứt, còn lại câu thứ tư là : Lưu mãi danh hiền với kỹ cương.
Bá Nha nghe xong, đúng
quá, mừng rỡ sai quân hầu bắc cầu lên bờ mời người quân tử xuống thuyền đàm
đạo.
Người tiều phu ung dung
xuống thuyền, chấp tay vái Bá Nha. Bá Nha vội đưa tay đáp lễ, nói :
- Xin quí hữu miễn lễ cho.
Rồi bắc ghế mời ngồi, phân
ngôi chủ khách.
- Quí hữu biết nghe đàn,
ắt biết ai chế ra đàn?
- Mong ơn Ngài hỏi tới, kẻ
tiểu dân đâu chẳng dám nói hết cái biết của mình.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét