Khảo Cứu Vụ-Chương Trình Học Đạo Cấp Sơ Đẳng - 2 / 6 (Nguyên Thủy)

Người Tín đồ bực Hạ thừa mà ăn chay đủ 10 ngày mỗi tháng, giữ tròn luật Đạo qui định trong Tân-Luật thì người Tín đồ ấy mới được đối phẩm Địa Thần trong Cửu phẩm Thần Tiên nơi cõi Thiêng liêng và khi chết mới được hưởng Kinh kệ đầy đủ, hưởng các Bí pháp mầu nhiệm của Đạo để linh hồn được nhẹ nhàng siêu thăng.
Người ăn chay không đủ 10 ngày trong một tháng
thì không được hưởng những điều vừa kể trên..

Số ngày ăn chay trong một tháng được Hội Thánh dùng làm thước đo mức độ đạo đức của mỗi Tín đồ. Điều nầy không đúng tuyệt đối, nhưng cũng đúng một cách tương đối. Vì đó là thể hiện tinh thần đạo đức được phần nào để tránh sát sanh và gây nên nhiều nghiệp quả.

Vả lại nếu không dùng số ngày ăn chay làm thước đo đạo đức thì căn cứ trên tiêu chuẩn cụ thể nào?
Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy rằng: 10 ngày chay trong tháng, khởi đầu thì thưa dần ra, càng về sau càng nhặt dần, đến cuối tháng thì dồn ăn chay liên tiếp 4 ngày, chịu không muốn nỗi. Sao các Đấng không phân ra một cách điều hòa: ăn chay 1 ngày rồi ăn mặn 2 ngày, và cứ thế tiếp tục, thì một tháng cũng 10 ngày chay mà lại dễ ăn hơn?

Tu là sửa, là rèn luyện ý chí cho mạnh mẽ để quyết thắng lòng vật dục. Cách ăn chay như các Đấng đã định là cách để chúng ta luyện tập ý chí của mình cho mạnh mẽ, đủ sức chiến thắng sự thèm muốn, vì sự ăn mặn ngon lành theo đòi hỏi của thể xác. Lúc đầu chúng ta có thể bại trận nhưng rồi dần dần, với quyết tâm phấn đấu thì nhứt định sẽ chiến thắng được dục vọng về sự ăn mặn mà thôi.

Ăn chay 10 ngày trong tháng chỉ là một sự tập luyện cho quen, đồng thời cũng tránh cho sự “dục tốc bất đạt” của một tinh thần quá năng nỗ của người mới tu, rồi sau có thể vì sự chịu đựng quá mức mà có khi phải bỏ cuộc.Chứ vấn đề “Chay trường” vẫn là điều thiết yếu. Đạo khai đã hơn 80 năm chả lẽ cứ nói là “Tập sự”hoài hay sao?

VẤN 10:  Nói về sự lợi ích của việc thờ Thiên Bàn (Thờ Thầy) trong mỗi nhà của Tín đồ.

ĐÁP: Việc thờ Thiên Bàn (thờ Thầy) tại tư gia của mỗi Tín đồ rất cần thiết, bởi mỗi ngày có 4 Thời hiến lễ Đức Chí-Tôn của mỗi Tín đồ:
- Thời  Mẹo ( 06 giờ sáng)
- Thời Ngọ  ( 12 giờ trưa)
- Thời Dậu  (18 giờ, tức 06 giờ chiều)
- Thời Tý    (12 giờ khuya, tức 24 giờ)

Thờ Thiên Nhãn nơi nhà là cốt ý nhắc nhở cho mỗi Tín đồ đi ra vô trong nhà đều thấy THIÊN NHÃN hằng nhìn vào hành động phải quấy của mỗi Tín đồ diễn ra hằng ngày, khỏi phải đến Thánh Thất xa nhà để hiến lễ và người khách lạ đến nhà thì biết rõ nhà này có người theo Đạo Cao-Đài. Hơn nữa là người đồng Đạo, khi đến nhà thấy có bàn Thờ THIÊN NHÃN khang trang thì người Bạn Đạo rất hân hoan hiến Lễ Đức Chí-Tôn trước Thiên bàn, rồi mới tỏ lời thăm viếng cùng đàm Đạo”.

Nói đến Thiên bàn thờ Đức Chí-Tôn phải nói đến Thiên Nhãn và ý nghĩa: Thiên nhãn là gì ?.

THIÊN NHÃN
E: The divine Eye
F: l’Œil divin
Thiên Nhãn là hình trạng lương tâm của toàn thể. Thờ Thiên Nhãn là thờ Người và thờ Trời.

Kiến thức là căn bản của trí thức tinh thần: Muốn Kiến nhờ nhãn, muốn thức nhờ Trí. Thiên nhãn là trí thức của loài người, nên Đại Từ Phụ dạy thờ Thiên Nhãn.

Lục Nương Diêu-Trì-Cung có câu:
Nhìn Thiên Nhãn Huyền Khung Thượng-Đế
Mặc Đạo y dụng kế độ đời,
Tam Kỳ tự chủ là Trời,
Diệu Huyền giáng bút để lời nhủ khuyên.

1/ - Ý nghĩa về hình thể:
Tiên Nho thường nói: “Hoàng Thiên hữu Nhãn” hay trong dân gian cũng thường nói: “Trời cao có mắt”, để chỉ rằng Ông Trời tức là Đấng Thượng-Đế, nhìn thấy rõ tất cả những hành vi thiện ác của khắp chúng sanh, dầu bộc lộ ra ngoài hay còn kín đáo bên trong, Mắt Trời đều thấy rõ hết thảy, để khen thưởng hay xử phạt một cách công bình theo luật của Thiên điều phân định.

Do đó, trong kinh Ngọc Hoàng có câu :
“Càn kiện cao minh.
“Vạn loại thiện ác tất kiến”.

Nghĩa là ngôi Càn hay Kiền là ngôi Thượng-Đế thật mạnh mẽ cao vọi, sáng tỏ, ắt hẳn Trời đã thấy rõ điều thiện và điều ác của muôn loài vạn vật.

Thờ Thánh Tượng Thiên-Nhãn với Con Mắt mở ra để chúng ta luôn nhớ rằng, bất cứ ta làm điều gì, Trời đều thấy rõ, không thể dấu diếm, cũng không điều gì ta có thể cải chối được.

Đức Chí Tôn dạy rằng:
 “Tại sao Thầy lại biểu các con tạo hình Thiên Nhãn mà thờ, không dạy thờ hình tượng như các Tôn giáo khác? “Thầy vốn là Hư vô chi khí, không giống cái chi hết. Các con chớ tạo hình Thầy mà thờ.

 “Trời là lý, thì lý ấy rất thông linh bao quát Càn Khôn Thế Giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo hình thể như các con. Nên chi, thờ Thiên Nhãn là thờ Thầy”.

2/ - Ý nghĩa  về Thiêng liêng:
Thờ Thiên Nhãn bao gồm nhiều ý nghĩa siêu việt, xin được nêu ra sau đây:
Do lời Thánh giáo của Đức Chí Tôn từ buổi mới khai Đạo, thờ Thiên-Nhãn là chỉ nghĩa Nhứt điểm Linh Quang của Tạo Hoá.

Bởi Thiên Nhãn thuộc về Thần,“Thần cư tại Nhãn” tức nhiên Thần trụ ở mắt, mắt chỉ về tâm, tâm thuộc Hoả, Hoả thuộc dương, dương ấy là mặt nhựt, mặt nhựt là thanh khí, thanh khí là Trời. Có câu “Thanh thượng phù giả vi Thiên” 青上浮者為天 (phần thanh nhẹ nổi lên làm Trời). Con người biết tôn sùng Trời thì phải biết kính trọng Thần lương tâm. Bởi khi cái tâm tức là khi Trời, mà Trời thì không thể khi thị được.Có câu “khi kỳ tâm tất thị khi thiên, thiên bất khả khi hồ”! 欺其心即是欺天天不可欺乎

- Thiên Nhãn là hình tướng của Lương-Tâm:
Nay, người Môn-Đệ của Đấng Cao-Đài, nhà nhà đều có thờ “Thiên Nhãn Thầy” để sùng bái hằng ngày và cũng để Xét mình. Thiên Nhãn là hình tướng của Lương Tâm toàn thể làm nền móng cho Cao-Đài, nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức tin lớn của Đức Chí Tôn tại thế. 

3 - Truy về nguồn cội trên thế giới
biết Thiên Nhãn
* Ở nước Ai Cập:
Trong Thần thoại Cổ Ai-Cập, Thiên Nhãn được gọi là Mắt của Thần Horus, Mắt của Mặt Trăng hay Mắt của Thần “Ra”.

Horus là Thiên Thần của Ai Cập cổ-đại hóa thân là chim ưng. Mắt phải chim ưng là Mắt của Thần Horus cũng được xem là tượng trưng cho mặt trời. Mắt trái tượng trưng cho mặt trăng và thần Tehuti. Người cổ đại tin rằng biểu tượng bất diệt này sẽ hỗ trợ việc tái kiếp, vì thế người ta đã tìm thấy biểu tượng này dưới lớp vải liệm thứ 12 của xác ướp vua Tutankhamun. 

* Ở nước Đức: Biểu tượng Thiên Nhãn cũng được tìm thấy ở nhà thờ Aachen, miền Tây nước Đức. Nhà thờ này đã được UNESCO xếp vào Di Sản Thế Giới. Đây là một nhà thờ Công-Giáo La-Mã cổ xưa nhất ở Bắc Âu. Từ năm 936 đến năm 1531, Nhà Thờ là nơi làm lễ đăng quang cho 30 vị Vua và 12 Hoàng-Hậu nước Đức. Đây cũng là nơi còn giữ những di vật thiêng liêng của Mẹ Đồng Trinh Maria. Chúa Jésus và Thánh John the Baptist.

* Biểu tượng của trí huệ:
Theo Đạo Cao Đài, Thiên Nhãn không thể hiểu đơn giản theo nghĩa đen là Mắt Trời, bởi vì Thượng Đế không có hình thể vật chất.         

Theo nguyên lý Thể Pháp và Bí Pháp của Đạo Cao Đài, có thể suy ra hai cách để hiểu biểu tượng Thiên Nhãn:
Thứ nhất là hiểu bằng kiến thức. Hiểu bằng kiến  thức nghĩa là nhìn sự vật (hình ảnh hoặc văn tự …) rồi so sánh với kho dữ liệu của bộ não để phân tích, chọn lọc hoặc phê phán. Hay nói nôm na là nhìn bằng hai mắt. Nghĩa là khi nhìn sự vật, luôn luôn dựa vào tối thiểu là hai yếu tố đúng hoặc sai; có hoặc không. Đây là cách hiểu thông thường của con người từ thời nguyên thủy. Cách hiểu này giúp phát triển văn minh vật chất rất nhanh chóng và đã đem lại cho nhân loại nền văn minh vật chất siêu việt  như ngày nay.          

Tuy nhiên, hiểu sự vật không thông qua kho chứa các kinh nghiệm lâu đời không giải quyết được các vấn đề tâm thức. Ngoài ra, cách này lại tùy thuộc vào trình độ văn hóa hoặc số lượng kinh nghiệm thu thập được của bản thân mỗi người. Những bộ óc siêu việt uyên bác sẽ hiểu biết khác với những người bình thường. Hậu quả dẫn đến sự phân hóa trong nhân loại. Chính vì thế, loài người dù tiến bộ rất cao trong lãnh vực vật chất, nhưng văn minh tinh thần vẫn chưa tiến bộ bao nhiêu. Sự tàn ác, nhẫn tâm, tranh giành, thù hận vẫn có mức độ như mấy ngàn năm trước, thậm chí tinh vi khó nhận ra hơn. Cho đến ngày nay, con người vẫn chưa tạo được một thế giới thanh bình, thịnh vượng và đầy tình thương yêu.  

Cách thứ hai là hiểu Thiên Nhãn bằng trí huệ:
Hiểu bằng trí huệ là một hành vi cực kỳ khó khăn, bởi vì hành vi này không cần sự hiện diện của kiến thức bất kể loại nào. Trí huệ đưa tâm trí trực tiếp vào giữa sự vật không thông qua quá trình phân tích, chọn lọc và phê phán. Nói một cách hình tượng là nhìn bằng một mắt. Nghĩa là khi quan sát thì người quan sát cùng vật bị quan sát là một. Vì thế khi nhìn bằng trí huệ, con người mới hiểu được biểu tượng Thiên Nhãn toàn diện. Đây là cánh cổng mở vào một thế giới khác, một thế giới thanh bình thực sự mà người ta vẫn gọi là Thiên Đàng (Paradise) hay Cực Lạc  Thế Giới (Nirvana).

* Biểu tượng của Đại Đồng: Ngoài ra Thiên Nhãn còn là biểu tượng của Đại-đồng. Trên thế giới ngày nay, quốc gia nào sống cô lập thì sẽ phải đối mặt với nguy cơ lạc hậu. Càng ngày càng có nhiều quốc gia muốn bắt tay nhau hợp tác trong mọi lãnh vực và như thế những va chạm về văn hóa, phong tục, tư tưởng cũng tăng lên. Phải có cách giải quyết để các quan hệ hợp tác không biến thành đối đầu. Trong hoàn cảnh như thế thì biểu tượng Thiên Nhãn của Đạo Cao-Đài chính là một đề nghị có ích.
Biểu tượng Thiên Nhãn ngụ một ý-nghĩa là thống nhất. Nhưng không phải dùng mọi cách áp đặt quan điểm thống nhất lên người khác, bởi như thế là thống trị. Nếu trong tất cả các mối quan hệ, ai cũng có quan niệm: “Mọi tôn giáo là một, mọi dân tộc là một, mọi hệ tư tưởng là một.” thì sẽ tránh được ngộ nhận, hiềm khích và thế giới sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn nhiều.

* Phương pháp tu tập của Tín đồ Cao Đài:
Quan niệm Đại Đồng lại nẩy sinh vấn đề: đó là làm sao để mọi người cùng có quan niệm “Mọi Tôn giáo là một, mọi dân tộc là một, mọi hệ tư tưởng là một.” Đạo Cao Đài là một Tôn giáo nên không đề ra những biện pháp dựa trên sức mạnh vật chất. Đức Cao-Đài Thượng Đế dạy rằng muốn tạo ra một Thế giới Đại-Đồng, phải bắt đầu bằng tu sửa bản thân và thuyết phục, giúp mọi người xung quanh cùng làm như thế. Tuy nhiên, kết quả sẽ không hoàn toàn phụ thuộc vào con người. Theo nguyên tắc Hiệp Thiên của Cao-Đài (con người hiệp với Thượng Đế), con người cứ làm điều Thiện vô điều kiện, kết quả còn lại sẽ do Thượng-Đế quyết định.

Biểu tượng THIÊN-NHÃN còn ngụ ý một phương pháp tu tập của Tín đồ Cao-Đài. Con người được cho là tổng hợp của ba thành phần có tác động hỗ tương: Thể xác, Trí não và Linh hồn. Ý chí con người chỉ có thể hoạt động trong phạm vi tinh thần. Từ khu vực này, mỗi cá nhân sẽ thông qua ý thức để tác động vào các hành vi của thể xác. Ý thức con người luôn luôn phân hai (Đúng hoặc Sai) và đó vừa là phương tiện sinh tồn vừa là thảm kịch của nhân loại. Nếu điều chỉnh cho ý thức đạt được trạng thái không phân hai nữa mà hiệp lại làm một, thì mọi hành vi của thể xác sẽ phù hợp những nguyên tắc đạo đức của Thượng Đế và ba thành phần: Thể xác, Trí não và Linh hồn sẽ hợp nhất. Đây là trạng thái mà các Tín đồ Cao Đài gọi là Hiệp Thiên hợp Nhất với Thượng Đế hay “Thầy là các con, các con là Thầy”. Trong trạng thái này con người không nhìn sự vật bằng Nhục Nhãn (mắt thường), mà bằng Thiên Nhãn. Tóm lại, Thiên Nhãn vừa là phương tiện vừa là cứu cánh của  người Tu theo Đạo Cao Đài.

Diễn văn của Đức Hộ-Pháp đọc tại Đền Thánh, ngày 15-8 Quí-Dậu (1933):
 “..Ta thử so ta cùng điểu thú thì thấy điều ấy rõ ràng. Vạn vật cũng có tánh linh nhưng mà ít hơn vì Điểm Linh Quang rất nhỏ hơn mình, cơ tạo lại dụng phép Linh nầy đặng định phân hạng phẩm của chúng sanh.Cả những chất linh ấy tổng hiệp lại gọi là Vạn linh sanh chúng
Nhờ tánh linh ấy mà Chơn linh mới soi đặng tận nơi tối tăm, thấy đặng sự mắt phàm không thể thấy. 

Hễ có Kiến thì có Thức, kiến thức là căn bổn của trí thức tinh thần. Muốn kiến thì nhờ Nhãn, muốn thức thì nhờ trí. Ấy vậy, trong tâm (gọi là linh tâm hay chơn linh) là Thiên Nhãn của trí thức loài người. Vì cớ mà Đại Từ Phụ dạy thờ Thiên Nhãn.

 Thiên Nhãn là hình trạng của lương tâm toàn thể, làm nền móng cho Cao Đài, nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức tin lớn của Chí Tôn tại thế nầy, y như hai câu thi của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm (Victor Hugo):
Thờ Thiên Nhãn là thờ tánh mạng mình và Chí Tôn, nghĩa là thờ lương tâm của toàn thiên hạ (Le culte  de  la Conscience)....

* Thiên Nhãn:
- Là tượng trưng của nền Đạo mà cả Tín đồ lấy đó để thờ phượng nơi tư gia hay là trong những Thánh Thất. Tại sao Đạo Cao Đài lấy Thiên Nhãn làm tiêu biểu?

Chính Đức Chí Tôn có dạy:
 “Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng quang chủ tể, quang thị Thần, Thần thị thiên, Thiên giả ngã dã”.
- Con mắt ấy là chủ linh tâm, hai điển quang của con Mắt là chủ tể: thể trên trời là Nhật Nguyệt, thể nơi người là Lưỡng Mục. Điển quang ấy thuộc Thần, Thần thuộc trời, trời ấy là TA vậy. Mặt khác, Thiên Nhãn tượng trưng sự công bình thiêng liêng và cũng tiêu biểu mầm móng cho sự Đại-Đồng nhơn loại. Thánh nhơn có câu: “Thiên thị tự ngã dân thị, thiên thính tự ngã dân thính”:

Nghĩa: trời xem tức dân ta xem, trời nghe tức dân ta nghe
Hơn nữa thời xưa Tam giáo các vị Giáo chủ giáng trần lập Đạo mang hình hài xác thịt: phương Tây thì lấy hình thể người Âu, phương Đông thì lấy hình thể người Á.. Nguơn hội này Đức Chí Tôn giáng Cơ khai Tam-Kỳ Phổ-Độ dạy thờ Thiên Nhãn tất nhiên Ngài muốn con cái của Ngài cọng yêu hoà ái, hiệp tâm với nhau để đi đến chỗ Đại Đồng Thế giới.

VẤN 11: Có người cho rằng Đạo Cao Đài thờ tạp nhạp như thờ Phật, Chúa, nghĩ thế nào việc này?

ĐÁP: “Nên nhớ người Tín đồ Cao-Đài chỉ thờ (Thiên bàn) THIÊN NHÃN tại tư gia, còn tại Thánh Thất cũng thế, chỉ thờ Thiên Nhãn là thờ Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, riêng các Linh-vị Phật Thích-Ca, Đức Khổng Tử, Đức Lão Tử, Đức Chúa Jésus      …là tỏ lòng tôn kính nhớ đến công ơn của những bậc lãnh đạo các Tôn giáo trước kia đã hy sinh thể xác để phổ độ nhân loại làm lành lánh dữ cùng thương yêu nhau, công bình đối xử với nhau. Vì thế người đời lầm hiểu là Đạo Cao-Đài thờ tạp nhạp như  ý nghĩ trên là không đúng với Tôn chỉ của Đạo Cao Đài trong việc thờ phụng Đức Chí-Tôn”.
Về ý nghĩa và giá trị việc Thờ THIÊN NHÃN như trên đã trình bày (câu 11).

Thiết nghĩ rằng tiếng Việt chúng ta có rất nhiều từ ngữ rất đẹp để dùng khi nói đến những bậc tôn kính, nên từ ngữ “Thờ tạp nhạp” nghe ra hơi khiếm lễ, người Tôn giáo ít khi dùng.
Vậy bây giờ nói lý do tại sao thờ các Đấng Giáo Chủ từ xưa đến giờ.?

A -  Đạo Cao-Đài thờ “Thánh Tượng Ngũ Chi” là biểu tượng đủ cả Tam giáo- Tam Trấn Oai nghiêm và  Ngũ Chi Đại-Đạo.

Đạo trải qua thời-gian, Hội-Thánh cũng đã nhiều lần thay đổi Thánh Tượng Thầy. Tuy nhiên, về hình ảnh của Thánh-Tượng có nhiều mẫu khác nhau, nhưng điểm chính-yếu vẫn là “Con mắt Thầy” ở chính giữa.

Hình ảnh Thánh Tượng này chỉ là một sự triển khai của đồ hình dưới đây mà thôi, vị trí Các Đấng Giáo chủ cũng hiệp một, nên cả hai cùng một ý-nghĩa.

Trong hiện tại, Hội-Thánh định cho toàn Đạo thờ “Thánh Tượng Ngũ Chi”.Dưới Thiên-Nhãn-Thầy có hình các Đấng Giáo-Chủ xưa: Tam-Giáo, Tam-Trấn, Ngũ Chi với ý-nghĩa “Tam-Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt”.
1 - Tam Giáo:
Trên đồ hình: Tam giác trên cùng tượng trưng Tam giáo ở  Nhị kỳ Phổ Độ có các đỉnh làm biểu tượng cho:
. Phật-Đạo: Ở giữa là  Thích Ca Mâu  NI, Giáo-Chủ Đạo Phật.
.Tiên-Đạo: Phía tả là Đức Thái-Thượng Lão Quân, Giáo-Chủ Đạo Tiên.
.Thánh-Đạo: Phía hữu là Đức Khổng Thánh Tiên-Sư, Giáo Chủ  Đạo Thánh.(Tả hữu là ở ngoài nhìn vào)

2 - Tam Trấn Oai-nghiêm:
Nhị Kỳ đã qua, nay là thời Tam-Kỳ Phổ-Độ Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt. Đức Chí-Tôn phải lập Tam Trấn Oai nghiêm thay quyền Tam giáo. Đây là tam giác nội tiếp trong vòng tròn giữa, càng thấy sự yếu trọng của Tam Trấn như thế nào!

Tam Trấn thay mặt cho Tam Giáo:
Phật : Phía tả là Đức Quan Âm Như Lai,    chủ về Phật Đạo.
Tiên: Ở giữa là Đức Thái Bạch Kim Tinh,  chủ về Tiên Đạo.
Thánh: Phía hữu là Đức Quan Thánh Đế Quân,chủ Thánh Đạo

3 - Ngũ Chi Đại-Đạo:
Từ trên kể xuống thì Ngũ Chi ở hàng giữa là:
1/ - Phật Đạo: Đức Phật Thích Ca Mâu-Ni, Giáo Chủ Phật Đạo.
2/ - Tiên Đạo: Đức Thái Bạch Kim-Tinh Chưởng giáo Đạo Tiên thay  quyền Tiên Đạo.
3/ - Thánh Đạo: Đức Gia-Tô Giáo Chủ (Chúa Jésus-Christ) Giáo chủ Thánh Đạo.
4/ - Thần Đạo: Đức Khương Thượng Tử-Nha, Giáo chủ Thần Đạo
5/ - Nhơn Đạo: Tượng 7 cái Ngai thể về Nhơn Đạo gồm có: Một Ngai Giáo-Tông, ba Ngai Chưởng-Pháp, ba Ngai Đầu-Sư. Tức nhiên người đứng đầu, lãnh đạo Nhơn sanh về phần Nhơn-Đạo là Giáo-Tông Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. (Thế nên nơi Thánh Thất chỉ viết chữ “Giáo-Tông Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” tượng cho Nhơn-Đạo là đủ ý nghĩa.
Trong tượng Ngũ-Chi nhận thấy có phần chính-yếu là Thiên-Nhãn Thầy ở chính giữa với số tia hào-quang khác nhau tuỳ theo mẫu Thánh Tượng. Kế đến là mặt trời và  mặt trăng tức là Âm Dương nhị khí. Dưới là Tam-giáo, kế Tam Trấn và Ngũ Chi. Như vậy mỗi vị đều đứng vào tâm của mỗi vòng tròn, tức là mỗi vị là một Thái-cực với sự yếu trọng khác nhau. Đặc biệt nhứt trong thời Tam-Kỳ Phổ-Độ này hình ảnh Chúa Jésus Thánh-Đạo là Chúa Cứu Thế đứng vào tâm của vòng tròn tức nhiên hoà nhập cùng Thượng Đế. Đó là Thọ khổ, là một trong  năm bước Khổ vậy. Người tu trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ là hành đủ Tam lập, là Phụng sự Vạn linh tức là phụng sự  Chí-linh

Phương pháp vẽ:
Đây là đồ hình phác hoạ theo Tượng Ngũ Chi Đại Đạo, có đủ: Tam Trấn, Tam Giáo, Ngũ Chi.

Đầu tiên vẽ một vòng tròn lớn biểu tượng Càn Khôn vũ trụ, tâm 0 ở chính giữa là ngôi Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng-Đế là Chúa tể vũ-trụ và vạn vật. Đạo Cao Đài biểu tượng bằng “Thiên Nhãn Thầy” tức nhiên chỉ thờ “Một Mắt trái” để ngưỡng vọng ngôi Trời.

Một vòng tròn giữa là ngôi Chúa Jésus, Gia-Tô Giáo-chủ, Chưởng-giáo Đạo Thánh. Đây cũng là giao điểm của hai đường kính tạo thành hình chữ Thập, là hình ảnh cây Thánh giá mà Chúa đã chịu nạn cho nhân-loại. Ngày nay ai dám có tinh thần phụng sự cao, dám thọ khổ là sớm hiệp cùng Đức Thượng-Đế, là hiệp vào tâm đó vậy.

Sáu vòng tròn xếp chồng lên nhau có đường kính bằng với vòng tròn giữa. Mỗi tâm có hình ảnh một Đấng Giáo-chủ của nhân loại qua các thời-kỳ mà ngày nay Đạo Cao-Đài đều ngưỡng vọng.Dịch gọi là “Các hữu Thái cực” tức nhiên dưới mắt Thượng-Đế các Đấng Giáo-Chủ của Tam giáo đều được đồng quyền đồng đẳng như nhau.

Một tam giác đều nội tiếp trong vòng tròn lớn tượng trưng Tam giáo được phổ truyền rộng khắp, dù có rất nhiều Tôn-giáo nhưng chung qui cũng gồm về ba mối Đạo chánh truyền là: Phật, Tiên, Thánh mà thôi. Tam giáo được biểu tượng qua hình ảnh ba cạnh của tam giác đó. Tuy ba Tôn-giáo nhưng có đến bốn vị Giáo-chủ gọi là “Tứ giáo Thánh nhân” chứ không thể gọi là Tứ giáo được. Bởi vì hai vị Chưởng-Giáo của Thánh Đạo đồng thời trấn ở hai phương Đông và Tây, tức nhiên Đức Thánh Khổng-Phu Tử là ông Thánh Ta, còn Đức Chúa Jésus là ông Thánh Tây. Đây là lời xác nhận của Đức Hộ-Pháp như thế. Có như vậy mới nói “Qui Nguyên Tam Giáo” và “Phục Nhứt Ngũ Chi” vào thời buổi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này.

Tam giác đều là tam giác có ba cạnh bằng nhau, ba góc bằng nhau, bằng 60o. Tam giác có ba cạnh còn nói lên ý-nghĩa một mà ba, mà ba cũng là một. Dịch biểu tượng là hai quẻ Càn Khôn. Vì lẽ đó tam-giác-đều rất phổ biến qua các biểu tượng của Đạo Cao-Đài.

Trong đồ hình này cấu tạo bởi 7 vòng tròn nhỏ có đường kính bằng nhau. Số 7 này có một giá trị cao siêu và yếu trọng trong nền Tôn giáo. Nó là tượng trưng cho Thất tình, thất khiếu, Thất bửu (xem qua con số 7)

4 - (Trường hợp khác) Thờ tượng Tam Trấn:
Về sau Hội-Thánh chấn-chỉnh lại, ban cho toàn Đạo thờ “Tượng Tam Trấn”. Trong Tượng Tam-Trấn không có in hình các Đấng Giáo Chủ, nhưng phần dưới Thiên Nhãn Thầy có ba khuôn vẽ bằng Cổ Tự, đó là Thánh-danh của các Đấng Tam Trấn Oai Nghiêm thay quyền Tam giáo trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này:

Thánh-Tượng này phía trên có 6 chữ:
  (ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ)
dưới cùng là danh-hiệu Tam-trấn, từ trái sang phải:
- QUAN-ÂM BỒ-TÁT.
- THÁI-BẠCH KIM TINH
- QUAN-THÁNH ĐẾ-QUÂN

5 - Ý nghĩa Thánh Tượng Thiên Nhãn:
Thánh Tượng Thiên Nhãn tượng trưng Đức Thượng-Đế là Đấng Thánh Hoàng trước Ngôi Thái Cực, với quyền năng tối thượng, toàn tri, toàn năng của Ngài. Đây là quyền Chúa tể của Càn khôn thế-giới. Thầy dạy:    

“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong càn khôn Thế Giới thì khí Hư-Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-Cực.

Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra Tứ-Tượng, Tứ Tượng biến Bát-Quái, Bát quái biến-hóa vô cùng mới lập ra Càn-Khôn Thế Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: vật chất, thảo mộc, côn-trùng, thú-cầm, gọi là chúng-sanh.

Các con đủ hiểu rằng:
Chi-chi hữu-sanh cũng do bởi Chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống, ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự-sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.

Cái sống của cả chúng sanh, Thầy phân-phát khắp Càn-Khôn Thế-Giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa.

Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu Nguyên sanh hay Hóa-sanh cũng vậy, đến thế nầy lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả-báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy.

Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy (TNII/62)

VẤN 12: Được biết sau khi Nhập môn vào Đạo Cao-Đài sẽ có chư Thần theo hộ trì. Làm sao chúng ta biết việc này ?

ĐÁP: “Đức Chí-Tôn thường phán dạy: Thầy luôn luôn ở bên cạnh các con, chứng tỏ rằng mọi hành động gì của mỗi Tín đồ, Đức Chí-Tôn đều hay biết hết. Có biết bao nhiêu là huyền diệu Thiêng liêng đã che chở bảo hộ cho các Chức sắc đàn Anh của chúng ta thoát khỏi tai nạn hiểm nguy trước đường tơ kẽ tóc như chỉ mành treo chuông. Về phần cá nhân tôi là Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài nhỏ thôi, nếu không được sự che chở bảo hộ, gìn giữ của Thiêng liêng thì tôi không được sống sót đến ngày hôm nay để vinh hạnh hồi đáp những điều thắc mắc của Bạn đọc. Tôi hoàn toàn tin tưởng tuyệt đối cũng như đặt trọn niềm tin là lúc nào cũng có các Đấng Thiêng Liêng che chở, giúp đỡ để hoàn thành sứ mạng Hội Thánh giao phó”.

Soạn giả xin ghi lại vài mẫu chuyện về Đức Hộ Pháp mà lúc bình sanh ông Sĩ-Tải Nguyễn Minh Ngời đã chép tay, có in biếu lại….Nhận thấy cũng có điều khế hợp nhau, xin ghi vào đây để kính biếu đồng Đạo, đồng thời để tưởng niệm Người đã khuất:

 “Thuở Đức Hộ-Pháp lên Nam Vang, một hôm ông Thừa sử Huỳnh Hữu Lợi và Bà Chí-Thiện Hương Nhâm đến thỉnh Đức Hộ-Pháp đi viếng Đế Thiên Đế Thích, vì nhận thấy Thầy không vui. Ông Bà đưa xe du lịch đến rước Thầy, có tài xế lái. Gần đến nơi thì bỗng xe bị hư máy. Tài xế sửa mãi không được, Thầy mới ra tay sửa cũng không xong.

Thoạt trông thấy một lùm cây cổ thụ phía trong, Thầy bảo cả thảy đẩy xe vô đó có bóng mát nghỉ rồi sẽ tính sau. Xe vô đó rồi thì Thầy thấy một cái miễu xem vẻ xơ-xác, hầu như bỏ hoang, không ai tu bổ.

Ông Bà Huỳnh Hữu Lợi quét dọn một chỗ trước miễu, lót lá cây mời Thầy ngồi, đoạn bày thức ăn và thức uống cạnh đó.

Thình lình Bà Chí-Thiện ợ ngáp, giống y như lên đồng. Thầy rầy, hỏi duyên cớ, bà thưa rằng: Có chơn linh nhập xác, xin Thầy cho phép trình bày. Thầy chấp thuận. Chơn linh bạch cùng Đức Hộ-Pháp rằng: Thuở xưa là một Công Chúa phạm tội nên bị phạt ở tại miễu xơ xác, chờ khi nào có Đức Phật đến giải oan mới được siêu thăng, vì thế chơn linh mới phá máy xe cho ngừng tại đây.

Thầy dạy tài xế ra xe rồ máy xem thử, thì xe nổ máy như thường. Thầy mới biểu Ông Bà Thừa sử cùng Tài xế đọc Kinh Giải oan, rồi Thầy làm phép Giải oan cho vong hồn.

Vong hồn bái tạ Thầy và xin cho thêm một chút thời giờ để trò chuyện cùng Bà Hương Nhâm: vì Bà Nhâm trước kia là Chị của Công Chúa.

Bữa nọ, Đức Hộ-Pháp  đến  nhà Ông Bà  Thừa Sử Lợi, hai ông bà có nuôi một con chó rất khôn, ông cưng nó đến nỗi cho chó ngủ chung với ông ban đêm.

Thầy ngõ ý xin con chó, ông bà giả vờ nói khoả lấp.
Lần thứ nhì, Thầy đến nhà xin nữa, cũng y như lần trước. Lần thứ ba, Thầy lại đến hỏi con chó, Thầy mới cho biết: Thầy không cần dùng con chó làm gì. Sở dĩ xin nó là để giải oan nghiệt tiền khiên cho ông Thừa sử. Thầy bảo: con chó là đứa bạn giúp việc nhà cho ông Lợi. Trong một kiếp trước, ông làm Thông ngôn Toà án Pháp, hôm ấy ông cần đi làm việc, nên đứa bạn lo sẵn ghe hầu cho ông.

Giữa đường, tên bạn cải cọ với ông, ông giận quá, đánh nó, nó né tránh nên lọt xuống sông chết chìm. Trở về nhà, ông nói với cha mẹ nó rằng: nó lơ đễnh nên té sông chết.  Do phạm tội này nên khiến con chó nói trên lọt vào gia đình ông mới có dịp trả oán. Chó chờ có một vị nào đó trong Hoàng gia Cao-Miên đi ngang nhà chủ nó, nó sẽ nhảy ra cắn chết, cho ông Lợi sẽ bị táng gia bại sản, lại thêm tù tội.

Ông giựt mình, tự nhủ rằng: Thầy biết ông làm thông ngôn ngoài đời trước kia thì vụ con chó có thật.
Khi Đức Hộ-Pháp về, ông bà biểu con chó theo Thầy, nó riu ríu đi theo, một tuần sau nó chết.

* Ghi thêm về câu thề “Tận đoạ tam đồ bất năng thoát tục” để thấy sự nhiệm mầu của Đạo pháp:
Ông Sĩ Tải Nguyễn Minh-Ngời kể lại rằng:
Sau khi tốt nghiệp Luật sự Pháp Chánh Hiệp-Thiên Đài, các Tân khoa phải thề trước Cung Đạo Bát-Quái Đài:

“Chúng tôi là Luật sự Pháp Chánh thề luôn luôn trung thành với Đạo và giữ dạ vô tư hành sự, nếu phạm lời Minh Thệ này sẽ bị các Đấng Thiêng liêng hành pháp:
 “Tận đoạ Tam đồ bất năng thoát tục”.

Tam đồ không phải là: Thuỷ đồ, Hoả đồ, Đao đồ.
Thời quân chủ xưa ở Á-Châu có hình phạt tam ban trào điển để xử tử phạm nhơn.
Nhưng trên phương diện Đạo học, nếu hiểu tam đồ là hình phạt tử hình như Tam ban trào điển là không đúng, bởi vì Tam đồ nhắm vào linh hồn của kẻ phạm tội sau khi thoát xác.

Mà linh hồn bất tử, không bị diệt như xác thân, dùng nước (Thuỷ đồ), Lửa (Hoả đồ), Đao (Đao đồ) không hiệu quả.

Chơn linh nào bị “Tận đoạ Tam đồ” thì bị ngăn cản, không hiệp được với Chơn thần (tức đệ Nhị xác thân) phải chuyển kiếp trở lại từ Kim thạch cho tới con người, như thế ba vòng. Nói cách khác: là ai phạm thệ thì bị đoạ xuống cấp chót là vật chất rồi tiến lên thảo mộc, thú cầm mới tới nhơn phẩm. Đây là một vòng.

Mỗi vòng tiến hoá như thế gọi là “Đồ” (nghiã là con đường) khoảng  ngàn (1.000) năm. Ba vòng cộng lại là ba ngàn năm (3.000 năm).

“Bất năng thoát tục” là lẩn quẩn trong cõi đoạ đày, không trở về với Đức Chí-Tôn được. Tại sao vậy ?
Bởi vì trong ba ngàn năm “Tam đồ” Chơn linh lỗi thệ phải trả quả nghiệp, không rảnh rang lập công mà về Thiên Đàng được.

Ông Sĩ Tải Bùi văn Tiếp ghi chép rằng: Ông trộm nghe Ngài Bảo-Đạo Hồ Tấn Khoa thuật lại: Trước khi thoát xác, Đức Hộ-Pháp thốt lên giọng nói như gió thoảng qua: “Xin Thầy cho con lãnh cả tội tình của dân tộc con”.

Ghi lại phần tường thuật của ông Sĩ-Tải tôi mới nhớ lại lời cuối cùng của Đức Chúa trên Thập Tự giá:
“Trời ơi ! Sao Cha đã bỏ con?”

VẤN 13: Đạo Cao-Đài có tôn chỉ Đại Đồng trong khi đó các quốc gia trên thế giới có nhiều sự khác biệt nhau.
Như vậy làm sao Đạo Cao-Đài có thể thực hiện được lý tưởng cao cả này ?

ĐÁP: “Xin lưu ý Tôn giáo Cao-Đài được khai sáng tại nước Việt Nam, nhưng Đức Chí-Tôn đã phán dạy rõ là Tôn giáo Cao-Đài không phải dành riêng cho dân tộc Việt Nam mà cho cả Thế giới kia mà, Đức Chí-Tôn đã cho nhiều Chơn linh giáng trần khắp cả thế giới để độ dẫn nhơn loại. Ngày nào nghe một tiếng còi thì cả Thế giới sẽ qui tụ một nhà, nhìn nhau là Ông Cha chung.

Trong nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức Chí Tôn đã phân định: 1 vị Giáo Tông, 3 vị Chưởng Pháp, 3 vị Đầu sư, 36 vị Phối sư, 72 vị Giáo sư và 3000 Giáo Hữu. Số Chức sắc kể trên là dành để cho các nước trên thế giới do Đức Thượng Đế là Ông cha chung của nhân loại. Ngày giờ nào Tôn-giáo Cao-Đài thực hiện cho ra thiệt tướng sự thương yêu và công bình thì mọi sự khác biệt nhau trên thế giới sẽ bị đẩy lùi nhường chỗ cho nhân loại hiệp đồng. Đó là trách nhiệm trọng đại của người Tín hữu Cao-Đài phải cố gắng thực hiện cho kỳ được”

 Các Ngài đã cho biết:
 “Nhơn-loại đang bị thống khổ và sẽ lăn vào cảnh tang-thương vì tinh thần ly-tán nên ĐẠI-ĐẠO CAO-ĐÀI xuất hiện đặng phục-hưng Khổng-giáo, áp dụng Nho-Tông làm khuôn luật tổ-chức xã-hội cho tận-thiện, tận-mỹ. Các dân tộc sẽ đối đãi nhau như anh em một Cha, ở chung một nhà, cộng hưởng Đại Đồng hạnh-phúc.

Đó là về mặt xã-hội, còn mặt Đạo là mặt tinh-thần thì Đại-Đạo giữ-gìn tinh-ba giáo-lý nhà Thiền và Lão giáo đặng độ tận linh-hồn về Thượng-giới.

ĐẠI-ĐẠO tiên khởi lập thành tại nước Việt-Nam, nhiên hậu sẽ hoằng khai các miền Đông-Á, qui hợp cả Huỳnh-chủng làm đà sang Bạch-chủng Âu châu dìu-dẫn khắp thiên-hạ trên con đường Cộng-Đồng”.

Thánh giáo Vendredi 12 Novembre 1926
 Ô Môn, (8-10-Bính Dần)

Thầy dạy rõ:
“Nếu các con hiểu rõ cơ huyền diệu của kiếp luân hồi con người, chẳng phải như thói thường tình định liệu, thì con không buồn và cũng không oán trách Thầy. Nơi Bạch Ngọc Kinh cả thảy đều là con cái của Thầy, tức là anh em với nhau.

Cái phẩm vị của các con phải buộc tái sanh nhiều kiếp mới đến địa vị tối thượng mình là nơi Niết Bàn. Một lời nói với nhau, cũng đủ cả hai xuống thế mà khuyên giúp lẫn nhau. Con chẳng nên gọi oan nghiệt. Còn Đạo mới khai lập, tuy xuất hiện chưa đầy một năm, chớ chư Tiên, chư Phật đã lập cùng cả Năm Châu.
Chẳng khác nào khi trước Nhơn đạo chưa mở, thì đã có Châu Công truyền trước.
Thánh đạo Jésus chưa ra đời, thì đã có Moïse, Élie, Gérimie, Saint Jean Baptiste.
Ðạo Tiên Nguơn Thỉ chưa ra đời, thì có Hồng Quân Lão Tổ, Lão Tử, Thông Thiên Giáo chủ truyền đạo.
Phật Thích Ca chưa ra đời, thì đã có Nhiên Ðăng Cổ Phật và Brahma truyền đạo.

Thầy chưa giáng cơ lập Đạo tại nước Nam, chớ chư Thần, Thánh, Tiên, Phật dùng huyền diệu nầy mà truyền Đạo cùng Vạn Quốc.”

VẤN 14: Trong quyển Thánh ngôn Hiệp tuyển I   trang 123,
Bà Bát Nương có dạy “Ví dầu có thổi thế nào thì Em xin quí Anh quí Chị rán bịn gốc nghe !”

ĐÁP: “Lưu ý Bà Bát Nương muốn nhắc khéo cũng như muốn báo trước cho anh chị em đồng Đạo biết là Hội Thánh Cao Đài sẽ gặp sự khảo đảo nặng nề, Chức sắc bị thử thách trầm trọng, niềm tin nơi Đức Thượng Đế bị lu mờ, Bà Bát Nương dạy trước là Chức sắc và bổn Đạo phải giữ vững đức tin nơi Chí-Tôn và Phật Mẫu và trọn giữ Luật Pháp chơn truyền của nền Đại-Đạo, tức là “rán bịn gốc lại” nghe !. Bởi Bà Bát Nương rất lo ngại  nên có chỉ dạy rõ ràng là “quí Anh quí Chị rán nắm gốc cây lại cho chắc kẻo gió lớn thổi bay đa!” Thì nền Đại-Đạo bị xáo trộn, Chức sắc bị lôi cuốn theo bã lợi quyền danh mà xa lần nguồn gốc. Danh từ “rán bịn gốc lại” nghe vô cùng sâu sắc, nhắc nhở Chức sắc và bổn Đạo chớ xao lãng Thiên chức của mình là một Chức sắc của Hội-Thánh Cao-Đài Toà-Thánh Tây-Ninh dễ bị lôi cuốn vào vòng danh lợi quyền thế mà quên đi lời Minh Thệ khi nhập môn cầu Đạo và Luật Pháp chơn truyền của Đại-Đạo đã có sẵn từ năm 1926. Chắc tất cả đều thuộc lòng câu Kinh của Phật Mẫu:
Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,
Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường?

Đó là lời vàng tiếng ngọc của Đức Phật Mẫu nhắc nhở con cái của Người trong 4 thời hiến lễ hằng ngày, nhưng trước cơn khảo Đạo Chức sắc vẫn còn bị thử thách quên đi nguồn gốc. Nói tới đây tôi hết sức ngậm ngùi, tạ ơn Bà Bát Nương đã chỉ dạy trước để phòng ngừa cơn bão tố của Đại-Đạo, âu cũng là do Thiên định”.

Đây là tấm gương của Đức Cao Thượng-Phẩm, lúc sanh tiền đã tỏ ra một bậc đạo hạnh, khi qui Thiên Ngài vẫn còn ngoảnh lại thế trần mà nhắc-nhở đám Em khờ, Ngài giáng dạy rằng:

 “Đời là một sân khấu hí-trường, mọi sự đều phải thay đổi, chớ nên lấy đó làm mục-phiêu chính để noi theo, vì đã nói rằng: một sân-khấu hí-trường thì trong đó đủ đào kép và ông bầu, dầu hay dầu dở thì bổn-phận họ phải làm cho rồi để cho kẻ khác lên thay thế, đặc-sắc hơn và hay-ho hơn.

Hiện các Em đã thấy biết bao nhiêu màn đời  thay đổi liên tiếp mà những màn ấy cũng chẳng làm cho dân Việt-Nam được hưởng cảnh thái-bình. Càng thay đổi càng làm cho dân chúng Việt-Nam thêm hoang-mang, hồi-hộp và cảnh tương-tàn, tương-sát của Việt-Nam cũng chưa thấy giảm bớt chút nào mà lại càng tăng thêm cực độ.

Các Em biết tại sao vậy không ? Nói nghe thử !...
- Trúng! Nhưng còn thiếu một chút là dân Việt Nam chưa được mãn nguyện cho sự Lãnh-đạo của những bậc giả thương dân chúng đó vậy.

Vậy có câu “Dĩ Đức phục nhân” tức nhiên lập Hòa-bình bằng nhân đức; mà chính các vị Lãnh-tụ không thực-hành được mảy-may nào cả thì đừng trông chi họ đem hạnh-phúc và đem nguyện-vọng chân-chánh đến cho dân chúng được. Dầu cho phải thay màn như vậy nữa, dân chúng Việt-Nam chắc chắn không bao giờ đạt vọng được, cũng vì sự bất lực của quyền đời như vậy.

Mọi sự biến-chuyển đều do Đức Chí-Tôn, còn sự lập đời cũng do Đức Chí-Tôn định phận cho các Thiên mạng rồi thì còn chi mà khó nữa; chỉ đi đúng Chơn-truyền của Đạo và trọn tuân lịnh của Đức Hộ-Pháp thì xong mọi việc, các Em cũng đã hiểu rồi !

Về việc lập quốc cho nòi giống Việt-Nam, mặc dầu địa-thế của nó nhỏ, nhưng sẽ được các liệt-cường trợ giúp cho nó thành một nước độc-lập hoàn toàn mà lại còn là trụ cốt Thái-bình cho Vạn-quốc nữa.

Vì chính nước Việt-Nam đã được Đức Chí-Tôn định là Thánh-Điạ thì tức nhiên nó phải có chút ảnh-hưởng của Đạo Cao-Đài quyết-định, không dựa vào hình-thức nào hay là chút ảnh-hưởng Văn-minh của một liệt cường nào cả.  Vì sự tiền-định khéo-léo và cao trọng như thế mà Đạo Cao-Đài sẽ được vi-chủ về mặt tinh-thần để chấm dứt  cuộc chiến-tranh tàn khốc của hoàn-cầu.

Theo thế thường, đời càng gay mà muốn lập lại đời Thái-bình thì phận-sự của Đạo lại càng thêm khó-nhọc và nặng-nề.

Vậy các Thiên-mạng phải cố tâm trì-chí, đứng trọn trong khuôn-khổ Đạo thì mới được dễ-dàng để bước qua những trở ngại trên phận-sự mà thành-công một cách  mỹ mãn.  Các Em cứ đặt trọn Đức-tin nơi Đạo rồi thì mọi việc sẽ được như ý.

Cần nhứt là các Bạn THIÊN MẠNG phải làm khác hơn thế tình thì mới được đa nghe !”     

VẤN 15: xin Ngài cho biết: Tại sao Chức sắc bên Nữ phái chỉ mặc đạo phục màu trắng,
không có mặc đạo phục vàng, xanh, đỏ như Chức sắc Nam phái ?

ĐÁP: “Theo sự hiểu biết của tôi, thì phái Nam là THANH, còn phái Nữ là HƯƠNG, do Thiên định phái Nữ chỉ có tới phẩm Đầu Sư mà thôi, còn phái Nam thì tới phẩm Giáo-Tông, nên Đức Chí-Tôn khai sáng nền Đại Đạo là QUI TAM GIÁO (Phật giáo màu vàng, Tiên giáo màu xanh và Nho giáo màu đỏ) để hiến lễ. Còn Nữ phái thì mặc Đạo  phục màu  trắng cũng như  cả thảy Chức sắc vào bái lễ Đức Phật Mẫu đều đồng phục màu trắng hết".

VẤN 16: Ngài có thể cho biết cách thức Cầu Cơ của Đạo Cao-Đài ?
ĐÁP: “Đạo Cao-Đài do Cơ Bút mà khai sáng ra nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nên việc Cầu Cơ vô cùng quan trọng.Buổi đầu mới phôi thai vào năm 1925 quí Ông: Cao-Quỳnh-Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang chỉ biết Xây bàn để mời các Đấng vô hình về hoạ thi phú là một thú tiêu khiển của các vị công chức sau những ngày nghỉ hằng tuần. Trong những buổi Xây bàn, có nhiều vong linh về nhập bàn Cơ xưng danh tánh rõ ràng, cho nhiều bài thi rất hay, nhưng ba ông CƯ, TẮC, SANG cũng chưa trọn tin tưởng. Song vì ham mê hoạ thi với các Đấng vô hình, nên ba ông hằng tuần họp nhau để Xây bàn. Kế đến Bà Thất Nương nhập bàn để chỉ dẫn ba ông phải tìm Đại Ngọc Cơ để nghinh tiếp Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu. Nghe đến Đại Ngọc Cơ thì ba ông Cư, Tắc, Sang chưa nhận định hình dáng thế nào, còn đang phân vân suy nghĩ thì thình lình có người mách bảo rằng nhà ông Phan văn Tý có Đại Ngọc Cơ, nên ba ông cùng đến nhà ông Phan văn Tý hỏi mượn, ông Tý vui vẻ cho mượn Đại Ngọc Cơ. Được sự hướng dẫn của Thất Nương, ba ông Cư, Tắc, Sang sử dụng Đại Ngọc Cơ rất được nhanh chóng. Về cách thức Cầu Cơ  phải diễn tả dài dòng lắm. Tôi chỉ sơ lược: muốn cầu Cơ thì phải có hai Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài ngồi ngang nhau, hai tay vịn vào Ngọc Cơ (được gọi là phò loan) và một Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài làm điện ký (ghi chép lại các bài Thánh giáo vừa nhận được)

Cơ Bút là giai đoạn cuối cùng của sự thông công của Tạo hoá và Người trên phương diện tâm linh, mà cũng là phương tiện để  các Đấng vô hình giảng  dạy,  phổ  biến chúng sanh là ngọn đuốc quang minh chánh đại để dẫn dắt người đến chỗ cao siêu đạo đức. Việc cầu Cơ xuất hiện từ Âu Mỹ vào thế kỷ 18 và phát triển thành chuyện duy linh và thần linh. Tôi còn nhớ vào tháng 9 năm 1853, Bà Dacbardin đến viếng thăm nhà Đại Văn Hào Victor-Hugo tại Cù lao Jersey (Pháp Quốc) để cùng Xây bàn tiếp chuyện với vong linh người chết.

Tại Mỹ Quốc, vào năm 1856, Luật sư Edmond và Ông Napes là một Giáo Sư Đại-học Hàn-Lâm Hoa-Kỳ cùng Xây bàn tiếp xúc với các Đấng vô hình và viết ra sách cũng công nhận có vong linh người chết về nói chuyện với người sống.

Còn tại Việt Nam lúc bấy giờ 1925 lại nổi phong trào Xây bàn và lan tràn cùng khắp thành thị và thôn quê, đâu đâu cũng đều có Xây bàn, Cầu Cơ.

Cách thức cầu Cơ của Hội-Thánh Cao-Đài Toà Thánh Tây-Ninh tuyệt đối là phải Cầu Cơ tại Cung Đạo Đền Thánh và phải do Chức Sắc Hiệp Thiên Đài phò loan. Xin nói rõ là Đạo Cao-Đài do Cơ Bút xuất hiện nơi đất nước Việt-Nam vào năm 1926.”
Trước nhứt nên biết qua Đức Chí-Tôn đã chọn lựa đồng tử để Cầu Cơ lúc mới khai Đạo:

Những cặp Cơ do Chí-Tôn chọn lựa:
Việc Cơ Bút trong nền Đạo lúc bấy giờ cũng vậy, đó là một sự huyền-vi, mầu nhiệm, đặc biêt không thể dùng một quyền lực nào hay một sự thúc đẩy của một ai mà được, chỉ do một sự ứng hợp với huyền-linh mà thôi.

Đức Chí-Tôn khai Đạo buổi ban đầu đặc biệt chọn 4 cặp Cơ:
1 - Đức Hộ-Pháp Phạm Công-Tắc với Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh-Cư: cặp Cơ phong Thánh.
2 - Bảo Pháp Nguyễn  Trung  Hậu với  Hiến Pháp

Trương Hữu Đức: cặp Cơ về Chơn pháp.
3 - Khai Pháp Trần Duy Nghĩa với Tiếp Pháp Trương văn Tràng: cặp Cơ về Bí-pháp.

4 - Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài Sang với Bảo-Văn Pháp quân Cao Quỳnh Diêu: cặp Cơ Phổ Độ.
Còn các vị Hiến-Đạo, Khai Đạo, Tiếp Đạo, Tiếp Thế tuỳ trường hợp sẽ nâng loan cho Cơ truyền giáo.

Đức Lý Thái-Bạch là Giáo Tông vô vi của nền Đại Đạo. Ngài rất ân cần nhắc nhở về việc Cơ Bút:
“Lão dặn thêm một lần này là: Không phải cả thảy mấy Em phò loan mà đặng Huyền diệu hết. Như kể ra thì có ba cặp mà thôi, còn các cặp khác phải cẩn thận cho lắm, vì Thần chúng nó không đủ trọn mà cầm tánh mạng nhơn sanh hay là Tà ma quỉ mị xung nhập, nghe à!

Tuy có bốn nhưng chỉ có Ba cặp Cơ được chọn lựa:
- Ông Cao-Quỳnh-Cư và Phạm-Công-Tắc: cặp Cơ phong Thánh.
- Ông Nguyễn-Trung-Hậu và Trương-Hữu-Đức: cặp Cơ Chơn pháp.
- Khai Pháp Trần Duy Nghĩa với Tiếp Pháp Trương văn Tràng: cặp Cơ về Bí-pháp.

Khi Đức Hộ-Pháp lưu vong nơi Miên-quốc, nhân nghe tin Chi Phái sắp sửa về Toà-Thánh, Đức Ngài có gởi Thánh Thơ số 12/HTĐ ngày 20-2 Mậu-Tuất (8-4-1958) cho các anh chị em trong Chính Sách Hoà-Bình Chung Sống tại quốc nội như sau:

“Toàn Đạo có lẽ còn nhớ cây Cơ Phong Thánh của Hiệp-Thiên-Đài là cây Cơ Đạo Pháp hiệp một:
Đạo thì có Thượng-Phẩm.
Pháp thì có Hộ-Pháp.
Khi lập giáo vừa xong và tuyển phong Hội-Thánh

rồi là cây Cơ phong Thánh ấy đã gãy khi Thượng-Phẩm đã qui vị. Còn cây Cơ Thế là cây Cơ Phổ-Độ thì chúng ta không hiểu vì lẽ gì mà Đức Chí-Tôn đã cấm hẳn. Cơ Bút chỉ để dạy Đạo mà thôi, do nơi Thập Nhị Thời Quân phò loan chớ không ai khác hết, nên về Cơ Bút Bần-Đạo chỉ công nhận Cơ Bút Thập Nhị Thời quân chớ chưa đặng lịnh phải công nhận cơ nào khác nữa. Nghĩa là: ngoài ra Cơ Thập nhị Thời quân giáo Đạo thì không còn Cơ Phổ Tế và cơ phong Thánh nữa…Phải chăng vì lẽ ấy mà khi lập giáo vừa xong thì Thượng-Phẩm đã qui vị và cơ Phổ Tế của Chi Thế đã cấm hẳn, chỉ còn Cơ giáo Đạo  của Thập Nhị thời quân. Như thế mà Đạo không tránh khỏi nạn của Quỉ quyền nhập nội như buổi khai Đạo tại Từ Lâm-Tự lúc trước, ấy là điều Đức Chí-Tôn đã tiên tri cho biết trước đó vậy.”
Một lần nữa, trong Thánh thơ số 26/bis/HTĐ/vp ngày 28-12 Mậu-Tuất (1958)

Đức Hộ-Pháp có dạy:
 “Qua nói thật cho các Em biết, Cơ Bút của Đức Chí Tôn đến lập Đạo nó có niêm luật vô hình của nó mà cả thảy con cái Đức Chí-Tôn không dễ gì hiểu thấu.

Qua nói: khi Đức Chí-Tôn đến lập Đạo tức là phải lập Hội-Thánh thì Cơ phong Thánh đã tiền định là Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp phò loan, còn Thượng-Sanh phò Cơ Phổ Độ. Nhưng khi lập Đạo rồi thì cây Cơ Phổ Độ bị cấm. Mấy Em thấy đó thì biết rằng “Phò loan” chẳng phải ai cũng phò được.”   
Như đã biết thời gian từ khởi khai Đại-Đạo đến khi có lịnh cấm Cơ Bút thì chỉ được có Ba cặp Cơ được chọn lựa mà quan trọng nhứt là Hộ-pháp và Thượng Phẩm.

VẤN 17: Tu theo Đạo Cao-Đài là tiến hoá từng bậc là: Nhơn Đạo,Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Xin Ngài giải thích về cách tu hành theo năm cấp bực này

ĐÁP: Đức Chí-Tôn đến thành lập Hội-Thánh thay thế hình thể của Người để dìu đường và hướng dẫn nhân loại trên Thế giới phải Thương yêu nhau và công bình đối xử nhau như Anh em một nhà, cùng thờ chung một Đấng Thượng Đế. Muốn đạt phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật phải trau giồi đạo đức, dù cho phải cắt ái ly gia chia tình sẻ

Nghĩa mà làm cho tròn trách nhiệm xứng đáng của mình để hiến thân chuộc mạng cho muôn nghìn kẻ đồng bào nhân loại thì cái sự thường tình đó, sự khổ tâm ở thế kia, đau khổ nào có tiếc. Ấy là cử chỉ của Thần, Thánh, Tiên, Phật- Đấng Chí-Tôn đã gieo hột giống Thương yêu và Công bằng thì rất quí hoá rồi, chỉ cần phải vun trồng cho cội sởn sơ. Cội sởn sơ mới đâm chồi trổ tược nhánh lá sum suê, hoa đơm sắc sảo rồi mới đến trái oằn sai mà thành kết quả xứng đáng thì nền Đại-Đạo mới truyền bá toàn nhân loại, trọn khắp Ngũ Châu thì mới mong đạt được phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật mà Đức Chí-Tôn đã dành sẵn cho ngôi vị ấy nơi cõi Thiêng liêng Hằng Sống”

Đức Hộ-Pháp nhắc nhở người tu với thành ý, khi:
Muốn thoát khỏi luân hồi phải làm sao ?
- Phải đoạt cho đặng cơ bí mật siêu phàm nhập Thánh. Cơ bí mật ấy, nếu không phải Thầy cho thì chưa ắt xin ai mà đặng.
Ấy vậy, Đạo là cơ bí mật làm cho kẻ phàm có thể đoạt đặng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thầy đến Qui Tam Giáo, Hiệp Ngũ Chi để cho chúng sanh hiểu cơ mầu nhiệm mà luyện tinh thần.
Thầy đã đến rồi, thoảng muốn lập riêng ra một Tôn giáo khác lại chẳng đặng sao? lại Qui Tam Giáo và Hiệp Ngũ Chi mà làm gì ?
Nếu như kẻ ngoại giáo nói mình bắt chước đoạt cả Đạo của người ta mà làm của mình thì mới nói sao?

Ai ai cũng hiểu rằng:
- Nhơn Đạo dạy tu luyện phần xác.
- Tiên Đạo phần trí thức tinh thần.
- Phật Đạo phần Thiêng liêng Hư vô tịch diệt.

Qui Tam Giáo là gì ?
Em xin giải quyết vì cớ nào mà Qui Tam Giáo trước đã, lại luận đủ hình thể và tinh thần cho trọn vẹn.

* Về hình thể:
Ai sanh ra dưới thế nầy cũng phải giữ đủ Tôn chỉ của ba Đạo: Nhơn Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo mới làm đặng hoàn toàn phận sự con người.

Tỉ như Nhơn đạo thì dạy mình vẹn giữ Tam Cang Ngũ Thường, mới biết bổn phận mình đối với xã hội nhơn quần thế nào cho nhơn loại cộng hưởng hòa bình, chẳng nghịch lẫn nhau, không tiêu diệt lẫn nhau mà phải trái hẳn với đức háo sanh của Thượng Đế.

Muốn cho nhơn loại đặng lòng hữu ái mà kính mến lẫn nhau thì Tiên Đạo lại dạy ta phải lão luyện tinh thần cho đặng thông minh trí hóa, hầu kiếm phương giúp đỡ binh vực lẫn nhau. Nơi Địa cầu 68 nầy là nơi luyện cảnh (monde expiatoire), chúng ta chẳng những bị ma hồn quỉ xác cám dỗ mà thôi, mà chúng ta lại còn bị thiên tai mộc ách, chúng ta chẳng những phải đối địch cùng sự hung bạo của đời mà thôi, mà ta lại còn phải đối địch cùng các nghiệt bịnh của trời hành xác nữa.

Ôi ! Vì vậy mà nhiều bậc văn tài trí sĩ bên Âu Tây cắm cúi cả đời tìm kiếm một phương hay mà sửa đời đặng binh vực nhơn sanh khỏi điều tận diệt. Trí não phải tháo luyện đến đỗi nhiều vị đoạt đặng cơ bí mật của Trời mà làm ra một khoa học, có nhiều phương hay và quá trí khôn của người, nên ta coi các Đấng ấy như là Địa Tiên cũng phải.

Khi chúng ta đã đặng đủ khôn ngoan chiếm đoạt cơ bí mật của Trời mà lập ra các cơ khí, nếu không có Phật Giáo dạy ta giữ dạ Từ bi mà cứu độ nhơn sanh thì cái học thức khôn ngoan ấy nó trở lại hại nhơn sanh hơn nữa.

Cái lý hữu nhân hữu quả, Em xin để mấy anh mấy chị thẩm nghĩ. Em chỉ tưởng lòng Bác ái từ tâm thì buộc người phải có, bằng chẳng vậy thì dầu cho toàn xã hội đều Công chánh mà có một kẻ bất lương vụ ngã lộn vào thì cũng đủ làm cho xã hội trở nên rối loạn. Biểu sao chúng ta không thấy dưới mắt chúng ta đời chẳng khác nào một buổi chợ mơi: khôn ngoan thì đặng hơn, thiệt thà thì bị ép. Người biết Đạo người thì là trọng mình, mà trọng mình thì phải giữ tinh thần cho tinh tấn. Tinh thần tinh tấn mới đủ tư cách dạy đời làm lành lánh dữ. Ấy là Tam Giáo Qui Nhứt.

Nếu trong một xã hội mà mỗi người đặng vậy thì xã hội đặng hưởng phước hạnh thái bình, còn ước như các xã hội trên mặt Địa cầu nầy đều đặng vậy thì đời mới thế nào? Cái hạnh phước của toàn nhơn loại trên Địa cầu 68 nầy có ngày đặng vậy chăng ?

Coi lại Tôn chỉ của Đạo thì anh em ta có lòng dám tin chắc rằng sẽ đặng điều hạnh phước ấy không sai.

* Về thiêng liêng:
Trước không có chi trong Càn Khôn Thế giới là vô vi. Thoạt nhiên, hai lằn không khí chẳng biết gốc nơi đâu, kêu là Hư Vô Chi Khí đụng nhau mới có Chơn linh của Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.

Trái lửa Thái Cực là cơ của hữu hình, vâng lịnh Thầy mà phân ra Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, và biến Bát Quái, nhứt nhứt có trật tự : Ấy là cơ Nhơn Đạo.

Rồi sanh ra vàn vàn muôn muôn Địa cầu cùng khắp trong Càn Khôn thế giới và 72 trái Địa cầu có nhơn loại ở:
Ấy là phép biến hóa của Tiên Đạo.

Khi chia mình ra mà lập Càn Khôn thế giới rồi thì khối lửa Thái Cực của Thầy đã tiêu mất trở lại vô vi, tức là cơ mầu nhiệm của Phật Đạo đó vậy.

Bát Quái biến hóa vô cùng mà lập ra các Địa cầu trong Càn Khôn Thế giới và vạn vật mà chúng ta thấy đặng dưới mắt rõ ràng đây.

Ấy là một cuộc hữu hình, mà trọn cuộc hữu hình nầy dường như vâng mạng lịnh của một quyền hành Thầy rất lớn, không xâm phạm lẫn nhau mà phải hại. Cơ mầu nhiệm Nhơn Đạo rõ ràng đó vậy.

Mỗi trái Địa cầu có nhơn loại, tức là có chơn linh ở, hằng ngày tô điểm sửa sang làm cho nó đặng đẹp. Hễ Địa cầu đẹp thì tinh thần của các Chơn linh phải tấn hóa thêm cao đến ngày cực điểm văn minh. Ấy là cơ mầu nhiệm của Tiên Đạo.

Chừng Địa cầu đặng toàn hảo, các Chơn linh đặng cực điểm văn minh rồi, dầu hưởng đặng lâu hay mau thì rồi phải bị tiêu diệt. Ấy là cơ mầu nhiệm của Phật Đạo.

* Người lúc chưa vào thai bào thì là Hư vô, khí Âm Dương tương hiệp biến thai ra nhơn hình, tới lúc sanh ra cho đến khi trưởng thành là cơ mầu nhiệm của Nhơn Đạo.

Khi đã trưởng thành lại học tập tu luyện tinh thần cho trí hóa trở nên khôn ngoan, là cơ mầu nhiệm của Tiên Đạo.

Khi già rồi chết, thi hài bị tiêu diệt là cơ mầu nhiệm của Phật Đạo.
Luận qua hiệp Ngũ Chi (theo hình thể)

Ngũ Chi là: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo. Cả toàn địa cầu nầy, hễ làm người thì có Nhơn Đạo nơi mình rồi, mà mình nong-nã làm ra người hữu dụng cho đời, tức nhiên mình đã hơn người, ấy là Thần Đạo đó vậy.

Hễ hữu dụng cho đời, tức là mình hơn đời, gọi là quán thế, tức nhiên mình làm Thánh Đạo đó vậy.

Mình hơn đời là nhờ cái khiếu thông minh nó hứng sự thông suốt của đời dạy mình cho nhiều, rồi lại biến hóa ra thêm, trí hóa phù hạp với cơ huyền vi mầu nhiệm của Trời Đất. Nếu đoạt đặng cơ mầu nhiệm ấy mà làm của mình, rồi lại truyền bá cho cả nhơn loại học hiểu cái biết của mình mà thật hành ra sự hữu ích cho đời, tức là mình làm Tiên Đạo đó vậy.

Biết đời rồi biết mình, rồi biết đến tinh thần mình là Chủ tể của mình, mình biết đặng tinh thần mình rồi, hễ nhờ nó mà Nhơn phẩm mình đặng cao bao nhiêu thì lại càng yêu thương lại nó bấy nhiêu, nên buộc phải lo cho nó đặng thanh tịnh nghỉ ngơi đôi lúc mà đợi ngày thoát xác, tức là làm Phật Đạo đó vậy.

Với các Nguyên nhân thì Ngũ Chi tỉ như một cái thang năm nấc, bắc cho mình leo lên một địa vị ngang bực cùng Thầy, tức là Phật-Đạo đó vậy.

Chưa ai nhảy một nhảy mà lên cho tới một từng lầu năm thước bề cao, mà như ai đã để sẵn một cái thang năm nấc, mình có thể lần hồi mà leo lên đặng.

Thầy hiệp Ngũ Chi đặng làm một trường học năm lớp cho mình tu luyện, chẳng khác một trường học phàm kia vậy, lần lần bước đến đặng đoạt thủ địa vị của mình. Hễ ngồi  đặng  phẩm nào thì địa vị mình nơi ấy, chẳng  ai

còn tranh giành ngược ngạo không nhìn nhận cho đặng.

Mình là người tức là có sẵn Nhơn phẩm, mình mới luyện Nhơn hồn theo gương của chư Thần mà chúng ta thờ phụng đó, thì tức nhiên cũng đoạt đặng đức tánh của chư Thần mà làm Thần Vị của mình.

Đặng Thần Vị rồi, lại xem gương của các Thánh mà tu luyện Thần hồn mình cho đặng Thánh đức, tức nhiên cũng đoạt đặng Thánh Vị vậy.

Đặng Thánh Vị rồi, cũng luyện Thánh hồn mình theo tánh đức của chư Tiên mà đoạt cho đặng Tiên Vị.

Khi biết mình đã vững nơi Tiên Vị rồi thì mình cũng cứ đào luyện Tiên hồn theo gương chư Phật mà gấm ghé vào Phật Vị.

Thoảng như có kẻ hỏi: Thần, Thánh, Tiên, Phật xa cách với người như Trời với đất, khác nhau kẻ tục người thanh, thì thế nào người phàm mà mong mỏi leo lên phẩm vị ấy cho xứng đáng ?

Ta lại đáp như vầy: Dầu cho hạng Hóa nhân đi nữa thì là :
- Những Vật-chất-hồn có một điểm Thảo-mộc-hồn như bông đá (Éponge) đó vậy.
- Thảo-mộc có một điểm Thú-hồn như cây mắc cở (Sensitive).
- Thú-hồn có một điểm Nhơn-hồn như loài cầm điểu thì là: két, quạ, cưỡng, nhồng; như tẩu thú thì là: chó, ngựa, khỉ; như ngư thì là cá ông đó vậy.
- Nhơn-hồn có Thần-hồn, đã đành chẳng cần phải giải.
- Thần-hồn có Thánh-hồn, Thánh-hồn có Tiên-hồn, Tiên hồn có Phật-hồn.

Ấy vậy, nơi mình chúng ta đã có sẵn một điểm Thần,  Thánh, Tiên,  Phật-hồn. Nếu  ta biết  làm cho chơn hồn tăng tiến lên hoài cho tới phẩm vị Tiên Phật thì phải tập luyện tu hành và đắc kỳ truyền mới đặng.

Muốn tu ắt phải có Đạo, vì vậy nên Thầy mới lập Đạo. Đạo thì hữu hình, nếu có kẻ hỏi: Đạo vốn vô vi mà lấy hữu hình lập thành thì thế nào đắc đạo vô vi cho đặng ?

Ta lại đáp rằng: Không hữu hình, vô vi cũng khó có; mà chẳng có vô vi thì hữu hình vốn không bền vững, tỉ như hồn với xác ta đây vậy. Không hồn thì xác phải tiêu diệt, mà có xác không hồn cũng không cơ khí mà lập thành nên đạo người vẹn vẻ. Hai đàng phải tương hiệp nhau mới đặng hoàn toàn.

Ấy vậy, có vô vi ắt có hữu hình. Chánh pháp và Hội Thánh là hữu hình, mà hữu hình ấy nó phù hạp với luật lệ Thiên-điều và đối chiếu với Cửu-Thiên Khai-Hóa. Luật Đạo ấy là Thiên điều, còn Hội Thánh là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế đó vậy.”

VẤN 18: Hiện nay có rất nhiều Tôn giáo trên Thế giới,
rất khó cho con người lựa chọn Tôn giáo

ĐÁP: “Đúng như thế ! Hiện giờ trên thế giới đã có nhiều Tôn giáo được khai sáng. Đó là Đức Chí-Tôn cho nhiều Chơn linh xuống thế để dìu độ chúng sanh. Hẳn nhơn sanh cũng thấy rằng có nhiều Tôn giáo quá, người rất khó chọn lựa Tôn giáo. Hãy nhìn Tôn chỉ của Tôn giáo nào thực thì Sự Thương yêu và Công bình là nẻo chánh mà nhân loại cần tiến bước theo tức là đạt Đạo đó vậy”.

Nói tắt một lời là buổi này chỉ còn một Đạo duy nhất là Đạo Thầy đến lập với Tôn chỉ Qui Nguyên Hiệp Nhứt mà thôi. Dầu đi muôn đường ngàn nẻo rồi cuối cùng đã thấy Đức Chí-Tôn đứng đợi. Hãy nghe:

ĐỨC HỘ PHÁP XUẤT VÍA VỀ BẠCH NGỌC KINH
(Năm Đạo thứ hai –Mậu Thìn niên 1927)

Lúc mở Đạo tại Nam Vang (Tần quốc) Ngài xuất Chơn linh về Thiên Đình, qua Bạch Ngọc Kinh về Cực Lạc, nhập Niết Bàn thấy Cửu Phẩm Liên Hoa, nên thuật y câu chuyện lại cho ông Thái Thơ Thanh nghe như vầy:

Đương lúc nằm mơ màng Chơn linh liền xuất ra thấy ngồi trên cái xe ngựa, day qua thấy cảnh Thất Thập Nhị Địa qua đến Tứ Đại Bộ châu, Đức Chí-Tôn đứng trên Toà Kim-Khuyết, Đức Lý Giáo-Tông cùng đứng lên bàn, kế Chức sắc Thiên phong, mấy vị đạo tâm đứng chầu Ngài. Chừng sắp trận lại Đại Chiến với Quỉ Vương trên Thiên đình.

Hội-Thánh Tam-Kỳ Phổ-Độ thắng trận, chúng Quỉ đều chạy tan vỡ rồi kéo nhau qua Cực Lạc Thế giới, chừng đến cửa Niết Bàn thì thấy ông Thái Thơ Thanh cầm bửu kiếm ngồi trên Kim Mao Hẫu trấn thủ Cực Lạc Thế Giới. Lúc ấy Đức Hộ-Pháp hỏi Anh Thái Thơ Thanh rằng:
- Anh về trên này hồi nào vậy ?

Ông Thái Thơ Thanh trả lời:
- Tôi phải về trước đặng rước chư Hiền Hữu.

Đức Hộ Pháp ngó ra ngoài thấy các vị Đại Đức thi hành lao nhao lố nhố đàn ba lũ bảy, đến yêu cầu Anh Thái Thơ Thanh đặng cho nhập Niết Bàn. Ông Thơ không cho vị nào vào cửa, làm Đức Hộ-Pháp động lòng mà hỏi rằng:

- Anh tu hành gì mà bất nhơn vậy ?
Ông Thơ trả lời:
- Ngài không thấy hồi đó chúng ta độ họ không đặng sao ?

Nếu người nào không Nhập môn làm Môn đệ Đức Chí-Tôn thì không thể gì vào được, VÌ CÁC ĐẠO GIÁO BỊ BẾ, chỉ còn ĐẠI-ĐẠO Chánh truyền dưới quyền của Di-Lạc-Vương tận độ.

Mà điều trọng hơn hết là không có lịnh của Ngọc Hư tôi đâu dám cho họ vào; nếu tôi cho họ vào là được, thoảng như họ vào trong bị cây Giáng Ma Xử của Anh thì Anh nghĩ sao? Không cho vào là cứu linh hồn họ vì có công Tu, nếu cượng lại cho vào thì Chơn linh ấy bị lửa Thái Cực trong chữ VẠN họ sẽ ra tro mạt, mình lại có tội nữa mà chớ ! Tốt hơn hết để họ về ở lại Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mà chờ thời gian đến kiếp thai bào họ sẽ TU rồi về sau chẳng muộn, nếu hữu duyên mới gặp Tam-kỳ Phổ-Độ

Đức Hộ-Pháp ngó vào Cực Lạc Thế Giới thấy chữ VẠN quay cuồng như chong chóng, Pháp Luân Thường Chuyển, hào quang chiếu rọi sáng ngời. Không có lịnh cho vào mà Chơn linh vào gần đó thì bị tiêu ra tro mạt, nên thảm thương thay cho các vị Đại Đức dày công tu luyện mong về cõi Tây phương mà chẳng đặng vào Cực Lạc Thế Giới, nên cả bao nhiêu tiếng rên xiết rền rĩ xúm nhau đàn ba lũ bảy: kẻ thì tụng kinh, người thì đánh chuông cầu nguyện, người thì gỏ mỏ vang dậy; phần con Kim Mao Hẩu há miệng nhe răng, le lưỡi ra dài dữ tợn, không có vị nào dám đến gần chữ VẠN.

Ấy là đúng theo Thánh Giáo của Đức Chí-Tôn đã tiên tri hồi mới khai Đạo năm Bính Dần: “Đạo bị bế lại gần hai ngàn mấy trăm năm, thảm thương cho các con mà thành chẳng đặng” !

Nếu không đi vào con đường TAM KỲ PHỔ ĐỘ thì không thế gì đi con đường nào vào Cực Lạc Thế Giới là vậy đó.

Chừng tới giờ Hội-Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ kéo cờ về tới Cực Lạc, thì Ông Thái Thơ Thanh (tức Từ Hàng Đạo Nhơn ở trên Thiên Cung) ngồi trên lưng Kim Mao Hẩu, tay cầm bửu kiếm chỉ ngay chữ VẠN thì cửa Cực Lạc hoá ra to lớn, rộng rãi. Chữ VẠN ngừng, hào quang bớt chớp thì Đức Hộ Pháp cỡi Pháp xa đi đầu vào trước,  kế mấy vị Đạo Tam Kỳ và Đức Lý Giáo Tông tiến vào sau, mỗi vị đều có dấu hiệu cờ, cùng sắc phục khác nhau.

Lần lượt liên tiếp có mấy chục Chơn linh. Đức Lý Giáo Tông dẫn vào 9 ức Nguyên nhân, chừng vào trong kiểm soát lại. Hộ Pháp nghe trong Niết Bàn hô lớn lên rằng: còn thiếu một ức nữa, nên vội vàng muốn trở lại trần gian đặng tiếp độ cho đủ  thì có lịnh Chí-Tôn phán rằng: không hề chi đâu con ! Cửu Nhị Ức nguyên nhân mới độ về có 9 ức thì lần lượt sau cũng độ hết đặng, chừng ấy Hộ Pháp mới an lòng.

Nhưng còn nghe văng vẳng bên tai rằng: phương pháp độ rỗi chỉ có khuyên răn các Chơn linh, dầu Nguyên nhơn hay là Hoá nhơn đoạt được chữ HOÀ với chữ NHẪN mới về nơi cửa này được, dầu cho vạn kiếp sanh dày công tu luyện mà còn ganh ghét thì sẽ bị vào tay Chúa Quỉ không trông gì về cùng Thầy được.

Đến đây Đức Hộ Pháp nhận xét tỉnh mỉnh liền biên kỹ cho cả Chức sắc Kim Biên coi và đem về Toà Thánh Việt Nam cho ông Thái Thơ Thanh rõ đầu đuôi tự sự. Đây là đặc biệt Đức Ngài xuất Vía, không phải chiêm bao như thường ai kia vậy. Đức Ngài dạy chép ra nhiều bổn lưu truyền đến đời sau trao thân học Đạo.

Sao y nguyên văn, trước năm Đạo thứ hai.
Mậu Thìn niên (1927)

CHƯƠNG II

CÓ MẤY ĐƯỜNG TU ?

CÂU 2 - TIỂU SỬ ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

Đức Hộ-Pháp cũng cho biết rằng:    
 “Thầy đến lập cho nước Việt-Nam này một nền Quốc-Đạo, Đức Chí-Tôn mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ chớ không phải mở Đạo Cao-Đài. Đại-Đạo nay là Quốc Đạo. Nền Quốc-Đạo, Ngài qui-tụ tinh-thần đạo-đức, trí thức toàn nhân-loại cho đặc biệt: có cao, có thấp, có hàng ngũ, có phẩm-vị; còn về phần xác thịt của loài người, mạng sống trước mặt Ngài, không ai hơn ai, cả thảy sống đồng sống, chết đồng chết đặng đem Quốc-Đạo làm môi giới cả Đại-Đồng đặng tạo tương-lai loài người cho có địa vị oai-quyền cao-thượng. Nếu hiểu đặng thì Thánh Thể cũng vậy.

Trọng-yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông-đồ có sứ mạng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã giáng-sanh trước đặng làm môi-giới độ Đạo sau này. Đức Chí-Tôn dạy phò loan đặng Ngài dùng quyền-năng Thiêng-liêng kêu gọi mấy vị Tông-đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu có đủ THẬP NHỊ THỜI-QUÂN hiển-hiện ra, trong số các vị Thời-quân ấy có Cao Tiếp-Đạo ở tại Kim-biên (Kampuchia) chớ không phải ở  Sài-gòn. Đi thâu Thập Nhị Thời-Quân xong rồi Đức Chí-Tôn mới mở Đạo.”

Đức Hộ-Pháp nói:         
 “Con cái Đức Chí-Tôn Nam Nữ nhỏ lớn chán hiểu rằng ĐẠO CAO-ĐÀI không những một Tôn-giáo mà thôi, mà là Tôn-giáo trên các nền Tôn-giáo, không phải Đạo mà thôi, mà là Đạo Cao-Đài. Tiếng ĐẠI-ĐẠO không phải chúng ta muốn mà đặng, chính Đức Chí-Tôn muốn mới đặng.
 “Từ trước  đến giờ toàn nhơn-sanh không biết Đại Đạo là gì? - Ngài để trong tay chúng-sanh đặng chăng mấy ngàn năm rồi, ngày nay Ngài đến, con cái Đức Chí Tôn đều biết rằng, nền Đại-Đạo này chính tay Đức Chí Tôn sáng lập, chính Hộ-Pháp giáng-trần cầm quyền Bí pháp.

 “Bần-Đạo nhớ một nền Tôn-giáo như Đạo Thiên Chúa, khi Đức Jésus-Christ ban quyền cho ông Thánh Pierre, nói trước một câu: đã lập quyền cho Thiên-Chúa Giáo khoảng hai ngàn năm, không có quyền nào đánh đổ cho nao-núng.
 “Đức Chúa Jésus hỏi các Môn-đệ:  vậy chớ  Saint Jean Baptiste là ai ?
Các Môn-đệ trả lời là ông Thánh tiên-tri.
Đức Chúa hỏi: TA    ai ?
- Các Môn-đệ đều nói: Chúa là ông Thánh tiên-tri như Ông Saint Jean Baptiste, Chỉ có Ông Thánh Pierre  nói: Thiên hạ nói chi thì nói, Ta đây quả-quyết Chuá là Đấng Chúa Cứu Thế, là Chí-Tôn giáng sanh vậy.  

           Đức Chúa Jésus dạy các Môn-đệ Ngài trước mặt Ông Pierre: phần  điều ấy không phải xác thịt này nói, của chính nguơn-linh này nói. Tên Pierre nghĩa là Đá, trên cục đá này TA tạo Đền thờ của TA, cửa địa-ngục kia không qua đặng, ấy vậy Đức Chúa Jésus  đã đưa cho Ông Thánh Pierre mà đến giờ phút này chưa có quyền nào làm cho nao-núng, vẫn còn tồn-tại mãi.
 “Đạo Cao-Đài ngày nay do Đức Chí-Tôn đến.
“Ngài nói Ta đến ở  cùng các ngươi, Ta  sống  cùng các ngươi, Ta  đem  chơn-pháp  đến  cho  các  ngươi  đặng giải-thoát, Ta sẽ tận độ chúng-sanh,  cứu-vớt  chúng-sanh một lần nữa, Ta quyết-định ở với con cái Ta đời đời chẳng cùng, đến thất ức niên.

 “Ngài ở với con cái của Ngài nên Ngài mới đến mà thôi, các lương-sanh tức là các chơn-hồn hữu-căn hữu kiếp đã có tiền căn ở nơi Ngài mà ra, nơi thân hình thiêng liêng vô tận của Ngài mà đến, gồm lại làm Thánh-Thể của  Ngài tức là Hội-Thánh ngày nay vậy.

 “Ngài hứa ở với con cái Ngài đời đời kiếp kiếp. Thử hỏi câu âý của Đức Chí-Tôn đối với nền Tôn-giáo  này có thể sánh quyền-hành Đức Chúa Jésus-Christ  ban cho Ông Thánh buổi nọ  với  Ngài đến ban cho Ta, Ta cần coi trọng khinh thể nào thì biết nền Đạo Cao-Đài thực hiện  Trời Người hiệp một đồng-trị  mới có cơ-quan giải thoát chúng-sanh đặng.
 “ĐẠO CAO-ĐÀI  là trên hết các Tôn-giáo như trên đã nói thì phải thế nào ?
- Phải chi Thánh-thể Chí-Tôn phải thực-hiện là Ông Trời tại thế-gian này.
 “Làm Ông Trời không phải dễ làm, có làm Ông Trời đặng mới có phương dìu-dắt toàn cả con cái Đức Chí-Tôn đến Đại-Đồng thế-giới đặng; thiên-hạ mơ-ước, thiên hạ đã ngưỡng-vọng,  thiên hạ đã tin cậy, giờ phút này đã thấy Vạn-quốc nhứt là ở Âu-Châu, muốn đi tìm tới con đường giải-thoát, con đường ấy tranh-đấu tàn hại.
 “Giặc-giã chiến-tranh nguyên-do thế nào ?
- Nguyên-do tại tinh-thần nhơn-sanh ngày nay bất nhứt, thất lạc, tức nhiên tinh-thần  hết  vi-chủ rồi. Giờ này nhơn-loại khắp hoàn-cầu tự nạp mình vào vòng nô-lệ cho xác thân mà nó tham muốn tàn-ác với xác thịt ta không thể làm thỏa-mãn đặng. Họ sợ lắm, họ sợ cái xác thịt họ biết tinh-thần, biết quyền-hành của Đạo vi-chủ họ, biết giờ này xác vi-chủ sẽ dắt họ xô đẩy đến cảnh tự diệt, trước mắt họ sợ lắm.

 “Mà hại hay! Họ sợ giặc rồi bí-quyết của họ là tăng cường tức là làm cho tột bực cường-liệt, họ dùng binh-khí vô cùng tàn-ác tưởng bảo-vệ Hoà-bình, ai ngờ trái ngược lại, ta không thế gì lấy khôn-ngoan tưởng tượng được. Sợ giặc lại muốn giặc, sợ chết họ lại tầm phương chết, lấy phương-pháp chết mà tìm sống,  tìm sao đặng ?

Tại sao giờ phút này Đại-chiến thứ ba sắp xảy tới ?
- Là do mất tín-nhiệm với nhau, mà có giặc thất tín, nhơn-loại đã thất-tín với nhau nhiều rồi, vô-đạo-đức nhiều rồi, nên có phương-pháp chân đạo, có tâm-tình chơn-chất chính nơi cửa Đạo, có phương-pháp giải thoát dễ dàng.
 “Hại thay ! Họ lẩn-quẩn không ngó ra, bởi vạn quốc không ai tin ai cả, ta thấy nơi gia-đình từ lời nói con cái tới lời nói của cha mẹ làm họ không tín-nhiệm nhau, huống chi là toàn-cầu. Một gia-đình mà không chuẩn thằng, không có Đạo-giáo kềm giữ, gia-pháp  cho công chánh, yêu ái.
 “Gia-đình còn loạn-lạc thay! Huống chi là toàn cầu trong giờ này xã-hội tạo nhiều lẽ bất-công đối với nhân-loại vì muôn ngàn thế-kỷ tạo sự bất-công càng chồng-chất; nhơn-tâm bất-nhất, lẽ bất công càng ngày càng thêm, không thấy giảm. Biểu sao không phát ra phản-động-lực để phản-đối sự bất-lực của xã-hội, nên mới có tấn-tuồng thống-khổ tương-tàn tương-sát. Chủng-tộc khác với nhau tương-tàn đã đành, đến cùng chung chủng tộc còn sát hại nhau, vì cớ có cơ-quan tự diệt.
 “Ngày giờ nào Đạo Cao-Đài đủ quyền-năng tinh thần đem Công-chánh và Yêu-ái làm thuốc trị bịnh ấy tưởng đã  bất  trị,  ngày  ấy  mới Hoà-bình thiên-hạ và Đại

Đồng thế giới.
Ta tự hỏi: Đạo Cao-Đài làm đặng chớ ?
Hiện giờ các nước nào cũng tìm giữ linh-hồn, các bậc tài-tình thượng-lưu trí-thức thông-minh. Thấy nguy hiểm tưởng-tượng lại tìm phương giải ách. Họ đang tìm như thầy bói mò. Cách tìm phương giải-thoát chúng-sanh giờ phút này Bần-Đạo lấy làm hân-hạnh thấy Đạo Cao Đài đưa ra cho họ thấy; tuy vẫn ước-mơ, mắt họ dòm thấy đó…”

Ngày giờ này, Đức Chí-Tôn đến, Ngài chỉ Bí-pháp có một điều là:
 “Các con không cần tìm kiếm triết-lý cao-siêu hơn nữa, các con tìm kiếm cái sống của toàn thể Bạn đồng sanh của các con, rồi kính-trọng phụng-sự cái sống ấy. Hễ các con tận tâm phụng-sự cái sống của Vạn-linh, thì Cơ quan Giải-thoát của  các con Thầy đã để nơi tay của các con đó vậy”.

1 - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là gì ?

E: Third Amnesty of God in the East. Third Revelation of   the Great Way.
The Great Way of Third Universal Salvation.

F: Troisième Amnistie de Dieu en Orient.
Troisièm Révélation de la Grande Voie.
La Grande Voie de Troisième Salvation Universelle.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một nền Đạo lớn mở ra vào thời kỳ thứ ba để cứu giúp toàn cả chúng sanh nơi cõi trần  thoát  khỏi  khổ cảnh  luân  hồi    trở về cõi Thiêng

Liêng Hằng Sống.
Khi  mở  Đại Đạo  Tam Kỳ  Phổ Độ  Đức Chí Tôn xưng danh hiệu là: CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT, nên  Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ  được gọi vắn tắt là Đạo Cao Đài.

Gọi là Đại Đạo bởi vì Đạo Cao Đài là một nền Đạo lớn do Thượng Đế lập nên, tôn chỉ là Qui Tam giáo: Nho, Thích, Lão và hiệp Ngũ Chi là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo.

Gọi là Tam Kỳ Phổ Độ là vì trước đây đã có hai kỳ phổ độ: Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ.
■ Nhứt Kỳ Phổ Độ  vào thời Thượng cổ có các Tôn giáo:
- Đức Nhiên Đăng Cổ Phật mở Phật giáo, Đức Brahma Phật mở Đạo Bà La Môn.
- Đức Thái Thượng Đạo Tổ mở Tiên giáo.
- Vua Phục Hy mở Nho giáo, Đức Moïse mở Thánh giáo ở nước Do Thái gọi là Do Thái giáo...

■ Nhị Kỳ Phổ Độ mở vào thời Trung cổ với các Tôn giáo:
- Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ.
- Đức Lão Tử mở Tiên giáo ở Trung Hoa
- Đức Khổng Tử mở Nho giáo ở Trung Hoa.

Đức Chúa Jésus mở Thánh giáo ở nước Do Thái, Đức Mahomet  mở Hồi giáo ở nước Á Rập.
- Đức Khương Thượng cầm Bảng Phong Thần mở ra Thần đạo Trung hoa...
■ Nay là đến thời TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ ứng với vận hội cuối Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế không mở ra nhiều Đạo như hai thời kỳ phổ độ trước nữa; vì ngày nay Càn Khôn dĩ tận thức, Năm châu chung chợ, Bốn biển chung nhà, nên Đức Chí Tôn chỉ mở ra một nền Đại Đạo tại nước Việt Nam bao gồm hết thảy Tam giáo và Ngũ chi, thống nhứt thành một mối, để nhơn loại không còn bị chia rẽ nhau vì khác Tôn giáo, hầu tiến đến một xã hội Đại Đồng. Thầy cũng đã dạy:
 “Trước, Thầy lại giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà làm ra Phàm giáo.

Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhơn loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.
Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng đảo.” (Ngày 13-3-Bính Dần – Dl:  24-4-1926)

Đức Chí Tôn cho biết đây là kỳ Phổ Độ chót, trước khi có Đại Hội Long Hoa là có cuộc Phán Xét Cuối Cùng, để tận độ toàn cả chúng sanh, cứu giúp không để sót một ai.

Đức Chí Tôn khẳng định: “Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không TU  thì không còn trông mong siêu rỗi.”

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chánh thức mở ra vào ngày Rằm Hạ nguơn năm Bính Dần (dl 19-11-1926) và Đức Chí Tôn chọn dân tộc Việt-Nam, đất nước Việt-Nam để Khai Đạo, dùng Tây-Ninh làm Thánh Địa xây dựng các cơ quan trung ương để từ nơi đây truyền bá khắp hoàn cầu.

2 - Tại sao có Tam giáo rồi mà Đức Chí Tôn còn mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ?
Đức Hộ Pháp thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 22-6-Mậu Dần (1938) như sau:

“Do Tam giáo thất chơn truyền: Nho- Thích- Đạo hiện nay đã trở nên phàm giáo. Chư Đệ tử trong ba nhà Đạo không giữ y luật pháp qui điều, lại canh cải chơn truyền, bày ra các điều giả cuộc làm cho Tam Giáo biến thành dị đoan.
- Đệ  tử  nhà  Đạo  chẳng tùng  giáo pháp  của Đức Thái Thượng Lão Quân, tuy ở trong nhà Đạo mà dị đoan mê tín.
- Đệ tử nhà Thích không thuận theo lời giảng dạy của Đức Phật Thích Ca thì đệ tử nhà Thích dị đoan mê tín.
- Đệ tử nhà Nho chẳng thật hành điều mục của Đức Văn Tuyên Khổng Thánh thì đệ tử nhà Nho dị đoan bất chánh.

Tóm lại, hai chữ dị đoan nghĩa là đồ theo không trúng kiểu cái qui giới thể lệ chơn truyền của Tam giáo:

* Tiên Giáo: Đức Thái Thượng dạy Tam bửu Ngũ Hành,  tu tâm luyện tánh,  thủ cảm ứng công bình.
*Phật Giáo: Đức Thích Ca dạy Tam qui Ngũ giới, minh tâm kiến tánh,  thật hành Bác ái Từ bi.
*Nho Giáo: Đức Khổng Tử dạy Tam cang Ngũ thường,  tồn tâm dưỡng tánh,  giữ theo hai chữ Trung Hiếu mà làm tiêu chuẩn cho mọi hành vi.

Cả luật pháp khuôn viên điều mục của ba nhà Tôn giáo từ buổi sơ khai có đủ phương diện quyền năng dìu đời thống khổ, nhơn sanh trong thời kỳ Thượng cổ còn Thánh đức, biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng, qui củ của ba nhà Nho -Thích -Đạo: làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, nên mới chung hưởng đời thái bình, an cư lạc nghiệp.

Nay đến đời Hạ nguơn cuối cùng, thế Đạo suy vi, nhơn tâm bất cổ, đạo đức đổi dời, lòng người chẳng giống như xưa, luật Tam Cang chẳng giữ, phép Ngũ Thường không noi, Tam giáo thất chơn truyền, nhơn tâm biến đổi, bỏ phép công bình, tranh danh trục lợi, cướp giựt hiếp đáp, giết hại lẫn nhau, thành ra một trường náo nhiệt, nên gọi là đời mạt kiếp.

Các vì Giáo Chủ ngày xưa tiên tri rằng: Buổi sau nầy, Tam giáo phải qui phàm, nên có để lời trong Sấm truyền:
- Như trong Phật Tông Nguyên Lý, Đức Thích Ca có nói: “Lục vạn dư niên Thiên khai Huỳnh Đạo”.
- Còn Nho giáo, Đức Khổng Tử nói: “Mạt hậu Tam Kỳ Thiên khai Huỳnh Đạo”.
- Đức Chúa Jésus khi bị đóng đinh trên cây Thánh giá có nói tiên tri với các Môn đồ rằng: Trong 2000 năm Tận thế, Ta sẽ đến Phán Xét cho nhơn loại một lần nữa  và Ngài nói: Còn nhiều chuồng chiên, sau Đức Chúa Cha sẽ qui về một mối.

Nay Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là đúng theo lời Sấm truyền của các vị Giáo chủ ngày xưa. Chỉ có phương diện là do nơi Tam giáo thất chơn truyền, chính mình Đức Chí Tôn giáng cơ lập Đạo đặng Qui Nguyên Phục Nhứt, gọi là chấn hưng Tam Giáo lại cho hoàn toàn, lập Luật Pháp khuôn viên cho phù hạp theo dân trí buổi nầy, mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh. Hiệp cả tinh thần của các dân tộc biết nhìn nhau một CHA Chung, mà thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ nghĩa thương yêu, chung thờ một nền Tôn Giáo Đại Đồng, thì nhơn loại mới đặng gội nhuần ân huệ và đời tranh đấu tự diệt sẽ trở nên đời mỹ tục thuần phong, thì vạn loại mới chung hưởng hòa bình, phục lại đời thượng cổ, là do nơi Thiên Thơ tiền định, buổi Hạ nguơn chuyển thế hoán cựu nghinh tân.
Tóm lại, Đức Chí Tôn khai Đạo kỳ ba nầy là thuận theo lẽ tuần hoàn, châu nhi phục thủy.”

3 - Từ ngữ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ do Đấng nào giáng cơ vào ngày nào ? Nơi Đàn cơ nào?
Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I trang 14, chúng ta nhận thấy Đức Phật Thích Ca giáng dạy về “Đại Đạo  Tam Kỳ  Phổ Độ” lần  đầu  tiên vào  ngày 26-2-Bính Dần- Dl 8-4-1926 tại Đàn cơ nơi  Vĩnh  Nguyên  Tự (Cần Giuộc). Bài Thánh ngôn như vầy:

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật giáng cơ:
THÍCH CA MÂU NI PHẬT
- Chuyển Phật Đạo,
- Chuyển Phật Pháp,
- Chuyển Phật Tăng,
Qui nguyên Đại Đạo.
Tri hồ chư chúng sanh?

Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ.
Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đại hỷ phát đại tiếu.

Ngã vô lự tam đồ chi khổ.
Khả tùng giáo Ngọc Đế viết Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.”

CAO ÐÀI
Lịch! Con nghe Phật Như Lai nói chưa?
Tam Kỳ Phổ Ðộ là gì?  - Là Phổ Ðộ lần thứ ba.
Sao gọi là Phổ Ðộ?  Phổ Ðộ nghĩa là gì?
- Phổ là bày ra. Ðộ là gì?  - Là cứu chúng sanh.

Muốn trọn hai chữ Phổ Ðộ, phải làm thế nào?
Chúng sanh là gì?
- Chúng sanh là toàn cả nhơn loại chớ không phải lựa chọn một phần người, như ý phàm tục các con tính rối. Muốn trọn hai chữ Phổ Ðộ, phải làm thế nào? Thầy hỏi?
- Phải bày Bửu pháp chớ không đặng giấu nữa.!

Vậy, kể từ giờ phút này Thầy chính thức “Qui nguyên Đại Đạo” tức nhiên đem các Tôn giáo về một gốc  là nền Đại Đạo.

Tri hồ chư chúng sanh? Hỏi vậy chư chúng sanh có biết không? Khánh hỷ Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ là một sự vui mừng hiệp được vào Tam Kỳ Phổ Độ. Đại hỷ phát đại tiếu là một sự vui quá lớn, phát lên tiếng cười to.
Ngã vô lự tam đồ chi khổ    Ta  không còn lo (cho chúng   sanh) về sự khổ của ba đường luân hồi đày đọa. kiếp người Khả tùng giáo Ngọc Đế tức nhiên phải khá nghe theo lời dạy của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Đồng thời Ngaì cũng cho biết rõ tại:
Vĩnh Nguyên Tự, 7-4-1926 (âl 25-2-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
giáo đạo Nam phương
- Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã,
- Thích Ca Mâu Ni thị Ngã,
- Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
Kim viết Cao Ðài.

Vào thời tiền khai Đại Đạo Đức Chí-Tôn thường giáng Đàn nơi các Chùa chiền với lý do:
- Thứ nhứt là buổi đầu chưa có cơ sở: Thánh Thất.
- Thứ hai với mục đích là để độ các vị Hoà Thượng, Đại Đức, chân tu lần ra đến nhơn sanh cho có đủ đức tin.

Vĩnh-Nguyên-Tự đây là điển hình của một ngôi chùa ở xã Tân An, quận Cần Giuộc, do Thái Lão Sư Lê Văn Tiểng, pháp danh Lê Ðạo Long tu theo Minh Ðường (một trong Ngũ Chi Minh Ðạo) lập nên. Trước khi Ngài Lê Ðạo Long đăng Tiên, Ngài có lời tiên tri:

“Nơi đây là Thập Nhị Khai Thiên, cơ quan của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ hoằng khai chánh giáo chơn truyền”

Ngài dạy các Môn sinh của Ngài phải tùng Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Ông Lê Văn Lịch    con  ruột của Ngài, được Ðức Chí Tôn phong là Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
Thái  Lão Sư  Trần Văn Thụ,  pháp danh  Trần Ðạo Minh, là môn đệ lớn nhất của Ngài, nhập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Chí Tôn ân phong là Ngọc Chưởng Pháp.

Từ đó, Vĩnh Nguyên Tự trở thành một trong những Thánh Thất đầu tiên của Ðạo Cao Ðài. Lời Thánh giáo này.

4 - Thầy dạy rõ về danh xưng của Đấng Giáo Chủ Kỳ ba
Dầu rằng trước kia thì:
- Đức  Nhiên  Ðăng Cổ  Phật  là Giáo chủ Phật giáo thời Nhứt Kỳ Phổ Ðộ.
- Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là Giáo chủ Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
- Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ và Ðức Nguơn Thỉ Thiên Tôn là Giáo chủ Tiên giáo vào hai thời: Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Ðộ.

Trong tập PHỔ CÁO CHÚNG SANH, đề ngày 13-10-1926, nơi trang 4, bài Thánh Ngôn trên có thêm một câu là: “Gia Tô Giáo Chủ thị Ngã” tức nhiên là:
- Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã.
- Thích Ca Mâu Ni Phật thị Ngã.
- Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã.
- Gia Tô Giáo Chủ thị Ngã.
Kim viết Cao Ðài Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

Bấy nhiêu đó cũng đủ cho nhân loại thấy rằng, trải qua hai thời kỳ Phổ Độ, Đức Chí-Tôn đã cho các con cái của Ngài đến mở Đạo khắp cùng Thế giới, dạy cho nhân loại ý thức hai chữ “TU HÀNH” quan trọng như thế nào.

Đúng ngày giờ này chính Đức Thượng Đế đến với nhân loại, khởi điểm là đất nước Việt Nam.

5 - Ngài đến Việt Nam hẳn có duyên cớ ?
1/ - Về phần Thiên thời:
  Thánh ngôn Thầy dạy:
- “Thời kỳ mạt pháp nầy, khiến mới có Tam Kỳ Phổ Ðộ các sự hữu hình phải hủy phá tiêu diệt. Thầy đến chuyển Ðạo, lập lại vô vi, các con coi thử bên nào chánh lý: Hữu hình thì bị diệt đặng, chớ vô vi, chẳng thế nào diệt đặng”

- Thầy vì đức háo sanh nên chẳng kể bực Chí Tôn cầm quyền thế giái, đến lập Ðại Ðạo Tam Kỳ trong lúc Hạ nguơn nầy mà vớt sanh linh khỏi vòng khổ hải. Ai biết Ðạo tức là có duyên phần, ai vô Ðạo tức là số chịu hình khổ luân hồi; phải mau chơn, bằng luyến ái sự thế, thì sau ăn năn rất muộn. Than ôi! Thầy đã là Ðấng lập khổ hình, chiếu theo phép công bình của Tạo hóa, nhưng thấy nhơn sanh càng ngày càng bước vào con đường hắc ám, để đem số phận buộc vào đó thì Thầy cũng bắt đau lòng, nhưng chẳng lẽ bỏ phép công vì sanh chúng. Ấy vậy Ðại Ðạo Tam Kỳ chẳng khác chi một trường thi công quả; nếu biết ăn năn trở bước lại nơi đường sáng sủa, giồi tâm, trau đức, đặng đến hội diện cùng Thầy, thì mới đạt đặng địa vị thanh cao trong buổi chung qui cho. Chúng sanh khá nghe và xét mình cho lắm. ( 7-10 Bính Dần -11 Novembre 1926).

- Ðại Ðạo Tam Kỳ hoằng khai tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên Thơ hội Tam Giáo mà vớt chúng sanh thoát vòng ly khổ, thiệt thiệt hư hư, một mảy chi cũng chẳng qua là máy Thiên Cơ mà thôi.

- Ðạo Trời mở ra cho một nước, tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn, phải giồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương, soi mình hằng bữa. Phải thương yêu nhau giúp đỡ nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu, sự giúp lẫn ấy sẽ dìu chung các con vào tận chốn Cực Lạc thiêng liêng, để tránh khỏi nơi khổ cùng tiều tụy, khá biết lấy.   (Ngày 4-11-Bính Dần (8-12-1926).

- Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ chiếu theo luật Thiên Ðình Hội Tam Giáo, mở rộng mối Ðạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn sanh bước lên con đường Cực Lạc, tránh khỏi đọa luân hồi và dụng Thánh tâm mà dẫn dân sanh, làm cho hoàn toàn trách nhậm nặng nề của đứng làm người, về bực nhơn phẩm ở cõi trần ai khốn đốn nầy.

2/ - VẤN ĐỀ  ĐỊA LỢI:
- Việt Nam là Thánh Địa của Thế giới, mà Tây Ninh là Thánh Địa của Việt Nam. Do đó Đền Thánh là nơi Thầy ngự. Thầy có dạy “Chi chi cũng tại Tây Ninh mà thôi”. Tòa-Thánh được khởi công xây dựng từ năm Tân Mùi (1931) hoàn thành vào năm Đinh-Hợi (1947) và được Khánh-Thành vào dịp Đại-Lễ Đức Chí-Tôn ngày mùng 9 tháng giêng năm Ất-Mùi (dl 1-2-1955)
- “Thầy cũng nói: “Tòa-Thánh là quê Cha đất Tổ, nhao rún cội nguồn. Nghĩa là dầu cho bực chí Thánh đi nữa cũng thọ sanh nơi Thầy. Muốn đến đường Thánh-Đạo phải theo sau Thầy. Cái xác trần tiêu-diệt, hôi thúi, chớ tánh Thánh chẳng hề tiêu diệt, hôi thúi.”

- Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh địa?
 Sâu hơn 300 thước, như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn, làm như 6 con rồng đoanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi, gọi là LỤC LONG PHÒ ẤN.  Ngay miếng  đất  đó  đặng 3 đầu:  Một  đầu  ra

giếng mạch Ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia. Người Lang sa chỉ đòi 20 ngàn, nói rồi trả đúng có 15 ngàn, Lão dặn thì thành trả 17 ngàn, 18 ngàn thì đặng vậy. Còn xin khai khẩn miếng đất rừng bên kia nữa mới trọn. Đất nay còn rẻ, miếng đất chung quanh Thánh địa ngày sau hóa vàng. Chư Hiền hữu biết lo lập, ngày sau rất quí báu.”  THĂNG. (Đạo-Sử. II/. 225).

3/ - VẤN ĐỀ NHƠN HOÀ:
Đức Thượng Phẩm nói: Bần đạo cũng vui lòng và  có đôi lời chỉ dạy:
- “Mặt đời sắp nghiêng ngửa thì cơ Đạo gặp hồi bành trướng, lý thuyết cao siêu của Đạo để cho nhơn sanh lãnh hội hầu qui nhơn tâm về một mối, có như vậy mới giúp cho họ gầy thân ái với nhau, đặng chấm dứt nạn chiến tranh vô lối, do nhơn loại hiện nay đang dung ruổi trên con đường tận diệt.

- Khi Đức Chí Tôn mới lập Đạo thì có dạy rằng: Đạo khai trễ một ngày thì hại cho nhơn sanh một ngày. Lời tiên tri ấy hôm nay mới thấy rõ.

- Nơi dải đất Việt Nam chúng ta, đã tám mươi mấy năm khổ nạn, dân sanh sống dưới quyền lệ thuộc, hầu hết đã gần quên tinh thần cổ truyền của Tổ phụ để lại. May thay cho nòi giống Lạc Hồng là không đến nỗi phải chịu mất tinh thần cố hữu ấy, nên được Đức Chí Tôn dùng dải  đất  nầy làm Thánh Địa và định cho dân tộc Việt Thường được hưởng hồng ân của Ngài trước nhứt, rồi  mới cho nhơn loại trên mặt địa cầu nầy hưởng sau.

-  Theo Thánh  ý  của Đức Chí  Tôn là muốn dùng dân tộc
Việt Nam làm gương mẫu cho toàn cầu, là chỗ mà thiên hạ cho là thấp hèn, bạc nhược, lại được Đức Chí Tôn đem lên ngang hàng cùng vạn bang mà còn cho trổi hơn mặt tinh thần, do đó mới kêu là QUỐC ÐẠO.

- Đời hiện nay đã gây cho nhơn loại một tai nạn lớn lao là xúi giục cho nhơn sanh đi đến hố tử thần, thì Đạo mới sớm trương cây cờ cứu khổ của Đức Chí Tôn cho nhơn loại hưởng nhờ, bởi lẽ ấy mà phận sự của chúng ta phải nặng nề.  Mỗi Thiên mạng từ đây nên dâng trọn tâm linh cho Đức Chí Tôn sử dụng để giúp Đời và giúp Đạo, cần nhứt  phải có một tâm hồn cao thượng trọn tâm lo tròn sứ mạng của bề trên giao phó và phải thực hành cho  đúng nghĩa câu “Xá thân cầu Đạo”.

- Nếu được như vậy thì mới trọn tâm trong sự dâng mảnh thân phàm cho Đức Chí Tôn dùng trong việc cứu vãn tình thế nguy nan của nhơn loại đó. Bần đạo xin khuyên các Em ráng lưu tâm những lời chỉ giáo của Bần Đạo mà tự nâng cao tinh thần của mình hầu làm gương cho nhơn sanh- Nói về triết lý của Đạo Cao Đài thì mỗi phẩm tước càng cao lại càng phải gồng gánh phận sự nhiều hơn, phải liệu lượng sức tài của mình và hành động coi  có xứng với phẩm tước mà mình đang mang nơi mình chăng?  Nếu nhận thấy xong phận thì là điều nên và phải cố gắng thêm nữa, thoảng như nhận thấy mình chưa xong phận thì phải làm cho  xứng phận,  mới khỏi  hổ một  kiếp sanh gặp Đạo sớm và cũng khỏi hổ với phẩm tước của mình đã mang. Phẩm vị thiêng liêng cũng do nơi đó mà có. Các Em nên làm cho khác với thế tình là vẹn phận. Bần Đạo cũng mừng cho các Em.”(Báo Ân Từ, 1-10-Canh Dần --dl 10-11-1950)

KẾT LUẬN:
ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ do Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng Huyền-Diệu Cơ Bút khai sáng tại nước Việt-Nam từ năm Bính Dần (1926) đến nay đã 30 năm, độ dân được một số thiện-nam tín-nữ hơn hằng bao triệu người, Tổ Đình thờ Đức Chí-Tôn và Đền thờ Đức Phật Mẫu lập thành tại Thánh-địa Tây Ninh. Hội-Thánh hành đạo dưới quyền Đức Tiên-Trưởng Lý Thái-Bạch kiêm Giáo-Tông về mặt vô-vi, còn về mặt hữu-vi thì dưới quyền Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung-Nhựt, nay đã qui thiên.Hiện giờ Đức Hộ-Pháp chấp-chưởng quyền tối cao trong Đạo cho tới ngày có Giáo-Tông hữu-hình chánh-vị.

Luật-Pháp của Đại-Đạo là Tân-luật và Pháp Chánh-Truyền do  Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng Huyền Diệu Cơ bút giảng dạy để làm qui-củ chuẩn-thằng cho Hội-Thánh truyền giáo.

Diệt trừ mê-tín dị đoan, bất nạp bóng chàng, phù thủy, bổn Đạo dung-hoà mọi Tín-ngưỡng và tùy khả năng tiến-hoá của mỗi hạng người và phong-tục của mỗi điạ phương mà phổ-độ.

Tôn-chỉ của Đại-Đạo là dìu-dẫn quần sanh trên con đường xử thế, lấy luân-lý và triết-lý làm yếu-tố.

Luân-lý thì dạy con người giữ Đạo nhân luân, làm tròn bổn phận mình: đối với mình, đối với gia đình, đối với xã-hội là gia-đình rộng lớn, đối với toàn cả thiên-hạ là Đại-Đồng huynh-đệ.
Triết-lý thì cấm xa-hoa phung-phí, tránh bã lợi mồi danh, trọng duy tâm hơn duy vật và xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo đặng giữ cho tâm thần được thơ thới nhẹ nhàng.
Giáo-lý của Đại-Đạo là  chuyên về  tín  ngưỡng và tu-trì, dìu dẫn quần-sanh trên con đường xuất thế.

Tín-ngưỡng thì dạy thờ Đấng Tạo đoan là Trời, là  Ngọc Hoàng Thượng-Đế, Chúa tể Càn Khôn vũ-trụ, sùng thượng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đã dày công giáng trần độ thế. Đại-Đạo cũng như các Tôn giáo nhìn nhận linh-hồn bất tiêu bất diệt và tồn-tại mãi theo định-luật quả báo, có vay có trả, phải chuyển kiếp luân-hồi đền nợ tiền khiên đặng lần bước trên con đường sáng suốt cho tới cõi Hư Linh Hằng Sống.

Tu-trì: thì dạy lập công bồi đức, thủ giới trì trai, trau-giồi đạo-hạnh, tịnh-dưỡng tinh-thần, tu tâm luyện tánh đặng đoạt vị Thiêng Liêng.

Cửa Đạo vẫn luôn luôn mở rộng, tiếp rước bá-tánh thập phương không phân biệt sang hèn, nghèo giàu, hữu học, thông-minh hay dốt nát, mạnh yếu như nhau, cả thảy đồng như thế: Đại nghiệp của Đạo Cao-Đài là của chung toàn thể sanh-linh, chẳng dành riêng cho một ai cả. Dầu người trong Đạo hay ngoài đời, dầu người bổn xứ hay khách ngoại-bang, hễ nhìn Đạo là làm chủ cái Đại-nghiệp ấy. (Diễn văn của Ngài Bảo Thế đọc tại TOKYO (Nhựt)

CÂU 3 : NGHI TIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC TỔ CHỨC THỜ PHƯỢNG
(Trích Lời tựa quyển Thánh-ngôn Hiệp tuyển):
…“Than ôi! Lượn sóng văn-minh tràn dập tới đâu thì nền luân-lý ngửa nghiêng tới đó.
Nếu Ðạo Trời không sớm mở lần ba, nền phong hóa mối cang-thường, sau vì đó mà hư hoại.

Ðức Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế vì đức háo sanh không  nỡ ngồi xem nhơn-sanh sa vào nơi tội lỗi nên dụng Huyền diệu Tiên-Thiên giáng cơ giáo Ðạo”.
Nay, nền Đại-Đạo này có những Nghi thức đặc biệt, để chấn chỉnh tinh thần nhân loại, thử tìm hiểu về:

A - Nghi thức Đại-Đạo:
Việc Đạo-Pháp phải được trân trọng hơn nữa: tức nhiên đối với Đạo Cao-Đài thì mọi việc đều được sự giáng dạy của Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng bằng Huyền diệu Cơ Bút. Một khi được sự giải bày chỉ vẽ rõ ràng, bây giờ người Tín Hữu chỉ có một điều là tuyệt tin theo lời dạy cho nên phải sắp đặt đâu đó chu toàn, đúng theo Nghi thức của Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Thế nên Thầy dạy rõ về tất cả các Nghi thức ấy:
 “Phép của Trời có một, là thương khắp cả chúng sanh, nên định cho phẩm-vị hữu-hình và thiêng-liêng có một, nghĩa là phải tương-đắc cùng nhau, đặng định-quyết phép công-bình, lành thăng dữ đọa”.

Sự Lễ Nghi trong nền Đại-Đạo không có điều gì sáng tỏ hơn là nghi thức LỄ NHẠC, vì đây là hồn Đạo.
Trong quyển “Nghi Tiết Đại Đàn và Tiểu Đàn” Ngài Tiếp-Lễ  Nhạc-Quân  Cao-Quỳnh-Diêu  hiệu    Mỹ

Ngọc, có viết Lời tựa như vầy:     
“LỄ là một việc rất trọng hệ, vì là cái hình thể của nền Đạo phô bày ra trước mặt người.     
Chư Đạo-Hữu cần phải để công xem sóc nhắc nhở nhau mà gìn giữ tư cách trong mỗi khi hành Lễ cho trang hoàng, hầu tỏ tấc lòng thành kỉnh của mình cùng Đức Chí Tôn và chư Tiên Phật Thánh Thần, lại cũng là một phương châm về đường Phổ-Độ nữa. Mỗi khi chúng ta hành Lễ, thì người ngoại Đạo sẵn ý xem vào mà phân biệt Tà Chánh một ít  của nền Đạo trong đó, vì Đạo là việc nhiệm mầu huyền bí rất sâu xa, người ngoài nào thấu đặng? Duy có chăm nom cách cử chỉ của chúng ta trọng kỉnh các Đấng thế nào, thì đủ cho người vẽ ảnh Đạo ra thế nấy mà thôi.             

NHẠC cũng là một việc cần yếu, vì là phương làm cho đầm ấm tao nhã cốt để dìu dẫn giúp cho thành Lễ ra vẻ long trọng, vì đã che lấp các việc xao động trong cơn hành Lễ, trên thì hiến cái vẻ tiêu tao phù trầm cho các Đấng, dưới là làm cho chúng ta, vì nghe đặng cái giọng tao nhã, nhặt khoan, hoặc có lúc vì tiếng Nhạc trổi mà lòng ta vẫn hân hoan mà quên bẵng cái mỏi mệt trong cơn hành Lễ hoặc có khoản vì cái thức phù ba của giọng đờn mà làm cho ta yên tịnh, mới có thể thiền tâm vọng cầu các Đấng cho thấu đáo. Có câu phương ngôn của bậc hiền triết miền Âu-châu rằng:“La musique adoucit les moeurs” có nghĩa là nếu muốn biết sự tấn hóa của một sắc dân sau sẽ trở nên thế nào, thì duy có xem trong nét văn chương và nghe giọng Nhạc của sắc dân ấy cũng đủ hiểu trước được.

 Huống chi Đấng Chí-Tôn ra công khó nhọc khai sáng cho ta một nền Đại-Đạo như vầy, lại dìu dẫn ta từ bước, mà ta lại chẳng để hết tâm chí chấn-chỉnh nghề Nhạc cho hoàn toàn hầu  gìn giữ  đường  tấn  hóa cho nền

Đạo sao ?”
Đức Hộ-Pháp có giải cho biết vì sao Nhạc là Lễ:
 “Nhạc nó sản xuất trong tinh thần, mà tinh thần là gì? Tinh thần mới thiệt là Ðạo.

Tại sao Nhạc là Lễ?
LỄ ngoài đời mấy Em ngó thấy một bằng cớ hiển nhiên, là khi mấy Em đờn, hòa cùng nhau, tuy ngón đờn của mấy Em mỗi đứa đều khác, hay dở đặc biệt mỗi đứa đều không giống nhau, nhưng mà cái nhịp trường canh mấy Em phải theo nó mà thôi, nếu không tùng nó thì mấy Em chẳng hề khi nào hòa NHẠC cùng kẻ khác được.

Ấy vậy trong khuôn khổ HÒA với nhau, ấy là LỄ.
Vì cớ cho nên Qua giảng tiếp cho mấy Em hiểu, LỄ NHẠC do âm thinh đó vậy.
Ngộ nghĩnh thay! Giờ phút nầy Qua cho mấy Em biết, chỉ có dân tộc Việt-Nam về văn hóa Nho-Tông của chúng ta mới có đặng một cái NHẠC là đều do nơi âm thinh và điều Qua đương nói với mấy Em, cái kinh dinh của các sắc dân trên mặt địa cầu nầy, cả các quốc dân xã hội đều nhận điều đó. Nước Trung Hoa hay các sắc dân chịu  ảnh hưởng  cái văn minh tối cổ của Nho-Tông chúng ta mới có NHẠC, âm thinh ấy là LỄ.  

Bằng cớ hiển nhiên, chính Qua đọc một tờ nghị luận tại nơi Liên-Hiệp-Quốc, họ luận rằng: Nếu cả thảy các dân tộc nơi mặt địa cầu nầy mà đặng gìn giữ cho còn LỄ cũng như nước Tàu đã được LỄ tối cổ của họ, cả những điều nghịch hẳn cùng nhau, khởi hấn cùng nhau giữa Hội nghị của Liên Hiệp Quốc chẳng hề khi nào xảy ra, nếu có xảy ra là tại họ vô lễ cùng nhau mà chớ !  

Do nơi vô lễ ấy mà nhơn loại chịu thống khổ hai phen Đại-chiến hoàn cầu. Mấy Em nghĩ, họ vô lễ cùng nhau cho đến nước họ đập bàn ghế  ra khỏi Hội-Nghị  của

Quốc-tế là tại họ thiếu LỄ, mà LỄ là NHẠC…
NHẠC làm cho phong hóa luân lý tốt đẹp dịu dàng, mà không phải một mình nước Pháp mà thôi, cả các liệt quốc Âu Châu đều cũng nói.

Ấy vậy, giờ phút nầy Qua ký Thánh Lịnh cho mấy Em đi các nơi, cốt yếu đặng mấy Em đem cái ngôn ngữ điều hòa, lấy một ống tiêu mà Trương-Lương đã làm cho tan vỡ một đạo binh hùng tráng của Hạng Võ, đánh tan nát cơ nghiệp của Sở, thâu đạt cơ nghiệp ấy đem lại cho nhà Hớn duy có ống tiêu Trương-Lương mà thôi. 

Giờ phút nầy Qua giao cho mấy Em một sứ mạng làm sao cho thiên hạ nghe ống tiêu Thiêng Liêng của mấy Em đặng tinh thần nòi giống mấy Em đứng dậy định tương lai vinh-quang cho mình với cái giọng ngọt dịu của mấy Em, làm cho thiên hạ thức tỉnh, diệt tiêu bớt hung hăng bạo ngược, trái lại đem đến một con đường hòa huỡn, cao quí, tốt đẹp, êm dịu, đem lại cái đạo đức tinh thần chiến thắng để cứu vãng sanh mạng loài người.
Bởi giờ phút nầy họ đang đi đến con đường diệt vong mà chớ”.

1 - Nhờ có LỄ NHẠC mới có trật tự phân minh:
Xưa nay ai cũng cho rằng Lễ Nhạc là âm thinh sắc tướng, vì không thực hiện nỗi sự diệu dụng của Lễ Nhạc. Cũng như người thường đều chịu khuất phục trước loài thú dữ, nếu trấn áp được thì chỉ dùng vũ khí mới trị được nó mà thôi. Nhưng với Đạo pháp thì Đạo Cao-Đài Đức Chí Tôn dùng Lễ Nhạc, tức là Ngài sử dụng được cái mức vi diệu của nó, tận dụng được cả cái thanh-cao tuyệt vời trong âm hưởng của Nhạc Lễ để cảm hoá lòng người.

Đây là lời Đức Thượng-Sanh đọc trong buổi bổ nhiệm Chức-sắc và nhơn viên Bộ Nhạc Trung-ương Toà Thánh Tây Ninh, ngày 29-6 Canh-Tý (dl 24-5-1960).

“LỄ NHẠC là rất quan hệ và trọng yếu cho đời và cho con người, cũng chẳng khác chi món ăn và thức mặc vậy. Các Đấng Thánh nhân thời cổ tìm cái căn nguyên cao xa và tôn quí của LỄ NHẠC ở trong đạo tự nhiên của Trời Đất và cho rằng: LỄ là cái trật tự của Trời Đất, NHẠC là cái điều hòa của Trời Đất.

Võ trụ nhờ có LỄ NHẠC mà tồn tại, vạn vật trong Trời Đất nhờ có LỄ NHẠC mới có trật tự phân minh, thời tiết thuận lợi, Âm Dương luân chuyển, khí tính điều hòa mà giúp cho cơ sanh hóa.

Nói cách khác, LỄ NHẠC của Trời Đất tức là cách sắp đặt của Đấng Tạo hóa, làm cho vạn vật được có vị trí phân minh không sai đường, không đổi hướng: hết Xuân qua Hạ, Thu mãn kế Đông về, mưa nắng tùy theo mùa, gió sương tùy theo tiết, hết ngày tới đêm, hết tối tới sáng, nhựt nguyệt tuần tự chuyển luân, phân phối Âm Dương điều hòa, ấm lạnh thế nào cho cỏ cây được sởn sơ, mùa màng được kết quả.

Cơ quan sanh hóa của người và vật nhờ đó mà tồn tại và tiếp diễn mãi. Cái trật tự và cái  điều hòa  làm  cho vạn vật sanh tồn. Đó tức là LỄ NHẠC của Trời Đất vậy.

Thánh nhơn mới nhơn đó chế ra LỄ NHẠC để làm căn bản trong sự dạy người và trị thiên hạ, khiến người ta cư xử hành động sao cho hợp Nhơn Đạo, tức là hợp với Thiên lý.

Vì lẽ đó, đối với các bậc Đế Vương đời trước, LỄ và NHẠC có cái địa vị rất là trọng yếu về đường chánh trị. “LỄ tiết dân tâm, NHẠC hòa dân thạnh” là dùng Lễ để tiết chế lòng dân, dùng Nhạc để hòa thanh âm của dân.

Cái hay của LỄ là làm cho có sự cung kính, giữ trật tự phân minh. Cái hay của NHẠC là tạo sự điều hòa khiến cho tâm tánh tao nhã. Nhạc và LỄ phải dung hòa với nhau thì mới được hoàn toàn, vì nếu có LỄ mà không có NHẠC thì người ta đối xử với nhau phân biệt, mất tình thân ái; còn có NHẠC mà không có LỄ thì thành ra thiếu trật tự, khinh lờn nhau.

Vậy có LỄ tức phải có NHẠC để kềm chế nhau cho có điều hòa và phân biệt.
Đức Khổng-Tử tin sự dùng LỄ NHẠC có công hiệu rất lớn, nên Ngài nói rằng: “Quân tử minh ư Lễ Nhạc, cử nhi thố chi nhi dĩ” có nghĩa là người quân tử biết rõ Lễ Nhạc, chỉ đem thi thố ra là đủ. Vì Lễ thì khiến sự hành vi bên ngoài, Nhạc thì khiến tâm tình bên trong. Cái cực điểm của Nhạc là HOÀ, cái cực điểm của Lễ là THUẬN. Nếu bên trong mà tính tình điều hòa, bên ngoài sự hành vi thuận hợp nghĩa lý, thì cái tà tâm vọng niệm thế nào còn chen vào được lòng người ta nữa!

Trái lại, nếu LỄ mà không kính, NHẠC mà không hòa, thì dầu bề ngoài có giữ đủ các lề lối thì cũng không có ích lợi cho sự tiến hóa của con người.

Lập nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ lúc ban sơ, Đức Chí-Tôn lấy Lễ Nhạc làm gốc. Đức Chí Tôn chỉ dạy từ bước chơn đi LỄ phải thế nào, cho tới hòa tấu những bản Nhạc nào, mà thường nhắc nhở Chức sắc nếu Cúng Đàn mà Lễ Nhạc không nghiêm thì chỉ để cho tà quái xung nhập, chứ các Đấng ThiêngLiêng không chứng.

Vậy các Chức sắc và nhơn viên trong Bộ Nhạc cũng như Bộ Lễ nên hết lòng sốt sắng với nhiệm vụ, gắng lo trau giồi nghệ thuật cho tới chỗ tận thiện tận mỹ, để nâng cao tinh thần của nền Đạo.

Nơi một Đàn cúng mà Lễ Nhạc được trang nghiêm thì Đàn cúng được bao trùm, có thể nói là một bầu quang tuyến thiêng liêng huyền diệu, khiến cho chúng ta tưởng tượng là có Đức Chí Tôn và các Đấng Tiên Phật giáng đàn để chứng kiến lòng thành của chúng ta và ban ơn cho chúng ta.

Trái lại, nếu LỄ không nghiêm, NHẠC không hòa, thì Đàn cúng dường như có cái tâm trạng hỗn loạn, nô đùa, khiến người quì cúng có cái tâm trạng xao xuyến, bần thần, bất mãn. Lập Đàn Cúng như vậy, chúng ta chẳng những thất lễ mà còn đắc tội với Đức Chí Tôn.

Ngoài ra, có người ngoài hay người của các Tôn giáo khác dự kiến, chúng ta lại làm hạ phẩm giá nền Đại Đạo, đó là chúng ta chất thêm tội lỗi nữa.

Thành thử, nhiệm vụ của Chức sắc và nhơn viên Bộ Nhạc cũng như Bộ Lễ lấy làm quan trọng và công quả của mấy vị đối với Đức Chí-Tôn là một công quả cao quí, chẳng phải tầm thường…”
Tòa Thánh, ngày 29 tháng 4 Canh Tý (dl 24-5-1960).
Thượng-Sanh Cao-Hoài- Sang

2 - Nghi Lễ để trau giồi tâm lý, Đạo Luật để cầm vững hành vi.
Tóm lại: Lễ Nghi và Luật Đạo tuy hình thức khác nhau, nhưng đồng đem lại một kết quả. Nghi Lễ để trau giồi tâm lý, Đạo luật để cầm vững hành vi. Cả hai đều giúp cho người Tín hữu vững bước trên đường tu tỉnh.

Ấy vậy kẻ học phải biết quan sát, phải biết áp dụng, hầu cho mình có một tinh thần kỷ luật. Thế nên:

Lễ-Nghi trong Đại-Đạo trọng yếu là  NHẠC LỄ:
 “NHẠC vốn là một Đạo pháp rất thâm u, đã có trước buổi Khai Thiên, vẫn là một từ khí thông công với luồng điện-thoại truyền tấu khắp Càn Khôn chiêu tụ chơn hồn cả vạn vật.

Khi thành lập các địa giới, biến sanh đủ muôn loài, rồi thì vạn linh hấp thụ lấy năm âm của thức nhạc mà tỏ vẻ Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Dục riêng của mỗi loại. Nhưng do theo luật công bình thiêng liêng thì buổi sơ sanh của vạn loại cả thảy đều tự khởi với cái giọng đớt-đát thô-bĩ.  Chừng tìm hiểu được cái lẽ nhiệm mầu của Trời Đất, nhơn loại mới lần hồi trau luyện sửa đổi cho ra thanh tao trong giọng nói, giúp thêm tinh vi cho khuôn lễ, tiến hóa cho đến khi phù hạp tánh cách thiên nhiên với nhau mới có cộng hưởng phép điều hòa, mà xây dựng nền phong hóa riêng của mỗi quốc dân; hồn nước do nơi đó mà phân định cao thấp. Ấy là Đạo pháp để gầy nên cơ hiệp chủng y theo triết lý của Lễ Nhạc đã cạn giải.

Nguồn cội của phép điều hòa đã tìm được mà tin dùng văn từ buổi cổ thời do nơi Đức Hiên Viên Huỳnh Đế.

Khi Ngài ngự chế ra Lễ Nhạc, Ngài để ý nghe thấy sự hỗn hợp của Bát hồn: Bào, Thổ, Cách, Mộc, Thạch, Kim, Ty, Trúc, tuy là khác giống nhau mà có thể tỏ ra vẻ hòa âm. Từ ấy, Ngài cứ bình tâm định trí để tìm hiểu lẽ nhiệm mầu của luật thiên nhiên. Chừng rõ thấu cơ mầu của Trời Đất, Ngài mới tùy nơi hình thể của thức Hồ Cầm (tục gọi là đờn Tỳ Bà) có vẻ trạng thái Thiên triều: đôi bên tả hữu có dây văn dây võ, trên có Tứ Thiên Vương, dưới có Thập Điện Quân. Ngài nương theo kiểu mẫu ấy gầy nên quốc vận, như Ngài đã thành lập một quốc gia.

Về nội dung: nơi triều đình có văn biền để bỉnh chánh, nơi biên cương có võ bị để ngừa loàn, xây dựng nên một quốc thể đủ vẻ nghiêm trang, thuần túy.

Về ngoại dung: Ngài đào tạo nên tổng, làng, hương đảng có đủ tánh tình ôn hậu để giáo hóa lê dân với tư cách điều hòa. Toàn trong nước, cả quan dân đều cộng hưởng thái bình, thành thử trong buổi nọ, nhờ nơi đó mà Kinh Lễ và Kinh Nhạc xuất hiện, mà hễ hai bộ Kinh Lễ và Kinh Nhạc được ra mặt dìu đời tức là NHO-TÔNG đã sáng lập.

Tiếp theo là phép an dân của Đức Hiên Viên Huỳnh Đế, về sau có vua Nghiêu, vua Thuấn là hai bậc Thánh Đế đều noi theo gương ấy mà làm cho cuộc thế rất nên điều hòa, cả lê thứ thảy đều được an cư lạc nghiệp. Từ ấy đến nay, thời gian đã trải qua trên bốn ngàn năm mà nhơn vật trong thế kỷ 20 nầy vẫn còn để tâm hoài vọng cho thời cơ điều hòa của phép Lễ Nhạc buổi nọ được tái vãng.

Như thế thì buổi hiện thời, trong hàng trí giả còn có ai là chẳng biết rằng LỄ NHẠC vốn là hai quan điểm đặc sắc để khởi dẫn bước đầu tiên cho nhơn loại, lần hồi gầy mối cảm tình nhau mà đoạt được phép điều hòa, nhứt là trong buổi loạn lạc nầy, cả nhơn loại toàn cầu đều chịu thống khổ nguy nan, còn có chi hay để cải sửa cơ đời cho bằng phép ấy. Các Đấng Thiêng Liêng hay gợi nhắc chúng ta nên dùng pháp mầu của NHO TÔNG để CHUYỂN THẾ  là bởi đó.

Luận giải dường ấy thì chúng ta đủ rõ thấy rằng: nét hưng vong của một quốc vận, nhục vinh của một chủng tộc, suy thạnh của một gia đình, nên hư của một cá nhân, cuộc cờ đời biến đổi trở day đều do nơi đó cả thảy. Hà tất chúng ta nơi cửa Đạo Trời, vẫn có nhiệm vụ thật hành phép điều hòa trong cửa ĐẠI-ĐẠO để làm khuôn mẫu trước hết cho nòi giống Việt Thường theo bước, hầu gây nên Quốc Đạo theo mấy câu văn của Đức Chí Tôn đã dạy:
QUỐC ĐẠO kim triêu thành Đại Đạo,
NAM-PHONG thử nhựt biến Nhơn phong.
An dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn,
Văn hóa tương lai lập Đại Đồng.

Vậy thì hai quan điểm của  Lễ Nhạc, chúng ta cần phải giồi trau cho có vẻ thuần túy, để  tượng  trưng phép điều hòa thế nào cho xứng đáng một gương trong để soi sáng vẻ Đạo hạnh cho toàn cả Việt dân dõi chước, làm cho vạn bang nhìn nhận thì QUỐC ĐẠO chúng ta tự gầy nên rồi ĐẠI ĐẠO tùy đó mà hoằng khai trong các nước.

Muốn giải rõ hơn nữa thì thức NHẠC của hiền xưa đã gầy nên vốn để trạng thái vẻ thanh âm của phép điều hòa cho nhơn loại làm gương soi mình, hầu giồi mài trong lời lẽ cho có âm giọng thuần hòa thanh tao âm điệu. Vậy thì trước nhứt mấy em Lễ sĩ, Nhạc sĩ cần phải sẵn có học biết nhiều ít về văn chương, ngôn ngữ mới có đủ hầu sắp đặt theo thứ tự khép và lâm giọng của Nhạc-pháp, ngôn từ mới âm điệu, lời lẽ mới thanh tao, mà nói năng cho vừa lỗ tai người trong khi giao tiếp với nhơn quần xã hội để tượng trưng phép điều hòa y theo nguyên pháp của ĐẠI ĐẠO.

Vì LỄ NHẠC là Đạo-pháp điều hòa của Đấng Hóa công đã gây nên để un đúc tinh thần cho nhơn loại hầu khêu gợi gieo rắc sự cảm hóa với nhau mà lập thành cơ hiệp chủng, cũng vì đó quốc-dân Pháp thường nói: La musique adoucit les moeurs. Nghĩa là Âm Nhạc để giúp đời được thuần phong mỹ tục.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét