Lần thứ ba cho thanh khí thoát ra ngõ chân lông, lúc này sẽ thấy như một thỏi
sắt đang nung đỏ được nhúng vào nước lạnh, rồi lấy ra sẽ thấy như một quyện
khói bốc lên từ thỏi sắt vậy, đó là thành công. Tịnh luyện pháp này cho đủ một
ngày, sáng mai theo chương trình Tịnh luyện như lâu nay
. Đức Hộ Pháp nhắc nhở: “Hãy về thực tại để Ta ân tứ, rồi hãy tiếp tục Tịnh 7 thời huyền diệu (48 giờ). Ta sẽ ban phép lành giải thoát toàn diện”.
. Đức Hộ Pháp nhắc nhở: “Hãy về thực tại để Ta ân tứ, rồi hãy tiếp tục Tịnh 7 thời huyền diệu (48 giờ). Ta sẽ ban phép lành giải thoát toàn diện”.
CHƯƠNG III
LUẬN VỀ CHỮ TU
hầy dạy:
Nếu cả thế gian nầy biết
TU, thì thế gian có lẽ cải lý Thiên đình mà làm cho tiêu tai, tiêu nạn đặng, huống lựa mỗi cá nhân biết tu, thì là Thiên đình cầm bộ Nam Tào cũng chẳng
ích chi.
TU là chi? Tu là trau giồi đức tính cho nên hiền, thuận theo ý Trời đã định trước. Nếu
thế gian dữ thì thế nào đặng bảo toàn, còn mong mỏi gì đặng bền vững. Cá nhân dữ,
thì thế nào bảo toàn tánh mạng. Ðã bị tội cùng Thiên đình thì bị hành phạt. Nơi
kiếp sống nầy, nếu không biết TU buổi chung qui sẽ mắc tội nơi Thiên đình. Phẩm
vị Tiên Phật để thưởng cho kẻ lành mới đáng phẩm vị, chớ chẳng phải của để treo
tham cho thế gian phòng toan đạt đặng. Tuy luật lệ siêu phàm nhập Thánh thì vậy
mặc dầu, chớ cũng do cơ thưởng phạt của Thiên đình mới đạt phẩm vị ấy đặng, của
vô vi chưa chắc ai muốn lấy thì lấy tùy ý. Nếu làm Tiên Phật đặng dễ dàng thì cả
thế gian, miễn có học chút ít thì đã đặng làm Tiên Phật rồi, vì luân hồi đâu có
phòng sanh sanh tử tử.
Kinh điển giúp đời siêu phàm nhập Thánh chẳng khác chi đũa ăn cơm, chẳng có
đũa, kẻ có cơm bốc tay ăn cũng đặng. Các con coi kinh điển lại, rồi thử nghĩ lại
sự công bình thiêng liêng mà suy gẫm cho hay lẽ phải. Thầy khuyên các con theo
sau Thầy mà đến phẩm vị mình thì hay hơn tuông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất
nghe à.
(TNII/ Ngày 12 tháng 6 Bính Dần
21-7-1926)
Qua lời dạy của Đức Hộ-Pháp, Giáo-Chủ Đạo Cao Đài trong quyển “Phương Tu Đại-Đạo”
rằng:
“Phép Tu chẳng phải luyện nội
tinh-thần theo đạo hạnh mà thôi, mà cái thân thể mình đây cũng phải tùy tùng
phù hợp Đạo-tâm, thể Đạo chơn-chánh bởi gương mình, hễ chúng sanh ngó Đạo nói
mình, xem mình cho là Đạo mới phải”.
Nên: Người Tu-hành mục-đích đem cái ân cho người chớ không phải đợi người
làm ân cho mình; nghĩa là mình phải lo sự ấm no cho bá tánh tức là lo cho ta, bởi
Đức Chí-Tôn đã dành phần cho ta một nhiệm vụ đặc biệt là ta phải Phụng-sự cho Vạn-linh
để giải khổ cho loài người trong lúc họ đang lâm nàn kêu cứu; khi ta làm xong
phận sự thì không còn ai chối cải rằng ta không phải là ân-nhân của xã-hội, chừng
ấy ta không muốn về Tây phương họ cũng lập bàn hương-án để đưa ta đặng đền ơn cứu
tử”.
Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao-Đài cho nhơn sanh Tu tức là mở một sanh lộ
ra nơi cõi thế này, để chúng sanh tìm về đất
Hằng sinh. Đường Hằng sinh đó là gì ?
Đức Phật-Mẫu dạy:
“Đạo chia ra làm ba Chi: PHÁP- ĐẠO-
THẾ.
- Mình tu cho đúng theo Luật, hành theo Pháp thì chúng sanh nơi THẾ ca tụng
công đức mình, trọng kính mình ấy là mình Đắc Thế ..
Hễ Đắc Thế thì phải tầm Pháp đặng cứu chữa dạy bảo theo Pháp.
- Nếu mình hành Pháp hiển linh, chúng sanh ứng mộ mình, thì mình Đắc Pháp.
- Nếu Đắc Pháp thì phải tầm Đạo vô-vi, muốn tầm không phải dễ, mà dễ khó là
do nơi mình; nếu đi được hai khoảng thì khoảng sau này phải ráng.
- Nếu Đắc Đạo thì nhập cõi Niết-Bàn.
Biết lo cho chúng sanh tức là lo cho mình vậy.
Mình tu cho chúng sanh, mình lập vị cho
chúng sanh tức là mình lập vị cho mình. Phải hiểu cho rõ, nếu chúng sanh chưa ai Đắc Đạo, thì
ta phải cầu-nguyện cho người Đắc Đạo trước ta.
Nếu mình cứ mong cho cao phẩm giá tức là trái với Thiên-ý, mình phải hằng
ngày trau giồi tánh đức, lo chung cho thiên hạ, ấy là phương pháp tu tắt đó.
Thường ngày công-phu mà mình chất chứa tánh tự kiêu thì cũng không mong đắc
Chánh quả được, bất quá Đắc một vị Địa
Tiên đó thôi.
Vậy muốn cho hoàn-toàn thì ráng tập cho biết trừ các điều xấu-xa, tập thường
ngày tầm chơn-lý, kiếm hiều huyền-vi, răn mình hằng bữa, đó là đường chánh sáng
láng cứ lo bước tới”.
Kinh Tứ Thời Nhựt tụng, có dạy pháp
tu như vầy:
Phép Tiên Đạo tu chơn dưỡng tánh
Một cội sanh ba nhánh in nhau
Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong
sạch tụng cầu Thánh-Kinh.
Xem thế: Lấy Đức làm nền tảng cho sự Thương-yêu.
Tu theo Đạo Cao-Đài là tu nhập thế, tức nhiên:
- Hằng ngày hành theo tinh-thần Nhân Nghĩa; Phụng sự cho chúng-sanh theo
Nho-Đạo.
- Phương-pháp TU là luyện Tinh- Khí- Thần, là phép tu Tiên-Đạo.
- Nhưng đắc vào hàng Phật-Đạo (Bởi nếu đi theo Cửu-Trùng-Đài, đến tuyệt-phẩm
là Giáo-Tông vào hàng Phật-vị; còn đi theo Hiệp-Thiên-Đài đến tuyệt phẩm là Hộ-Pháp
cũng vào hàng Phật-vị).
Đó là tinh-thần Qui Tam-Giáo của Cao Đài Đại Đạo ngày nay là vậy. Hãy nghe
Thi văn dạy Đạo:
Những là khổ cực chịu cơ đời,
Hạnh-phúc thử nhìn đặng mấy
mươi ?
Vinh nhục đòi phen vui lẫn
khóc,
Ghét thương lắm lúc giận
pha cười,
Đường tâm tự tỉnh chơn ra
giả.
Nẻo đức gồm theo thiệt hóa
chơi.
Thóat tục ví ai tìm nẻo
chánh.
Bến mê lướt sóng đến ven
trời.
Ngày nay, Đạo Cao-Đài khai mở tại Việt-Nam là một điều ân phước cho dân-tộc,
cho nòi giống, vì chính con dân Việt-Nam được nghe lời giáng dạy của Thiêng
liêng, phân rõ chánh tà, biện minh thiện
ác.
Đức Hộ-Pháp là người thay thân cho Chí Tôn đã để lại không biết bao nhiêu lời
giáng dạy; Ngài nói:
“Đối với chúng ta, Bần-Đạo xin các Đấng
Thiêng liêng dạy-dỗ và nam nữ cũng trụ cả đức-tin nơi Ngài mà hiểu Đạo. Bần-Đạo
dám chắc cả thế gian này muốn mau chóng để mỗi con cái của Ngài đều đọat kiếp hết,
thấy hết lực-lượng vô biên vô tận mà lại không thể có ai làm được.
“Hại thay! Đến giờ, con cái của Ngài
không biết mình ở đâu ? Làm gì ?
“Đấng Chí-Tôn tạo ra vạn-vật chỉ xin
có một điều là THƯƠNG-YÊU với nhau, đặng qui tòan con cái của Ngài cố gắng lập
Đại-gia-đình làm một. Có con mắt mà thiếu Đức-tin không cố gắng có trễ hay
chăng ?
“Hiển-nhiên trước mắt mà chúng ta nếu
khiếm công phu lo Đạo, một ngày kia về Ngọc-Hư-Cung chúng ta có chối tội được
chăng? Mà dầu có chối đi nữa cũng không biết vì lẽ gì mà chối, rất khiếm tài đức.
“ĐỨC là chìa khóa mở đại nghịêp
thiêng liêng, hữu hình hay vô-vi cũng vậy.
Lấy Đức làm nền tảng
THƯƠNG-YÊU. Cái kho Thương-yêu có tài đức
mới mong-mỏi đặng. Kho vô tận ấy hiển-nhiên
trước mặt, thì kẻ nào
đi trái con đường
ấy chẳng hề lập nghiệp cho vững được.
Chí-Tôn nhủ rằng:“Các con muốn đọat cái đại nghiệp Thiêng liêng của các con
duy tu lập Đức.
Yêu ái Đức thân sinh, hai tiếng đó hầu qui tụ cả đại nghiệp của mình, từ
thuở, bao lần triết-lý các Tôn-giáo đều dạy TU và ĐỨC thì ngôi-vị đã sẵn, không hề kẻ làm tội ác
kia tranh giành đặng.
“Ấy đó, Bần-Đạo xin nhắn-nhủ tòan Đạo
trụ cả khối tinh-thần cứ mài-miệt Đức-tin cho vững, thỏang có thất-bại Bần-Đạo
lãnh cả tội-tình cho.!
“Tin thì nghiệm xem ra thế nào, tin
quả-quyết như Bần-Đạo đã tin, chúng ta đồng tiến nữa, bao nhiêu năng lực cá
nhân góp tăng trăm ngàn nhiệt độ tổng số lại thì không có lực-lượng nào ngăn cản
được.
“CHÍ-TÔN hứa với chúng ta đủ điều,
thì không hề thất hứa bao giờ, duy tại chúng ta còn khiếm Đức-tin nên sự đọat
thành hy-vọng của chúng ta còn chậm trễ đến ngày nay, mau hay chậm cũng tại
chúng ta: muốn tin hay không tin mà thôi.
“Vậy Bần-Đạo xin khuyên tòan Đạo cố
gắng trụ Đức-tin thêm nữa. Cần phải TU LẬP ĐỨC
làm căn-bản, thì ắt hẳn đọat nguyện hiển-nhiên. Cái sự nghiệp của Trời
và Người muốn làm chủ nó mà hưởng, thì chỉ có TU và LẬP ĐỨC” (ĐHP 14-7-Đinh-Hợi 1947)
…Đức Quyền Gíao-Tông nói về “Phụ mẫu ái tử”:
“Bởi Thiên-cơ tiền định cho nên nền
Đạo phải chịu truân chuyên cả năm rồi. Cũng một phương khảo-đảo làm cho chúng
ta phải tự tâm mà xét lỗi của mình Tôi hằng nói: Nội trong nền Đạo từ lớn chí
nhỏ ai cũng có lỗi, ai cũng có sai lầm, vì lòng nôn nóng lo cho Đạo không thành
lập, sợ để trò cười nơi thế. Từ bảy năm rồi, chúng ta đây như một đám học sinh,
từ thuở nay bị trò đời dìu dắt, vùi trong cuộc vinh huê phú-quí, ham mùi
chung-đỉnh bã vinh-hoa, tranh tranh đấu đấu khoe tài trí, có biết Đạo là gì ? Tu
là chi ?
Nhờ Đại-từ-Phụ thấy bầy con dại đang chui trong hang sâu vực thẵm, bị lượn
sóng vô tình gần chụp lấp, Thầy ngồi Hùynh-Kim-Khuyết chẳng an nên lo phần thức
tỉnh đám thơ ngây, lùa chúng ta vào trường học Đạo.
Bầy con hoang, xa cách bấy lâu mới đem về đặng. Bởi câu “Phụ mẫu ái tử” vô
ngằn nên Cha khó dạy con! Thầy mới giao cho Đức Lý Đại-Tiên dạy bảo mấy năm, vừa
sửa tánh hoang-tàn táo-bạo chút ít; kế tới kỳ thi chấm công quả, Đức Lý Đại-Tiên
sắp từ bực cho có đẳng cấp mà dạy thêm,
ngõ hầu nhập trường Cao-đẳng, chớ nào có một ai trong sạch lập thành
Chí-Thánh.
Công lao của Ngài đáng mấy với lũ con hoang của Thầy ! Tội cấu-kết muôn năm
uế-trược đầy mình, mới tắm ít gáo làm
sao sạch đặng. Công-trình Từ-Phụ như thế mà cũng chưa vừa làng xa mã.
Than ôi! Có kẻ trốn trường bỏ học (Nhập môn rồi không thờ, không hành Đạo)
lắm người tính làm reo (grève) phá Đạo, chuyên-quyền tự lập dỗ-dành những người
tâm thành đức vẹn theo mình đặng tôn mình là một Tôn-Sư tại thế. Tội-tình biết
mấy!
Xa Thầy tách bạn, theo tình mới, bỏ nghĩa xưa, là người phi nghĩa, VƯƠNG
NHƠN CHI ÁC BÁN CÚ PHI NGÔN TỔN BÌNH SANH CHI ĐỨC.
Biết như vậy, chớ tôi vừa thức tỉnh nghĩ lại ai cũng còn mang nặng xác phàm
sao cho khỏi lầm lạc, nên Tôi cũng cất đầu lạy xin anh em, chị em dứt tánh
phàm, rèn lòng nhẫn-nại, khỏa lấp các việc tình tệ xưa nay trở lại Tòa-Thánh,
thìn lòng học Đạo ngõ hầu trở về cùng Đại
Từ-Phụ kẻo người trông đợi.
Tôi cũng phát nguỵện cùng Ngọc-Hư nghiêng vai gánh vác tội chung của chúng
ta hết, dầu tôi phải chuyển thế đời đời làm công-quả đặng chuộc tội cho cả thảy
con cái của Thầy thì Tôi cũng cam lòng chịu, miễn cho cả thảy về cùng Thầy thì
Tôi cũng phỉ nguyện ở chốn này độ chúng.
“Lòng trông Đạo-hữu thứ
dung,
“Hiệp nhau lo Đạo hưởng
chung phước Trời”
Đức Hộ-Pháp dạy TU là đạt
cơ giải thoát:
“Cả thảy con cái Đức Chí-Tôn đều biết,
chúng ta TU cốt yếu mong-mỏi một điều trọng yếu hơn hết là đạt cho đặng cơ giải
thoát hay là có phương thế trở lại cựu vị Thiêng-liêng của chúng ta. Các phẩm
chơn hồn trong Càn khôn Vũ-trụ của Đức Chí Tôn đã lấy quyền cho Phật Mẫu đào tạo
tám phẩm chơn hồn, tức là chơn hồn: vật chất, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, Thần,
Thánh, Tiên, Phật. Trong tám phẩm chơn hồn ấy xuất hiện nơi Kim-Bàn do theo luật
Thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn đã định, thì họ phải từ từ tăng tiến mãi, cái luật
tăng tiến ấy nó buộc ta mỗi kiếp sanh đều kiếm phương tu, đặng chi? Đặng tạo
Thiêng-liêng-vị cho chúng ta, các đẳng chơn hồn ấy khi đã đến nhơn phẩm rồi
chia ra hai phẩm hồn đặc biệt:
- Ở trong vật loại tăng tiến lên đạt nhơn phẩm của mình gọi là Hóa nhân.
- Các chơn hồn ở trong Kim-Bàn đã xuất hiện với địa vị nhơn phẩm của mình
là Nguyên-nhân.
Hai phẩm hồn ấy nếu không noi theo đạo đức đặng từ từ bước lên con đường
Thánh Đức của mình, đặng đạt cho tới địa vị cuối cùng là Phật-Vị lại làm tội lỗi
thì phải sa vào Quỉ Vị.
Ấy vậy phần người có nguyên nhân, hóa nhân, quỉ nhân. Hại thay 100 ức
nguyên nhân do Đức Chí-Tôn đã để lại mặt thế này, đặng làm bạn với các đẳng
chơn hồn trong Vạn Linh sanh chúng của Ngài đã đào tạo thì:
- Phật-vị có sáu ức.
- Tiên-Vị có hai ức.
- Còn chín mươi hai ức nguyên nhân bị đọa trần.
Từ ngày Đạo bị bế họ có lắm công tu mà thành thì không thành. Tội nghiệp
thay, vì 92 ức nguyên nhân ấy mà chính mình Đức Chí Tôn phải giáng trần mà lập
nền chơn giáo của Ngài, chúng ta đã ngó thấy cái Thánh ân, đặc biệt hơn hết là
Đức Chí-Tôn đã thấy rõ rằng: Các nguyên nhân ấy không phương gì tự giải thoát đặng
vì quá tội tình, quá mê luyến hồng trần hoặc đào tạo quả kiếp nặng nề quá đỗi,
vì cớ cho nên Tu thì có Tu mà thành thì không có thành, tức nhiên từ ngày Đạo bế
thì cơ siêu thoát đã mất tại mặt thế này, chính mình Đức Chí Tôn biết rằng
không thế gì các nguyên nhân tự mình đạt cơ giải thoát đặng. Hôm nay, Ngài đến
lập nền Chơn-giáo của Ngài chúng ta đã ngó thấy lòng yêu ái vô tận của Ngài là
thế nào? Chúng ta thử suy đoán không ai nói cho mình nghe hơn Mẹ của mình,
không ai dạy dỗ mình có oai quyền hơn Mẹ của mình, cái tình trạng ấy đối với mặt
thế chúng ta thế nào thì quyền năng nơi cõi Thiêng-liêng Hằng sống như in không
có mảy-may chi khác. Ngài lập giáo rồi còn một nỗi là kêu nó không đến. Ngài dạy
mà không biết chi, chính mình Ngài đã nhiều lần hạ trần lập Đạo mà 92 ức nguyên
nhân vẫn đui và điếc mà thôi, không biết để chun vào lòng yêu ái vô tận của
Ngài, đặng hưởng cái hạnh phúc vô biên của Ngài đã đào tạo.
Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu và Bần Đạo đã thuyết minh
là nắm quyền tạo hóa của Càn Khôn Vũ Trụ hữu hình trong tay Đức Phật-Mẫu. Có thể nói vào
xác thịt chúng ta, để cho chúng ta nghe lời nói tinh thần thiêng liêng của Đức
Chí Tôn, lời nói mà từ trước đến giờ chúng ta không
thế gì nghe được, nhưng Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu cơ quan siêu thoát ấy,
phải làm thế nào đặng tận độ 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị. Muốn cho đạt đặng
bí pháp siêu thoát ấy, chúng ta ngó thấy Đức Phật Mẫu đã làm gì?
Đức Chí-Tôn giao
cho Đức Phật-Mẫu nắm quyền hành để rước hết những chơn hồn khi đã đạt pháp tức
nhiên đạt cơ siêu thoát, lập vị mình đặng vào địa vị Thiêng-liêng, đạt đặng thì
phải về Hội-Yến cùng Đức Phật-Mẫu, lễ Diêu-Trì-Cung Hội Yến mà người ta gọi là Hội, nhưng thật ra chúng ta về hội hiệp vui cùng Mẹ sanh của
chúng ta đó vậy.
Đạo Pháp gọi là "Hội Yến Diêu Trì" tức nhiên chúng ta đã đạt đặng
cơ siêu thoát nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, chưa biết nếu chúng ta không
tu thì con đường ấy là gì mà chớ.? Chính mình Đức Chí-Tôn biểu Đức Phật-Mẫu tức
nhiên Mẹ sanh của chúng ta cầm cả quyền năng giải thoát trong tay đến lập Hội Yến
Diêu Trì tại mặt thế này và cả con cái của Ngài, nhứt là 92 ức nguyên nhân ấy,
nếu nhập vào cửa Đạo tùng theo chơn pháp thì đặng hồng ân của Đức Chí-Tôn cho
hưởng cái Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì tại thế này, cái cơ siêu thoát thiên hạ đã đạt
trong tay họ sẵn, tức nhiên giờ phút cuối cùng này là giờ phút hứng thú, giờ
phút chết của họ, thì họ đạt vị một cách dễ dàng, ngôi vị nào cơ quan siêu
thoát Đức Chí Tôn đã cho không họ đó vậy. Nhờ đó mà cơ quan tận độ Vạn Linh của
Đức Chí Tôn đã lập lại tại thế này, từ đây sẽ mở rộng cửa Thiêng Liêng Hằng Sống
đặng đến gom góp cả con cái của Ngài, trở về hiệp một cùng Ngài, bí pháp Hội Yến
Diêu Trì là vậy đó”(15-08 Tân-Mão 1951)
Vì tánh-tình phàm tục của
Đạo-hữu mà làm cho gay trở bước Đạo
Đức Lý Đại-Tiên đã xác định điều âý:
“Nền Đạo lập ra là nhờ có lòng đạo-đức
và tánh khiêm cung của mỗi Môn-đệ của Đức
Từ-bi. Nếu đạp vào nẻo Đạo mà còn
bôn-chôn tranh lướt theo thói thường tình thì dầu có bao
nhiêu Đạo-Hữu đi nữa, mối Đạo chẳng qua là một trường ngôn-luận của thế-gian đó
thôi, chớ công-quả đạo-đức mong chi thấy sự
kết quả xứng đáng đặng ?
“Phần nhiều Đạo-hữu vì tánh-tình
phàm tục mà làm cho gay trở bước Đạo lại e chẳng khỏi sanh ra trường náo-nhiệt
trong Đạo về buổi sau này.
“Đức Từ-bi đã lấy lòng quảng đại mà
gieo giọt nhành dương để rửa lối phàm gian, hầu đem mình giá trắng gương trong
vào nơi Cực-Lạc; đã chẳng biết tự cải lại bợn thêm tánh tục mà để cho muôn người
phải chịu khổ tâm; hành Đạo như vậy có giúp đặng ai chăng ?
“Chư Đạo-hữu mựa chớ luận bàn để phải quấy,
Lão cũng ra tay sửa trị được vậy miễn làm xong phận-sự là đủ, còn nét vạy
tà của ai để mặc ai. Lão cũng hết
lòng chìu theo tánh Từ-Bi của Đức Thượng-Đế, bằng chẳng thì Lão xuống tay bôi
xoá hết trường công quả Đại-Đạo, thì chúng sanh hết trông mong, mà kẻ chác tội-lỗi
cũng khó bề lấy sức phàm-phu để gây nên rối-rấm nữa. Đen trắng hai màu, chánh
tà hai nẻo; mạnh sức trì chí thì nhờ, yếu tâm lơi bước thì chịu.
“Ma ma, Phật Phật
hai chốn riêng phần, thưởng phạt rồi đây cũng tới”
Tu hành là gì?
“Tu là trau-giồi
lấy tinh thần mình.
“Hành là luyện tập
thân mình phải biết tùng phục tinh thần sai khiến mà làm Đạo.
Ấy vậy phép TU
chẳng phải luyện nội tinh thần mình theo đạo hạnh mà thôi, mà cái thân thể mình
đây phải tùy tùng phù hạp với Đạo tâm, thể đạo chơn chánh bởi gương mình, hễ
chúng sanh ngó Đạo nói mình, xem mình cho là Đạo mới phải.
Đạo chẳng phải
nơi lời nói, mà lại nơi kết quả sự mình làm; chẳng
phải nói câu kệ câu kinh mà tại cuộc hành vi người giữ đạo. Cái khó khăn của Đạo chẳng ở nơi sự giảng dạy mà ở tại sự thật
hành. Cái hay của Đạo chẳng phải ở tại nơi yếu lý mà ở nơi cuộc kết quả sự giáo
truyền.
Lạ chi, mình muốn nhủ người bắt rồng, cột phụng, nghĩ có khó chi tiếng biểu,
song cốt yếu là biết người có phương bắt hay là cột đặng cùng chăng?
Hễ muôn điều chi nói ra mà thế gian làm không đặng thì đành cho là mị mộng.
Huống chi anh em đồng Đạo của mình ngày nay chẳng khác nào như người đi đường
trên nẻo lạ; tốt hơn nên khuyên nhủ họ mỗi ngã khá ghi vôi, để dấu bước lần hồi
khi khỏi lạc.
Trừ ra các kinh điển Hán-văn, hay là Pháp-văn cùng của các nước khác, xưa để
lại, rõ hữu ích cho Đạo lược dịch ra, thì Tôi chẳng luận chi, chớ Tôi thấy phần
nhiều sách vở của nhiều người Đạo-hữu viết ra chẳng dùng văn từ lý lẽ giản dị,
lại dùng văn mắc mỏ, ý tứ rất cao kỳ, làm cho phần đông coi không hiểu thấu nên
không bổ ích chi cho Đạo hết.
Rất đỗi là Thầy còn phải dùng tiếng nói dễ dàng rẻ rúng mà làm thi dạy Đạo
thay. Nhờ vậy mà văn từ của Thầy ai coi cũng hiểu. Tôi xin chư Đạo hữu coi cách
hành văn của Thầy, đọc lại mấy bài thi Thầy dạy Đạo thì sẽ thấy rõ, ý tứ dầu
cao kỳ, mà câu văn ai cũng hiểu. Tôi dám chắc rằng tuy vậy mặc dầu mà cái ngòi
văn tuyệt bút rõ ràng, hễ càng thấu tứ lại càng thâm thúy nơi lòng.
Tôi nhớ có một phen kẻ nghịch Đạo để lời dèm pha biếm nhẽ rằng văn từ của
Thầy xem rất thường tình. Tôi chấp bút phân phiền cùng Thầy.
Thầy dạy rằng: Con ôi, trong anh em của con phần dốt nhiều hơn phần hay chữ,
đứa ám muội đông hơn đứa thông minh; Thầy đến chăm nom dạy dỗ đứa ngu dốt hơn
là đứa hay giỏi; thà là đứa sáng khôn quá hiểu mà chê Thầy hơn đứa dốt nghe Đạo
Thầy không rõ lý. Thầy cười rồi tiếp nữa rằng: Thầy muốn Đạo của Thầy làm thế
nào cho trẻ con lên ba tuổi cũng hiểu đặng, con nghĩ sao con?
Lại cười nữa!
Tôi hiểu lòng nhơn từ quá lẽ của Thầy cũng bắt tức cười theo. Tôi chủ ý tỏ Thánh
tứ ra đây cho chư đạo hữu làng văn hiểu, đặng từ đây tùy ý muốn của Thầy, dầu gặp
phải vấn đề khó khăn, cũng gắng chí luận bàn cho giản dị.
Ôi, phương tu cũng lại là một vấn đề khó giải lắm chút, nhưng may Tôi nhờ
ơn Đại Từ-Phụ thương dạy dỗ nên mượn điệu văn thô kịch mà viết ra đây. Ước giúp
ích công tu chư đạo hữu đôi chút, là thỏa nguyện. Luận lý dầu thô sơ, xin chư Đạo-hữu
Nam Nữ nghĩ tình tha lời dị nghị.
Tôi chỉ luận hình thể trước đã, rồi sau sẽ luận đến tinh thần. Bổn phận người
tu đối với Đời, đối với Đạo, đối với Trời ra thế nào?
Ai ai, đã mang mảnh xác phàm nầy rồi thì cũng tùng theo ba cái luật thiên
nhiên là: Luật Đời, luật Đạo và luật Trời. Ba luật ấy tương tợ như phù hạp với
luật điều của Tam-Giáo.
- Nho Giáo dạy về Nhơn sanh,
- Đạo Giáo dạy Đạo tự nhiên,
- Phật Giáo dạy Pháp môn giải thoát kiếp sanh tử. Tam Giáo tuy lập luận
khác nhau về danh từ, về cách học, về hình thức, nhưng tựu trung tinh thần thì
Tôn giáo nào cũng lấy Tâm Tánh làm căn bản học hành. Mà muốn thâm nhập vào Tâm
Tánh, khám phá những lẽ huyền nhiệm của nó thì phải dùng Vô vi pháp. Đây là điểm
Tam giáo đồng nhứt lý và có thể qui hợp thành một học thuyết.”
Bởi Thầy đã lắm lần dạy-dỗ:
“Cái hạnh và cái đức của các con, nó
phải phù hạp với cái trách nhậm mới đặng. Các con là đèn và gương soi của nhơn
loại, phải tập mình cho xứng đáng.”
Thầy cũng than:
“Ôi! Thầy vì mấy chục ức nguyên
nhân, không nỡ để cho ngôi phẩm tan tành, chớ lấy luật Thiên Thơ thì không một
ai dự vào Kim-bảng. Tu-hành vẫn trái với thế tục, mà trái với với thế tục mới đặng
gần ánh Thiêng liêng. Thầy thấy nhiều: Tu cũng muốn Tu mà thế tục không chừa bỏ.
Thế tục là nét dìu dắt cho mất tánh
Thiêng-liêng, phải lấy nghị lực cang tâm mà
kềm chế, thì cái lối diệt vong mới chẳng uổng công phu hành đạo cho”.
ĐẠO TÌM NGƯỜI:
Nay Đức Chí-Tôn mở Đạo, Ngài ban cho một quyền rộng rãi là mỗi người được
thờ Trời trong nhà. Tức nhiên Ngài đã đến tìm con cái của Ngài. Điều này chứng
tỏ “Đạo tìm người”.Còn xưa người phải đi tìm Đạo. Phải chăng ngày nay Đức Thượng-Đế mở Đạo ra cho Việt Nam để truyền bá cho một
phương “Tu tắt” vậy.
Khi nói đến TU thì nghĩ ngay rằng là phải cạo tóc vô chùa, bỏ lại sau lưng
tất cả những gì gọi là ĐỜI, suy nghĩ này chỉ đúng trong thời kỳ xa xưa, là ở phương
diện “tu xuất thế”.Thường ở những người có hoàn-cảnh trái ngang không giải-quyết
được, gần như tìm đường tự-tử vậy, ví như thất tình, thất vọng, tình phụ …Nhưng
nay, với tinh-thần Cao-Đài Đại-Đạo trong nguơn hội này, ý-nghĩ Tu như vậy không
còn nữa; gọi là “Tu nhập thế”.
Đạo Cao-Đài là một nền Đạo tu nhập thế tức nhiên có đường lối rõ-rệt; qua lời
dạy của Đức Hộ-Pháp:
“Đạo Cao-Đài vốn là một Tôn-Giáo để
cứu khổ cho nhân-loại. Đạo Cao-Đài cốt yếu không phải làm chủ thiên hạ, mà cốt-yếu
làm tôi-đòi tạo hạnh-phúc cho thiên-hạ,
tạo cái hạnh-phúc chơn thật”
Nếu quan-niệm rằng tu là “chán đời” như vậy là phải phế hết nhơn-sự, giả
sử toàn đất nước này đều đi tu kiểu đó
thì chắc-chắn đất nước sẽ rơi vào sự nghèo đói, phỏng việc tu có ích gì? Do đó mà nền Đạo ngày xưa không phổ-biến rộng.
Nói cho cùng thuở ấy việc tu-hành xem như người chơi cây kiểng vậỵ; nhưng ngày
nay “tu là để cứu thế, cứu khổ cho nhân-loại”.
Bằng chứng là ngày nay nhiều Tôn giáo, hiệp-hội họp lực lo cứu trợ, cứu đói
cho đồng bào trước bao nhiêu thiên tai, động đất, bão lụt, hỏa-hoạn, chiến-tranh,
dịch bệnh. Nếu không có những nhà hằng-tâm hằng-sản âý, nhơn-loại đau thương ai
lo cứu nguy cho? Các nhà ấy cũng đang tu, đó là tu nhơn-đạo, là phụng-sự vạn-linh.
Vì cơ khổ của nhân-loại nên Đức Chí-Tôn mới mở Đạo, ngày xưa người đi tìm Đạo,
ngày nay Đạo đi tìm người. Tại sao có chuyện trái nhau như vậy?
(Đức Hộ-Pháp sẽ nói lý-do ngày
18-2-Nhâm Thìn).
- Con người đi tìm Đạo hay Đạo đi tìm người ?
“Từ thượng-cổ tới giờ đã lắm người tự
nhiên biết rằng: Cả cái khuôn luật thiên
nhiên của tạo đoan thế nào là Thánh-ý của Đức Đại-Từ-Phụ cũng đã định vậy
“Luật thiên nhiên của Tạo-đoan buộc
chúng ta phải nhìn nhận cái khuôn luật tối yếu, tối trọng của Ngài. Trong vạn-vật
hữu-sinh chúng ta thấy chúng ta đứng đầu hơn hết vì chúng ta linh hơn vạn-vật.
Vì cớ cho nên khi chúng ta còn thiếu-niên, chúng ta chưa đủ trí thức, chúng ta
vẫn theo một khuôn luật là tìm sống mà thôi. Bởi phương bảo-vệ cái sống của mình
là khuôn luật thiên nhiên đã định vậy. Hễ khi nào chúng ta tìm sống tức nhiên
chúng ta làm thế nào cho chúng ta sống được; tức nhiên chúng ta không chịu nhượng sống cho ai hết.
“Nói rõ ra cái tấn-tuồng tranh sống
mà Bần-Đạo đã thuyết cái yêú lý của toàn thể nhân-loại trên mặt điạ-cầu này để
định vận-mạng tương-lai của họ; cái yêú-lý âý hệ trọng hơn hết. Hễ nhượng sống
thì còn tồn-tại với nhau, mà tranh sống thì tức nhiên tiêu-diệt với nhau vậy.
“Âý vậy, chúng ta tìm Đạo là tìm cái gì ?
- Là chúng ta thoát ly cho đặng cái
thú tánh để bảo tồn cái Thiên-mạng của mình. Dầu cá-nhân của chúng ta, dầu toàn
thể nhân-loại cũng vậy, duy chịu có khuôn luật ấy mà thôi.
“Như Bần-Đạo đã thuyết hai cái cơ thể:
nhục-thể và linh-hồn của chúng ta tức
nhiên là cái nguơn-linh của chúng ta đó vậy. Nó phải tương-liên mật-thiết với nhau
đặng nó điều-độ dìu-dẫn trên con đường
TU. Ta phải biết cái tánh của ta vẫn còn cái thú tánh của nó, trong xác thịt
thú này; ta tìm phương nào cho thoát ly nó, đừng chịu quyền-năng của nó ràng buộc,
ta phải đoạt cho được cái quyền thiêng liêng vô đối đó.
“Chúng ta đồng thể cùng Đấng
Chí-Linh tức nhiên đồng thể cùng ĐẠO. Đạo là cơ-quan mà toàn thể nhân loại từ
Thượng-cổ đến giờ tìm kiếm đó vậy.
“Họ tìm Đạo là tìm gì ?
“Họ tìm Đạo đặng đoạt được chơn-pháp
giải thoát kiếp sinh của họ. Nhà Phật tìm phương chước đặng diệt quả kiếp của mình,
đặng đoạt cơ siêu thoát.
“Đoạt cơ siêu-thoát đặng làm gì ?
- Đặng lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và có phương thế đồng thể cùng Đức
Chí-Tôn đặng cầm quyền tạo đoan của càn khôn vũ-trụ, ấy là mơ vọng của toàn thể nhân-loại từ xưa đến nay “Đi tìm Đạo” là vậy.
“Hỏi từ trước đến giờ họ tìm đặng
hay chăng ? (Ta để dấu hỏi mơ hồ).
“Những Đấng đã đoạt Đạo chúng ta chắc
hay không, duy mấy vị Giáo-Chủ mà thôi. Còn các Môn Đệ của các Ngài, sau khi
các Ngài đã qui liễu, chúng ta để dấu hỏi họ đã đoạt vị đặng như vậy hay chăng?
(chắc cả thảy đều để dấu hỏi mơ hồ hết). Giờ phút này chính mình Bần-Đạo đứng tại
giảng-đài này là người để đức tin vững chắc hơn toàn thể nhân-loại; mà chính mình
Bần-Đạo đã để dấu hỏi mơ hồ này thì tưởng chưa
có ai đoạt cơ siêu thoát đặng. Ấy
vậy, đoạt cơ siêu thoát đặng chi ?
- Đặng đoạt phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và cả phẩm Trời nữa, có phải
như vậy chăng ?
- Hết thảy đều nhìn-nhận là phải vậy.
Mà giờ phút này Đấng cầm quyền cả càn khôn vũ trụ làm Chúa cả chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật. Ngài đến cùng ta đem cái địa-vị của Ngài để trong mình của mỗi đứa, tức là ngôi Chí Thánh của Ngài.
Ngài đến lấy cả hình xác của chúng ta đặng làm phần tử Thánh-thể của Ngài. Phải
chăng, nếu chúng ta lấy cái triết lý chơn lý ấy
tìm tàng, chúng ta thấy rằng:
“Ông Trời ở cùng ta, ta là Ông trời
tại thế này, Cửu phẩm Thần Tiên ở trong Thánh-thể của Ngài; Thần, Thánh, Tiên,
Phật, Ngài đem để trong tay của chúng ta
cả thảy. Lý do là Đạo đến tìm ta, chớ ta không có tìm Đạo. Thượng-cổ không biết
chừng nhiều Đấng đã muốn trông thấy như ta đã trông thấy và họ muốn đặng như ta
đã đặng hôm nay, nhưng họ chưa đặng mà chúng ta đã đặng.
“Ấy vậy Bần-Đạo quả-quyết rằng, xưa
kia thiên-hạ tìm Đaọ một cách khó khăn, mà giờ phút này ta lại thấy Đạo đến tìm
ta.
“Hồi chiều mấy anh em chúng tôi có
ngồi luận-đạo với nhau, đang nhắc ngày Đức Chí-Tôn mới đến Ngài có than rằng:
Cười khan mà khóc bởi
thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả
bầy;
Biết phận gìa không chờ chống
gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy.
“Ông thấy mình tội tình qúa lẽ. Nhơn-loại,
con cái của ông đã sa-ngã, đã tội chướng qúa nhiều, chính mình Ông cầm cây gậy
đến ở cùng con cái của ông.
- Một là tìm phương giải tội cho nó.
- Hai là tìm phương đem quyền pháp cơ-quan siêu thoát đến trong tay nó.
Nếu tòan thể con caí từ tín-đồ dĩ chí Thiên-phong chức-sắc không có đoạt vị
đặng, dám chắc khi trở về cõi Thiêng-liêng Hằng-sống cái hổ nhục chẳng thế gì
chúng ta thấy đặng. Các Bạn của chúng ta đang tiếp chúng ta nơi cửa Hư-linh đó
vậy và lẽ sao đoạt không đặng không có gì tệ mạt hơn”
Thầy cho cầm CÂN CÔNG-BÌNH
tại thế:
Trong một bài Diễn-văn của Đức Hộ-Pháp ngày 14-2 Mậu-Thìn (1.928) trích một đoạn cuối để nghe Ngài nói “Lúc ban
sơ Tệ-đệ hay thưa người này, kiện người kia, chê cụ ni khen mụ nớ, cũng bởi mê
lời nói của Thầy cho cầm CÂN CÔNG-BÌNH tại thế, cây cân công bình Thầy nói đó
ngày nay Tệ-đệ cũng chưa biết chỗ mà dùng, nhứt là khi Hiệp-Thiên Đài và Cửu-Trùng-Đài
phản khắc, Thập-Nhị Thời-Quân chưa hiểu phận mình, Tệ Đệ dâng cả tên tuổi của
những người không lo hành Đạo đầy tràn một tờ sớ. Đó, Thầy mới giáng mà trả lời
.Vừa giáng thì kêu tên Tệ Đệ mà nói rằng:
- Mỗi đứa con đã sanh đứng làm người, đều có trách nhiệm thiêng liêng, Thầy
cân sức lường tài của mỗi đứa đặng định giao phận sự. Đứa dở chẳng lẽ ép làm
hay, đứa tài không lẽ làm việc dốt; dở dốt cũng cần dùng, cách thế Thầy dùng vốn
vô hạn lệ. Thầy biết chúng nó đặng, chớ con biết chúng nó sao đặng ? Tỷ như gặp
đứa sức yếu con buộc gánh nhiều, rủi bị nặng-nề vấp té đến lụy mình thì tội-tình
ấy về con gánh vác”.
Chư Đạo-hữu nghĩ coi cây cân công bình của
Tệ Đệ mới nhích bên nào cho đúng ?
Sau lại kẻ ngoại giáo kích bác chơn truyền, tìm phương diệt Đạo, Tệ Đệ dâng
một tờ sớ xin cho Thiên khiển quỉ xác ma hồn.
Thầy giáng hỏi rằng:
- “Tỷ như con có năm bảy đứa con, đứa lớn khôn nó biết hiếu hạnh kỉnh nhường
con, con thương yêu tôn trọng Rủi có một đôi đứa nhỏ dại chưa hiểu phận làm
con, nên hỗn hào, phản nghịch, thì con mới định làm sao con ?”.
Tôi trả lời rằng, sẽ dùng hình phạt mà khuyên răn trừng trị, bằng chẳng đặng
thì đành lòng từ bỏ.
Thầy nói:
-“Từ sao đặng con! Cười rồi tiếp. Nó nhỏ dại mà bỏ sao đành; tâm tánh của một
ông Cha lành, chưa nỡ nào làm đặng” .
Ngưng bút hỏi lại Tệ Đệ rằng:
-“ Sao con không nói giết phứt nó đi cho rồi !”
Chừng ấy nhớ lại tờ sớ thôi bắt
kinh hồn
hoảng vía. Khi Thầy thấy hiểu mà
sợ thì Thầy mới giải rằng:
- “Biết bao phen Thầy giáng thế lập Đạo, bị chúng sanh biếm nhẽ chê bai đến
đỗi bắt Thầy mà giết, nhưng mà khi Thầy qui Thiên, chúng nó cũng biết nhìn Thầy
mà tùng theo Đạo-giáo. Cổ kim vẫn thế, các con chớ để lòng hờn, dầu chúng sanh
chẳng rõ thiệt hơn, nói phạm thượng đến Thầy thì Thầy chịu”.
Chư Đạo-hữu nghĩ coi cái khối Từ-bi ấy đã đáng bao to mà rồi lại nghĩ dùm
cây cân công bình của Tệ Đệ để đâu cho phải chỗ đặng chỉ cho Tệ Đệ một lần làm
phước.
Một Đấng dường ấy đến cầm quyền lập Đạo, mà lại dám nảy sanh ra một
Chi-phái chửi đời cũng bởi danh Người, nghĩ âu quái dị !
Những lời này là lời Ông trời thiệt hay là lời mắng nhiếc chúng sanh, Tệ Đệ
để cho tâm linh của mỗi người thầm hiểu .
Ấy vậy thì ông trời theo đức tin của
anh em chúng ta là một Chí-linh hiện tại.
Có lẽ khi chư đạo-hữu còn trưng ra lắm bằng
cớ khác nữa; nào là các sắc dân sanh, dẫu kêu danh Người ra khác đi nữa cũng đều
thờ phượng kính trọng và nhìn nhận rằng
quả có Đấng Chí-Linh làm Chúa-tể cả càn khôn vạn loại; chủ của các đẳng linh hồn
là: vật-chất, Thảo mộc, thú cầm, nhơn-loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật gọi chung là Vạn-linh.
Vì cả thảy đặng hấp thụ đặng một điểm linh của Đấng Chí-Linh ban cho làm mạng.
Cả vạn-linh mỗi mỗi đều tùy cơ tấn hóa, y theo đẳng cấp Thiêng liêng đã định mà đoạt cho đến địa vị Chí-linh, là tương lai
cùng tận, đặng đồng thể cùng trời, vô sanh, vô tử, bất tiêu, bất diệt”
Nay, cuộc thế hầu như lộng quyền, lộng thế; như mất cả gia phong, gia pháp; cái tệ hại này do
ai? Chả lẽ bó tay mà ngồi nhìn cơ tận diệt của nhân-loại? Nhưng chắc chắn rằng cơ Thưởng phạt đến cùng
Thánh-đức thôi đã và đang diễn ra sẽ
không tránh khỏi.
Bởi ngày nay Đạo Cao-Đài không thu hẹp trong tầm nhìn giới hạn như ngày xưa
nữa. Có vậy, cơ Đạo mới phổ biến rộng-rãi được. Nhất là Đức Chí-Tôn đã đem đến cho nhân-loại một sự bình-quyền, bình đẳng
một cách tuyệt đối.
Thầy dạy:“Trên Bạch-Ngọc-Kinh có đủ Nam và Nữ, các con chớ lầm tưởng là
phân biệt. Có các Đấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều” (TNI/
9)
Quan-niệm của người Cao-Đài rất rõ-rệt về vấn-đề “Tu Thiên-Đạo”, qua lời dạy của Đức Cao-Thượng-Phẩm:
“THIÊN-ĐẠO cũng có Thể-pháp và
Bí-pháp như Thế-đạo
Một ngày thỏn-mỏn một ngày
qua,
Tiên Phật nơi mình phải ở
xa,
Luyện đặng tinh thông muôn
tuổi thọ.
Cửa Tiên xuất nhập cũng
như nhà.
TỰ THIÊN-TỬ DĨ CHÍ Ư THỨ
DÂN NHẤT THỊ
GIAI DĨ TU THÂN VI BỔN
Nho-giáo quan-niệm rằng: dầu là bậc
vua chúa cho đến thứ dân, ai cũng phải lấy sự sửa mình làm gốc. Mục đích tu
thân là nghe theo tiếng gọi của lương tâm tiến tới hoàn thiện để kết hợp với trời
và giáo-hóa người khác cũng trở nên hoàn thiện.
Tại sao phải Tu thân ?
– Vì trong trời đất này Đấng hoàn hảo đó là Trời, là Đấng Thượng-Đế.
Đức Khổng-Tử nói rằng: Thượng-đế ngự trị trong thâm tâm của mỗi người dưới
hình thức lương-tâm. Đạo làm người noi theo Trời tức là tâm-linh đó. Tôn-giáo
là phương-pháp thi-hành Đạo đó !
- Muốn tự sửa mình trước phải giữ lòng dạ cho ngay thẳng.
- Muốn giữ lòng dạ cho ngay thẳng trước phải luyện ý mình cho thành-thật,
- Muốn cho ý mình thành-thật trước phải có kiến thức cho chu-đáo,
- Muốn có kiến-thức cho chu-đáo phải học và tìm biết suốt tới chỗ uyên-thâm
của sự vật.
Khi đã trí tri và cách vật; khi đã có ý thành và tâm chánh tức là đã xúc tiến
đến việc tu thân. Thân đã tự tu, nhiên-hậu
mới có thể tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ ..
Vậy sự Tu thân chẳng những là cần thiết cho đời mình mà còn rất quan-hệ đến
việc tấn hóa của quốc gia và xã-hội. Hai chữ “Tu thân” không phải chỉ có một
ý-nghĩa tiêu-cực là sửa trị nết xấu mà là bao hàm một chương trình rộng-rãi là
trau-giồi tài đức .
Tu thân cũng không phải chỉ có một quan-niệm hoàn-toàn về cá nhân; vì phép-tắc
đối với mình là “xử kỷ ” phải luôn luôn đi kèm với phép-tắc đối với người là
“tiếp vật”.
Muốn được hoàn-hảo trong việc xử-kỷ và tiếp vật, con người cần phải thực
hành phép Tam lập tức là: lập đức, lập công, lập ngôn; đó là con đường phụng-sự
của người tu theo Đạo Cao-Đài trong kỳ Phổ-độ này.
Đức Thượng-Đế có dạy rằng :
“Nếu cả thế-gian này biết TU thì thế-gian
có lẽ cải lý thiên-điều mà làm cho tiêu
tai tiêu nạn đặng, huống lựa mỗi cá-nhân biết tu, thì là thiên-đình cầm bộ Nam-Tào cũng chẳng ích chi.”
Thầy dạy: TU là
chi?
- Tu là trau-giồi
tánh đức cho nên hiền, thuận theo lý trời đã định trước. Nếu thế-gian dữ thì thế
nào đặng bảo-toàn, còn mong-mỏi gì đặng bền vững; cá-nhân dữ, thì thế nào đặng
bảo-toàn tánh mạng.Đã bị tội cùng Thiên đình thì bị hình phạt “Nơi kiếp sống này nếu không biết tu, buổi chung qui mắc tội nơi Thiên-đình. Phẩm-vị
Tiên Phật để thưởng cho kẻ lành mới đáng phẩm-vị, chớ chẳng phải của để treo
tham cho thế gian phòng toan đoạt đặng, tuy luật lệ siêu phàm nhập Thánh thì vậy
mặc dầu, chớ cũng do cơ thưởng phạt của Thiên-đình mới đạt phẩm vị âý đặng, của vô vi chưa chắc
ai muốn lấy thì lấy tùy ý. Nếu làm Tiên Phật đặng dễ-dàng thì cả thế-gian miễn
có học chút ít thì đã đặng làm Tiên làm Phật rồi, vì luân-hồi đã có phòng sanh sanh tử tử.
“Kinh điển giúp
đời siêu phàm nhập Thánh chẳng khác chi đũa ăn cơm. Chẳng có đũa kẻ có cơm bốc tay ăn cũng đặng. Các con coi kinh điển lại rồi thử nghĩ
lại sự công bình thiêng liêng mà suy gẫm cho hay lẽ phải.
“Thầy khuyên các
con theo sau Thầy mà đến phẩm vị mình mà
hơn tuông bờ lướt bụi (TN II /5)
Ðạo Trời mở ra cho một nước
tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn.
Thánh-ngôn Thầy dạy:
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ, chư nhu.
Nghe Thầy:
Dặm dài bước lạ nẻo chưa
quen,
Thánh chất dầu trau gẫm chẳng
hèn.
Bóng trải diềm dà xuân đợi
chúa,
Tiết nồng thơ thới hạ khoe
sen.
Nhành dương nước rưới tan
lòng tục,
Nguồn Thánh đạo dìu lại
cõi Tiên.
Phước gặp Kỳ Ba Trời dẫn độ,
Mau chơn rán lướt tới rừng
thiền.
“Từ đây, Thầy là Ðứng chủ trung dìu dắt các con trong đường đạo hạnh, nhứt
nhứt đều tưởng có Thầy bên các con và đợi nơi Thầy mà thôi. Ðường tuy xa, bước
đường tuy gay trở, nhưng các con lướt nỗi sự hiểm nguy đặng đến cùng Thầy trong
buổi chung cuộc.
Môn-đệ nhiều đứa lòng vẫn nhẹ tợ lông, thấy sự chi khó thì đã muốn bần dùn
thối bước.
Ðại-Ðạo Tam-Kỳ hoằng khai tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên thơ, Hội Tam
giáo, mà vớt chúng sanh thoát vòng ly khổ, thiệt thiệt, hư hư, một mảy chi,
cũng chẳng qua là máy Thiên cơ mà thôi.
Ðạo Trời mở ra cho một nước tất
là ách nạn của nước ấy hầu mãn.
Phải giồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương soi mình hằng bữa, phải
thương yêu nhau, giúp đỡ nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu, sự
giúp lẫn ấy sẽ dìu chung các con vào tận chốn Cực Lạc thiêng liêng, để tránh khỏi
nơi khổ cùng tiều tụy.
Khá biết lấy.”
Quả thật như vậy nên Chí-Tôn nôn nóng. Vì Đạo phát trễ một ngày là một ngày
hại cho nhơn sanh, nhưng Thiên cơ đã định nên không cải qua đặng. Thầy cho biết:
“Ngày vui vẻ của sanh linh đã mòn, họa Thiên điều đã cận. Càn khôn Thế giới
còn đeo đuổi, dụng thất đức vô nhân mà gieo thảm chất sầu trong nhân loại. Họa
Âu tai Á sẽ lần lần thay phiên nhau, dụng luật Thiên đình mà diệt phạt người vô
đạo. Càn khôn cũng vì đó mà phải điên đảo.
Thầy lấy đức háo sanh mở Ðạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc
ràng khổ phạt.
Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị Tà yêu cám dỗ.
Than ôi! Chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà thuyền Bát Nhã độ người không
mấy kẻ. Ðức thừa ít có, mà tài vô dụng chẳng thiếu chi. Phong hóa khiến suy tồi,
cang thường càng loạn phép. Tài mọn, đức hèn, mượn chước khoe mình, việc kỉnh
thành Thánh giáo, hư thiệt, thiệt hư, đâu qua máy hành tàng của Tạo hóa. Nhơn
luân giữ trọn, ấy là mối đạo nhân, lo Thánh đức trau lòng là phương thoát tục.
Mấy ai xét nét thế tình, lắm kẻ khinh khi nguồn Thánh. Chư chúng sanh khá liệu
mình”.
Thánh-giáo của Đức Chí-Tôn
quở: Chư môn-đệ nét Đạo còn kém, đức chưa thêm,
e nền Ðạo phải ngửa
nghiêng.
Năm Kỷ-Ty (dl 10-2-1929)
Thầy, các con,
“Ngày tháng vẫn
mỏi mòn, mà đường Ðạo nhắm còn dài đăng-đẳng, một xuân qua là một dặm đường phải
bước tới, mà Thầy ngảnh lại bước đường của Môn-đệ Thầy
vẫn thấy sụt-sè, chớ chưa thấy chi có mòi tấn-phát. Dần qua Mẹo lại, Thìn đến Tỵ về, xuân đổi lại xuân thay, năm kề
rồi năm mãn.
Ôi! tấc bóng quang-âm nhặt-thúc, mà xem lại tâm hạnh của
mỗi con của Thầy thì nét Ðạo vẫn kém hơn, đức chưa thêm được,
tâm-chí mòn-mỏi lối đường ngay, mà nấu-nung
về nẻo vạy, e cho nền tảng Thiêng-liêng đồ-sộ phải nghiêng-ngửa. Rồi đây các
con cũng chưa chắc hết tranh-cạnh giành-xé nhau mà làm cho nền Ðạo phải chia
tan-tành.
Ðạo còn chứa tà-vạy, người còn say mối lợi-danh, thì phương chi cứu-chữa bịnh Ðạo cho hết. Thầy cũng
lắm đau-thương, nhưng cũng chẳng cải-sửa chi đặng. Thầy đã giao trách-nhậm lớn-lao
cho mỗi đứa đáng tin-cậy; chúng nó chẳng biết điều-đình, thì phú mặc Tà-quái
xâm-phạm mà thôi.
Ôi! Xuân tàn xuân đến, cái xuân của người đã sắp lụn-hao,
mà rồi cái xuân của Trời-Ðất, nước non cũng chưa chắc là
vô cùng vô tận. Các con, nếu biết đời khổ tâm, biết vày-vò tình-thế, biết chịu
kém-sút trong nẻo lợi đường danh, biết thiệt mình mà đặng cho kẻ khác, biết đổ
lụy cho kẻ vui cười, biết nhọc-nhằn trong kế sinh-nhai, biết giữ tâm-chí cho
thanh-bạch, đừng nhơ-bợn của chẳng nên dùng; biết động mối thương tâm, thương
người hơn kể mình, thì là các con được tắm-gội hồn trong, mà về cùng Thầy đó.
Nét nào chưa vẹn, khá biết sửa lần chớ nên trì hưỡn. Ðạo suy, đức kém, tà quái
lừng hơi, các con gắng chung-tâm xua-trục hết lũ vạy-tà, thì hiến-công lớn cho
Thầy đó. Thầy ban ơn cho các con”.
“Thiên mạng chi vị tánh,
suất tánh chi vị Đạo,
Tu Đạo chi vị giáo”.
Theo kinh Dịch
và Trung-dung thì nhận rằng Trời là Đấng cao trọng nhất, sinh ra quần linh vạn-vật, biến hóa Âm
Dương mà tạo thành vũ-trụ. Đó là Đấng toàn hảo tột bực, rất thiêng-liêng, vô
hình vô ảnh nhưng hành-động không ngừng, tự diễn
xuất bằng những hiện-tượng, bành trướng rất sâu xa huyền-diệu, cao thâm,
sáng-suốt, nâng đỡ và chở-che muôn loài vạn-vật.
Thật không hiện mà rõ, không động mà biến hóa vô cùng, không làm mà nên việc;
nhờ đó bốn mùa thay đổi, muôn vật sanh-sản, võ-trụ trường-tồn. Đấng hoàn-hảo nhất
đó là Trời, là Đấng Thượng-Đế ngự trị trong thâm tâm của mỗi người dưới hình thức
Lương-tâm. Đạo làm người là noi theo Trời
tức là tâm linh đó. Tôn-gíao là phương-pháp thi-hành Đạo đó, tức nhiên “Thiên mạng
chi vị tánh, suất tánh chi vị Đạo, Tu Đạo chi vị giáo”. Hiểu mối tương quan giữa
Trời và Người trong tâm-hồn thì liền thấy ý nghĩa và mục-đích của đời người.
Mục-đích ấy là TU THÂN, là nghe theo tiếng của lương-tâm tiến tới toàn thiện
để kết hợp với Trời và giáo hóa người khác trở nên hoàn thiện như mình. Vì vậy,
việc TU THÂN rất cần-thiết cho mỗi người sống trong xã-hội.
Đức Hộ-Pháp có giảng rõ câu của Trung-dung như:
Thiên mạng chi vị tánh: Mạng Trời đó là tánh, cái tánh linh của ta do nơi Đấng
Chí-linh cho ta lại do đấy mà tạo mạng sanh của ta, vận thời kiếp số của mỗi
người đều tùy điểm linh-quang lớn nhỏ, nghĩa là tùy theo mạng của mỗi người. Cả
nhơn-loại và vật-loại đều thọ nơi Đấng Chí linh một điểm linh-quang, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc lớn hoặc nhỏ, đặng định hàng phẩm đẳng cấp
của chúng sanh, vì vậy cả cơ tạo-hóa hữu-hình đều chung gọi là vạn linh sanh
chúng. Người cũng là một vật trong vạn-vật, người là nhất linh trong vạn-linh,
nhưng mà linh tánh lớn-lao hơn vạn vật, biết đặng cái tánh linh ấy là mạng trời
nên đặt tên là Thiên-mạng.
Suất tánh chi vị Đạo: Nghĩa là rèn đúc trau-giồi cái tánh, ấy là Đạo.
Người cũng đã là vật thì tự nhiên phải triêm-nhiễm vật tánh nơi mình, buộc
hễ đói phải kiếm ăn, vì có ăn mới có sống;
buộc trần lỗ phải kiếm mặc, vì có mặc mới ấm thân. Nặng mang cái mảnh hình hài
gọi rằng mạng sống, luật thiên-nhiên bảo tồn (la loi de conservation) định vậy,
phận thiêng liêng giúp thế ở nơi mình, nên cũng phải chung lộn với thế tình ăn
ăn mặc mặc. Nào là vinh thân, nào là phì
gia tuồng đời nêu trước mắt như lượn sóng ba đào xao-xuyến giữa dòng thế-sự.
Nào là yếu thua mạnh thắng, nào là ngu thiệt trí hơn, nhập vào trí-não như gươm
gíao đua tranh giữa trận lợi danh hoàn-vũ, vì vậy mà đòi phen vùi lấp tánh-linh
xu về hình thể.
Tuy vân, thế tình vẫn vậy mà cũng còn có lắm Đấng cao-minh Chơn-thần đắc kiếp,
thường xem vạn-vật mà suy đoán phận giới. Ấy vậy cái kho vô tận của Chí-linh
cũng có phương đoạt đặng. Dò đon từ bực trí-lự của mỗi loài thì thấy cả vạn-linh
đều biệt phân đẳng cấp, dầu cho cả
cá-nhân đối với trọn loài người cũng thế, rồi tìm cách thế mà luyện tập lấy
mình, gọi là TU, làm cho linh tánh khỏi thi-hài ràng buộc, thì tự-nhiên thấy nó
đặng tăng tiến lên cao, cơ bí-mật của
Chí-Tôn hiểu thấu.
Câu suất tánh chi vị Đạo có nghĩa là đem tánh-linh ra khỏi vòng nhục thể (gọi
là thoát xác) thì có thể hiệp tánh với Chí-linh cho nên Đạo.
Tu Đạo chi vị giáo nghĩa là trau Đạo
gọi là giáo.
Đào luyện cái tánh cho sáng-suốt thêm hoài gọi là TU, song cách thế mình TU
vẫn nhiều phương-pháp đặng tự-giáo lấy mình hay là cầu-giáo với kẻ cao minh
giúp giùm phương-pháp:
- Tự giáo nghĩa là mình đủ trí lự đặng đặt ra phương-pháp mà tu-luyện lấy
mình.
- Cầu giáo là cầu kẻ cao-minh mà dạy
dùm phương pháp.Tiếc thay! Bậc cầu giáo vốn nhiều người, còn bậc tự giáo xem ra
rất ít; bởi cớ ấy mà làm cho mặt địa-cầu này có nhiều Tôn-giáo.Bậc tự giáo có
ít cũng chẳng chi lạ”
Luận về CHỮ TÂM
Chữ Tâm 心 Tâm là trái tim, hay là lòng dạ con người. Ngày
xưa, tưởng lầm rằng trái tim là chỗ nghĩ-ngợi lo-lắng; nên phàm cái gì thuộc về
nghĩ ngợi, lo-lắng đều gọi là Tâm.
Đã hẳn rằng: Sự sống của con người là tùy thuộc vào trái tim, Tim ngưng đập
là người chết. Thánh-nhân đã diễn dịch cái TÂM
như vầy:
Tam điểm như tinh tượng 三 點 如 晶 象
Hoành câu tự nguyệt
tà 橫 鉤 似 月 斜
Phi mao tùng thử đắc 飛 毛 從 此 得
Tố Phật giả do tha 做 佛 者 由 他
Nghĩa của bài thơ: đây là tả hình dạng của cái tâm:
Câu 1 : Trên ba điểm như ba ngôi sao,
Câu 2 : dưới một vòng câu như vành nguyệt xế,
Câu 3, 4: cánh lông theo ấy được thành Phật do bởi gì?
Câu “phi mao tùng thử đắc” là chỉ loài có cánh biết bay cũng như loài có
lông biết chạy, nếu tùng theo tâm-lý cũng thành Phật huống lựa là người.
Thánh-nhân cũng dạy rằng biết cái tâm của mình là biết cái tánh của mình.
Biết caí tánh của mình là biết Trời vậy. Giữ cho còn cái tâm của mình, nuôi cái
tánh của mình là để thờ Trời, nên cái tâm đặt vào nơi nào đều trở thành có linh
hồn.
Chữ Nho đã biểu tượng hình ảnh ấy. Ví như:
Chữ Sĩ 士 là học trò, đặt chữ tâm 心 vào dưới sẽ thành chữ chí 志 tức nhiên kẻ Sĩ là người lập chí.
Chữ điền 田 là ruộng, đặt chữ tâm 心 ở duới sẽ thành chữ tư 思 Nhà nông luôn để tâm nghĩ về ruộng.
Chữ tương 相 là cùng nhau, đặt chữ tâm
心 ở dưới sẽ thành chữ tưởng 想 Khi đã tưởng nhớ thường để cái tâm hướng về nhau.
Qua các thí-dụ trên cho thấy rằng, cái tâm đặt nơi nào thì vật ấy sẽ có sự
sống đến, như:
- Kẻ sĩ biết để cái tâm vào hoài bão của mình, là người biết lập Chí.
- Người làm ruộng đặt hết tâm-tư vào thửa ruộng của mình là có sự suy nghĩ
(tư là lo nghĩ)
- Hai kẻ cùng nhớ nhau thì có lòng tưởng nghĩ đến (tưởng là nhớ).
Như vậy Tâm là caí Thần-linh của con
người.
Đaọ tại tâm, mà Tâm là chủ. Tâm khác nhau tùy theo trạng-thái tinh thần của
mỗi cá nhân, Tâm vô ngã, Tâm không khuất-phục và tâm do Thượng-Đế sáng tạo; có
nhiều tên gọi cho cái Tâm, như là thiên lương, là tâm linh.
Tâm linh không Tổ-quốc, tâm
linh phổ biến ở nơi nào phù hợp. Tâm
không phân biệt màu da, Tôn giáo hay tín ngưỡng. Tất cả những trở lực chia rẻ
loài người đối với tâm linh không bao giờ có, vì Tâm-linh là một vị Chúa tể ở
ngôi ba tức là “Thánh Thần”.
Muốn cho đạt được cái Tâm Thánh-thiện thì phải Tu-hành.
Tu-hành như thế nào ?
TU là trau-giồi lấy tinh-thần đẹp-đẽ.
HÀNH là luyện tập thân mình phải biết tùng phục tinh-thần sai khiến mà làm
ra lẽ Đạo.
Chung qui dầu ở nơi Tôn-giáo nào cũng lấy Tâm làm gốc:
- Thích-giáo, Đức Thích-Ca dạy:
- Minh tâm kiến tánh,
- Thật hành Bác-aí, từ-bi.
- Tam qui, Ngũ giới.
- Tiên-giáo, Đức Lão-Tử dạy:
- Tu tâm luyện tánh
- Thủ cảm ứng công bình.
- Luyện tam bửu, ngũ hành.
- Nho-giáo, Đức Khổng Thánh dạy:
- Tồn Tâm dưỡng tánh.
- Trung Hiếu làm đầu
- Tam cang Ngũ thường
Nay Đạo Cao-Đài Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi:
“Tam giáo là ba nền Đạo chánh thuở
nay, song bị tay phàm canh cải càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hóa ra phàm
giáo. Thượng-Đế lấy làm đau đớn, hằng thấy nhơn-sanh phải bị sa đoạ tội lỗi, mạt
kiếp chốn A-tỳ, nên nhứt định chuyển Tam-giáo qui nguyên Ngũ chi hiệp nhứt, chấn
hưng Tôn-giáo lại cho hoàn toàn rồi khêu sáng ngọn đèn thiêng-liêng lên để dìu
dắt bước đường cho kẻ có công
TU- HÀNH mà khỏi xảy chân, lạc lối.
Thánh-giáo của Nhàn-Âm Ðạo-Trưởng
dạy:
Cần trau đạo-đức nơi tâm.
(Mậu-Thìn - 1928 )
“Chư Ðạo-hữu biết, trước muốn rèn lòng
Đạo Đức phải khởi nơi đâu cho chắc bước đường chăng?
Ðạo-đức cần trau nơi tâm là chỗ chẳng ai thấy được. Rèn trau cho thuần-tâm
mỹ-tánh, rồi mới lần đến bề ngoài, trọn hết cả ngoài trong, thì chừng ấy
thân-hình tâm trí chắc khư, nào ai chuyển lay cho được. Lo ngoài quên trong,
che bề trong trau bề ngoài, ấy là cách-thức của Hớn Lưu-Bang đối-đãi với tướng-sĩ
đó, cũng như có xác không hồn, chuộng hữu-hình mà quên các huyền-bí chơn-truyền.
Than ôi! Có hình-thể, xương-thịt mà
chơn-hồn phưởng phất nơi xa, thì cái thân vô-dụng ấy trơ-trơ như khối đá dựa đường,
như khúc cây bên trủng. Có đèn dầu đầy mà thiếu hơi lửa nhen lên, thì cũng phải
mờ-mịt thâm u, trông chi soi sáng.
Ấy vậy, nên biết
mà răn mình, cái tâm là vật người không thấy được, khá
giồi-trau nó trước, nếu bỏ tâm kia ra ngoài, mà rèn hình-thể, thì chẳng
khác chi quì đọc kinh, đèn đốt đỏ hừng, mà thiếu Bức Thiên-Nhãn trên Ðiện vậy.
Hồn ma bóng quế cũng lên ngồi, mà ngạ quỉ vô-thường cũng xẩn-bẩn, đó là phương đem đường cho Quỉ-Vương chẳng một ai tránh được nghe. Nên hiểu kỹ lời, bằng chẳng thấu thì tu có ích chi.
Đây là đàn Cơ dành riêng cho người Pháp, khi những vị này muốn tìm hiểu chữ
TU của Đạo Cao-Đài.
Thầy dạy: L . . .“Một đàn cơ riêng biệt ít khi được thiết lập cho ai, mặc dầu
lời thỉnh nguyện có quan hệ cách mấy đi nữa cũng không đặng. Nhưng đối với con,
Thầy được hiểu lòng nhân đức, tánh từ thiện của con, nên Thầy cho con được thỏa
nguyện.
Ngoài ý chí đạo đức của con, con còn có ý tìm hiểu giáo lý mới mẻ nầy, giáo
lý mà một vài đồng bào của con đã giải thích xuyên tạc dưới một hình thức tinh
ranh.
Nơi xứ nầy dân tình rất thuần hậu và ôn hòa nên Thầy đến cũng như Chúa Cứu
Thế đã đến với chúng con để bài trừ tà thuyết và truyền bá Chơn Ðạo trên toàn cầu.
Người sống trên thế gian nầy, dầu thuộc giống dân nào, cũng chỉ có một Cha
chung mà thôi, ấy là Trời đang chế ngự số mạng của các con. Tại sao các con lại
chia rẽ nhau vì sự bất đồng đạo lý, mà chính tất cả các con đều phải chung chịu
đau khổ để rửa tội của các con ở cõi thế gian nầy.
Con để chơn vào con đường đưa đến cảnh an nhàn, hưởng những chuỗi ngày hạnh
phúc nơi cõi Niết Bàn. Con rán tiếp tục đi trên con đường vạch sẵn ấy để
theo đuổi đến mức cuối cùng.
Nhiều Ðấng Anh Linh sẽ dìu bước cho con. Các lời cầu nguyện của con sẽ được
chuẩn nhận.
Bấy nhiêu đây đủ rồi. Từ giã con.
Một đàn Cơ khác cũng của người Pháp đến hầu: Thầy dạy:
D... hãy đứng dậy và đọc.
“Thầy cho con hiểu rằng nếu không có ý muốn của Thầy, thì trên quả địa cầu
nầy chẳng có vật chi sanh tồn tất cả.
Lại có lắm kẻ đáng thương hại tự phụ rằng họ hiểu thấu cả lẽ mầu nhiệm của
Ðấng Tạo Hóa. Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần nầy tiết lậu
Thiên cơ cả. Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện. Thầy không bao giờ không cảm ứng
với những lời cầu nguyện chơn thành. Như thế đủ chứng tỏ cho con tin rằng:
- Thầy là Ðức Jéhovah của dân
Hébreux,
- Vị Chủ tể của quân lực dân Israël,
- Vị Thánh vô danh của dân Do Thái,
- Ðức Ðại Từ Phụ của Chúa Jésus Cứu Thế. Con chỉ cần cầu nguyện Thầy với
danh hiệu CAO ÐÀI thì sẽ có sự cảm ứng chấp thuận.
Con đến đây với tấm lòng thành thật để làm việc phải cho giống dân biết phục
thiện hiện đang giao phó cho con. Vậy Thầy nhờ con truyền bá giáo lý nầy cho
dân tộc đặt dưới quyền bảo hộ của con.
Chỉ có cách đó mới có thể kềm giữ nhơn loại trong tình yêu sanh chúng và
đem lại cho con một cuộc đời hòa bình bền bĩ”.
Để kết luận phần này:
“Bần Đạo giảng chữ Tu:
Duy có TU mới có thể dìu dắt nhơn loại đi đến mục
đích Đại-Đồng Thế-giới, đem hòa bình toàn thiên hạ...
Chữ TU chúng ta đã ngó thấy thiên hạ phân ra hai:
- Chủ hướng về siêu hình,
- Chủ hướng về siêu vật.
Tức nhiên cái thuyết Duy Vật và Duy Tâm nó thường phản kháng cùng nhau, buổi
này do nơi đâu mà sản xuất cái thuyết Cộng Sản và sản xuất cái thuyết Xã Hội của
toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này?
Ấy vậy, Bần-Đạo thừa dịp ấy giải rõ chữ TU và tầm chủ hướng của nhơn loại,
phải để trong mục đích nào, ấy là một cái đề chúng ta có thể nói từ Thượng-cổ đến
giờ, tiền nhân, Chư Hiền, Chư Thánh, Chư Tiên, Chư Phật đã lập Giáo và đã viết
ra không biết bao nhiêu điển luật kinh sách, mà nói không hết, giải không cùng,
huống chi đứng trên giảng đài này, lấy đề mục ấy mà nói không bao giờ đủ đặng.
Bần-Đạo xin lấy cái tinh túy của nó giải rõ ra mà thôi. Duy Tâm thế nào,
Duy Vật thế nào? Tầm nguyên lý coi nó do ở đâu xuất hiện hai lý thuyết ấy. Theo
Kinh nhà Phật ta đã nghe rõ rằng loài người có nơi mặt địa-cầu này một trăm tám
mươi ba triệu năm. Duy luận định nguyên-lý của nó, có trong năm chục triệu năm
mà thôi, bổn căn của loài người nó có tánh vật của nó sanh trong vạn vật, cũng
như con vật kia vậy, duy trong tánh vật của nó có Đức Chí-Tôn đến định Thiên-mạng
của nó, nó có hai phần, hai đặc tánh. Tánh thú và tánh Trời.
Bây giờ luận về tánh thú của nó thì nó cũng như con thú kia vậy. Tánh của
nó buộc nó đói phải cần kiếm ăn, lạnh rách phải kiếm mặc, khổ nó phải kiếm
phương làm cho nó hạnh-phúc, nó khó khăn nó phải làm cho nó sung sướng cái phàm
nghiệp của nó, thích cái gì phải kiếm phương thế nào làm cho nó thỏa thíc; thỏa
thích ấy là cái tánh thú dục nó vậy.
Huống chi nó sanh nơi thế gian này chịu trong luật định của nó là TỨ KHỔ,
thì bây giờ nó phải tìm phương kiếm thế thoát khổ cho đặng; thoát khổ và tìm hạnh
phúc với hình thể thì chẳng hề buổi nào tìm đặng, chẳng khi nào thấy hưởng được
hạnh phúc do nơi hình thể mà nó chịu khổ, tức nhiên tánh thú của nó cốt yếu đến
đặng chịu khổ, mà nó muốn thoát khổ, ấy là nó nghịch lại tánh đức luật định
thiêng liêng của nó.
Ấy vậy, khi nó còn tánh thú, nó muốn làm sao thỏa mãn, hễ thỏa mãn thú tánh
của nó, thì nhân cách của nó bị hủy diệt, nhân cách không thể bảo thủ được cho
lâu, thiên mạng nó không có phương bảo thủ, tâm linh của nó không có phương làm
chủ nó đặng thì nó phải trở nên con vật mà thôi. Vì cớ cho nên các Đạo Giáo,
các triết lý cốt yếu tìm phương nào dung hòa tánh thú của nó cho phù hạp với chơn
mạng của nó, tức nhiên làm phương nào bảo trọng sống thú của nó, phù hạp với
nhân cách đó vậy. Muốn cho đặng thế ấy, phải giải quyết cái KHỔ của nó, nó muốn
thoát khổ có một đường tồn tâm mà thôi, tồn tâm tức nhiên một thiện pháp giữ
Thiên mạng đó vậy.
Ấy vậy làm chủ cái tánh thú đặng bảo trọng Thiên mạng, tức nhiên phải dồi
mài sửa đổi luyện cả tinh thần và hình chất của mình thoát khỏi tánh thú, đặng
bảo tồn nhân cách, tức nhiên bảo tồn Thiên mạng của mình gọi là TU. Chữ TU cốt
yếu là để trau giồi cho đặng thoát cái tánh thú, bảo vệ nhân cách của mình đó vậy.
Theo cách vật trí tri, bây giờ luận về siêu hình thì chúng ta đã ngó thấy,
hễ khi nó thức - con vật nầy khi nó thức
nó tìm sống trong vạn vật - nó cùng lẽ sống
trong vạn vật. Luật của vạn vật buộc nó phải đi kiếm ăn, kiếm sống đặng bảo trọng
sanh mạng của nó. Theo trong thể pháp về cái thú tánh của nó muốn thoát được
tánh thú ấy, bởi vì nó hung hăng bạo ngược, mạnh mẽ, cừ-khôi phản trắc vô cùng
vô lối. Có nhiều khi thiên tánh, tức nhiên thiên mạng không thế gì điều khiển
nó được, người ta thấy có nhiều khi không thế gì người ta thắng nỗi thú tánh của
nó, nên tìm con đường siêu hình.
Nó thức thì nó rất hăm hở dữ tợn, hung hăng đủ thứ hết thảy đặng bảo vệ
sanh mạng. Khi nó ngủ, tức nhiên khi nó nằm ra bình-tĩnh hết dữ, nó bình định
được cả tánh chất nó bớt dữ, tức nhiên cũng như chúng ta khi còn thức, lo tìm
muôn phương ngàn kế đặng bảo thủ sanh mạng của chúng ta, bảo thủ hạnh phúc của
chúng ta nơi thế gian này; mà thật ra kiếm hạnh phúc ấy trong giấc chiêm bao của
chúng ta mà thôi. Khi chúng ta ngủ mới được an ủi, ta thức bao giờ tinh thần
cũng khổ não, vì thức ấy trong thuyết siêu hình mới xuất hiện ra hai lý thuyết
tương đương ấy. Từ Thượng Cổ đến giờ có thuyết nào giải rõ nó chưa? Chúng ta đã
ngó thấy rất ít, chúng ta định trước, chúng ta đã thấy cái thuyết “Tánh mạng
song tu” rõ rệt, ta có thể nói hai cái thuyết ấy như lý thuyết Pythagore và
Đức Chí-Tôn:
- Pythagore lấy cách vật trí tri làm căn bản đặng đi đến siêu hình, văn từ
cách vật trí tri đến siêu hình;
- Còn Đức Phật Thích-Ca lấy siêu hình làm căn bản dìu dắt cách vật. Hai lý
thuyết ấy đương đầu với nhau, mà đã thấy thật sự thì Pythagore không khi nào cầm
lấy nó, nó không có vật, nó không có hình, nó cho rằng cái sống của vạn vật nơi
mặt thế gian này do nơi vô hình xuất hiện, tức nhiên siêu hình kia làm căn bản
của cách vật trí tri; mà nếu không có cách vật trí tri đứng chung đó, chẳng hề
khi nào chúng ta thấy hai bên tương hội cùng nhau, vì vậy Ngài để chữ DYADE. Hồi
trưa Bần-Đạo đã triết lý hai chữ ấy mà hầu hết người Việt-Nam dịch chưa rõ. Bần-Đạo
nghe chữ Dyade tưởng rằng chúng ta có dịp đem cái siêu hình tả ra, tức nhiên
đem chữ Dyade đến cùng Ngài, chữ đó giải không ra.
Ấy vậy, cái lời của Chí-Tôn để trên mặt thế gian này có hai phương pháp,
siêu hình cũng trong đây, mà siêu vật cũng trong cửa Đạo này. Tại sao?
- Tại vì có một Đạo Giáo Ngài đến một thân Ngài mà thôi. Cả con cái của
Ngài đã cho đầu kiếp dưới thế gian này trước, rồi Ngài mới đến sau, Ngài chung
hiệp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu nó dâng Tam-Bửu là dâng xác thịt,
trí não, dâng cả tâm hồn tức nhiên dâng cả sanh mạng của nó cho Ngài để làm chữ
KHÍ, rồi Ngài trả chữ Khí của Càn Khôn Vũ Trụ, tức nhiên cái sống của nhơn loại
đi đến mục đích chữ TU.
Ngài biểu cả toàn thể dâng xác thịt cho Ngài, Ngài trả lộn lại cái sống của
Càn Khôn Vũ Trụ, trong mình nó sống dậy mà làm Thánh-Thể của Ngài. Chúng ta tưởng
tượng một ngày kia, toàn cả nhơn sanh đứng làm phần tử Thánh-Thể của Ngài phụng
sự cho Vạn Linh, tức nhiên phụng sự cho nhơn loại, hiệp trí não, tâm hồn dâng
cho Ngài hết, còn trở lực nào ngăn cản nữa, nhơn loại sẽ đến một cái tối trọng
và thiên hạ nhứt gia như Đức Chí-Tôn đã muốn. (Đức Hộ-Pháp thuyết 14-02
Nhâm-Thìn (1952)
PHỤ CHƯƠNG:
Phái đoàn Viện nghiên cứu
tôn giáo Cao Đài hứa hẹn gì ?
Buổi họp của Phái đoàn Viện
nghiên cứu Tôn giáo của Trung ương Chánh Phủ đến khảo cứu TÔN GIÁO CAO ĐÀI TÂY
NINH.
Đô Thành Sai-Gòn, ngày 03-4-Giáp Tuất (dl 13-5-1994)
* Phái đoàn từ Hà-Nội vào
gồm có:
1 - Phó Viện trưởng Giáo sư Lê Trung Vũ trưởng Phái đoàn.
2 - Phó Giáo sư Nguyễn Duy Ninh.
3 - Chuyên viên Nguyễn Quốc Tuấn.
4 - Nguyễn Đại.
* Phía Tôn giáo Cao Đài
Toà Thánh Tây Ninh gồm có 25 người:
1 - Phối Sư Thái Thế Thanh.
2 - Giáo sư Thái Long Thanh.
3 - Thừa sử Lê Quang Tấn.
4 - Lễ Sanh Thái Kim Thanh (Vĩnh
Long).
5 - Lễ Sanh Thượng Thiện Thanh.
6 - Ngọc Đô Thanh (Cai quản Thánh Thất Đô Thành).
7 - Sĩ Tải Nguyễn văn Khen.
8 - Sĩ Tải Nguyễn văn Đôi.
9 - Hiền Tài Nguyễn Trung Nhựt (6 vị Hiền Tài Long Hải).
10 - Chức việc Đô Thành cùng nhân sĩ (8 vị).
11 - Chức việc ở Cái Bè Tiền giang ( 3 vị).
Lúc 8 giờ ngày 05-05-1994 phái đoàn đến, cuộc tiếp xúc thường thức.
Thừa Sử Lê Quang Tấn bắt đầu để lời chào Phái đoàn và ngõ lời đáp ứng theo sự yêu cầu của Phái
đoàn trong cuộc gặp gỡ hôm nay.
Trưởng Phái đoàn Lê Trung
Vũ kính lời chào mừng quí Chức sắc có mặt và thăm viếng
sức khoẻ cùng giới thiệu tên tuổi người trong Phái đoàn (vỗ tay chào)
Thừa Sử Lê Quang Tấn giới thiệu Chức Sắc, Chức việc trong phiên họp hôm nay (vỗ tay chào)
Trưởng Phái đoàn Lê Trung
Vũ trình bày lý do việc khảo cứu của nền Tôn giáo Cao
Đài hôm nay để nhờ quí Chức sắc giải đáp cho việc nghiên cứu của chúng tôi đã
thay mặt chánh phủ thấu đáo chơn lý của nền Tôn giáo, nhứt là Cao Đài Toà Thánh
Tây Ninh, một mối Đạo khai sáng tại Việt Nam, đồng thời xin giới thiệu đồng chí
Nguyễn Duy Ninh là người đã công tác tại Tây Ninh trên hai tháng qua.
Phó Giáo sư Nguyễn Duy
Ninh nói: Tôi xin tường thuật việc tôi đi
họp tại chánh phủ Trung ương 7 ngày qua, phiên họp gồm có 7 đề mục như: chánh
trị, xã hội, kinh tế, Thương phế binh, văn hoá và Tôn giáo.
Cuộc thảo luận nhứt là nền Tôn giáo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh đã được
chánh phủ đương nghiên cứu chặc chẽ. Vì trước đây khi giải phóng đất nước xong
thì đất nước ta còn trong bối cảnh lâm thời, nên vấp ý Tôn giáo Cao Đài là đội
lốp Tôn giáo làm chánh trị, một Chánh phủ trong một Chánh phủ, nên có nhiều vấp
ý với Tôn giáo. Giờ đây Chánh phủ của ta thấu triệt Tôn giáo không phải là một
Đảng phái Chánh trị như những tin bịa đặt bên ngoài. Ấy vậy cuộc khảo cứu về
Tôn giáo hôm nay chúng tôi xin quí vị (quí Cụ) nên xếp cuộc dĩ vãng vào một bên
không còn nhắc lại và để tâm góp ý trung thực về Giáo lý cho phái đoàn chúng
tôi được ghi nhận rõ rệt để khảo cứu và
chúng tôi tin tưởng Tôn giáo Cao Đài là nền văn hoá của chủng tộc mà Chánh phủ
ta đã minh xác là một nền văn hoá tương lai của đất nước trong phiên họp vừa rồi
tại Hà-Nội (vỗ tay )
Phối sư Thái Thế Thanh nói: chúng tôi bất ngờ được gặp phái đoàn hôm nay, xin chào mừng quí Ngài và sẵn
sàng đáp ứng những đề tài mà quí Ngài đã trao đổi và tôi cũng cho biết là tháng
Giêng rồi, riêng tôi được ông Viện trưởng viện nghiên cứu Giáo lý và ông Tiến
sĩ Đặng Nghiêm Vinh mời ra văn phòng Mặt trận Tổ quốc Tỉnh Tây Ninh để tham khảo
và tìm hiểu chơn lý Đạo Cao Đài. Tôi đã trình bày rất nhiều rồi, nay quí Ngài
muốn bổ khuyết thì chúng tôi cũng sẵn sàng bày tỏ sự hiểu biết của chúng tôi.
Giáo sư Thái Long Thanh nói: Tôi xin chào mừng phái đoàn và có ý kiến: Tiền nhân có câu:
Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách.
Tôn giáo suy tồn, Chức sắc hữu nhiệm.
Ấy vậy, quí vị trong phái đoàn là thành phần trí thức, nhân sĩ, có tinh thần
xây dựng đất nước, điều ấy tôi quá đỗi mừng. Hôm nay gặp quí Ngài, chúng tôi
cũng sẵn sàng đáp ứng theo sự khảo cứu trong tinh thần đoàn kết và cởi mở, nhứt
là vừa rồi tôi được Ngài, bạn Giáo sư Nguyễn Duy Ninh tỏ bày là chánh phủ đang
cứu xét và nhận định nền Tôn giáo Cao Đài là một nền văn hoá của đất nước, tôi
quá mừng. Vậy tôi xin hiến bài thơ mà Đức Chí Tôn đã dạy. Trong đó có nói đến nền
văn hoá nhà nước. Thầy cho thi:
Thượng, hạ nhị thiên xử địa
hoàn
Việt-Nam nhứt quốc nhứt
giang san
Hoàng-đồ toàn bảo
thiên-thơ định
Đảnh-tộ trường-lưu tổ-nghiệp
tồn.
QUỐC-ĐẠO kim triêu thành ĐẠI-ĐẠO
NAM-PHONG thử nhựt biến
NHƠN-PHONG
An dân liệt Thánh tùng
Nghiêu Thuấn
Văn-hóa tương-lai lập Đại-Đồng.
Trước khi vào phòng khảo cứu tôi xin chúc bốn câu thi sau đây:
Một dòng một dõi giống nhà
ta,
Hợp sức mà thêu bức gấm
hoa
Lành dữ hai đường vừa ý chọn
Chúng ta là Đạo, Đạo là nhà.
(đồng
vỗ tay)
Thừa Sử Lê Quang
Tấn mời lên lầu, phân ngôi chủ khách (đồng an toạ)
Trưởng Phái đoàn
Lê Trung Vũ: tôi xin đề xuất các đề mục trong phiên họp hôm nay:
1 - Đạo sự.
2 - Nghi lễ.
3 - Kinh sách
Tôn giáo.
4 - Chi
phái
5- Linh tinh.
Phó Giáo sư Nguyễn
Duy Ninh: trước đây đoàn chúng tôi đi công tác tại Tây Ninh trên hai tháng, có
vào Toà Thánh gặp Hội Đồng Chưởng Quản, chúng tôi có đưa ra nhiều câu hỏi về
Giáo lý cũng như Lịch sử của Tôn giáo đã qua. Quí Chức sắc có nhiều vị trong đó
trả lời không rõ rệt nên chưa thoả mãn. Hôm nay
chúng tôi hân hạnh gặp quí Cụ lão thành, ắt quí Cụ hiểu nhiều hơn. Vậy nhờ quí Cụ thông cảm cho chúng tôi được biết:
- TÔN CHỈ và MỤC ĐÍCH của Đạo như thế nào?
- Phương pháp hành Đạo ra sao? Xưa
và nay ?
Thừa Sử Lê Quang Tấn:
- Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là thờ Trời
và các Đấng Thần Thánh Tiên Phật hầu cầu xin cứu rỗi cho các chơn linh quá vãng
được siêu thăng và cầu nguyện cho nhơn loại được thái bình
- Mục đích: giáo hoá nhơn sanh lập Đại Đồng huynh đệ.
- Giáo lý: Lấy tinh ba của Tam giáo là Nho, Thích, Lão qui về một mối, nên
chi gọi là Tam Giáo Qui nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt.
- Tổ chức: căn cứ theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền mà hành Đạo. Điều này
nếu tỏ bày cho hết, mà thì giờ có hạn, tôi xin tặng phái đoàn các Kinh sách và
tài liệu để triêm nghiệm nghiên cứu.
Còn vấn đề Nghi Lễ cũng vậy (tặng tài liệu)
Cơ Bút: Các bậc tiền bối của chúng tôi như: Đức Hộ-Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức
Thượng Sanh, Đức Quyền Giáo Tông cùng Thập Nhị Thời Quân đều là công viên chức
của chánh phủ buổi nọ, tánh ưa thi phú, nên đặt ra cuộc Xây bàn, Cầu Cơ. Trước
đó nhờ các chơn linh về dạy, hoặc hoạ thơ để học hỏi. Vào năm 1924, 1925 nhờ
các Đấng chỉ dạy, tạo ra cầu Cơ. Trong Cơ có Tiểu Ngọc Cơ và Đại Ngọc Cơ. Lần lần
các Đấng dạy thi phú.
Sau đó Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế về cơ xưng là AĂÂ đó là cách dạy của Đức
Thượng Đế trong lúc ban đầu, sau mới xưng danh rõ-rệt là Ngọc Hoàng Thượng Đế
Giáo Đạo Nam Phương và hướng dẫn, phong Chức sắc, lập Hội Thánh và chỉ
dẫn cách hành Đạo, nên cũng nhờ CƠ BÚT mới
có khai Đạo từ đó (vỗ tay)
Phó Giáo sư Nguyễn Duy Ninh: theo tôi nghiên cứu lịch sử Đạo Cao Đài xuất
phát từ Ông Ngô Minh Chiêu mà ra, sao sau này cho Phái Ông Ngô Minh Chiêu là Chi phái ? Cũng như quyển “Đại Thừa chơn
giáo” do ông Ngô Minh Chiêu soạn tác kia mà !
Thừa Sử Lê Quang Tấn trả lời: chúng tôi chấp nhận ông Ngô Minh Chiêu là vị
Giáo Tông đầu tiên do Đức Chí-Tôn phong, nhưng Ông từ khước và ông cho rằng
“Ngô thân bất độ hà thân độ” nên Ông nghiêng về pháp Tịnh luyện tinh thần và ông không ly gia phế đời hành Đạo
được. Một buổi nọ Đức Chí-Tôn mới dùng
HUYỀN DIỆU hiện tượng THIÊN NHÃN cho ông thấy trước mắt. Sau đó ông vẽ Thiên Nhãn
để thờ. Ngày Ông được phong Giáo Tông có Đức Hộ-Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức Thượng
Sanh đến nhà Ông lập Đàn cầu Cơ để độ Ông hành Đạo. Ông làm không nỗi nên từ
khước. Sau này Đức Chí-Tôn mới về Cơ phong Ông Thượng Trung Nhựt là Quyền Giáo
Tông thay thế.
Cũng như Ông Tương: ông Tương cũng xuất phát từ phía Tây Ninh mà ra. Song vì buổi Khai Đạo
đầu tiên nhơn sanh Nhập môn quá nhiều người. Người Pháp cho Cao Đài phía Tây
Ninh làm Quốc sự, mới chủ mưu xúi giục quí ông lập ra Chi Phái để chống phía
Tây Ninh. Nếu nghe theo người Pháp thì người Pháp mới cho con quí ông được miễn
phí để du học sang Pháp.
Còn Quyển Đại thừa Chơn giáo tác giả là ông Liên Hoai. Ông này hiện còn sống
ở chùa Tam Tông Miếu, tuổi nay cũng gần một trăm, ông gom các Thánh giáo cầu cơ
mới lập thành quyển Đại thừa.
Ông Sĩ Tải Đôi nói: Các Chi phái nảy sanh do sự hiểu của mỗi ông mà ông Thừa-sử
tỏ bày cũng không ngoài mưu kế của người Pháp buổi nọ gây ra sự chia rẻ để thống
trị.
Kinh sách của Đạo khi mới khai còn dùng Kinh bên Phật giáo như Minh Sư,
Minh Đường, Minh Lý…kinh ấy như Phổ đà, Mộng sơn, Kim Cang …Đến năm 1935 Đức Hộ-Pháp,
Đức Quyền Giáo Tông đã nhiều phen dâng sớ cầu xin Đức Chí tôn và các Đấng
Thiêng liêng đặng xin Kinh tận độ. Sự cầu xin từ ngày Khai Đạo 1925 đến năm
1935 Đức Chí-Tôn mới giáng Cơ cho Tân Kinh. Đó là một giọt nước Cam-lồ của Đấng
Từ Bi chan rưới cho các Đẳng linh hồn của toàn thế giới. Kinh này có cả Thiên Đạo
và Thế Đạo, xin tặng quí ngài một quyển để suy nghiệm.
Phó Giáo sư Nguyễn Duy Ninh hỏi: Sao
gọi là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển? Nếu nói hiệp tuyển thì ắt còn nhiều Thánh giáo
khác chưa phổ biến phải không? Xin quí Cụ cho chúng tôi những bài Thánh giáo ấy.
Thừa Sử Lê Quang Tấn trả lời: Đúng vậy ! Các Đấng dạy có nhiều Thánh giáo,
nhưng Hội Thánh chúng tôi trước kia phải soạn những bài nào dạy hợp thời thế mới
ấn tống ban hành, còn những bài nào có tánh cách Quốc sự thì không ấn tống ban
hành, vì không phù hợp với thời thế mà các bậc tiền bối xem rồi thì tiêu huỷ
nên chúng tôi không được rõ biết. Riêng đây tôi tìm được bài Thánh giáo còn sót
lại do Đức Lénine đã giáng trước kia, tôi xin hiến quí Ngài triêm nghiệm (biếu)
Giáo sư Thái Long Thanh nói: Nói đến Thánh giáo thì thật là huyền diệu, như
bài Thánh giáo của Đức Lénine đã giáng khi Cơ lên chưa xưng tên…Đức Quyền
Giáo-Tông đã biết, mới hỏi:
- Ai đó kìa? Có phải Chúa Tể Cộng Sản đó không?
- Đức Lénine trả lời: Vâng ! Chào quí Đại Đức. Người ta cho tôi là Chúa Cộng
Sản, thật không phải vậy, vì tôi lấy triết lý tư duy của nhà Phật mà tạo ra chủ
thuyết Xã hội chủ nghĩa để đưa nhân loại đến chỗ Đại-Đồng đó thôi ! Lấy đây mà
luận, hôm nay Chánh phủ ta cũng như Nga Sô đang sử dụng thuyết Tư-duy cải cách
đó là phù hợp với thời đại hiện nay, nhưng đáng tiếc trên thì Chánh phủ đang lo
lắng sự tồn vong của Tổ quốc mà dưới địa phương không thực hành đúng theo chủ
trương của Nhà nước. Tôi còn nhớ khi Cụ Nguyễn văn Linh đang cầm quyền Tổng Bí
thư nước ta có tuyên bố: đối với chánh sách Tư-duy chúng ta cần mạnh dạn đẩy
ánh sáng chui vào bóng tối để soi rọi sự hư nên và cần nhổ cỏ dại trong đám lúa
non. Thế mà cỏ dại đâu có nhổ hết được bao giờ ! Đồng thời tôi cũng hân hạnh được
xem quyển Hiến-pháp của Chánh phủ, tôi chẳng dám bình luận chi cả, nhưng tôi chỉ
tưởng và ước mong Hiến Pháp được Chánh phủ thêm vào 6 chữ: “TÔN GIÁO TỰ DO TRUYỀN
BÁ” thì quí biết bao !
Thầm nghĩ, nước Việt Nam hiện có bốn Tôn giáo, mà Hoà Hảo là một phần nhỏ,
không căn bản. Còn Phật giáo và Công Giáo đã có trên dưới 2.000 năm, không cần
truyền bá nữa nhân loại cũng biết. Riêng Đạo Cao-Đài khai mới 69 năm, nhơn loại
cả Thế giới làm sao thấu triệt, mà lại cũng khai tại nước Việt Nam, lẽ ra Chánh
phủ Việt Nam phải tôn trọng và nâng đỡ để Chức sắc chúng tôi được tự do truyền
bá , chẳng những trong nước mà luôn cả thế giới hầu có dìu dẫn nhơn sanh lo sự tu, làm lành lánh dữ, tránh nạn nồi
da xáo thịt, đảo lộn nhơn luân. Đó cũng là việc bảo vệ an ninh giúp đỡ chánh phủ
phần nào, vì sách có câu “Tu kỷ dĩ an bá tánh” và Đạo Khổng cũng có câu “Tự
thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn”.Ấy vậy, quí Ngài
nghĩ sao câu sách này ?
Lễ Sanh Thái Kim Thanh nói: Nói đến Chi Phái có ý muốn thống nhất, điều này
tôi nghe qua cũng mừng, nhưng Luật Pháp và Bát Đạo Nghị Định của Đức Lý đã ban
hành thì sự thống nhất cũng khó lắm đó.!
Phối sư Thái Thế Thanh nói: Từ mai đến giờ sự khảo cứu và trao đổi ý kiến
giữa phái đoàn khảo cứu và quí Chức sắc kể cũng nhiều rồi, riêng ý tôi thì trước
đây tôi đã tỏ bày với Ông Viện Trưởng Viện khảo cứu rất nhiều, giờ đây tôi
không lập lại nữa, mà chỉ nhận xét: Nếu Đạo Cao Đài không phải là Đạo của Trời-
tức là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế - thì cũng tiêu rồi. Vì từ ngày Khai Đạo đến
nay đã trải qua bao thời kỳ bị thử thách quá ư đau khổ Hôm nay nhờ có Chánh
Sách “Tư duy” của Chánh phủ ra đời, nếu Đạo của chúng tôi được có hơi thở nhẹ mới
vài năm qua, hơi thở ấy chẳng khác nào dòng
nước nhỏ từng giọt; nói trắng ra là sự tự
do tín ngưỡng chưa tự do hẳn!
Còn sự truyền bá thì không mong quí phái đoàn sớm triêm nghiệm khảo cứu
cùng giúp đỡ cho Đạo chúng tôi được khai thông sự bế tắc để thực hiện câu:
“Đạo không Đời không sức,
Đời không Đạo không quyền.
Sức Quyền tương đắc mới mong tạo thời cải thế” (PCT)
(vỗ tay)
Lễ Sanh Thượng Thiện Thanh nói: qua lời phát biểu của Ông Giáo sư Nguyễn
Duy Ninh tôi thấy có cảm giác được phấn khởi về tương lai của Tôn giáo Cao
Đài và mối liên quan mật thiết giữa Tôn
giáo và Chánh phủ được tăng thêm phần tin tưởng lẫn nhau, riêng tôi nhận thấy cõi
lòng ấm áp như không khí mùa Xuân, mà nói đến sự ấm áp tức nhiên trước đây đã
có những cái gì là lạnh lẽo của băng giá.
Tôn giáo Cao-Đài có mặt ở nước Việt Nam từ năm 1925, 1926 đến nay đã 69
năm, trải qua bao thế lực của Pháp, Nhựt, Mỹ và chế độ xã hội chủ nghĩa hiện
nay, Tôn giáo và Tín đồ Cao Đài đã chịu không iết bao nhiêu lần thử thách gian
nan, nhưng chúng tôi vẫn cam lòng kiên nhẫn để chịu đựng như:
- Người Pháp cho đạo Cao-Đài làm quốc sự, nên bắt Đức Hộ Pháp và các Chức sắc
Đại Thiên Phong đày đi ngoại quốc .
- Kế tiếp Việt Minh Cộng Sản cho chúng tôi thân Nhựt, thân Pháp nên có một
số Chức sắc và Tín đồ cũng bị tiêu diệt.
- Qua tới thời Mỹ thì Mỹ cũng cho Đạo Cao Đài thân Cộng Sản làm khó dễ Hội
Thánh, nên Đức Hộ-Pháp của chúng tôi phải lưu vong sang Miên Quốc.
- Rồi ngày nay tới Nhà nước: chế độ Xã hội chủ nghĩa thì qui trách là một Hội
đoàn đội lốp Tôn giáo để làm chánh trị. Nhưng cuối cùng thì quí Ngài đã thấy Đạo
Cao Đài có một Tôn chỉ đặc biệt, do Đức cao Đài Ngọc Đế chủ xướng, lấy sự
Thương yêu và công bằng làm tiêu chuẩn để giáo dân qui thiện trên tất cả cho xu hướng chánh trị trên thế
giới , không thân ai cũng không bỏ ai, nên chúng tôi mới bị uy-hiếp nhiều như
thế.
Giáo sư Nguyễn Duy Ninh nói: Vừa rồi tôi có xem quyển sách của Đỗ Vạn Lý
tác giả về Tôn giáo Cao Đài, trong đó có nhiều khoản không phù hợp với Cao Đài
Tây Ninh, quí vị nghĩ sao ? Cũng như cuốn Hồi ký Cao Đài mà Cụ Trần Quang Vinh
đã viết, cụ công nhận Đạo Cao Đài là một nền tảng chánh trị.
Thừa Sử Lê Quang Tấn trả lời: Ông Đỗ Vạn Lý là một Tín đồ nhập môn về Tây
Ninh do tôi tiếp dẫn, nhưng sự này do Ông Lý nghĩ sao không biết lại theo qua cơ
quan Truyền giáo, chắc Ông lầm hiểu nên viết sách ấy có nhiều sai lệch, đều
không đáng kể.
Còn Cụ Trần Quang Vinh công nhận nói: Đạo Cao Đài là một nền tảng chánh trị
thì đó là chánh Trị Đạo, chớ không phải chánh trị đời
Giáo sư Thái Long Thanh nói: về Phương diện hành Đạo xưa và nay do Cụ Giáo
sư Nguyễn Duy Ninh đã hỏi, tôi cũng thành thật mà thưa rằng: Xưa có nghĩa là
trước đây Đạo chúng tôi coi theo Pháp Chánh Truyền và Tân Luật mà thi hành:
trên có Hội Thánh, dưới có nhơn sanh, các tư kỳ phận. Còn nay không phải vậy. Từ
ngày đất nước được giải phóng thì Đạo chúng tôi lại bị thử thách quá nặng nề do
BẢN ÁN CAO ĐÀI của Mặt trận tổ quốc Tỉnh Tây Ninh tác giả và Đạo Lịnh số 01 ra
lịnh giải thể Hành Chánh Đạo, làm cho nền Đạo chúng tôi từ chỗ chánh giáo biến
thành phàm giáo, từ Hội thánh biến thành Hội đồng Chưởng quản, sở hành thu hẹp,
không có quyền truyền bá Giáo lý biến thành cái Hội chôn thây và chẳng khác nào
như người bệnh, nằm trên giường bệnh, mà bệnh ấy lá bán thân bất toại.
Chúng tôi ước mong sao Chánh phủ sớm cứu xét điều này để cho hồn Đạo chúng
tôi được tự do truyền bá, cả chức sắc chúng tôi được làm tròn sứ mạng Thiêng
liêng. Tôi thầm nghĩ: muốn đưa tổ quốc đến chỗ vinh quang, giúp đỡ nhơn sanh được
hiền lương chơn thật thì chánh quyền có trách nhiệm giáo dân, Đạo có trách nhiệm
hoá dân, gọi là cơ giáo hoá đi đôi thì câu: Đạo Đời tương đắc cho mới chánh
nghĩa để tạo thời cải thế đó vậy
Giáo sư Nguyễn Duy Ninh nói: Ba tháng qua chúng tôi đã nghiên cứu về Tôn
giáo Cao Đài Tây Ninh rất nhiều, nhưng chưa được thoả mãn, gặp quí Cụ và quí
Anh đã tỏ bày sự thật, chúng tôi đã nắm được sự chơn giả rồi, vậy chúng tôi xin
hứa rằng:
Đoàn nghiên cứu Tôn giáo chúng tôi sẽ đề đạt lên Chánh phủ nhìn nhận Tôn
giáo Cao Đài Tây Ninh là một nền Tôn
giáo lớn của nước Việt Nam và sẽ được tự do truyền bá khắp thê giới, đồng thời
chúng tôi cũng xin đề nghị với Tôn giáo: người tu hành phải thiệt tướng chơn tu
không nên tham gia về chánh trị của Đời. Nếu Chức sắc hay Tín đồ muốn tham gia
chính quyền thì chỉ sử dụng tư cách công dân mà thôi, không nên đội lốp Tôn
giáo.
(Toàn Hội đồng vỗ tay hoan nghinh)
Giáo sư Thái Long Thanh nói: Tôi xin hoan nghinh tinh thần xây dựng theo lời
đề nghị của ông Giáo sư Nguyễn Duy Ninh, mà điều này trước đây Hội Thánh chúng
tôi cũng đã áp dụng biện pháp ấy (nếu Chức sắc muốn tham gia chánh quyền thì phải
từ chức trong Tôn giáo mới được tham gia, như trường hợp của Ông Giáo Hữu Ngọc-Lương-Thanh
đã gởi chức Giáo Hữu ra tranh chức Thượng nghị sĩ theo chế độ cũ, đó là bằng cớ
(toàn hội đồng vỗ tay)]
Thừa sử Lê Quang Tấn nói: Thì giờ đã trưa, xin kết thúc và tôi xin có lời
cám ơn phái đoàn cùng toàn hội.”
GHI CHÚ:
LÉNINE (1870-1924)
Đàn Cơ ông Lénine giáng.
Vladimir Lénine là một chánh khách Nga, sanh năm 1870. Qua năm 1917 ông cầm
đầu cuộc Cách mạng lật đổ chế độ Quân chủ ở Nga, sáng lập Liên Bang Sô-Viết năm
1922, Ông là một trong các lý-thuyết-gia của Chủ-nghĩa Max tức là Chủ Nghĩa Cộng-Sản.
Ông mất năm 1924.
Đàn Cơ tại Giáo-Tông Đường, Toà Thánh Tây Ninh, ngày 25-02-1934 (Âm lịch 12
Giêng Giáp Tuất) có chơn linh Lénine giáng nói chuyện với Đức Quyền Giáo Tông.
Hầu Đàn: Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt, Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng và
vài Chức sắc Đại
Thiên phong.
Bài giáng Cơ viết bằng “Pháp văn” dịch Việt văn
Phò-loan: Đức Hộ-Pháp và Ngài Tiếp Thế.
LÉNINE (Giáng Cơ)
Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt hỏi:
Phải thật vị Lãnh tụ của nước Nga không ?
- Phải ! Xin chào chư Tôn thân mến.
Thế thì con đường được vạch sẵn. Cần phải đoàn kết các lực lượng rời rạc. Nhiều Đấng Thiêng liêng cao trọng đã đến giúp Quí Ngài. Tôi có chuẩn bị
được ở Âu-châu một Đại Công đồng nhơn loại gọi là “Chủ nghĩa Cộng-Sản”, nhưng
tinh túy xuất phát từ Phật giáo, nhờ đó Quí Ngài sẽ tìm được sau này tất cả yếu tố cần thiết cho hành vi cứu vớt
thế giới của Quí Ngài. Ôi ! Còn nhiều thế lực chống đối, nhưng hành vi nói trên
sẽ không ngăn chặn được trào lưu tâm linh vĩ đại lôi cuốn nó
Ngài Tiếp Đạo hỏi: phải chăng nền giáo lý mới ?
- Phải ! Tôn giáo mới sẽ được nghinh tiếp tuyệt diệu. Tôi đặt lòng kính trọng
của Tổ Quốc tôi dưới chân Quí Ngài.
Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt hỏi: Nước Pháp sẽ liên kết cùng chúng
tôi chăng ?
- Pháp Quốc sẽ qui phục một quyền năng vô địch.
LỜI SOẠN GIẢ (ghi thêm lần
in thứ II)
Thành kính ghi ơn Ông Quang Minh, Chức sắc Phước Thiện, đã cho tôi mượn tài
liệu về “KHẢO CỨU VỤ” của Đức Hộ-Pháp. Một việc cảm động là sức khoẻ ông ấy
đang bị đe doạ vì bịnh tim mà ông ấy nói rằng cứ ngỡ rằng có thể “tôi đi hồi
đêm hôm” này! Nhưng vừa đọc qua mấy trang quyển “Quốc Đạo Nam Phong” của Tôi,
ông thấy rằng Tôi còn có thể làm công việc này được, nên giao phần “Khảo Cứu Vụ”
cho viết, hy vọng một ngày nào tiếp tay Hội-Thánh vào công việc làm “Tân Sấm
Truyền” như Đức Hộ-Pháp đã soạn. Hơn một tiếng đồng hồ, ông và Hiền-Tài HOÀ với
tôi cùng trò chuyện. Ông ra về
tinh thần thì vui vẻ mà thể xác yếu gầy.
Khách về, tôi lên chương trình ngay, hy vọng rằng ông còn sống để thấy được
việc làm này, chắc ông cũng mãn nguyện. Tôi làm việc ngày đêm trên máy Vi-Tính,
mười ngày sau bắt đầu in, cứ vừa in vừa soạn, dự trù nửa tháng phải hoàn tất. Tập
này tặng Ông Quang Minh trước.
Sách dày 330 trang. Đọc xong, ông có mấy lời khen tặng, xin ghi vào đây gọi
là tỏ lòng kính mến và cũng là điều khích lệ, làm hành trang cho tinh thần Phụng
sự thêm cao:
Thánh Địa Tây Ninh
Tây Vức Đồ, ngày 19-9-2009
LỜI TÔN TẶNG
Kính gởi Tác giả NGUYÊN THUỶ
Thưa hai Ông Bà,
Nhân danh tình huynh họ Cao, là Môn đệ của Đấng Cao-Đài Thượng Đế, xin gởi
đến hai Ông Bà lời tri ân !
Những tưởng “Phải đi xa”, nào ngờ còn may duyên được đọc quyển sách “Chương
Trình Khảo Cứu Vụ- Học Đạo cấp Sơ Đẳng”
theo Thánh Lịnh số 114/TL năm Đinh Hợi (1947) của Đức Thiên Tôn Hộ-Pháp Chưởng
Quản Hiệp-Thiên-Đài.
Tôi đọc say mê, thích thú bởi văn từ lỗi lạc, bố cục rõ ràng, hệ thống mạch
lạc, quả là Nhân-Sĩ Cung Diêu hạ trần, nên bút pháp điêu luyện. Căn cứ đúng
theo Chương trình Huấn giáo của Tôn Sư Hộ-Pháp, đã đóng góp nhiều suy tư, tâm
tưởng, dạt dào đức hạnh, hầu phụng sự cho nhơn sanh hoà nhịp tâm vào Đạo pháp. Đó
là biết tri ân bậc tiền bối Đại Đức dày công giáo hoá cả về Thể pháp lẫn Bí
Pháp qua Thuyết Đạo, Thuyết Pháp …
Quyển sách này có giá trị cao, đúng theo phương châm hành Đạo từ thấp đến
cao (Sơ Đẳng, Trung Đẳng, Cao Đẳng) giải rõ cơ cấu Lịch sử, Tôn giáo, Giáo lý,
Triết lý, Lễ Nghi, Thờ Cúng, Địa lý, Nhân văn và Tân Luật, Pháp Chánh Truyền,
nhứt là Ngũ Giới cấm, Tứ đại điều Qui, đến lý đạo tuyệt vời theo tôn chỉ Đại Đạo-
Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi, điều quan trọng là “ĐƯA ĐẠO VÀO DỊCH” rất
xác thực.
Với niềm tin, vẫn còn tiếp tục hết chương trình Học Đạo cấp Trung và Cao Đẳng
cũng tuyệt vời và hấp dẫn làm cho đọc giả đọc mãi quên thôi. Nhờ đó mà người đọc
hoặc người tìm học Đạo có môi trường cơ sở, căn bản học, hiểu, dễ tiếp thần một
cách rõ ràng mạch lạc.
Đây là công trình Pháp thí (Hành văn, lập ngôn) công đức hà sa vậy ! Nếu không quá lời
đây là “Tài nhân” thứ nhứt đã biết tôn vâng Thánh ý Đức Giáo Chủ hữu vi truyền
đạt qua thời gian khá dài gần 60 năm mà chưa có người thực hiện được, chân giá trị cao thâm là chỗ đó.
Mừng thay! Lời Thánh nhân nói “Chọn mặt gởi vàng” Nhưng đây là kho tàng
Giáo lý của nền Đại-Đạo đã có Nhãn Thánh xiển dương. Ấy là Thiên-sứ-mạng đó
!
Mong rằng…Trong tương lai nơi Hội-Thánh Hiệp Thiên-Đài sẽ có Huyền-Linh-Quân
theo Bí pháp Chí-Tôn đã định, khi nền Đạo có Giáo-Tông hữu hình trong Tịch Đạo
ĐẠO TÂM, biết đâu sẽ có vị Huyền-Linh-Quân Nữ phái quản trị thì sao !! Để tạo
Tân Sấm Truyền Đại-Đạo.
Thân chào hai Ông Bà.
(Ký tên)
Phạm Thanh (Quang Minh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét