Khảo Cứu Vụ-Chương Trình Học Đạo Cấp Sơ Đẳng - 4 / 6 (Nguyên Thủy)

Thiên hạ đã lập luật nhiều quá, mà cái luật của thiên hạ lập ấy tưởng khi cả thảy đều thấy, dầu cho họ có thay đổi cho tới tận thế, họ chưa có phương nào làm cho nó phù hợp với cả nhân tâm bao giờ. Còn ĐỨC CHÍ-TÔN đến lập luật có một điều mà thôi là THƯƠNG-YÊU. Cả thảy đều hiểu cái luật ấy, nghĩ coi có ai tránh khỏi đặng không, người nào không có dính trong cái luật THƯƠNG
YÊU ấy thì chẳng hề họ sống được bao giờ nhứt là sống chung của đồng-loại, hoặc họ phải tự họ ly dị cả nhơn loại hay là cả nhơn-loại buộc phải đào thãi họ, nếu họ không tuân cái luật ấy.

Còn cái quyền CÔNG-CHÁNH, công-bình, chánh trực dầu một kẻ không học kia, dốt nát thế nào mà học được hai cái đặc tính quí báu ấy, tôi tưởng cả thảy thiên hạ đều cúi đầu tôn trọng kính nhường mà nhứt là THƯƠNG YÊU.

Thiên luật của ĐỨC CHÍ-TÔN là vậy !
TÂN-LUẬT Đức Chí-Tôn cốt-yếu muốn cho ta làm, đặng ta bảo vệ cái TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG của nhân loại.

Nói về phương Đông này dầu cho luận tới các quốc-gia, xã-hội đến đâu đi nữa, họ tự-trọng, họ văn-minh thế nào, họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm-luật ấy bao giờ; nếu họ ra khỏi là muốn tự bỏ cả xã-hội của họ thì nó sẽ thành cái gì chứ không thành xã-hội” (Đức Hộ Pháp thuyết ngày  30.3.nh ẤT MÙI)

 “Vì cớ cho nên cả khuôn khổ quyền-lực của ĐẠO cốt-yếu để tạo THÁNH. Bây giờ ta mới luận về quyền đời:  cả quyền đời, thật quyền của họ, thiệt lực của họ là NHƠN ĐẠO. Muốn thành tựu NHƠN-ĐẠO ấy họ phải thông minh trí-thức, lịch duyệt thế tình; thông-minh trí-thức phải học, lịch duyệt thế tình họ phải chuyên nghiệp lấy họ, nghiệp làm quan ấy.

Vì cớ cho nên một ông quan mới đầu tiên thủng thỉnh bực nhỏ lên bực cao, học đặng chuyên chú nghề nghiệp của họ, cốt-yếu họ cầm quyền trị dân ấy, đặng chi?   Họ mong mỏi gì ? - Họ mong mỏi cho toàn cả nhân-loại được hạnh-phúc, cả cái sống còn của dân được bảo thủ, cái sanh hoạt của dân được hòa-ái, tương thân. Thật ra họ không có đi ngoài khuôn khổ TAM-CANG NGŨ THƯỜNG của văn minh ta lưu lại từ thử tới giờ.”

Người Tín-đồ của một Tôn-giáo phải biết Qui Điều Giới Luật của Tôn-giáo đó, để hành đúng theo khuôn viên Đạo-pháp đã qui-định, để đạt đến mục đích, nên phải:
* Trau rèn bản thân cho ngày càng cao-thượng, làm gương-mẫu một người đạo-đức thật sự, để chính mình nâng cao tinh-thần đạo-hạnh của mình mà còn làm sáng danh nền Đạo mà vị Giáo-Chủ đã dày công sáng lập “Xem trò để đoán Thầy” là vậy.
* Thứ đến, làm một người tu là người biết cầu tiến về tâm-linh. Muốn đi đến tuyệt đích của con đường tu thì phải trau sửa con người cho nên vẹn vẻ mà Pháp-luật Đạo Cao-Đài chính là cái thang vô ngằn mà Thượng-Đế bắc sẵn cho con cái của Ngài lên đến tận cung Trời.

Lại nữa người Cao-Đài hơn ai hết phải:
- Thứ nhất: Thông việc Đạo.
- Thứ hai:   Thạo việc đời.
- Thứ ba:    trau-giồi đức hạnh.
- Thứ tư:    giữ chánh dạy người.

Muốn đặng bốn điều ấy phải tìm-tòi học hỏi để mở rộng kiến văn, nâng cao kiến thức, năng đọc Thánh ngôn cùng Kinh sách Đạo Cao-Đài. Quan-trọng nhứt là phải biết Pháp-Luật Đại-Đạo ngày nay:
* Luật là Tân-Luật và Luật Hội-Thánh.
* Pháp là Pháp-Chánh-truyền và Đạo Nghị-định.

Hệ-trọng nhứt là Bát-Đạo Nghị Định của Đức Lý Giáo-Tông đã có sự đồng ý ký tên của Hộ-Pháp đó là quyền Chí-Tôn tại thế. Đạo Nghị Định trở thành Thiên Luật có giá trị đến thất ức niên, không bao giờ thay đổi.

Thánh-ngôn dạy:
 “Các con nhớ: Biết thương thầy, mà hễ thương Thầy thì ắt thương Đạo, mà hễ biết thương Đạo thì thương hết chúng-sanh.

Các con biết Thầy là trọng thì biết trọng Đạo, mà hễ trọng Đạo thì cũng phải trọng cả chúng-sanh” (TNI/93) Vì sao lại phải “Biết” như vậy?

Bởi cơ lập Đạo là nhiệm-mầu vô giá: biết Đạo, biết ta, biết người, biết thế, biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt, rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ; biết thân nô-lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối. Có đâu đường đời còn lắm giánh xé, hại lẫn nhau, mong chi đặng tầm Tiên noi Phật (TNI/68).

Đức Chưởng Đạo
Nguyệt Tâm Chơn-Nhơn dạy:

 “Phàm PHÁP-LUẬT lập thành đều tùng sở dụng, buộc kẻ chung công hiệp trí tác thành một cơ-sở vĩ-đại, Đông Tây tương-thân tương-ái.

Bởi cớ mà Pháp-Luật vẫn nhiều mặt đặc-biệt cùng nhau, tùy theo phương dụng, chẳng thế dùng một mặt Pháp Luật nào mà thay thế vào một cơ-sở khác hành-vi cho đặng, cần thì mới lập, còn vô ích thì bỏ.

Vậy các Pháp-Luật của Chí-Tôn đã đào-tạo đều hữu ích cho cơ-quan hành-động cho Chánh-giáo của Người, một cái dấu bỏ ra cũng chẳng đặng. Hễ tùng thì Đạo thành, còn nghịch thì Đạo diệt. Cả thảy Hội-Thánh chưa ai đặng quyền ra khỏi ngoại luật. Chúng ta vâng theo mới đắc thành quyền-hành Hội-Thánh,  thảng có  một người nghịch thì làm rối loạn chơn-truyền.

Kẻ nghịch cùng Thế-đạo thì trục ngoại xã-hội hay là diệt tàn cho khỏi lưu hại, còn kẻ nghịch cùng Đạo-pháp thì tội trục ngoại Thánh-thể Chí-Tôn hay là có ngày quyền Thiêng Liêng diệt thác.

Chúng ta từ đây coi kẻ phạm Pháp-Luật như thù địch của Đạo, dùng phương trừ khử. Bần-Đạo đã thọ sắc lịnh Ngọc-Hư lo chuyển Pháp, thì không phương tha thứ điều phạm bao giờ. Từ đây Hội-Thánh Ngoại-giáo giữ nghiêm Pháp-Luật.

Bần-Đạo xin để lời cầu-khẩn cùng Giáo-Tông và Hộ Pháp cũng để lòng lo phương trừ hại, đừng vì Bác-ái, Từ-bi vị nễ”   (Ngày 3-3 Quí-Dậu  dl 26-5-1933)

Thầy cũng có nhắc-nhở:
 “Trường đời có ấm lạnh, cũng như lẽ Đạo có thạnh suy, mà cùng cực cái thạnh ắt lại suy, cùng cực cái suy ắt lại thạnh. Mà cái thạnh của Đạo thì vô cùng, người thường không phương thấu-đáo. Chơn-truyền Luật-Pháp là bất di bất dịch, ai sửa cải chơn-truyền Luật-Pháp ắt bị tội chẳng sai, dầu là địa-vị gì đi nữa. Thầy phong thưởng chúng nó đặng ắt thầy hình phạt chúng nó cũng đặng vậy”                

 “Chí-Tôn muốn con cái của Ngài nên Thánh thì phải làm sao?
Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch-sẽ làm cho thiên-hạ muốn gần, vì đáng tôn-sùng yêu-ái mà gần. Hình-luật Tam-giáo là nước Cam-Lồ để tắm rửa linh-hồn vậy. Chơn-truyền từ trước đến nay Đức Chí-Tôn để tại mặt thế trên các Đạo: Phật, Tiên, Thánh là phương để gội rửa linh-hồn mà thôi”.

Thế nên phương tu phải có LUẬT và PHÁP. Nó là nhu-cầu tối yếu, tối trọng là vậy. Pháp-Luật Đại-Đạo cần yếu cho người  TU  cũng như  chiếc cầu bắc sang sông cho người người về đến nơi đến chốn mà mình mong đợi.    

Muốn thành Thánh phải làm sao?                                                            
Thật ra chữ Thánh dưới dạng chữ Hán gồm có ba phần: phần trên có hai chữ là Chữ nhĩ bên trái là lỗ tai để nghe, nghe với mục-đích là học-hỏi; bên phải là chữ

khẩu là miệng, là để nói, tức nhiên là thi-hành ra những gì đã học được. Phần dưới là chữ vương là vua, lấy làm phương-châm hành động của người đạo-hạnh, tức là phải biết làm chủ lấy mình. Hoàn thành số 3.

Nếu giải chữ Thánh qua bốn chiều không gian, thì chữ THANH đứng vào trung-tâm, tức nhiên điều cần yếu là phải cao thượng,  rồi từ đó biết hướng thượng là nên THÁNH. Dẫu làm việc gì cũng THÀNH, được thành-công bởi mình đã noi theo căn bản tốt đẹp. Được vậy tâm-hồn THẢNH-THƠI, hạnh-phúc

6 - Tại sao Đạo Cao-Đài để cho Quyền
Vạn-linh lập Luật?
 “Nếu nói lương-tâm nhiều hạng tức nói Đạo Đời nhiều hạng.
Chẳng có một giáo-lý nào buộc đời tùng theo một mực thì chưa có một Đạo nào cầm đặng chủ quyền của đời trường cữu. Phải để cho đời trị đời, tức nhiên phải để cho lương-tâm người trị người. Cá-nhân duy tùng lương tâm mà hành-đạo thì mới thiệt Đạo.

Pháp-Luật nào không tùng lương-tâm lập thành thì không phải Đạo, vì cớ mà ĐẠO CAO-ĐÀI để cho QUYỀN VẠN-LINH lập LUẬT.

Nhơn-sanh lập Luật mà TU thì tức nhiên do tâm-lý mà hành-đạo, ngoài ra khuôn viên Luật-Pháp thì cá-nhân đặng trọn tự-do tư-tưởng của mình.

Lương-tâm là giềng mối để cột chặt tánh đức của người đời qui nhứt, vậy phải lấy Lương-tâm lập thành Đại Đạo. Thế nên Cao-Đài là ĐẠI-ĐẠO!”     

7 - Tân-luật đã gồm trọn Tam-giáo            
Pháp-Chánh-truyền dạy:
 “Pháp-Luật Tam-giáo tuy phân-biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một”.

PCT. Chú-giải: “Vì coi như một, nên Thầy mới đến cho nhân-loại lập Tân-Luật thế nào cho phù-hợp với nhơn-trí, hợp tánh với nhơn-tâm, chung chịu một Đạo-Luật, có phương hành Đạo, chẳng nghịch với Thiên-điều, đặng lập vị mình dễ-dàng mới toàn câu phổ-độ.

Buổi trước thì Thiên-điều buộc nhơn-loại phải nâng cao phẩm-hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng đoạt đức tánh mà lập vị mình, còn nay thì các Đấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn-loại đặng dìu cả chơn-hồn lên tột phẩm-vị Thiêng-Liêng đến ngang bực cùng Thầy.

Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn-trí ngày nay đã qua khỏi nguơn“Tấn hóa” thì đã tăng tiến lên địa-vị tối cao; chủ-nghĩa Cựu-Luật của các Tôn-giáo không đủ sức kềm chế đức-tin, mà hễ nhơn loại đã mất đức-tin về đạo-đức rồi, thì cơ tự-diệt vốn còn, mà cơ tự-diệt còn thì nhơn-loại khó tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng. Đời phải tùy Đạo mới còn, mà Đạo cũng phải tùy đời mới vững, biết đâu TÂN-LUẬT ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành, trong thời-gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù-hợp với nhơn-trí Đạo Đời tương đắc mà dìu-dắt cả nhơn-sanh đời đời kiếp kiếp.

Thí-dụ như có kẻ hỏi “Sao Thầy không dùng Cựu luật trong Tam-Giáo đã có sẵn rồi, lại lập chi Tân-Luật nữa, mà buộc nhơn-sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?   

TA lại đáp: Chính Thầy đã giáng cơ nói Ngọc-Hư Cung bác luật, Lôi-Âm-Tự phá cổ; ấy vậy Cựu-Luật thì Ngọc-Hư-Cung đã biếm-bác, còn Cổ-Pháp thì Lôi-Âm-Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu-Luật và Cổ-Pháp chẳng còn ý-vị chi hết. Những bực tu-hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu-Luật hay Cổ-Pháp thì trái hẳn với Thiên-điều của ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ thể thiên hành-chánh.

Bởi cớ ấy nên Chí-Tôn đã cấm Ngũ chi phái Ngọc dùng Cổ-Luật mà mê-hoặc nhơn-sanh nữa.
Hễ tùng Cựu-Luật tức phải tùng Thiên-điều, hễ tùng Thiên-điều thì khó mà lập vị cho mình đặng.
Xin xem tiếp đây thì thấy rõ Thầy đã quyết-định điều ấy nên Pháp-Chánh-Truyền dạy:
 “Vậy một mà thành ba, mà ba cũng như một”.

Ấy vậy, TÂN-LUẬT ĐÃ GỒM TRỌN TAM-GIÁO” tức là một thành ba, mà ba Cựu-luật của Tam-giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là TÂN-LUẬT”(PCT)          
Đức Ngài sẽ Thuyết sơ cái:

8 - Luật và Pháp của Đức Chí Tôn đã dành cho Thánh-Thể của Ngài thi-hành Đệ Tam
Hòa-Ước của Ngài

 “Bần-Đạo hứa sẽ thuyết-minh cái quyền-năng của Luật Thương-Yêu và Pháp Công-Chánh. Bần-Đạo đã nói sơ qua cái Luật và quyền-năng của Đức Chí Tôn đã nói buổi nọ, buổi ấy luật hình của Đức Chí-Tôn cho nhơn loại chưa có ký tờ Hòa-Ước, Đức Chưởng-Đạo đã có tả sơ qua cho chúng ta hiểu Đức Chí-Tôn buộc Thánh-Thể của Ngài và toàn nhơn-loại tùng một khuôn Luật Thương-Yêu và Bí Pháp Công-Chánh.

Khi đó Bần-Đạo hỏi Ngài: Thầy là Thầy, Cha là Cha cả thảy sao Ngài lại xưng bằng Thầy, thì Đức Chưởng-Đạo nói: Cha thì đáng Cha, Thầy thì đáng Thầy, nói đến Bần-Đạo sẽ giảng sơ qua bài thi:
Luật Thương-Yêu Quyền là Công-Chánh.
Gần thiện-lương xa lánh phàm-tâm,
Làm cha nuôi sống  âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Thiên.

Tức là Ngài cho hiểu Đệ-Tam Hòa-Ước với Đức Chí Tôn, Ngài sẽ buộc nhơn-loại nhứt là Thánh-Thể của Ngài thi hành Luật Thương-Yêu và Quyền Công-Chánh.

Bây giờ Bần-Đạo thuyết về cái năng-lực của Luật Thương-Yêu, của Quyền Công Chánh. Chúng ta đã thấy hiện-tượng trước mặt chúng ta cả cơ quan tạo đoan hữu hình. Chúng ta chẳng cần tìm sâu-xa mà hiểu là do nơi Luật Thương-Yêu mà sản-xuất: vật gì, con gì, nó cũng có tình ân-ái của nó; thoảng như nó không có tình-cảm ân-ái của nó, thì nó không sanh-sản con cái được, con người không có tình thương với nhau, ân-tình với nhau nên chồng nên vợ; Nếu không như vậy chắc là chưa có con nối dòng, truyền tử, lưu tôn cho loài người đặng.

Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, Luật Thương-Yêu dầu vạn-vật cũng thế, người cũng thế, Luật Thương-Yêu muốn đủ cao trọng hơn nữa, cao sang hơn nữa, thì định luật nơi Ngọc-Hư-Cung và Tây-Phương Cực-Lạc, tức Cực-Lạc Thế-Giái. Nếu nói thiệt đủ tinh thần mặt Luật Thương-Yêu ấy, trừ lại cơ-quan Tạo-Đoan, cả vạn-vật trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này là Cung Diêu-Trì tức nhiên là Cung Đức Phật-Mẫu đó vậy.

Nói thật nếu Đức Chí-Tôn, Ngài không có những tình-ái, không phân ra đệ-nhị xác thân Ngài, là bạn Ngài, là cơ hữu-vi Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ đương nhiên bây giờ, cũng như ta nếu chúng ta sợ cái cơ-quan Tạo Đoan ấy, tức nhiên tạo đời của mình. Nếu bên Nam, bên Nữ, sợ vợ, sợ chồng thì đâu có tạo ra đời của mình, phải có tình ái nồng-nàn nó mới nên chồng vợ. Không phải vợ chồng thương nhau mà thôi, nó còn xô đẩy cao xa hơn nữa. Nếu chúng ta biết lương-tâm, nòi giống, quốc-gia, chủng-tộc tức nhiên chúng ta tạo đời, không phải thương chồng vợ mà thôi, Luật Thương-Yêu ấy nó còn cao xa hơn nữa!

Bởi vậy cho nên Khổng-Phu-Tử lập Giáo, Đạo Nho-Tông  của Ngài chú trọng nhứt là Ngài lấy Nhơn-luân làm căn bản, chặt-chịa mạnh-mẽ chắc-chắn lắm, vì cớ cho nên Đạo Nho-Tông của Ngài để lại hơn hai ngàn năm vẫn còn nguyên-lực của nó, đương nhiên bây giờ nó còn đủ sức Chuyển-thế đặng nó làm căn-bản mạnh-mẽ chắc-chắn. Căn-bản nhơn-luân chỉ sản-xuất nơi tình-ái mà ra, ấy Luật Thương-Yêu Đức Chí-Tôn buộc phải theo, theo mới được ký Hòa-Ước với Ngài, phải thi-hành cái Luật ấy.

Tờ Hòa-Ước này, ký với Ngài phải cho có hiệu nghiệm. Ngài buộc ký với Ngài, thi-hành theo Luật, cho chúng ta khỏi phải bội ước với Ngài, đã hai kỳ ký Hòa Ước với Ngài, đều hai kỳ bội ước. Nếu chúng ta xét đoán hai kỳ trước, Ngài có buộc luật ấy hay chăng? Sao không có, có chớ! Mà tại Ngài không nói với nhơn-loại, không nói tức không buộc, không buộc thì không làm, đã có định luật mà không có buộc, không buộc thì không đặng.

Kỳ này Đức Chí-Tôn không nói, mà Đức Chí-Tôn buộc, lại buộc phải thi-hành quyền Công-Chánh, chúng ta không cần tìm Trời Đất chi cả, cơ-quan dưới thế, nếu không có mặt công-bình về tâm-lý, không có mực thước công-lý tại mặt thế này thì Bần-Đạo dám chắc rằng: Cả cơ quan hiển nhiên bây giờ không còn tồn tại được.

Có một điều khuyết-điểm chúng ta ngó thấy, một trường hỗn-loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, vì muốn thi hành mặt công-lý, tức nhiên lấy cân công-chánh làm mô-giới cả cơ quan trị thế. Nhơn-loại loạn lạc tức nhiên mặt luật công-bình chúng ta đã ngó thấy, quả nhiên không thể chối cải cái gì được. Công-chánh là nơi miệng lưỡi loài người, tức nhiên vạn-quốc đương dùng bây giờ là một phương-pháp để lường gạt tâm-lý nhơn-loại.

Mặt cân công-bình thiên-hạ gọi là công-lý mà thế gian này chưa có công-lý, mạnh thì công-lý của họ khác, giàu thì công-lý của họ khác, sang thì công-lý của họ khác, vinh hiển thì công-lý của họ khác, nghèo thì công-lý của họ khác.

Cái công-lý của nhơn-loại bây giờ là công-lý giả, vì bởi công-lý giả ấy, cho nên mới có trường hỗn loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, phải họ đem công-lý về mặt tinh-thần quả quyết, đặng cân phân cùng các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu này, nếu cân công-chánh ấy thiệt tướng của nó, thì thiên-hạ không có tương-tàn tương-sát với nhau, ngày nay máu sông xương núi, họ dùng lời, dùng tiền thực hiện công-chánh đặng lòe-loẹt nghĩa lý công chánh của họ, con người chưa có đoạt đặng công-chánh thật sự vì cớ con người chưa có mặt luật Công-Bình Bác Ái dưới thế-gian này. Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn buộc cả con cái của Ngài nhứt là Thánh-Thể của Ngài thi-hành cho được thiệt tướng.

Bởi vậy có câu Thánh-Ngôn của Ngài nói: "Ngày giờ nào các con dòm thấy một lẽ bất công nào nơi mặt thế gian này thì ngày giờ ấy chưa thành Đạo”.

9 - Thiên-Luật của Đại-Đạo:

 “Theo Bí-pháp chơn-truyền của cơ sanh-hoá phải có đủ Âm-Dương. Trong sanh-quang chúng ta có điện quang (Positif và Négatif) cũng như vạn vật có trống mái. Nền Tôn-giáo nào có đủ Âm-Dương thì mới vĩnh-cữu”.

Trong “cái tinh-túy của Tân-Luật là Chí-Tôn định cho Ngũ-giới-cấm, Tứ đại điều qui và trong ấy cốt-yếu bảo-vệ Tam cang ngũ thường của toàn thể con cái của Ngài. Đó là Thiên-luật của Đại-Đạo”.

Đức Hộ-Pháp giải rõ:
 “Muốn cho xã-hội loài người trong thế-giới này đạt được mức quân-bình tuyệt-đối thì phải có sự công-bình được lập lại bởi cán cân công-lý, mà xã-hội loài người từ xưa đến giờ chưa có công-bình thật sự.

Ngày nay Thiên-thơ đã định cho nước Việt-Nam này có được cán cân công-lý do bởi tay Thượng-Đế đến cầm đòn cân định vận-mạng cho Việt-Nam và cả nhân loại.

Cho nên khi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phồ-Độ, Đức Chí Tôn đã lập ngay Pháp-Chánh-truyền và Tân-luật tức là Thiên-điều tại thế để điều-hành guồng máy hành chánh đạo hầu bảo thủ chơn-truyền và công-bình Thiên-đạo vì nếu thiếu Pháp-Luật thì còn gì là Đạo nữa.

Ấy vậy, Đức Chí-Tôn lập Tân-Pháp là lập chủ quyền cho Đạo. Nếu chúng ta biết Đạo và ý-thức rằng Pháp-Luật là do Thiên-ý và công-lý mà lập ra thì tự nhiên phải tuyệt-đối tôn-trọng chủ-quyền đó là tuân-hành qui điều Pháp Luật Đại Đạo.

Phạm luật Đạo tức là phạm Thiên-điều, mà phạm Thiên-điều thì tội-tình kia có chi giải nỗi. 
Hội-Thánh hiệp nhau lập Luật cũng như cả Thập Nhị Khai Thiên lập Luật.
Thập nhị khai thiên lập luật giao lại cho Thầy, còn Hội-Thánh lập luật cũng giao lại cho Thầy. Vậy thì TÂN LUẬT với Thiên-điều cũng đồng giá-trị.

Dẫu cho Hộ-Pháp phạm luật cũng bị đòi đến Tòa Tam-giáo bên Cửu Trùng-Đài, thì Thiên-phẩm mình dường như không có, kể như một người đạo hữu kia vậy.

Còn Giáo-Tông nếu phạm tội cũng  phải bị đòi  đến Tòa Hiệp-Thiên-Đài thì cũng chẳng khác một người tín-đồ kia vậy.

Luật Đạo thành ra Thiên-Điều thì Hội-Thánh là Ngọc-Hư-Cung tại thế.Hội-Thánh hiệp nhau lập Luật Đạo thì cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật lập Thiên điều.

Vậy thì Hội-Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đồng một thể”  (ĐHP diễn-văn14-2 Mậu-Thìn 1928)

Cũng nên nhắc lại hồi trước khi lập Tân Luật, Đức THÍCH CA MÂU NI PHẬT tá danh CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo Đạo Nam phương. Đức Ngài có giáng Cơ tại Phước Linh Tự ngày Chúa nhựt, 24-10-1926 (âl 18-9-Bính Dần) như sau:
 “Vì Tân Luật chưa ra nên Thầy phải giải:
Ðã có Thánh Tượng Thầy thì là cốt Ngọc Hoàng con để lại chẳng nghĩa chi hết. Thầy nói cho các con rõ, vì cớ nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ thì thờ Thầy ngồi trước, vì trước là lớn phải vậy.

Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy. Thầy đã nói một Chơn thần mà biến Càn khôn Thế giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế giới, nên mới gọi là Pháp; Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng. Thầy là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các ĐẠO mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy.

Thầy lập Phật giáo vừa khi Khai Thiên lập Ðịa, nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo, rồi mới tới Nho giáo.
Nay là Hạ nguơn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.

Tỉ như Tam giáo qui nhứt thì:
Nho là trước. Lão là giữa. Thích là chót.
Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, mà đưa chúng nó lại Vô Vi chi Khí, chính là Niết Bàn đó vậy.....
Còn cổ lễ cúng thì: Rượu là Khí, Bông là Tinh, Trà là Thần.

Chỗ nhiều chấm, xin chép bổ sung câu sau đây:
"Còn như Hộ Pháp đã xuống trần rồi thì thờ chi nữa, các con nên lập ra ba bài vị đề: HỘ PHÁP, THƯỢNG PHẨM bên hữu, THƯỢNG SANH bên tả."

(Giải: Nhứt Tổ của Phật giáo Trung hoa là Bồ Ðề Ðạt Ma. Lục Tổ của Phật giáo Trung hoa là Huệ Năng. Phản tiền vi hậu: Trở ngược cái trước làm cái sau.Vô Vi chi Khí đó là Khí Hư Vô, chất Khí nguyên thỉ sanh ra Ðức Chí Tôn. Cổ lễ: Nghi lễ xưa. Niết Bàn: phiên âm từ tiếng Phạn: Nirvana, có nghĩa đen là: Ra khỏi rừng phiền não luân hồi.  Ðó là cảnh giới  hoàn toàn  sáng suốt, an vui sung sướng, của những người đắc Đạo).

10 - Ngày trước tại sao những lần Cầu Cơ hoặc Đại lễ Khai Đạo phải mượn nơi chùa Phật ?
-  Vốn có nhiều mặt Thể pháp lẫn Bí pháp:
Trước hết Thánh ý Đức Đại Từ Phụ muốn cho toàn con cái của Ngài hiểu rằng “Tam giáo vốn đồng nguyên” Phật- Thánh –Tiên tá trần lập giáo đều do Đức Thượng Đế chủ tể, Ngài chiết chơn linh phân tánh giáng trần nên nói là “Thị Ngã” ấy là Đạo, vì vậy “một thành ba, mà ba cũng như một” ấy là “Đạo sanh nhứt, nhứt sanh nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn vật”.

Về Thể Pháp: Đức Chí-Tôn mượn nơi Thiền Lâm Tự để thâu phục các Hoà Thượng: Như Nhãn Thiên phong Thái Chưởng Pháp, Ngọc và Thượng Chưởng Pháp, Nhị vị Đầu Sư: Thái Minh Tinh (Thiện Minh) sau thay Thái Nương Tinh (Ông Minh bị Đức Lý cách chức).

Còn một ý nghĩa nhiệm mầu là khi khai thiên lập địa, Đức Chí-Tôn khai Phật giáo trước,  tới Tiên giáo, sau cùng là Nho giáo. Vì Tôn chỉ Cao Đài là Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi nên đầu tiên có tượng hình Phật Thích Ca để trước Hiệp Thiên Đài chùa Gò kén biểu tượng Phật giáo có trước. Bằng chứng cụ thể là ngày Khai Đạo tại Chùa Gò-Kén, người Miên (Cambodge) họ đồn với nhau rằng “Trong cửa Đạo Cao-Đài có ông Phật Tổ của họ cỡi con ngựa trắng, nên rủ nhau vào Nhập môn nơi cửa Đạo Cao-Đài rất đông, đúng với Thánh danh “THÍCH CA MÂU NI PHẬT tá danh CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo Đạo Nam phương” hay “Thích Ca là Thầy, Thầy là Thích Ca”.

Thứ đến là buổi đầu Đạo Cao Đài chưa có cơ sở vật chất nên phải mượn các chùa chiền làm nơi gặp gỡ và cũng làm nơi Khai Lễ Đại Đạo vào năm Bính Dần (1926).

TỨ ĐẠI ĐIỀU QUI
(phần này trích Thánh giáo của Ngài Tiếp Pháp)

A - Tứ Đại Điều Qui là bốn điều luật răn cấm:
1 - Phải tuân lời dạy của bề trên. Chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.
2 - Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên Đạo, đừng nhớ cừu riêng; chớ che lấp người hiền.
3 - Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đối người trên, dười đừng lờn dễ; trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
4 - Trước mặt, sau lưng, cũng đồng một bực, đừng kính trước rồi lại khi sau.

Tóm lại: xử sự tiếp vật, nên lấy hạnh khiêm cung làm đầu. Tinh thần của lễ là kính. Phàm kính người thì luôn luôn hết dạ kính tin, dầu có mặt, hay không cũng vậy. Đừng thấy giàu mà trọng, chẳng nên thấy khó mà khinh. Thường lấy lời nhỏ nhẹ khuyên bạn làm lành. Phép nước Luật Đạo hết lòng kính giữ. Đó là phương pháp sửa mình lập đức vậy.

GIÁO HUẤN:

Đại Đạo có mở trường dạy văn chương và dạy đạo lý. Trong trường học, có thể lệ riêng.
Người muốn dự cử vào hàng Chức Sắc phải có cấp bằng của Trường Đạo mới được.

Đạo Tràng - Trường Đạo có hai lớp:
Một lớp dạy Giáo Hữu và Lễ Sanh thì do một vị Giáo Sư đảm nhiệm.

Một lớp dạy Chức Việc do Giáo Hữu đảm nhiệm. Sự giáo huấn dưới quyền Hiệp Thiên Đài kiểm soát, vì bảo thủ chơn truyền đạo pháp thuộc quyền Hiệp Thiên Đài.

Vị nào theo học mãn khóa, mà không được cấp bằng thì phải tái học nữa để thi cho đậu đạt.
Trường học văn chương - Đại Đạo có mở trường dạy văn chương.
Trẻ con từ 6 tuổi trở lên phải đến trường học.

RĂN PHẠT:

Có luật dĩ nhiên phải có răn phạt, nhưng cách răn phạt của Tôn giáo chẳng giống luật Đời, mà thật cốt yếu là răn dạy. Đại khái như:
Kẻ nào phạm giới luật, nếu có bạn khuyên can thì phải vui lòng nghe theo mà cải quá. Nếu kẻ phạm có một hai lần được khuyên can rồi, mà còn tái phạm nữa, thì chúng bạn được đem việc ấy đến trình bày với vị Chức Sắc cai quản Thánh Thất sở tại. Nếu vị Đầu Họ Đạo đã giảng dứt rồi mà kẻ ấy còn phạm tội nữa thì việc lầm lỗi này có thể đem đến Hội Thánh xem xét. Kẻ phạm Luật Đạo, có thể bị trục xuất, nếu tội lỗi không thể tha thứ

BAN HÀNH LUẬT ĐẠO
Sáu tháng sau ngày ban hành Tân Luật, chư Tín đồ phải y tuân điều lệ.
Ngoại trừ: Người hành nghề nào có phạm đến giới cấm thì phải giải nghệ, hạn định một năm.
Chức Sắc chưa trường trai được, kỳ hạn hai năm phải tập theo cho kịp.

B - THẾ LUẬT:

Cùng theo học một Thầy, tức thị anh em bạn đồng môn, mà hễ anh em thì phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trên đường Đạo và đường Đời. Tình đồng đạo, nếu ngày trước có hờn giận nhau, ngày nay nên hỉ xả. Quên lỗi cũ đặng cùng nhau tạo một nền hạnh phúc chung. Phải tránh việc cãi cọ hiện tiền, lấy đức nhẫn nhục đối đãi nhau. Trên dưới thương  nhau trong  đường Đạo và  đường Đời. Ấy là hiến lễ trân trọng lên Đại Từ Phụ vậy.

Nhơn Đạo vốn có Tam Cang, Ngũ Thường, Tam Tùng, Tứ Đức là trọng. Kẻ học Đạo lấy đó làm nền tảng cho cuộc đời mình. Gốc đã thành lập thì tự nhiên ngọn nương theo mà sanh.

Người Tín đồ Đại Đạo không nên có hầu thiếp, trừ ra, khi đã bị chích lẻ giữa đường, cần chấp nối. Hoặc vả, vợ chánh không con nối hậu, thì đặng phép cưới thiếp, song phải có vợ chánh ưng thuận mới đặng. Vợ chồng chẳng đặng để bỏ, trừ ra tội nặng như ngoại tình, thất hiếu

Con nít phải có cha đỡ đầu, phòng khi rủi bị thân côi. Con nít lên bảy tuổi phải cho học đạo, học chữ. Việc Hôn Tang, Tế sự, anh em chung lo với nhau như ruột thịt một nhà. Tang lễ không nên xa xí, không nên quàn Linh cữu lâu ngày, không nên dùng đồ màu sắc, không nên yến ẩm linh đình, không đốt vàng mả. Việc cúng tế nên dùng đồ chay. Nhạc lễ theo Tân Luật, tang phục y như xưa.

 “Quân tử chi Đạo tạo đoan hồ phu phụ”, Đạo làm người khởi đầu tại việc lập vợ chồng; gốc nếu rủi lầm lỗi thì sau ắt khó sửa chữa. Vậy nên người Tín Đồ phải kết hôn với người đồng đạo; trừ ra khi người ngoại đạo ưng thuận nhập môn trước rồi sau kết thành vợ chồng.

Trước lễ thành hôn 8 ngày, chủ hôn trai phải dán Bố cáo tại Thánh Thất sở tại, gọi là Bát Nhựt. Ấy là ngừa sự trắc trở về sau. Lễ hôn phối cần cầu chứng nơi Thánh Thất sở tại. Về việc sanh nhai, người Tín Đồ phải chọn một nghề nào không có tánh cách sát hại sanh vật, không làm bại tục, tồi phong.

C - TỊNH THẤT:

Tịnh Thất là một giáo đường thâm nghiêm. Tín đồ vào đó đặng an thần, dưỡng trí, tu luyện đến công viên, quả mãn. Nơi đây, mỗi người đặng thọ Bí quyết của Đức CHÍ TÔN truyền dạy và được dìu dắt cho đến siêu thoát ra ngoài vòng Càn Khôn.

Hạng Tín đồ nầy là bực tối thượng thừa, xong xuôi tất cả bổn phận làm người; nghĩa là chẳng còn dính dấp với gia đình, xã hội nữa, mới đặng nhập Tịnh Thất. Hội Thánh sẽ xem xét kỹ càng, trước khi thu nhận.

Tịnh Thất có kỷ luật riêng, ngày giờ công phu, hoặc ăn nghỉ, mỗi mỗi đều nhứt định. Cấm người trong Tịnh Thất giao tiếp với kẻ ngoài, hoặc thơ tín, hay bàn chuyện cũng vậy.

Trong Tịnh Thất có luật riêng, kẻ ở Tịnh Thất nhứt nhứt phải tuân theo kỷ luật ấy. Đó gọi là Luật Xuất Thế.

Tóm lại: Lễ nghi và Đạo luật tuy hình thức khác nhau, nhưng đồng đem lại một kết quả. Nghi lễ để trau giồi tâm lý, Đạo luật để cầm vững hành vi. Cả hai đều giúp cho người vững bước trên đường tu tỉnh.

Ấy vậy kẻ học phải biết quan sát, phải biết áp dụng, hầu cho mình có một tinh thần kỷ luật.

CÂU 5 : TAM QUI NGŨ GIỚI

A - Tam Qui là gì?
Người Tín hữu Cao Đài trước khi làm lễ Đức Chí Tôn đều có lấy dấu gọi là điểm Tam Qui và niệm 3 câu:
- NAM MÔ PHẬT:
Hai bàn tay chấp lại, đưa ngay lên giữa trán và mặc niệm “Nam Mô Phật". Ấy là tỏ lòng tôn kính Đức Chí-Tôn và nhớ lại Đấng toàn Tri toàn Năng, tận Thiện tận Mỹ và đức háo sanh của Ngài vô biên bao la, hằng hóa dục vạn vật. Bổn phận chúng ta cứ giữ một lòng sùng bái Đức Ngài và thể theo Đức Chí Thiện hoàn toàn của Ngài để học hỏi.

- NAM MÔ PHÁP:
Chữ “Pháp” nói đây chỉ vào chữ “Dharma” là pháp luật tự nhiên của CHÍ TÔN truyền dạy mà chúng ta phải tuân theo để tu tâm, sửa tánh của mình, hầu trở nên thuần nhiên thanh khiết. Đại để như: Tam cang, Ngũ thường, Tam tùng Tứ đức là khuôn thước đào luyện nên hiền lương quân tử! Giới, Định, Huệ là phương pháp giác ngộ Tâm linh siêu nhiên và Pháp luật tự nhiên mà người Tu phải tuân theo để đạt Đạo.

Nam Mô Pháp nghĩa là tôn kính những Pháp ấy và một lòng làm theo đặng thể hiện nhơn cách người tu hành và giải kiếp trầm luân. Ấy là thể theo tính đức của Phật Mẫu là Đấng mẹ Sanh của nhân loại

- NAM MÔ TĂNG:
Đồng thời với chúng ta biết bao nhiêu người Đạo cao, Đức dày, ta nên thân cận để nghe lời luận Đạo, thuyết Pháp và học những hành vi cử chỉ của họ. Điển hình là Hội-Thánh, Thánh Thể của Đức Chí-Tôn.Ba câu mặc niệm trên đây có ý nghĩa cũng như câu “Qui y Tam Bảo” của nhà Phật, tức nhiên: Qui Y Phật, Qui Y pháp, Qui Y Tăng.

Qui y 歸依
E: To follow Buddhism.
F: Suivre le Boudhisme.
Qui y là đem mình nương theo Phật Đạo. Nghĩa tổng quát của Qui y là theo Đạo tu hành. Người đời, muốn theo Đạo Phật thì đến chùa cho vị Hòa Thượng trụ trì làm lễ thọ “Tam qui, Ngũ giới” (Qui: Trở về, chịu về theo. Y là  nương theo)

Tam qui  có nghĩa là Qui y Tam bảo, nghĩa là: Qui y Phật, Qui y Pháp, Qui y Tăng. Trong Kinh GiácThế của Minh Lý Đạo có giải Tam qui:

Qui y Phật:
Phải giác ngộ học theo hạnh Phật,
Bằng muội mê súc vật trần gian.
Được vẻ vui thiệt nẻo Thiên đàng,
Chác phiền não là hàng Địa ngục.

Qui y Pháp:
Làm việc chánh gọi là Pháp vậy,
Theo Bàng môn nẻo ấy là Tà.
Đạo vô vi thiệt Pháp cao xa,
Hữu vi ấy sanh ra dối giả.

Qui y Tăng:
Tánh ở chơn ấy gọi là Tăng,
Lòng thanh tịnh mới rằng tu niệm.
Còn mê muội chưa tường lý nhiệm,
Lóng sạch lòng thúc liễm tu hành.

Theo Chánh pháp của Phật, chỉ căn cứ ở công đức bề trong tức ở chỗ minh tâm kiến tánh. Phật -Pháp -Tăng vốn ở nơi bổn tánh mình, chớ không phải ở nơi ngoài:
- Giữ lòng giác ngộ tức là Qui y Phật,.
- Giữ lòng chơn chánh tức là Qui y Pháp.
- Giữ lòng thanh tịnh tức là   Qui y Tăng.
Nếu trái với Tâm pháp nầy, ấy là qui y (nương theo) Bàng môn ngoại đạo.
TNHT: “Tuổi ấy qui y nhắm đã vừa”.

Ý nghĩa “Hiệp Tam Bửu” của Đạo Cao Đài:
Tất cả cũng đồng là Ba ngôi Phật- Pháp - Tăng:
Về nghi thức Lễ bái của Đạo Cao-Đài hướng về ba ngôi cũng không ngoài ý-nghĩa Tam bửu:
- Phật, quyền năng tối thượng là Đức Chí-Tôn.
- Pháp, quyền năng tạo đoan là Đức Phật-Mẫu.
- Tăng, quyền-uy giáo hoá, đứng làm đại diện qua mỗi nguơn hội như:
- Nhứt kỳ Phổ-Độ: Phật  A-Di-Đà
- Nhị kỳ Phổ-Độ:  Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
- Tam kỳ Phổ Độ: Phật Di Lạc Vương

Buổi này Phật Di-Lạc chấp chưởng quyền hành thay Trời tạo thế. Còn thay quyền Tam giáo thì có Phật Quan-Âm.

Thế nên hai ngôi Phật, Pháp không đổi, mà ngôi Tăng thay đổi tuỳ theo mỗi thời kỳ. Dù phân biệt ba ngôi như vậy nhưng về bản thể cũng gồm về duy nhứt mà thôi.

Điều dễ nhận ra nhứt là thời tiền khai Đại-Đạo, Đức Thượng-Đế đến với ba vị Xây bàn thường tá danh là AĂÂ cũng biểu hiệu ba ngôi cùng chung một bản thể, tức là cùng chung một gốc, mà gốc ấy chỉ có một, xuất hiện từ chữ vần đầu tiên là A (gốc La-tinh) nhưng  khi qua Việt Nam (Á châu) liền biến thể: một sanh ba là AĂÂ:
A (gốc của tiếng La-tinh (Âu châu) tượng Thái cực.
Ă (dấu  Ă như nửa vành trăng) tượng Lưỡng Nghi.
 (dấu  đủ cả âm dương) tượng ngôi Tứ Tượng.

Ba chữ AĂÂ là chỉ quyền uy tối thượng của Đấng Thượng Đế, “một sanh ba, ba sanh vạn vật”, nắm ngôi chủ tể càn khôn vũ trụ. Ngày nay, Ngài đã đến với nhân loại, còn cho biết rằng Ngài dùng Quốc ngữ làm chính tự và “Chi chi cũng tại Tây Ninh mà thôi”. Chắc rằng tiếng Việt  sẽ trở thành Quốc-tế-ngữ và chính đây là thứ “Văn dĩ tải Đạo”tức là văn hoá nhà Nam sẽ chở Đạo đi khắp nơi để phổ truyền Đạo khắp Càn Khôn Vũ trụ trong một trật tự.

Tóm lại:
Thánh Ngôn ngày 15-9 Bính Dần (dl 21-10-1926)
 “Thầy nói cho các con rõ: Vì cớ nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ thì thờ Thầy ngồi trước, vì trước là lớn phải vậy.
 “Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy; Thầy đã nói một Chơn Thần mà biến Càn Khôn Thế Giái và cả nhơn loại:
-  Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
- Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
- Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Thầy khai  Bát Quái  mà tác  thành  Càn Khôn Thế Giái, nên mới gọi là Pháp; Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng.

Thầy là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy.
Thầy lập Phật giáo vừa khi khai Thiên lập Ðịa, nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo, rồi mới tới Nho giáo. Nay là Hạ nguơn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.

Tỉ như Tam Giáo qui nhứt thì:
- Nho là trước,
- Lão là giữa,
- Thích là chót.

Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, mà đưa chúng nó lại vô vi chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy.

Còn cổ lễ cúng thì:
- Bông là Tinh.  Rượu là Khí.  Trà là Thần.

B - Ngũ giới cấm là gì ?
Người tu là những người luôn có tinh thần cầu tiến: bởi họ rất muốn nghe, muốn sửa mình. Đường Đạo cũng như đường học vấn là nấc thang vô ngằn. Tu là sửa mình.

Dù bất cứ một Tôn giáo nào cũng có Qui điều giới luật cho Tôn giáo đó. Nhất là Đạo Cao-Đài là Phật giáo chấn hưng, nên có những giới luật giống nhau, nhất là Ngũ giới cấm, là Năm điều răn cấm, để làm nên cho người, là:

Nhứt bất sát sanh: điều cấm thứ nhứt là không sát hại sinh vật. Dù là giết sinh vật để ăn thịt hay là giết trong bất cứ hình thức nào, cho đến loài ong kiến cũng vậy. Vô cớ mà giết nó cũng bị luật cấm, để tránh nghiệp quả báo

Nhì bất du đạo: tức nhiên vật đều có chủ mà mình lấy của người, xem như là trộm cắp, không được phạm vào giới cấm này.

Tam Bất Tà dâm: Những sự dâm loàn, cấm làm hại đến người, hoặc dưới hình thức làm loạn luân thường cũng bị ngăn cấm.

Tứ bất tửu nhục: Khi đã hiểu sự sống của bạn đồng sanh phải tôn trọng lại càng không nên giết con vật để ăn thịt, uống rượu. Sự say sưa làm cho mất nhân cách mà còn làm hại đến sức khoẻ và tổn cho tinh thần nữa.
Ngũ bất vọng ngữ: Sự nói dối hoặc lừa đảo là điều giới cấm sau cùng.

Sau đây là lời dạy của Đức Thượng-Đế giải rõ vì sao phải có năm điều giới cấm:

1 - NHỨT BẤT SÁT SANH:
Năm Mậu Thìn (1-1928)  Đức Chí Tôn dạy rằng:
 “Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn-khôn Thế-Giới thì khí Hư-Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-Cực.

Thầy phân Thái-Cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra Tứ-Tượng, Tứ-Tuợng biến Bát-Quái, Bát-quái biến-hóa vô cùng mới lập ra Càn-Khôn Thế-Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: vật-chất, thảo mộc, côn-trùng, thú-cầm  gọi là chúng-sanh.

Các con đủ hiểu rằng:
Chi-chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự-sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.

 Cái sống của cả chúng-sanh, Thầy phân-phát khắp Càn-Khôn Thế-Giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa.

Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa-sanh cũng vậy, đến thế nầy lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả-báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy.

Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy.”

Tìm hiểu qua Thánh ngôn Thầy dạy, câu:
 “Các con đủ hiểu rằng: Chi-chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự-sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận”.

Phải hiểu rằng: Khi một Tiểu Chơn Linh (Điểm tánh của Chí Tôn chiết ra cho mỗi người) tách khỏi cội sanh mình thì tùng Đạo biến hóa, lưu hành khắp Càn Khôn Thế Giới, mà hễ đến đâu thì hấp thụ khí chất của Vũ Trụ cấu tạo cho mình một vật thể. Như hiện giờ chúng ta có một phần hồn (tức điểm tánh của Đức Chí Tôn chiết ra) và một phần xác do Thái Cực Âm Dương, Ngũ Hành cấu hợp (Khí chất của Võ Trụ) hồn xác hỗn hóa thành một đơn vị cá nhơn có sanh mạng.

Đạo Đức Kinh chương 42 nói rằng: “Vạn vật phụ Âm nhi bảo Dương xung khí dĩ vi hòa” (Muôn loài đều do Âm Dương ôm ấp nhau, Âm Dương xung khắc mà lại điều hòa thành mạng sống). Chính cái mạng sống ấy do Tiểu Chơn Linh (Linh Hồn) vi chủ, cho nên Đức Chí Tôn nói rằng: “Chi chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống, ắt có Thầy. Thầy là cha của sự-sống”.

Sách Nho có câu: “Phụ Mẫu ái tử vô sở bất chi” (Cha Mẹ thương con không sót chỗ nào). Đó là Cha Mẹ phàm còn như thế, huống chi Đức Chí-Tôn là “Đại Từ Phụ” Thiêng Liêng “hóa dục quần sanh”. Đức Ngài sanh hóa vạn vật; tùy thời Khai Đạo. Hằng năm xoay chuyển bốn mùa, tám tiết. Năm loài ngũ cốc và các thứ thảo mộc theo thời tiết mà hóa sanh để nuôi dưỡng cái sống còn của vạn vật. Bằng cớ ấy đủ chứng minh lòng háo sanh vô tận của Đấng Thượng Đế.

Đức Chí Tôn ngự ở ngôi Thái Cực Thánh Hoàng là nguồn cội sanh hóa muôn loài vạn vật. Đức Ngài là một nguồn sống tràn ngập Vũ Trụ. Tất cả vạn vật đều có được sanh mạng từ trong nguồn sống vô biên ấy. Thế nên Đức Chí Tôn ví ngôi Thái Cực Thánh Hoàng cũng như một cội sanh. Mỗi sanh vật cũng như cành hoa trong cội ấy tất phải có đủ ngày giờ nhứt định để nó sanh biến thêm ra.

Ví dụ: Hột đậu phải có đủ thời tiết, để nó nứt mộng, lên cây rồi mới sinh trái đậu khác được. Thế nên ai giết một sanh vật là sát hại một kiếp sanh, không cho tiến hóa. “Sự sống là Thầy, mà giết Thầy không phải dễ”.

Luật thế gian còn định tội nặng nề cho kẻ sát nhơn,  huống chi luật tự nhiên Nhơn Quả, cho nên kẻ giết mạng sống thì phải “chịu quả báo không sai” là vậy.

Đức Chí-Tôn cấm sát sanh cũng nhiều phương diện.
Về Tôn giáo: cứ suy gẫm mấy điều đã nói trên cho nó nhập tâm rồi mới biết sợ luật Trời mà chẳng dám sát hại sanh vật. Đó là một cách trì giới đắc lực vậy.

Không sát hại là một việc, rồi còn phải tùy phương tiện mà giúp đỡ muôn loài là một việc khác nữa. Lợi sanh vạn vật tức là lợi sanh cho cá nhân mình. Lòng bác ái dạy chúng ta yêu thương muôn vật như yêu thương thân mình.

Vả lại, muôn loài vạn vật do một Ông Cha mà sanh thành, nên chúng ta cùng muôn loài vạn vật là anh em. Thế nên chúng ta mở rộng lòng yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau trên đường về với Đại Từ Phụ. Lòng bác ái nên vâng theo đức háo sanh của Thái Cực Thánh Hoàng mà thể hiện .

Lại nữa: Người, được Đức Thượng-Đế ban cho trí khôn là để thương lại muôn loài vạn vật và cả những người kém cỏi hơn mình. Nếu người hiểu Đạo mà giết sanh vật để ăn, thì phạm vào giới cấm thứ nhứt và thứ tư.

Con vật mà chúng ta nuôi hằng ngày tức nhiên gây cho chúng một sự tin tưởng, bởi mỗi ngày ta kêu chúng lại cho ăn, nay chúng ta cũng kêu lại để bắt giết, tức nhiên ta phạm tội bất TÍN, giết để ăn cho béo miệng là tội bất NHÂN, giết để cúng tế ông bà là tội bất LỄ, trong khi nuôi con vật dĩ nhiên là có sự mến thương giờ ta lại giết đi là bất NGHĨA, ta gạt nó cho ăn mà lại bắt giết đi là bất TRÍ. Xem ra cũng phạm đến luật Ngũ Thường rồi vậy.

Tôn giáo có những qui điều giới luật thế là đúng.
Vì lòng yêu thương với vạn vật là bạn đồng sanh với mình nên lòng Từ bi không nỡ giết sinh vật mà ăn thịt Vì nhân loại vô minh, mà chính Đấng Thượng Đế  đến mở

Đạo đã có Đệ Tam Thiên Nhơn  Hoà ước,  nên  luật buộc là người Tôn giáo không được sát mạng sanh vật.

Về vệ sinh: Vì thời kỳ nhân loại phải trả quả nên dịch chướng xảy ra, nên không ăn thịt sanh vật là tránh cái nạn Dịch đang hoành hành, ảnh hưởng chết người.

Tất cả các lý do đó mà nhân loại phải ăn chay. Ăn chay nghĩa là dùng rau quả, ngũ cốc, chớ không ăn thịt thú vật. Tại sao phải ăn chay ?

Ngay trong thời buổi này ngày nào truyền hình cũng loan tin Dịch bệnh làm chết người. Ngày nào trên thế giới cũng phải thiêu huỷ một số lớn hàng ngàn, hàng muôn triệu con gia cầm, gia súc vì nhiễm Dịch. Ngày nào cũng kêu lên miền ngoài vì ăn phải: thịt cầy, mắm tôm, rau sống mà sinh bịnh Tiêu chảy cấp. Quả thật là câu “Bịnh tòng khẩu nhập, hoạ tòng khẩu xuất”, không sai vậy.

Hỏi vậy số vi trùng mà nó có thể xâm nhập vào gia cầm, gia súc được khởi phát từ đâu? Nếu không phải từ trong không khí thì không còn một nguồn phát xuất nào khác hơn nữa.? Nhưng nếu đã có từ trong không khí bị quá nhiều thứ làm ô-nhiễm thì nó sẽ không từ chối bất cứ một ai mà nó không đột nhập. Không khí bị nhiễm tức là chất Âm nhiều, người mà ăn nhiều chất Âm thì nó sẽ là môi trường thích hợp cho các thứ vi trùng ấy. Nếu chúng ta biết ăn kiêng có nghĩa là chúng ta tạo Dương điển nhiều thì mới có chất đề kháng mà giữ cho còn sự sống mà thôi.

Nay thì bịnh gia cầm, gia súc đã lắng dịu xuống mà bắt đầu hoành hành đến con người là ĐẠI DỊCH TOÀN CẦU: DỊCH CÚM A. H1N1. Đây là một sự báo động lớn mạnh, cảnh cáo một nguy cơ của nhân loại. Dịch này không từ một ai: Bác sĩ cũng bịnh dịch cúm, Tổng Thống dịch cúm cũng viếng, hầu như tất cả các nước…cứ nhìn người người đều bịt khẩu trang thì biết cái nỗi khủng hoảng là dường nào. Một số lớn các nước biết nguy cơ của mầm bịnh là do ăn thức ăn động vật nên phát động phong trào ăn chay một tháng một ngày, một tuần một ngày…

Tóm lại: Vì các lý do sau đây mà phải ăn chay:
Lẽ thứ nhứt: Khoa học dùng trí thức làm căn bản nghĩ suy, khảo cứu vật chất bên ngoài. Chung cuộc, khoa học thâu hoạch kết quả vật chất, bồi bổ cho đời sống thực tế. Còn Đạo học thâm viễn hơn, cầu giải thoát kiếp luân hồi. Muốn đạt mục đích nầy, học giả phải thâu thập cả Tánh mạng, luyện thành một khối tinh thần khương cường, sáng suốt, mạng danh là Chơn thần. Nó phải nhẹ nhàng hơn không khí thì mới vượt khỏi vòng Càn Khôn. Vả lại, trong không khí vốn có điện lực, nếu kẻ ăn mặn mà luyện đạo, khi xuất Thần thì Chơn thần vẫn còn trược khí lẫn lộn, mà trược khí là vật năng tiếp điện (bon conducteur d'électricite)  Khi ấy Chơn thần chưa ra khỏi lằn không khí mà đã bị sét đánh tiêu diệt rồi.

Lẽ thứ hai: Theo luật hấp dẫn, nếu Chơn thần còn trọng trược, khi xuất ngoại, phải bị hấp lực vật chất giam hãm trong vòng trần tục. Ấy vậy nên kẻ cầu sự giải thoát phải ăn chay.

Lẽ thứ ba: Phép vệ sinh dạy chúng ta phải ăn ở sạch sẽ. Nên hiểu rằng sạch sẽ nói đây là ám chỉ vào sự sạch sẽ bên ngoài, cũng như sạch sẽ bên trong. Ăn chay dễ tiêu hóa, dễ bài tiết tức giữ gìn sạch sẽ trong tạng phủ.

Lẽ thứ tư : Cả muôn loài, vạn vật đều do một Đấng Thái Cực Thánh Hoàng sanh ra ở thế gian, cho nên có câu nói rằng:  “Vạn vật đồng nhứt thể”. Quan  niệm  ấy  không cho phép chúng ta giết hại sanh vật để ăn thịt.
Vả lại, người ta có hai thức  ăn  để  bồi  dưỡng  thân thể là: Vật chất thực và huyền vi thực.         
Vật chất thực là lê hoát, ngũ cốc do miệng vào tỳ vị mà tiêu hóa thành khí huyết.
Huyền vi thực là thanh khí trong Trời Đất.

Người ta nhờ hô hấp đem thanh khí vào thân thể, để tươi nhuận khí huyết, bồi dưỡng sức khỏe.
Tỷ như: Mỗi ngày chúng ta phải dùng 6 cân vật thực để bồi bổ sức khỏe. Sáu cân đồ ăn nầy chia làm hai: Vật chất thực ba cân, Huyền vi thực ba cân. Ấy vậy, nếu chúng ta cứ tăng thêm Huyền vi thực mà bớt bên Vật chất thực. Giảm bên nầy, tăng bên nọ, chung qui chúng ta cũng có đủ 6 cân thức ăn để bồi dưỡng thân thể. Công phu nầy tiến nữa người ta có thể hớp Khí thanh không mà sống.

Thật ra cứu cánh của sự tu hành đối với người xưa, để thông cảm với Chơn Pháp mà thôi. Chí như chúng ta từ nhỏ đã quen dùng vật chất thực để nuôi sống. Nay, thoạt nhiên đổi món ăn cấp thời thì tạng phủ không quen mà sanh loạn. Lẽ như vậy, cho nên Tân luật buộc mỗi người phải tập ăn chay, mỗi tháng 6 ngày, hoặc 10 ngày. Mãi đến khi tạng phủ quen dần rồi sẽ tiến tới nữa. Nhưng tập luyện có thời gian, sự tập tành cho quen thì cũng có giới hạn, chứ không lẽ tập suốt đời. Đạo trải qua 80 năm rồi chẳng lẽ còn tập mãi sao? Đến bao giờ mới trường trai, diệt dục được? Phải tiến bộ chứ! Dù luật không buộc nhưng chính mình phải có sự hiểu biết. Do vậy mà sự chay lạt được Tôn giáo luôn ấn cần nhắc nhở:

Đức Hộ-Pháp có dạy:
Gắng Tu cho kịp Hội-Long-Hoa,
Đạo đức không chuyên khổ lắm mà!
Chay lạt để ngừa loài khí độc,
Mê-man bất tỉnh trận kỳ ba.
Người hiền cứu sống ra phò Chúa.
Kẻ dữ bạo tàn xác quạ tha,
Thân Dậu đến đây rồi sẽ biết
Đinh ninh vẹn giữ mấy lời TA

Vì sao phải Trai giới ? Thánh giáo Thầy dạy:
“Kẻ nào trai giái đặng mười ngày đổ lên, thọ bửu pháp đặng. Chư Môn đệ phải trai giới.”  Tại sao?
- Chẳng phải Thầy còn buộc theo Cựu Luật, song Luật ấy rất nên quí báu, không giữ chẳng hề thành Tiên Phật đặng.

Thầy cắt nghĩa: Mỗi kẻ phàm dưới thế này đều có hai xác thân: Một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel. Mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.

Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh- Khí- Thần mà luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác  phàm  xuất ra, thì  lấy  hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập. Còn khi đắc đạo mà có Tinh Khí, không có Thần thì không thế nhập mà hằng sống đặng.

Còn có Thần không có Tinh Khí thì khó huờn đặng nhị xác thân. Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng.

Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí tiên thiên thì hằng có điển quang. Cái chơn thần buộc phải tinh tấn trong sạch mới nhẹ hơn không khí mới ra khỏi ngoài Càn Khôn đặng.

Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất chơn thần tinh khiết. Nếu như các con còn ăn mặn luyện Đạo rủi có ấn chứng thì làm sao giải tán cho đặng ?

Nếu rủi bị huờn thì đến khi đắc đạo, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất tiếp điển (bon conducteur d’ électricité) thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn biết khôn thì ẩn nấp tại thế mà làm một bậc Nhơn Tiên thì kiếp đoạ trần vẫn còn chưa mãn. Vì vậy Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện đạo.”

Thầy cũng cho biết:
 “Cái Chơn Thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật là huyền diệu vô cùng, bất tiêu, bất diệt. Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái Chơn Thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy.”

2 - Thánh giáo của Chí Tôn dạy về 
Nhì Bất Du Ðạo
Năm Mậu Thìn (1928)
THẦY, các con.
 “Ôi! Thầy sanh các con thì phải yêu trọng các con chẳng cùng, mà Thầy cho các con đến thế giới nầy với một Thánh Thể thiêng liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con lại không chịu, nghe điều cám dỗ mê luyến hồng trần, ăn cho phải bị đọa, dâm cho phải bị đày, nên chịu nạn áo cơm, dục quyền cầu lợi.

LỢI, Thầy cũng đã dành cho các con chung hưởng cùng nhau mà cũng vì tham, đứa chứa nhiều, đứa chịu đói.

QUYỀN, Thầy cũng ban cho các con in như Thầy đã ban cho chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, hầu cho đủ thế kềm thúc lấy nhau đặng giữ vẹn Thánh chất yêu sanh của Thầy, mà quyền ấy trở nên một cơ thể buộc trói nhơn sanh trong vòng tôi mọi. Ôi! Thảm thay! Cái thất vọng của Thầy nên ghê gớm, các con có hiểu vì sao mà cả nhơn sanh gian tham chăng?

Thì cũng muốn cho nhiều sanh mạng chịu phục dưới quyền thế lợi lộc đó, vậy sự yếu trọng của con người là nạn cơm áo, nắm chặt quyền phân phát cơm áo, thì chưa ai đã chịu thọ sanh nơi thế nầy lánh khỏi.

 Muốn cho đặng quyền hành ấy thì làm thế nào?

Dùng hết mưu chước quỉ quyệt, thâu đoạt cho đặng lợi lộc quyền thế cho nhiều, vì vậy mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh tranh, đấu đấu, giựt giựt, giành giành, gây nên mối loạn, nhơn loại nghịch lẫn nhau giúp cho phép tà quyền, mạnh hơn, yếu thiệt, mất phép công bình thiêng liêng tạo hóa; cái trường thảm khổ của thế gian cũng do nơi đó mà ra.

Vậy gian tham đã thâm nhập vào lòng, thì lòng hết đạo đức.
Tham gian nhập vào nhà, thì nhà không chánh giáo.
Tham gian đã nhập vào nước, thì nước hết chơn trị.

Tham gian đã lộng toàn thế giới, thì thế giới hết Thánh Thần, Thầy không cần nói sự gian tham có thể giục các con lỗi đạo cùng Thầy mà bị lắm điều tội lỗi. Ấy vậy gian tham là trọng tội.”

Thử tìm hiểu ý nghĩa: Bài Thánh Giáo trên đây đã giải rất rõ, duy có câu “Thầy cho các con đến Thế nầy với "Thánh Thể Thiêng Liêng”

Thánh Thể Thiêng Liêng tức là điểm Linh quang của CHÍ TÔN và một phần Tiên Thiên khí của Thái Cực. Hai phần ấy hỗn hợp thành Thánh Thể, Thánh Thể ấy chẳng ăn mà sống, chẳng mặc mà lành, nhưng khi nhập thế cuộc, người vì cố chấp, ham muốn vật chất, cầu thỏa mãn phàm thân. Đó là cái mầm khiến người ta tham lam, giành giựt lợi quyền mà sanh ra thất Đạo, cho nên Đức CHÍ TÔN nói tham lam đến đâu thì tác hại đến đó.

Phải biết rằng: Tài vật của người, dầu ít nhiều, dầu lớn nhỏ đều do người lắm nhọc nhằn mới tạo ra được. Nay, nếu trộm cắp của người, để làm của mình, dầu cách nầy, hay cách khác, cũng đều là một hình thái bất công, thì chẳng những phạm luật Trời mà mích lòng người nữa. Muốn vậy, thì đừng tham lam, mà muốn chẳng có lòng tham chúng ta nên biết tri túc và bố thí.

Tri túc - Là biết đủ, tức cầu cho mình đủ ăn, đủ mặc thì thôi chớ chẳng nên vọng cầu những của phi nghĩa. Nếu chẳng biết đủ thì lòng tham nổi lên mà xúi chúng ta vơ vét của cải về cho mình, rồi lại còn lưu truyền cho con cháu mình đến hai ba đời nữa. Ngạn ngữ nói: “Túi tham không đáy, chứa bao nhiêu cũng không đầy”.

Câu “tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc” nói lên ý nghĩa: biết đủ thì đủ, đợi cho đủ biết chừng nào mới đủ ?

Đạo Đức Kinh chương 44 nói rằng:
 “Thậm ái tất thậm phí, Đa tàng tất đa vong. Tri túc bất nhục. Tri chỉ bất đãi. Khả dĩ trường cửu”. Có nghĩa là Tham thì thâm, chứa nhiều ắt mất nhiều. Biết đủ không nhục, biết dừng chơn ở ngoài vòng tranh đấu lợi danh thì không hại và có thể lâu dài.

Bố thí tức nhiên phải tùy phương tiện của mình mà thí tài, hay thí pháp; bố thí là không cầu người trả ơn. Muốn cho đức ấy được tỏ rạng, phải mở lòng vị tha, nghĩa là vì người mà bố thí chớ không phải buôn quyền bán lợi. Duy chỉ thí pháp là đạt đến vô lượng công đức mà thôi.

Kẻ xả thân hành đạo thì hay hòa mình với Đạo, hòa với cuộc sống với chúng sanh. Thử nghĩ thân còn chẳng có thân riêng, huống chi là tài sản. Suy tưởng như thế, thì lòng vị tha sẽ khai quát, để thay thế cho tánh ích kỷ.

Sự tham lam rất độc hại: nhỏ thì bán nhà, lớn hơn thì bán cả quốc gia, dân tộc, không một điều gì làm cho lòng tham thoả mãn được. Những kẻ có lòng tham thời nào cũng xuất hiện. Ấy là hạng sâu dân mọt nước, hại này to lớn vô cùng. Bịnh này ngày nay cũng lan rộng khắp toàn cầu, cũng ngang hàng với bệnh Dịch của Thế kỷ !

3 - Tam Bất Tà Dâm.
Vì sao tội Tà Dâm là trọng tội?

Thánh giáo của Đức Chí Tôn nói về “Bất Tà Dâm” (Giới cấm). Đề ngày 26-6 Bính Dần (dl 30-6-1926)
 “Phàm xác thân con người tuy mắt phàm coi thân hình như một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chất chứa vàn vàn, muôn muôn sanh vật.

Những sanh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối vật chất có tánh linh, vì vật chất nuôi nấng nó cũng đều là sanh vật, tỷ như: rau, cỏ, cây, trái, lúa gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh.

Nếu không có chất sanh, thì thế nào tươi tắn đặng mà chứa sự sống, như nó khô rũ thì là nó chết, mà các con nào ăn vật khô héo bao giờ. Còn như nhờ lửa mà nấu thì là phương pháp tẩy trược đó thôi, chớ sanh vật bị nấu chưa hề phải chết.

Các vật thực vào tỳ vị lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết, chẳng cần nói, các con cũng biết cái chơn linh khí huyết là thế nào? Nó có thể huờn ra nhơn hình mới có sanh sanh, tử tử của kiếp nhơn loại.

Vì vậy mà một giọt máu là một khối chơn linh, như các con dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy.

Khi các con thoát xác, thì nó đến tại Nghiệt Cảnh Ðài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội đặng. Phải giữ gìn giới cấm ấy cho lắm”.

Theo Thánh Ngôn trên đây, đủ hiểu rằng sự dâm dục có hại cho kẻ hành giả là dường nào !

Phàm thân người do nhơn duyên cấu sanh, mà hễ có sanh thì tự nhiên có tử. Và khi tử thì duyên phải tan rã và trở về với đất, nước, gió, lửa. Thế thì nhục thân có trường tồn đâu mà phải cần khoái lạc nhứt thời đề rồi gây ra tội tình Nhơn quả cho phần hồn phải chịu muôn năm, ngàn kiếp, nhứt là quyến rủ vợ con người ta vào đường quấy là phá hại gia cang của người, lại là một việc ác đứng đầu trong muôn việc ác

Vả lại, dâm dục sát hại nhiều Chơn linh, khi thoát xác, chúng nó đến kiện nơi Nghiệt Cảnh Đài, chúng ta không chối tội được. Vậy kẻ tu hành chớ nên ham vui một thuở mà chịu khổ cả muôn đời.

Tóm lại: thân thể người chẳng khác thân thể động vật. Điều chính của nó là hành động, mà hành động của nó lại khuynh hướng về tư kỷ nhiều hơn, cho nên chúng ta phải cố gắng gìn giữ giới cấm nầy, để trị thân thể và đem nó về đường Chánh Đạo.

Ngày nay nhân cách của con người dường như đi xuống nhiều hơn theo cái đà của thời Hạ nguơn mạt pháp, hình ảnh này giống như một chiếc xe đang xuống dốc. Nhìn ra xã hội ai là người có chút lương tri lương năng cũng thấy đau lòng, nhất là tuổi trẻ học cái hay thì ít mà thu thập điều dở lại nhiều. Hại thay ! Một số lớn đi Mỹ, Nga, Đài loan, Hàn…thay vì học những cái văn minh của người. Không đâu, toàn học những thứ “Rác bẩn” của người đem về làm của quí cho mình. Nhất là Nữ giới thì có cái tồi phong bại tục của Nữ giới, Nam giới thì có cái côn đồ, truỵ lạc của Nam giới. Than ôi, văn hoá của bao thời ông cha truyền lại nay đã trôi theo dòng thác lũ cả rồi!

4 - Tứ Bất Tửu Nhục
Đức Chí-Tôn dạy vì sao phải Giái Tửu?

Ngày 18-01-1927 ( Bính Dần)
"Thân thể con người là một khối Chơn linh hiệp thành. Chơn linh ấy hằng sống, Ngũ tạng Lục phủ cũng là khối sanh vật tạo nên. Phận sự của chúng nó hoặc hiểu biết hoặc không, đều tùy lịnh Thầy phán đoán, vậy Thầy lấy hình chất xác phàm để giảng dạy.

Hình chất con người cũng như hình chất thú, phải ăn uống mới sống được. Rượu vào tỳ vị, chạy khắp Ngũ tạng, Lục phủ. Trái tim là chủ động của bộ máy sanh sống, mà trái tim bị rượu thâm nhập, khiến cho nó rung động quá mức thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch vận hành một cách quá mau lẹ. Sanh khí nơi phổi không có đủ ngày giờ nhuận huyết, rồi trược huyết thối nhập trong thân thể, truyền thông những chất độc vào trong những sanh vật. Mỗi khối sanh vật ăn rồi phải bịnh, càng ngày càng tăng thêm, rốt cuộc hết sanh lực, cốt tủy lần lần phải chết, thân thể tự nhiên chết theo. Nhiều kẻ bị tê liệt hết nửa thân mình cũng vì rượu.

Thầy nói sự hại của phần hồn: Thầy nói Chơn Thần là khí chất (Le sperme évaporé) bao bọc thân thể của các con. Trung tim nó là óc, cửa xuất nhập nó là mỏ ác, chữ gọi Vi Hộ, Hộ Pháp hằng đứng giữ gìn các con khi luyện đạo, đặng giúp cho TINH hiệp với KHÍ rồi đưa khí đến Chơn Thần. TINH- KHÍ- THẦN hiệp nhứt mới siêu phàm nhập Thánh. Đó là nguồn cội của sanh khí mà óc cũng vì huyết mạch vận chuyển vô chừng, đến đỗi tán loạn. Thế rồi Chơn Thần an tịnh thế nào đặng, thân thể phải chịu ngây dại trở nên thú tánh, thú chất. Như vậy thì mất hết Nhơn phẩm rồi, còn mong chi đến địa vị Thần Tiên; lại nữa, trong buổi loạn thần, cửa để trống, tà mị thừa cơ xâm nhập, giục các con làm quấy gây nên tội tình mà phải chịu luân hồi muôn kiếp.
Vậy Thầy cấm các con uống rượu".

Vấn đề kiêng rượu, có lẽ trong hàng chúng sanh người nào cũng đã có bị một lần say rượu. Vậy sự kinh nghiệm ấy đã dạy cho con người biết với một cách rõ ràng rằng: Say rượu chẳng những loạn trí não mà Ngũ tạng cũng không còn giữ được chơn lực nữa. Thế thì giới tửu là một điều cấm quan trọng vậy.

Thầy đã dạy rằng: Thân thể con người là một khối chơn linh cấu kết, những chơn linh ấy đều là hằng sống; phải hiểu rằng: Ngũ tạng, lục phủ cũng là khối sanh vật mà thành ra, nhưng phận sự chúng nó làm, thảng hiểu biết hay là không hiểu biết, đều do mạng lịnh Thầy đã phán dạy.

Người uống Rượu ngày nay hầu như phổ biến rộng. Chính nó đã gây nên nhiều mầm bịnh chết người. Ấy vẫn còn lâu. Việc xảy ra thường ngày là người có rượu lái xe làm chết người và chết bản thân mình. Ai ơi nên tránh !

Thử nhìn lại số thanh niên Việt Nam, tuổi hãy còn trẻ trung, yêu đời mà đã ra người nghiện rượu; Nam Nữ thiếu niên tuổi chưa quá 15 mà đã biết say gục ngã bên đường, lè nhè bên quán rượu, bỏ học, trốn nhà đi rong làm “Người hùng” của vỉa hè, xó chợ. Đau thương đến ngập lòng. Mai này sẽ ra sao ? Nói chi đến quan chức, ông lớn tai to mặt bự thì có cái thú “nghiện”, sau cùng lậm “két” ra Toà trả lời những hành vi tội lỗi, lãnh án tù cũng vì “ăn, uống, rượu, thịt, tình” Bao nhiêu bức tường đều xô ngã. Hỏi ai là người dựng lại hay là chờ cho đổ nát để xây những bức tường kiên cố hơn và bảo đảm hơn? Cũng may là những nhà đạo đức chân chánh đã đi cả rồi, nếu không thì nước mắt đâu có đủ mà khóc cho thế hệ ngày nay?

Nhân loại ơi là nhân loại? Bài học đau thương dường này ai biết được, ai đã cùng xót xa cho cháu con đang hư hỏng, làm bại hoại gia phong, làm đổ nhào gia pháp. “Văn hiến bốn ngàn năm” đã trôi dạt đến phương nào? Chắc hẳn chỉ biết than rằng “Than ôi! Thời oanh liệt của đạo đức nay còn đâu?”
5 - Ngũ Bất Vọng Ngữ
Thánh giáo Thầy dạy vì sao cấm Vọng Ngữ?

Năm Mậu Thìn (1928)
“Thầy đã nói rằng nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng chẳng cần nói các con cũng hiểu rõ rằng: Ðấng chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các Ðấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán Xét, bởi vậy nên một mảy không qua, dữ lành đều có trả; lại nữa, các chơn linh ấy, tánh Thánh nơi mình đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi là “lộn lương tâm” là đó.

Bởi vậy chư Hiền, chư Thánh Nho nói rằng:
"Khi nhơn tức khi tâm.
"Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo dã."

Như các con nói dối, trước chưa dối với người, thì các con đã nói dối với lương tâm, tức là chơn linh.
Thầy đã nói chơn linh ấy đem nạp vào Tòa Phán Xét từ lời nói của các con, dầu những lời ấy không thiệt hành mặc dầu, chớ tội tình cũng đồng một thể.

Nơi Tòa Phán Xét, chẳng một lời nói vô ích mà bỏ, nên Thầy dạy các con phải cẩn ngôn, cẩn hạnh, thà là các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể.
Các con khá nhớ.”

Theo giới cấm nầy: người tu không được nói dối, dầu việc lớn hay nhỏ, trọng hay khinh cũng vậy. Cổ nhơn nói: “Nhơn bất Tín bất lập”. Đối với thế nhơn mình mất tín nhiệm còn không làm nên được, huống chi đối với Trời Phật; nên phải nói chơn thật và khi nói ra rồi phải giữ lời.

Cấm lưỡng thiệt: Người tu không được đem việc đầu nầy mà nói đầu kia làm cho người nầy giận kẻ nọ mà sanh ra đôi chối, cãi cọ. Phải lánh xa những việc nói xấu kẻ khác, tức là nói hành, nói tỏi, hay nói rõ ra là nói những chuyện lặt vặt mà dễ mích lòng người.

Cấm ác khẩu: Người tu không được nói lời hung dữ, như chửi rủa chẳng hạn. Trái lại, phải dùng lời nói hiền lành, bàn việc hữu ích, phải dùng lời dịu ngọt, an ủi người khốn khó. Nếu gặp người nói hung dữ như: mắng lộn, chửi lộn, thì phải dùng lời êm thắm mà khuyên dứt đôi đường. Nếu gặp người làm việc gì mà thối chí, ngã lòng, thì nên dùng lời nói có nghĩa lý mà khuyên nhủ cho người khởi lòng tinh tấn.

Cấm ỷ ngữ: Người tu không được dùng lời khôn khéo, để khêu gợi nguyệt hoa, không được dùng lời bóng bẩy, dể xuyên tạc kẻ khác. Trái lại phải nói ít và thiệt thà. Bốn giới cấm để kềm dẫn khẩu căn vào cõi thanh tịnh. Người tu chẳng ai mà không biết, nhưng, biết thì dễ mà thực hành thì khó, mà nếu không thực hành được thì cũng như không biết. Ban đầu tập ít nói, để có ngày giờ suy nghĩ trước khi thốt ra lời. Về sau, quen rồi thì việc khó hóa dễ. Câu tục ngữ rằng “Đánh lưỡi bảy lần trước khi nói” Vì chữ ngôn (7 nét) ứng với số 7. Ngày nay là cơ Phổ độ,  nên Đền Thánh quay mặt tiền qua hướng Tây, cung Đoài, ấy là Cung Đạo. Cung Đoài cũng ứng với số 7. Lại nữa các con vật trong Đền Thánh đều hả miệng. Hả miệng để Phổ Độ. Vậy mỗi lời nói đều được suy nghĩ kỹ trước khi thốt nên lời, vì khi lời nói phát ra rồi bốn ngựa đuổi theo không kịp “nhứt ngôn ký xuất Tứ mã nan truy”. Lại nữa có câu “Nhứt ngôn hưng bang, nhứt ngôn táng bang” là lời nói làm lợi cho nước mà lời nói cũng làm mất nước vậy.

CÂU 6: TIỂU SỬ SƠ ĐẲNG CỦA TỨ THÁNH
Tam Trấn, Đức Khương Thái Công

TỨ THÁNH:
Vào thời Trung nguơn, nhơn-sanh mỗi ngày càng thêm nhiều xu-hướng về vật chất nên Ơn Trên mới phái bốn vị Đại Thánh-nhân đến khai sáng cho nhơn tâm, đó là:
- Đức Thích-Ca Mâu-Ni mở Đạo Phật.                                                             
- Đức Lão-Tử mở Đạo Tiên.
- Đức Thánh Khổng-Phu-Tử mở Đạo Thánh. 

Thánh nơi Đông-phương gọi là Thánh Ta.
 Sau cùng con một Đức Chúa Trời là Đức Chúa Jésus-Christ. Thánh nơi phương Tây gọi là Thánh Tây. Thế nên cả hai vị Giáo-Chủ này là Thánh Đạo.

Bốn vị Giáo chủ nhưng thật ra là Chưởng-giáo của ba Tôn giáo chánh yếu trên mặt địa cầu này..

Khi Ðức Thích Ca mở Ðạo Phật thì nhơn sanh buổi ấy còn Thánh Ðức nhiều, cả cá nhân đều ngán sự khổ não truân chuyên ở thế, nên Thiên Ðình phú cho Ngài lấy tôn chỉ tiêu cực diệt Tứ Khổ (Sanh, Lão, Bịnh, Tử) mà độ chúng.

Ngài cũng bị lắm điều truân chuyên khổ não, lao thân tiêu tứ với đời mà chừng thành Ðạo cũng bị quỉ phá một hồi dữ dội rồi mới thành Ðạo.

Ðức Lão Tử khai Ðạo Tiên thì dùng huyền diệu pháp làm tôn chỉ cao thượng vì đương buổi ấy thì nhơn sanh ưa huyền diệu phép tắc.

Ngài cũng bị nhơn sanh cho là Lão già mê hoặc chúng. Ðệ tử của Ngài cũng lần lần xa Ngài cho đến đỗi khi Ngài đi ngang qua Hàm Cốc Quan, vô Nha môn của Doãn Hỉ đặng độ ông nầy là chơn linh Ngươn Thỉ thì Từ Giáp là học trò hầu cận Ngài vì mê sắc mà sa ngã rồi cũng xa Ngài. Mà Ðạo Tiên cũng thành tựu và cũng truyền bá tứ phương vậy.

Khổng Phu Tử thọ lịnh Thiên Ðình xuống khai Ðạo Nho đặng sửa nhơn luân trong buổi Châu mạt, vì trong buổi ấy, cang thường luân lý suy đồi, nên nhơn sanh thấy cái Ðạo Nhơn luân của Ngài hay, sửa đời đặng thì khâm phục.

Ngài cũng lắm công nhọc nhằn với đời. Qua Tề bị Yến Anh, qua Yên bị phế, qua Triệu bị đuổi, kẻ bắt người buộc, ăn vác nằm sương nhọc nhằn biết mấy. Ðến đỗi nhà Tần tàn bạo không xiết kể, phần thi khanh Nho (đốt sách chôn học trò), mà Ðạo Nho cũng loan truyền khắp hoàn cầu.

551 năm sau Khổng Phu Tử, mới có khai Ðạo bên Thái Tây nên Thầy cho Ðức Chúa Jésus Christ giáng sanh khai Ðạo Thánh cho phù hạp với dân trí Âu Châu.

Ðức Jésus cũng bị cường quyền Israel áp bức cho đến đỗi hồi ban sơ thì có 12 vị Thánh Tông Ðồ theo Ngài mà sau còn có một vị Thánh Pierre mà thôi. Nhưng Người cũng phải chối Chúa ba phen đặng tránh cường quyền bắt buộc.

Chừng Ðạo thành thì có Du-Già bắt Ngài mà nạp cho Chánh Phủ hành hình, đóng đinh trên cây Thánh Giá. Hành xác Ngài gớm ghiết như thế đặng cho nhơn sanh kinh khủng bỏ Ðạo, mà Ðạo Thánh cũng gieo truyền khắp cả hoàn cầu.

Lúc Ðạo Gia Tô truyền qua Ðông Pháp thì vua An Nam cũng nhặt cấm, bắt mấy người theo Ðạo Gia Tô quá Thập Tự, ai không bước ngang qua thì bị tử hình.

Hình phạt gớm ghê như thế mà cũng có người Chí Thánh thọ tử mà thôi chớ không chịu chối Ðạo.

Xét kỹ lại, thiệt người xưa là Thánh Ðức, ít ai bì kịp, cứ giữ chánh tâm làm trọng, thỉ chung như nhất mà thôi.
Ngảnh lại đời nay mà ngán cho đời!

THÍCH GIÁO:

Theo THÍCH GIÁO, con đường đi đến thành chánh quả là: MINH TÂM KIẾN TÁNH. Nghĩa là phải trau giồi bản tâm cho sáng suốt đặng kiến tánh.

KIẾN TÁNH tức là cùng PHẬT đồng tánh thấy sáng đạo nhiệm mầu, các điều vọng niệm thảy đều tiêu tan, sống ở chơn tâm hoàn toàn giải thoát.

Bậc đã được kiến tánh, giữ cõi lòng thật thanh tịnh trở lại với bản tánh thiên nhiên tức là lúc mắt tuy thấy thiên hình vạn trạng trí tưởng nghìn muôn pháp, nhưng tâm vẫn yên tịnh dường như không gì xao xuyến. Lúc ấy bậc kiến tánh được thấy ngọn đèn chơn lý đột nhiên đưa đến sáng rạng lạ thường để chỉ đường dẫn lối đưa đến cõi tâm giới nhiệm mầu.

Ví bằng bản tâm để cho mờ ám vọng động bởi sức quyến rũ bên ngoài thì người tu biết bao giờ kiến tánh mà tầm lối giải thoát.

Vậy mê là chúng sanh, ngộ là PHẬT.
Vì đó PHẬT HỌC cho cái tâm là cái rất nông nỗi, lại đặt cho tâm cái tên là giặc (tâm vi tặc). Phật học dạy xóa bỏ vọng tâm thường lôi cuốn con người vào đường tội lỗi. Nếu không bỏ vọng tâm thì chân tâm diệu minh không hiện phát ra được. Xóa bỏ vọng tâm tức là để cho chơn tâm phát hiện, người tu hành mới thoát khỏi thất tình lục dục hiểu thấu chơn lý và thắng được mọi sự khổ.

THÂN NGHIỆP, Ý NGHIỆP, KHẨU NGHIỆP gọi là tam nghiệp làm cho con người luân hồi từ kiếp này đến kiếp khác. Cứ nghiệp trước tàn, nghiệp sau nối kế tiếp không ngừng, đó là do nơi tâm tạo. Vì tâm động là phát ra tư tưởng, có tư tưởng rồi mới có nói và làm theo.

Thế thì Tâm là nguồn gốc sanh điều lành việc dữ, cái máy tạo thành họa phước Thánh phàm, nên Thánh Hiền có dạy rằng:
Tam điểm như tinh tượng
Hoành câu tợ nguyệt tà
Phi mao tùng thủ đắc
Tố Phật dã do tha.

Nghĩa là: Trên ba điểm như ba ngôi sao, dưới một vòng câu như hình nguyệt xế, cánh lông theo ấy được, thành Phật do bởi gì?

LÃO GIÁO:

Theo triết học của Ðạo Giáo, Lão Tử rất chú ý đến việc tu thân để cho mình có đủ đức tính, kéo lại những lỗi lầm sa ngã của quần chúng.

Ngài nói: Ta sở dĩ có điều lo lớn là vì ta có cái thân, nếu ta không có cái thân thì ta có lo gì?. Có thân tức là có cái tâm, có cái tâm không dễ gì điều khiển và giữ gìn cho trong sạch.

Theo thuyết của Ngài cái thân đáng quý là khi đem nó ra phụng sự cho thiên hạ, khi phụng sự cho thiên hạ thì cái tâm không còn gì xao xuyến ích kỷ để lo cho mình nữa. Vì lẽ cái tâm hay lừa đảo, hay làm cho con người sa ngã nên theo phép tu thân của Lão Giáo, ta phải dứt bỏ những điều ham muốn, những tư tưởng ngông cuồng có thể hại đến tâm tính. Giữ lòng được phẳng lặng, bình tĩnh để trông rõ những sự huyền diệu thiêng liêng, tức là lấy cái Tâm đè nén cái khí để nuôi nấng tinh thần được cao siêu thoát tục, đó là con đường dẫn đến cơ đắc Đạo.

TU TÂM, LUYỆN TÁNH là thuyết của Lão Gíao dạy người mộ đạo muốn tầm Tiên lánh tục.

Đức LÃO TỬ coi danh lợi là thù của thân, không lấy cái sống vật chất làm hạnh phúc, nên khuyên người đời chỉ nên chú trọng tinh thần. Phương pháp giáo hóa của Ngài không giống các bậc hiền triết khác, vì lẽ Ngài không thích chen vai với đời để lấy sự hiểu biết khuyên dạy quần chúng. Con người lý tưởng của Ngài là người sống trong cảnh tịch mịch, cách biệt với người đời, đóng cửa, rấp ngõ, không giao thiệp với ai, để rèn luyện tâm tánh, trụ vững tinh thần như thế mới gần gũi được với thiên nhiên, quan năng trực giác mới được sáng suốt, tuy không ra khỏi ngõ cũng hiểu được thiên hạ, không ngó qua cửa sổ cũng biết được Thiên đạo. Người ấy LÃO TỮ gọi là Thánh nhơn.

Trái lại, người chung đụng với thế gian bị tranh đấu về danh lợi, làm cho tâm tánh vọng động càng đi xa càng bị sóng đời lôi cuốn, bản tâm rối loạn, thiên tính càng lu mờ, đó là tự mình tìm lối diệt vong vậy.

Người ta cho LÃO TỮ có tư tưởng yếm thế tiêu cực, hoặc tư tưởng của Ngài là độc thiện kỳ thân hay cá nhân chủ nghĩa. Nhưng xét ra, người học Ðạo nên tùy theo đẳng cấp và trí thức của mình, chọn lọc thuyết nào thuận tiện thi hành cho tâm tánh được nâng cao, tinh thần được cứng rắn. Ngoài ra phương pháp nào quá cao siêu ta chưa vói tới được thì để lại cho bậc có quan niệm cao thượng hơn ta thực hành.

KHỔNG GIÁO:

Khổng Giáo cho rằng tâm là thần minh của Trời phú cho, nên tâm của ta với Trời là một thể. Mạnh Tử lại cho Tánh là cái bản nguyên thiêng liêng, đối với Tâm vẫn có một. Hễ biết rõ TÂM thì ta biết rõ TÁNH, biết rõ tánh tức là biết rõ trời đất vạn vật.

“TỒN TÂM DƯỠNG TÁNH” là giữ cho mình còn cái tâm Hư linh; nghĩa là đừng để cho tư ý che lấp mất và nuôi cho cái tánh được sáng suốt toàn hảo như của Trời đã ban cho, tức là biết có Trời và thờ Trời một cách chơn thật

Cái bản tâm giữ được còn, mới thật là lương tâm. Có lương tâm mới có lương năng và lương tri, tức là cái giỏi biết rất tự nhiên, rất mẫn huệ (người không học mà giỏi gọi là lương năng, không suy nghĩ mà biết gọi là lương tri. Cũng như đứa trẻ con còn ẵm trên tay, không đứa nào là không biết yêu mến cha mẹ, chỉ vì lương tâm còn nguyên vẹn thuần túy).

Theo thuyết KHỔNG GIÁO, người ta ở đời phân biệt nhau ở nơi quân tử hay tiểu nhơn, hiền hay ngu là do người ta giữ cho còn cái tâm, hay để cho mất cái tâm. Giữ cho còn cái tâm là đáng bậc Thánh Hiền, bỏ mất cái tâm con người vẫn là một cây thịt biết đi biết chạy mà thôi.

Thầy MẠNH TỬ chú ý nhứt về chỗ tìm lại cái Tâm của mình đã để sổ ra mất, vì lẽ người ta để con gà, con chó sổ ra còn biết đi tìm, há đâu để món báu thiêng liêng là cái tâm của mình sổ ra lại không đi tìm hay sao?

Tìm lại cái tâm đã mất tức là sửa mình đó vậy.

Từ bậc vua chúa dĩ chí thứ dân, ai cũng lấy sự học để sửa mình làm gốc. Muốn sửa mình cho ra người có đức hạnh hoàn toàn, trước phải giữ gìn cái tâm cho chính, cái ý cho thành, sau mới cách vật trí tri, nghĩa là tìm hiểu rõ các sự vật và biết đến cho cùng cực của sự biết.

Muốn giữ cái tâm cho chính, sự sợ hãi, sự vui say, sự ưu hoạn, làm cho cái tâm ta chênh lệch xao xuyến vì một khi tâm bị loạn thì mắt không trông thấy, tai nghe không hiểu, ăn không biết mùi, tất nhiên chẳng còn phân biệt được tà chánh ngay gian mà xử sự đúng theo đạo lý.

Khi tâm đã chánh, ý đã thành, cái lương tri lương năng của ta trở nên mẫn huệ, xem xét điều gì cũng hiểu rõ đến chỗ nhiệm mầu sâu xa dầu  đối phó với cảnh  ngộ nào cũng điều hòa và hợp với lẽ phải.

Chừng đó con đường đã dọn sẵn, sự sáng suốt của tâm đã đủ sức dìu dắt ta trong bước tu thân, có còn chi trở ngại nữa. Việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ cũng do nơi con đường đó mà đạt thành.

Cao-Đài trong kỳ Ba chuyển thế và Cứu thế:
Ngày nay ÐỨC CHÍ TÔN khai nền ÐẠI ÐẠO tại VIỆT NAM để cứu vớt nhân loại lần cuối cùng Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi đem chủ nghĩa Từ-bi Bác-ái lập nền tảng Đại Đồng, Hòa bình.Thế giới.

Ðức Chí Tôn dạy chúng ta lập tâm chí thanh cao và noi theo đức háo sanh của Ngài mà Phổ Độ sanh chúng.

Lúc mới khai Ðạo (1926) mỗi đêm những Chức sắc lớn phải đi đến nhà các Đạo hữu mới nhập môn đặng làm lễ khai Đàn. Một hôm nhiều Chức sắc đến khai đàn tại nhà một đạo hữu ở trong một túp lều tranh nơi xóm dân lao động. Ðường đi trong ngõ hẽm trơn trợt vì gặp phải mùa mưa, phần đông Chức sắc than phiền dường như rất bực lòng đi đến chỗ không xứng đáng.

Lúc khai đàn, Ðức Chí Tôn giáng cơ ban khen Vị Ðạo Hữu chủ đàn và rầy cả Chức sắc sao không hiểu nghĩa vụ của mình đối với Ðạo, với nhơn sanh.

Bài thi cho cả Chức sắc hiện diện như sau đây:
Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Há cần hạ giới dụng cao ngôi?
Hèn sang trối kệ Tâm là quí,
Tâm ấy tòa sen của LÃO ngồi.

Từ ấy các Chức sắc đi chứng lễ khai đàn nơi tư gia, tỏ ý sốt sắng và không dám câu nệ nữa. Ðức Chí Tôn thường nói với các Môn đệ:
"TÂM các con vừa  động Thầy đã biết rõ,  vì TÂM các con là một phần  Thiêng Liêng của Thầy ban cho,  vậy tư tưởng các con Thầy đều biết, khá tìm hiểu.”

Do đó chúng ta biết DÂN TÂM tức là THIÊN Ý và theo Thể pháp của Ðạo, duy có quyền Vạn Linh đối với quyền Chí Linh (Chí-Tôn) mà thôi.

Lúc ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG còn tại thế, Ngài có tiếp một bài thi của Ðức Chí Tôn như sau đây:
Nghiêng vai gánh vác Đạo nhà Nam,
Gắng khổ chìu tâm độ tánh phàm.
Khổ ấy về sau danh phận xứng,
Chăm lo trách nhậm mới gìn kham.

Ngài thường nói với các Chức sắc gần gũi với Ngài: “Tuy Qua đi hành đạo vất vả cực nhọc nhưng Qua vẫn vui lòng, vì đối với Thầy, tâm Qua được trong sạch, đối với nhơn sanh tâm Qua được thơ thới an vui vì làm tròn nhiệm vụ. Ngoài đời người ta được thưởng công bằng tiền bạc, trong cửa Đạo chúng ta được thưởng công bằng sự ban khen phủ ủy của lương tâm.

Những tiếng ban khen ấy đối với Qua không lấy vật chi quí báu của đời mua được”.

Quí hóa thay lời nói của người Anh cả chúng ta. Ngày nay bậc cao khiết ấy đã về với Thầy rồi, lời nói trên đây còn văng vẳng bên tai của kẻ viết bài này.

Bức tranh xã hội thường ngày vẽ cho chúng ta thấy nhiều chuyện trớ trêu khúc mắc và chỉ cho chúng ta biết rằng đời hiện tại là đời mạt kiếp, nên cang thường đảo ngược, luân lý suy đồi. Người ta đua nhau lăn xả vào vòng trụy lạc, sống một đời vật chất vô nghĩa, vô nhân, vô tâm, vô đạo. Nào con giết cha, vợ giết chồng, nào anh em làm loạn luân thường, nào mẹ bán con vì mối lợi thừa, chồng hiến vợ cho kẻ có quyền để cậy thân dựa thế. Người ta dám giết lẫn nhau vì  số tiền  một vài  trăm đồng hoặc tạo cảnh nồi da xáo thịt vì bát cơm manh áo.

Ðức PHẬT THÍCH CA có giáng cơ như vầy:
Lộ vô nhân hành. Ðiền vô nhân canh,
Ðạo vô nhân thức. Ta hồ tận chúng sanh!

Ðiền là tâm điền, chỉ nghĩa Tâm người ta như miếng ruộng, cần phải cày cấy, gieo giống tốt mới nở bông sanh trái, bằng để u trệ không lo săn sóc, ruộng sẽ bị cỏ chạ cây rừng loáng mọc, thành đất hoang vu, chứa những độc trùng hiểm nguy không ít.

Thường ta thấy nơi trường đời người ta mượn cái lốt bề ngoài để lòe quần chúng để che khuất cái tâm khô khan cằn cỗi bên trong, đặng chờ dịp lừa phỉnh nhau và sát hại nhau.
- TÂM bất chánh trong phạm vi eo hẹp thì làm rối loạn gia đình.
- TÂM bất chánh ở chỗ xử sự xã giao thì gây ác cảm, chác oán thù,
- TÂM bất chánh loáng vào xã hội tạo dây oan nghiệt, đưa đến cảnh tội tù, xô đẩy con người vào vực sâu hang thẵm.

Gặp được mối Ðạo mầu, chúng ta rất hữu phước được Ðức Chí Tôn dìu dắt và giáo hóa, chúng ta nên gắng công trau giồi tâm chí hầu nâng cao danh thể Ðạo và thức tỉnh những kẻ sai bước lạc đường.

Ðức Chí Tôn cầm quyền cả càn khôn thế giới, đã từng hạ mình làm hồn ma đặng dìu dắt các Môn đệ lúc ban sơ, ta há vì tự trọng tấm thân mà không noi gương của Ngài trong muôn một hay sao?

Có tài thì cái tài rất hữu dụng, mà đức lại càng qúi hơn. Diêu Trì Cung Bát Nương có khuyên dạy về hai chữ tài và đức như sau đây:
Tài lấn đức tài mau diệt tận,
Ðức đồng tài, tài phấn khởi thêm.
Mênh mông biển khổ con thuyền,
Ðạo sơ đức kém ngửa nghiêng sóng trần.
Ỷ tài sức cậy thân dựa thế,
Tài càng nhiều càng lụy đến thân.
Tài kia tai nọ luôn vần,
Ðức tài trau luyện đồng cân mới mầu.
Trăm năm một cuộc bể dâu!

Tố Như Tiên sanh là cụ Nguyễn Du dạy đời hai câu bất hủ.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI”.

Nơi cửa Ðạo, người hành đạo phải làm gương mẫu cho nhơn sanh và muốn lập chữ TÂM phải quên được cái “bản ngã” thường tình. Trừ bỏ được bịnh chỉ biết có mình, hành vi nào cũng được trong sạch, khỏi bận tâm lo mất còn thiếu đủ. Trong cảnh hèn sang, vui khổ, phải chia sớt với tất cả bạn đồng hành, sự tương thân, tương ái mới được trọn vẹn.

Dưới đây là một bài thi giáng cơ của Ðức Nhàn Âm Ðạo Trưởng:
Tìm Ðạo mà chi khá hỏi mình,
Bến mê mới vững vớt quần sinh.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Giong rủi đường Tiên nghĩa tạc gìn.
Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,
Lòng thanh nhờ lẫn lóng hơi thanh.
Thiên cơ tuy hẳn nêu trường khảo,
Lướt khỏi ngàn thu quả đắc thành

Thánh Giáo của Ðức Diêu Trì Kim Mẫu:
Ðời hay Ðạo cũng vậy, muốn lập nền tảng cho sự thái bình, phải cần lập tâm chơn chánh đỉnh đạt để gieo sự hòa nhã yêu đương rồi mới Gia tề Quốc trị.

Thiếu nhân kém đức, tâm chí nông nỗi, chủ hướng mơ màng, chẳng qua tạo cảnh khổ cho nhơn sanh mà thôi. Vậy các con nên trau giồi chữ Tâm cho lắm.

MẸ để ít lời dưới đây cho các con làm chuẩn thằng trong bước Ðạo.
Gắng sức trau giồi một chữ TÂM,
Ðạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đoạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Ðường tâm cửa Thánh dù chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Ðạo tầm.

Mấy bài Thánh Giáo trích lục chúng ta đã được đọc qua là những lời châu ngọc, chúng ta nên cố gắng nhớ để làm Kinh nhựt tụng.

Trong bước đường tu, dưới bóng Từ-bi Bác-ái của Ðức Chí Tôn, ước mong những lời dạy bảo ấy sẽ giúp ích mảy may cho những Đạo hữu ham tìm ánh sáng của chơn lý. Mùa Thu năm Mậu-Tuất (Septembre 1958)
 (Trích Giáo Lý của Ngài Tiếp Pháp)

B - TAM TRẤN OAI NGHIÊM
Khái niệm:
Khi lập ra mối Đại-Đạo này lẽ ra phải có đủ Tam Giáo: Phật, Tiên,Thánh như hai lần Phổ-Độ trước. Nhưng  để thích nghi với trình độ của dân trí, phù hợp với nhân tâm cùng sự tiến hóa vượt bực của nhân loại trong thời kỳ nguyên-tử-chuyển này. Chính vì thời buổi thay đổi, Đức Chí-Tôn mới đến lập nền Đại-Đạo chuyển Tam Giáo Qui Nguyên Phục Nhứt cho hợp với Thiên-thơ, Đức Chí-Tôn mới chọn ba vị:  Phật, Tiên, Thánh  cầm  quyền Tam-Trấn thay mặt cho Tam Giáo giáng cơ lập thành đạo đức.

Ngài lập Tam Trấn Oai-nghiêm thay cho Tam Giáo lập Đạo vô-vi, không hình thể như trước, gọi là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

TAM TRẤN OAI NGHIÊM là ba vị trấn nhậm với một quyền hành Oai nghiêm. Ba vị này thay thế ba Đấng Giáo-chủ của Thích, Đạo, Nho để Phổ độ chúng sanh trong kỳ ba Đại Ân xá của Đức Chí-Tôn.

Nay bước qua Thượng nguơn Tứ chuyển là nguơn phục cổ nên thuộc về Phật, do vậy mà đại diện của:
- Phật Đạo là Đức Phật Quan-Âm chưởng quản về Phật giáo, quyền Nhị trấn Oai nghiêm.
- Tiên Đạo là Đức Lý Đại Tiên Chưởng quản Tiên giáo, quyền Nhứt Trấn Oai nghiêm.
- Thánh Đạo là Đức Quan Thánh Đế Quân, chưởng quản Thánh giáo, quyền Tam Trấn Oai nghiêm, cũng gọi là Nho-Tông chuyển thế.                                                                      

Như vậy Tôn chỉ của Tam-kỳ Phổ-Độ là Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục nhứt.Thế nên không còn có các vị Giáo-Chủ làm đầu Tôn-Giáo như trước nữa, vì vậy Đức Chí Tôn lập Tam-Trấn Oai-Nghiêm thay quyền Phật-vị. 

Đây cũng là cơ Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn, Ngài đến xưng là AĂÂ tức là Tam ngôi nhứt thể “Qui các Đạo hữu-hình làm một”.

1 - Tại sao gọi là Tam Trấn Oai-nghiêm?
Tam trấn tức là ba Trấn. Ba Trấn cũng có nghĩa là Tam giáo. Như Nhứt kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ các Đấng ấy giáng thân lập Đạo kêu là Tam giáo. Nay, Đức Chí-Tôn lấy huyền-diệu lập Đạo mà chấn hưng Tam giáo, lại phải có ba vị thay thế cho: Phật, Tiên, Thánh nên kêu là Tam Trấn có nghĩa là trấn nhậm.
Đấy cũng là Đức Chí-Tôn chọn lựa công quả Chơn Thần Thiêng liêng của ba vị đương lúc còn ở thế, như:
- Thái-Bạch Kim-Tinh  công bình minh chánh.
- Quan-Âm Bồ-Tát  tiết hạnh trinh liệt.
- Quan-Thánh Đế-Quân  trung can nghĩa khí.

Ngài lập Tam Trấn đặng giao trách nhiệm thế quyền cho đủ số Tam-giáo trong lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ này.

2 - Quyền-hành Tam Trấn:                           
 “Tam trấn Oai-nghiêm thay quyền Phật vị tại thế này. Ấy vậy, các Đấng ấy đối phẩm cùng các Đấng Trọn lành của Bát-Quái-Đài” (PCT/19)      

…Thầy lập đặng thay mặt cho Thầy nơi Cửu Trùng Đài cầm quyền chánh trị là Phật đó vậy. Cửu Trùng Đài phù hợp với Cửu Trùng Thiên thì dầu cho cả Chơn linh trong Càn khôn  cũng phải vào nơi đó đoạt cho đặng các phẩm vị giả trạng ấy mới mong mỏi tạo lập Thiên vị mình, chẳng vào cửa Đạo hiệp cùng Cửu-Trùng-Đài thì chẳng đi đường nào mà vào Cửu Trùng Thiên cho đặng”
(Diễn văn ĐHP: 14-2 Mậu-Thìn)               

3 - Ba thời kỳ Chí-Tôn mở Đạo:
Vậy thì từ trước đến giờ đã có ba lần mở Đạo:
Phật-giáo là Nhiên-Đăng Cổ-Phật,

* Nhứt kỳ Phổ-Độ
- Tiên-giáo là Thái-Thượng Đạo Tổ.         
- Thánh-giáo là Văn-Tuyên Đế-quân.
- Phật-giáo: Thích-Ca Mâu-ni.

* Nhị kỳ Phổ-độ
- Tiên-giáo: Thái-Thượng Lão-quân
- Thánh-giáo: Khổng-Phu-Tử.
- Thay  Phật-giáo: Quan-Âm như Lai.

* Tam-kỳ Phổ-độ
- Thay Tiên-giáo: Thái-Bạch Kim-Tinh.                                                                                                           
- Thay Thánh-giáo Quan-Thánh Đế.

4 - Niệm danh Tam Trấn:
Trong các nghi thức lễ bái, tế tự hay lòng sớ dâng về Thiêng Liêng của Đạo Cao-Đài, các Môn-đệ của Đức Chí-Tôn sau khi nguyện lấy dấu: Phật, Pháp, Tăng và niệm danh Thầy, rồi kế đến niệm danh Tam Trấn:
- Nam Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
- Nam Mô Quan Thế Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
- Nam Mô Lý Đại Tiên TRưởng kiêm Giáo-Tông

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
- Nam Mô Hiệp-Thên Đại Đế Quan-Thánh Đế-Quân
- Nam Mô chư Phật chư Tiên, Chư Thánh, chư Thần.

Với năm câu nguyện như trên, nhưng ba câu giữa là niệm danh Tam Trấn đủ thấy quyền năng và trách nhiệm của Tam Trấn là trọng đại trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này.
Ấy là ba ngôi hiệp cùng Nhị khí Âm Dương đó vậy.

5 - Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn:
Thánh ngôn Hiệp tuyển. Thầy dạy:
Trong Tam-Kỳ Phổ-Ðộ và Qui Tam-Giáo nầy:
- Phật thì có Quan-Âm.
- Tiên thì có Lý-Thái-Bạch.
- Thánh thì có Quan-Thánh Ðế-Quân khai Ðạo.

“Vậy con lập cho đủ ba Trấn chứng đàn; con phải lập bàn Ngũ-Lôi, như Thầy dạy lúc trước; phải có bùa Kim-Quang-Tiên, còn con viết bùa Giáng-Ma-Xử để bàn vọng Hộ-Pháp; rồi CƯ chấp bút nhang cho Thầy triệu Ngũ Lôi đến; rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ-Pháp với TẮC và SANG; còn mấy đứa phò-loan đứng vòng theo đó.

Con biểu Tương, Kim, Thơ thề y như buổi trước; chư Môn-đệ thề như buổi Thiên-Phong. Con phải nhớ dặn chúng nó tịnh tâm mới đặng, vì có cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chứng đàn.

Các con nghe Tịch Ðạo, thi:
THANH ÐẠO tam khai thất ức niên,
Thọ như Ðịa huyển thạnh hoà Thiên.
Vô-hư quy phục nhơn-sanh khí,
Tạo vạn cổ đàng chiếu Phật duyên.

THANH  là tịch các con.
Đây là Tịch Đạo cho Nam-phái. Ngay trong buổi Giáo-Tông này thì Tịch Đạo cho Nam là chữ THANH

Nhưng vào thời Giáo-Tông kế nữa đây, thì Nam phái sẽ lấy chữ ĐẠO.
Vậy thì theo lời Thầy dạy. Ví dụ Chơn-Thần như:
“Tương là Thượng-Tương-Thanh,
Kim  là Thượng-Kim-Thanh,
Thơ là Thái-Thơ-Thanh.
Phải dùng tên ấy mà thề”.

(Nếu như ngày sau đổi Tịch Đạo thì ví như:
Tương là Thượng Tương Đạo
Kim là Thượng-Kim- Đạo
Thơ là Thái-Thơ- Đạo

6 - Tam Trấn cũng là Tam Bửu: Tinh- Khí-Thần
Nay Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn thì:
- Đức Phật Quan-Âm tượng cho Thần, là đức BI.
- Đức Lý Đại-Tiên tượng cho Khí, là đức TRÍ.
- Đức Quan-Thánh tượng cho Tinh, là đức DŨNG.

Ba đức BI- TRÍ -DŨNG chính là Tam bửu mà  người Môn đệ Cao-Đài học hỏi nơi Tam Trấn rồi dâng lên cho Chí-Tôn. Phải có đủ Bi, TRí, Dũng như vậy.

7 - Tại sao thờ Tam Trấn?
- Tại thời kỳ khai Đại Đồng Tam giáo: Nho, Thích, Đạo Qui Nguyên, Đức Chí-Tôn làm chủ cầm quyền Chưởng Pháp cho phù hợp trong buổi Hạ nguơn tuần hoàn chuyển thế. Ba vị Tam Trấn chấp chưởng cơ quan mầu nhiệm, trấn nhậm quyền hành, lập Luật Pháp, Đạo Nghị Định cho hiệp với Thiên thơ.

Vì thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn nên trong toàn bổn Đạo phải để tâm thành kính và phụng thờ Tam Trấn”.

Thế nên Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn Oai-Nghiêm thay quyền cho Tam-giáo.

Hết Tam-Kỳ Phổ-Độ thì nguyên-căn qui nhứt trở lại mở Nhứt-Kỳ Phổ-Độ nữa sẽ có vị Phật nữa ra đời cầm quyền vi chủ định-luật Càn-khôn. Đó là cơ-quan quản-trị Càn Khôn Vũ-trụ vậy.

8 - Dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn:.
Đức Hộ-Pháp nói:
“Quyền hành của các Ngài trong Tam Trấn Oai Nghiêm, có liên quan với cái Lễ tối trọng tối yếu của chúng ta là phải dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn. Bần Đạo đã có dịp giảng về Tam Bửu ấy.

Tỷ như một người kia tìm Đạo, người ta thấy mình dâng ba món ấy mà mình gọi là ba báu, rồi người ta để mắt thấy Bông, Rượu, Trà người ta để dấu hỏi, ba món ấy báu lắm hay sao? Báu ấy là báu gì ?

Bần-Đạo đã giảng ba cái đó tượng trưng cho báu vật của ta là:
- Thứ nhứt thân phàm xác thịt của chúng ta đây, thuộc về Tinh. Bông tượng trưng xác thịt.
- Thứ nhì là trí não của ta, khôn ngoan hơn vạn vật gọi là Khí.  Rượu tượng trưng cho trí não.
- Thứ ba là Trà tượng trưng cho Linh hồn của chúng ta là cái hằng sống thiêng liêng của chúng ta, nó mới gọi là ba cái báu.
Thật ra chúng ta suy nghĩ coi không có gì quí hơn xác thịt ta, trí óc ta và linh hồn ta hơn hết.

Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng ba báu vật ấy cho Ngài, Ngài không đòi hỏi dâng cho Ngài cái gì khác.

 Giả tỷ như đời Thượng Cổ nhơn loại dâng cho Ngài tới sanh mạng con người, nên người ta phải giết người để làm tế vật. Sau đó thay thế mạng sống con người, nhơn loại lại dâng Tam sanh tức nhiên bò, trâu, heo và sau nữa bên Âu Châu theo Đạo Do Thái thì dâng cho Đức Chí Tôn một con chiên trắng, con chiên ấy phải trắng như tuyết mà thôi.”

9 - Giờ phút này Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng Tam Bửu: Bông- Rượu- Trà.
Tưởng đâu là gì, thiên hạ nói báu gì đâu ba món ấy gọi là báu. Ai ngờ ba món báu ta dâng cho Ngài là báu vật, bởi vì Ngài là Chúa của ta, Ngài tạo sinh ta, Ngài là Cha của ta về phần hồn và phần xác, Ngài đòi ba món quyền sở hữu của Ngài cho ta, lấy ba món báu của ta đó vậy.

Bây giờ nếu như người tầm Đạo kia nói: Tôi không biết Ông đòi ba món ấy để làm gì? Và tôi không biết Ông dùng ba món báu ấy là Xác thịt, Trí não và Linh hồn của mình để Ông làm gì? Người ta để dấu hỏi, tức nhiên ta phải trả lời:

- Chúng ta đã thấy hiện tượng Đức Chí Tôn đến Qui Tam Giáo: Nho- Thích- Đạo. lấy cả tinh thần đạo đức của ba nền Tôn Giáo ấy đặng làm môi giới chuẩn thằng. Rồi lập thêm làm gì Tam Trấn Oai Nghiêm? Có phải chăng lập Tam Trấn Oai Nghiêm là để bảo vệ ta và Tam Trấn Oai Nghiêm có bổn phận dâng lên cho Đức Chí Tôn? Sự thật như vậy. Nếu không phải vậy Đức Chí Tôn chẳng hề khi nào sắm Tam Trấn Oai Nghiêm ra làm gì cho chúng ta thờ phượng.

Thánh thể Dâng Tam bửu:

Ấy vậy, cái lời của Chí-Tôn để trên mặt thế gian này có hai phương pháp, siêu hình cũng trong đây, mà siêu vật cũng trong cửa Đạo này. Đức Hộ Pháp hỏi:

Tại sao?
- Tại vì có một Đạo Giáo Ngài đến một thân Ngài mà thôi. Cả con cái của Ngài đã cho đầu kiếp dưới thế gian này trước, rồi Ngài mới đến sau, Ngài chung hiệp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu nó dâng Tam Bửu là dâng Xác thịt, Trí não, dâng cả Tâm hồn tức nhiên dâng cả sanh mạng của nó cho Ngài để làm chữ KHÍ, rồi Ngài trả chữ Khí của Càn Khôn Vũ Trụ, tức nhiên cái sống của nhơn loại đi đến mục đích chữ TU, Ngài biểu cả toàn thể dâng xác thịt cho Ngài, Ngài trả lộn lại cái sống của Càn Khôn Vũ Trụ, trong mình nó sống dậy mà làm Thánh Thể của Ngài. Chúng ta tưởng tượng một ngày kia, toàn cả nhơn sanh đứng làm phần tử Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh, tức nhiên phụng sự cho nhơn loại, hiệp trí não tâm hồn dâng cho Ngài hết, còn trở lực nào ngăn cản nữa, nhơn loại sẽ đến một cái tối trọng và thiên hạ nhứt gia như Đức Chí Tôn đã muốn”.

10 - Tam Trấn Oai Nghiêm trượng trưng ba báu:
Đức Hộ-Pháp nói:
1/ - Đức Quan Thánh tượng trưng TINH: tức nhiên tượng trưng xác thịt của chúng ta, vì cái sống trong xã hội nhơn quần của chúng ta ngày nay không có cái giá trị nào bằng giá trị Tinh- Khí- Thần. Quả vậy tôi tưởng chắc rằng: Nếu chúng ta có mảnh thân phàm này mà muốn cho nên, đứng cho vững vàng, đáng giá nơi thế này, kiếp sống ta không có một kiểu vở nào, không một nền Tôn Giáo nào có tôn chỉ đặc biệt về xã hội nhơn quần của chúng ta hơn là Nho Giáo.












Ấy vậy hôm kỳ Vía của Ngài, Bần-Đạo đã có nói Quan-Thánh, Ngài tượng trưng TINH, tức nhiên Ngài là đại diện của NHO TÔNG CHUYỂN THẾ  đó vậy.

2/ - Bây giờ nói Đức Lý: tức nhiên Anh cả Thiêng Liêng chúng ra giờ phút này, Đấng Thiêng Liêng đến cầm quyền Giáo-Tông trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà cũng là Nhứt Trấn Oai Nghiêm nữa, Ngài đại diện cho Tiên Giáo đó, mà Tiên Giáo chúng ta đã thấy gì? Thấy kiểu vở Tiên Giáo trong tinh thần chữ Đạo.

Ấy vậy Đức Lý tượng trưng cho cả trí não tinh thần chúng ta, bảo vệ Đạo tức nhiên bảo vệ sống còn của nhơn loại vạn linh. Đức LÝ GIÁO-TÔNG  thuộc về KHÍ.

3/ - Đức Quan Thế Âm Bồ Tát: Ngài tượng trưng cho Linh hồn chúng ta, phải chăng chúng ta sanh ở thế gian này đương mang nặng thi hài xác thịt này, cả toàn nhơn loại trên mặt địa cầu có mặt nơi đây, phải chăng do quả kiếp của họ, Bần Đạo không nói trọn hết thảy bị quả kiếp, cũng có những Đấng lãnh sứ mạng của Đức Chí Tôn đến giáo Đạo dìu dắt Vạn linh.

Hại thay! Chín mươi hai ức nguyên nhân cũng vì sứ mạng tối yếu tối trọng ấy, thay vì lãnh sứ mạng của mình trọn vẹn, lại quá ham sống, gây nên tội tình phải bị sa đoạ. Thành ra một ông Thầy đến giáo Đạo lại trở thành một học trò quá tệ hơn trò nữa.! Chín mươi hai ức nguyên nhân, giờ phút này có một điều thắc mắc hơn hết, chúng ta thấy trong Vạn linh, con người tối linh hơn vạn vật, mà ta ngó thấy có thứ người không phải người, họ đã mang xác thịt làm như người mình, họ tàn ác dối trá gian ngược, làm cho các Đấng Thiêng Liêng hay là người đạt Đạo ở thế gian này cũng vậy để dấu hỏi, đến phẩm người mà vậy, hỏi họ có đáng làm người không? Họ có đáng ngồi trong phẩm vị Đại-hồi này hay Tiểu-hồi vật loại? Nếu chúng ta để nhóm người đó ở trong Tiểu-hồi vật loại thì bất công, chính mình người ta đã đạt tới nhân phẩm, nếu để trong Đại-hồi, trong nhân phẩm thì không đáng vị, bởi vì cớ cho nên Đạo giáo để phẩm Maya, tức nhiên Quỉ vị, phẩm riêng biệt là quỉ vị.

Ấy vậy Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng Thường Du Nam Hải, các cửa Phong Đô nơi Cửu tuyền đài kia, là con đường của Ngài đi lên đi xuống không biết mấy lần, không biết thế kỷ nào dứt, để tận độ cho thiên hạ, Ngài tượng trưng cho một cơ thể thiêng liêng giải cả oan nghiệt tội tình, giải cả Nhơn quả cho chúng sanh đạt vị, tức nhiên đạt cơ giải thoát. Hỏi có người nào tượng trưng cho Đấng đó hơn Quan Thế Âm Bồ tát không? Ba cái gương ba kiểu vở kia đặc biệt chúng ta không thể gì làm được... Đức Quan-Âm tượng trưng cho THẦN

Tóm lại:   
1 - Đức Phật-Quan-Âm tượng cho THẦN
2 -  Đức Lý Đại-Tiên tượng cho KHÍ.
3 - Đức Quan Thánh Đế tượng cho TINH
 (Trích “Số 3 Huyền Diệu” cùng Soạn giả)

C - Khương Thượng Tử Nha
Ngài có họ Khương, tên Thượng, tên chữ là Tử Nha. Khương Thượng Tử Nha là học trò của Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn, Giáo chủ Xiển giáo.

Ông Khương Thượng không có số thành Tiên, nên Đức Giáo chủ Nguơn Thủy truyền cho Khương Thượng trở về trần lập Bảng Phong Thần và thay mặt cho Giáo chủ đọc Sắc Phong Thần. Do đó, Đức Khương Thượng Tử Nha là vị đứng đầu các Thần, tượng trưng Thần-Đạo Trung Hoa và cũng có thể xem Ngài là Giáo chủ Thần Đạo Trung Hoa vậy.

Đức Khương Thượng lại được vua Châu Võ Vương phong chức Thái Công và được vua gọi là Thượng phụ hay Tướng Phụ. Do đó, trong Đạo Cao Đài gọi Ngài là: “Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn”.

Trên Thánh tượng Ngũ Chi thờ tại Thiên bàn, Đức Khương Thượng Tử Nha là Đấng ngồi dưới chót hết ở hàng giữa, tượng trưng Thần Đạo. Ngài mặc áo vàng có thêu Bát Quái, tay mặt cầm cây roi gọi là Đả Thần tiên, tay trái cầm một cây cờ vàng gọi là Hạnh Huỳnh Kỳ.

- Đả Thần tiên (Đả là đánh, Thần là các vị Thần, tiên là cây roi) do Đức Nguơn Thủy ban cho, dài 3 thước 5 tấc 6 phân (thước Tàu) gồm có 26 mắc, mỗi mắc có 4 điệu bùa. (Tức là roi Thần để trừ yêu quái)

- Hạnh Huỳnh Kỳ là cây cờ vàng do Đức Nguơn Thủy ban cho, trong lá cờ có thẻ mà không có chữ. Khi gặp việc nguy biến, chữ sẽ hiện ra trên thẻ, chỉ cho cách đối phó và giải quyết. Khi xổ cờ ra che thân thì có hàng ngàn bông sen vàng rủ xuống bảo vệ khắp thân thể không cho bất cứ vật gì xâm phạm vào thân thể.

Ngày kỷ niệm Thánh đản của Đức Khương Thượng, Tử Nha là ngày 18 tháng 4 âm lịch hằng năm, nhưng Ngài không có một ngày Vía riêng biệt vì Ngài không để lại một học thuyết hay một triết lý nào cho nhân loại.

Nguyên thuở trước, Ông Tổ của Khương Thượng là cháu của vua Thần Nông, tên Bá Ích, được phong làm Lữ Hầu, nên kể từ đó lấy họ Lữ (hay Lã), sau lại có công trị thủy nên theo họ Khương. Bởi vậy có hai họ: Lữ và Khương.

Đức Khương Thượng, tên tộc là Vọng, nên gọi là Lữ Vọng hay Lã Vọng, tên chữ là Tử Nha, hiệu là Phi Hùng (gấu bay), quê quán ở Hứa Châu.

Năm Khương Thượng 32 tuổi, lòng mộ Đạo nên đi lên núi Côn Lôn xin học Đạo với Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn, Giáo chủ Xiển giáo. Ở núi tu 40 năm, Khương Thượng được 72 tuổi, thì Đức Nguơn Thủy gọi lên bảo:

- Số ngươi chưa thành Tiên đặng, hưởng lộc có dư. Nay Thành Thang hết vận có Tây Châu ra đời. Ngươi phải thay mặt Ta mà xuống thế, ra công giúp nhà Châu, cầm Bảng Phong Thần, sống làm tướng, thác làm Thần, công tu 40 năm, danh để muôn thuở. Khương Thượng nói:
- Nay vâng lời thầy trở lại chốn phàm trần, chẳng hay việc tới thế nào, xin thầy cho biết.
- Ta có 8 câu kệ chỉ rõ trọn đời của ngươi, giống như lời sấm, rán mà nhớ lấy:
Mười năm chịu túng áo còn bâu,
Gượng gạo mua vui chớ chác sầu.
Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận,
Chờ xe Vương giả rước về lầu.
Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc,
Chín chục dư ba buộc ấn hầu.
Mậu Ngũ chư Hầu trăm trấn phục,
Phong Thần chín tám bốn Xuân Thu.

Đức Nguơn Thủy ngâm kệ xong, nói bây giờ ngươi xuống trần, ngày sau cũng trở về núi.

Tử Nha lạy thầy, giã bạn, ra khỏi Cung Ngọc Hư, trở về trần. Nhớ lại không còn bà con, chỉ có người bạn là Tống Dị Nhơn đang ở đất Triều Ca, Tử Nha liền đến đó để nương nhờ. Tống Dị Nhơn gặp Tử Nha mừng rỡ hỏi:
- Chú bây giờ ăn chay hay mặn để bầy trẻ lo cơm ?
Cũng tiếng là kẻ tu hành, đâu dám dùng rượu thịt. Tống Dị Nhơn nhận Tử Nha làm em kết nghĩa, thấy Tử Nha đã già mà không có con nối hậu, nên tính cưới vợ cho Tử Nha. Dị Nhơn hỏi cưới Mã thị, con gái lỡ thời của Mã Viên Ngoại cho Tử Nha. Mã Thị năm đó đã 68 tuổi.

Có bài thơ ghi lại việc nầy:
Tu chẳng thành Tiên, tiếc Tử Nha,
Về trần cưới vợ lạ thay là!
Sáu mươi tám tuổi nhành dâu xế,
Bảy chục dư hai cái rễ già.
Xem đuốc hàm râu e lửa táp,
Soi gương mái tóc tợ sương sa.
Lá lay Nguyệt Lão xe tơ muộn,
Dẫu đến trăm năm nhắm chẳng xa.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét