Theo tinh thần phổ thông nền Chơn Đạo của Thầy
ra khắp Năm châu Thế giới, nhưng trải qua nhiều sự biến chuyển của Đạo-quyền
quá khắc khe, nên vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy mà chương trình Khảo-Cứu-Vụ của ĐỨC HỘ-PHÁP đề ra vào năm
Đinh Hợi (1948) cũng không tồn tại được bao lâu.
Sau đó Ngài Hiến Pháp Quyền Chưởng Quản
Hiệp Thiên Đài TRƯƠNG HỮU ĐỨC ra một
Thánh lịnh mới tái thiết-lập Ban Khảo-Cứu-Vụ tại Tòa Thánh, ngày 4 tháng 5 Nhâm-Tý (dl 14-6-1972) nhưng rồi vẫn bị thời cuộc biến thiên mà tất cả phải bị ngừng lại.
Hiệp Thiên Đài TRƯƠNG HỮU ĐỨC ra một
Thánh lịnh mới tái thiết-lập Ban Khảo-Cứu-Vụ tại Tòa Thánh, ngày 4 tháng 5 Nhâm-Tý (dl 14-6-1972) nhưng rồi vẫn bị thời cuộc biến thiên mà tất cả phải bị ngừng lại.
Dù trong tình thế vẫn còn
bế tắc, nhưng với tinh thần thương Thầy mến Đạo, muốn cống hiến cả một cuộc đời
học hỏi, hiểu biết của mình để cùng tham khảo với các Đồng Đạo bốn phương: Căn
cứ theo CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN của Thầy, tôi xin góp những suy tư này hầu
PHỤNG SỰ cho những tâm hồn đồng Đạo cùng hòa vào một nhịp tim Đạo pháp, đồng
thời HIẾN DÂNG lên các bậc tiền bối đã dày công khai sáng.
Tài liệu tham khảo là góp
nhặt đủ mọi vấn đề, Kinh sách, Thánh giáo, tài liệu rời của người đi trước rồi
hệ thống hoá thành Chương mục làm nên đề tài theo trình tự.
Hy vọng việc làm này chính
là BÀI HỌC của tôi hôm nay gởi đến Bạn, chắc rằng chúng ta cũng đang lần bước
trên dặm đường thiên lý, cùng san sẻ những nỗi buồn vui trong kiếp sống. Trân
trọng làm món quà thân ái nhứt.
Tây Ninh Thánh
Địa, mùa Hội-Yến Diêu-Trì.
Ngày 01-07- Kỷ Sửu
(dl 21-08-2009)
Nữ Soạn giả
NGUYÊN THỦY
CHƯƠNG TRÌNH
Học Đạo Cấp Sơ Đẳng
Phần I
Khảo cứu vụ: 考 究 務
E: The Research Institute.
F: Institut de Recherche
Khảo-Cứu-Vụ là một cơ quan của Đạo Cao-Đài do Đức Hộ-Pháp trước tiên khởi
xướng, có nhiệm vụ nghiên cứu Giáo-lý, Văn-hóa và Lịch sử của Đạo, để phát huy
và truyền bá cho mọi người đều biết. (Khảo: Tra xét, thử nghiệm, thi. Cứu: tìm
biết. Vụ: cơ quan làm việc. Khảo cứu là tra xét, đối chứng để tìm hiểu cho rõ
ràng).
Cơ quan Khảo-cứu nầy được Đức Hộ-Pháp thành lập từ năm 1948 (Đinh Hợi) nhưng chỉ hoạt động một thời gian thì phải
ngưng lại vì thời cuộc chiến tranh.
Nguyên văn Thánh Lịnh của Đức Hộ-Pháp:
ÐẠI ÐẠO TA ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ÐỘ
(Nhị Thập Tam niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Hộ-Pháp Đường
Văn Phòng
Số: 114 / TL
THÁNH LỊNH
Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng
Chiếu y Đạo Luật ngày 16-01-Mậu Dần (dl 15-02-1938) giao quyền Thống nhất
Chánh Trị Đạo cho Đức Hộ Pháp nắm giữ cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị.
Nghĩ vì sự Phổ thông Chơn truyền Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ là việc rất cần ích
trong lúc nhơn sanh đang tiến trên con đường Hạnh phúc Hoà bình
Nghĩ vì mục đích Cao-Đài Đại-Đạo là
đem nhân loại đến chỗ Đại-Đồng tạo
Tân Dân chỉ ư chí thiện trong khuôn viên Tân-Luật Pháp-Chánh-Truyền.
Nghĩ vì Chánh giáo của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là QUI NGUYÊN TAM GIÁO PHỤC NHỨT
NGŨ CHI cho đặng Phổ thông Chơn Đạo phải thông hiểu rành mạch nguyên lý của các
Tôn-giáo. Nên:
THÁNH LỊNH
Điều thứ nhứt:
1 - Thiết lập Khảo-Cứu-Vụ tại Toà-Thánh để sưu tập Kinh điển và Thánh Ngôn,
Thánh Giáo đặng khảo cứu Triết lý Cao-Đài Đại-Đạo và Kinh sách của Tôn-giáo
khác mà ra Kinh sách để Phổ Thông Đại-Đạo Tam-kỳ.
2 - Tổ chức các cuộc giảng Đạo tại Toà-Thánh và các Châu Đạo để phổ thông
Triết lý của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
3 - Tổ chức các lớp Huấn luyện Chức sắc, Chức việc để đủ tài liệu truyền
Giáo.
4 - Ra báo chí để Phổ thông Chơn Đạo
Điều thứ nhì: Cách Tổ chức:
A - Ban Thị sát:
Ban này gồm có:
- Một Chánh Thị sát
- Hai Phó Thị sát
- Hai Chánh Phó Thư ký
- Một Chánh Giám Thủ Kinh tịch
- Một Thủ bổn
- Một phó Thủ bổn
- Và nhiều Hội viên thường trực để tiếp đãi tân khách, đọc giả
và để sung vào việc các Ban Khảo-cứu như: Cao-Đài, Phật-giáo,
Nho-giáo, Gia-Tô, Lão giáo, Hồi giáo…
B - Nhiệm vụ
Một Chánh Thị sát:
a/ - Hay về giao thiệp cùng các Tôn giáo trong nước và ngoại bang
b/ - Tổ chức phân cấp, điều khiển các cơ quan phụ thuộc
c/ - Chuẩn xuất những khoản chi tiêu một trăm đồng trở lên.
Phó Thị sát nhứt:
a/ - Thế cho vị Chánh Thị Sát trong các nhiệm vụ khi vị này vắng mặt
b/ - Tiếp đãi Tân khách khi nào tân khách yêu cầu thăm vị Chánh Thị sát sẽ
đưa vào (Không xin tham kiến không đưa vào)
Phó Thị sát nhì:
a/ - Thay thế cho vị Chánh thị Sát mà kiểm soát hành động của các cơ quan
phụ thuộc.
b/ - Thế cho hai vị trên nếu cả hai cùng vắng mặt.
Chánh Phó Thư ký: Lo việc thư tín giao thiệp với ngoại giới dưới của vị
Chánh Phó thị sát
Chánh Phó Giám Thủ Kinh Tịch: mấy vị này giữ sổ Kinh Sách, sắp Kinh sách thứ
tự trong kinh.
Chánh Thủ bổn: Giữ tiền
Phó Thủ bổn: Giữ sổ thâu xuất
Cả hai đều đặng phép cho xuất những khoản chi tiêu dưới một trăm đồng (thời
gian năm 1948). Nhưng phải có toa vé và sổ sách rành rẻ, mỗi phiếu xuất phải có
chữ ký “đồng ý” của vị Thủ bổn. Những khoản tiền xuất từ 100 đồng trở lên phải
có sự chuẩn xuất và chữ ký của vị Chánh Thị sát mới hợp pháp.
Điều thứ ba: Các cơ quan phụ thuộc.
1 - Các cơ quan khảo cứu: lo gom góp hoặc mua sắm các kinh sách bằng Việt văn, Pháp văn, Anh văn…sắp
từng loại trong kệ tủ để tiện khảo cứu và tụng đọc.
Các kinh sách ấy không được cho mượn đem ra khỏi phòng khảo cứu.
Khảo Cứu vụ có:
- Một phòng tiếp khách.
- Một phòng Khảo cứu.
- Một phòng đọc sách báo.
2 - Ban tạp chí: Ban này lo việc viết bài hoặc sưu tầm các Thánh giáo, các bài Thuyết pháp
họp lại tập gọi là Tạp-chí để truyền bá trong dân gian hoặc gởi đi ngoại quốc.
Trước khi xuất bản Tạp chí phải trình lên ban Khảo cứu để kiểm soát và chuẩn hứa
mới được xuất bản, hay buộc tái tu rồi phải tái trình.
3 - Ban huấn luyện truyền
giáo: Ban thị sát chọn người chuyên môn đứng ra huấn
luyện, chư vị Chức sắc có phận sự đi truyền bá về khoa Giáo-lý, Triết-lý
Cao-Đài giáo trong các Ban khảo cứu.
Điều thứ tư: Chương trình huấn luyện:
1 - Cấp Sơ đẳng:
1/ - Đạo là gì? Tu là gì?
2 - Tiểu sử của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
3 - Nghi tiết và ý nghĩa của các tổ
chức thờ phượng.
4 - Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.
5 - Tam Qui Ngũ giới.
6 - Tiểu sử sơ đẳng của Tứ Thánh, Tam Trấn, Đức Khương Thái Công.
7 - Địa dư Việt Nam về mặt Kinh tế, Chánh trị và Tôn giáo.
8 - Phép tu luyện, trau lòng đạo đức cho trong sạch (Phương pháp này sẽ chỉ
riêng)
2 - Cấp Trung đẳng:
1 - Tại sao khai Đạo ? Tại sao bế Đạo ?
2 - Lịch sử Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và chánh trị của Đạo theo Tân Luật và
Pháp Chánh Truyền.
3 - Tiểu sử của Tứ Thánh, Tam Trấn, Đức Khương Thái Công, Bát Tiên (Tham khảo)
4 - Địa dư các cường quốc và hoàn cầu về phương diện Kinh tế, Chánh Trị,
Tôn giáo.
5 - Tu niệm theo phép: Giới, Định, Huệ.
3 - Cấp Cao đẳng:
1 - Triết lý Phật Giáo.
2 - Triết lý Đạo Giáo.
3 - Triết lý Nho Giáo.
4 - Triết lý Gia-Tô-Giáo.
5 - Triết lý Hồi Giáo.
6 - Triết lý Bà-La-Môn-Giáo.
7 - So-sánh các triết lý Tôn-giáo với các Triết lý Cao-Đài giáo để phân
rành chỗ hơn chỗ kém của đôi bên.
8 - Tâm-lý-học: tâm lý con người:
- Trong thời bình trị ra sao ? Của kẻ phú quí ra sao?
- Nhứt là phương diện Tín-ngưỡng, trình độ nhơn loại hiện giờ ra sao ? Ảnh
hưởng phong trào vật chất do khoa học gây nên thế cuộc nào ? Chỉ chỗ sai lầm
qua tư tưởng hiện tại.
- Làm cách nào đem con người lại đường Đạo (Sưu tầm các phương pháp hạnh
phúc cứu thế)
4 - Phép tu luyện:
1/ - Thật hành: Giới- Định- Huệ.
2/ - Pháp tham thiền nhập định và tiếp điển Tiên thiên cho thân hình được
tráng kiện
Điều thứ năm:
Vị Bảo Thế (Lê Thiện Phước) thừa quyền Hộ Pháp lãnh thi hành Thánh Lịnh này.
Lập tại Toà Thánh ngày 15-12-Đinh Hợi
(Dl 25-01-1948)
HỘ-PHÁP
PHẠM-CÔNG-TẮC
Chương trình của Đức Hộ-Pháp như trên chỉ thực hiện một thời gian ngắn, vì
thời cuộc phải gián đoạn. Mãi đến ngày 4 tháng 5 Nhâm-Tý (dl 14-6-1972), tại
Tòa Thánh, Ngài Hiến Pháp Quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên Đài TRƯƠNG HỮU ĐỨC ra
Thánh lịnh mới.
Nguyên văn Thánh Lịnh nầy, xin chép ra sau đây:
ÐẠI ÐẠO TA ĐẠI-ĐẠOTAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tứ Thập Thất niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Văn Phòng
CHƯỞNG QUẢN
Hiệp Thiên Đài
Số: 53/TL
CHƯỞNG QUẢN HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Chiếu Tân-Luật và
Pháp-Chánh-Truyền,
Chiếu Hiến-Pháp và Nội luật
Hiệp-Thiên-Đài ngày rằm tháng 2 Nhâm-Thân (dl 21-3-1932).
Chiếu Hiến-pháp Hiệp-Thiên-Đài
ngày 8-1-Gíap Thìn (dl 20-2-1964) và Hiến-pháp Hiệp-Thiên-Đài bổ túc ngày 27-2-Ất
Tỵ (dl 29-3-1965).
Chiếu Thánh giáo tại Cung
Đạo Đền Thánh đêm mùng 6-5-Tân Hợi (dl 29-5-1971) Đức Hộ Pháp chấp nhận việc
công cử Thời Quân Hiến-Pháp cầm quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài
Chiếu Vi Bằng số 3/VB
ngày 3 tháng chạp Tân Hợi (dl 18-1-1972) Hội-Thánh Lưỡng Đài: Hiệp Thiên, Cửu
Trùng và Phước Thiện đồng quyết nghị tái lập KHẢO CỨU VỤ theo Thánh Lịnh số 114
ngày 15 tháng chạp Đinh Hợi (dl 25-1-1948). Vì sự Khảo-cứu là việc cần ích
chung cho Đạo, nên:
THÁNH LỊNH
Điều
thứ nhứt: Nay tái lập Khảo-Cứu-Vụ tại Tòa Thánh Tây-Ninh để sưu tập
Thánh-Ngôn, Thánh-giáo, Kinh điển và tìm hiểu nguyên lý của các Tôn-giáo đặng
nghiên cứu phổ thông triết lý Đại Đạo ra khắp Ngũ châu hầu cứu rỗi nhơn loại.
Điều thứ nhì: Giao cho vị Thời-Quân Bảo-Đạo Hiệp Thiên-Đài lãnh nhiệm
vụ tổ chức và điều hành Ban Khảo Cứu Vụ do theo tinh thần Thánh Lịnh dẫn thượng.
Ban Khảo-Cứu-Vụ đặt Văn
phòng làm việc chung với Ban Đạo Sử.
Điều thứ ba: Vị Thời-Quân Bảo Đạo Hiệp-Thiên Đài, các cơ quan Chánh
Trị Đạo tùy nhiệm vụ thi hành và ban hành Thánh Lịnh nầy.
Tòa Thánh, ngày 4 tháng 5 Nhâm Tý.
(Dl 14-6-1972)
Hiến Pháp Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(ấn ký)
VÀI CẢM NGHĨ về sự tái lập
KHẢO CỨU VỤ
(Bài của T.T. trong bán nguyệt san Thông Tin số 59)
Vào ngày rằm tháng chạp năm Đinh Hợi (dl 25-1-1948) Đức
Hộ-Pháp đã ký Thánh lịnh thành lập Khảo Cứu Vụ để khảo cứu và soạn thành sách
Triết-lý Đạo Cao-Đài cũng như của các Tôn giáo khác.
Ngoài Khảo Cứu Vụ nói trên, Hội Thánh và các cơ quan Chánh-Trị-Đạo lúc ấy
còn phải thi hành các điều sau đây (theo Thánh lịnh):
- Tổ chức các cuộc giảng đạo tại Tòa-Thánh và các Châu Đạo để phổ thông Triết
lý Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ và Tứ giáo.
- Tổ chức các lớp Huấn luyện Chức sắc và Chức việc để đủ tài liệu truyền
giáo.
- Xuất bản báo chí để phổ thông Chơn đạo.
Với các điểm nầy, Thánh Lịnh có chỉ rõ phương pháp làm việc, lề lối tổ chức,
chương trình thực hiện. Riêng về phép Tu luyện và Tham thiền nhập định thuộc về
Bí pháp, tuy có ghi rõ trong Thánh-Lịnh nhưng ngoài Hiệp-Thiên-Đài ra, thiết tưởng
không ai đảm trách huấn luyện được.
Sau khi ban hành Thánh Lịnh được 75 ngày, đúng đêm mùng 5 tháng 2 năm Mậu
Tý (1948) Đức Hộ Pháp đã than như sau:
“Tội nghiệp thay Thánh thể của Đức Chí Tôn, mấy
anh lớn, chị lớn già yếu, một phần được giải thể về Thiêng liêng vị, không được
hưởng một đặc ân gì hết. Ngoài ra thiệt thòi phần ấy chẳng nói chi, hiện thời
cái Bí pháp có ảnh hưởng đến tương lai của nền Đạo, ta đã có việc nào trong
trăm việc chưa? Thí dụ: Nơi Hiệp-Thiên-Đài, phải lấy Bí pháp tạo Huyền-Linh-Đài
để dùng cho Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài tương liên với quyền năng vô hình của chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật và Chí Tôn. Ngoài ra còn quan sát Giáo lý của các Tôn
giáo khác đặng tạo Tân Sấm Truyền của Đại Đạo.”
Qua Thánh Lịnh và lời than trên đây của Đức Hộ Pháp, 24 năm đã trôi qua lặng
lẽ cho đến đỗi người ta tưởng rằng sẽ không bao giờ được ai nhắc đến nữa. Nhưng
rồi việc gì đến phải đến, việc gì còn dở dang cần phải làm, người đời sau nối
tiếp việc làm của người xưa. Dù có trễ nhưng không muộn.
Giờ đây sự tái lập Khảo-Cứu-Vụ do Thánh Lịnh số 53/TL của Ngài Hiến-Pháp,
Quyền Chưởng quản đề ngày mùng 4 tháng 5 Nhâm Tý (dl 14-6-1972) đã đáp ứng đúng
yêu cầu đòi hỏi từ lâu của bổn Đạo. Cơ sở nầy đặt dưới quyền điều khiển của vị
Thời Quân Bảo-Đạo Hiệp-Thiên Đài .
Trước sự kiện đó, người Đạo ai ai cũng ước mong công cuộc Khảo cứu sớm đem
lại kết quả khả quan hầu tạo Tân-Sấm-Truyền của Đại-Đạo.
Tại sao người Đạo lại mong ước như vậy? Điều đó chẳng có gì lạ. Chúng ta, nếu
ai có đọc được các quyển sách sưu khảo về Đạo giáo Cao-Đài đã in từ trước đến
giờ, hoặc các bài sưu khảo đang đăng tải trên các nhựt báo Sài Gòn, sẽ thấy được
những khuyết điểm về triết lý, cũng như Tân Sấm Truyền của Cao-Đài-giáo mà các
nhà sưu khảo đã nêu ra. Đọc được các sách báo ấy, rồi cộng với lời than năm xưa
của Đức Hộ Pháp, mới biết rằng tại sao người Đạo Cao Đài thiết tha hay chú trọng
đến vấn đề sưu khảo ấy.
Đạo Cao Đài trong tương lai gần đây, có vạch ra được một nền triết lý cao
siêu hay có tạo được Tân Sấm Truyền cho Đại Đạo hay không, điều đó còn tùy thuộc
vào việc làm, vào thiện chí và khả năng của nhiều người đóng góp lại.
Theo lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp, Thập Nhị Bảo-Quân thuộc thành phần
Hàn-Lâm-Viện, nhưng Thập Nhị Bảo Quân hiện nay chưa đủ số, cũng như phẩm Hiền
Nhơn bên Phước-Thiện chưa có để tăng cường thì Hàn Lâm-Viện-Đạo vẫn chưa thành
hình sớm được.
Như vậy, công cuộc Khảo-cứu đòi hỏi nhiều ở khả năng chuyên môn và sự hiểu
biết sâu rộng của nhiều người về mặt Đạo, mà trong đó nhiệm vụ của những vị
Hàn-Lâm không phải là nhỏ vậy.
Gánh nặng mà Ngài Bảo-Đạo hiện đang đảm nhận có lẽ phải thực hiện từng giai
đoạn một và giai đoạn trước tiên là phải làm cách nào thâu thập đủ tài liệu
sách vở của toàn thể các Tôn-giáo đã có, bằng tiếng Việt hay bằng ngoại ngữ.
Trên đây chỉ là một vài cảm nghĩ với tinh thần xây dựng và cũng chỉ để đóng
góp phần nào ý kiến trong sự tái lập và hoạt động của Khảo-Cứu-Vụ thôi.
Hơn nữa, người Đạo Cao-Đài, bất luận Chức-sắc hay Đạo-hữu, đã thờ Tam Giáo,
Ngũ Chi, đều không có quyền nói rằng mình không am tường triết lý Tam Giáo, Ngũ
Chi và điều nên nhớ là Tôn giáo Cao Đài là một Tôn Giáo Đại-Đồng.
Hiểu được vậy mới thấy sự ích lợi trong việc tái lập Khảo Cứu Vụ và bổn phận
của người Đạo là phải giúp đỡ, cung ứng các tài liệu Đạo giáo cho Khảo-Cứu-Vụ”.
Căn cứ theo chương trình đã đề ra, chúng tôi do theo đó mà học tập, hầu gởi
đến đồng Đạo trong lúc chúng ta cô đơn và rất cô đơn “Đạo Hư vô, Sư Hư vô”mà!
Thành thật cám ơn các Bạn đã nhiệt tình
giúp. Xin thông cảm.
CHƯƠNG I
CHƯƠNG TRÌNH HỌC ĐẠO
CẤP SƠ ĐẲNG
I - ĐẠO LÀ GÌ? TU LÀ GÌ?
Đức Chí-Tôn dạy: 27-8-Bính Dần (dl 4-10-1926)
“Dầu một vị Đại-La
Thiên Đế xuống phàm mà không TU, cũng khó trở lại địa vị đặng”.
Thấy rõ sự cần yếu
như vậy mà các bậc tiền bối suốt đời cặm cụi trong việc
Tu Thân, sửa mình, hành đạo, Phụng sự chúng sanh không biết mỏi là hoàn toàn có lý cớ.
HỌC ĐẠO tức là
Tu, mà TU là phải học Đạo. Thế nên người học cho thấu rõ lý Đạo, xong
mình đem ra thực hành thì đó chính là TU HÀNH. Nhưng muốn thực hành cho hoàn chỉnh thì điều cần yếu nhất là sửa mình, đó là TU THÂN.
Việc tu thân từ xưa đến giờ ai cũng cho là yếu trọng.
A - Tu là gì ?
Thầy dạy: “Con đường vô tư để tìm cứu khổ cho chúng sanh là con đường đạo đức.
Ngọn đèn Thiêng liêng sẽ chực soi tỏ bước của các con; khác với con đường ấy là
đường của Quỉ Vương đem lối. Nên hiểu kỹ lời, bằng chẳng thấu thì TU có ích
chi”.
Thầy quả quyết “Tu mà cứu thế dễ như không !”
TU tức là làm cho mình tận thiện, tận mỹ.
Luật thiên-nhiên của tạo-hoá buộc các đẳng linh hồn dầu vật loại cũng phải
trau mình đặng đoạt đến nhơn phẩm. Khi được địa vị làm người
còn phải tự giồi trau để đi từ từ đến cảnh
siêu thoát là Phật-vị, là Niết Bàn.
TU là gìn nhơn phẩm, hạn chế dục vọng, thực hành theo lý tưởng Bác-ái để bước
lên Thiêng-Liêng-Vị, trái lại là mua chác đau phiền, chận đường tiến hoá về mọi
hình thức và vô tình đi đến cảnh suy vong.
Vận dụng mọi hiểu biết và tuỳ mỗi giai đoạn tự nhiên trong phạm vi nhơn-đạo
đặng làm theo là TU THÂN
Về phương TU trong chơn truyền Đại-Đạo của Đức Chí-Tôn là hình thức thờ phượng
và dâng Tam Bửu, mỗi ngày chúng ta cầu nguyện Đức Chí-Tôn đặng dâng ba Bửu ấy
là Tinh- Khí- Thần, tức nhiên: Hiến dâng Bông, Rượu, Trà là nguyện dâng cả Xác
thân, Trí não, Tinh thần cho Đức Chí-Tôn để thực hành chơn pháp. Phải TU, phải
đào luyện cho được Chơn Thần đồng thể, đồng tánh cùng ngôi tạo đoan thứ nhì, để
cùng Tạo-đoan dự vào cơ tấn hoá trên con đường hằng sanh, tức là Phụng-sự Vạn-linh
sanh chúng, đó là QUI NGUYÊN TAM BẢO: Qui y Phật, Qui y Pháp, Qui y Tăng,
theo thuyết nhà Phật Còn nói theo Đạo Cao Đài gọi là HIẾN DÂNG TAM
BỬU: Tinh- Khí- Thần, cũng cùng một ý-nghĩa như nhau..
Bởi người TU HÀNH cũng phải tốn rất
nhiều thời gian, công sức cho việc này cũng như trau giồi một chuyên môn nào vậy.
Sau đó mới thấy một ích lợi vô cùng to lớn.
Đức Mẹ FATIMA cũng có lời khuyên là nên ăn chay, bố thí, lần chuỗi Mân côi.
Đức Hộ-Pháp để lại biết bao lời khuyên bảo và dạy cho biết phương thức tu hành,
để may ra được sống còn trong cái thời hỗn độn này. Đây là một đoạn Diễn văn của
Ngài Bảo-Thế Lê-Thiện-Phước đọc tại Tokyo, rằng:
…“Người ta có quan-niệm nhà tu trì chỉ biết có kinh kệ nguyện-cầu, mà:
- Quên rằng vì thương hại chúng-sanh nhà tu
mới sớm kệ chiều kinh cầu-nguyện cho chúng-sanh bớt khổ.
- Quên rằng chớ chi các nhà thông-thái phát-minh nguyên-tử-lực chịu hợp-tác
với nhà tu-trì để xử-dụng thì lực nguyên-tử sẽ dùng vào việc giúp ích cho thế-gian
hơn là giết hại đồng-chủng.
- Quên rằng nếu lấy đạo-đức khuyến thiện là bổn phận thiêng-liêng của nhà
tu đặng bảo-thủ Hoà-bình, còn lấy bạo-hành ép buộc dân-chúng thì không bao giờ
hết loạn.
Thoảng như đời biết nương Đạo, thì Đạo sẽ nâng tay dìu đời. Ngặt vì đời quá
rẻ-rúng Đạo, bảo sao người tu hành không lánh mình ngoài chốn oai-quyền thế-lực
để mặc ai sa vào cạm bẫy của tà-thần, tự rước lấy sự thất-bại chua cay vô
phương cứu chữa”.
Bởi vậy:
TU là trau giồi đức tánh, dọn mình cho trong sạch, ăn năn tội cũ cho tâm
mình trở nên tinh tấn, linh hồn mình trở nên nhẹ nhàng, sáng láng, hầu khi
thoát xác trở lại bổn nguyên (ngôi cũ) hiệp làm một cùng Chí Tôn, là đắc kiếp.
TU chẳng cần phải cạo đầu, mặc áo dà, ở chùa và tụng kinh gõ mõ cho nhiều.
Quý chăng là tại tâm đó thôi.
Ta vừa làm Nhơn-đạo vừa lo Thiên-đạo cũng được vậy, nghĩa là cũng làm ăn
như thường, song khác hơn người thường là ngoài giờ làm lụng, thay vì đi chơi bời
vô ích, rượu trà cờ bạc…cho tốn tiền sanh bệnh, ta lại để giờ rảnh ấy mà trau
mình, quan sát việc hành động nội trong ngày coi phải hay là quấy, như có lỡ
làm điều chi ta nghĩ ra mà biết là quấy, thì phải ăn năn sám hối, hứa rằng ngày
sau không tái phạm. Ấy là: "Quân tử thận kỳ sát thân" tức nhiên bậc
quân tử, đạo-đức rất thận trọng với chính mình mà tự xét lấy thân mình. Cúng Tứ
Thời là hình thức Xét mình đó vậy. Nhưng nên nhớ CÚNG TỨ THỜI chỉ là trau luyện
cho riêng mình chứ thật ra chưa giúp ai được gì. Trừ ra những bậc đạo cao đức
trọng thì trong giờ Cúng mới phóng điển lành mà cầu nguyện cho toàn Thế giới đó
thôi.
Trong giờ rảnh, ta để lòng thanh tịnh mà hàm dưỡng tinh thần, cùng là tưởng
Trời, niệm Phật, đọc sách Thánh Hiền, nếu ta thành tâm tưởng niệm thì tự nhiên
có Trời Phật độ ta vì Trời Phật tại tâm lành chớ chẳng đâu xa.
Chớ nên hẹn rằng: "Nay tôi còn lo nhơn đạo, tu chưa được, đợi chừng nào
nhơn đạo lo xong rồi sẽ tu". Tính như vậy rất lầm, vì Nhơn đạo tức là
Thiên đạo. Nhơn đạo thành là phù hạp với Thiên đạo đó. Nếu nay lần, mai lựa, chẳng
lo dưỡng tánh, tu tâm, đợi đến buổi chung qui mới rõ Thiên đàng Ðịa ngục thì đã
muộn rồi.
Không nhất thiết phải vô chùa mới là tu được, ấy là lời nói rộng cho kẻ mới
làm đạo. Chớ chừng tu đến bực tối thượng thừa rồi, cũng phải vào Tịnh thất hay
là tìm chốn u huyền mà ẩn thân luyện đạo. Bởi tâm hồn người TU là thích tĩnh lặng.
Nhưng phải biết bất cứ đi đứng nằm ngồi đều là TU cả, thì việc TU ấy mới nâng
cao tinh thần.
1 - Kẻ có căn Đạo mới Tu
thành là vì sao?
Thầy dạy:
“Là vì phải đi trước lo làm ruộng có lúa cho nhiều, đời này qua kiếp khác, lựa giống nào tốt đem
để trong kho cho sẵn, chứa chất thật nhiều ngày cho đầy cả nguyên kho rồi khóa
lại đó. Đến chừng gặp việc thì mở cả nguyên kho ra dùng. Như vậy nó mới có, chớ
kẻ không tạo thì dầu có mở kho ra sớm cũng rỗng không nào có ích chi. Vì thế LUẬT
LUÂN HỒI QUẢ BÁO là bài học hay cho các đẳng Chơn linh. Chơn-linh nào
khôn-ngoan không xài phí hết lương tiền thì có của dư chất ở trong kho, tất mau
đầy. Đó là những Chơn linh mau tấn-hóa. Chơn-linh nào ngu muội thì làm hòai vẫn
thiếu nợ hoài, làm sao có của dự trữ ?
Bởi vậy Đạo khai là cốt để dạy-dỗ cho các đẳng Chơn linh học hỏi phương tu tiến ấy.
Con coi không một vật gì ở vũ-trụ này mà không có
Đạo. Nó là cái định-luật hẳn nhiên sẵn có, duy có kẻ biết đến cùng chưa biết
đến mà thôi, như không-khí các con thở dù kẻ không biết rằng có nó thì họ vẫn
thở. Nhưng việc nào mình không thấu-đáo thì chậm tiến vậy thôi.
Pháp Đạo thật rất nhiệm-mầu, không sao mà giải cho hết lý được, duy chỉ đến
trình-độ cao siêu đến đâu thì thấu-đáo được đến đó vậy thôi.
Kẻ không biết Đạo sa-mê vật-chất chẳng khác nào như khách lữ-hành kia đi
du-lịch mà cứ mảng lo hái trái ngắt bông ở một góc rừng thì đời nào cho biết được
nhiều việc cao xa?
Đó là đại-khái của cơ mầu-nhiệm Thiêng-liêng”.
Chúng ta đồng ý là bước lên con đường tu hành, nhưng tu là phải làm những
gì? Ấy mới là điều quan trọng.
Theo quan niệm Cao-Đài ngày nay người Tu là phải am tường Giáo lý, Tôn chỉ,
Nghi thức, chơn truyền của Đại-Đạo, tức nhiên phải học. Vậy học ở đâu?
- Dĩ nhiên là học qua Kinh sách Đạo, mà phần cốt tuỷ là Tân-luật,
Pháp-Chánh-Truyền, Thánh ngôn Hiệp tuyển và rất nhiều sách của các bậc tiền bối
biên soạn. Nhất là qua mười năm Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp.
Tuy nhiên sách vở trong buổi này có phần hạn chế. Vậy Soạn giả xin ghi lại
cuộc phỏng vấn của một người nước ngoài với một Chức sắc trong cửa Đạo, rồi từ
đó bàn rộng thêm vấn đề cho được sáng tỏ. Vì nghĩ rằng Tôn chỉ của Đạo Cao-Đài
là Đại Đồng, làm thế nào dẫn vào chân lý chánh truyền để chúng sanh cùng quán
triệt. Hơn nữa một việc làm bất vụ lợi nên không có vấn đề “đạo văn”. Trái lại
những văn của các bậc tiền hiền tôi trích ra đây là những câu văn hay, dẫn chứng
xác thực, mà chính khả năng của Soạn giả không thể sáng tạo được. Xin thông cảm
và tha thứ trên tinh thần Phụng sự Đạo pháp.
Học, chính là Tu hành, có vậy mới không lầm lạc.
2 - Tìm hiểu về Đạo
Cao-Đài
Thiết nghĩ rằng những câu vấn đáp qua cuộc phỏng vấn với Ông Thừa Sử Lê
Quang Tấn cũng là những thắc mắc chung cho người muốn tìm hiểu về Đạo Cao-Đài:
VẤN 1: Tại sao Đức Thượng
Đế chọn Việt Nam là nơi khai Đạo Cao-Đài mà không chọn những quốc gia lớn như Mỹ
và Trung-Hoa ?
ĐÁP: “Nên nhớ rằng trước kia Đức Thượng-Đế trao cho Đức Lão-Tử và Đức Khổng Tử
đến khai Đạo tại nước Trung Hoa để giáo dân làm lành lánh dữ rồi !
Còn tại nước Mỹ (Hoa-Kỳ) vào năm 1776 Đức Thượng Đế đã khai khiếu cho ba vị
lãnh đạo nước Mỹ là Ông Thomas Jefferson, ông Benjamin Franklin và Ông John
Adams được chỉ định để soạn thảo tờ giấy bạc 1 Dola. Sau 6 năm nghiên cứu với sự
cố gắng tột bực của Ông Williams Barton và Ông Charles Thompson mới hoàn thành
phía lưng của giấy bạc một đồng Dola, trình lên Quốc Hội ngày 20-06-1782 thông
qua một Nghị Quyết chấp thuận thiết kế cuối cùng phía lưng của tờ giấy bạc một
Dola có hình Kim-Tự tháp, Con Mắt, một cái cân và một cái chìa khoá.
Bên phía lưng của tờ giấy bạc một Dola: con Mắt trực tiếp bên trên, Kim-Tự-Tháp
là Con Mắt của Thượng Đế. Các tiền nhân sáng lập nước Hoa-Kỳ (Mỹ) có nguồn gốc
tôn thờ Đức Thượng đế từ năm 1782 và sự tiến triển của nước Mỹ luôn luôn phải
được sự phù hộ của Đức Thượng-Đế.
Cái Cân tượng trưng cho Công lý.
Chìa khoá lược trình cho quyền uy của Quốc gia
Thiết nghĩ, nước Hoa-Kỳ đã lập quốc 225 năm rồi (1776). Còn Đạo Cao-Đài mới
được khai sáng tại nước Việt-Nam vào những năm 1926, tức mới có 75 năm, nhưng sự thờ phượng Thiên Nhãn của Cao Đài, tức Ngọc
Hoàng Thượng-Đế và Cân Công bình cùng chìa khoá mở cửa Bạch-Ngọc-Kinh của Tôn
giáo Cao-Đài không thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên với Con Mắt (Thượng-Đế),
Cân công lý và Chìa khoá của bên lưng giấy bạc Một Dola của Mỹ mà người Tín hữu
Cao-Đài có thể hiểu rằng Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Cao-Đài đã mặc khải cho dân tộc
Mỹ biết trước về Con Mắt để thờ Thượng-Đế, cũng như Ngài Ngô văn Chiêu được Đức
Thượng-Đế mặc khải cho thấy Con Mắt tại Đảo Phú-quốc vào năm 1925 để thể hiện
thờ THIÊN NHÃN là thờ Thầy vậy.
Như thế đã rõ biết Đức Chí-Tôn đã chỉ định cho Đức Khổng-Tử và Lão-Tử đến
khai sáng nền Đạo tại Trung-Quốc trước kia.
Còn ở Mỹ-Quốc thì Đức Chí-Tôn mặc khải cho dân tộc Hoa-Kỳ tôn kính thờ Thượng-Đế
từ năm 1776 rồi.
Còn như chọn nước Việt-Nam để khai sáng nền Đạo Cao-Đài là Đức Thượng-Đế đã
thông cảm lòng trung hiếu thờ phượng ông bà cha mẹ của dân tộc Việt-Nam mãi mãi
lưu truyền, cũng như đức tin tôn kính thờ phượng Trời Phật của dân tộc Việt-Nam
hết sức tốt đẹp, bất luận Tôn giáo nào du nhập vào Việt-Nam đều được dân tộc Việt
Nam tôn kính phụng thờ. Vì thế, Đức Thượng Đế xót thương đệ tử, mới đến hoằng
khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ trên đất nước Việt-Nam vào năm 1926 còn đang bị lệ
thuộc Pháp mà Đức Chí-Tôn đã đến với lời hứa vô cùng sâu sắc “Thầy sẽ dùng Huyền
diệu Thiêng liêng vô tận vô biên để giải ách nô lệ cho dân tộc Việt-Nam”. Một
vinh diệu lớn lao cho dân tộc Việt-Nam là được nắm chủ quyền Tôn giáo Cao-Đài để
thực hiện sự Thương yêu và Công bình cho toàn cả nhân loại.”
* Ở nước Mỹ: Năm 1782, Thiên Nhãn được chọn là một phần trong biểu tượng khắc
trên Quốc Ấn (con dấu quốc gia) của Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ. Người ta cho rằng
Thiên-Nhãn là đề nghị của Pierre Eugene du Simitiere, nhà tư vấn nghệ thuật cho
các Tiểu bang thiết kế.
Quốc Ấn. Trên Quốc Ấn, Thiên Nhãn được vẽ phía trên một Kim Tự Tháp có 13 bậc,
tượng trưng cho 13 Tiểu bang đầu tiên của Mỹ. Toàn bộ biểu tượng ngụ ý Thiên
Nhãn hay Thượng Đế ban ân huệ cho một nước Mỹ thịnh vượng. Ngoài ra Thiên Nhãn
còn được nhìn thấy khắc trên con dấu của Tiểu Bang Colorado.
Đặc biệt là trên mặt sau của tờ giấy bạc 1 Đô-la của Mỹ cũng có biểu tượng
này. Chính Thiên Nhãn là “Đại Ấn của Hiệp Chúng Quốc” mà thế giới ai cũng biết.
Nó là kết quả của sự cố gắng của nhiều nhân vật từ năm 1776 đến năm 1782 trong
đó có Benjamin Franklin, Tổng Thống Thomas Jefferson và John Adams.
Bề mặt của con dấu cho thấy có con Ó trọc đầu ngậm trong miệng một biểu ngữ
có hàng chữ La-Tinh “Epluribus UNUM” có nghĩa là “Từ cái nhiều ra cái duy nhứt”.
Trùng hợp thay! Một trong những nguyên lý căn bản của Đạo Cao-Đài là “Vạn thù
qui nhứt bổn” cũng có cùng một nghĩa như trên. Điều này chứng tỏ sự đồng nhất vạn
vật. Chúng ta tuy thấy nhiều nhưng chung qui có Một. Con Ó được chọn lựa là vì
con Ó là một trong những huy hiệu của Ai-Cập. Vì Ai-Cập xưa kia là nước dẫn đầu
về huy hiệu. Con Ó tượng trưng cho sức mạnh tối cao của Quốc gia.
Trên đầu con Ó có một vầng hào quang biểu thị rằng: phần tâm linh ở trên phần
vật chất. Trong vầng hào quang có 13 ngôi sao tượng trưng 13 Tiểu bang đầu tiên
của Hoa-Kỳ:
- Đầu con Ó tượng trưng cho cơ quan Hành pháp.
- Trước ngực con Ó là một cái khiên (cái mộc) với 13 đường sọc, phần trên
cái khiên màu xanh tượng trưng cho cơ quan Lập pháp.
- 9 cái lông đuôi là cơ quan Tư-pháp.
Cái sọc trắng và đỏ của cái khiên là ý nghĩa đầu tiên của một Hiệp-Chủng-Quốc.
Theo phong tục Trung Đông nhành ô-liu với 13 lá (13 Tiểu bang) và các hạt
trong chân mặt của con Ó tượng trưng cho Hoà bình. Bên chân trái là 13 mũi tên
tượng trưng cho chiến tranh lấy từ phong tục của người Mỹ bổn xứ (người da đỏ).
Đầu Ó ngó qua nhành ô-liu bên phải gợi sự mong muốn Hoà bình.
Mặt trái của con dấu có một Kim-Tự-Tháp không đỉnh. Kim-Tự-Tháp đã được chọn
để nhớ lại nền văn minh cực thịnh trong lịch sử Ai-Cập.
Kim-Tự-Tháp không đỉnh này nói lên sức mạnh vật chất của một Quốc gia luôn
luôn xây dựng và tiến triển không ngừng.“Thiên Nhãn”trên Kim-Tự-Tháp tượng
trưng cho Đấng Thượng Đế soi sáng cả muôn vật và cũng chỉ sức mạnh tâm linh
luôn luôn ở trên sức mạnh vật chất.
ANNUIT COEPTIS có nghĩa “Ơn Trên phò
hộ chúng ta”.
NOVUS ORDO SECLORUM có nghĩa là “Một
kỷ nguyên mới trong nghìn năm”. Bắt đầu từ năm 1776.
Tuy nhiên nếu nói cho đúng nghĩa về những nguyên nhân mà Đức Chí-Tôn mở Đạo
tại Việt Nam phải xét về ba yếu tố: Thiên-Địa-Nhân thì mới thấy điều yếu trọng
của Việt Nam là một quốc gia Thiên định.
VẤN 2: Đạo Cao-Đài có thể đóng góp gì cho
Thế giới hiện nay không?
ĐÁP: “Như đã thấy: cả thế giới còn sống trong cảnh hỗn loạn, mạnh được yếu
thua mà Đức Chí-Tôn đến với dân tộc Việt-Nam còn đang bị Pháp đô hộ mà giao nền
Chánh giáo Cao-Đài trong tay người Việt-Nam, nhứt định người tín hữu Cao-Đài phải
giữ lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương, hướng dẫn nhân loại đến Đại-Đồng
trong tình Thương yêu và Công bằng, giúp đỡ lẫn nhau như con một CHA. Lẽ dĩ
nhiên phải có đủ đạo hạnh, đủ năng lực để đảm nhiệm việc hướng dẫn nền văn minh
của nhân loại sau này. Ngoài ra Đức Thượng-Đế còn phán dạy: “Từ đây trong nước
Nam duy có một Đạo nhà chân thật là Đạo Thầy. Trừ diệt mê tín dị đoan”.
Chính Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung đã nhận một Thiên trách với Đức Thượng
Đế phải đem lại Hoà bình cho nhân loại. Thế nên ngày 01 tháng 12 năm 1931 Ngài
có gởi lên quí vị chủ tịch Nghiệp đoàn
báo chí Thế giới bằng những lời yêu cầu khẩn thiết nhất:
“Chúng tôi rất hân hạnh và kính cẩn yêu cầu quý Ngài khuyến nhủ tất cả các
Giám Ðốc Nhật Báo, các tạp chí định kỳ, dành cho chúng tôi một chỗ để kêu gọi sự
thống nhứt đức tin như bản kèm theo đây.
Ðó là một đặc ân mà Báo chí ban cho toàn thể nhân loại, bởi vì nếu sự thống
nhứt đức tin được thực hiện, các chủng tộc sẽ xem nhau như anh em và Hòa-bình
Thế giới sẽ phát hiện.
Thế giới sẽ được giải thoát khỏi cơn ác mộng ghê gớm về một trận thế chiến
sắp xảy đến mà sức phá hoại sẽ mười phần dữ dội hơn trận Thế chiến 1914-1918.
Mong quý vị Chủ Tịch nhận nơi đây những cảm tình kính mến và biết ơn của
chúng tôi.
THƯỢNG TRUNG NHỰT
(Tiếp theo là bài Diễn-văn của Ngài Thượng Trung Nhựt đọc tại Tòa Thánh
Tây-Ninh ngày 01 tháng 12 năm 1931 nói về nền Tân-Tôn-giáo Cao-Đài có thể
canh-tân toàn thể Thế-giới để đưa nhân-loại đến ĐẠI-ĐỒNG)
Kính gởi Chư vị Hoàng-Đế, Quốc-Vương,
Chư vị Nguyên-thủ lãnh-đạo các nước,
Chư vị Giáo-lãnh các Tôn-giáo trên thế-giới.
Kính thưa quí Ngài,
Chúng tôi trân-trọng và thành-kính thông-báo cùng quí Ngài, Đấng tối cao tức
là Đấng Thương-Đế toàn năng mà cũng là Đại-Từ-Phụ của tất cả nhơn loại, đã
giáng lập trên một góc của nước Việt-Nam thuộc Tỉnh Tây-Ninh, một nền
Tân-Tôn-giáo. Nền Tôn-giáo này có thể canh-tân toàn thể thế-giới bằng một lý-tưởng
cao-quí đó là TÌNH THƯƠNG VẠN-VẬT. Rồi đây, bởi sự chuyển xây của Tạo hóa, các
sắc dân sẽ đồng tâm hiệp lực kết tình anh em với nhau và chừng ấy nền Hòa-bình
Thế giới sẽ phát hiện.
Chiến-tranh! Cuộc chiến-tranh tội-lỗi giữa huynh đệ giết nhau một cách
ghê-tởm; sự ghê-tởm của thế-kỷ 20 được mệnh-danh là tiến-bộ văn-minh, vẫn có thể
tránh được.
Sở-dĩ chúng tôi nói đến “Tội huynh-đệ giết nhau” là vì dầu cho chủng-tộc
nào có phân chia nòi giống, nhưng tất cả đang sống trên quả địa-cầu này đều là
con cái cùng tùy thuộc dưới quyền-năng ngự trị của một Đấng CHA chung là Thượng-Đế,
hay nói rõ hơn là Đấng Chủ-tể cầm vận-mạng của họ. Một khi các dân-tộc gây hấn
chiến tranh với nhau, điều đó có khác nào anh em một CHA đã tự diệt nhau đó vậy.
Nhận lãnh nơi Đức Thượng-Đế, bậc Từ-phụ của toàn nhân-loại, chúng tôi có sứ-mạng
truyền-bá nền Chánh-giáo của Người đến khắp hoàn-cầu.
Chúng tôi có đầy đủ bằng chứng về sự giáng hạ của Người trên đất nước này.
Nhiều phép lạ đã xảy ra giống như thời Chúa Jésus ngự đến ban phép lạ xưa kia ở
Lourdes và các nơi khác.
Tin-tưởng mãnh-liệt vào hiệu-năng của một nền Tân-giáo này và hoàn toàn vững
tin nơi thiện-ý của mình, chúng tôi đã trình lên nhà cầm quyền thuộc địa Pháp một
bản Minh-thệ viết tay (kèm theo đây có một bản), mà nội dung chúng tôi cam-kết
với lời hứa chịu tử-hình rằng: chỉ chăm lo về mặt Đạo-giáo chớ không mảy-may
nào làm rối-loạn an-ninh trật-tự. Ngược lại, chúng tôi yêu cầu được sự giúp-đỡ
và hỗ-trợ của nước Pháp để thi-hành sứ mạng truyền-bá nền Tân-giáo này khắp
hoàn-cầu.
Đối với sự kính trọng của chúng tôi, tiếc thay, các vị đại-diện của nhà cầm
quyền thuộc-địa Pháp vẫn không có hảo-ý đáp ứng. Một số ít tỏ ra thông cảm,
khoan-dung; một số khác lại áp-dụng đủ mọi cách, cốt để ngăn chặn sự truyền-bá
này.
Đức Thượng-Đế đã giáng dạy chúng tôi hoằng-hóa Chánh-đạo của Người đến khắp
hoàn-cầu. Chúng tôi quả quyết không có gì lầm-lẫn trong sứ-mạng ấy. Đặt mình
vào bổn-phận, chúng tôi khẩn-thiết yêu-cầu quí Ngài thông-truyền cho toàn thể
nhân-loại thế-giới hiểu biết việc làm của chúng tôi, để mọi người hiểu rằng:
- Giờ ĐẠI-XÁ của Thượng-Đế
đã điểm và sự thống hiệp của con cái Đấng
Tạo-hóa là để Phụng-sự cho Hòa bình hơn là tiếp-tục tìm kiếm kế-hoạch thống trị
thế giới. Muốn được vậy, chỉ cần sao cho tất cả người đời biết Thương-yêu đồng
chủng và giữ-gìn hạnh-đức đúng theo đường lối mà Chí-Tôn đã vạch.
Chúng tôi chắc rằng: hơn ai hết, quí vị Đế-vương, Quốc-vương, Quốc trưởng,
Giáo-chủ…đều muốn cho thần-dân và thuộc hạ đang sống dưới quyền uy của quí vị đều
được sống mà không bị ám-ảnh bởi một sự sợ-hãi triền-miên và một trận chiến-tranh
tương-lai mà các vũ khí tối-tân sẽ gây nên những sự tàn phá và những sự ghê tởm
không tả xiết” (Tài liệu trên đây viết bằng
Pháp văn)
Phụ chú: Lời Minh Thệ
Họ gì ? Tên gì ? “Thề rằng: Từ đây biết một ĐẠO CAO ĐÀI NGỌC ĐẾ, chẳng đổi
dạ đổi lòng, hiệp đồng Chư Môn-đệ gìn luật lệ Cao-Đài, như sau có lòng hai thì
Thiên tru địa lục” (36 chữ)
VẤN 3: Vậy những ưu và khuyết điểm của Đạo Cao Đài
so với các Đạo khác trên Thế giới ?
ĐÁP: - “Nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà Đức Thượng Đế đến khai sáng nơi nước Việt-Nam
này, điều đặc biệt là Đức Thượng-Đế không mượn xác phàm của người Việt Nam để lập
Đạo Cao-Đài, khác biệt với các Tôn giáo trước kia là mượn hình thể Sĩ-Đạt-Ta và
Jésus. Nay, Ngài chỉ dùng Thiên Nhãn (Con Mắt) làm biểu tượng Đấng Thượng Đế
Chúa tể Càn Khôn.
- Chỉ lập thành Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và Hiệp Thiên-Đài để thay thế hình ảnh
của Đức Thượng-Đế mà dìu độ chúng sanh, cũng như người Đạo Cao-Đài không bị
nghiêm cấm vào Chùa hoặc Nhà Thờ (như Hồi giáo chẳng hạn) Tuỳ theo trình độ tiến
hoá của nhân loại mà Đạo Cao Đài khai sáng trên đất nước Việt-Nam.
- Lại có Chức-sắc Nữ phái là đặc
ân và
khác biệt với các Tôn giáo trước
kia, không có Chức sắc Nữ phái, tức là Đức Thượng-Đế nâng đỡ phái Nữ ngang hàng
bình đẳng với phái Nam”.
Lần lượt khai triển các vấn đề trên. Như đã nói điều ưu điểm thứ nhứt là
không mượn xác phàm như thời Chúa hay Phật, tức nhiên Đức Thượng Đế chỉ dùng
Huyền Diệu Cơ Bút để thông truyền lời Thánh huấn đến với nhân loại.
Xét qua ba vấn đề ấy xem ra thế nào.
A - Vấn đề Cơ Bút:
“Vào năm 1925, một số người trí thức ở Sàigòn thường tụ họp để “Xây bàn”, một
phương tiện tiếp xúc với thế giới vô hình phát xuất từ bên Âu Châu vào cuối thế
kỷ thứ 19. Chẳng những Âu Châu biết thông công với cõi vô hình bằng phương pháp
này, mà Trung Hoa đã biết sử dụng từ thuở xa xưa và hiện đại nhất là Phái Minh
Đường, Minh Lý …”
Nay, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đến khai Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tại nước Việt-Nam
với phương pháp tân kỳ là HUYỀN DIỆU CƠ BÚT, một phương pháp phổ thông trong thế
kỷ 20, có tánh cách khoa học huyền linh Thiên Nhân giao cảm chớ không phải dị
đoan mê tín theo thuật chiêu hồn của đồng, cốt, bóng, chàng …
Trước ngày khai Đạo, do nơi Huyền Diệu này đã có nhiều nước trên Thế giới
tiên tri về sự xuất hiện của Đạo
Cao-Đài, điển hình một vài nơi như Đạo Minh Sư thời nhà Thanh bên Trung
Hoa có truyền lại.
Đạo Omotoo bên Nhật, Cơ Bút mách bảo cho Tín đồ biết ở Việt-Nam vừa xuất hiện
một nền Tôn-giáo mặc áo trắng, thờ “Con Mắt trái” biểu hiện Thái Dương Hệ và dạy
hãy sang Việt Nam tìm liên lạc. Chư vị ấy đã đến tiếp xúc nhiều lần với
Toà-Thánh Tây-Ninh. Như vậy, Tôn giáo Cao-Đài không phải ngẫu nhiên xuất hiện,
thoát thân trong mê tín dị đoan, hoặc người phàm bày vẽ, mà do Đức Thượng-Đế
sáng lập với tôn chỉ “Diệt mê tín, thực hiện chân lý ”
Tại sao mở Đạo Cao-Đài Đức
Chí-Tôn không giáng bằng xác thân, mà lại giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút?
a/ - Mục-đích của Đạo Cao-Đài là tận-độ chúng sanh, độ 92 ức nguyên-nhân
qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa hồng trần.
b/ - Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo không giáng bằng xác thân mà chỉ giáng bằng
Huyền-diệu Cơ bút, là vì thời kỳ chuyển Đạo vô-vi hiệp Tam-thanh chấn-hưng Tam
giáo Phục nhứt Ngũ chi nên Đức Chí-Tôn giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút mới qui đặng
cả Đại-Đồng Tam giáo.
c / - Đức Chí-Tôn làm Giáo-chủ Đại-Đạo
là Đấng vô hình, dùng HUYỀN DIỆU CƠ BÚT dạy Đạo thì dân tộc nào cũng có thể học
trực tiếp với ông Thầy Trời được, nếu họ biết dùng phép “Thông-Thần-lực”. Thế
là sự bất đồng ngôn ngữ chẳng còn là một sự thắc mắc nữa.”
Bởi:
Nhứt kỳ và Nhị-kỳ Phổ-Độ: Phật, Tiên, Thánh, giáng linh Tam-giáo; nhân buổi
nhơn-loại chẳng hiệp đồng nên ba vị Giáo-chủ đã thọ sanh riêng địa-phận, nên
hai kỳ khai Đạo vừa qua chỉ Phổ-độ trở về cựu vị có 8 ức nguyên nhân (Phật độ 6 ức, Tiên độ 2 ức).
Còn buổi Hạ-nguơn Tam-kỳ Phổ-độ là thời-kỳ Ân xá tội-tình cho toàn cả chúng
sanh, lại nhơn buổi văn minh, nhơn-loại thông đồng, càn khôn dĩ tận thức cho
nên Đức Chí-Tôn dùng HUYỀN CƠ DIỆU BÚT,
giáng cơ khai Đạo, chủ-nghĩa là tận độ
92 ức nguyên-nhân qui nguyên vị.
B - Hệ thống Tổ chức của
Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ
“Càn Khôn là đại gia đình, cửa Ðạo cũng vậy, xã hội cũng vậy, là một gia
đình có cha mẹ, bà con, anh em như một Tông tộc. Lớn hơn gia-đình là một quốc-gia,
là một gia đình lớn, gồm cả các gia đình tổng hợp lại, chiều theo một khuôn luật
do quyền năng của Ðạo-giáo tức Ðại gia đình.
Ta lần lượt đi đến Ðại-gia-đình của toàn nhơn loại hiệp lại cũng từ đó. Con
người sanh ra phải biết trách vụ của mình, trong tiểu gia đình hay đại gia đình
cũng vậy. Người ở gia-đình chỉ xưng mình là con, vì cớ Đức Chúa Jésus Christ chỉ
xưng mình là con của Đức Chúa Trời” (le fils de l'homme).
Sở-dĩ lấy Càn-khôn là cha mẹ sanh sáu con cũng vì lý-do ấy. Thế nên Dịch
nói “Thời thừa lục Long dĩ ngự Thiên”. Kinh Ngọc-Hoàng thì “Thời thừa lục Long
du hành bất tức” 時 乘 六 龍 遊 行 不 息 Tất nhiên muốn nói rằng Thượng-Đế ngự trên sáu rồng
vận hành khắp bầu trời không bao giờ ngừng nghỉ. Hai câu cùng một ý nghĩa.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có 3
Đài
là hình thể Đạo tại thế
1 - Bát Quái Đài: Thể hiện
Linh Hồn, thuộc THẦN.
2 - Hiệp Thiên Đài: Thể hiện Chơn Thần, thuộc KHÍ.
3 - Cửu Trùng Đài: Thể hiện xác thân, thuộc TINH.
I - Bát Quái Đài:
Bát-Quái-Đài là ngôi thờ phượng Đức Thượng Đế tá danh: “Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát
Ma-Ha-Tát” và các Đấng Giáo-Chủ Tam Giáo cùng các Đấng Thiêng Liêng trong Ngũ
Chi Đại-Đạo là Nhơn-Đạo, Thần-Đạo Thánh Đạo, Tiên-Đạo, Phật-Đạo.
Bát-Quái-Đài dưới quyền Đức Chí-Tôn, Ngài là Chúa của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Vạn-linh, chính ông chủ Bát-Quái-Đài là Đức Chí-Tôn.
2 - Hiệp Thiên Đài:
Hiệp-Thiên-Đài là cơ quan Lập Pháp của Đạo, là nơi để thông công cùng Đức
Thượng-Đế và các Đấng Thiêng liêng bằng Cơ Bút do Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài phò
loan để tiếp các Thánh ngôn và Luật Pháp Đại-Đạo của các Đấng Thiêng Liêng giảng
dạy.
Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp làm chủ.
- Hiệp-Thiên-Đài là quyền Hộ-pháp làm chủ.
Hội Thánh Hiệp Thiên Đài gồm các Chức
sắc Thiên Phong theo phẩm trật sau đây:
- Hộ-Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài và bảo hộ Luật Đời cùng Luật Đạo.
- Thượng-Phẩm lo về mấy Thánh Thất và Tịnh Thất.
- Thượng-Sanh lo về phần Đời của Đạo.
- 12 Vị Thời Quân thuộc 3 Chi: Pháp, Đạo, Thế đặt dưới quyền hành sự của Hộ
Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh.
3 - Cửu Trùng Đài:
Cửu-Trùng-Đài 九重臺 Tiếng Pháp là Corps
Exécutif.
Cửu-Trùng-Đài là cơ quan Hành Pháp của Đạo.
Cửu-Trùng-Đài do Giáo-Tông làm chủ Hội-Thánh.
Ba ông chủ ấy, có hai ông này: Cửu-Trùng-Đài và Hiệp Thiên-Đài nếu riêng ra
thì không có thế gì dâng sớ cho Bát Quái-Đài, tức nhiên quyền Chí-Tôn ở nơi Bát
Quái Đài.
Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hoá, hiệp thành Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài xem
như phần thừa hành giảng viên hội các môn, các khoa do Cơ Bút giáng truyền để
giáo-huấn người đời nên gọi là Thể Thiên hành-hoá. Bởi do theo Tôn-chỉ Đạo,
nghĩa là xu-hướng về phần giáo dục mà
thôi. Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy-dỗ,
còn tên các Chức sắc đủ chỉ rõ-ràng phận-sự giáo-hoá là chánh vai của mỗi người,
như: Giáo hữu, Giáo-sư, Phối-sư, Đầu-sư, Giáo Tông. Xem rõ lại thì tên mỗi vị
chẳng mất chữ “Giáo” hay là chữ “ Sư”.
Thế nên:
- Giáo-Tông (1vị) là người đứng đầu Tôn-giáo có trách-nhiệm hữu hình là “Anh Cả của
con cái Đức Chí Tôn”. Lãnh đạo tối cao toàn Đạo, có phận-sự dìu dắt Đạo Hữu
trong đường Đạo và đường Đời.
Phẩm này chỉ có một mà thôi đứng vào hàng Nhứt Phật. Đối phẩm với Thiên
Tiên.
- Riêng ngôi Chưởng-Pháp (3 vị)
là Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài hành quyền bên Cửu-Trùng-Đài. Bởi Cửu Trùng-Đài vẫn
là chánh-trị mà Chưởng-Pháp lại thuộc về luật lệ. Vậy thì Chưởng-Pháp là người
thay mặt Hiệp Thiên-Đài nơi Cửu-Trùng-Đài. Lãnh nhiệm vụ nghiên cứu Luật Pháp Đạo
trước khi ban hành cho toàn Đạo. Ấy là
cơ Đạo cổ kim hãn hữu” (PCT).
- Đầu-Sư (3 vị là Tam Tiên) người đứng đầu của các vị Thầy, Cầm quyền Chánh-Trị-Đạo
ban hành Luật Pháp Đạo, đối phẩm với Địa Tiên.
- Phối-Sư (36 vị là Tam Thập Lục Thánh): Có 3 vị Chánh-Phối-Sư làm đầu, dưới quyền 3
vị Đầu-Sư cai trị Đạo. Phối Sư là người phối-hợp với các vị Thầy đối phẩm với
Thiên Thánh.
- Giáo-sư (72 vị là Thất thập nhị Hiền): Có phận sự dạy dỗ Đạo-hữu trong đường Đạo
và đường Đời. Được quyền dâng sớ cầu nài về Luật Lệ làm hại Nhơn Sanh hay là cầu
xin chế giảm Luật lệ ấy. Giáo-sư là Thầy có bổn phận giáo-hoá nhơn sanh, đối phẩm với Nhơn-Thánh.
- Giáo-hữu (3.000 vị là Tam Thiên Đồ đệ): Chia đều mỗi phái một ngàn (1000) chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. Lãnh phận
sự phổ thông Chơn Đạo. Giáo Hữu là người chỉ có bổn phận dạy Bạn thôi, đối phẩm
Địa Thánh.
- Lễ Sanh: Không hạn định số. Lễ Sanh là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai
đàn cho mỗi Tín Đồ. Còn đứng vào hàng Thiên Thần .
Như vậy Cửu-Trùng-Đài là một Hội-Đồng Giáo-sư dạy dỗ nhơn-sanh cả Đời lẫn Đạo,
chính:
- Đức Chí-Tôn là Viện-Trưởng.
- Các giáo-khoa là Triết-lý của Đức Phật Thích Ca,
Đức Lão-Tử, Đức Khổng-Tử, Đức Chúa
Jésus Christ.
- Các phụ-tá khoa trưởng là Tam-Trấn và hằng hà sa số chư Phật là Giáo-Sư
chuyên khoa.
Về Chức-sắc Nữ phái:
Chức-Sắc Nữ-Phái khởi từ phẩm Đầu Sư trở xuống Lễ Sanh, quyền hành y như
Nam phái, song chỉ điều hành về Nữ Phái mà thôi. Tất cả tùng lịnh của Giáo-Tông
và Hộ-Pháp. Về Nữ-phái thì vô hạn định.
Bàn Trị Sự (Hội-Thánh Em)
Bàn Trị Sự là cơ quan hành Đạo trong
thôn xã, gồm những Chức-việc sau đây:
- 1 Chánh Trị Sự - 1 Phó Trị Sự - 1 Thông Sự
Có nhiệm vụ giúp đỡ các sinh hoạt của Đạo và săn sóc các Đạo hữu như anh lớn
trong gia tộc. Bàn Trị Sự còn được xem như là một Hội-Thánh-Em.
Hai Đài Cửu-Trùng và Hiệp-Thiên hiệp nhứt là quyền Chí-Tôn tại thế này,
không có một quyền cai-quản nào cải qua quyền của Bát-Quái-Đài được. Hội Thánh
Cửu Trùng Đài gồm Chức sắc Thiên phong theo các phẩm trật sau đây. (ĐHP 18-8 Kỷ- Sửu)
Bảng tóm lược:
4 - Ba Đài liên quan mật
thiết cùng nhau:
-
Bát-Quái-Đài là Linh-hồn.
- Cửu-Trùng-Đài
là Xác thịt.
- Hiệp-Thiên-Đài
là Chơn-thần.
Hồn đặng tương-hiệp cùng xác phải nhờ Chơn-thần. Chơn-thần lại là bán hữu-hình
tiếp vô-vi mà hiệp cùng hình thể, cũng như Đạo tiếp Thánh-Đức của các Đấng Thiêng-liêng
mà rưới chan cho nhơn-loại”.
Đức Hộ-pháp nói:
Phước-thiện là thay cho Hiệp-Thiên-Đài gánh vác nhiệm-vụ cứu khổ nên Hội-Thánh
Phước-Thiện do nơi Qua cùng Đức Lý-Giáo-Tông đã đồng-ý tạo nên hình tướng. Ngài rất vui lòng. Tại sao vậy?
Nhiệm-vụ của Hộ-Pháp phải có Giáo-Tông. Bởi Giáo Tông, Chí-Tôn định có quyền
cai trị đường Đạo và đường Đời, mà hễ Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền
Chí-Tôn tại thế..
Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài là phổ thông nền chơn giáo, lo về mặt giáo-hóa, bảo-tồn
nền văn-hiến cho tồn tại.
Cửu-Trùng-Đài là cái Đài thể theo Cửu Trùng Thiên mà kiến trúc, có chín nấc
cao thấp khác nhau.
Cửu Phẩm Thần Tiên vâng lịnh Ngọc-Hư
Cung trị thế giới vô hình cũng như Cửu-Trùng-Đài
vâng lịnh Bát Quái-Đài mà Chưởng-Quản mối Đại-Đạo tại thế gian về mặt hữu vi. Vậy
tất cả chơn linh trong Càn Khôn vũ trụ đều phải vào Cửu Trùng-Đài và tuần tự
theo đẳng cấp thấp cao để đoạt vị Thiêng liêng của mình.
Cửu Trùng Đài do Hội-Thánh quản trị, mạng danh Hội Thánh Cửu Trùng Đài gồm
có một phái Nam và một phái Nữ. Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền cho cả hai
phái (Theo Đàn Cơ 16-10 Bình-Dần – 1926)
Như vậy: trường Đại-Đạo theo như Đức Hộ-Pháp dạy về đường Đạo và đường Đời
rằng:
- “Thể-pháp của Đạo Cao-Đài là một trường công quả của chúng ta, trường
công-quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công, lập ngôn.
- Bí-pháp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ quan huyền-bí để cho con
cái của Ngài giải-thoát.”
5 - Quyền hành của ba Đài:
-“Trong Bát-Quái-Đài: kể từ Tiên vị đổ lên cho tới Thầy thì đã vào địa vị
các Đấng Trọn lành “Classe des Parfait ou des Purs”.
Từ Thánh-vị trở xuống Nhơn vị thì vào hàng Thánh “Class des Épures”. Từ thú
cầm xuống vật chất thì hàng phàm tục
“Classe des Impurs” ấy vậy trong Bát Quái-Đài từ bậc Thánh hồn thì còn phận sự
điều đình Càn Khôn thế giới, giao thiệp cùng các chơn hồn, còn ở trong vòng vật
chất nâng đỡ, dạy dỗ cho phàm phẩm tấn hoá lên cho tới Thánh vị. Hễ vào đặng
Thánh-vị rồi thì tự nhiên mình biết lấy mình, dầu phải bị đoạ trần đi nữa cũng
còn giữ vẹn Thánh đức mà tu hành đặng đạt đến địa vị trọn lành. Lên địa vị Trọn
lành rồi thì mới đồng quyền cùng Tạo-Hóa, Từ bi, tự tại, bất tiêu, bất diệt.”
(PCT)
-“Trong Hiệp-Thiên-Đài: thì có Hộ-Pháp thay quyền cho các Đấng Thiêng-Liêng
và Thầy mà gìn giữ công bình Tạo hóa, bảo hộ nhơn loại và vạn vật lên cho tới địa
vị tận thiện, tận mỹ. Người thì tận thiện, còn vật thì tận mỹ. Chẳng cần lấy sức
mình mà lập, chỉ bảo hộ cho sự tấn hóa tự nhiên khỏi điều trở ngại, nếu nói có
quyền bảo hộ thì phải có Luật Pháp, lấy Luật Pháp mà kềm chế nhơn sanh, cũng
như các Đấng Trọn Lành lấy Thiên điều mà sửa trị Càn khôn Thế giới.
Hộ-Pháp là thể các Đấng Trọn lành. Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập
Đạo, đặng dìu dắt các chơn hồn lên tột phẩm vị của mình, tức là nâng đỡ binh vực
cả Tín-đồ và Chức-sắc Thiên-phong ngồi an địa vị, cũng như chư Thần Thánh Tiên
Phật điều đình Càn Khôn thế giới cho an tịnh, hòa bình mà giúp sức cho Vạn linh
sanh sanh hóa hóa.
Thượng-Phẩm tiếp các chơn hồn của Thượng Sanh giao vào cửa Đạo. Thượng-Phẩm
là người thể Đạo đối với hàng Thánh, ấy là người cầm đầu các Thánh.
Thượng-Sanh về Thế độ, đem các chơn hồn vào cửa Đạo, dầu Nguyên nhân hay là
Hóa nhân cũng vậy, phải nhờ Người độ rỗi. Thượng Sanh đặng mạng lịnh chuyển thế,
điều độ nhơn sanh ra khỏi trầm luân khổ hải, buộc Thượng-Sanh phải gần gũi kẻ
vô Đạo đặng an-ủi dạy-dỗ. Mà kể từ hạng vô Đạo trở xuống cho tới vật chất thuộc
về phàm, ấy vậy Thượng-Sanh là thể Đời, người đứng đầu của phẩm phàm tục.”
(PCT);
6 - Cửu-Trùng-Đài đối phẩm
với Cửu Thiên Khai hoá;
. Đầu-sư thì đối với phẩm Địa
Tiên;
. Chưởng-Pháp thì đối với phẩm
Nhơn Tiên;
. Giáo-Tông thì đối với phẩm Thiên
Tiên;
TAM TRẤN OAI NGHIÊM thay quyền Phật-vị tại thế này. Ấy vậy các Đấng ấy đối
phẩm cùng các Đấng Trọn lành của Bát-Quái-Đài.
Giáo-Tông giao quyền cho Đầu-sư. Đầu
sư lại phân quyền cho Chánh-Phối-Sư lập Đạo đặng độ rỗi nhơn sanh cũng như Hộ-Pháp
giao quyền cho Thượng Sanh và Thượng Phẩm.
. Chánh-Phối-sư và Phối-sư đối phẩm
Thiên Thánh.
. Giáo-sư đối phẩm Nhơn Thánh.
. Giáo-hữu đối phẩm Địa Thánh.
- Lễ Sanh đối phẩm Thiên Thần.
- Chánh Trị sự, Phó trị sự và Thông sự
đối phẩm
Nhơn Thần.
- Chư Tín đồ đối phẩm Địa Thần
Bảng tóm tắt:
Cái dụng của quẻ Kiền là Cửu
Trùng Đài:
Quẻ Kiền tượng ngôi Thượng Đế, mà cái dụng của Quẻ Kiền là Cửu Trùng Đài
nên Dịch nói: “Thời thừa Lục Long dĩ ngự
Thiên” còn Kinh Ngọc Hoàng thì nói “Thời
thừa Lục Long du hành bất tức”.
Chữ Thời 時 tức thời-gian, là cái thời khắc chuyển biến của vạn-vật,
là cái sự lâu mau để sinh-hoá hay tiêu diệt Càn khôn. Thời-gian là cái lệ định
cho vạn-vật phải diễn tiến như thế nào trong một khuôn-khổ đã sắp đặt trước cho
vạn vật. Ấy chẳng khác nào hai cái lý tương tiếp gát chồng lên nhau, Âm Dương hỗn-hợp;
hữu hình và vô hình theo tiếng gọi thường vậy.
Thời 時 phân tích có hai phần: bên trái là chữ nhựt 日 chỉ mặt trời, bên phải là chữ tự 寺 là chùa, tức là thời-gian hữu hình với thời gian tâm-linh hoà hợp.
Thừa 乘 là cỡi, gồm chữ thiên 千 là ngàn ở giữa, bên trái là chữ thập十nhưng trừ đi một phẩy ở dưới còn lại 9 (cửu) bên phải là chữ thất 七 là 7, dưới là chữ bát 八 là số 8. Nói chung chữ Thừa
là hiện rõ con số năm 1978 là thời điểm về cơ chuyển biến của Đạo, Đời, như rồng
đang chuyển mình và bắt đầu biến-hoá.
Lục 六 là 6. Số 6 là do lý Thái-cực (số 1) hiệp với 5 là
cơ-quan an-vị này tức là 1+5=6, cũng có nghĩa là 2+4 tức là Lưỡng-nghi hiệp cùng Tứ-tượng là hai
lý Âm Dương đun đẩy nhau để biến sanh những cái đã sanh ra. Cũng là 3+3 tức là
Tam Âm tam Dương kết hợp mà thành.
Long 龍 là Rồng, là con
linh-vật có tính cách biến hoá, hợp bởi chữ lập立 ở trên là đứng, dưới là nguyệt 月 là chỉ cái thời điểm đã được phân định. Bên phải và phía trên là chữ bốc卜 là bói, có sự quyết định, dưới là chữ vỹ 尾 là đuôi, là sự cuối cùng, tức nhiên có sự an-bày của vũ-trụ.
Du hành bất tức 遊 行 不 息 là bay lượn, vận chuyển không bao giờ ngừng nghỉ.
Vậy chữ thời thừa lục Long đây là chỉ thời cuối Hạ nguơn Tam chuyển đã mãn,
cũng là Thời Phán Xét cuối cùng của Thượng-Đế đều định sẵn trong Thiên thơ, nên
mới khiến có Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ ra đời, mà năm 1978 trên Thiêng liêng đã mở
Hội Long-Hoa, tức là mở về phần vô vi, chư Phật, Thánh, Tiên đăng đàn xét tội
phước cho nhân-loại, nên cả thế giới đều biến động, toàn cầu đều xáo trộn. Sáu
rồng cũng nói lên chính danh hiệu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ 大道三期普渡 có 6 chữ. Thấy có ba đôi từ ghép, mỗi từ hai chữ: đã đủ lý âm dương, Tam
tài rồi.
Tại sao lại mượn 6 phẩm cấp của cơ quan Cửu Trùng Đài làm biểu tượng cho 6
hào của quẻ Kiền gọi là “Thời thừa lục Long dĩ ngự Thiên”? Ấy là lúc nào cũng
có 6 Rồng ngự trên trời. Sáu Rồng này luôn đi lại đó đây không bao giờ ngừng nghỉ.
Bởi 6 hào của quẻ Kiền là quẻ thuần Dương, năng động, nên:
- Trước hết có sự ứng hợp với cơ-quan Cửu Trùng Đài là một cơ-quan trọng-yếu
của nền Đại Đạo là giáo-hoá nhơn-sanh.
- Những Phẩm tước này là Thánh-thể của Đức Chí Tôn tức nhiên thay thân cho
Thầy mà lo phần dạy-dỗ nhơn-sanh.
- Thánh-thể này có quyền làm Cha khi Cha vắng mặt. Làm Thầy khuyên dạy đám
trò yêu của Chí-Tôn mà Chí-Tôn đã giao phó. Đó là “quyền huynh thế ngôn” hoặc
là “quyền huynh thế phụ”.
- Đặc biệt hơn hết là Hội-Thánh Lưỡng Đài (Hiệp Thiên và Cửu-Trùng) là hình
thể hữu vi của Đức Chí-Tôn, thay thế phần hữu hình bất di bất dịch, truyền nối
thất ức niên theo Pháp-Chánh-Truyền qui định, trước qua sau tới luôn luôn đủ
thành phần Hội-Thánh hai Đài là Thánh-Thể Đức Chí-Tôn tại thế; không có ai là
người độc nhất được gọi là Giáo-Chủ của Đạo Cao-Đài cả.
Tuy nhiên khi nào hai ông Chủ của hai Đài hữu hình hiệp một tức là
Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp lại sẽ là quyền Vạn-Linh. Chỉ có quyền Vạn-Linh mới đối
quyền Chí-Linh của Thượng-Đế mà thôi.
Do đó khi Đức Hộ-Pháp nắm quyền Chưởng-Quản Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp-Thiên và
Cửu-Trùng thì từ đó nhơn-sanh mới gọi Ngài là Thầy tức nhiên là Giáo-Chủ về hữu
hình, còn phần Thiêng-Liêng vẫn là quyền-hành của Đức Chí-Tôn là Giáo-chủ của Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ.
C - Đức Chí-Tôn độ cả Nữ phái:
Thánh giáo ngày 8 tháng sáu Bính Dần (Samedi 17 Juillet 1926) Đức Chí-Tôn
đã xác định điều ấy:
“Ðường Thị! Thầy giao phe Nữ cho con
lập thành. Chẳng phải vì đờn bà mà sớm nồi cơm, chiều trã cháo hoài.
Phần các con truyền đạo kỳ Phổ-Ðộ nầy cũng lắm nặng nề; bao nhiêu Nam tức
bao nhiêu Nữ; Nam biết thành Tiên Phật chớ Nữ lại không sao? Thầy đã nói Bạch
Ngọc Kinh có cả Nam và Nữ, mà phần nhiều Nữ, lấn quyền thế hơn Nam nhiều.
Vậy con phải tuân lịnh Thầy mà lập thành Nữ Phái.
Nghe và tuân, Thầy hằng ở với con, lo
chung cùng con; con chớ ngại.
H... Thầy giao Nữ Phái cho con rộng quyền dạy dỗ, làm chủ, chờ Thầy thâu đến
mà giao cho con, trách nhậm con Thầy sẽ chia bớt với.”
Sau cùng Đức Lý lập Pháp Chánh Truyền và phong Thánh cho Nữ Phái cũng đủ
quyền hành và Phẩm tước như Nam phái vậy, nhưng hạn chế ở hai phẩm Giáo Tông và
Chưởng Pháp.
Từ xưa đến giờ Nữ Phái chịu nhiều thiệt thòi từ trong gia đình đến ngoài xã
hội, ấy cũng vì ảnh hưởng của phong tục tập quán Trung hoa mà Việt Nam đã chịu
trên ngàn năm nô lệ. Nhưng lý thuyết Á-Đông rất hay là “Nhứt Âm nhứt Dương chi
vị Đạo”. Nay Đức Thượng Đế đến ban một sự Công bình ấy lại cho Nữ phái
Thượng-Đế thì “Vô-vi nhi dịch sử quần linh” (Ngọc Hoàng-kinh), tức nhiên Trời
không thấy làm mà không một việc gì là không có bàn tay của Thượng Đế.
Đức Hộ-Pháp nói:
“Ðức Chí-Tôn duy có một mình, Ngài
phân ra mới có Phật-Mẫu. Ngài phân ra Đệ Nhị quyền hiệp lại Đệ Nhứt quyền đủ
quyền-năng tạo ra Càn-khôn Vũ-trụ để lập gia đình cho loài người đó vậy. Nhờ
Chí-Tôn phân tánh là Bí pháp lập thành xã-hội đó. Chúng ta đã hằng tưởng hiểu cả,
loài cầm thú phải có hiệp lại mà biến sanh được, giải rõ là trống mái, đực cái
hay nam nữ vậy. Nó tương liên trước mặt chúng ta hoặc một cách âm thầm bí-mật.
Vậy loài người bao giờ cũng có xã hội nhơn quần, gia đình, vì mặt luật buộc như
vậy. Lời chúng ta thường nói "Chưa ai ở đất nẻ mà chun lên". Tức là
muốn nói đến “Cây có cội, nước có nguồn” vậy.
VẤN 4: Tại sao nhơn sanh
nên Nhập môn
vào Đạo Cao-Đài ?
ĐÁP: “Muốn làm Môn Đệ của Đức Thượng Đế Cao Đài, bắt buộc phải nhập môn cầu Đạo,
tức là bắt buộc người Tín hữu Cao-Đài phải trọn gìn giữ Luật Pháp chơn truyền của
nền Đại-Đạo, chỉ biết phụng thờ Đức Thượng Đế là ông Cha Thiêng-liêng mà thôi”.
Tại sao sự tu-hành mà còn phải bắt buộc quá vậy?
Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp có giải rành:
“Buổi Chí-Tôn đến tạo Quốc-Đạo cho nòi giống Rồng Tiên này chính Ngài cầm
Cơ đi đến các Tỉnh, kêu từ nhà, gọi từ đứa con, cho không biết bao nhiêu bài
khuyến dạy, tạo thành Tôn-giáo CAO ĐÀI
là QUỐC ĐẠO. Tưởng chưa có người
nào đem cả tinh thần, tâm đức mà thi ân cho ai dường ấy. Đức Chí-Tôn đến độ rỗi,
lập giáo rồi lại bắt Minh thệ.
Hỏi tại sao Ngài lại bắt Minh thệ?
Buộc con cái phải hiệp đồng cùng nhau, mỗi người có một chút Đức-tin. Thầy bảo
qui Đức-tin ấy lại, phải có tâm đức, tin tưởng, yêu ái lẫn nhau, phải nhìn nhận
có Thầy, có Đức-tin nơi Thầy”. (TĐ II /42)
Lại nữa vì tính cách quan trọng hơn là Thầy còn giao cho cả ngôi Trời nữa
kìa!
Đức Hộ-Pháp thuyết ngày 12-7 Mậu-Tý (1948):
Phương ngôn Pháp có câu “Aide-toi le ciel t'aidera” và Tiên Nho chúng ta
nói “Tận nhơn lực tri thiên mạng” điều nầy hiển nhiên chơn thật lạ lùng chúng
ta rán cố gắng hết sức mình thì Chí Tôn mới ban cho cái huyền linh của Ngài, nếu
không rán không thế gì hưởng được, mấy Em nhận biết điều ấy, chúng ta do
Chí-Tôn kêu gọi đặng gầy dựng, ta phải cố gắng, vì lẽ không thăng tức ta phải đọa.
Mấy Em nhớ, Ðạo của mấy Em chúng Qua đã tạo dựng cho mấy Em đặng ngày kia mấy
Em tiếp theo Chơn Truyền Luật Pháp thay thế cho mấy Qua đặng truyền nghiệp cho
hậu tấn.
Pháp nói “Chaque soldat a un bâton de maréchal dans son sacoche”, nghĩa là
Mỗi tên lính đều có cây giản của ông Thống Chế trong bị của họ, Qua nói rằng: Mỗi
vị Tín đồ đều có cái Mão của Giáo-Tông và Hộ-Pháp đội trước trên đầu, không lấy
được là lỗi tại mấy Em, chẳng lẽ có một người mà người đó chết rồi là diệt tiêu
nền Ðạo.
Ngày kia không có gì vui hứng cho Qua hơn, khi thấy xuất hiện trong mấy Em,
khi Qua đã già vô Tịnh thất an dưỡng tinh thần, mà thấy đặng mấy Em ở dưới bước
lên ngồi địa vị cao trọng của Qua”.
Tức nhiên, vì tầm mức quan trọng như thế: hôm nay là Tín hữu Cao-Đài thì
mai ngày sẽ nắm cả sự nghiệp của Đạo là Giáo-Tông, là Hộ-Pháp mà điều hành cơ Đạo.
Nếu không có luật buộc như vậy, thì những kẻ phản nghịch như Kim Quan-Sứ lộng
hành bán cả đất trời, thì nghiệp Đạo này sẽ ra sao? Nhưng thật ra nếu nền Đại-Đạo
này không phải là Đạo Trời thì có lẽ Tà quyền đã diệt tiêu chất Thánh từ lâu rồi
!
VẤN 5: Theo những ngày đầu
Khai Đạo vào thập niên 20 hoặc 30, chánh quyền Pháp ngăn trở không cho tụ hợp đông đảo, nhưng tại sao có rất
nhiều người Nhập môn vào Đạo ?
ĐÁP: “Buổi ban đầu, nền Đại-Đạo mới khai sáng
có nhiều Đàn Cơ rất huyền diệu linh thiêng cho nhiều toa thuốc trị bịnh
hết sức linh nghiệm, khiến cho đồng bào vô cùng tin tưởng huyền vi mầu nhiệm.
Tiếng đồn vang dội khắp nơi là có Đức Ngọc Hoàng Thượng-Đế Cao-Đài giáng trần
khai sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để giải
ách nô lệ cho dân tộc Việt-Nam, nên đồng bào hướng về Tôn giáo Cao-Đài, tự
động kéo đến xin Nhập môn cầu Đạo, khiến cho nhà cầm quyền Pháp bấy giờ lo ngại
nên ra lịnh ngăn chặn, nghiêm cấm, nhưng đồng bào vẫn một niềm tin nơi Đức Ngọc
Hoàng Thượng Đế, nên tự kéo nhau đến xin nhập môn vào Đạo, bất chấp sự ngăn cấm
của nhà cầm quyền Pháp”.
Huyền diệu về việc cho thuốc trị bịnh:
- Với giới bình dân thì người hỏi gia đạo được toại lòng. Kẻ cầu thuốc
thang được khỏi bịnh, các chứng nan y được chữa lành: làm cho kẻ mù được sáng,
người liệt bại đi đứng được, như những
trường hợp sau đây:
Con gái ông Phán Lê Tấn Sang ở Phan
Thiết, đau hai bên gò má sưng lớn, cô nầy cầu Thầy xin thuốc. Thầy cho bài thi
rồi dặn coi bốn chữ đầu mà cầu thầy thuốc.
CẦU y càn huyết bịnh từ vương,
TRẦN thế biết Ta hỏi mối
đường.
VĂN chất chưa hay Trời nhỏ phước,
ÐÔN rằm người bịnh khỏi tai ương.
Người con gái ấy lên Docteur Trần Văn Ðôn chích thuốc ít bữa mạnh
(14-1-1926)
Trường hợp khác Thầy cho
Thi:
Jeudi 26 Novembre 1926 (21-10-Bính Dần)
Bạch truật tinh sao khả phục
qui,
Tứ quân tu trạch khảo trần
bì.
Thanh chi hữu hiệp tam
phân phụ,
Liên thạch cầu đa bất
phạt tì.
Trong ấy có bài thuốc và kiếm nghĩa bài thi, nhớ lời
căn dặn.
- Trường hợp Ông Ngô văn Chiêu:
Cuối năm 1917, thân mẫu của Ngài Ngô văn Chiêu lâm trọng
bịnh, Ngài phải xuống đàn Cái Khế ở Cần Thơ để cầu xin thuốc cho Mẹ uống. Ơn Trên giáng cơ cho bài thuốc, Ngài đem về
cho Mẹ uống thì Mẹ Ngài hết bịnh, mạnh được vài năm. Sau đó thì mẹ Ngài bị bịnh
trở lại, Ngài Chiêu trở xuống đàn Cái Khế cầu xin thuốc cho mẹ nữa, Ơn Trên chỉ
giáng dạy đạo lý chớ không cho thuốc. Ngài vì quá thương mẹ nên đi lên đàn cơ ở
Thủ Dầu Một xin thuốc một lần nữa.
Ông Trần Hiển Vinh chủ đàn Minh Thiện ở Thủ Dầu Một có thuật lại rằng: Bữa ấy,
Ngài Ngô Văn Chiêu cùng ông Phủ Kim đến hầu đàn. Ông Kim quì ở trong, Ngài
Chiêu quì ở góc ngoài. Khi Đức Quan Thánh giáng Cơ, liền gọi tên Ngài Ngô Văn
Chiêu và cho 4 câu thi, đại ý nói vườn thuốc của Phật Tổ đã bị trốc gốc. Qua
bài thi nầy, Ngài Chiêu biết số mệnh của mẹ Ngài không qua khỏi. Đến cuối năm
1919 thì Bà từ trần.
Sau khi Đức Thượng Đế giáng Cơ cho thuốc chữa lành bịnh cho thân mẫu của
ông và hiện ra Thiên Nhãn và cảnh Bồng Lai cho ông được chính mắt thấy.
Nhứt là các Đấng Thiêng liêng giáng Cơ cho nhiều toa thuốc trị bịnh vô cùng
huyền diệu mà Ngài Ngô văn Chiêu (Môn đệ đầu tiên của Thượng Đế đã nhiều lần thỉnh
cầu trị bịnh cho thân mẫu của Ngài, khiến cho Ngài tôn kính các Đấng vô hình đã
hướng dẫn cho thân mẫu của Ngài hết chứng bịnh nan y mà các Bác sĩ đều lui chân
thối bước, từ nan, không dám tiếp chữa trị cho, mà những toa thuốc của các Đấng tuy đơn giản mà kết quả như ý.
Nếu không có sự Huyền diệu thiêng liêng chỉ dẫn thuốc men để điều trị cho
thân mẫu Ngài Ngô văn Chiêu vượt qua căn bịnh ngặt nghèo nguy hiểm, thì chưa chắc rằng Ngài Chiêu có được lòng tin như thế và
trở thành một Đệ tử đầu tiên của Đức Thượng
Đế.
- Trường hợp Ngài Lê văn
Trung đến với nền Đại Đạo
và nhận lãnh phẩm Quyền
Giáo-Tông Thượng-Trung Nhựt.
- Duyên khởi: Kể từ năm 1920 trở đi, công việc kinh doanh của Ông Lê văn
Trung gặp khó khăn, đến cuối năm 1924 thì bế tắc, hoàn toàn bị lỗ lã. Ngài đau
buồn, sanh ra hút thuốc phiện và sau đó, thị lực của đôi mắt yếu đi rất nhiều,
chỉ thấy mọi vật lờ mờ.
Người bà con với ông Lê văn Trung là ông Hội Đồng Nguyễn Hữu Đắc, tu theo
Minh Lý, thường vào hầu đàn Chợ Gạo. Nguyên mấy tháng trước đây, tại nhà ông
Nguyễn Bá Vạn ở ngã ba Bà Kế thuộc Chợ Gạo, Chợ Lớn, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6
Chợ Lớn, có lập một Đàn thỉnh Tiên rất linh hiển, thường cho thuốc trị bịnh rất
hay. Ông Đắc hướng dẫn ông Trung đến hầu đàn nầy. Tại đây, Đức Lý Thái Bạch
giáng khuyên Ngài Lê Văn Trung nên tỉnh giấc mộng trần mà lo việc tu hành. Ngài
Lê Văn Trung tỉnh ngộ, bắt đầu ăn chay, bỏ hút thuốc phiện và lần lần đôi mắt của
Ngài hết lòa, sáng trở lại.
Sau khi đàn Chợ Gạo độ được Ngài Lê Văn Trung rồi thì chư Tiên dạy bế đàn.
Theo tài liệu Đạo Sử của Bà Hương Hiếu, thì:
- Ngày 23-11-Ất Sửu (dl 7-1-1926), Đức Cao Đài Thượng Đế dạy quí ông Cao Quỳnh
Cư và Phạm Công Tắc đem Đại Ngọc cơ đến nhà ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn cho Đức
Chí Tôn dạy việc. Quí ông ngần ngại nhưng không dám cải lịnh. Khi đến nhà ông
Trung, quí ông trình bày tự sự. Ông Trung vui vẻ chấp thuận và cùng nhau thiết
lập đàn cơ. Trong lúc chuẩn bị cầu cơ, có nhiều điều huyền diệu hiện ra. Trong
đàn cơ nầy, Đức Thượng Đế dạy ông Trung phải hiệp với hai ông Cư và Tắc lo việc
mở Đạo.
Ngài đã phân rằng: Ngài đã sai Lý-Bạch dìu dắt ông Trung nơi đàn Chợ-gạo đã
lâu rồi. Ngài lại dạy:
“TRUNG, nhứt tâm nghe con. Sống cũng
nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy
sự sáng sủa của con mà suy lấy”
Thầy cho thi:
Một Trời, một đất, một nhà
riêng.
Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ
hiền,
Cầm mối Thiên-thơ lo cứu
chúng.
Đạo người vẹn-vẻ mới thành
Tiên
Đấng AĂÂ
Còn với công quả phi thường của Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ-Pháp đã giải rõ:
Thật sự hồi ban sơ chỉ có ba người:
“Bần-Đạo nói không có gì! Đức
Chí-Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách không ai tưởng-tượng được. Khi Ngài đến
thì chỉ có Đức Thượng-Phẩm và Bần-Đạo mà thôi. Về sau Bần đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm
mới đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung-Nhựt đặng Chí Tôn chuyện vãng cùng
Người. Đứng đầu trong trường chính-trị đã chịu ảnh-hưởng một tình thế bị
trích-điểm cũng có, được tôn-sùng cũng có, được khen cũng có, bị chê cũng có.
Buổi ấy bị họ ghen-ghét nên chê nhiều hơn khen. Chính mình Bần-Đạo lấy làm lạ tại
sao Đức Chí Tôn biểu Thượng-Phẩm đến nơi đó?
“Để cái dấu hỏi mơ hồ, chẳng dè một người đó lại phi-thường ! Giờ
phút này Bần-đạo nói đến lấy làm lạ !
“Một là từ thử tới giờ Bần-đạo chưa
ngó thấy. Đến chuyện vãng cùng Ngài, Đức Chí-Tôn nói cái chi chỉ có hai người
biết với nhau mà thôi. Bần-đạo với Thượng Phẩm chỉ là hai người dự thính không
biết gì hết, mà chỉ nói với nhau rồi họ
hiểu với nhau mà thôi.
“Trong 24 giờ, một người đã là Thượng
Nghị-viện, một cái gia-nghiệp đủ vinh-hiển, đủ cao-trọng, đủ đương đầu với
thiên-hạ.
“Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà
thôi. Cho tới một cái lạ hơn hết là đương hút á-phiện, người phong-lưu như ai
kia vậy bỏ một cái một, cả sự ăn chơi cũng thế.
“Đức Chí-Tôn kỳ hạn có 24 giờ mà
thôi:
- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải trường trai.
- 24 giờ Anh Cả phải dâng cả sự-nghiệp cho thiên hạ.
- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải từ bỏ chức Thượng Nghị-viện, dâng mảnh thân
phàm cho Đức Chí-Tôn làm ngọn cờ cứu-khổ.
- Một huyền diệu là Thượng Đế giúp cho ông De Lagarde một người Pháp chánh
tông đang mù được Ngài chữa sáng mắt:
Vào năm 1932 ông De Lagarde là Chánh sở Bưu điện ở Vientiane Thủ đô nước
Lào (Laos) rất thích thú đi săn bắn thú rừng. Một đêm nọ đi săn thú trong rừng
chẳng may bị một nhánh cây quẹt vào đôi mắt khiến ông bị mù cả đôi mắt. Từ đây
ông phải nghỉ việc làm trong ba năm chạy đủ Bác sĩ hay của các nước từ Lào, Cao
Miên, Thái Lan, Bắc-Việt và Nam Việt-Nam, nhưng bịnh mù vẫn không thuyên giảm.
Ông De Lagarde có vợ là người miền Nam Việt Nam, vợ ông nghe tiếng đồn đãi rằng
tại Toà Thánh Cao-Đài Tây-Ninh có cầu Cơ được nhiều Đấng giáng Cơ cho thuốc trị
bịnh rất huyền diệu nhiệm mầu. Ông De Lagarde được vợ ông đưa về Toà-Thánh để
điều trị. Nhờ vào một sự tin tưởng tuyệt đối mà ông được Đức Thượng-Đế trị cho
ông khỏi được chứng mù loà. Nhờ đó mà ông được tiếp tục công việc với chức
Chánh Sở Bưu điện Hà Nội.
Còn nhớ rõ vào buổi thuyết trình về Đạo Cao-Đài tại rạp hát Majestic có
trên một ngàn khán giả trong chánh quyền Pháp– Việt tại Hà-Nội tham dự. Khai mạc
buổi thuyết trình ông Abadie - Chánh-Lục-Sự Toà án Hà-nội lại mặc Đạo phục phẩm
Giáo-Hữu Thái-Abadie-Thanh của Hội Thánh Cao-Đài Toà-Thánh Tây-Ninh lên diễn
đàn giới thiệu, Ngài Giáo-sư Thượng Bảy
Thanh đại diện Hội Thánh Cao-Đài Toà-Thánh Tây-Ninh tại Thủ đô Hà nội. Đồng thời
ông Giáo Hữu Abadie tiếp lời:
Tôi xin giới thiệu ông De Lagarde, người bị mù mắt nhờ ơn Đức Cao-Đài Thượng
Đế chỉ dẫn cách điều trị và ông De Lagarde được sáng đôi mắt lại như xưa và ông đã tiếp tục làm việc
lại tại sở Bưu điện Hà-Nội bây giờ.
Ông Gabriel Abadie liền nói tiếp:
Tôi xin giới thiệu Ông De Lagarde với quí ông và quí bà để Ông De Lagarde
lên xác nhận câu chuyện bị mù mắt của ông mà tôi vừa kể. Ông Gabriel
Abadie liền mời ông De Lagarde lên diễn
đàn và đưa tay ra dấu hiệu mời ông De Lagarde đang ngồi dưới hàng ghế với khán
giả Pháp.Ông Gabriel Abadie long trọng mời ông De Lagarde, ông De Lagarde liền
đứng dậy rời khỏi ghế từ từ lên diễn đàn
với tràng pháo tay ầm-ĩ cả mấy phút mới trở lại yên lặng. Hình tướng ông De
Lagarde không cao lắm, mảnh khảnh, đôi mắt sáng, nghiêng đầu chào quan khách
Pháp, Việt với nụ cười hồn nhiên và dõng dạc qua giọng nói thâm trầm:
- Thưa quí Bà, quí ông, tôi là De Lagarde Chánh sở Bưu điện Vientian Lào
(Laos). Trước kia, tôi xin long trọng xác nhận câu chuyện của Bạn tôi là ông
Gabriel Abadie vừa kể là hoàn toàn đúng
sự thật.
Tiếng vỗ tay hoan nghinh muốn vỡ rạp hát Majestic và hoan hô ông De Lagarde
vừa chấm dứt thì ông tiếp tục trình bày thêm, bởi khán giả còn đang nôn nóng để
nghe rõ câu chuyện điều trị về đôi mắt của ông khỏi bị mù loà mà sau ba năm chạy
chữa khắp nơi.
Ông De Lagarde
nói tiếp:
Vả lại trong số
cử toạ đang hiện diện hôm nay còn có nhiều người bạn thân của tôi nhứt là trong ngành Bưu điện Đông-Dương đã biết rõ về tai
nạn xảy ra cho tôi trước đây ba năm và đã làm cho tôi phải
nghỉ việc vì đôi mắt bị mù loà hoàn toàn. Hôm nay tôi được trở lại làm việc tại
sở Bưu điện Hà-Nội vì đôi mắt tôi đã hết mù, nhờ đặc ân của Đức
Chí-Tôn Cao Đài Thượng Đế đã cứu chữa cho
tôi bằng một ít tro nhang hoà với nước Thánh.
Tiếng vỗ tay hoan hô tiếp tục nổi lên muốn vỡ tung hội trường Majestic. Ông
De Lagarde ngõ lời cám ơn và chào quí
khán giả rồi rời khỏi diễn đàn trở về chỗ ngồi. Kế tiếp là ông Giáo Hữu
Thái-Abadie-Thanh giới thiệu Ngài Giáo-sư Thượng Bảy Thanh một Chức sắc của Hội
Thánh Cao-Đài Toà-Thánh Tây-Ninh vừa mới tới Hà Nội đảm nhận trách nhiệm truyền
bá Đạo Cao Đài cách đây hai tháng. Ông Gabriel Abadie giới thiệu vừa xong thì
Ngài Giáo-sư Thượng-Bảy-Thanh (mặc Đạo phục màu xanh, đội khăn đóng xanh) từ
hàng ghế khán giả tiến lên diễn đàn dưới sự chú ý của hàng quan khách Pháp - Việt.
Ngõ lời chào mừng quan khách Pháp-Việt, Ngài Giáo-Sư Thượng Bảy Thanh nói tiếng
Pháp lưu loát, với giọng điệu người Pháp chánh tông từng ở tại Paris thu hút cả
khán giả người Pháp Việt, nhứt là các bà
Đầm (Pháp) hết lời khen ngợi người Việt nói tiếng Pháp hay quá! Ngài Giáo-sư
Thượng-Bảy-Thanh xin cáo lỗi với quan khách xin được phép trình bày về Tôn giáo
Cao-Đài bằng tiếng Việt, đã từng hành Đạo ở xứ Cao Miên (Cambodge) nhiều năm và
hôm nay được Hội-Thánh Cao-Đài thuyên bổ ra Hà-Nội truyền giáo nên Ngài Giáo sư
Thượng Bảy Thanh thuyết trình về Giáo lý Cao Đài rất thông suốt và có lớp lan,
khán giả nghe rất dễ tiếp thu, nhất là chủ trương Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi để
đưa nhân loại đến Đại Đồng Thế giới, biết nhìn nhau là con chung của Đức Thượng
Đế, không phân biệt màu da sắc tóc, gây nhiều thiện cảm với Tôn giáo bạn. Vừa
chấm dứt lời trình bày bằng tiếng Việt, Ngài Giáo sư Thượng Bảy Thanh liền tóm lược lời thuyết trình về Đạo
Cao-Đài bằng tiếng Pháp với giọng nói người Pháp tại Paris. Cả quan khách hiện
diện tại Hội trường đều thầm khen một người Việt là Chức sắc Cao-Đài nói tiếng
Pháp chẳng kém người Pháp chánh cống đang thuyết trình về Đạo Cao-Đài. Cả quan
khách Pháp Việt ngồi chật cả rạp hát Majestic vô cùng hân hoan theo dõi suốt buổi
thuyết trình về Giáo lý Cao-Đài, một nền Tôn giáo vừa khai sáng trên đất nước
Việt Nam vào năm 1926 và đây cũng là lần đầu tiên trên một ngàn khán giả Pháp
Việt, thân hào nhân sĩ Bắc Hà được nghe
tường tận về tôn chỉ Đạo Cao-Đài, một Tôn giáo do người Việt Nam làm chủ, không
phải du nhập. Buổi thuyết trình về Giáo lý Cao-Đài do Ngài Giáo Sư Thượng-Bảy-Thánh
làm chủ toạ tại rạp Majestic đêm 16-05-1937 (Đinh-Sửu) làm vang dội khắp cả Bắc
Hà, tiếng đồn khắp cả các tỉnh gây sự chiếu cố của đồng bào miền Bắc Việt-Nam
không ít. Vì thế đồng bào Bắc-Hà tự động đến Thánh Thất Cao-Đài xin nhập môn cầu
Đạo càng ngày càng thêm đông đảo (Viết theo lời phỏng vấn của ông Phạm Cao Công Khánh từ Oregon về
Việt Nam).
- Trị bịnh, cho thuốc là một huyền
diệu khởi đầu:
Việc xảy ra trong ngày khai Đạo tại Từ-Lâm-Tự, Hòa Thượng Như-Nhãn không đủ
đức tin nên đòi chùa lại. Đức Cao Thượng Phẩm phải khó nhọc lắm mới đưa cốt Phật
Tổ về Chùa mới. Nơi xây dựng Chùa là khu rừng Cấm hoang vu, rậm rạp. Thật là vạn
nan cho cái cảnh bứng gốc phá chồi để làm nên một ngôi thờ phượng mới với
phương “bắt gió nắn hình”.
Nhờ Đức Chí Tôn ban cho nhiều điều mầu
nhiệm qua Đức Cao Thượng Phẩm. Sau những đàn cúng, Đức Ngài cầu nguyện luyện
Cam-Lồ-Thủy rồi đem ra giải oan, Tắm thánh, cho uống trị bá bịnh ngay nơi công
trường xây dựng. Nhất là bấy giờ phần đông là người Thổ (dân tộc Campuchia) từ
Nam Vang xuống nhập môn và làm công quả rất đông, vì họ thấy tượng Phật Tổ là
ông Phật của họ, nên niềm tin càng mãnh liệt. Khổ nỗi là nhiều bịnh vì sơn lâm
chướng khí, nước độc, gió độc, không một viên thuốc, thế mà nhờ Huyền diệu của
Đức Chí Tôn nên bịnh gì uống “nước Thánh” vào cũng hết khiến cho mọi người công
quả đều mạnh mẽ và tin tưởng hơn lên. Chúng sanh phương xa hay tin tấp nập kéo
về Toà Thánh xin nước Thánh trị bịnh. Nhờ đó, công quả ngày càng đông, việc phá
rừng ngày càng quang đãng. Đó là phần đất cất Toà Thánh hiện nay.
Nhất là nhờ cái giếng nước kỹ-niệm ngày xưa phía bên Nữ Phái, nhưng nay đã bị lấp rồi!
Bà Tư Hương Hiếu (hiền nội của Ngài Cao-Quỳnh Cư, Thiên-phong là Thượng-Phẩm)
Bà cai quản phòng trù, ngoài việc lo ăn uống cho công quả, Bà còn may Thiên phục
cho chức sắc Thiên phong nữa.
VẤN 6: theo Đạo Cao-Đài thì Nam Nữ có bình quyền.
Tại sao phái Nữ không được
lên làm Giáo-Tông hoặc Chưởng pháp ?
ĐÁP: “Điều nên nhớ là nền Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ Độ được khai sáng trên đất nước
Việt-Nam, không phải dành riêng cho dân tộc Việt-Nam, mà nền Đại-Đạo phải hoằng
khai khắp cả thế giới sau này. Tuỳ theo phong tục và tập quán của mỗi nước, mà
hiện giờ còn nhiều nước, Nữ phái vẫn còn nhiều thiệt thòi, bị áp chế chưa được
bình quyền tham chánh như Nam. Hơn nữa Tôn giáo Cao-Đài được Đức Thượng-Đế đặc
ân cho lập thành Chức sắc Nữ phái, rất khác biệt với các Tôn giáo, Đức Thượng đế
giáng trần lập Đại-Đạo tại nước Việt-Nam, muốn nâng đỡ phái Nữ ngang hàng với
Chức sắc Nam phái, nhưng bị hạn chế là Chức sắc Nữ phái chỉ lên đến phẩm Đầu Sư
mà thôi. Đó là Thiên định Đức Thượng Đế muốn cho Nữ phái tiến bộ thêm để được
ngang hàng cùng Chức sắc Nam phái trong tương lai.”
Ngoài ra cũng nên biết những tình tiết về việc
Đức Lý Giáo-Tông lập Pháp
Chánh Truyền
Nữ Phái
Trước khi bàn đến việc lập Pháp-Chánh-Truyền Nữ phái, nên nói qua lý-do vì
sao Đức Chí-Tôn không lập mà để cho Đức Lý đứng ra lập?
(Trích y Thánh-ngôn của Giáo-Tông Lý
Thái-Bạch)
Nữ-Phái vốn của Đức Lý
Giáo Tông lập thành:
Hộ-Pháp nhắc lại lời Thầy nói cùng Chánh Phối Sư HƯƠNG-THANH rằng: Muốn phế
Nữ-phái, song con cũng đồng con, hễ bao nhiêu Nam tức cũng bao nhiêu Nữ; Nam Nữ
vốn như nhau, nên Thầy đến phong cho Nữ-phái buổi lập Pháp-Chánh-Truyền, chẳng
hiểu có điều chi huyền-bí với Thầy cùng Ngọc-Hư-Cung nên Thầy mới đành lòng nói
ra lời ấy, rồi lại cam lòng để cho Đức Lý Giáo-Tông đứng lập đặng tránh cho khỏi
luật-lệ Thiên điều hay chăng? Hễ càng suy-nghĩ lại càng thêm sợ hằng ngày. Xem lại Nữ-phái không biết trau-giồi trí thức
đặng làm trách-nhậm cho xứng vị mình, thì lại càng âu-lo hơn nữa!
Chính mình Cao Thượng-Phẩm mới giáng Cơ nói rằng nhờ Ngài cầu xin tha-thứ
cho Nữ-phái nơi Ngọc-Hư, bằng chẳng thì đã bị phế; xin chư Đạo-Tỷ để dạ lo lấy
phận mình.
Nữ phái phải tùng Đầu sư Nữ phái,
song Đầu-sư lại phải tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.
PCT: Hội-Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ phái: Nghe và từ đây xem sắc tốt ấy
mà hành lễ theo đẳng cấp
CG: Đức Giáo-Tông đến kêu Hội-Thánh Nam phái nói rằng: Từ đây phải xem sắc tốt
của Nữ-phái Ngài đến ban đặng hành Lễ theo đẳng cấp.
Cái tiếng “sắc tốt” không, dầu ai đọc đến cũng thầm hiểu nghĩa-lý sâu xa.
(1)
Giáo-Tông duy chỉ dặn xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp, ấy là Ngài
buộc phải có trật-tự cho lắm, vì vậy mà cũng chính mình Ngài đến lập lệ Nam Nữ
phải phân biệt nhau, chẳng đặng chung hiệp nhau về phần xác và phần hồn cũng vậy.
Hộ-Pháp có hỏi Ngài về sự tôn-ti phẩm-trật, thì Ngài dạy rằng: Nam Nữ vốn đồng
quyền. Còn hỏi về Lễ nghĩa giao-thiệp về phần đời, thì Ngài dạy: Giáo-Hữu
Nam-phái cũng chịu dưới quyền Giáo-sư Nữ-phái (2). Còn Lễ thì khi vào Đại-Điện
tỷ như Giáo-sư Nam-phái gặp Phối-sư Nữ-phái thì Nam phải đảnh lễ Nữ trước, lớn
nhỏ vẫn đồng, quyền hành tùy Chức sắc.
PCT: Nữ-phái phải tùng Đầu-sư Nữ-phái, song Đầu Sư lại phải tùng quyền của
Giáo-Tông và Chưởng Pháp.
CG: Hội-Thánh Nữ-phái phải tùng quyền Đầu-sư Nữ-phái, song cả thảy đều phải
tùng quyền Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.
Xem rõ lại, thì Pháp-Chánh-Truyền truất quyền Nữ phái không cho lên địa-vị
Chưởng-Pháp và Giáo-Tông.
Hộ-Pháp để lời phân phiền cùng Thầy như vầy:
- Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất
quyền của Nữ-phái không cho lên địa-vị Chưởng-Pháp và Giáo-Tông, thì con e mất
lẽ công-bình chăng?
Thầy dạy: Thiên địa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả
Càn Khôn thế giới nhờ Dương thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi
Dương-quang, ngày nào mà Dương quang đã tuyệt, Âm khí lẫy-lừng, ấy là ngày càn
khôn thế giới phải chịu trong hắc-ám, mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm,
nếu Thầy cho Nữ phái cầm quyền Giáo-Tông làm chủ nền Đạo thì là Thầy cho Âm thắng
Dương, nền Đạo ắt bị tiêu tàn ám-muội.
Hộ-pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy truất quyền Giáo-Tông Nữ-phái thì đã
đành, song quyền Chưởng-pháp thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.
Thầy dạy: Chưởng-pháp cũng
là Giáo-Tông, mà còn trọng-hệ hơn, là vì Người thay mặt cho Hộ-Pháp nơi Cửu-Trùng-Đài.
Thầy đã chẳng cho ngồi địa-vị Giáo Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa-vị Hộ-Pháp con
! Bởi chịu phận rủi sanh nên cam phận thiệt-thòi, lẽ Thiên-cơ đã định, Thầy chỉ
cậy con để dạ thương-yêu binh-vực thay Thầy kẻo tội-nghiệp !” (PCT)
Nữ-phái phải tùng Đầu-sư Nữ-phái, song Đầu-sư lại phải tùng quyền của
Giáo-Tông và Chưởng Pháp.
Nữ-Đầu-sư quyền như Nam-phái, song điều đình bên Nữ-phái mà thôi, chẳng đặng
xen lộn qua Nam, cũng như Nam chẳng đặng xen lộn qua Nữ.
Mỗi điều chi thuộc về Nữ-phái thì Giáo-Tông và Hộ-Pháp chỉ do nơi Nữ-Đầu-sư.
Hộ-Pháp có hỏi về cái Ngai của Nữ-Đầu-sư, thì Thầy dạy:
“Tòa-Thánh day mặt ngay hướng Tây, tức
là chánh cung Đoài, ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là Cung Càn, bên tay
mặt Thầy là Cung Khôn, đáng lẽ Thầy phải để bảy cái Ngai của phái Nam bên tay
trái Thầy, tức bên cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn Đạo cho đủ Ngũ
Chi, cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là cung Đoài, cho đủ số. Ấy vậy cái
Ngai của Đầu sư Nữ phái phải để bên cung Khôn, tức là bên tay mặt Thầy.
Hộ-Pháp hỏi cái Ngai ấy ra sao? Thì Thầy dạy:
Giống y như cái Ngai của Quan Âm Bồ Tát, nghĩa là một cái Cẩm Đôn để trong
vườn Trước Tử trên Nam Hải, dưới chơn đạp hai bông sen nở nhụy”.
Thấy ra:
Dầu ý kiến của phe đối lập, rình rập để đả phá Đạo Cao-Đài họ cũng phải
thán phục về điểm này rằng:
“Điều lưu ý thứ nhứt người ta không
thể không nói đến quần chúng của một tổ
chức xã hội nào đó ở Việt Nam mà lại thiếu vai trò của người PHỤ NỮ và sự cố kết
theo huyết thống. không phải chỉ có chúng ta ngày nay. Chú thích: (1) Nếu Chư Hiền-hữu biết coi Nữ-phái như Em thơ dại, chỉ
biết mến đẹp ham xinh, liệu phương dụ dỗ như Lão vậy, mới đặng làm trai, con Thầy
mà chớ! (2) Phải vậy.
mới lưu ý điều này.
Khi nghiên cứu xã hội Việt-Nam cuối thế kỷ XIX và đầu Thế kỷ XX, người Pháp
đã ghi nhận một tình hình như vậy. Họ cho rằng sinh hoạt một Tôn-giáo (trong
trường hợp như Phật-giáo, Công-giáo) của người Việt thường theo qui mô gia
đình: khi cha mẹ theo, thường con cái cũng theo, chồng (từ những người quan lại)
theo, thì vợ cũng theo. Nếu xét từ khía cạnh thực tiễn, thì về cơ bản, chúng ta
đồng ý với nhận xét đó. Như đã thấy vai trò người Phụ-nữ trong Cao-Đài-giáo
không phải nhỏ. Sự tham gia của họ hầu như có tính cách quyết định từ ngay buổi
đầu. Không có sự trung thành của họ thì khó mà nói đến xây dựng vật chất cũng
như tinh thần của nền Đạo. Đến nỗi, ngay trong một Thánh ngôn, Đức Chí-Tôn đã dạy
cho các Môn Đệ nam “…Các con chớ lầm tưởng là phân biệt (ý nói là coi trọng Nam
hơn Nữ) có các Đấng Nữ Tiên, nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều” .
VẤN 7: Xin giải thích câu:
“Thầy là các con, các con
là Thầy”.
ĐÁP: Sỡ dĩ có câu “Thầy là các con, các con là Thầy”, xuất hiện là vào đêm
17-12-1925 bởi một Đàn Cơ do ba ông: Cao-Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang
thỉnh cầu thì Đức AĂÂ phán:
“Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao-Đài
Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Muốn TA truyền Đạo, kể từ bây giờ phải gọi TA bằng
Thầy và TA gọi lại là các con, nên mới có câu “Thầy là các con, các con là Thầy”
Đúng vậy: Đức Chí-Tôn có dạy: “Thầy là các con, các con cũng là Thầy. Có Thầy
rồi mới có các con, có các con rồi mới có chư Phật, Tiên, Thánh, Thần”.
Tuy nhiên, trong buổi Tam Kỳ Phổ-Độ này, chính vì Đức Chí-Tôn đến khai Đạo
không có nhân thân phàm ngữ nên phải lập Hội-Thánh làm Thánh Thể của Ngài.
Đức Hộ-Pháp nói:
“Thánh-Thể Đức Chí-Tôn chẳng phải
trong Hội Thánh mà thôi, mà cả toàn con cái của Ngài Nam Nữ, nếu Qua không nói
đến mấy Em mới sơ sanh, nó cũng là đám Thánh-Thể của Ngài. Là buổi may duyên của
chúng ta ngộ Đạo “Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ”. Bởi cái may duyên ấy do nơi mấy
Em đào tạo nó, một phần tử buổi sơ sanh, tức nhiên kể từ hạng sơ sinh Đức
Chí-Tôn đã đến lựa, từ khi mấy Em đã có trí khôn ngoan cho nhập Thánh-thể của
Ngài đứng vào hàng Chức sắc Thiên phong gọi là chư Thánh, mấy Em mới nên người
“Tam thập nhi lập”.
Cái phẩm vị Thiêng liêng của mấy Em nơi mặt thế: Phó Trị sự, Thông Sự, đối
với ngôi Giáo-Tông, Hộ-pháp trong khi tuổi của mấy Em đã tri thiên mạng rồi.
Rất ngộ-nghĩnh thay cho Chí-Tôn lấy công bình ấy đặng lập Thánh-Thể của
Ngài. Ngài để một kiểu vở, một khuôn luật tạo đoan hay là một gia đình kia không khác gì hết. Mấy em đã
ngó thấy trong Đạo, Đức Chí-Tôn đã để:
- Hàng Tín-đồ đối với Đại Từ Phụ
- Phó-trị-sự và Thông sự đối với phẩm Giáo-Tông và Hộ-Pháp.
- Chánh-Trị-Sự đối với phẩm Đầu-Sư. Thì mấy Em thử nghĩ coi khuôn khổ Thánh
Thể của Ngài không có một điều gì sơ sót hết”.
Như hình vẽ dưới đây cho thấy rằng Chí-linh là Trời (Đức Chí-Tôn- Đại Từ Phụ);
ấy là Thiên Thượng. Vạn linh là người, là sanh chúng, là Thiên hạ. Tôn chỉ Đạo
Cao Đài là Trời người đồng trị: Người trị xác, Trời trị hồn.
Thế nên Thầy mới nói:“Thầy là các con, các con là Thầy” đó là tinh thần của
Khổng giáo, với thuyết “Thiên nhơn tương hợp” Nhưng Thầy đến với nhân loại
không có nhân thân phàm ngữ nên phải lập Hội Thánh thay thân cho Ngài
Hội Thánh là gì ?
Đức Hộ-pháp nói:“Trong bài phú của Thầy cho Bà cụ di-mẫu của Chị Phối Sư
Hương Thanh có câu:
“Thầy dùng lương sanh mà cứu vớt quần
sanh”.
Hội-Thánh tức là đám Lương sanh của Thầy tom góp lại làm một. Cả Lương sanh
ấy, Thầy đã dùng quyền Thiêng-liêng dạy dỗ, trước un-đúc nơi lòng một khiếu Từ
bi cho tâm-địa có mảy mún tình ái-vật ưu sanh theo Thánh-đức háo sanh của Thầy,
dùng làm lợi khí phàm tục để độ rỗi người phàm tục.
Những Lương-sanh ấy phải thế nào hội-hiệp lại nhau làm một, mà làm ra một
xác thân phàm của Thầy thì Thầy mới có hình thể trong lúc Tam-Kỳ Phổ Độ nầy, hầu
tránh cho khỏi phải hạ trần như mấy kỳ trước vậy.
Thầy mới dùng Huyền-diệu Cơ Bút dạy-dỗ mỗi người đặng tỏ ra rõ-ràng có quả
nhiên Thầy trước mắt, để Đức-tin vào lòng mỗi Lương-sanh ấy rằng Thầy thật là
Chí Tôn, Chúa-Tể Càn-khôn thế giới”.
VẤN 8: Thầy có dạy Khí Hư
vô sanh có một Thầy
Như vậy Khí Hư vô là gì ?
ĐÁP: “Theo sự hiểu biết của tôi thì Khí Hư vô là Khí Sanh quang. Hư vô chi Khí
là sự sống của nhân loại và thú cầm. Nếu ngày nào Thầy thâu hết Khí Sanh quang
thì nhân loại và thú cầm đều chết hết, nên mới có câu “Thầy là Cha của sự sống,
có sống ắt có Thầy”.
Thầy dạy: Trước khi tìm hiểu Khí Hư vô nên biết qua:
Tại sao Vô-cực biến Thái-cực? Rồi Thái-cực sanh ra Pháp để cùng Pháp biến
tướng ra hằng hà sa-số thiệt là điều mầu-nhiệm tối linh. Phải khá nghiệm suy
cho thật chánh lý. Với sức hiểu biết hiện nay dù có tìm-tòi cũng chưa thấu-đáo
nỗi.
Thầy duy nói Thái-cực biến tướng như thế nào:
Trước hết Thái-cực sanh tâm, tức là ở trạng-thái tĩnh biến sang trạng-thái
động do sự vận-chuyển của Khí HƯ-VÔ mà tạo thành Pháp. Hai lý Phật Pháp mới biến
sanh Tăng, đó là điều dễ hiểu, PHẬT – PHÁP - TĂNG đã có mới biến hằng-hà sa-số vô tận vô biên,
nhưng tất cả đều ở lý duy nhất là THÁI CỰC. Vì vậy mà Đạo-gia mới nói “Nhất bản
tán vạn thù, vạn thù qui nhât bản” là vậy đó. Vạn-vật biến sanh do định-luật đã
sẵn có để nương theo đó mà hóa-sanh cũng chẳng lạ gì là lẽ “Thành, Trụ, Hoại,
Không” năng hiệp năng tan. Nhưng trong những lần hiệp và tan đó có một điểm tối
linh vi chủ trong đó, luôn tăng tiến mãi không bao giờ diệt. Điểm ấy gọi là điểm
Linh Quang tương tiếp với Thầy, chẳng khác chi là lằn sóng điện nhỏ đối với Thầy
là lằn sóng điện lớn. Nên chi các con vừa sanh một niệm là Thầy đã hay biết trước.
Cũng do lẽ ấy mà Thầy đã nói:
“Thầy là các con, các con tức là Thầy” nghĩa là Thầy và các con cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đồng một bản thể đầu tiên có nguồn gốc nơi
KHÍ HƯ-VÔ.
Tại sao lại có khí Hư-vô?
“Đó là điều tối ư vi-diệu khó lòng
giải tỏ bằng lời. Con tạm biết từ nguồn gốc Khí Hư-vô đó mà thôi.
Sau khi luân luân chuyển chuyển tiến-hóa mới tiến từ đẳng cấp mà có phân ra
Phật, Thánh, Tiên. Sự thật là cũng một mà thôi.
Trên NGỌC-HƯ cũng có hai lý tương-phản ấy, nhưng lý Thái-cực mạnh hơn nên
vi chủ. Luật Thiêng liêng định vậy. Mỗi một Chơn-linh tấn hóa cao trọng thì tạo
cho mình một Linh-đài, đó chẳng lạ chi là tạo gia nghiệp riêng của mình do các
kiếp sanh của mình chất chứa từ thử. Đẳng đẳng Linh-đài nối tiếp nhau tạo thành
một gia-nghiệp chung. Tất cả các con đều có chung một gia-nghiệp duy nhất, trên ấy vi chủ là THẦY, gần Thầy có các
chơn-linh Cổ Phật cao-trọng.
Hệ thống ấy chẳng khác nào như hệ-thống ở trần gian. Còn tà ma chúng nó là
do ở phần chất trược mà tạo thành, các con không biết mà sợ, cho rằng những
ma-quái, chứ thật ra cũng là con cái của Thầy thôi. Tiên Phật là phần tiến-hóa
cao trọng, còn tà ma là phần thối trược u-mê nên ở tại Tam-Thiên Thế-Giái, Tứ Đại-Bộ-Châu,
Tam Thập Lục Thiên còn có chúng nó thay! Đó cũng là lý tương phản để xây cơ tạo-hóa.
Luật thiêng-liêng, cán cân công bình buộc phải vậy
Vì vậy mà Thầy khuyên con phải Thương yêu tất cả không phân thiện-ác là vậy,
còn phân thiện-ác là với kẻ hiền-nhơn thấp thỏi kìa, chớ bậc gíác-ngộ không
phân chi hết cả.
Đó là cái lý nhiệm-mầu của Đại-Đạo, Thầy phân giải cho con hiểu rõ: Thầy
nói vạn-vật có tương-liên lẫn nhau nên sự chi ở Thiên-Đình sở-định đều có
tương-quan đến cả Càn Khôn. Hễ biết được cái lẽ tương-quan ấy là biết được
nguyên-lý của Đạo và do nguyên-lý ấy mà suy ra nguyên nhân vì sao có sinh có diệt
của Càn-Khôn vũ trụ, vạn-vật và con người; chừng nào, ngày nào và ở nơi đâu mà
vạn hữu bị diệt hay sẽ sinh ra.
Lẽ sinh diệt là cơ thường chuyển biến hóa chớ không chi rằng lạ.”
Ông Trời đến xưng là THẦY,
là Đấng Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.
Ngày nay Đấng Thượng-Đế đến với nhân-loại mở nền ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ tại
Toà-Thánh Tây-Ninh, Ngài xưng là Thầy kêu cả chúng sanh là chư Môn-đệ. Chúng
sanh niệm danh Ngài là “Nam-mô Cao-Ðài Tiên Ông Ðại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” (12 chữ)
Danh niệm này là qui cả ba Tôn giáo lớn trên Thế giới là: Nho, Thích, Đạo gọi là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
. Cao-Đài là tượng-trưng Nho-giáo,
. Tiên-Ông tượng trưng Lão-giáo hay Tiên-giáo.
. Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát tượng trưng Phật-giáo
Như vậy Vị Giáo-chủ vô-vi của nền Đại-Đạo là Đức Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát
Ma Ha Tát. Niệm danh hiệu ấy gọi là “câu chú của Thầy” ám chỉ rằng: Giáo lý Đại
Đạo là “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi”.
Câu chú của Thầy có 12 chữ gồm Tam-giáo.Ấy là:
Số 12 là số riêng của Thầy, theo lời Thầy giảng:
“Thập nhị khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn thế-giới, nắm trọn Thập Nhị
Thời Thần vào tay. Số mười hai là số riêng của Thầy” (TNI/12)
Ngày nay Ðức Chí-Tôn dùng Câu Chú nầy có mục đích Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ
Chi, tức là đem Tam-giáo Phật, Lão, Nho về một gốc, gốc đó là Chí-Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Ðế làm Giáo-chủ.
Trong bài Cơ, đề ngày 5 tháng 8 Bính-Dần Samedi 11 Septembre 1926 Thầy có
giải-thích về ý nghĩa danh niệm ấy như sau:
“Các con nghe:
“Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình độ rỗi nhơn sanh là thế nào,
phải xưng là một vị Tiên-Ông và Bồ-Tát, hai phẩm chót của Tiên, Phật. Ðáng lẽ
thế thường phải để mình vào phẩm tối cao tối trọng; còn Thầy thì khiêm nhường
là thế nào? Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười...
Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ
rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói,
buổi lập Thánh-Ðạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi đâu đến
nhọc công Thầy.
Ấy vậy các con rán độ kẻ tội lỗi, là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết”.
VẤN 9: Trong Đạo Cao-Đài mỗi Tín đồ phải ăn chay 10 ngày
trong một tháng vào những ngày: mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30. Nếu
tháng thiếu thì ăn chay vào ngày 27, 28, 29. Tại sao luật lệ của Đạo Cao Đài lựa
chọn những ngày này mà không lựa chọn những ngày khác ?
ĐÁP: Đó là Thánh ý muốn nhắc nhở cho mỗi Tín đồ phải lưu ý chiếu cố đến những
ngày bắt buộc phải ăn chay cho đúng theo nghi lễ Đại Đạo, là phải nhớ rõ những
ngày phải ăn chay đã qui định khi nhập môn cầu Đạo.
Thập trai 十齋 (theo Tự điển Nguyễn văn
Hồng)
E: The ten days of fast, the vegetarian diet of ten
days.
F: Les dix jours
de jeuâne, le régime végétarien de dix jours.
Thập trai là ăn
chay 10 ngày trong một tháng Âm lịch. Đó là cách ăn chay theo giáo lý của Đức
Chuẩn Đề Bồ Tát, nên gọi là Chuẩn Đề (Thập: Mười, hoàn toàn. Trai: ăn chay, ăn
rau quả hay nói đúng hơn là ăn các thức ăn thực vật, trái lại là ăn thịt động vật)
Thập trai được
qui định theo ngày âm lịch, gồm các ngày: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30.
Nếu tháng thiếu
thì ăn chay ngày 27 thế ngày 30. Theo Phật giáo, những ngày ăn chay nầy được gọi
là Duyên nhựt, là ngày có một Đức Phật tình nguyện kết duyên với chúng sanh ở
cõi trần. Nếu một người ăn chay vào ngày nào, biết lễ
bái và cầu nguyện với Đức Phật kết duyên ngày đó thì sẽ nhận được sức
hộ trì của vị Phật ấy trên đường tu tiến tâm linh. Ngoài ra, trong những ngày
chay ấy, chư Phật xem xét tội phước của
chúng sanh, định phần nặng nhẹ.
Nếu ăn chay vào các ngày ấy thì được Phật ban ơn lành, tránh được bệnh tật
và có đời sống an lạc.
Sau đây là 10 vị Phật tình nguyện kết duyên lành với nhơn sanh vào 10 ngày
chay trong một tháng âm lịch:
Mùng 1: Nhiên Đăng Cổ Phật.
Mùng 8: Dược Sư Lưu Ly Quang Phật
Ngày 14: Phổ Hiền Bồ Tát
Ngày 15: A-Di-Đà Phật.
Ngày 18: Quan Thế Âm Bồ Tát
Ngày 23: Đại Thế Chí Bồ Tát.
Ngày 24: Địa Tạng Vương Bồ Tát
Ngày 28: Đại Nhựt Phật
Ngày 29: Dược Vương Bồ Tát
Ngày 30: Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đối với Đạo Cao Đài, Tân Luật buộc Tín đồ phải ăn chay. Điều ràng buộc nầy
có tính nghiêm khắc, vì có những lợi ích về phương diện hữu hình cũng như vô
vi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét