Cõi trần là chi? Khách trần
là sao? Sao gọi khách? Trần là cõi khổ, để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi.
Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần”.
Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần”.
&
QUẺ - 057:
Chính trực nghi thủ. Vọng động sinh tai
Lợi thông danh đạt.
Diệp lạc hoa khai.
正 直 宜 守 。 妄 動 生 災
利 通 名 達 。 葉 落 花 開
Dịch nghĩa:
Gìn lòng ngay thẳng khá cầu
Việc làm không liệu lo âu có phần
Lợi danh rồi sẽ thoả cầu
Lá vàng rơi rụng, hoa chào gió êm.
Chú giải: Người có tâm
chánh trực, phải cần biết chánh lý là đâu ? Nên tự vấn tâm rằng: Ai sanh Trời ?
Từ đâu đến?
Đức AĂÂ giáng Cơ dạy: “Từ
buổi Hồng Mông, nhứt Khí Hư-vô phân Lưỡng Nghi, sanh Tứ-Tượng, chia Bát-Quái, rồi
mới biến hóa Nhựt, Nguyệt, Tinh-tú và 72 Địa cầu, mà tạo thành Càn Khôn Thế
Giái”. Ngài lại giải rằng: Lúc khí Hư-vô sanh Lưỡng Nghi: Dương-khí thăng lên,
biến ra Ngài; Âm-khí hạ xuống, biến ra Kim-Mẫu Nương Nương”. Đấng Huyền Khung
Cao Thượng Đế đã tá phàm nhiều lần rồi mà dìu Đạo nơi Á-Đông, lại giáng sanh
khai Thánh-Giáo miền Thái-Tây nữa. Nay vì đã rốt cuộc tuần huờn thì giờ đã cùng
tận trong buổi Hạ-Nguơn nên Đức Ngài đến hoằng khai Đại-Đạo, chuyển các
Tôn-Giáo lại thành một mối duy nhứt gọi là “Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt”
hầu dìu-dẫn nhân sanh, tức là mở cơ tận độ chúng sanh qui nguyên vị”.
&
QUẺ - 058:
Quân tử thăng, tiểu nhân trở,
chinh chiến sinh ly khổ.
Tiền hữu cát nhân phùng,
tín tại mã ngưu nhân tại sở.
Sự yếu doanh cầu an.
君 子 升 小 人 阻。征 戰 生 離 苦
前 有 吉 人 逢。信 在 馬 牛 人 在 楚
事 要 營 求 安
Dịch nghĩa:
Tiểu nhân cản bước tiến thăng
Chiến chinh ly loạn tâm hằng khổ thương
Tiền trình may gặp người lương
Có nơi sở cậy chẳng thường lo âu
Kinh doanh an hưởng khá cầu.
Chú giải: nếu nói quân tử ắt
có tiểu nhân, có Thánh Thần ắt có ma quỉ. Dù ai chăng nữa cũng đều là con của
Thượng.
Đế. Sở dĩ phân ra hạng thứ
là để nói về người. Trong một lúc mà “cái ta” này vừa là ma, vừa là Phật. Vì
sao? –Vì khi tâm ta nghĩ điều lành là Phật, nhưng thoáng chốc tâm ta nghĩ điều
quấy ấy là ma. Thế nên muốn trừ tà ma nhiễu hại, tiểu nhân quấy phá, thì mỗi người
tự trị cái tâm trước.
Thầy dạy: “Các con đủ hiểu
rằng: Phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối; nếu không có thiệt thì
làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt... Cười...Thầy
nói cho các con hiểu rằng: Muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ
càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm môn đệ Thầy
thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời. Thương thương,
ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi! Bởi vậy cho nên Thầy chẳng vì ghét mà không lời
khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành. Thầy nói trước cho
các con biết mà giữ mình, chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy đã thả một
lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các
con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp; chúng nó chẳng hề thấy
đặng, là đạo đức của các con. Ấy vậy rán gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới
ngày các con hội hiệp cùng Thầy.’
&
QUẺ - 059:
Phân phân phục phân phân,
Hy hư độc yếm môn,
Ẩm my vọng đăng hoả,
Bạn ngã sinh hoàng hôn.
紛 紛 復 紛 紛 。欷歔 獨 掩 門
飲 眉 望 燈 火 。伴 我 生 黃 昏
Dịch nghĩa:
Bời bời tấc dạ không yên
Thở than miệng những ưu phiền thở than
Chau mày đối bóng đèn tàn
Hoàng hôn rồi lại hôn hoàng tri âm.
Chú giải: Việc chưa có gì
hanh thông, thịnh lợi, tuy nhiên phải biết rằng con người đứng giữa đất trời
nên mới có mối liên quan mật thiết. Đức Thượng đế không nỡ để nhơn sanh say đắm
hồng trần mà phải chơi vơi, sầu khổ. Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn
sanh. Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên Cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở”
&
QUẺ - 060:
Hồng nhan mỹ, hưu thụ hoài,
Nhân tại xa trung, châu hành thuỷ lý.
紅 顏 美 休 樹 懷
人 在 車 中 舟行 水 裏
Dịch nghĩa:
Nét mặt vui tươi ứng việc lành
Nghĩ suy chi lắm việc đành hanh
Lữ hành yên ổn trong xe ngựa
Thuyền lại thênh thang lướt dặm ngàn..
Chú giải: Dù vui, dù buồn
nhân sinh cũng vướng mắc trong chữ ĐỜI.Nếu dịch các dấu đi sẽ thành ra: DỜI, ĐỔI,
DỐI, vậy thì cái hay nó nằm ở đâu? Sao không trở bước ? Thầy dạy: Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ Chi Ðại
Ðạo là: Nhơn Ðạo,Thần Ðạo, Thánh Ðạo,Tiên Ðạo, Phật Ðạo. Tùy theo phong hóa của
nhân loại mà gầy Chánh Giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt,
thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi. Còn nay thì nhơn loại
đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Ðạo ấy mà nhơn loại
nghịch lẫn nhau; nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy
lại giao Chánh Giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh Giáo mà làm ra
Phàm Giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân loại phải
sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi
các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập
Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em
sau mà đến nơi Bồng Ðảo”.
&
QUẺ - 061:
Kiều dĩ đoạn, lộ bất thông,
đăng châu lý ấp, hựu ngộ cuồng phong .
橋 已 斷 路 不 通
登 舟 理 揖 又遇 狂 風
Dịch nghĩa:
Cầu kia đã gãy nhịp rồi
Đường không thông lối dạ thời xuyến xao.
Lên ghe sửa lại mái chèo,
Cuồng phong nổi dậy hiểm nghèo có khi.
Chú giải: Cầu gãy nhịp ắt
trở ngại ban đầu. Đường không thông chứng tỏ một sự chậm trễ, chưa có lối
thoát. Hãy lo phương tiện kíp quay về, kẻo mưa gió vẫn bẽ bàng. Tuy nhiên sự đời
thành công và thất bại luôn là hai mặt trái phải của cuộc đời. Hãy nhớ câu “Thất
bại là mẹ đẻ của thành công”. Ngày mà Đức Tôn Dật Tiên, nhà đại Cách mạng Trung
Hoa ra quân với 11 lần thất bại. Ông buồn bã nằm dưới giàn lý nhìn nhện giăng
tơ mà nghe cõi lòng bối rối. Nhưng nhện cũng khá kiên trì, ông đếm cả thảy 13 lần
nhện cứ mỗi lần chăng tơ rồi là bị côn trùng làm vỡ mạn nhện. Thế mà nhện vẫn
tiếp tục chăng tơ đến lần 14 mới thành hình. Ngài Tôn Dật Tiên vui trong lòng
vì nhện còn kiên nhẫn hơn. Như vậy là Ngài Tôn Dật Tiên hoàn thành cuộc Cách mạng
vào lần thứ 12 vậy.
&
QUẺ - 062:
Thâm đàm nguyệt. Chiếu kính ảnh,
nhứt trường không. An báo tín.
深 潭 月 照 鏡 影 一 場 空 安 報 信
Dịch nghĩa:
Đầm sâu trăng chiếu lung linh
Ảnh hồng bóng nước như hình gương soi
Sự tình thông suốt hẳn hoi,
An lòng tin tức lần hồi gởi trao.
Chú giải: Tin tức gởi trao được là sự hanh thông, nhưng sự hanh thông ở cõi trần có gì thú vị bằng
thông đạt lý trời.
Lời Thầy: “Chư chúng sanh nghe, Từ trước Ta giáng sanh lập Phật Giáo
gần sáu ngàn năm thì Phật Ðạo chánh truyền gần thay đổi. Ta hằng nghe chúng
sanh nói Phật giả vô ngôn! Nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo Ðạo, chớ không
giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật Giáo lại cho hoàn toàn. Dường nầy, từ đây chư chúng sanh chẳng tu bị đọa A Tỳ, thì hết lời nói rằng: "Phật tông vô giáo", mà
chối tội nữa. Ta nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy mà không
tu, thì không còn trông mong siêu rỗi”.
&
QUẺ
- 063:
Hồ hải ý du du , yên ba hạ điếu câu,
Nhược phùng long dữ thố, danh lợi nhứt tề châu.
湖 海 意 悠 悠。煙 波 下 釣 鉤
若 逢 龍 與 兔 。名 利 一 齊 週
Dịch
nghĩa:
Mênh mông hồ bể ý
Sóng khói đến buông câu
May gặp rồng mây cùng thỏ ngọc
Lợi danh kịp lúc được toàn châu..
Chú giải: Đời người có mấy lần vui ? Nhưng đã biết: “Đời vui tạm sống thừa,
Đạo thiên niên bất tận”. Thầy dạy: “Thánh tâm dầu phải chịu khổn trần đi nữa,
thì chất nó cũng vẫn còn. Các con khác hơn kẻ phàm là duy tại bấy
nhiêu đó mà thôi. Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng hoài vọng.
Chí Thánh dầu bị đọa trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên Cảnh. Nếu chẳng vậy,
ai còn dám ra ưng thuận hạ thế cứu đời? Con chỉ có tu mà đắc Ðạo. Phải ngó đến
hằng ức, thiên vạn kẻ nhơn sanh chưa đặng khỏi luân hồi, để lòng từ bi độ rỗi kẻo
tội nghiệp.”
&
QUẺ - 064:
Vật bất lao, nhân đoạn kiều,
trùng chỉnh lý, mạn tâm cao.
物 不 牢 人 斷橋
重 整 理 慢 心 高
Dịch nghĩa:
Sự vật không chắc đâu.Người qua lúc gãy cầu
Mọi việc cần tu chỉnh Đừng quá vọng lòng cao.
Chú giải: Cầu gãy cho thấy
sự chưa toàn, thì lấy gì làm chắc? Lấy gì mà hy vọng ? Tuy nhiên cũng nên biết
rằng có sự thử thách về đức tin trong
đó.Nhiều lúc vật chất thương đau thì cùng lúc đường tâm linh khai lối.Hãy nghe:
Thầy dạy: Vốn từ Lục Tổ
thì Phật Giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh
Pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh Giáo, lập riêng pháp luật buộc mối Ðạo
Thiền. Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã ra cho nên cam để vậy, làm cho Phật Tông
thất chánh có trên ba ngàn năm nay. Vì Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thiên Ðịa hoằng khai, nơi
"Tây Phương Cực Lạc" và "Ngọc Hư Cung" mật chiếu đã truyền
siêu rỗi chúng sanh. Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm
nay rồi; tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu. Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo...
Ôi! Thương thay! Công có công, mà thưởng chưa hề có thưởng; vì vậy mà Ta rất
đau lòng. Ta đến chẳng phải cứu một mình chư tăng mà thôi; vì trong thế hiếm bậc
Thần, Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, Ta đương lo cứu vớt. Chư tăng, chư
chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ Ðộ nầy là lần chót; phải rán sức
tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả luật. Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi
mình hành đạo. Phép hành đạo Phật Giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần
biến "Tả Ðạo Bàng Môn". Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái
sai ấy do tại nơi nào; cứ ôm theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây
Phương mà cửa Tây Phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành chánh quả do nơi nào mà
biết chắc vậy. Ta đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây Ta cũng cho chư tăng dùng
huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ
truyền. Chư tăng từ đây chẳng đặng nói Phật giả vô ngôn nữa.”
&
QUẺ - 065:
Nhập nhi dị, xuất nhi nan,
yêm yêm đáo tái tam. Giao gia ý bất kham.
入 而 易。 出 而 難。
懨 懨 到 再 三 。交 加 意 不 堪。
Dịch
nghĩa:
Vào
dễ khó ra việc chẳng thường
Lòng sinh buồn chán liệu nhiều phương
Nghĩ suy không thuận tâm nan giải
Việc khá am tường khó đảm đương
Chú giải: Vào thì dễ, ra
thì khó. Đó trở thành công lệ. Ví như ăn uống là điển hình nhứt. Nếu ăn vào phải
bị ngộ độc thì khó mà đem ra lắm..Người nghiện cũng vậy, ban đầu định thử chơi cho biết mùi, nhưng khi đã nhiễm
rồi thì cay nghiện là cả một vấn đề nan giải. Hơn nữa câu “Gần mực thì đen” quả
nhiên nó đen thật, khó mà bôi xóa. Đến như tư tưởng thì dường như ít ai quan
tâm, nó là vấn đề then chốt. Vậy cần lưu ý là phải biết giữ cho “Ẩm thực tinh
khiết. Tư tưởng tinh khiết. Tín ngưỡng mạnh mẽ nơi Chí Tôn và Phật Mẫu. Thương
yêu vô tận. Ấy là chìa khóa mở cửa Bát Quái Đài tại thế”. Ăn uống tinh khiết là
chẳng những ăn uống thức chín, rửa sạch, mà còn cần phải biết ăn thức ăn thực vật,
kiêng thức ăn động vật: Vì nó là mầm bệnh trong thời điểm này. Lại nữa nếu là
người biết đạo mà giết động vật để ăn mà khen ngon béo miệng, là người bất
nhân. Giết vật để cúng tế ông bà, cha mẹ, Thánh Thần là bất Lễ. Mình nuôi vật
nâng niu, nó mến mình mà giết thịt thì là bất nghĩa Hằng ngày nó quen nghe tiếng gọi lại cho ăn,
nay bỗng dưng gạt bắt giết là bất trí. Không biết giữ lòng tin yêu mà giữa người
và vật tríu mến là bất tín. Thử hỏi cả 5 điều nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đã mất
hết rồi, còn sống được với ai? .
&
QUẺ - 066:
Sự trì chí tốc. Nhi thả phản phúc,
trực đãi tuế hàn, hoa tàn quả thục.
事 遲 志 速 。而 且 返 覆。
直 待 歲 寒。 花殘 果 熟 。
Dịch nghĩa:
Sự tình trì muộn, chí lo nhanh
Phản đi phúc lại việc tuần hành
Hãy đợi tháng đông lòng ý toại
Hoa tàn quả kết, vẹn muôn phần.
Chú giải: Bốn mùa trời đất
phân định: Xuân sinh hoa, Hạ tăng trưởng, mùa Thu thâu hoạch, đông thì tàn tạ,
đồng thời cũng là mùa gặt hái nữa. Con người cũng không thoát ra định luật ấy. Nghĩa là từ bé đến 15
tuổi hãy còn thơ ngây, lớn lên chút nữa cho tới 30 xem như nửa cuộc đời. Qua
trung niên tới 50 đứng đắn người. Tới 60 mươi xem như mức giới hạn. Khi qua tuổi
70 rồi kể như “Thất thập cổ lai hi”. Làm người phải dốc chí làm việc, không được
trì hoãn, dù tuổi nào cũng phải sống hữu ích. Một giờ qua là một lần tuổi đời
rút ngắn lại. Nay Đạo Cao Đài ra đời “Thầy dặn rằng: Thầy đến chẳng phải lập một
nền Đạo mới, mà đến đặng nhắc các con rằng: Ngày tận tuyệt đã hầu gần, Quỉ Vương
sắp đến, Thánh ngôn các Đạo đã khai từ thuở tạo thiên không đủ kềm thúc nhơn
sanh đặng trọn lành. Đời càng ngày càng trở nên hung bạo, nhơn loại giết lẫn
nhau, cả hoàn cầu giặc giã, bịnh chướng biến sanh, thiên tai rắp đến. Ấy là các
điều Thầy đã nói tiên tri rằng: Ngày tận thế đã đến! Thầy đã tạo thành đủ cả Pháp Luật. Thầy đến chỉ độ
kẻ vô Đạo chớ không phải sửa Đạo. Các con hiểu à!” (23-11 Bính Dần – 1926)
&
QUẺ - 067:
Thừa mã tiền tấn, sở cầu cát trinh.
Tuỳ thời hài mỹ, khuyết nguyệt trùng viên.
乘 馬 前 進。 所 求 吉 貞。
隨 時 諧 美。 缺月 重 圓。
Dịch nghĩa:
Đường dài lên ngựa thẳng dong
Cầu xin việc tốt hoài mong thoả tình
Tuỳ thời mỗi việc thêm xinh,
Vầng trăng hết khuyết lại in gương tròn.
Chú giải: Đường dài nếu cứ tiến mãi lên như nước nguồn tuông đổ sẽ đưa về biển cả. Nhân loại theo đuổi việc hữu hình
nhiều ngàn năm rồi, nhưng hữu hình hữu hoại. Có ai thấy được cái văn minh khoa
học càng lên cao con người càng mất gốc, sự suy tồi của nhân loại của thời mạt
pháp này hầu như đưa tư tưởng phần đông hướng hạ nhiều hơn hướng thượng. Nếu vầng
trăng tròn lại sau khi khuyết nó cũng phải qua một chu kỳ mới. Tức nhiên văn
minh vật chất đến lúc rã rời, thì văn minh tinh thần mới khởi phát:
Thầy dạy: “Thời kỳ mạt
pháp nầy, khiến mới có Tam Kỳ Phổ Ðộ, các sự hữu hình phải hủy phá tiêu diệt.
Thầy đến chuyển Ðạo, lập lại vô vi, các con coi thử bên nào chánh lý: Hữu hình
thì bị diệt đặng, chớ vô vi, chẳng thế nào diệt đặng. Th... Thầy đã khiến con
đi Ðế Thiên Ðế Thích đặng xem cho tạng mặt hữu hình, nội thế gian nầy, ngày nay
ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng?
Lòng đạo đức con Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã
đến. Thầy không muốn cho con hao tài, tốn của, mà gìn giữ sự giả dối”.
&
QUẺ - 068:
Châu ly tại độ nguyệt ly vân,
Nhân xuất đông quan hảo vấn tân,
Thả hướng tiền hành
khứ cầu trú,
Hà
tu nghi lự lưỡng tam tâm.
舟 離 在 度 月離 雲
人 出 潼 關 好問 津
且 向 前 行 去 求 住
何 須 疑 慮 兩 三 心
Dịch nghĩa:
Thuyền rời xa bến, trăng mây cách
Vượt khỏi đồng quan hỏi bến đâu ?
Thẳng đường tiến bước rồi yên nghỉ
Ngần ngại ích gì, liệu nghĩ sâu.
Chú giải: Thuyền xa bến
cũng như đạo đức vắng nơi lòng,
Thử nghe xem đức tin yếu
quá. Cửa trống đủ thứ tạp nhạp sẽ xen vào quấy rối. Trời Phật nơi mình chẳng ở
xa.
“Bát Nương Diêu Trì Cung nói: “Việc các Ðấng
phú thác cho mình, hoặc yêu cầu mình thi hành một vấn đề nào, nếu mình trọn tin
mạng pháp thì các Ðấng cũng ghi công cho. Nhược bằng mình không tuân hoặc lười
biếng, trễ nải, thì các Ðấng lại ghi tội cho. Vậy xin các anh, các chị rán hiểu
giùm: muôn việc chi khởi đầu đều khó. Nhưng cái khó mình lướt qua đặng mới có
công, mới anh hùng, mới chí sĩ, mới đáng đạo sĩ. Quí anh, quí chị đều ăn sung mặc
sướng, ngày nay đổi lại chịu phận nâu sồng, cũng khá thương đó. Nhưng chưa
nghèo phải học nghèo, chưa khổ phải học khổ, kế chí quân tử: "Cư bất cầu
an, thực bất cầu bảo", chỉ cặm cụi quanh năm lo cho xã hội được no ấm
thôi; biết người quên mình, đó là phận sự kẻ tu hành, đến bực tối thượng thừa
cũng phải như thế, mới tròn nghĩa vụ.
&
QUẺ - 069:
Bất túc bất túc, nan thần tâm khúc,
Dã đường vũ, quá nguyệt như câu,
Mộng đoạn Hàm đan my đại sầu.
不 足 不 足 。難神 心 曲
野 塘 雨 。過 月如 鉤
夢 斷 邯 鄲 眉黛 愁
Dịch
nghĩa:
Không
đủ rồi không đủ
Khó
phân giải nỗi lòng
Ao
đồng hứng mưa trăng còn khuyết
Giấc
mộng Hàm đan mấy giọt sầu.
Chú giải:
Nếu người chưa biết đủ, chưa biết bằng lòng với hiện tại, thì cũng nên buồn
riêng cho mình đi, vì cái thế giới này có đến vô cùng tận chắc không bao giờ
mình được toại lòng đâu!. Riêng Thánh nhân thì dạy khác: phải biết đủ thì được
đủ, đợi cho đủ đến bao giờ mới đủ. Biết nhàn thì được nhàn, đợi nhàn đến bao giờ
mới nhàn? Do câu: “Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc.? Tri nhàn, tiện
nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?” Con người đang sống trong xã hội thực tại đừng
mộng mơ, viễn vông vô ích. Muộn đó
Thi
văn dạy Đạo có câu:
Huỳnh
lương một giấc cuộc đời in,
Có
trí có mưu phải xét mình.
Phú
quí lớn là giành với giựt,
Lợi
danh cao bởi mượn và xin.
Trăm năm lẩn-quẩn đường Nhơn-Nghĩa
Một kiếp đeo-đai mối nợ tình
Biết số, biết căn tua biết phận
Đường xưa để bước lại Thiên-Đình.
&
QUẺ - 070:
Mỹ hữu kham, kham hữu mỹ
Thuỷ hữu chung, chung hữu thuỷ.
美 有 堪 。堪 有 美
始 有 終 。終 有 始
Dịch
nghĩa:
Đẹp,
khá chu tuần nối tiếp nhau
Trước
sau, sau trước cứ vần xoay
Việc
được kết tinh đầu đến cuối
Cuối
rồi ngoảnh lại thấy ban đầu.
Chú giải:
Chuyện này là hình ảnh của một vị sãi khi mới đi tu thì thấy núi là núi, nước là nước. Một thời gian sau thì người nhìn lại thấy núi không phải là
núi, nước không phải là nước. Sau cùng, khi người nhận chân được giá trị của cuộc
đời thì núi vẫn là núi, nước vẫn là nước. Tại sao vậy? Hãy nhìn theo hướng mắt
của người tu ở giai đoạn đầu và cuối, hai cái thấy này giống nhau, nhưng ý
nghĩa thì khác hẳn. Cái thấy ban đầu còn ngô nghê chưa hiểu tu là gì cả, nên tất
cả đều là hữu thể. Nhưng giai đoạn sau
cùng người tu được chứng
ngộ, hiểu được định luật của hóa công. Còn giai đoạn giữa là thời gian mà tâm
linh biến đổi mạnh nên thấy hoang mang, chới với trong đường tu.
&
QUẺ - 071:
Hồ hãi du du, cô châu lãng đầu , lai nhân vị độ,
tàn chiếu sơn lâu.
湖 海 悠 悠 孤 舟 浪 頭 來 人 未 渡 殘 照 山 樓
Dịch nghĩa:
Mênh mông mặt nước bể hồ,
Chiếc thuyền đầu sóng nhấp nhô một mình
Người qua chưa gặp đò nghinh,
Bóng chiều còn gác lầu quỳnh non xa.
Chú giải: Chiếc thuyền mà người mãi chứng kiến
đây là thuyền đạo, sao mãi cứ chơi vơi. Bởi cuộc đời không định hướng. Phải củng
cố đức tin nhiều hơn nữa mới được. Thầy dạy: “Ðặng một việc chi chớ vội mừng,
thất một việc chi chớ vội buồn; vì sự mừng vui và buồn tủi thường pha lẫn kế cận
nhau; còn sự gì phải đến cho con, ấy là tại nó phải vậy; chớ cượng cầu mà nghịch
Thánh ý Thầy. Hãy xem dò theo đây mà day trở trong bước đường Ðạo.
Mối Ðạo từ đây rán vẹn gìn,
Tu
là khổ hạnh khá đinh ninh.
Lòng
thành một tấm Trời soi xét,
Gương rạng nghìn thu nguyệt chiếu minh.
Gai
gốc lần đường công trước gắng,
Thảnh
thơi có lúc buổi sau dành.
Vòng
trần chìm nổi từ đây dứt,
Công
quả tua bền độ chúng sinh.
&
QUẺ - 072:
Thâm
hộ yêu lao cục, đề phòng ám lý nhân,
Mạc
ngôn vô ngoại sự, túng hảo định tao truân.
深 戶 要 牢 局 。隄 防 暗 裏 人。
莫 言 無 外 事。縱 好 定 遭 迍。
Dịch
nghĩa:
Trong
cuộc tình sâu khá liệu gìn
Đề
phòng bóng tối chớ xem khinh
Tiểu
nhân đáng ngại lòng thâm hiểm.
Tuy
việc vuông tròn chớ cả tin.
Chú giải:
Nếu trong đời bế tắc là thời kỳ của tiểu
nhân mưu, nước loạn, dân khổ. Nếu qua lúc hanh thái thì
đó là thời của quân tử mưu. Lòng dạ con người ghê gớm thật.
Thầy dạy: “Khi giáng trần
"Chí Tôn Phật Tổ", Thầy duy đặng có bốn môn đệ, chúng nó đều chối Thầy.
Khi giáng lập Ðạo Tiên, Thầy có một trò là Nguơn Thỉ. Khi lập Ðạo Thánh, thì đặng
12 môn đệ, song đến khi bị bắt và hành hình, thì chúng nó đều trốn hết, lại còn
bán xác Thầy nữa. Còn nay, Thầy đã sắm sẵn môn đệ cho con cũng đã nhiều, con đừng
thối chí. Thầy thường than rằng: Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn
sanh, nên Thầy nôn nóng, nhưng thiên cơ chẳng nghịch đặng, ma quỉ hằng phá
chánh mà giữ tà, chư Tiên Phật trước chưa hề tránh khỏi. Còn cái địa vị cao trọng
nó làm cho nhơn tâm ganh gổ, con phải lấy Phật Tâm con mà dòm ngó đám sanh linh
bị phạt, luân hồi chưa dứt thì tưởng đến Thầy mà cam chịu nhục nhã, lòng từ bi
có vậy mới xứng đáng là tôi con Thầy. Nếu Thầy dùng quyền pháp Chí Tôn thì mất
lẽ công bình thiêng liêng tạo hóa. Con cứ lo lập luật, để công phổ độ cho chư đạo
hữu con hưởng chút ít.
&
QUẺ - 073:
Giang
hải du du, yên ba hạ câu,
Lục
ngao liên hoạch, Ca tiếu trung lưu.
江 海 悠 悠。煙 波 下鉤。
六 鰲 連 獲 。歌 笑 中 流 。
Dịch nghĩa :
Mênh mông hồ bể đó.Sóng gió liệu buông cần
Sáu ngao đều tóm được. Giữa dòng hát hoan hân.
Chú giải: Trời
nước mênh mông là cảnh trần ai này. Người độc chiếm
ngao đầu là công danh thành đạt. Đường đời vui tươi đó, nhưng nên nhớ làm sao
phải cho Âm Dương quân bình, nghĩa là Đạo đời tương đắc, nếu đời thịnh tức âm
thắng dương, e không đủ sức chống đỡ. Vì danh vọng càng cao sinh ra ngạo mạn mà
thất lễ với Trời Phật, ăn năn không kịp. Phải chỉnh lại tâm mình cho vẹn.
Thầy dạy: “Thầy hằng nói với
các con rằng: Thà là các con lỗi với Thầy, thì Thầy vì lòng từ bi mà tha thứ,
chớ chẳng nên động đến oai linh chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, vì họ chẳng tha thứ
bao giờ". Thầy lại cũng đã nói: Mỗi khi Chơn linh Thầy giáng đàn thì cả
vàn vàn muôn muôn Thần, Thánh, Tiên, Phật theo hầu hạ". Các con nếu mắt
phàm thấy đặng phải khủng khiếp kinh sợ vô cùng; nhưng thấy chẳng đặng nên tội
cũng giảm nhẹ đó chút. Thất lễ là đại tội trước mắt các Ðấng Chơn linh ấy, Thầy
phải "thăng" cho các con khỏi hành phạt. Thầy chẳng buổi nào chấp
trách các con, bởi lòng thương yêu hơn chấp trách rất nhiều; sợ là sợ cho các
con mất đức với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật”.
&
QUẺ - 074:
Dục tế vị tế, dục cầu cưỡng cầu
Tâm vô nhứt định, nhứt xa lưỡng đầu
欲 濟 未 濟 。欲 求 強 求 。
心 無 一 定。 一 車 兩 頭 。
Giải nghĩa:
Việc muốn vuông tròn chửa gặp đâu
Cầu mong khẩn thiết chỉ gượng cầu
Lòng chưa nhất định vào đâu cả,
Như chiếc xe kia quá một đầu.
Chú giải: Đường đời muôn vạn lối, chí cả muốn
vươn cao. Tâm chưa an định, như một chiếc xe mà có đến hai đầu, làm sao điều
khiển. Khác nào ôm bọc rắn vào mình.
Thanh Tâm Tài Nữ giáng Cơ
ngày 23-4-1928 than: “Ðạo mở rộng, giống Ðạo gieo đã trót hai thu, mà người thiệt
vì Ðạo chẳng có bao nhiêu, thế nên hồi chưa mở rộng nền Ðạo, Ðức Thích Ca dòm
vào thế cuộc mà than rằng:
“Lộ vô nhơn hành, điền vô nhơn canh,
“Đạo vô nhơn thức, ta hồ tận chúng sanh!"
Sao gọi: Lộ vô nhơn hành
?-Ðường có người đi nhiều, mà không ai là người phải, đường đi dập dìu thiên hạ
mà toàn là ma hồn quỉ xác, tâm giả dối, hạnh hung bạo, mật chứa đầy tà khí, thế
nào gọi là người. Còn điền vô nhơn canh là sao? -“Ruộng đây, là tỷ với tâm, tâm
không ai giồi trau. Ðạo nơi tâm, thì tâm ví như điền, có điền mà chẳng có cày bừa,
đặng đem hột lúa gieo vào, cho đặng trổ bông đơm hột, thì ruộng tất phải bỏ
hoang; bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít xen vào ẩn trú; người mà có tâm như vậy ra
thế nào? Ruộng sẵn, giống sẵn, cày bừa sẵn, duy có ra công làm cho đất phì
nhiêu, đặng cho buổi gặt hưởng nhờ, mà không chịu làm thế thì phải diệt tận chơn
linh. Hai câu sau là kết cuộc”.
&
QUẺ - 075:
Nhứt đắc nhứt lự, thoái hậu dục tiên
Lộ thông đại đạo, tâm tự an nhiên.
一 得 一 慮 。退 後 欲 先 。
路 通 大 道 。心 自 安 然 。
Dịch nghĩa:
Được đó rồi lo cũng lắm cơn
Thoái bước ra sau ý vượt hơn
Đường lớn khá thông tâm ý mãn
Lòng tự nhiên an dạ chớ sờn.
Chú giải: Được một lại lo một. Lùi một
bước để tiến thêm nhiều bước “Trần tục là nơi chỗ biển
buồn” là thế. Nếu biết nhận chân ra con
đường lớn là thênh thang toại ý, thì chỉ có con đường đạo đức mà thôi.
Khá quay đầu. Đức Hộ-Pháp nói: “Đức Chí-Tôn dùng Huyền Diệu Cơ Bút giáng Cơ
khai Đại Đạo, chủ nghĩa là độ tận 92 ức nguyên nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa
đoạ cõi hồng trần nên gọi là cơ quan Cứu thế. Nếu Đức Chí-Tôn chiết chơn linh
giáng thế như các vì Giáo chủ trước thì phải tá mẫu đầu thai, mang phàm thể hữu
vi, lại nữa là Đạo khai trong nước Việt-Nam thì phải thọ sanh hình hài người
Nam Việt thì có thể nào chuyển ba mối Đạo khắp Ngũ châu và toàn cầu thế giới đặng.
Lại nữa các dân tộc trong Vạn quốc không thể hiệp đồng sự Tín ngưỡng làm một
thì khó mà độ tận chúng sanh, cho nên Đức Chí-Tôn giáng bằng Huyền Diệu Cơ Bút
đặng làm cho các nước để trọn đức tin rằng một Đấng Chí-linh giáng thế cứu đời
qui tụ cả khối tinh thần của nhơn loại duy nhất. Chỉ rõ bằng cớ như kỳ các Tôn
giáo tại Luân đôn thì các nước đều công nhận Đạo Cao Đài là chơn thật có thể
qui nguyên Đại-Đồng Tôn giáo và tại Toà Nội các năm 1933 Hạ Nghị Viện có 424 vị
thân sĩ cùng đồng bỏ thăm toàn công nhận Đạo Cao-Đài.”
&
QUẺ - 076:
Nan nan nan,
hốt nhiên bình địa khởi ba lan
Dị dị dị , đàm tiếu tầm thường chung hữu vọng.
難 難 難 忽 然 平 地 起 波 瀾
易 易 易 談 笑 尋 常 終 有 望
Dịch nghĩa:
Mọi việc khởi đầu gặp khó khăn
Tự nhiên sóng gió nổi đồng bằng
Sau rồi việc dễ theo nhau đến
Cười nói tầm thường dạ tự an
Chú giải: Câu “Vạn sự khởi đầu nan” cho ta nhận
thấy muôn việc khởi đầu đều khó. Tuy nhiên, nếu kiên trì vượt qua được rồi thì
sẽ hanh thông. Phải gắng công mới được.
Thánh Ngôn: “Thầy lập nền
Ðạo nầy ra, do nơi Thiên thơ, lại cũng có lòng Từ bi, để vớt cả mấy chục triệu
nguyên nhân lớn lao trở hồi cựu vị. Thầy biết có những chơn linh, vì lãnh mạng
tá phàm, mà dìu dắt các con của Thầy, nên chẳng nại công lao khó nhọc, yêu cầu
cùng Tam Giáo nới tay cho Thầy cứu rỗi các con. Than ôi ! Công trình Thầy và
các Ðấng Thiêng liêng thì nhiều mà tấc thành của mỗi con thì không đặng mấy.
Nhiều phen sóng khổ muốn chìm đắm các con mà Thầy phải sợ cho đến nhăn mày khổ
lụy.”
&
QUẺ - 077:
Tâm hữu dư, lực bất túc,
ý trượng xuân phong. Nhứt ca nhứt khúc.
心 有 餘 力 不 足 倚 仗 春 風 一 歌 一 曲
Dịch nghĩa:
Lòng thừa toan tính sức không kham
Nương tựa gió xuân ý ngập tràn
Một khúc một ca vui thoả dạ
May duyên lối bước vẫn khang trang.
Chú giải: Sống, làm người phải dùng hết thời gian
cho sự toan tính, đừng trễ nãi, đừng biếng nhác. Người đời hay thở than cho sức
khỏe không còn đủ để thực hiện những ước muốn là do câu “Lực bất tùng tâm”. Thật
là trớ trêu ! Vì tuổi già, vì đau bệnh đó là lý cớ mà người phải đầu hàng trước
sự việc. Hầu như tất cả những trái tim đạo pháp vẫn chưa bao giờ đủ thời gian
cho người giải quyết mọi việc. Nhớ lại Đức Giáo chủ của nền Đại Đạo là một chứng
cớ hùng hồn nhứt. Ngày mà Đức Ông từ giã cõi đời rồi vẫn giáng Cơ tiếc nuối:
….Nào hay vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm Chơn pháp?
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời
&
QUẺ
- 078:
Thân bất an, tâm bất an
Động tĩnh lưỡng tam phan.Chung triêu sự tất hoan
身 不 安。 心 不 安 。
動 靜 兩 三 番 。終 朝 事 必 歡 。
Dịch
nghĩa:
Thân không an tịnh lòng chưa toại
Động tĩnh mực chừng nghĩ thiệt hơn
Đôi ba lần nghiệm thời cơ đến
Kết cục vui tươi việc vẹn toàn.
Chú giải: Xưa Đức A-Nan-Đa thường hỏi đạo, học đạo
với Phật tổ, Ngài nói rằng: Xin thầy an tâm giùm con. Phật nói: Hãy đưa tâm đây
ta an cho ! Từ đấy Ngài A-nan-Đa tỉnh ngộ. Vì sao? Vì chính ta an tâm cho ta mà
thôi. Cũng như câu chuyện hai chú tiểu nhìn thấy phướn lay trước gió. Một người nói: Phướn động! Một người cải
lại. Không, gió động! Vị Thầy bước ra nói: Tâm các con động.
Đức Phật Thích-Ca dạy các
đệ tử rằng: Ngươi hãy tự kiếm Ngươi “Theo Đức Phật thì người hãy tự suy nghĩ và
xét mình đặng biết mình là ai ? Mình thật biết mình rồi mới biết định giá-trị của
người khác. Thường, người ta chỉ lo tìm kiếm những điều ở ngoài mình, chớ không
tìm kiếm những cái ở trong con người của mình, thế nên dây oan kết mãi, nghiệp
chướng càng mang, biết chừng nào mới tỉnh ngộ đặng phản-bổn huờn nguyên”
Thầy Tăng Tử xưa là một bậc
hiền-triết mà còn “nhứt nhựt tam tỉnh ngô thân”
tức là hằng ngày Xét mình trong ba điều :
* Một là lo việc cho người
không hết lòng bằng việc mình, có thế chăng ?
* Hai là giao-du với bè bạn
mà đem lòng giả dối, có vậy chăng ?
* Ba là nghe lời Thầy dạy
mà xao-lãng,có vậy chăng
&
QUẺ - 079:
Sự liễu vật vị liễu,
nhân viên vật vị viên,
yếu tri đoan đích tín,
nhựt ảnh thượng lang can.
事 了 物 未 了。
人 圓 物 未 圓 。
要 知 端 的 信。
日 影上 欄 玕。
Dịch nghĩa:
Giờ khắc qua rồi việc chửa xong
Người toan tính kỹ việc không đồng
Tin thư xác thực cần hay sớm
Bóng nắng rạng soi trước điện công.
Chú giải: Thời gian qua mà
việc chưa rồi, người toan tính như vậy mà việc không được vậy.Phải hỏi lòng
mình xem:
Có phải không được thời
chăng ? Không được lòng người chăng ? Do mình vụng tính chăng? Việc đời cũng thế mà việc đạo cũng thế. Người Tín hữu
Cao Đài phải nhớ rằng:
Thầy có chỉ rõ: “Phải thường hỏi lấy mình khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự
ngày ấy đã xong chưa mà lương-tâm có điều chi cắn rứt
chăng ? Nếu phận còn nét chưa rồi lương-tâm chưa đặng an tịnh, thì phải biết cải
quá, ráng sức chuộc lấy lỗi đã làm thì các con có lo chi không bì bực chí
Thánh. Thầy mong rằng mỗi đứa đều lưu-ý đến sự sửa mình ấy thì lấy làm may mắn
cho nền Đạo; rồi các con sẽ đặng thong-dong mà treo gương cho
kẻ khác, các con thương mến nhau, dìu dắt nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một
sự vui vẻ đó”.
&
QUẺ - 080:
Mộc hướng dương xuân phát.
Tam âm hựu phục căn.
Tiều phu bất tri đạo. Dục khứ tác sài cân.
木 向 陽 春 發 。三 陰 又 伏 根。
樵 夫 不 知 道 。欲 去 作 柴 薪。
Dịch nghĩa:
Nắng xuân cây cỏ đượm nhuần
Bóng râm che khuất mấy lần rễ thân
Tiều phu kiếm củi trên ngàn,
Ý về giục giã gánh xoàng củi khô.
Chú giải: Cỏ cây luôn theo hướng nắng của mặt trời
mà phát, gọi đó là quang hướng động thuận, chính nó biết tìm về Thượng Đế, nó
tu đó. Làm người há quên Đạo, xa Phật trời sao ? Đạo luôn phát khởi từ Đông rồi
mới dần dần ra các nơi khác, đó là nguyên lý của Càn Khôn vũ trụ. Câu Kinh “Ánh
thái dương giọi trước phương Đông”. Ánh Thái-dương là Đạo đó vậy. Nay đã đến Hạ-nguơn
mạt kiếp, cuối cùng nên Đức Chí Tôn mới chuyển Đạo nơi vùng Á-Đông, đấy là nơi
nguồn Đạo phát ra, lại khai nơi Nam-kỳ (một trong ba kỳ nơi cõi Á-đông). Vì cõi
Đông dương đây cũng về miền Đông của Á-Châu nên ngày nay phải khởi khai nơi hướng
ĐÔNG trước rồi mới truyền lần ra hướng
Tây. Như Đức Chúa Jésus khai Đạo bên Âu châu, thì cũng khởi khai nơi miền ĐÔNG
của Âu-Châu, rồi mới loan truyền khắp cả Âu-châu, ấy là luật tự-nhiên từ cổ chí
kim, hễ Đạo phát khai thì cứ bắt đầu từ phương Đông truyền ra. Ngày nay là giáp
một vòng nên khởi lại điểm ban đầu gọi là “Thiên địa tuần hoàn châu nhi phục thủy”
do đó nền Đại-Đạo phải khai tại Á-Đông này nên Thầy mới mở Đạo nơi Đông-dương
là cực Đông của Á châu mà lại khai nơi xứ Nam-kỳ là xứ thuộc-địa, dân-tộc yếu
hèn, kém cỏi, ấy là do nơi Thiên-cơ tiền định cả muôn năm, lại là thưởng cái lòng
Tín-ngưỡng của người Nam từ thử. Tuy khai Đạo tại nước Nam mà cũng khởi từ Đông,
do cái lý từ Bàn-cổ sơ khai: “Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, nhơn sanh ư Dần”
天開於子地藉於丑人生於寅. Do vậy mà Đạo khởi khai tại
Tây-Ninh lần lần truyền ra Gia định, Biên Hòa, Thủ-Dầu-Một, Chợ-Lớn là mấy hạt ở
hướng Đông. Qua năm thứ nhì, thứ ba Đạo mới truyền ra mấy hạt hướng Tây”.
&
QUẺ - 081:
Nhứt nguyệt khuyết, nhứt kính khuyết,
Bất đoàn viên, vô khả thuyết.
一 月 缺 一 鏡 缺 。
不團 圓 無 可 說 。
Dịch nghĩa:
Vầng trăng kia hãy còn vơi.
Vành gương lại khuyết điềm trời rẽ phân.
Đoàn viên chưa thấy đến gần
Giải bày tâm sự nói năng khó tường.
Chú giải: “Cơ sanh-hoá
càn-khôn không ngoài luật định thành, trụ, hoại, không, tức nhiên: lập lên, tồn
tại, biến chuyển hư hao rồi tiêu mất. Sự nói mất chớ thật ra chẳng phải là tiêu
mất đâu. Nó chỉ biến chất thay hình đổi dạng mà thôi.Tỷ như nước của con sông
ngày hôm nay, không phải là nước của con sông ngày hôm qua; tuy cùng chảy ra biển
cả, nhưng nước của sông luân-lưu từng giờ, từng phút. Nước của ngày
hôm nay không phải là số nước của ngày hôm sau nữa. Cả xác hài ta mang đây cũng
vậy, nó cũng biến-chuyển từng giờ, tùng phút. Tế-bào này tiêu diệt để cho tế-bào
kia tăng trưởng, nó luân-chuyển mãi ở các xác thân và thay đổi khí-chất luôn
tùy theo các hành-động của mình, có tăng
hay có giảm. Tuy vậy mà số tăng luôn luôn nhiều hơn số giảm, là vì nó là cơ tấn-hóa;
nếu không có vậy thì là tiêu-diệt cả
càn-khôn thì còn gì.Luật tấn-hóa ấy là
công-lệ hiển-nhiên của tạo-hóa. Phải tấn-hóa để các chơn-linh thấu-đáo những điều
mầu-nhiệm mà tạo-hóa sắp đặt sẵn trước ở cả càn-khôn vũ-trụ. Tất cả đều để trước
mắt những bài học hay. Cái cảnh khổ chính là bài học tấn hóa nhanh chóng nhất;
Vì vậy những chơn-linh nào dám chịu khổ là những chơn-linh tấn-hóa mau hơn hết . Nhưng thật sự cũng chẳng
phải là “ khổ ” đâu !
&
QUẺ - 082:
Xa mã đáo lâm,
tinh kỳ ẩn ẩn, nguyệt phân minh,
chiêu an kế bạn,
vĩnh đại tiền trình.
車 馬 到 臨 旌 旗 隱 隱 。
月 分 明 招 安 計 叛。
永 大 前 程。
Dịch nghĩa:
Ngựa xe đã đến, trống cờ đâu?
Trăng sáng rõ soi chiếu ánh làu
Giặc loạn dẹp tan, phường phản nghịch
Đường dài rộng lối đón anh hào.
Chú giải: Trong
cái phước có ẩn điều họa, thì trong cái họa cũng có ẩn điều phước.Thế
nên câu “Phước bất hưởng tận”là vậy.Cho nên sự may rủi ở đời khó lường trước được
Đức Lý giải thêm rằng: “Tà Chánh, cười....Bần Đạo nói thiệt cũng chưa dám định
đoạt. Trong cái rủi thường có sự may; trong cái may vẫn khép cầm sự rủi, khó lường
được. Ðiều cần là nên làm mà thôi. Nếu luận Tà Chánh thì chưa một ai dám còn
mang mắt phàm xưng tụng mình là Chánh. Cái Tà vì Thiên thơ sử dụng, Tà vì cơ thử
thách của Tam Giáo Tòa, Tà vì những quỉ xác ma hồn lẫn lộn của Quỉ vương để làm
cho công phu lở dở. Mỗi cái Tà có duyên cớ ấy, ngày sau đều có sự biến đổi
thiêng liêng hoặc có một kết quả. Ngày chung qui chỉ đem về Thầy một chữ Tâm và
những công nghiệp đã gây thành cho sanh chúng.”
&
QUẺ - 083:
Ngã hà túc, ngã hà túc, hải đông hà bắc
Thành danh lục, nhứt ban thần quang,
trực xung thiên độc.
我 何 宿 我 何 宿。
海 東 河 北。 成 名 錄。
一 般 神 光。 直 沖 天 瀆
Dịch nghĩa:
Gác trọ nơi nào chửa biết đâu?
Biển Đông sông Bắc khó thông nhau
Công thành danh toại thần quang trợ
Thẳng lối mây xanh rạng tướng hầu.
Chú giải: Cái danh vị trong đời ai ai cũng đều mơ
vọng, thậm chí đến điều là dầu cho phải làm việc thất nhân tâm cũng không từ. Ôi!
Đáng tiếc thay, “thực lại bỏ, giả vay nên nợ”..Sống, phải có định hướng. Làm
người khó ! Làm người khó! Đạo Dịch là gì
? Là trung chánh thôi vậy .
- Dịch khiến cho việc trong thiên-hạ không
Trung trở về chỗ Trung,
- Dịch khiến cho việc trong thiên hạ không
Chánh trở về chỗ Chánh. Trung chánh mà lập lại đặng rồi thì cuộc biến-hóa của vạn-vật
được thông vậy.
“Nói cho đúng, trong vạn sự vạn-vật, không có
vật gì là không Trung, không vật gì là không chánh: nghĩa là trong cả những sự
gọi là “bất trung, bất chánh” thì đã có những sự trung chánh rồi. Cho nên mới
nói không có gì là quân-bình ngay trong những điều xảy ra không quân bình. Thực
sự là những quân-bình tạm đang tìm cách lập quân bình chung của sự vật trên đời;
Hay nói một cách khác, chính ngay trong những sự vật mất quân-bình Ta mới thấy
rõ luật quân bình của trời đất. Cả Trung
chánh ấy là cái trọng tâm, cái trọng lực khiến cho cặp âm dương không bao giờ lìa
nhau được: vạn sự, vạn-vật không bao giờ dừng biến hóa; bởi một mở, một đóng gọi là biến, qua lại
không cùng gọi là thông”.
&
QUẺ - 084:
Kim lân nhập thủ, đăc hoàn phòng tẩu,
nhược luận châu tuyền, cẩn ngôn giảm khẩu.
金 鱗 入 手。 得 還 防 走 。
若 論 周 旋 。謹 言 緘 口 。
Dịch nghĩa:
Kim lân nắm trọn vào
tay
Xem
chừng kẻo mất thật hoài công to
Luận
bàn hơn thiệt đắn đo
Gìn lời cẩn thận liệu dò phân minh.
Chú giải:
Vật quí đã vào tay nhưng lòng còn lo sợ mất. Thế nhân luôn canh cánh bên
lòng một nỗi lo vô tận. Vậy thì có một điều dễ mất mà ít ai lo nghĩ tới đó là
lòng nhân ái, vì khi mình sợ mất của quí thì phải đề phòng bằng mọi cách và sẵn
sàng đối phó cũng bằng mọi cách dù bất nhân.
Thánh ngôn Thầy dạy:
Phải giữ chơn-linh đặng trọn lành.
Ngọc-Hư toàn ngự Đấng tinh-anh
Luật điều Cổ-Phật không chừa tội.
Hình-phạt Chí-Tôn chẳng vị tình.
Chánh-trực kinh oai loài giả dối.
Công-bình vừa sức kẻ chơn thành.
Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn.
Biết sợ xin khuyên cẩn-thận mình
&
QUẺ - 085:
Khuynh nhứt bôi, triển sầu mi,
thiên địa hợp, hảo tư vi.
傾 一 盃 展 愁 眉。 天 地 合 好 思 為。
Dịch nghĩa:
Mày buồn theo chén rượu nghiêng
Âm dương đã thuận có phiền lòng ai,
Nghĩ suy ứng được lòng Trời
Thiên thời, địa lợi, duyên người đều may.
Chú giải: Thánh nhân xưa
dùng rượu giải sầu “Tam bôi thông Đại-Đạo”. Người nay dùng rượu để chuốc sầu.
Than ôi ! Thời cùng thế tận. Phải rõ
thông lý đạo thì mới bình an cho tâm hồn. Ấy là luật Âm Dương chi phối mọi mặt.
Lưỡng-nghi là cơ âm
dương phối-hợp, thì bất cứ vật chi chi
trên trời đất này cũng đều do Âm dương mà sản xuất, cũng gọi là lý nhị nguyên
đó vậy. Âm với dương vốn là cơ động tĩnh, mâu-thuẫn nhau, tương-khắc mà lại
tương-hòa. Hai cái lý đối nghịch nhau để hỗ-trợ lẫn nhau chớ không phải để tiêu
diệt nhau”. Trời có sáng tối; người có Nam nữ; vật có cứng mềm; đất có
nắng mưa; vạn-loại có trống mái; cho chí đến loài cây cỏ mới nẩy chồi thì ra
hai lá đầu tiên ấy là hình-tượng của âm dương đó. Âm dương vốn là cơ sản-xuất,
nhưng trong âm có dương và trong dương có âm .Nho-gia gọi là “Vạn-vật phụ âm
nhi bảo dương, trung chí dĩ nhi hòa” là vậy (gọi là vạn vật ôm-ấp âm dương, đến
mực trung -dung thì gọi là hoà)
“Theo Bí-pháp chơn-truyền của cơ sanh-hóa phải
có đủ âm dương. Trong sanh-quang chúng ta có điện quang (Positif và Négatif)
cũng như vạn-vật có trống mái Nền Tôn-giáo nào có đủ âm dương thì nền Tôn-giáo
đó mới
vĩnh-viễn. Như Đức Chúa Jésus-Christ ngày trước bị đóng đinh trên cây
Thánh-giá đầu thuận lên trên gọi là đạt dương, ông Thánh Pierre là đệ nhứt
Tông-đồ, bị đóng đinh trở ngược lại gọi là phản âm. Âm dương tương-hiệp tượng-trưng bí-pháp, nên
Đạo Thánh lưu- truyền hai ngàn năm, không ai dùng quyền gì tiêu-diệt đặng. Chí-Tôn
có thể sai con của Người đến lập Đạo
như: Thích-Ca, Jésus, Khổng-Tử” . Nay Đạo Cao-Đài Đức Chí-Tôn mở ra có đủ hai
ngôi: ngôi Chí-Tôn và ngôi Phật-Mẫu, tức
là âm dương tương-hiệp mới có
ngôi thứ ba ra đời.
&
QUẺ - 086:
Dã quỉ trương hồ xạ chủ nhân,
Ám trung nhứt tiễn quỉ hồn kinh,
Hốt nhiên hồng nhựt trầm giang hải,
Nan phá không trung sự bất minh.
野 鬼 張 弧 射 主 人
暗 中 一 箭 鬼 魂 驚
忽 然 紅 日 沉 江 海
難 破 空 中 事 不明
Dịch nghĩa:
Quỷ đồng trương cung bắn chủ nhân
Khua vang bóng tối quỉ hồn kinh
Thình lình bóng đổ rơi trong biển
Tình sự không bàn được rõ minh.
Chú giải: Trong đời này khi nói đến Phật thì nói đến ma, khi nói Trời là nói đến
Quỉ. Nhưng “Phép Công bằng của Đức Chí-Tôn là một cây Cân Công bằng: Một đầu là
Tiên, Phật. Một đầu là Ma Quỉ. Chánh tà phân biệt đôi bên, ấy là phép công bình
lành siêu, dữ đọa. Đức Chí-Tôn muốn cho con cái của Ngài đều đặng cao thăng phẩm-vị
thiêng liêng chớ không bao giờ mà phải đào-tạo Địa-ngục để đày-đọa, hình phạt
nhơn-sanh, mà trái lại tại nhơn-sanh tạo cảnh khổ ấy”.
&
QUẺ - 087:
Phúc tinh chiếu, cát tú lâm,
Thanh thiên hữu nhật kiến thiên chân,
Long phi hạ đái đáo minh bình.
福 星 照 吉 宿 臨 。
青 天 有 日 見 天 真。
龍 飛 下 戴 到 明 庭 。
Dịch
nghĩa:
Phúc tinh chiếu, hiện sao lành
Mặt trời soi sáng nền xanh kia rồi
Rồng bay ắt sẽ gặp thời,
Minh đình đến đậu rạng ngời công danh.
Chú giải: Mỗi người đều mong được phúc tinh chiếu mạng, nhưng không hiểu
trong 28 vì sao gọi là Nhị Thập bát tú, mà vì tinh tú nào phúc, vì tinh tú nào
gây họa. Cũng như nhân loại muốn thấy được Trời
mà hôm nay Trời đến ban cho mối Đạo nhà mà vẫn ngoảnh mặt quay lưng đi. Hãy thấy
rõ cái sở-hành chơn-pháp của Đức Chí-Tôn chỉ dùng một câu là đủ, có nghĩa rằng:
“Đức Chí-Tôn đào tạo chơn-pháp vô lượng vô biên để cho nhơn lọai thi-hành mà đoạt
phẩm-vị thiêng-liêng: Thần, Thánh, Tiên, Phật. Chơn-pháp cũng có một như
Chơn-luật vậy:
- Chơn-luật của Đức Chí-Tôn đã chỉ rõ là
Thương yêu
- Chơn-pháp là Công-bình.
Luật-pháp của Chí-Tôn đã chỉ rõ ra đây toàn cả
nhơn sanh đều nghe, hiểu biết và thường có nói; chỉ
có một điều là tại không thực hành, nếu con người dưới thế này đồng thi-hành y
như chơn-pháp CÔNG-BÌNH thì đời sẽ
trở nên tận thiện tận mỹ; mà cơ tự diệt sẽ tiêu-tan
không còn thấy tấn-tuồng bi-ai thảm-đạm như thế”
&
QUẺ - 088:
Độc
điếu hàn đàm, trung đồ hưng lan.
Thuỷ
hàn ngư bất nhĩ, không đái nguyệt minh hàn.
獨 釣 寒 潭 。中 途 興 瀾 。
水 寒 魚 不 餌 。空 戴 月 明 還 。
Dịch nghĩa:
Một mình sông lạnh
buông câu
Nửa
chừng sóng dậy biết đâu điềm trời
Nước
hàn cá chẳng đớp mồi
Trăng
treo sáng khắp lần hồi quày chân.
Chú giải: Trăng treo sáng khắp là cơ Âm, là hình ảnh người mẹ hiền hòa,dịu dàng, êm
ái. Nay, duy nhất Đạo Cao Đài đủ cả hai ngôi: “Phật-Mẫu là Mẹ, là gốc sanh ra vạn-vật.
Phật Mẫu nắm cơ hữu tướng. Phật-Mẫu là Âm, còn Thầy là Dương. Âm Dương tương-hiệp mới biến Càn khôn, cả Càn-khôn ấy là Tăng, mà người
nắm quyền vi chủ hàng Tăng ấy là một vị Phật cầm quyền thế-giới. Phật và Pháp
không biến đổi, còn vị cầm quyền thế-giới là Tăng ấy thay đổi tùy theo thời-kỳ.
Tỷ như:
Nhứt-kỳ Phổ-độ cầm quyền
vi chủ là Nhiên-Đăng CổPhật.
Nhị-kỳ Phổ-Độ là Thích-Ca
Như-lai.
Tam-kỳ Phổ-độ là Di-lạc
Vương-Phật.
Hết Tam-kỳ Phổ-Độ thì
nguyên-căn qui nhứt, trở lại mở Nhứt-kỳ Phổ-Độ sẽ có vị Phật khác ra đời cầm
quyền vi chủ định-luật Càn-khôn.
&
QUẺ - 089:
Bất
qui nhứt, lao tâm lực,
quí
nhân bàng, nghi tá lực.
不 歸 一 勞 心 力 。 貴人 旁 宜 借 力
Dịch
nghĩa:
Việc
không qui nhứt khá lo lường
Tổn
sức hao tâm ấy sự thường
Khá
cậy quí nhân may giúp được
Ân
cần han hỏi liệu tìm phương.
Chú giải: Qui nhứt là thống hiệp làm một. Còn phân tán là
còn luân lạc ra đi. Nay, thời kỳ qui hiệp nên Đức Chí Tôn ban cho mối Đạo Trời,
tôn chỉ: Tam giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt. Ấy vậy, Đức Hộ-Pháp lưu ý:
“Ngày giờ nào khi nhơn-sanh đã tiến bước, Bần Đạo chỉ nói một người mà thôi đoạt
được Phật vị thì ngày ấy Hội-Long Hoa mới
mở, mà Hội-Long-Hoa chưa có mở thì Đức Di Lạc chưa có đến”.
&
QUẺ - 090:
Vân tận nguyệt đương trung,
Quang huy đáo xứ thông,
Lộ đồ phùng thuỷ thuận,
Thiên lý khoái như phong.
雲 盡 月 當 中。光 輝 到 處 通
路 途 逢 水 順。千 里 快 如 風
Dịch nghĩa:
Trời trong vằng vặc trăng thanh
Sáng soi khắp chốn tia lành rõ thông,
Đường đi, thuỷ lộ xuôi dòng
Dặm ngàn thuận gió quyết lòng nhanh chân.
Chú giải: Người đời sống
trong “Tứ diệu đề Khổ” của Phật giáo. Thế
nên mỗi mỗi đều gây nên một nỗi lo sợ. Khi lên đường bộ thì chúc nhau câu: Thượng
lộ bình an. Nếu tiễn nhau trên đường thủy thì chúc nhau thuận buồm xuôi gió. Nhưng
khi đã có một điểm tựa cho tâm linh thì không còn sợ sệt gì nữa. Bởi Đạo Cao
Đài này là một “Tôn giáo, Ngài vi chủ
năm châu hiệp Tín ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi.
Nắm cả Tín-ngưỡng của loài người lại, chính CHÍ TÔN là CHÚA TỂ Càn Khôn
Thế Giái, làm CHÚA nền chính trị tại nước NAM, vi chủ tinh thần loài người tức
đủ quyền năng lập QUỐC ĐẠO. Kỳ khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ tạo một linh-đài qui Tín ngưỡng
của toàn nhơn-loại, đủ quyền năng tiêu-diệt Tà pháp đặng đem nhơn-loại đến ĐẠI
ĐỒNG. Nay Đức Chí-Tôn khai Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là đúng theo lời sấm truyền của
các vì GIÁO CHỦ ngày xưa.
&
QUẺ - 091:
Kiếm kích liệt sơn lâm. Đạo tặc tất lai xâm
Bại tẩu cầm sưu định, Phong hầu ấm tử tôn.
劍 戟 列 山 林 。盜賊 必 來 侵
敗 走 擒 搜 定 。封 侯 蔭 子 孫
Dịch nghĩa:
Vũ khí đã đủ đầy. Giặc nghịch tất đến đây
Đánh bại rồi an định. Phong hầu con cháu hay.
Chú giải: Vũ khí của người lính bằng sắt thép,
vũ khí của người Đạo là “cây gươm thần huệ đoạn trừ nghiệt
căn” Nay Đức Chí-Tôn khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là đúng theo lời sấm truyền của
các vì GIÁO CHỦ ngày xưa.
Chỉ có hai phương diện:
1 - Là do Tam Gíao thất kỳ truyền.
2 - Là chính mình Đức
Chí-Tôn giáng cơ lập Đạo đặng Qui Nguyên Phục Nhứt, gọi là chấn hưng Tam Gíao lại
cho hoàn toàn, lập Luật Pháp khuôn viên cho phù hợp theo dân trí buổi này mới tìm
phương độ rỗi nhơn sanh, hiệp cả Tinh Thần của các dân tộc biết nhìn nhau một
CHA chung là thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ quyền THƯƠNG-YÊU, chung thờ một
Tôn-giáo Đại đồng thì nhơn loại mới gội nhuần ân huệ và đời tranh đấu tự diệt sẽ
trở nên đời mỹ tục thuần phong, thì vạn loại mới chung hưởng cơ Hòa-bình, phục
hồi thượng cổ là do Thiên thơ tiền định buổi Hạ nguơn chuyển thế hoán cựu duy
tân. Tóm lại, Đức Chí-Tôn khai ĐẠO kỳ thứ ba này là thuận theo “Lẽ tuần-hoàn châu nhi phục thủy”.
Phật Mẫu Chơn Kinh có câu:
“Kỳ khai tạo nhứt Linh đài,
“Diệt hình tà pháp cường khai Đại Đồng”.
&
QUẺ - 092:
Ngạn khoát thuỷ thâm châu dị lạc,
Lộ dao sơn hiểm bộ nan hành,
Xà hành tự hữu thông tân nhựt,
Nguyệt thượng thiên không phân ngoại minh.
岸 闊 水 深 舟 易 落 。路 遙 山 險 步 難 行。
蛇 行 自 有 通 津 日。 月 上 天 空 分 外 明。
Dịch nghĩa:
Sông rộng nước sâu thuyền dễ đến,
Núi hiểm đường xa khó đạt thông
Uyển chuyển uốn mình lần tới bến
Trăng vàng chiếu khắp thoả lòng mong.
Chú giải: Trong trời đất có gì đáng
nói? Phải chăng nhìn lên không thì thấy mặt trời, mặt trăng, sao. Ngó xuống đất
thì sông, núi. Nhìn lại người thì Nam , nữ. Ấy là nói chung Âm Dương của Trời; cương nhu của đất, ở người là Nữ nam phân biệt vậy. Trời đất
có Âm Dương, vạn-vật có thể phách, nhơn loại có xác hồn; sự sống của vạn-loại
trong Càn khôn thế giới chỉ nhờ có vật-chất và tinh-thần tương hiệp mới thành hình.
Xác phải phù-hợp với hồn, cũng như vật chất phải phù-hợp với tinh-thần trở lại
vô-vi, vô-vi cùng hữu-hình phải tương-đắc ..Ngôi Âm và ngôi Dương ấy gọi là Lưỡng-nghi
(tức là hai ngôi).
“Lưỡng-nghi là cơ Âm Dương phối-hợp thì bất cứ
vật chi chi trong trời đất này cũng đều do Âm Dương mà sản-xuất, cũng gọi là Lý
Nhị nguyên đó vậy. Âm với Dương vốn là cơ động tĩnh, mâu-thuẫn nhau, tương-khắc
mà lại tương-hòa. Hai cái lý đối nghịch nhau để hỗ-trợ lẫn nhau chớ không phải
để tiêu diệt nhau. Trời có sáng tối; Người có Nam, Nữ; Vật có cứng mềm; đất có
nắng mưa; vạn loại có trống mái; cho chí đến loài cây cỏ mới nẩy chồi thì ra
hai lá đầu tiên, ấy là hình tượng của Âm Dương đó (gọi là song tử diệp). Âm Dương vốn là cơ sản xuất, nhưng trong
Dương có Âm và trong Âm có Dương. Nho-gia gọi là “Vạn-vật phụ âm nhi bảo dương,
trung chí dĩ nhi Hoà”
&
QUẺ - 093:
Nghĩ dục thiên nhi vị khả thiên,
Đề phòng hỉ xứ nhạ câu xa,
Tiền đồ nhược đắc âm nhân dẫn,
Biến hoá ngư long xuất đại uyên.
擬 欲 遷 而 未 可 遷 。隄 防 喜 處 惹 勾 車 。
前 途 若 得 陰 人 引 。變 化 魚 龍 出 大 淵。
Dịch nghĩa:
Muốn dời không dễ dời đâu !
Đề phòng mọi việc kẻo hầu liên can
Tiền đồ nếu sẵn quí nhân,
Cá rồng biến
hoá thoát lần vực sâu.
Chú giải: Cá tu biến thành
rồng gọi là cá hóa rồng, tức nhiên dù vạn vật trong vũ trụ này đều cũng muốn tiến
hóa hết. Loài người nghĩ sao mà cứ hẹn và hẹn ? Biết bao lời kêu gọi mà vẫn thản
nhiên. Thật ra đèn không sáng ở chân. Từ xưa đến giờ dân Việt Nam này xin Đạo,
mượn Đạo của người ta mà thôi. Còn nay chính Đấng Thượng Đế đến ban cho mối đạo
nhà mở tại đất nước Việt Nam mà một số lớn người Việt Nam lại thờ-ơ, cứ mãi tìm
nơi linh thiêng mà cầu, mà khẩn. Đạo mở tại Tây Ninh, mà có bao nhiêu người gốc
ở Tây Ninh biết Đạo? Chỉ toàn dân tứ xứ tìm về
Buồn thay! Buổi sơ khai Đức Chí-Tôn mở Đạo đã cho hiệp đủ Tinh - Khí -
Thần rồi tức là nền Đạo đã tròn đầy viên mãn, tóm lại là người tín-hữu Cao-Đài
ngày nay chỉ có Tu là đắc Đạo. Thầy dặn:
“Con chỉ có tu mà đắc Đạo. Phải ngó hằng ức
thiên, vạn kẻ nhơn-sanh chưa đặng khỏi luân hồi, để lòng Từ Bi độ rỗi kẻo tội
nghiệp” (TN I/21)
&
QUẺ - 094:
Nhứt nhân khứ, nhứt nhân nhập,
Thanh phong minh nguyệt lưỡng tương sai,
Hoạch đắc kim lân hạ điếu đài.
一 人 去 一 人 入。 清 風 明 月 兩 相 猜 。
獲 得 金 鱗 下 釣 臺。
Dịch
nghĩa:
Một kẻ ra đi một kẻ vô,
Gió mát trăng thanh cũng đáng ngờ.
Mình được cá vàng lòng vui thích
Khéo gìn kẻo lại sẩy qua bờ.
Chú giải: Luật của trời đất cứ một
đóng, một mở; một ra một vào, cũng như hơi thở đều đặn trong
con người, không dồn dập, không trì huỡn, chứng tỏ một sự
khiêm tốn, không cao không hạ. Điều ấy dạy cho con người phải khiêm tốn như trời đất vậy. Không thái quá cũng không bất cập. Thầy dạy: “Các con coi bậc
Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt
vị Tiên-Ông và Bồ-Tát là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để
mình vào phẩm tối-cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy
mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!. Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi
đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các con phải
khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói
buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi,
đâu đến nhọc công Thầy. Ấy vậy, các con
ráng độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết. (Thánh ngôn) Nay
danh xưng “CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ TÁT MA-HA-TÁT” là gồm cả Tam-giáo gọi là Tam
Giáo Qui nguyên:
- Cao-Đài là tượng-trưng
cho Nho-Giáo.
- Tiên-Ông là chỉ
Tiên-Giáo.
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ
Phật Giáo.
&
QUẺ - 095:
Hỉ vị ẩn, bi dĩ tao,
đại vũ cuồng phong xuy cổ mộc,
nhân nhân tận đạo bất kiên lao.
喜 未 隱 悲 已 遭 。
大 雨 狂 風 吹 古 木。
人 人 盡 道 不 堅 牢 。
Dịch nghĩa:
Niềm vui chưa vẹn, đến điềm lo
Cổ thụ chiều hôm mưa gió to
Người người đồn đãi thời chưa đến
Muôn việc dở hay khá liệu dò.
Chú giải: Cổ thụ của mọi
người là gốc lớn tức cha mẹ ông bà là điểm tựa cho tâm hồn, nhìn xa hơn thì đại
cổ thụ chính là Tôn giáo, là nơi điểm tựa
cho tâm linh. Thế nên:
“Ngày nay Thầy mới đến lập một cái CAO-ĐÀI 高 臺 nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức-tin lớn tại
thế này (La haute Église ou plus grande foi du Monde) làm nên nền Đạo; lại mượn
một sắc dân hèn-hạ nhỏ-nhít của hướng Á-Đông là An-nam ta, đặng cho trọn lời
tiên tri “Đạo xuất ư Đông” 道 出 於 東 và cho trúng Thánh-ý chìu lụy hạ mình của Thầy lập
thành Hội-Thánh, làm hình thể Thiêng-liêng của Thầy hầu cầm cho đặng dùi trống
Lôi Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định-tánh
làm cho cả con cái của Thầy thức tỉnh, nhìn Thầy mà trở về quê cũ” ( PCT)
&
QUẺ - 096:
Khả dĩ ký bách lý chi mệnh,
Khả dĩ thác lục xích chi cô,
Chung kỳ ký ngộ, vô trì ngộ,
Tiếu hô hô tha hương tụ thủ các tự lạc khang hoà.
可 以 寄 百 里 之 命。可 以 托 六 尺 之 孤。
鍾 期 既 遇 毋 遲 誤 。
笑 呼 呼 他 鄉 聚 首 各自 樂 康 和 。
Dịch nghĩa:
Tính mệnh đường dài khá gởi trao
Tấm thân oai dũng chí anh hào
Chung Kỳ đã gặp đâu còn ngại
Cười hát hân hoan thoả thích nhau.
Chú giải: Câu chuyện
Bá-Nha và Chung Tử Kỳ xem nhau là bạn Tri âm, tức nhiên họ hiểu nhau qua tiếng
đờn, họ có thể cảm nhau qua tư tưởng. Nhưng khi Chung Tử Kỳ mệnh bạc thì Bá Nha
đờn trước mộ của Chung Tử Kỳ lần cuối, xong rồi đập vỡ đờn và nguyền rằng không
bao giờ đờn nữa vì không một ai nghe được tiếng lòng của mình.
Trong bài “Gửi phường hậu
tử” làm trong phút sắp lâm chung; nhà Cách mạng Phan Bội Châu có câu:
Đàn Bá-Nha mấy kẻ thưởng âm?
Bỗng nghe qua khóc trộm lại thương thầm,
Chung-Kỳ chết ném đàn không gảy nữa.
Nhưng nếu con người không
có đạo đức, không có nền tảng Tôn giáo làm điểm tựa cho tâm hồn cũng sẽ cô đơn
lạc lỏng thôi. Đức Hộ-Pháp cũng xác nhận rằng “Nếu giờ phút này thiên-hạ đừng cho
ta dị-đoan, chúng ta có thể nói Đức Chí-Tôn biết tình trạng nhơn-loại đã đến mức
tự diệt nhau nên Ngài đến tạo nền Chơn-giáo của Ngài, tức nhiên ĐẠO CAO-ĐÀI,
cho nhơn-loại gìn-giữ phần hồn đặng định chuẩn-thằng cái sống của họ, đừng cho
nó đến cảnh điên của nó, mà họ đến cảnh điên tức đến cảnh tự diệt. Đức Chí-Tôn đến đặng cho huờn thuốc phục-sinh
đặng cho nhơn-loại sống lại là Đạo-đức tinh-thần của Đức Chí Tôn tạo cho họ, ĐẠO
CAO-ĐÀI chính là cái sống linh-hồn nhơn-loại, bảo vệ tánh mạng tức nhiên Chơn-thần
của họ, đặng họ tránh cái nạn tiêu-diệt”.
&
QUẺ - 097:
Báo đạo thượng lâm, xuân sắc tiên minh,
Tróc tiên khoái
trước, mã thượng hành trình.
報 道 上 林 。春 色 鮮 明 。
捉 鞭 快 著 。馬 上 行 程 。
Dịch nghĩa:
Trên
rừng giục giã tiếng oanh ca
Xuân
sắc vui tươi đến mọi nhà
Hãy kíp vung roi lên chiến mã
Ngựa nhanh đâu ngại quãng đường xa.
Chú giải: Giờ này, chúng
ta sống nơi trái địa-cầu 68 này là cái
nhà, trọng-hệ yêu-ái nhứt của chúng ta, tưởng chắc ai cũng sợ chết lắm, sợ chết
rồi lià khỏi trái địa cầu này đi. Vì cái sợ chết ấy mà cố bám víu vào nó và coi
như một cứu cánh, có lẽ Thần Tiên ở cõi cao kia khi nhìn thấy chúng sanh
lao-nhao, lố-nhố mà thương hại cho cái vô minh, giống như hai trẻ con giành
nhau “một cái tiền lá mít” mà đánh nhau đến u đầu vỡ trán. Vì cái sợ chết mà phải
chịu sa-đọa; nếu như tất cả đều nắm vững cái sống chết thì chắc-chắn nhân-loại
sẽ không khổ-sở như thế này.
&
QUẺ - 098:
Thử nhập thổ huyệt, tối khả an thân
Nhật trung bất kiến, tĩnh dạ tuần hành.
鼠 入 土 穴 。最 可 安 身 。
日 中 不 見。 靜 夜 巡 行 。
Dịch nghĩa:
Chuột ẩn hang sâu đợi có khi
Tấm thân an ổn chẳng còn nghi
Ngày ngày lẫn khuất tìm đâu thấy
Đêm đến lần ra có ngại gì.
Chú giải: Chuột vào hang tự thấy yên ổn, giống như ếch ngồi đáy giếng xem trời bằng vung. Người cố bám víu vào nghiệt cảnh
này mà bình an vì của cải, sự nghiệp. Phải quả-quyết rằng trong càn khôn vũ-trụ
này, cái địa-cầu 68 này là hạng chót, hạng khổ-não nhứt nơi mặt địa-cầu; như vậy
kiếp sanh nơi mặt địa-cầu này không phải đáng cho chúng ta lưu-luyến; nhưng thử
hỏi chúng ta đến đây để làm gì, mà khi vừa đến rồi thì ôm trọn cái oan-khiên;
nào danh, nào lợi, nào tình; không dám bỏ sót một món nào hết. Thử hỏi có vô-lý
không ? Nếu tất cả chúng ta đều thấy rằng
đó là chuyện vô-lý thì chi bằng quẳng
quách nó đi cho rồi, tội gì tranh giành từ một cái nút chai, một mảnh đất hẹp,
một bước chân trên cát? Nhơn-loại muốn sống thanh-bình mà chính mình thì cứ gây
chiến tranh mãi thì làm sao có bóng thanh bình xuất hiện. Các nước gọi là siêu
cường, mà thật ra chẳng “cường” chút nào hết, trái lại phải gọi là “siêu nhược”
thì đúng hơn! .
Thi văn dạy:
Đạo CAO-ĐÀI tá thế xuống phàm-gian,
Bạch-Ngọc, Huỳnh-Kim cũng chẳng màng
Chìu lụy đòi phen xem quá tục,
Nghĩ không đổ lụy phải cười khan.
Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy.
&
QUẺ - 099:
Đả khởi bình sinh chí, Tây Nam hảo khứ du,
Yêu triền nhập vạn quán, Kỵ hạc thướng Dương châu.
打 起 平 生 志 。西 南 好 去 遊 。
腰 纏 十 萬 貫 。騎 鶴 上 楊 州
Dịch nghĩa:
Đề cao chí khí bình sinh,
Tây Nam theo hướng thoả tình ước mong
Trong lưng tiền bạc đã không,
Dương châu cảnh đẹp thẳng dong hạc vàng.
Chú giải: Nếu nói về hướng
Tây Nam là hướng của quẻ Càn trong Bát Quái Cao Đài. Đúng như lời tiên-tri
trong quyển “Giác mê-ca” mà tác-giả là một Đạo-gia có ghi lại:
Hữu duyên mới gặp Tam-kỳ Phổ-độ
Muôn đời còn tử-phủ nêu danh,
Ba ngàn công-quả đặng viên thành,
Mới đặng Thiên-thơ chiếu-triệu.
Đoạn văn thơ này có mục-đích
báo cho nhân-loại biết trước rằng chỉ có người hữu-duyên mới gặp được Tam-Kỳ Phổ-Độ,
hầu do theo chơn-lý Chánh-truyền ấy mà làm phương thoát tục mới mong trở về
ngôi xưa vị cũ mà cởi bỏ cái kiếp trần-ai nặng nợ này. Điểm tới đích đó là Niết-Bàn,
Cao-Đài nói là cảnh Thiêng-liêng Hằng sống.
&
QUẺ - 100:
Hỉ hỉ hỉ, chung phòng bỉ,
hoạch đắc ly long Hàm hạ châu, hốt nhiên thất khước, hoàn tại thuỷ lý.
喜 喜 喜 終 防 否。 獲 得 驪 龍 頜 下 珠。
忽 然 失 卻 。 還在 水 裏。
Dịch nghĩa:
Niềm vui đã quá mực lường,
Hãy nên phòng việc bất thường xảy ra
Ngọc châu hàm ngựa sẵn mà,
Thình lình châu lại chìm sa biển hồ.
Chú giải: Cả thế giới đều
xem nước Mỹ là đứng đầu thế giới gọi là
văn-minh vật chất đủ đầy, là niềm ước mơ của nhân loại, thế mà chẳng có
văn-minh chút nào. Vì Ỷ mạnh đem quân đi đàn áp nước nhỏ, làm hại đến nền hoà-bình
của các nước đàn em, rồi cứ thế xua quân thẳng tiến: hại người rồi Trời hại, lẽ
nào hơn ? Nếu rủi thời ai là tác-nhân gây nên mấy trận bão dữ-dội ở nước Mỹ chắc
Tổng-Thống Mỹ sẽ treo giải mấy chục triệu đô-la để bắt cho được “tên khủng bố”;
đằng này “ông trời” ra tay khủng-bố thì hết đường chạy chối. Hãy có niềm tin hứa-hẹn
của Tam-Kỳ Phổ-Độ đã đến, để ứng hiệp:
“Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chiếu theo luật Thiên
đình, Hội Tam-giáo mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn-sanh bước lên
con đường Cực-Lạc tránh khỏi đoạ luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn dân-sanh,
làm cho hoàn-toàn trách-nhiệm nặng-nề của Đấng làm người, về bực nhơn-phẩm ở cõi
trần-ai khốn-đốn này”.
&
QUẺ - 101:
Quốc hữu hiền sĩ, thị vô nịnh thần,
can qua bất dụng, thường hưởng thái bình.
國 有 賢 士 。是 無 佞 臣 。
干 戈 不 用 。常 享 太 平 。
Dịch
nghĩa:
Nước
nhà sở cậy đấng anh minh
Diệt
kẻ nịnh thần rạng vẻ linh
Nghiệp
quả binh đao đâu vướng bận
Dân an quốc thới hưởng thanh bình.
Chú giải: Xưa nay không thời nào vắng mặt lũ
nịnh thần, cũng như không đâu mà thiếu rác, chỉ duy nơi làm điểm cho khách quốc
tế tới nhìn cho ra vẻ sang trọng thì mới
không thấy rác bên ngoài, nhưng coi chừng khuất bên
trong. Một thời đại nhiều rác đến dân chúng phải kêu la!..
Bên cạnh đó về tâm linh
“Những cơ-quan và những hành vi hiện-tượng của các Tôn-giáo đương-nhiên ngày
nay như dường biến thành cổ-vật, nên đã mất cái hay để giúp đời tự-trị, tự
giác, tâm hồn thiếu nơi an-ủi, tư-tưởng mất pháp chuẩn thằng, trí thức không
phù hành-động, biểu sao đời không trở nên một trường náo-nhiệt, rắc-rối, khó
khăn, rồi giục cho cả nhơn sanh dong ruổi trên con đường duy-vật mà quên hẳn
cái quyền vi-chủ của trí-thức tinh thần “.
&
QUẺ - 102:
Thái lai bỉ dĩ cực, chư sự
mạc ưu tâm, đãn tu bồi nghĩa nguyên phúc, tố ta hảo sự, hành ta phương tiện, nhứt
điểm đan linh độc đắc chân.
泰 來 否 已 極 。諸 事 莫 憂 心 。但 須 培 義 元 福 。做 些 好 事 行 些 方 便 。一 點丹 靈 獨 得 真
Dịch nghĩa:
Sự lành vừa đến hoạ tiêu tan
Mọi việc đâu còn vướng bận tâm
Thi nghĩa đắp bồi nền âm đức
Người vui, lòng toại lý mầu thâm.
Chú giải: “Ôi, thử nghĩ
cái ngày nào trí-thức tinh-thần đã tiều tụy, thì cái lương-tri, lương-năng cũng
do đấy mà tiêu-tàn, thì con người đứng giữa cõi trần-hoàn này phải trở nên bao
nã ? Tưởng lại, tương-lai của Đạo Cao-Đài do nơi cái sở hành và cái tư-tưởng
cao-thượng của nó, ngày nay nó có thể hứa với nhơn-sanh rằng: một ngày nào
chúng ta sẽ hưởng điều hạnh-phúc ấy”
&
QUẺ - 103:
Dân lạc nghiệp, quan lại
thanh, ủng cơ chi thế,
phục kiến vu kim, cáo chư
nhân, thiên thu hồng nghiệp, phù thử vọng minh quân.
民 樂 業 官 吏 清 。壅 基 之 世 。復 見 于 今。
告 諸 人 千 秋 鴻 業。 扶 此 望 明 君。
Dịch nghĩa:
Quang minh dân chúng âu ca
Việc đời đã được thái hoà ung dung
Ngày nay sự thế vuông tròn
Nước giàu chúa Thánh đâu còn ước mơ.
Chú giải: Quả thật, “Đức Chí-Tôn hoằng-khai Đại-Đạo Tam
Kỳ Phổ-Độ tức là thành lập một trường công-quả tại thế gian này để cho tất cả
nhơn-sanh thi đua lên nấc thang tiến-hóa tột phẩm thiêng-liêng, cao thấp tùy
nơi sở hành của mỗi người muốn cùng chẳng muốn”.
Thi văn dạy Đạo
Nghi-nan chớ chác lấy lòng phàm.
Hễ biết Đạo-mầu mới biết ham.
Mắt thịt thấy Trời coi thấp chủm.
Hỏi ai cho thấu Đạo khôn tầm.
&
QUẺ - 104:
An như Thái sơn, ổn như bàn thạch,
phóng đảm tiền hành, trung thông ngoại trực.
安 如 泰 山 。穩 如 盤 石 。
放 膽 前 行 。中 通 外 直 。
Dịch
nghĩa:
Yên
như non Thái vững Thạch bàn
Phóng dạ bền gan quyết thẳng đàng
Chí hùng há dễ hòng lay chuyển
Ngoài thẳng trong thông thế mới an.
Chú giải: Núi Thái là một trong năm ngọn núi lớn nhứt tại Trung Hoa, là Ngũ
Nhạc. Sự kiên cố đó làm vững niềm tin về vật chất; nhưng người Việt Nam cũng có niềm tin ở tinh thần. Thầy dạy:“Con nghe: nơi
nào Thầy ngự, thì nơi ấy là Thánh Địa. Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành,
thăng lên chức Văn-Xương vào trấn-nhậm làng Hiệp Ninh dạy dỗ dân vô Đạo. Thầy
ban trọn quyền thưởng phạt đặng răn làng ấy cho đến ngày biết ăn-năn cải-hóa …Vậy
thì làng Long-Thành các con khá an lòng. “Còn Tòa-Thánh thì Thầy muốn cho có nhơn-lực
hiệp cùng Thiên-ý, ấy là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước.”
&
QUẺ - 105:
Nguyệt trung hữu đan quế,
nhân chung phan bất trước, vân thê túc hạ sinh, thử tế hảo lạc cước.
月 中 有 丹 桂 。人 終 攀 不 著。
雲 棲 足 下 生。 此 際 好 落 腳。
Dịch nghĩa:
Có nhành đan quế giữa trăng tròn
Ai kẻ dừng chân trước cửa son
Thang mây đặt sẵn bên chân đó
Cất bước tiến lên chí chẳng sờn.
Chú giải: Câu chuyện cung trăng và chú Cuội cũng làm
tươi nét văn chương Việt Nam thật tình tứ, thật yêu kiều, nhưng chưa thoát khỏi:
Cái vòng danh lợi cong cong,
Kẻ hòng ra khỏi người mong chen vào”
Gẫm lại, người đã hiểu đời
mới biết ngán cho đời, kẻ đã lăn lóc trên nẻo họan đường danh mới biết chán đường
danh nẻo lợi . Thi văn dạy Đạo:
Đức cao thì mới đáng nên người,
Đức thắng tài kia đã mấy mươi
Có đức có
tài giềng đạo trọng.
Không tài không đức hóa không thời
&
QUẺ - 106:
Thiên gian nhứt cô nhạn. Liệu lịch thán ly quần.
Thí vấn tri quân giả. Nhi kim hữu kỷ nhân.
天 間 一 孤 雁 。嘹 嚦 歎 離 群。
試 問 知 君 者。而 今 有 幾 人。
Dịch nghĩa:
Khung trời cánh nhạn bơ vơ,
Gọi đàn khắc khoải phút giờ kêu thương
Ai người quân tử bốn phương ?
Trong trần mấy kẻ cùng phường tri âm?
Chú giải: Chim nhạn ngày
xưa thường hay mang tin tức từ nơi này đến nơi khác. Nếu có người gởi thư đi thì
ắt có người trông tin. Nhưng cái niềm khao khát mong chờ của nhân loại là muốn
có một nền hòa bình thực sư, công bằng và Bác ái. Hôm nay Đạo Cao Đài đang đem
tin vui tới.
Thầy dạy: “Từ Thầy đến lập
Đạo cho các con đến giờ Thầy chưa hề một mình chuyên-quyền bao giờ. Các con lựa
chọn nơi nào mà Hội-Thánh vừa lòng ắt đẹp lòng Thầy. Các con phải chung hiệp
nhau mà lo cho hoàn-toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây-Ninh đây mà thôi; Các
con đã hiểu Thánh-Ý Thầy phải cần-kiệm, mỗi sự chi vì phương-tiện mà thôi
” (TNI/98) Thi văn dạy Đạo:
Tìm Đạo mà chi khá hỏi mình ?
Bến mê mới vững vớt quần sanh
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm
Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn
Tâm chánh nương nhau gìn lối chánh
Lòng thành nhờ lẫn lóng hơi thanh
Thiên cơ tuy hẳn nêu trường khảo
Lướt khỏi, ngàn thu quả đắc thành.
&
QUẺ - 107:
Hồng diệp vô nhan sắc. Điêu linh nhứt dạ phong,
Lân kê tỉnh ngọ mộng. Tâm sự tổng thành không.
紅 葉 無 顏 色 。凋 零 一 夜 風 。
鄰 雞 醒 午 夢 。心 事 總 成 空 。
Dịch nghĩa:
Lá đổ không nhan sắc
Gió xuân phận lạc loài
Tỉnh giấc gà trưa vang tiếng gáy,
Một bầu tâm sự tỏ cùng ai.
Chú giải: Tâm sự đầy tràn
nhưng không người chia sẻ. Một ước mơ to lớn mà chửa đạt thành.Chỉ có Đức Thượng
Đế mới rõ được nỗi băn khoăn, mong đợi đó nên Thầy nói:
“Thầy có hội chư Tiên Phật
mà thương nghị về sự lập Đạo tại Đại Nam Việt-Quốc. Các con khá nghe lời Thầy dặn,
chớ khá nghịch lẫn nhau, phải đồng một lòng một dạ mà lo chấn-hưng đạo-đức, tuy
bây giờ phân chia nhiều nhánh, nhiều chi chớ ngày sau cũng có Một mà thôi. Các
con dầu bên nào cũng thương nhau như con một nhà chớ khá ganh gỗ chê bai nhau”
(TNI/110)
&
QUẺ - 108:
Sự như ma. Lý đa thác.Yểm vân trung
Không thành đảm các.
事 如 麻。 理 多 錯 。掩 雲 中。 空 成 擔 擱。
Dịch nghĩa:
Sự tình bối rối như gai.
Cố tình gỡ rối chỉ hoài công thôi
Trời trong lẫn khuất mây rồi,
Có điều ngăn trở ắt trời định phân.
Chú giải: Ma là cây gai, gai cũng làm trở ngại cho bước đường đi. Từ ngữ này phát sinh thêm là những chướng ngại, ma quái, có
trí khôn như người, làm cản trở cho bước đường tu. Thế nên người tu hành phải
ngừa lắm mới được.
Thầy dạy: “Vì mỗi việc
khó-khăn trắc-trở là lúc sơ khai, vậy Thầy khuyên các con ráng thành tâm hành Đạo,
mà Đạo không phải giữ bằng lỗ miệng đâu” (TNI/71)
Thi Văn Dạy Đạo:
Oai linh của đạo sấm rền Trời.
Thương kẻ có tròng
lại chẳng ngươi
Một trái điạ-cầu chưa mấy nặng.
Nâng luôn thế-giới một tay dời.
&
QUẺ - 109:
Vật thượng cựu triệt. Cam giá tân xa,
Đông Tây Nam Bắc. Ổn bộ khang cù.
勿 上 舊 轍 。甘 駕 新 車 。
東 西 南 北 。穩 步 康 衢 。
Dịch nghĩa:
Lối cũ đừng theo luống uổng công,
Ngự lên xe mới tất an lòng
Đông, Tây, Nam, Bắc đều thư thả
Vững bước đường dài bốn mặt thông.
Chú giải: Lối cũ của tâm linh là chỉ những nền đạo đã có từ xưa đến giờ. Phần nhiều các Đạo mà tiền nhân đã theo đều lấy theo văn hóa của
các nước mà vị Giáo chủ mở Đạo nên người theo tu học rất khó mà thấu triệt được,
như Đạo Phật xuất phát từ Ấn Độ, Đạo Nho Đạo Lão phát xuất từ Trung hoa, cho
nên ngoài triết lý cao siêu còn nạn ngôn ngữ bất đồng. Do vậy mà hôm nay sự tu
hành của các vị có công mà không thành đạt. Thầy mới đến Việt Nam mở cho mối Đạo
nhà, dùng Quốc ngữ làm chánh tự, thật hạnh phúc vô cùng, tất cả những trở ngại
giờ này không còn nữa
Thầy dạy rằng: “Con ôi!
trong anh em của con phần dốt nhiều hơn phần hay chữ, đứa ám muội đông hơn đứa
thông-minh; Thầy đến chăm-nom dạy-dỗ đứa ngu-dốt hơn là đứa hay giỏi; thà là đứa
sáng khôn quá hiểu mà chê Thầy hơn là đứa dốt nghe Đạo Thầy không rõ lý. Thầy cười rồi tiếp nữa rằng: Thầy muốn
Đạo của Thầy làm thế nào cho trẻ con lên ba tuổi cũng hiểu đặng, con nghĩ sao
con?“
&
QUẺ - 110
Dạ mộng bị thử, đốc tỉnh lai bất kiến nhân.
Chung tiêu phế tẩm. Trực đáo thiên minh.
夜 夢 被 鼠 。篤 醒 來 不 見 人 。
終 宵 廢 寢 。直 到 天 明。
Dịch nghĩa:
Nằm mơ chuột cắn chăn bông,
Tỉnh ra mới biết người không vắng rồi
Nghĩ suy trằn trọc đêm dài,
Những mong trời sáng một ngày mới hơn.
Chú giải: Điềm chuột cắn
chăn bông, chỉ sự không lành, tức nhiên phải quên đi dĩ vãng không tốt. Sự trằn
trọc là phải nhiều suy nghĩ, mong “ngày mai trời lại sáng”. Hình ảnh này một người
mơ bóng tự do. Bóng tự do ấy không ngoài lẽ Đạo hợp với tình Đời. Sự tình này
không chỉ riêng một người, mà cả dân tộc. Từ đó Thầy mới đem Đạo cứu đời: “Thầy
khuyên các con nhớ hoài rằng: Thầy của các con là ông Thầy Trời; nên biết một ổng mà thôi,
thì đủ, nghe à !” Thi văn dạy Đạo:
Rẫy bái thà quen thú dốt mình.
Thà
là giữa chợ lắm đua tranh.
Nên
hư một kiếp nhờ gần-gũi.
Kẻ thiện học gương đặng sửa mình
&
QUẺ - 111:
Thu sương túc, hạ nhựt
viêm, tân hoa tiên liễu cựu hoa yêm. Thế tình khan lãnh noãn, phùng giả bất tu
ngôn.
秋 霜 肅 夏 日 炎 。新 花 鮮 了 舊 花 淹 。
世 情 看 冷 暖 。逢 者 不 須 言。
Dịch nghĩa:
Sương thu nặng, nắng hạ nồng.
Hoa tươi hé nhuỵ thay phần xác xơ
Việc đời ấm lạnh đâu ngờ,
Luận bàn chi nữa biết nhờ cậy ai.
Chú giải: Điềm lành chưa đến,
ý mong chờ, tình đời còn đen bạc. Thế thái mà, luận bàn mãi ũng vậy thôi. Chi bằng
vui với Đạo, là một điểm tựa bền bĩ nhứt cho đời người.
Ông Thầy Trời dạy: “Thầy vẫn
đã thường nói rằng, Thầy đến lập cho các con một nền chơn Đạo tức là mỗi sự chi
dối trá chẳng phải là Thầy. Thầy đến là chủ ý để dạy cả nhơn sanh đặng Hòa Bình
chớ chẳng phải đến đặng giục nghịch lẫn nhau. Thầy lại thường nói rằng sự sang
trọng vinh hiển của các con chẳng phải nơi thế gian này”.
&
QUẺ - 112:
Vị triển anh hùng chí, Trì khu bất đạn lao.
Cảm tương hưu cữu bốc. Tây bắc đoạt tiền tiêu.
未 展 英 雄 志 。馳 驅 不 憚 勞。
敢 將 休 咎 。西 北 奪 前 標 。
Dịch nghĩa:
Chí hùng chưa phát hiện ra,
Gian lao xuôi ngược phong ba không sờn
Rủi may lẽ ứng thiệt hơn,
Vẻ vang cờ gấm ghi ơn công đầu.
Chú giải: Vận thời trước
chưa thông, nhưng chí cả quyết thắng. Tận nhơn lực tri thiên mạng. Thành công sẽ
đến.
Thầy cũng cho biết lòng thương
của Thầy đã dành cho sự hiếu đạo của Việt-Nam rất nhiều:“Xưa sanh linh lắm lần
hy sinh vì Đạo, song chẳng đặng ân tứ cho bằng các Môn đệ Thầy ngày nay. Các
con còn hờn nữa mà ngán lòng dừng bước. Càng khổ hạnh, càng thương tâm thì lòng
càng nôn-nóng. Khổ hạnh vì mấy chục triệu sinh linh thì cái khổ ấy có nên tiếc
chăng?”
&
QUẺ - 113:
A nhiễm trầm trầm, chung nhựt hôn hôn.
Lôi môn nhứt chấn. Thể kiện thân khinh.
痾 染 沉 沉 。終 日 昏 昏 。
雷 門 一 震 。體 健 身 輕 。
Dịch
nghĩa:
Bịnh
tình trầm trọng. Hỗn loạn tinh thần
Cửa
lôi vang động. Thân thể an lành.
Chú giải: Trước thì rối rắm trong lòng, nhiều nỗi lo âu, nhưng gắng chí, Trời không phụ lòng người. Ắt có duyên .
Thi văn dạy Đạo:
Động đình trở gót lại ngôi xưa
Tuổi ấy qui y nhắm đã
vừa
Sân
hoạn cùng đường gương ngọc rạng
Nguồn
đào để bước mảnh xuân thưa
Nhàn
chiều nhặt thúc đời vay trả
Non
xế quanh co nẻo lọc lừa
Khổ
hạnh để lòng công quả gắng
Lánh
trần chi nệ nỗi cay chua.
&
QUẺ - 114:
Dị
phi dị , nan phi nan. Hốt địa khởi ba lan.
Hoan tiếu lưỡng tam phan.
易 非 易。 難 非 難 。
忽 地 起 波 瀾。 歡 笑 兩 三 番 。
Dịch
nghĩa:
Khó, dễ không phân được lẽ đồng
Đất bằng sóng dậy lý cùng thông
Cực suy đến thạnh cơ trời định
Vui vẻ mấy phen thoả tấm lòng.
Chú giải: Khó dễ là chuyện thường xảy ra, chỉ duy hỏi lại
tâm mình có muốn đến đích không ? Đường đi khó không
khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Chuyện Đời đã vậy thì chuyện Đạo cũng vậy.
Thầy đã dạy: Thầy chỉ một
lòng mơ ước cho các con biết Thương-Yêu nhau trong Thánh-Đức của Thầy, sự
Thương-Yêu là chìa khóa mở Tam-Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế-Giới và Bạch-Ngọc-Kinh.
Kẻ nào ghét sự Thương-Yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa luân-hồi. Có câu này nữa “Mọi
sự khó-khăn Thầy gánh vác, chỉ cậy các con Thương-Yêu, gắng công độ-rỗi”
(TNII/43)
&
QUẺ - 115:
Lộ bất thông, môn bế tắc.
Cẩn thận đề phòng. Vân tàng nguyệt hắc.
路 不 通 。門 閉 塞 。
謹 慎 提 防。 雲 藏 月 黑 。
Dịch nghĩa:
Đường không thông lối ra vào,
Cửa còn đóng kín làm sao thấu tình ?
Gìn lòng dè dặt chớ khinh,
Trăng mờ vì khuất bóng hình trong mây .
Chú giải: Phải biết sự đời
bao giờ vẫn thế: vinh nhục, buồn vui, đừng chấp nê, đừng ngao ngán. Có đủ ý chí
thì vượt qua. Trăng đã lên rồi chỉ còn chút áng mây vương, chờ cơn gió qua, mây
sáng soi muôn dặm trường, ấy cũng là khúc nhạc lòng réo rắt hòa với nhạc của vũ
trụ.
Đức Giáo Chủ cho biết rằng:
“Ngộ-nghĩnh thay! Giờ phút này Qua cho mấy Em biết, chỉ có dân-tộc Việt-Nam về
văn-hóa Nho-Tông của chúng ta mới có đặng một cái Nhạc là đều do nơi âm thanh
và điều Qua đương nói với mấy Em, cái kinh-dinh của các sắc dân nơi mặt địa-cầu
này, cả các quốc-dân xã hội đều nhận điều đó. Nước Trung-Hoa hay các sắc dân chịu
ảnh-hưởng cái văn-minh tối cổ của Nho-Tông chúng ta mới có Nhạc, âm-thanh ấy là
Lễ.”
&
QUẺ - 116:
Oa giác thằng đầu lợi, nhi kim dĩ biến thông.
Thảo đầu nhân tiếu ngữ. Nghi thuỷ bất nghi
chung.
蝸 角 繩 頭 利 。而 今 已 變 通 。
草 頭 人 笑 汝。 宜 始 不 宜 終 。
Dịch
nghĩa:
Lợi lộc nhỏ nhen giữa buổi đầu,
Về sau thông đạt có xa đâu ?
Phất phơ ngọn cỏ người đàm tiếu
Trước thành sau hạn lý cao sâu.
Chú giải: Một chút tia sáng ban đầu như vậy cũng đem lại niềm tin. Níu lấy
tia hy vọng đó để tiến đến thành công. Người xưa cũng vậy mà nay ta
cũng vậy có khác gì đâu ! Việc nào cũng xuất
phát tự trong lòng, vậy nên biết, qua lời Đấng Giáo Chủ dạy Đạo quan trọng này
cho nhân loại:
“Giờ phút này Qua giao cho mấy Em một sứ-mạng làm sao cho thiên-hạ nghe ống
tiêu Thiêng-liêng đặng tinh-thần nòi giống mấy em đứng dậy định tương-lai vinh
quang cho mình. Với cái giọng ngọt dịu của mâý em, làm cho thiên-hạ thức-tỉnh,
diệt tiêu bớt hung-hăng bạo ngược. Trái lại đem đến một con đường hòa-huỡn, cao
quí, tốt đẹp, êm-dịu; đem lại cái đạo-đức tinh-thần chiến thắng để cứu-vãn sanh mạng lòai người. Bởi giờ phút này họ đang đi đến con đường diệt-vong mà chớ!”.
&
QUẺ - 117:
Châu ngọc tẩu bàn trung,
điền viên định phụ phong . hưu ngôn mưu vị toại, thử khứ tiện hanh thông.
珠 玉 走 盤 中。 田 園 定 阜 豐 。
休 言 謀 未 遂 。 此 去 便 亨 通。
Dịch nghĩa:
Châu ngọc chảy trong bàn
Vườn ruộng ắt phong quang
Đừng nói lời nghi ngại.
Phen này ắt vẻ vang.
Chú giải: Niềm vui tràn ngập
trong lòng, tức là nhạc lòng cùng hòa với nhạc của vũ trụ. Dù thấy trước sự vẻ
vang, nhưng đừng lờn, đừng ngạo mạn, giữ vững đức tin. Cũng như người Đạo phải
biết tại làm sao Đạo Cao-Đài dùng âm thinh sắc tướng. Phải có ý nghĩa quan trọng
lắm đó:
“Từ thử Đạo Cao Đài dùng Lễ-Nhạc
và ai cũng cho âm thinh sắc tướng là tà mị, mà căn bản của Đạo Nho là Lễ Nhạc,
mà chính Đạo Tam-Kỳ là Nho-Tông Chuyển Thế
thì phải truy tầm nguyên lý của nó mà xác nhận cho đúng nghĩa là thế
nào? Đòi phen chúng ta không hiểu được cho uyên thâm khi dâng lễ cho Chí Tôn
lúc “Nhạc Tấu Quân Thiên”, hết lớp trống qua lớp đờn bảy bài thì lâu quá có khi
phải chồn chân rồi nản chí, chính Bần Đạo cũng vậy, vì nghĩ rằng Chí Tôn tư-vị
quôc dân Việt-Nam nên tiền định chi chi cũng làm gương mẫu cho toàn Đại Đồng Thế-Giới
mà có Lễ Nhạc này luôn luôn khi dâng lễ, thì ý nghĩa ấy ắt cao trọng lắm là phải.”
&
QUẺ - 118:
Nguyệt dĩ minh, hoa tối phát, sự du du, vô bất hợp.
月 已 明 花 最 發。 事 悠 悠 無 不 合。
Dịch nghĩa:
Vầng trăng chiếu sáng mênh mông !
Hoa tươi đua nở còn lồng hương trinh.
Nghĩ suy thêm lắm sự tình,
Thảy đều hoà hợp, tự mình hân hoan.
Chú giải: Cuộc đời tươi đẹp
như hoa nở, như trăng lên. Người chỉ mong có thế, nhưng cái vui vật chất dầu
bao nhiêu đi nữa cũng phải tương xứng với niềm vui tinh thần thì mới toại và bền
bĩ, lâu dài. Đừng quên ! Đừng quên!
Đức Hô-Pháp cũng cho rằng:
“Chính cái đạo-đức tinh thần là của cải số một. Cái của cải thiêng-liêng quí
báu nó dành sẵn trong tay của mọi người, mà ít ai có để ý đến, chúng ta chịu
nghèo là do nơi mù-quáng không ngó thấy mà thôi. Ấy là cái khổ tâm của bạn hữu-hình.
Nếu cái khổ tâm của bạn hữu-hình chúng ta
được chấm dứt thì chúng ta đã đoạt
được nơi mặt thế này đó vậy. Hỏi học Đạo-đức
nơi đâu mà có ? Nếu không ở vào cửa Đạo thì không bao giờ tạo đức được,
nên ngày nay Đức Chí-Tôn lập Đạo để cho tất cả chúng-sanh được lập Đức nơi cửa
Đạo này đó vậy. Chỉ có Đạo Cao-Đài để tạo Đức cho cả triệu người đặng hưởng, mà
Đức ấy của Đạo Cao-Đài làm thì không bao giờ mất. Tôi xin bảo-đảm không bao giờ
mất ”
&
QUẺ - 119:
Mông lung thu nguyệt ánh châu môn,
Lâm ngoại điểu thanh tự viễn tăng,
Tự hữu quý nhân lai tiếp dẫn.
Hà tu xảo ngữ tự lưu oanh.
朦 朧 秋 月 映 珠 門 。林 外 鳥 聲 寺 遠 僧。
自 有 貴 人 來 接 引 。何 須 巧 語 似 流 鶯。
Dịch nghĩa:
Mơ hồ trăng chiếu cửa son,
Chùa tầng vọng tiếng véo von chim rừng.
Qúi nhân tiếp dẫn khá mừng,
Cần gì trau chuốt lời thường giọng oanh.
Chú giải: Người đạo đức
luôn hưởng ứng với hương vị đạo đức, một tiếng chuông ngân cũng nhắc nhớ nguồn
đào thuở nọ. Tiếng chim rừng cũng gợi niềm u-tịch của người tu. Phải biết cho rõ
thời kỳ của Đại Đạo trọng yếu lắm: “Thầy đến đặng hườn nguyên cái chơn Thần cho
các con đắc Đạo. Con hiểu “Thần Cư Tại Nhãn” bố-trí cho chư đạo-hữu con hiểu rõ
nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.“Thầy khuyên con mỗi phen nói Đạo, hằng
nhớ đến danh Thầy”.
&
QUẺ - 120:
Sự vị kiến, tâm bất an. Nghi lự cửu. Thuỷ an
nhiên.
事 未 見 心 不 安 。疑 慮 久 始 安 然。
Dịch
nghĩa:
Việc chưa thấy rõ xa gần,
Tâm không an định, còn ngần ngại lo
Nghĩ suy toan tính liệu dò
Sau rồi tất sẽ yên cho toại lòng.
Chú giải: Lo nghĩ là chuyện tất nhiên: có lo mới có nghĩ, có nghĩ mới giải
quyết được mọi việc trước mắt và còn định quyết cả tương lai. Nhưng phải đạt
cho được mục đích làm nên cho mình mà còn có lợi cho người nữa. Đừng ích kỷ hại nhân mà ông Trời bớt tuổi đó! Hãy nhớ “thiện ác
đáo đầu chung hữu báo” Tức nhiên nó như sợi dây thung càng kéo ra xa khi buông
càng bật mạnh trở lại mình.
Đây cũng là đạt được sự
minh tâm kiến tánh hay là hồi quang phản chiếu
là đạt Đạo đó. Thi Văn dạy Đạo:
Lễ kinh đã dạy kính nhường người
Cái thói kiêu-căng chẳng khó noi
Bậc Thánh Châu-Công xưa vẹn Đức
Nếu kiêu đời chẳng gọi nên Người !
&
QUẺ - 121:
Hư danh hư vị cửu trầm trầm.
Lộc mã đương cầu vị kiến chân.
Nhứt phiến thái vân thu phục chí.
Khứ niên phong vật nhứt thời tân.
虛 名 虛 位 久 沉 沉。 祿 馬 當 求 未 見 真 。
一 片 彩 雲 秋 復 至 。去 年 風 物 一 時 新。
Dịch nghĩa:
Danh vị chìm sâu tận tháng ngày
Thực danh cầu mãi luống công hoài
Vầng trăng ngũ sắc ngày thu đến
Phong vật năm xưa vẻ mới thay.
Chú giải: Danh vị của đời
do người đời trao tặng có thể bị mất, người ta cho được lấy lại được, không bằng
danh vị thiêng liêng không bao giờ mất, vì đó là của cải số một của mỗi người đã tích lũy tự ngàn đời. Ngày
nay Chí-Tôn mở Đạo để trao lại của cải ấy cho từng người, không ngoài con đường
đạo đức, ấy là con đường đi đến vĩnh cữu đó!
“Nay Đức Chí-Tôn khai Đại-Đạo
đem chơn Thần huờn nguyên cùng Tinh Khí là cơ mầu-nhiệm cho chúng sanh đắc Đạo.
Ai biết noi theo chơn-truyền luật pháp giữ trai kỳ 10 ngày trở lên đến ngày
công viên quả mãn đặng thọ truyền bửu pháp, chơn Thần siêu thăng. Trong buổi Hạ
nguơn chuyển thế Đức Chí-Tôn khai Đạo dạy thờ Thiên Nhãn là thờ chơn-thần của
Chí Linh cho hiệp cùng Vạn linh tức là thờ ngôi Thái Cực, là thờ Thầy vậy”.
&
QUẺ - 122:
Chỉ chỉ chỉ, hữu chung hữu thuỷ.
Tự nguyệt như hoa, thủ thành nhi dĩ.
止 止 止 有 終 有 始 。似 月 如 花 守 成 而 已。
Dịch nghĩa:
Chậm chậm nghĩ suy việc trước sau
Trăng hoa hoà hợp cảm thông nhau
Giữ gìn chung thuỷ câu tương hội
Thành quả tự nhiên đợi phải cầu?
Chú giải: Chung là điểm cuối,
thủy là khởi đầu. Có đầu có cuối đủ cả thủy chung là điều mà thế nhân cầu ước.
Nhưng xem chừng lại coi có đủ cả tinh thần và vật chất mới bền vững đó. Lo
ngoài quên trong, lo trong quên ngoài, rốt lại như kẻ ra đường có quần mà không
áo, hoặc có áo mà quên quần. Khó coi lắm vậy.!
Ngày nay Đạo Cao Đài đến:
Vì Thần là khiếm khuyết của
cơ mầu nhiệm. Nay Chí-Tôn đến cho huờn nguyên Tam bửu để đắc Đạo”. Thầy dạy:
Rừng thiền nhặt thúc tiếng chuông trưa
Phước gặp về Ta buổi đã vừa
Nẻo hạnh làu soi gương nguyệt thắm
Sân Ngô rạng vẻ cánh thu đưa
Mai tàn tuyết xủ đời thay đổi
Dữ tận hiền thăng khách lọc lừa
Mùi Đạo gắng giồi lòng thiện niệm
Duyên nay tìm lại phẩm ngôi xưa
&
QUẺ - 123:
Minh nguyệt toàn viên, nhan sắc hân nhiên.
Phong vân tương tống, hoà hợp vạn niên.
明 月 全 圓 。顏 色 欣 然 。
風 雲 相 送 。和 合 萬 年 。
Dịch nghĩa:
Vầng trăng đầy đặn sáng trong,
Vui tươi sắc mặt thắm hồng vẻ hoa.
Gió mây đưa tiễn nhau qua,
Muôn năm hoà hợp cảnh nhà hân hoan.
Chú giải: cái cảnh nhàn là
đủ cả mây lành trăng sáng, hoa đẹp, gió trong, còn gì bằng ! Người được vậy, đất
trời cùng được vậy, ắt cảnh thanh bình thật sự cũng đến rồi đó. Nhưng buồn thay
cho nhân loại còn điêu linh, tiếng khóc than chưa dứt, nỡ nào mà toại hưởng một
mình sao ? Có gì là thú vị? Nay, Đạo Cao
Đài đến “Thầy dùng quốc ngữ làm chánh tự” tức là dùng ngôn ngữ Việt-Nam để truyền
bá Đạo sau này xem như là quốc-tế-ngữ. Vậy chữ quốc ngữ hay chữ Việt-Nam là
phương pháp để truyền bá Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, đó là phương “văn dĩ tải Đạo” vậy.
Trong dịp Đức Chí-Tôn nói
chuyện với Hòa Thượng Như-Nhãn, có dạy rằng: “Như-Nhãn Hiền-đồ, Thầy không muốn
nói với con bằng tiếng Hớn-Ngôn vì tiếng An-Nam từ đây Thầy cho là tiếng
Chánh-tự đặng lập Đạo của Thầy; nên buộc
phải nói rõ với con; con đã giúp Thầy gìn-giữ Thích-Đạo nguyên luật từ thử mới
còn đặng như vầy, không thì ra Bàn-môn Tả Đạo rồi”.
Hơn nữa tiếng Việt-Nam hiện
giờ gốc ở tiếng La tinh nên rất thuận tiện cho người Âu-Châu muốn nghiên cứu
kinh sách Cao-Đài, vốn cùng một gốc mà ra nên sự học hỏi sẽ không khó về hình
thức của chữ viết nữa.Vui đi!
&
QUẺ - 124:
Bảo kính thân, chiếu lưỡng nhân,
Tâm trung kết, hợp đồng tâm.
寶 鏡 親 照兩 人 。心 中 結 合 同 心。
Dịch nghĩa:
Gương báu thân tình những mến yêu.
Chung soi hình ảnh sánh đôi người
Tâm hoà kết chặt tình ưu ái
Ý hợp lòng vui điểm nụ cười.
Chú giải: Được gương báu
mà soi chung cho cả hai người thì hạnh phúc quá. Cũng như Đời Đạo chung đôi, âm
dương hòa hiệp. Như thế là tốt rồi, nhưng nên nhớ, mình nhìn vào gương trước
người, tức nhiên mình thấy và hiểu trước người, thì phải chiếu lại cho người
khác thấy nữa chứ! Nhứt là mình là người Việt Nam có nhiều hạnh phúc
“Dân Việt-Nam theo thời cơ
thiên-định, tinh-thần rất thông-minh, tài trí, đức hạnh; các hồn linh chuyển kiếp
làm con người trong nước, vì mảnh đất Việt-Nam được coi như là một thí điểm.
Nam phần Việt-Nam là nơi địa huyệt, thích-hợp với sự tiến hóa của các linh-hồn ấy.
Cho nên các linh hồn tốt đẹp, ưu tú khắp nơi hội hiệp tại Nam phần Việt-Nam do
luật trời biến động “nguồn ân thánh triết” lâm phàm sẽ thâu các linh hồn ấy vào
hàng Môn Đệ của Đức Thượng Đế đúng vào địa-cầu này vậy. Quả đúng như lời
tiên-tri của Đức Chí-Tôn về Thượng Nguơn Thánh Đức. Như lời Đức Chí-Tôn dạy:
“Một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc
“Ngày sau làm Chủ
mới là kỳ”
&
QUẺ - 125:
Cư hạ bất thân thượng, nhân tâm dị tán ly,
Sự cơ chung thất nhất, phàm bách tận thành hôi.
居 下 不 親 上 。人 心 易 散 離 。
事 機 終 失 一。凡 百 盡 成 灰。
Dịch nghĩa:
Phận dưới không thông với kẻ trên,
Lòng người chia rẽ khá ưu phiền.
Công việc chung qui không hợp nhất
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét