Khổng Minh Thần Toán - 1 / 6 (Nữ Dịch Giả Nguyên Thủy)

Lời Nói Đầu.
Đây là bản dịch đầu tay trong khi tuổi đời tôi còn rất trẻ. Vừa mới mò mẫm học được một ít Nho-văn, tôi cố tìm một bậc thâm Nho để học hỏi thêm thì được các bạn giới thiệu một bậc túc nho tên MÃ NGUYÊN LƯƠNG, ông là người Trung-Hoa, là một Thiếu tướng Phòng-không của thời Tưởng-Giới-Thạch dưới sự lãnh-đạo của Đức TÔN-DẬT-TIÊN sau Ngài giáng Cơ xưng là Tôn Trung Sơn, đứng vào hàng
Tam Thánh. Ông Mã Nguyên Lương  được Đức Hộ Pháp mời về Toà-Thánh Tây-Ninh ở lại dịch Kinh sách Cao-Đài ra Nho-văn để dùng cho Hội-Thánh Đường-Nhơn, như Kinh Thiên-Đạo và Thế-Đạo, Tân-luật, Pháp-Chánh Truyền …Người được Đức Hộ-Pháp ban cho phẩm Hiền-Tài đầu tiên trong cửa Đạo.
Sự hình thành Dịch-phẩm “KHỔNG-MINH THẦN TOÁN” này tiên khởi là do sự gợi ý của Lão-sư Mã Nguyên-Lương, người đã dày công hướng-dẫn tôi dịch ra thơ văn và chịu khó sửa-chữa từ lời, từ ý một, các lời đoán quẻ trong sách này.

Lẽ ra quyển này có tên là “BÍ BỔN CHƯ CÁT THẦN SỐ” của ông Khổng-Minh Gia-Cát-Lượng sở tác. Người còn có biệt danh là “CHƯ CÁT VÕ HẦU” đời Tam-quốc làm đến chức Thừa-Tướng và cũng là một bậc mưu-thần đời Thục-Hán. Nếu nói đến tài danh Lý-số thì ở Trung-hoa có Khổng-Minh Gia-Cát-Lượng, còn ở Việt Nam có Trạng-Trình Nguyễn-Bỉnh-Khiêm. Cốt tuỷ của  “Khổng-Minh Thần-Toán” là sự thành hình của Dịch mà chính Đức Hộ-Pháp đã giới-thiệu với các “Dân-tộc hiểu biết và tôn-trọng hoà-bình quyển Kinh này…Bần-đạo cảm thấy Kinh này là cả một triết-học Á-đông độc-nhứt vô nhị, mà chính là những Bí-pháp cổ-truyền của Đạo Cao-Đài, một Đạo-giáo Việt-Nam hoàn toàn nảy-sinh ở cái triết-lý hoàn-toàn Á-Đông…”

Tập “KHỔNG-MINH THẦN-TOÁN” này gồm 384 quẻ tức là Bát-Quái thành hình. Bát-Quái có 8 quẻ chánh, biến hoá thành 64 quẻ kép (8x8). Mỗi quẻ có 6 hào, nhân lên (64 x 6 = 384 hào). Thánh Khổng Minh làm quẻ, nên cho thành hình là 384 quẻ đoán. Tuy chỉ có 384 Quẻ mà gồm tóm được cả thảy muôn việc trong Trời đất từ Nho, Y, Lý, Số đến cả Thiên-văn, Địa-lý, Triết-lý nhân sinh không việc gì mà đi ra ngoài vòng biến-dịch, mà cũng không việc gì đi ra khỏi cái ý tại ngôn ngoại của KHỔNG MINH THẦN-TOÁN đã đặt-định.

Bản gốc từ xưa đến giờ được in trong lịch Tàu mỗi năm đều còn nguyên dạng Thần-bí chứ chưa một ai sắp xếp thành quẻ cả. Nếu tính ra cuộc đời Khổng-Minh kể từ (181-234) cho đến nay có hơn 1.767 năm mà cái bí-mật vẫn còn trong vòng bí mật. Có nghĩa là số quẻ này còn tàng-ẩn dưới hình-thức chữ số, nghĩa là tổng-cộng có 12.700 chữ biệt-lập nhau, mỗi chữ có một số tương-ứng với nó xếp thành khuôn, mỗi khuôn có 100 chữ. Người muốn bói phải trải qua nhiều giai-đoạn mới tìm được một quẻ thích-hợp. Đầu tiên người muốn xin quẻ phải viết ba chữ Hán, rồi đếm nét mỗi chữ để tìm ra con số.

Thí-dụ: Viết 3 chữ Cầu tài vận . Ba chữ này xếp hàng ngang thì chữ cầu đứng vào hàng trăm, chữ tài đứng hàng chục và chữ vận đứng vào hàng đơn-vị. Đếm nét của mỗi chữ, nếu chữ nào có số nét trên 9 thì phải khử 9 đi tức là bằng số 0.
            Cầu             tài                vận
             (7 n)               (9 n)                (11nét - 9= 2 n)

            Như thế, ba chữ trên sẽ thành con số 792.

Đoạn, lấy con số 792 này trừ đi một hoặc nhiều lần 384 (tức nhiên 384 quẻ cả thảy), cho đến khi nào còn lại con số nhỏ hơn hoăc bằng con số 384 mới thôi:
                        792     384 =   408
                        408       384 =   024.

Như vậy số 24 là con số nhỏ nhất khởi đầu của quẻ bói. Theo nguyên-tắc phải lật bảng chữ số sẽ tìm thấy chữ đầu tiên là chữ Ý . Lấy số 24 cộng thêm 384 sẽ được số 408 có chữ tương-ứng là tư …và tiếp-tục cọng nhiều lần con số vừa tìm thấy với 384 ta sẽ có một loạt chữ tương-ứng với nó, đến khi nào con số mà ta tìm thấy là một dấu tròn trắng tức là câu đã dứt, bây giờ mới chấm câu, phân đoạn, tìm ý coi xem quẻ này ngụ-ý gì.

Quẻ trên đây có tất cả 12 chữ số được tìm thấy như sau: “Ý tư tư, tâm thích thích, yếu bình-an, phòng xuất nhập” 

Công phu tìm được một quẻ bói như trên phải mất rất nhiều thời gian và trở ngại. Điều trở ngại lớn nhứt là đối với người chưa đọc được chữ Hán thì làm sao tìm được quẻ. Hơn nữa cái ý tại ngôn ngoại của chữ Hán thật là cao-sâu, mà quẻ bói lại huyền-nhiệm vô-cùng khó mong thấu lý.. Điều mà tôi thán-phục nhất đối với quẻ Khổng Minh là không biết ông sắp-xếp như thế nào mà các chữ số này đều rời-rạc với nhau trong 12.700 chữ, thế mà khi cọng con số tìm được ban đầu với nhiều lần con số chuẩn 384 thì thành được một câu có ý nghĩa rất tài-tình. Số câu trong 384 quẻ không đồng đều, có câu dài cũng đến 36 chữ, câu ngắn cũng 12 chữ. Hễ một câu có bao nhiêu chữ là người xem quẻ phải mất thời gian làm nhiều bài toán trừ, cọng và tìm chữ tương-ứng bấy nhiêu lần.

Lần đầu tiên tôi được Lão-sư lật quyển lịch Tàu ra rồi lướt lướt giới-thiệu từ vấn-đề một, đến phần quẻ bói này Lão-sư nói: “Đây là quẻ Khổng-Minh Thần-Toán rất cao-sâu, để hôm nào Lão-sư bói cho Thuỷ một quẻ”. Tôi tò mò muốn biết sự mầu-nhiệm của quẻ bói, nên mượn ngay quyển lịch về nhà, tìm cách lập thành quẻ để làm sao rút ngắn thời gian cho đỡ công tìm kiếm từng quẻ một như cách trên. Thế là tôi đã nghĩ ngay ra phương-pháp xếp đặt thành 384 quẻ ngay. Giả-sử tôi tìm được số đầu tiên là số 1 thì con số thứ nhì sẽ là 1+384 (quẻ) = 385. Như vậy thì 384 chữ đầu tiên sẽ là chữ đầu của lần-lượt 384 quẻ và chữ kế sẽ cứ tiếp-tục cộng vào. Tôi dán thành một cuộn giấy dài và xếp từng chữ một, từng chữ một đến hết số chữ thành 384 quẻ trọn-vẹn, bây giờ được một bảng quẻ có hệ thống, đầy-đủ, rõ-ràng, không thừa cũng không thiếu một chữ. Một tuần lễ sau, tôi đem trình cho Lão-sư xem sự thành công của tôi, Lão-sư rất khen ngợi và người chịu khó đọc từng quẻ một, chấm câu, phân đoạn, giải-lý cho tôi, rồi tôi đem về dịch âm, dịch nghĩa bằng thơ cho dễ đọc, dễ nhớ…mỗi mỗi đều có sự kiểm-điểm của Lão-sư chỉnh sửa cho, sau cùng còn khoảng 50 câu cuối nữa Lão-sư tự dịch âm, dịch nôm rồi ghi vào tập vở ghi quẻ của tôi cho đến hết, trước khi người nhắm mắt từ giã cõi đời có mấy ngày thôi. Dù vậy mới ngày trước một ngày Lão sư nhắm mắt tôi có sang thăm, vì nghe Người bịnh. Nhưng Lão sư vẫn chuyện trò vui vẻ và đem cho tôi xem chiếc khăn lớn của chính Đức Hộ-Pháp mua tặng nhân ngày khai trương cửa hàng của Cô Ba Cầm tại Nam vang. Lão sư còn cười nói rằng: Lão sư còn mười năm nữa mới chết !

Với tôi thì sự ra đi của Người quá đột-ngột, nhưng riêng Người là một sự chuẩn-bị hết sức chu-đáo. Nếu ông không biết trước giờ chết thì ông không dịch hết số quẻ còn lại của tôi trong vài ngày cùng cuối của cuộc đời mà không hề có sự trăn-trối lời nào. Mãi đến khi tôi cùng tiếp với gia-đình lo về phần tống-táng cho ông xong, tôi lục lại số tài-liệu trong tủ sách, mới thấy mọi việc đã an-bày. Thật là cuộc trở về của một bậc giải-thoát có khác!

Có lần ông về Cơ tại Cung Đạo Đền-Thánh Toà Thánh Tây-Ninh ghi cho 4 câu thơ:
“LỮ  thứ chồn chân đáo Thánh Toà
“BÌNH  sinh đã trắng nợ phồn-hoa
“KÍNH  trình mấy vận lòng tri kỷ
“ĐỀ  bút nương mây vượt mấy toà.”

LỮ BÌNH là bút-hiệu của cụ Mã-nguyên-Lương mà khắp trong giới văn nghệ-sĩ miền Nam đều biết. Ngoài ra Cụ còn có hiệu là “Trúc khê Tiết Thanh Sơn Nhơn”. Cụ đã có dịp thuật lại nhiều lần xướng-hoạ thi-văn với cụ Hải Thần, cụ Hồ-chí-Minh và bạn thân với nữ-sĩ Tương Phố. Mỗi lần tiếp xúc, cụ nói về cuộc đời chánh trị và sau hết là việc dịch Kinh Cao Đài ra chữ Hán. Hơn 30 năm trôi qua vắng bóng người trong thế-giới này, nhưng lòng tôi lúc nào cũng ngậm-ngùi thương tiếc một bậc lão thành đáng kính, một bậc Hiền-tài của nền Đại Đạo đã lưu lại một trang sử đẹp. Cụ có làm Tự điển 5 thứ tiếng, nhưng dang dở vì sự ra đi của Cụ.

Sự thành công của quyển “Khổng-Minh Thần Toán” này hoàn-toàn do Lão-sư Mã-Nguyên-Lương giảng giải và con đường Nho học tôi được tiến-bộ cũng nhờ ơn Người dẫn-dắt. Xin ghi lại tấc lòng thành-kính biết ơn.

Cách-1 Xem quẻ bằng phương pháp nguyên thủy:
Nếu quí vị biết chữ Nho thì xin xem quẻ bằng phương-pháp trên, nghĩa là viết ba chữ Nho, xong đếm nét để tìm số. Đoạn mở sách ra xem. Cọng các vần của riêng mỗi chữ rồi khử 9 nếu số đó lớn hơn 9, ta chỉ lấy số nhỏ hơn hoăc bằng 9 là được. Theo ví dụ dưới đây ta có được số 556. Trừ số 556 cho 384 (556-384) = 172. Số 172 nhỏ hơn số 384 chính là số của quẻ mà ta muốn tìm vậy. Lật tập sách ra tìm đến số 172 sẽ có được một quẻ đầy đủ:
, , ,

Dịch âm: dục đắc nguyệt trung thố, tu bằng đào lý phất, cao sơn lai tiếp dẫn, song hỉ chiếu song mi.

                                   Dịch nghĩa:
Muốn dời thỏ ngọc trong trăng
Nương theo đào lý hương nồng gió đưa
May duyên người tốt vẫn thừa,
Niềm vui hiện đến đôi bờ mắt xanh.

Bấy giờ sẽ tìm ra ngay số quẻ có đầy-đủ nguyên-văn của câu bằng chữ Nho, có dịch âm và nghĩa rõ-ràng.

Cách 2: Xem bằng cách giản-lược: phương pháp xem quẻ Khổng-Minh này bằng một khoa học mới, tức nhiên theo phương-pháp sau đây là do sự  suy nghĩ của Soạn giả: là dùng một bảng chữ có ghi số tương ứng đã lập thành:  Thí dụ:  Muốn bói tên người chẳng hạn, như tên: MÃ NGUYÊN-LƯƠNG. Trước hết tìm số tương-ứng của mỗi vần, rồi ghi ra để tìm số của chữ:
                                  NGUYÊN          LƯƠNG
                        4 1           5 7 3 7 5 5          3 3 6 5 7
Từ đó ta cũng có thể linh-động tìm ngay một con số mà ta muốn, hoặc cảm ứng một hình ảnh vật loại nào đến trước mắt ta như số xe, số nhà, số trang sách hay bất cứ vật gì cũng được, miễn có một con số trước mắt, có ba chữ số  trở lại cũng tìm được quẻ bói.

Từ đó người xem tự đoán vận-số của mình có đầy đủ ý tại ngôn ngoại. Nếu ngắn là một thời điểm có hạn định, nếu dài là cả cuộc đời người không đâu là không đúng “ngụ-ý thâm-viễn, biến-hoá vô cùng, phán-đoán cát hung”, uyển-chuyển sâu-sắc, tuyệt-vời.

Giữa thời buổi văn-minh khoa-hoc tiến-triển cao-độ thì giá trị tinh-thần cũng phải được phát triển hơn lên, nào phải đâu dị-đoan mê-tín, đoán mò của năm người mù rờ voi rồi xác-định càng.

Thuở bình-sanh chính Lão-sư Mã-nguyên-Lương cũng muốn dùng quẻ “Khổng-Minh Thần-toán” này làm cuốn Xâm cho mọi người đến xem cát-hung nơi “Hội Thánh Đường-Nhơn”.

Với tấc lòng ngưỡng-mộ và thành-kính tri-ân một bậc lão thành hiền-lương, đức-độ. Xin dâng về cụ Lữ-Bình Mã-Nguyên-Lương những thành-công tiếp nối trong nghiệp dĩ bút nghiên mà trọn cuộc đời Con chỉ biết Hiến dâng và phụng-sự cho Đạo nghiệp..

Xin quí đọc giả cũng đừng ngộ nhận hiện giờ cũng có “Khổng Minh Thần Toán” bày bán trong các hiệu sách ở Sài Gòn, Chợ lớn, nhưng chỉ duy có phần Dịch Âm và Dịch nghĩa thôi. Sở dĩ có sự trùng hợp như vậy là vì lúc ấy vào thời bao cấp, gia đình chúng tôi thiếu thốn quá, lục lại những tài liệu viết chỉ có mỗi quyển này là có thể bán lấy tiền mua gạo cho các con mà thôi. Tôi nhờ người đem xuống Thành phố bán dùm chỉ được 500.000 đồng cũng giúp cho chúng tôi giải nguy trong lúc túng rối.

Trong tập sách này trọng-yếu nhất là 384 quẻ đã được sắp-xếp như bảng lập-thành có đầy-đủ chi-tiết, ngay thời điểm này người xem quẻ chỉ nghiệm-xét từ lời, từ ý, từ chữ, từ câu mới thấy được cái lý cao-sâu, mầu nhiệm của Đạo-Dịch qua phần chú giải của Soạn giả làm gợi ý.

Kế đến là phần phụ-lục là nguyên bản văn bằng chữ Hán được phóng-đại ra và sau cùng là bút-tích của cụ Mã Nguyên-Lương đã tự dịch số quẻ còn lại trước khi nhắm mắt lìa đời không quá 24 tiếng đồng hồ, vội để bước lên  “Thuyền Bát-Nhã” đưa xác thân của thổ về với “Cực-lạc” thổ, còn “Hồn Trời hoá trở về Thiên-cảnh” mà phiêu diêu tự-tại với câu:
“Vị qui tam xích thổ nan bảo bách niên thân,
“Ký qui tam xích thổ nan bảo bách niên phần”

 Làm một kẻ hậu học, tôi luôn tôn-trong các bậc tiền-nhân, Thánh-nhân đã để lại cho đời những quyển sách hay, những kinh nghiệm sống đạo-đức thuần lương, đức độ mới thấy rõ giá-trị “Khi chưa vào ba thước đất thì khó giữ được tấm thân trăm tuổi, nhưng khi đã vào ba thước đất rồi khó giữ được nấm mộ trăm năm”. Với những bậc tài danh của nhân loại đây, vừa giữ được thân trăm tuổi và cũng  hiển-hách với nấm mộ trăm năm.
Thánh-Địa Tây-ninh, mùa hạ năm 1973.
Nữ Dịch-giả cẩn chí.
NGUYÊN THUỶ
(Nguyễn-Lệ-Thuỷ)

Lời bạt:
Thực hiện bộ “Khổng Minh Thần Toán” này với mục đích xiển dương cái tinh thần Nho học mà Đức Khổng Minh đã sáng tạo ra một lối văn cực kỳ bí ẩn. Sở dĩ có 384 quẻ là thành quả của 384 hào. Mà số hào này bắt nguồn từ 8 quẻ Bát Quái (8 x 8 x 6).Chúng tôi cũng thấy được cái vòng thuận nghịch âm dương của các Quái xây chuyển một cách khít-khao, tuyệt vời lắm. Trong đó đủ cả Thái cực, Lưỡng nghi, Tam tài, Tứ tượng, Bát Quái Ngũ hành. Tôi muốn làm một cái gì đó là khai thác thật đúng mức, nhưng khả năng chừng tới đó thôi. Tạm thời chúng tôi lồng vào Tinh hoa Đại-Đạo hầu làm sáng tinh thần đạo học, có lẽ ước muốn chỉ được có mấy phần trăm thôi. Nhờ các bậc cao minh khai triển tiếp. Cái hay đã sẵn có của tiền nhân. Phần kém là của Soạn giả, xin đừng vội phê phán tiền nhân mà soạn giả thêm tội rất nhiều vì khả năng còn giới hạn.

Thứ đến là tôi viết lại là để tri ân một bậc Lão sư lúc sanh tiền đã để lại trong tâm hồn chúng tôi một cảm tình tuyệt đẹp.

Lại nữa hoài bão đã lâu, nhưng thực hiện phần Chú giải trong tập “Khổng Minh Thần Toán” này vừa phải hoàn thành chỉ trong một tuần nay, nhằm ngày Vía Phật Bà Quan Âm. (Khởi soạn từ ngày 15-02 đến 23-02-Canh Dần-   2010). Kính dâng lên Đức Phật.

Trân trọng làm món quà thân ái gởi đến đồng Đạo bốn phương với niềm tri âm, tri kỷ trong cuộc đời.
Nữ Soạn Gỉa
NGUYÊN THỦY.

                                   QUẺ - 001 :
Thiên-môn nhứt thụ bảng.
Dự định đoạt tiêu nhân.
Mã tê phương thảo địa.
Thu cao thính lộc minh
鹿

                                   Dịch nghĩa:      
Cửa Trời ngôi vị sẵn.
Ai kẻ đoạt công đầu.
Cỏ thơm vang ngựa hí.
Thu mát vẳng hươu kêu.

Chú giải:
Mỗi người đều có số định trong Thiên thơ, là quyển sách Trời. Lập được công danh và hưởng được phú quí đều chính do mình tự tạo rồi được Trời giúp sức. Tức nhiên tu thì thành. Như mùa thu mát-mẻ, cảnh vật xinh tươi hoà hợp trong cái không khí trong lành. Chính mùa thu làm xúc động hồn thơ: “Ai nghe chăng mùa Thu ? Lá thu rơi xào xạc. Con nai vàng ngơ ngác. Đạp trên lá vàng khô”. Thiên môn ngày nay thấy được là cửa Đạo Cao-Đài sẵn-sàng đón rước nguyên nhân trở về nguồn cội Đạo. Hãy rán bước lên nhanh kẻo trễ kỳ Long-Hoa Đại hội.

Thiên môn mở rộng nguyên nhân đến,
Đài nội tuyển thăng Thánh đức lên.
Thừa  thế chuyển nguy an Thánh địa,
Mạng  trời đâu để quỉ hành quyền.

&
                                   QUẺ - 002 :
Địa hữu Thần.
Thậm uy-linh
Hưng bang  phụ quốc.
Tôn Chúa tý dân.

                                   Dịch nghĩa:
Đất có Thần. 
Lắm oai-linh.
Phò quốc hưng bang.
Giúp dân tôn Chúa.

Chú giải: Đất thì có Thần giữ, Thần đất rất oai linh. Các vị Thần có nhiệm-vụ lo cho đời sống của nhân dân trong địa phương, như mưa thuận gió hòa. Người sống cũng phải biết kính trọng sự oai linh đó. Thần đất cũng như chánh quyền trông coi một địa phương vậy. Người sống trong đời biết làm tròn nghĩa vụ một công dân tốt, thì về tâm linh cũng biết hướng thượng và hướng thiện. Biết kính trọng Thần linh thì muôn việc đều lợi. Không phải lo-lắng gì. Đó là biết kỉnh Trời vậy. Có câu “Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời”.

Đây là Thần Hoàng Mỹ Lộc cho biết: “Từ thuở Ta vưng chiếu chỉ đến trấn nhậm nơi đây, Ta một tấm lòng lo cho lê thứ đặng an cư lạc nghiệp, thạnh vượng mùa màng; mỗi mỗi đều hằng lo lắng cho chúng sanh nơi phần trách nhiệm. Nay có lịnh Ngọc Hoàng chiếu chỉ cho phép Ta giáng cơ mầu nhiệm mà tỏ nền Ðạo là quí trọng cho lê thứ hiểu. Lê thứ đâu rõ thấu việc Trời đã định hơn mấy chục ngàn năm nay. Lê thứ nghe: Kỳ Hạ Nguơn hầu mãn nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tan, mười phần còn lại có một mà thôi. Than ôi! Buồn thôi! Nghĩ vì Thiên cơ đã định vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện ăn năn sám hối, lo việc tu hành; đồng với nhau cả quốc dân mà quì lụy khẩn cầu coi Trời đoái tưởng đến chăng ? Bởi thế nên Ngọc Ðế và chư Phật, chư Tiên, chư Thánh mới lập hội Tam Kỳ Phổ Ðộ đặng có cứu vớt chúng sanh, đương linh đinh nơi biển khổ. Nếu gặp thuyền Bát Nhã mà không xuống, không theo thì chắc thế nào cũng chơi vơi mé biển”.

&
                                   QUẺ - 003:
Trường an hoa.
 Bất khả cập
Xuân phong trung. 
Mã đề tật
Cấp tảo gia tiên.
Sậu nhiên sinh sắc.
 
 

                                   Dịch nghĩa:    
Tuyệt sắc hoa Trường-An
Gió xuân vó ngựa dồn
Vung roi giục đến sớm
Hương sắc nở huy-hoàng.

Chú giải: Trường-An là nơi Kinh đô ngày xưa, các thí sinh đến đây để ứng thí. Mọi người đều đem hết tài năng mong chiếm được khoa đầu. Sự hăm hở trong lòng ai ai cũng một niềm mơ ước được bảng hổ đề danh mới toại kỳ đắc ý. Người chiếm được quẻ này mọi việc đều mãn nguyện. Nhưng phải hết dạ tín thành và có đức kiên-nhẫn mới được. Trời luôn chiều lòng người nhưng với những kẻ biết làm điều thiện gọi là “Thiên tùng nhơn nguyện”. Thí sinh đến thi nơi Trường-An cũng như người Nhập môn vào cửa Đại-Đạo, hay là có sẵn trong lòng với một Đức tin lớn. Tuy mới nhập môn làm Môn đệ của Đức Thượng Đế nhưng cũng được dự Hội Long Hoa, đó là điều mà tất cả chơn linh trong càn khôn vũ trụ đều mơ ước, nhưng phải đúng vào thời Tam Kỳ Phổ Độ mới được hưởng ân Thiên.

&
                                   QUẺ - 004:
Xuân hoa kiều mỵ
Bất cấm vũ đả phong phiêu
Thu cúc u phương.
Phản nại sương lăng vũ ngạo.
媚。
芳。

                                   Dịch nghĩa:
Hoa xuân yêu kiều.
Đâu ngại mưa dồn gió dập.
Cúc thu thơm ngát.
Nào quản sương tuyết dãi-dầu.

Chú giải:  Hoa Xuân nhiều hương sắc, dầu vậy mà không ngại trước những trận gió dồn mưa dập. Hoa Cúc thì ngự trị trong mùa Thu, nhưng cũng chẳng sợ tuyết sương làm héo úa. Người trong cảnh ngộ này cũng tự thấy mình đã đủ bản lãnh để chống đỡ trước hoàn cảnh khó khăn. Dầu thế  nào cũng đừng thối bước. Phải phấn đấu lên! Đừng tự mãn khi thành công. Đừng tự ty khi chưa toại! Phải nhớ rằng trên đầu ta luôn có Thần minh ám trợ. Hãy nghe:

Ðức CHÍ TÔN tả Xuân, năm Kỷ Tỵ (dl: 10-2-1929)
Ôi! Xuân tàn rồi Xuân đến, cái Xuân của người đã rấp lụn hao mà rồi cái Xuân của trời đất nước non cũng chưa chắc là vô cùng tận. Các con nếu biết chịu khổ tâm, biết dày vò tình thế, biết chịu kém sút trong nẻo lợi đường danh, biết chịu thiệt mình mà đặng cho kẻ khác, biết đổ lụy để cho kẻ vui cười, biết nhọc nhằn trong kế sinh nhai, biết giữ tâm trí cho thanh bạch, đừng nhơ bợn của chẳng nên dùng, biết động mối từ tâm, thương người hơn kể mình thì là các con được tắm gội hồn trong mà về cùng Thầy đó. Nét nào chưa vẹn, khá biết sửa lần chớ nên trì huỡn.”
                                                                       &
                                   QUẺ - 005:      
Xuân lôi Chấn.  Hạ phong Tốn.
Ngoạ long khởi. Mãnh hổ kinh.
Phong vân hội họp. Cứu tế thương sanh.
合。
濟蒼

                                   Dịch nghĩa: 
Xuân lôi Chấn động.
Gió Hạ ôn-hoà.
Rồng vàng ngủ dậy.
Hùm dữ hoảng-kinh.
Gió mây hội-họp.
Cứu giúp sanh-linh.

Chú giải: Thời đã đến như sấm nổ vang trời khi mùa mưa bắt đầu. Gió nhẹ cũng đưa hơi. Sự thể được an nhàn như Rồng vàng vừa trở giấc. Cọp nanh vuốt mà cũng phải hỏang kinh. Gió thoảng mây bay là điềm vui lớn. Lòng người mở rộng để cứu giúp trong tinh thần phụng-sự cao. Đây là nói đức độ con người phải nâng cao cũng thắng được nhiều trở ngại, tức là “Đức năng thắng số”. Không ngại trước oai quyền. Đạo đức là áo giáp che thân vậy. Phải biết “Ở đời, mọi sự  đều giả, cho đến mảnh thân của chúng ta cũng không được tồn tại. Nếu ai đã mê theo đường danh bể hoạn hiện thời thì tất nhiên họ sẽ chuốc lấy sự mất ở ngày mai; chỉ những kẻ đi tìm sự mất ở đời và sớm dắt mình vào khuôn khổ vị tha, bản tâm luôn luôn sẵn sàng phụng sự cho người đời, kẻ nghèo, kẻ đau, kẻ yếu, mới được còn mảy may mà thôi.”

&
                                               QUẺ - 006:
Phi huyền phi dư.
Phi thiển phi thâm,
Nhứt cá diệu đạo.
Trước ý sưu-tầm.
輿。

                                   Dịch nghĩa:
Không, sắc vô thường khó biệt phân.
Cạn, sâu hai lẽ khó lường châm.
Đạo trời duy-nhứt, siêu thâm lý.
Suy gẫm cân đo, gắng chí tầm.

Chú giải: Sự có rồi không, không rồi lại có, luật vô thường của đất trời đã định. Khi cái tâm còn bận rộn khó mà thấu lý. Hãy sống cho nên Đạo. Mình phải thấy rõ chính lòng mình hơn ai hết. Hãy nghe rõ tiếng nói của lương tâm. Mỗi người đều có một vị Phật ngự trị nơi tâm. Đừng dối, đừng gian, đừng phiền não. Vui sống trong lý đạo siêu mầu. Trời cao có mắt, không phụ người hiền đâu!

“Than ôi! Trời cao minh soi xét mà người vẫn mê muội ám mờ, đem mảnh trí cỏn con kia chống kình với khuôn linh Tạo hóa. Muốn học mùi Ðạo mà lại kèo nài giao kết thì dầu cho bậc phẩm nào đi nữa, cái ân đức từ bi cũng khó chiều theo được. Các Ðấng thiêng liêng xưa kia khổ hạnh, công cán thế nào mới được về ngôi cao phẩm quí, há chẳng phải là gương tín thành đáng noi dấu hay sao?”
&
                                               QUẺ - 007:
Quân tu ngộ.
Vật ngữ nghi.
Hữu bình lộ.
Nhiệm khu trì.
Tuỳ thời biến dịch.
Kiện kiện hàm nghi.
驅馳

                                   Dịch nghĩa:
Giác ngộ tự nhiên chân.
Chớ nghi lắm sự lầm.
Trước mặt con đường thẳng.
Giong ngựa cứ buông cương.
Tùy thời năng biến đổi.
Muôn việc được vuông tròn.

Chú giải: Phải biết giác ngộ. Đó là một lý do quá rõ ràng, không nên nghi kỵ người là có lỗi lớn. Sự đặng thất tồn, vong đều có lý cớ. Người đánh mình không là điều vô cớ, tại mình làm cho người đau khổ, làm cho tổn thất. Đường đạo đức thẳng ngay sao không đi, tìm đường quanh nẻo quất mà làm gì ! Phải thích nghi cho cuộc sống, muôn việc sẽ được dễ dàng.“Làm người rõ thấu lý sâu. Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh”.

Phật Thích Ca dạy: “Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo. Ôi ! Thương thay ! Công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà TA rất đau lòng. TA đến chẳng phải cứu một mình chư Tăng mà thôi, vì trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải đọa hồng trần, TA đương lo cứu vớt. Chư Tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ Ðộ nầy là lần chót, phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả luật. Chư Sơn đắc Đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo. Phép hành đạo Phật Giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Ðạo Bàng Môn”.
&
                                   QUẺ - 008:
Hổ luyến cao sơn biệt hữu ky.
Chúng sinh mục hạ thượng hồ nghi.
Nhạn lai liệu lịch hoàng hoa phát.
Thử tế thanh danh đạt đế ky.
生目

                                   Dịch nghĩa:
Hổ phục non cao đợi có khi,
Chúng nhân ghé mắt dạ hồ nghi.
Tin thu cánh nhạn sang Nam đó.
Ấy cúc Hoàng hoa nở  đặng thì.
Vui mừng gặp lúc rồng mây hội .
Danh tiếng rõ phân đạt đế kỳ.

Chú giải: Con hổ luyến rừng đó là luật tự nhiên. Người khác hổ nhiều, vì có lý trí, biết uyển chuyển, tùy thời, tùy việc mà hành xử cho phải Đạo. Không nghi ngờ. Hãy thẳng ngay, lòng thư thái như hoa cúc nở vào ngày Hạ khoe hương sắc. Vui như Rồng gặp mây. Mọi việc hanh thông đang chờ đón. Nhưng đừng quá vui khi được việc, đừng âu sầu khi việc chưa đến.“Vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thấm vào chân tánh” Đó là ý chí của một người đạo hạnh luôn giữ lòng thư thái.

Ngày nay Đấng Thượng Đế đến “Ngài đến bồng nhơn-loại vào tay ru rằng: Khối đau khổ tâm-hồn của các con là tại các con đào-tạo chớ không phải của Thầy! Khổ là do quả kiếp mỗi đứa dục khổ cho nhau. Muốn giải khổ không gì khác hơn là: Đập đổ các đẳng cấp tâm-hồn. Thống nhất nhơn-loại. Nhìn nhau là anh em máu thịt, cùng một căn-bổn cội nguồn hầu chia vui sớt nhọc, biết tôn ti nhau; kẻ trên không áp-chế người dưới, trí không hiếp ngu, hèn sang không biệt, mực thước tâm-hồn nhơn-loại phải đồng phẩm-giá, đồng quyền-năng.”

&
                                   QUẺ - 009:
Quí khách tương phùng cánh khả kỳ.
Đình tiền khô mộc phụng lai nghi.
Hảo tương đoản sự cầu trường sự.
Hưu thính bàng nhân thuyết thi-phi.
逢更
旁人  

                                   Dịch nghĩa:
Khách quí giờ nay gặp gỡ rồi.
Cây khô trước cửa phụng hoà vui.
Lấy việc nhỏ nhoi cầu đại-sự .
Chớ cậy người ngoài chuyện đúng sai .

Chú giải: Tục ngữ nói “Cây khô khó nỗi nứt chồi”. Nhưng khi Phụng đến đậu là có sự hanh thông, vì Phụng là chim linh. Cây đã bắt đầu có sinh khí nó mới đến đậu. Đừng quá bi quan vì “Vận nghèo đi đến xứ mô cũng nghèo”. Thành công do đôi tay và khối óc. Nhưng thời vận con người như nước ròng nước lớn, nghĩa gì! Hãy nhớ xem cuộc đời đã bắt đầu bằng một con số không to lớn kia

Giống như lời của Thượng Đế giáng dạy người Pháp hầu đàn: “Mọi việc đều đúng giờ đã định. Con đã thấy và hiểu những điều mà phần đông đồng bào của con đang tìm hiểu. Chỉ sau nhiều cuộc khảo cứu và sưu-tầm về Thần linh học mà Thầy đem truyền nền đạo-lý mới mẻ nầy. Thầy há chẳng có lời tiên tri rằng Thần-linh-học là một nền Ðạo tương lai sao? Hẳn nhiên con đã thành tâm thật ý muốn gây tại xứ nầy tình liên-lạc tinh-thần giữa hai dân tộc Pháp-Việt mà Thầy chí quyết cho họ được chung sống trong cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt. Con sẽ đắc kỳ sở nguyện của một người làm phải. Lời khẩn nguyện của con sẽ được chấp thuận. Sau nầy con sẽ là một trong các Môn đồ trung thành của Thầy để đi truyền-bá hòa-bình và tương-ái trên khắp hoàn cầu. Ban truyền giáo Pháp sẽ được thành lập gần đây. Con cần phải về Pháp trong năm 1928 để binh vực giáo lý của Thầy tại Hội-Nghị Ðại-Ðồng Tôn-Giáo. Con sẽ trọng đại và đủ quyền năng do Thiên-Ý”

&
                        QUẺ - 010:
Liệu lịch chinh hồng độc xuất quần.
Cao phi vũ dực cánh củ phân.
Vân trình tỷ tấn, hảo âm toại văn.
Triêu vân mộ vũ, giao gia hữu bằng.
出群
糾紛
進。好 音遂
雨。  加有

                                   Dịch nghĩa:
Riêng bóng chim hồng hót véo von.
Cao bay vững cánh lướt mây ngàn.
Bắc phương thẳng tiến đường dong ruổi.
Tin tức đổi trao rõ bội phần .
Mây sớm mưa chiều phong khí thuận .
Sự tình hữu hiệu rõ nguyên nhân.

Chú giải:  Con người phải có định hướng, đừng buông trôi như nước nguồn tuôn đổ, như trăm sông đổ về biển cả. Thành công hay thất bại không là nghĩa gì.! Vật chất này không thể quyết định cho cuộc đời. Nước còn ròng lớn, cũng như vầng trăng tròn khuyết. Thấy đó rồi mất đó. Sự sáng lạng đã có hướng lên nhiều. Vui mà làm việc. Làm việc mà vui! Đức Giáo chủ dạy “Các con nhớ rằng: dữ tận hiền thăng, mạnh thua yếu được, nhu nhược trường tồn, Xỉ cương tắc chiết. Nhơn loại trả quả với nhau các con chịu cái nạn chung, trả từ đời Hồng Bàng tới giờ. Tổ phụ của chúng ta khi xưa cũng ác tâm lắm, ỷ mạnh hiếp yếu, diệt chủng những nước yếu hèn nên phải chịu Luật Nhơn quả ngày nay. Bần-Đạo lấy làm mừng cho nước Việt-Nam trả hết món nợ tiền khiên mà Tổ tiên chúng ta vay từ thuở bị nô lệ, nay không còn nô lệ nữa. Vậy thời oan trái đã trả xong.”
&
                                   QUẺ - 011:
Vô tông vô tích.
Viễn cận quân nan mịch.
Bình địa khởi phong ba.
Tự tiếu hoàn thành khấp.
 

                                   Dịch nghĩa:
Tông tích đều hư không.
Gần xa khó nỗi tầm.
Đất bằng vùng sóng dậy.
Cười đó lại khóc ròng.

Chú giải: Khóc cười là chuyện của thế thường. Điều  đáng nói là phải tự hỏi mình có đủ bản lãnh hay không? Cái tiếng khóc là nói lên sự khổ. Cái “Khổ” nó đeo mang theo con người từ khi mới chào đời, nào phải một ngày, một bữa đâu ! Phải sáng suốt mà nhận định và làm hết sức mình thì sẽ thấy được Trời. Trời đang thử thách để chuyển hướng cho mình đó “Tận nhơn lực tri Thiên mệnh” mà ! Dầu đất bằng sóng dậy, nhưng phải có một niềm tin mãnh liệt. Niềm tin thắng tất cả. Có gì đâu phòng ngại, hãy tự tin

Thất Nương giải bày: Em tỏ sơ, mỗi khi trong mình mấy anh có điều chi khác, hoặc đau lạ kỳ hơn kẻ khác, xin mấy anh không nên phiền phức. Ấy là các Đấng chuyển đa.! Sửa tâm luyện tánh, tắm sạch phách hồn cho tinh chuyên, trong mấy điều sửa đổi đó, phải chịu hành xác chút đỉnh. Ấy là phận sự của kẻ chỉ giáo, còn phải chịu cho các vị Giám khảo hạch hỏi  nữa nghe. Trong Ban Khảo lại chia làm hai Ban khác nhau:
- Một Ban khảo thí về tinh thần,
- Một Ban khảo thí về vật chất.

Phải biết phân biệt hai Ban nầy có lộn Quỉ vương nữa đa, vì  Chí Tôn cho lịnh chúng nó.
Bạch: Xin Cô giải nghĩa giùm tinh thần và vật chất.
- Khảo về tinh thần là làm cho trí não mờ mệt, biếng nhác, hay quên, quạu quọ, bị kẻ khác sỉ nhục tên tuổi mình.
- Khảo về xác thịt: thì đau té, có khi bị chúng giọi đầu, gia đình lộn xộn, xào xáo chẳng yên.

Đó là em kể sơ qua, chẳng phải dễ đâu ? Hữu duyên đắc ngộ, vô duyên muôn kiếp bất tương phùng. Biết Đạo mầu, nhà triệu phú muốn đổi cũng chẳng thèm. Thanh thì bần, trược lại phú. Có phân cây mới tốt, mà phân vẫn là chất trược. Phép nầy dễ học hơn hết. Hễ mỗi lần xác phách muốn làm điều chi thì mấy anh tự hỏi cái điều nầy: Ông Trời có làm đặng không ?  Rồi mấy anh suy nghĩ cho đáo để sẽ trả lời cho phách của mấy anh. Mỗi lần cứ thi hành theo phương pháp ấy thì ngày sau có kết quả mỹ mãn.”

&
                                   QUẺ - 012:
Thần ảm ảm.
Ý du du,
Thu khước tuyến.
Mạc hạ câu.
暗。
線。
                                   Dịch nghĩa:
Tinh thần mờ mịt rõ chi đâu ?
Ý tứ tự nhiên chẳng phải cầu
Hỡi lão ngư ông thu dây lại
Buông cần chi nữa biết nông sâu.

Chú giải:  Xưa nay có chuyện cơ cầu thường tìm đến lão ngư ông mà vấn sự. Vì sao? Vì đó là người đã am tường thế thái, chán lợi chê danh. Ở đây muốn nói như Ông Khương Thượng câu thời câu vận, tức là người đã bỏ bên ngoài tất cả. Vậy chính mình không tự bỏ được sao, lại phải cầu người. Vì đời này có mấy ông Khương Thượng? Nếu không may gặp kẻ tham mồi rồi biết hỏi ai. Đừng lầm bọn trục lợi cầu danh giả thương dân thương nước mà hỏng việc. Tự lấy sự khôn sáng mà tìm ra lẽ thiệt hơn!

Bát Nương Diêu Trì Cung dạy: Em xin quí anh chị cần chuyên tập, ban đầu chịu khó, sau mới thành công. Từ đây, trước mỗi thời cúng, em xin quí anh quí  chị  hãy  nhớ.
- Trước hết rửa hai con mắt, trong lúc đang rửa, nói thầm rằng: Con mắt thường ngó chỗ không tốt, rửa bỏ nó đi.
- Kể rửa hai bên tai, cũng nói rằng  tai không  nghe bậy.
 -Kế rửa và súc miệng, nói rằng: Miệng không thốt lời bất chánh. Kế hai bàn tay vuốt mặt, nói rằng: Ý đừng tưởng chuyện quấy. Kế rửa hai bàn tay, nói rằng: Tay hay cầm đồ dơ  uế. Kế rửa hai chơn, nói rằng: Chơn hay bước vào chỗ ô trược. Rửa cho sạch, đoạn mới tới Chánh điện hầu lễ. Đó là bề ngoài  quí anh  quí chị cần nên nhớ !”.

&
                                   QUẺ - 013:
Đắc ý nghi phùng phụ.
Tiền trình khứ hữu duyên.
Lợi danh chung hữu vọng.
Tam ngũ nguyệt đoàn viên.

                                   Dịch nghĩa:
Đắc thời tua gặp vợ.
Tiền đồ đã có duyên
Lợi danh nhiều hy vọng.
Rằm đến tự trăng tròn.

Chú giải:  Vợ chồng là một điều thiên duyên định trước. Đừng chơi trò bán nguyệt mua hoa. Đừng nghi ngờ sợ sệt. nếu phải duyên dầu ngăn sông cách núi cũng tìm nhau, nếu liễu ngõ hoa tường thì cũng tự tàn phai rả cánh. Giờ đã vui trong cái ấm cúng còn đợi hỏi gì ? Trăng đã đến lúc tròn. Hy vọng đang lên. Dang tay mà chờ đón, nhưng đừng quá ỷ lại mà rồi sau hối tiếc. Cái gì đến thì đã đến rồi, đừng vội vã, đừng vọng cầu.Thành công trong tay bạn đó ! Hạnh phúc là bằng lòng với hiện tại. Cầu hạnh phúc không khó, nhưng khó là không biết giữ hạnh phúc cho lâu bền. Cứ để mặc cho chim bằng tung cánh mới tiếc rẻ là không giữ được giống chim linh
&
                                   QUẺ - 014:
Đỉnh phất khởi phong ba.
Cô châu yếu độ hà.
Xảo trung tàng khước chuyết.
Nhân sự chuyển sa đà

                                   Dịch nghĩa:
Đỉnh vạc lên sóng gió.
Thuyền lẻ lướt qua sông
Khéo khôn trong ẩn dở.
Việc người hoá ra không.

Chú giải: Cái đỉnh, cái vạc là thứ bất động mà cũng bị ngoại vật làm tác động, tức nhiên sự việc đến ngoài ý muốn không lường trước được. Con thuyền bé nhỏ vượt sông lớn là một chuyện làm quá sức. Việc đời khó nói được chuyện dại khôn. Sự có không còn mất cũng là định luật. Ngay chính con người đây cũng chỉ là sống ở thác về. Điều cần yếu là phải biết ta sống đây để làm gì? Khi chết sẽ về đâu? Phải lấy đạo-đức giồi tâm thì muôn việc đều thắng được trong cuộc đời này.

 Thầy dạy: 13-6-Bính Dần  (Jeudi 22 Juillet 1926)
 “Sự chết, thường thế gian gọi chết là hết, là vì dốt không biết đạo nên tưởng lầm. Khắp trong nhân loại trên mặt địa cầu nầy phần đông vì kính thờ Tà quái, mà Tà quái vốn chứa sự chết thì tức nhiên chúng nó ở trong vòng sự chết là phải tiêu diệt, thì bao giờ biết đặng sự hằng sống là gì.. Cười... Nếu Thầy không đến kịp, thì các con cũng vẫn bị trong vòng sự chết. Tà mị cũng như một hột lúa bị hẩm mà thúi, thì thế nào mọc đặng mà sanh bông trổ trái ? Còn bậc chơn tu tỉ như một hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, trổ bông rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số. Vì vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa chơn thần, chơn thần lại biến hằng muôn thêm số tăng lên hoài. Ấy là Ðạo.”
&
                                   QUẺ - 015:
Ý tại nhàn trung tín vị lai.
Cố nhân thiên lý tự bồi hồi.
Thiên biên nhạn túc truyền tiêu tức.
Nhứt điểm mai hoa xuân sắc hồi.
春色

                                   Dịch nghĩa:
Tin thư chưa lại ý mong chờ
Bạn cũ dặm ngàn luống ngẩn ngơ.
Cánh nhạn chân trời truyền tin đến.
Mai vàng một đoá điểm xuân mơ.

Chú giải:   Người cứ mãi mong chờ, nhiều khi là ảo vọng. Bạn cũ đi xa lòng luôn mong nhớ, nhưng liệu người có lòng nhớ mong hay không? Hễ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.Mọi việc đều có thời điểm của nó. Hãy làm hết sức mình trời sẽ giúp. Tận nhơn lực tri thiên mệnh là chỗ đó. Đời vẫn đẹp mà. Rồi có lúc được toại nguyện như hoa mai nở tươi vào ngày Xuân thắm. Sự toại lòng đó!

Dù thế nào cũng cứ giữ lòng trong sạch, giữ dạ thanh cao, nếu là cỏ hãy làm cỏ chi, cỏ lan, cho khỏi hổ. Thế nên, nơi Đền Thánh có chạm nhiều cỏ chi cỏ lan trên nóc Đền cũng không ngoài ý nghĩa ấy. Thánh ngôn:
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng để mùi gần chẳng biết hương.
Hiền ngõ rủi sanh thời bạo ngược,
Dầu cho Thánh Đức cũng  ra thường

&
                                   QUẺ - 016:
Tâm hoà đồng sự hoà đồng.
Môn ngoại hảo thi công.
Giao gia sự hữu chung.
和同
功。

                                   Dịch nghĩa:
Tâm hoà việc cũng theo chung.
Công quả thi hành tất đã xong
Mọi việc yên vui mừng đắc ý.
Thành công sau cuộc thoả lòng mong

Chú giải: Chữ hòa khó kiếm được trong buổi nhiễu nhương này.Có ba điều mong ước cho được là: Thiên thời, Địa lợi, Nhân Hòa. Nhưng tạo cho được cái Nhân hòa mới khó. Dầu khi có được hai yếu tố Thiên -Địa mà thiếu lòng Nhân cũng là trở ngại.Có câu “Thiên thời, Địa lợi đôi điều sẵn. Chỉ thiếu HÒA NHÂN đề hợp quần”. Bây giờ đây có được yếu tố thứ ba là có tất cả. Duy chỉ ở lòng mình phải thành thật mà thôi, tất cả mọi chuyện đều được như ý.

Đức Phật Quan-Âm dạy: “Ðạo quí là tại HÒA. Các em nghĩ thử mà coi, tạo Thiên lập Ðịa cũng bởi Âm Dương hòa hiệp sanh hóa muôn loài, cũng bởi một chữ Hòa, đến đỗi như thân của người có tạng có phủ, tạng phủ ấy nếu chẳng Hòa thì con người chẳng hề sống bao giờ. Kịp đến tâm hồn bất hòa thì thất tình lục dục đều phát khởi tranh ngôi với thần lương tâm, nếu kém lực thì con người ấy duy có sanh hoạt trong vòng vật dục, chớ chẳng hề biết Thiên lý là gì ? Các em thử nghĩ, cái phẩm giá của kẻ ấy cao hèn là thế nào. Người chẳng có Hòa là thế đó. Còn gia đình chẳng Hòa thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong luân lý chẳng Hòa thì dân cư bất mục. Nước chẳng Hòa thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất Hòa thì nhơn loại đấu tranh. Vì vậy, Thiếp khuyên các em dĩ hòa vi tiên.”.

&
                                               QUẺ 017:
Dục hành hoàn chỉ.
Bồi hồi bất dĩ.
Tàng ngọc hoài châu.
Thốn tâm thiên lý.
止。
徘徊
寸心

                                               Dịch nghĩa:
Muốn đi ý lại dừng.
Xao xuyến dạ vấn vương
Ngọc trữ châu còn chứa.
Tấc lòng muôn dặm trường.

Chú giải:  Việc đời không dễ dàng và êm xuôi như bước chân trên nền nhung gấm. Sở dĩ lòng còn hoài nghi là vì chính mình chưa hiểu được mình, công việc chưa đả thông  hoặc quá sức mình, lực bất tòng tâm mà ! Mình muốn vậy,  nhưng thời trời chưa cho vậy. Tìm biết cho kỹ rồi hãy làm vì trong đó còn có một cái gì vướng mắc, bởi thiếu sự thành đó!Lấy lương tri mà hành sử mới theo được Đạo trời

Tất cả đều nằm trong định luật, mà người thường hay cho là họa phước. Kinh Cảm ứng của Ðức Thái Thượng Lão Quân khởi đầu như trên, nghĩa là điều họa hay điều phước không có ngõ nhứt định, chỉ tại người tự dời đến cho mình, sự dữ lành hai lẽ báo ứng tỷ như cái bóng đi theo cái hình vậy. Theo kinh Cảm ứng: con người thở ra thở vô, hơi thở đều có thông đồng với Khí Hư vô của Trời cho nên niệm tưởng vừa phát động tuy người phàm không hay chớ Trời đã rõ thấu. Kinh Sám hối có lời giải nghĩa câu trên:
Điều hoạ phước không hay tìm tới,
Tại mình dời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tuỳ hình,
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn…”

&
                                   QUẺ - 018:
Tâm thích thích, khẩu thu thu.
Nhứt phiên tư lự, nhất phiên ưu.
Thuyết liễu hưu thời hựu bất hưu.
一番
又不

                                   Dịch nghĩa:
Lòng những xuyến xao miệng thở than
Một phen lo lắng dạ phiền nàn
Nghĩ rằng việc ấy xong rồi đó
Nói đã xong rồi vẫn chắng kham.

Chú giải: Lòng vẫn ngại lo vì mình biết mình hơn người khác biết, không dấu mình được đâu. Bởi chính mình khi đã tự trị mình thì không một Tòa án nào xử đúng hơn nữa. Phật sợ nhân, cho nên Phật không dám gieo nhân xấu, chúng sanh sợ quả, tức nhiên ở chúng sanh vì bức màn vô minh che khuất nên nhắm mắt làm theo dục vọng thấp hèn, đến thời kỳ thu hoạch toàn trái đắng mới hãi kinh thì đã muộn rồi. Hãy xét mình một ngày ba lần mới không lỗi lớn, nghĩa là phải kiểm điểm từng hành vi và biết lỗi mình.

Đức Hộ-Pháp nói: “Mọi nhà thờ Thiên-Nhãn sùng bái hằng ngày đặng Xét mình, coi các điều tội lỗi. Thoảng như trong tâm giục khởi làm việc chi bất bình thì sợ có quyền năng của Trời răn phạt, nên thờ Thiên-Nhãn là một phương mầu nhiệm cho mọi người biết tùng thiên-lý”.

Thi văn dạy Đạo có câu:
“Huỳnh lương một giấc cuộc đời in,
“Có trí có mưu phải xét mình.
&
                                   QUẺ - 019:
Bất viễn bất cận.
Tự dị tự nan
Đẳng nhàn nhất sự .
Vân trung tiếu khan.
事。
雲中

                                   Dịch nghĩa:
Xa gần chưa rõ lối cùng thông
Khó dễ không phân được lẽ đồng
Thơ thẩn gởi hồn mây gió thoảng,
Cười xem sự thế chuyển xoay vòng.

Chú giải: Đừng nghĩ rằng mọi việc làm của mình đều được che lấp không ai hay biết. Chính cái Tòa án lương tâm này nó làm việc một cách nghiêm túc và công bình vô cùng. Những chỗ mà ta cho là kín đáo, sâu sắc đến đâu cũng không dấu được lòng mình. Chính nó là Trời, thế nên “Dối người nào khác dối Trời”, nhưng chỉ một việc tự sám hối và kiên quyết với lòng mình thì mọi điều sẽ tiêu tan, như khi ta tự bôi xóa vết bẩn trên áo vậy. Hãy tin ở mình và thành thật với chính mình hơn tất cả.

Hãy nghe lời thú tội của PAUL DOUMER (1857-1932) 
Ông là Nhà chánh trị và hành chánh của Pháp, sanh tại Aurillac năm 1857, làm Toàn Quyền Đông Dương năm 1897 đến 1902, làm Chủ Tịch Thượng Nghị Viện năm 1927 và Tổng Thống Cộng Hòa Pháp năm 1931, bị ám sát chết  tại Paris năm 1932. Ông có giáng cơ bày tỏ:
Phạm nghiệp, ngày 3-8-Giáp Tuất (dl:11-9-1934)

PAUL DOUMER:  Kính chào quí Ngài.
- Phải, nhưng tôi đã thiếu một bổn phận mật thiết trước khi chết, đó là không chấp thuận đúng lúc sự tự do tín  ngưỡng của quí Ngài.
- Phải, nhưng quí vị  có biết chăng, thật là khó khăn cho việc thay đổi  lòng dạ con người. Họ có chịu nghe tôi nói không ? Sự thiếu sót bổn phận thiêng liêng ấy  đối với  Đấng Thượng Đế làm tôi trả giá 12 năm của đời sống của tôi. (Tuổi thọ giảm 12 năm). Tôi đến để chỉ  nói với  quí Ngài như thế. Xin cáo biệt.
&
                                   QUẺ - 020:
Đào lý tạ xuân phong.
Tây phi hựu phục đông.
Gia trung vô ý tự.
Thuyền tại lãng đào trung.
西

                                   Dịch nghĩa:
Đào lý cảm hương xuân.
Tây đông gió chuyển vần
Việc nhà chưa ý liệu.
Thuyền con sóng bũa gần.

Chú giải: Hai loại hoa Đào và Lý rất hợp với mùa xuân mát mẻ, nên khoe sắc đẹp màu. Nhưng rồi khi gió Đông về thì hoa kia cũng rả cánh, tàn tạ với thời gian. Việc này chỉ cho điềm trước tốt nhưng sau không được hài lòng. Trong nhà có điều không toại ý, đừng trách ai, đừng đổ lỗi ai. Hãy tự trách mình trước, rồi mới lấy đó làm bài học cho mình. Chúa dạy: hãy nói rằng: “Lỗi tại Tôi! Lỗi tại Tôi!”. Có khi nào ta không thấy được sóng vỗ vào chiếc thuyền con mà không lưu ý chăng ? Hãy tự kiểm điểm lại đi! Cũng nên biết rằng hoa là giống đẹp cả hương lẫn sắc, nhưng không bền, như cuộc đời của người vậy. Nhưng làm người không phải dễ:
Dễ gì lộn kiếp đặng làm người,
May đặng làm người khá dễ duôi,
Lành dữ hai đường vừa ý chọn.
Lành như tòng dữ tợ hoa tươi

&
                                   QUẺ - 021:
Nhứt thuỷ viễn nhứt thuỷ.
Nhứt sơn tuyền nhứt sơn.
Thuỷ cùng sơn tận xứ.
Danh lợi bất vi nan.
水。
難。

                                   Dịch nghĩa:
Nước xa một nước lại sông con
Núi lại vòng quanh bọc núi non
Danh lợi thành công rồi cũng dễ
Trải bao hiểm trở đến an toàn.

Chú giải: Tiền nhân nói:“Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai!” Tức nhiên mọi sự thành công trong đời đều luôn phải trả với một giá rất đắc. Khi nhìn lại một đoạn đường qua là đoạn đường khó, đôi khi ta thấy hãnh diện về sự thành công ấy hơn. Bởi người lính ra trận mà “Chiến thắng không gian khổ, thành công không vinh quang” Làm người phải tự lực cánh sinh. Đừng ngồi mát mà ăn bát vàng. Nếu hưởng những cảnh ấy tức là tự mình đã sỉ nhục mình rồi. Hãy làm một con người xứng đáng. Lòng tự trọng không cho phép chúng ta an hưởng.
&
                                   QUẺ - 022:
Sự tương phù. Tại bán đồ.
Phiên phú chung khả miễn.
Phong ba nhứt điểm vô.
扶。
半途
免。

                                   Dịch nghĩa:
Việc phải nương nhau để góp công
Dù chí dở dang đến nửa chừng
Lận đận lúc đầu sau tránh khỏi
Sóng yên gió lặng thoả lòng mong .

Chú giải: Trong cuộc đời không ai mà sống độc lập được, tức nhiên phải có sự trợ giúp lẫn nhau. Người hiểu biết là phải giúp nhau gọi là phụng sự. Ông Trời vì tinh thần phụng sự cho chúng sanh mới làm Trời. Cha mẹ vì phụng sự cho con cái mới làm Cha mẹ, nhưng nếu chỉ phụng sự trong cái vòng tình cảm gia đình là việc nhỏ. Phải phụng sự cho toàn nhân loại  mới đúng nghĩa phụng sự. Cuộc sống được thể hiện như vậy mới đáng sống. Khi mình đã quên mình lo cho người thì còn đâu là lời lỗ, hơn thiệt nữa, vì mình là con người của nhân loại rồi! Đạo Cao-Đài thể hiện bằng tinh thần phụng sự vạn linh là phụng sự Chí linh

&
                                   QUẺ - 023:
Hỉ, hỉ, hỉ. Xuân phong sinh đào lý.
Bất dụng cưỡng ưu tiên.
Minh nguyệt nhập thiên lý.
風生
煎。
明月

                                   Dịch nghĩa:
Quá vui chợt thoảng gió Đông phương
Đào lý đơm hoa xuân sắc hương.
Lo âu phủi sạch tâm yên tịnh
Trăng sáng chiếu soi tám dặm trường .

Chú giải: Khi người đến với địa cầu này phải mặc vào cho Chơn thần bảy lớp áo, đó là :Hỉ, Ái, Lạc, Dục, Ai, Ố, Nộ cho nó nặng mới nhập vào thai bào của Mẹ được. Mà cái từng HỈ này nó ở trong cùng hơn hết, còn từng NỘ giác nó lại ở tận bên ngoài. Vì vậy mà con người dễ giận lắm. Người tu là phải phá các lớp vỏ bọc bên ngoài mới hiện ra các đức tính tốt là HỈ, ÁI, LẠC được. Nếu có được đức hoan hỉ thì mọi việc đều xem như của bỏ, không hờn giận ghét ganh, không ích kỷ.Tâm ta bấy giờ như vầng trăng tỏ.

&
                                               QUẺ - 024:
Ý tư tư.
Tâm thích thích.
Yếu bình an,
phòng xuất nhập.
意孜 孜。
戚。
安。

                                               Dịch nghĩa:
Dạ lo toan.
Lòng sợ sệt.
Muốn được yên ổn.
Cẩn thận ra vào.

Chú giải: Lòng còn lo sợ là chưa tự tin. Mình chưa tin mình thì bảo ai tin mình. Phải thấy rằng: “Đức-tin nơi ta đó, trước hết ta biết ta, có biết ta rồi mới biết thiên-hạ, có biết thiên-hạ rồi mới biết đến Chí-Tôn là ngôi Chúa-Tể Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ, biết Đấng ấy là biết rõ mình vậy. Nếu chưa biết Đấng ấy thì đừng trông mong biết mình, mà chính mình không biết mình thì không còn ai biết hết. Sống không đức-tin, nghĩa là không tự biết mình, khác nào cây cỏ vật loại kia, thì không có nghĩa gì hết, sống ấy vô giá-trị”.  Lời trên đây là của Thánh nhân, phải biết phòng xa, đó là quân tử mưu.

&
                                   QUẺ - 025:
Kiến bất kiến, dã phòng nhân.
Bối diện ngộ bất ngộ, đáo để vô bằng cứ
。也

                                   Dịch nghĩa:
Dù thấy dù không phải ráng gìn
Trước sau, hư, thiệt cũng đừng tin
Chung cuộc chẳng gì nên cớ sự
Để tâm dè dặt khá xem khinh.

Chú giải: Trong đời nếu không đủ sức phán đoán hễ nghe thì mắc, tin là lầm. Không ai mà không một lần bị mắc kế thua mưu của người khác. Nhưng trong chữ ĐỜI nếu xê dịch các dấu đi sẽ thành ra chữ DỜI, dời là lệch đi vị trí ban đầu. Dịch nữa sẽ thành DỐI, dối là gian, không thật. Dịch nữa thành ra ĐỔI. Đời là như thế: dời đổi, dối gian là cái bịnh của thế nhân. Biết rõ sự thật thì không buồn. Nhưng phải biết mình, biết ta trăm trận trăm thắng.

&
                                   QUẺ - 026:
Nhứt phiên đào lý nhứt phiên xuân
Thuỳ thức đương sơ khí tượng tân.
Lâm hạ thuỷ biên tầm hoạt kế.
Kiến sơn liễu liễu xứng tâm thành.

                                   Dịch nghĩa:
Đào lý đơm hoa mở hội xuân
Ai hay khí tượng sắc thêm tân
Bên rừng dòng nước tìm phương sống
Thoả dạ trông vời cảnh núi non.

Chú giải:  Đào Lý là hai loại hoa nở về mùa Xuân. Người biết đón Xuân vui vẻ nhưng có biết Xuân là gì không? Xuân là Đạo. Là sự sống. Sự sống của con người cần yếu nhứt là không khí để thở. Mất không khí trong mấy phút đồng hồ sẽ không thở được là chết.Thiếu nước trong một hai ngày sẽ chết khát.Thiếu Đạo tâm người sinh loạn động.

Đạo là một nhu cầu rất cần yếu. Người không bao giờ lìa Đạo được là thế. Chính cái vui với đất trời cỏ cây hoa lá là vui với Đạo đó vậy.
&
                                               QUẺ 027:
Mạc quái ngã kiến thác.
Tâm tính tự thành a.
Thiên tích bất thông tâm.
Chân nhân khước bất ma.
   

                                   Dịch nghĩa:
Đừng trách ngỡ tôi lầm.
Bản tính vốn lặng trầm
Không thông lòng cách trở.
Ma quỷ khiếp người chân.

Chú giải: Câu “Chánh khí tà gian khủng. Đức trọng quỉ thần kinh” cho ta một niềm tin rằng cái chánh khí của người làm cho kẻ tà tâm phải khiếp sợ. Chánh khí là lòng đạo đức là cái chân tâm đó. Chính nó là bộ thiết giáp mà Thượng Đế đã ban cho tất cả mọi người. Dầu sang, dầu hèn, dầu địa vị cỡ nào mà để mất đi cái chánh khí là mất tất cả. Phải sống cho ra cái sống. Nếu sống mà cứ lo âu sợ sệt không khác nào mình mang cái xác chết bên mình. Có gì gọi là vui sướng đâu?
&
                                   QUẺ - 028:
Biền mã giao trì, nam nhi đắc chí.
Thời hành trình tảo biện, lao qui lạc kỳ.
  。男 兒得

                                   Dịch nghĩa:
Đôi ngựa vượt đường xa. Nam nhi đắc chí mà,
Hành trình nên liệu gấp.  Sung sướng trở về nhà.

Chú giải: Vượt đường xa có ngựa đỡ chân. Người Nam nhi được thỏa chí nguyện.Cuộc hành trình hãy sẵn sàng. Dịp may không đến hai lần.Trong chữ Nam Thánh nhân đã cho một vai trò là phải có sức mạnh để làm ruộng tức nhiên trên là chữ Điền dưới là chữ lực nghĩa là cái trách nhiệm chống đỡ với bên ngoài mà phải vững cái tâm nữa. Tâm đó là tâm điền. Một cái tâm đạo đức. Đạo đức không của riêng ai, mà là cái đạo lý chánh truyền muôn đời để lại soi chung.
&
                                   QUẺ 029:
Liễu khước tâm đầu sự.
Tam sinh túc hữu duyên
Hương khai thập lý quế.
Di bộ nhập thiên biên.
桂移

                                   Dịch nghĩa:
Hy vọng thoả lòng mong.
Ba sinh duyên phận nồng
Mười dặm thơm hương quế.
Chân trời dõi bước trông.

Chú giải: Trong đời người cứ xem như hạnh phúc là đủ cả danh, lợi, tình. Nhưng phải giữ cho lâu bền và tiếng thơm xa, tức là trên thuận lòng trời dưới hợp lòng người. Không đánh mất cái chân tính và chân tình. Cuộc sống an nhiên.

Tử-Trương viết: "Bất nhẫn hà như". Thầy Tử Trương hỏi: Còn chẳng nhịn thì dường nào ? Phu-Tử viết:
Thiên-Tử bất nhẫn quốc khống hư,
Chư-Hầu bất nhẫn tán kỳ xu,
Quan-Lại bất nhẫn hình phạt tru,
Huynh-đệ bất nhẫn cát phân cư,
Phu-phụ bất nhẫn tình ý sơ,
Tự thân bất nhẫn hoạn bất trừ.

Nghĩa là: Làm Vua mà chẳng nhịn thì nước phải trống không. Bậc Chư-Hầu chẳng nhịn thì hư bại thân mình. Bậc Quan-lại không nhịn thì phải chịu hình phạt. Anh em chẳng biết nhịn nhau, thì chia của cắt nhà phân ly thủ túc. Chồng vợ chẳng nhịn thì tình nghĩa ra phai lợt. Còn bổn thân của mình mà chẳng biết nhịn thì mọi việc hoạn họa chẳng dứt....Ðức Khổng-Tử giải nghĩa các bậc rồi, Thầy Tử-Trương ngậm-ngùi mà than rằng: phải lắm, phải lắm, thật là khó thay nếu không có chí kiên-nhẫn thì cũng khổ cho bổn phận làm người.!

&
                                   QUẺ - 030:
Duyên hoàng các, bạch liễu đầu,
Tất cánh thành hà tế,
Bất như sấn thử tinh thần do hảo
Mại ta chân khí.
好。

                                   Dịch nghĩa:
Lầu vàng nên duyên kiếp.
Sương pha trọn mái đầu
Cứu cánh còn đâu nữa.
Thời gian giục tuổi mau.
Còn chút tinh thần sáng.
Tìm dựa chốn thanh cao.

Chú giải:  Kiếp sống của người đầy đủ, nhưng mới là vật chất cũng là ân phước của ông cha truyền để. Không một ai tránh khỏi định luật tạo hóa là cái vòng sanh tử. Phải biết sống để làm gì? Chết sẽ về đâu? Những thứ tạo ra hôm nay, mai ngày có đem theo trong lòng huyệt lạnh hay không? Hãy lo trau tâm sửa tánh như đang chuẩn bị đi dự một tiệc sang trọng nhất.Đó là TU để trở về.TU kẻo muộn.

Thanh cao là gì? Thanh là trong sạch. Cao là cao thượng. Thanh cao là tốt đẹp cả trong lẫn ngoài, tức nhiên là mẫu người đạo đức. Đức Hộ-Pháp dạy rằng: “Về Bí pháp của Đạo cũng như triết lý của Đời là càng đau khổ thì càng kinh nghiệm, càng thanh cao. Con đường Thiêng liêng lập vị của Đạo cũng do nơi    Pháp ấy. Thử hỏi từ ngàn xưa, biết bao vị  đắc đạo mà không nhờ trong khuôn khổ nào chăng ?” Thi văn dạy Đạo có câu:
“Thanh cao là biết ngon dưa muối,
“Hơn ngự lầu Yên ngó đảnh Tần.”

                                   QUẺ - 031:
Tảo tảo khởi trình, miễn tha thất ý.
Ly biệt gian, Tuy bất dị,
Đồng bạn hành, do bất trệ,
免他

                                   Dịch nghĩa:
Dù rằng không dễ lúc xa nhau.
Cùng bạn ra đi há trễ đâu
Hãy sớm lên đường giờ chẳng đợi
Cùng người vui vẻ vẹn tình sâu.

Chú giải: Khó xa nhau được khi lòng còn vương vấn. Việc đời phải liệu biện cho đúng lúc, không thể sớm mà không thể muộn. Biết nắm lấy chữ THỜI thì mọi việc đều thuận lợi. Dịp may không đến hai lần. Trễ một phút lút một ngày. Khá biết lấy. Có tin vui.Thánh nhân cũng dạy rằng: Trong ba người đi, sẽ mất một người. Một người đi thì được bạn. Do câu “Tam nhân hành tắc tổn nhứt nhân. Nhứt nhân hành tất đắc kỳ hữu”. Đây là nói con người có Tam thể xác thân, tức nhiên xác thân, (chơn thần) Trí não và (chơn linh) linh hồn. Nhưng dù cả ba đến thế này làm chung một nhiệm vụ mà phần hành khác nhau. Đến khi chết thì xác thân này chết (tức là ba người đi thì mất một

người) Bấy giờ chỉ còn lại chơn thần và chơn linh. Nếu người biết tu thì chơn thần hòa nhập cùng chơn linh mà về Trời (tức là thăng tiến về trên). Nếu người không tu thì chơn thần phải theo xác thân mà chờ ngày thịt xương rục rã (Chơn thần bị đọa) chơn thần mới lơ lửng trên không.
&
                                   QUẺ - 032:
Lạc chi cực, hỉ ưu tương.
Tốn Đoài phân minh cát dữ hung
Vị năng quang đại chung u ám
Nhựt lạc tây sơn phản chiếu trung.
終幽
西 返照

                                   Dịch nghĩa:
Quá vui đường cuối đợi sầu than
Thuận nghịch dở hay quá rõ ràng
U ám còn nhiều chưa thấy sáng
Trời Tây chiếu lại bóng hoàng hôn.

Chú giải: Thành công không đi vào chữ quá! Vì tới chỗ quá là đến cuối đường. Như quá vui tất sẽ buồn. Lạc cực sanh Bi là vậy.Về Dịch hai quẻ Tốn và Đoài là hai quẻ trái ngược nhau, như bàn tay úp ngửa.Ánh sáng danh vọng dù chưa chiếu tới, nhưng phải thấy rằng ánh hoàng hôn dần lịm tắt, mau lo trau tâm luyện tánh, kẻo trễ bước.

Có câu: “Cực lạc sanh bi”. Hễ sự vui thích đến quá mức thì trở nên buồn thảm, điều ấy vẫn hiển nhiên. Ví như Trụ Vương Ân Thọ, đắm mê nàng Đắc Kỷ, vui say tửu sắc, đến nỗi mất nước, tiêu nhà hại mạng. Sự vui chơi của ông có lắm điều tàn ác, nào là chế bào lạc hại quan trung thần, nào là lập sái bồn, tửu trì, nhục lâm, sát hại cung nga thê nữ, vui cho đến mất cả sự nghiệp Thành Thang, làm cho bá tánh điêu tàn, sanh linh đồ thán. Ấy là sự vui chơi mà mắc tội với Thiên đình”.
&
                                   QUẺ - 033:
Quá ngộ ba đào tam ngũ trùng.
Thuỳ tri lãng tĩnh phản vô phong.
Tu giao minh đạt thanh vân lộ.
Dụng, xả hành, tàng bất cổ công.

                                   Dịch nghĩa:
Ba đào nhiều lớp đã từng qua
Lại cảnh sóng êm gió lặng hoà
Đến lúc đường mây thêm vẻ sáng
Dụng, xả, hành, tàng hẳn rõ ra.

Chú giải: Nếu tuổi đời cao là đã lăn lóc nhiều với đời, tuổi trẻ thì bước huy hoàng đang chờ đón. Thận trọng từng bước một thì sự thành công dễ đến hơn. Đừng hấp tấp, đừng vội-vã, đừng bôn chôn. Mỗi bước mỗi chắc-chắn thì dễ thành khó bại. Cứ làm đừng ngại. Tài sẵn, trí sẵn. Khi làm thì cứ đem ra sử dụng, khi không cần thì cất vào. Vốn sẵn đừng lo. Nhiều triển vọng. Ấy là do câu này “Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”.

Thánh ngôn Thầy dạy: “Các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa Chơn thần, Chơn thần lại biến hằng muôn thêm số tăng lên hoài. Ấy là Ðạo. Bởi vậy một Chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong Càn Khôn Thế Giới, nên chi các con là Thầy, Thầy là các con…Người gọi Quan Âm là Nữ Phật Tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Ðạo Nhân biến thân. Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần đời nhà Thương. Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngài chiết Chơn linh của Từ Hàng Bồ Tát giáng trần, tu hành tại Phổ Ðà Sơn, đắc đạo thành Bồ Tát lấy hiệu là Quan Thế Âm. Từ Hàng Bồ Tát lại giáng sanh vào thời Phong Thần Trung hoa”.

&
                                   QUẺ - 034:
Khuyết nguyệt hựu trùng viên,
khô chi sắc cánh tiên,
Nhứt điều di thản lộ, kiều thủ vọng thanh thiên.
圓。
路翹

                                   Dịch nghĩa:
Vành trăng khi khuyết lại khi tròn
Cành lá tuy khô sắc vẫn còn.
Đường bước trông ra bằng phẳng quá
Trời xanh một sắc ngẩng đầu trông.

Chú giải: vầng trăng tượng trưng sự biến dịch của cuộc đời, khi tròn lúc khuyết. Đời người lúc hiệp rồi có lúc lại phân ly. Cành lá tuy khô nhưng vẫn còn hương sắc, cũng như người dù hòan cảnh nào cũng vẫn giữ nét anh phong sẵn có. Nhưng nên nhớ con đường không bao giờ bằng phẳng, hãy lập chí cho cao mới không thẹn với trời xanh. “Đời quá ư bạo-tàn, cho nên Đức Chí-Tôn mới giáng trần mở Đạo cho con cái biết: các ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật đều tình nguyện hạ thế cứu đời, xuống bao nhiêu lại càng mất bấy nhiêu. Trong thời-kỳ ấy Bần Đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống thế mở Đạo”

&
                                   Quẻ - 035:
Hành  lộ nan, hành lộ nan,
Kim nhựt phương tri hành lộ nan,
Tiền trình quảng đại hà túc lự,
Miễn lực kim triêu độ thử than.
路難
行路
何足
度此

                                   Dịch nghĩa:
Đường đi khó ! Đường đi khó !
Đến nay mới biết đường đi khó
Thăm thẳm dặm dài đâu đáng ngại
Thác ghềnh qua khỏi gắng công dò !

Chú giải: Một nhà văn đã bày tỏ “Đường đi khó ! Đường đi khó! Không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Thật vậy, từ xưa đến giờ con người đã vượt qua nỗi khó là nhờ có ý chí, nên bất cứ việc gì cũng đạt được kết quả như ý muốn. Hãy nhìn vào giới Nữ ngày nay hầu như không một ngành nghề nào mà không có mặt, mà còn đảm nhiệm nhiều trọng trách:

 Đức Hộ-Pháp nói về Cảnh Thiêng liêng Hằng Sống: “Có các Đấng cao siêu đến Nguơn Tứ Chuyển này đặng tạo hình các chơn-hồn, họ xuống tại thế đặng chuyển thế, dầu Nam Nữ ở các Cung cũng đến tại thế gian này, làm đàn bà đặng thay các sắc dân ấy để chuyển thế, chơn thật nơi cõi Hư-Linh kia không phân biệt Nam Nữ, Đức Chí-Tôn nói: Nam không được lấn quyền hành hơn Nữ, Nam Nữ đều con của Đức Chí Tôn hết, nói như thế ta biết không có gì lạ.”
&
                                   QUẺ - 036:
Xuân cảnh minh, xuân sắc tân,
Xuân ý bàng thuỷ sinh,
Xuân thiên vô hạn hảo,
Hảo khứ yến quỳnh lâm.
色新
好。

                                   Dịch nghĩa:
Cảnh sắc trời xuân sáng tỏ ra,
Ý xuân cùng nước đượm bao la
Ngày xuân vô hạn bày muôn sắc
Đãi bạn rừng quỳnh tiệc lạc ca.

Chú giải: Thử hỏi trong đời người có gì làm cho cõi lòng vui bền bĩ nhứt ? Nếu nói về vật chất thì dù cho một tiệc tùng hay cảnh hoan lạc nào độc đáo nhất thì cũng chỉ trong vòng vài ngày thôi. Chỉ có cái vui tinh thần, hay đúng hơn là sự tu trì mới được cái vui bền bĩ, thú vị nhất, dù trong hoàn cảnh trái ngang mà biết hưởng thụ cũng thấy hân hoan trong lòng. Ngài Bảo-Thế Lê-Thiện-Phước đọc diễn văn tại Tokyo, rằng: “Người ta có quan-niệm nhà tu trì chỉ biết có kinh kệ nguyện-cầu, mà Quên rằng vì thương hại chúng-sanh nhà tu  mới sớm kệ chiều kinh cầu-nguyện cho chúng-sanh bớt khổ. Quên rằng chớ chi các nhà thông-thái phát-minh nguyên-tử-lực chịu hợp-tác với nhà tu-trì để sử-dụng thì lực nguyên-tử sẽ dùng vào việc giúp ích cho thế-gian hơn là giết hại đồng-chủng. Quên rằng nếu lấy đạo-đức khuyến thiện là bổn phận thiêng-liêng của nhà tu đặng bảo-thủ Hoà-bình, còn lấy bạo-hành ép buộc dân-chúng thì không bao giờ hết loạn. Thoảng như đời biết nương Đạo, thì Đạo sẽ nâng tay dìu đời. Ngặt vì đời quá rẻ-rúng Đạo, bảo sao người tu hành không lánh mình ngoài chốn oai-quyền thế-lực để mặc ai sa vào cạm bẫy của tà-thần, tự rước lấy sự thất-bại chua cay vô phương cứu chữa”.
&
                                   QUẺ - 037:
Vạn mã qui nguyên, thiên viên triêu điêu,
Hổ phục long giáng, đạo cao đức trọng.
  。千
 

                                   Dịch nghĩa:
Muôn ngàn vó ngựa, vượn kêu sương
Hổ phục rồng chầu, vẻ thuận lương
Thành kỉnh ngưỡng tôn ân đức trọng
Đạo cao khắc phục thú cầm hồn.

Chú giải: Một tướng giỏi ra trận tiền giữa muôn ngàn quân hò reo chiến thắng thì cái thành công ấy phải trả giá trên muôn ngàn xác chết của binh sĩ mà thôi. Có câu “Nhứt tướng công thành vạn cốt khô”. Tuy bản lĩnh thật, tài bách chiến bách thắng thật, nhưng chỉ một thời. Hãy biết xây dựng thành công trên tinh thần đạo đức mới được.

Thầy dạy: “Có nhiễm trần, có lăn lóc mơi sương chiều gió, có kim mã ngọc đàng, có đai cân rực rỡ, có lấn lướt tranh đua, có ích kỷ hại nhân, có vui vẻ với mùi đỉnh chung lao lực, mới thấy đặng tỏ rõ bước đời gai chông khốn đốn, mới thấy cuộc nhục vinh, buồn vui không mấy chốc, chẳng qua là trả vay vay trả đồng cân, chung cuộc lại thì mối trái oan còn nắm, mà cũng vì đó mới thấy đặng đường hạnh đức trau mình, trò đời chẳng qua một giấc huỳnh lương”.

&
                                   QUẺ - 038:
Hoàng ly báo thượng lâm,
Xuân sắc tiên minh,
Đề tiên khoái trước,
Mã thượng tốc hành trình.
。春色
馬上

                                   Dịch nghĩa:
Hoàng anh khẽ hót bên rừng
Cảnh xuân tươi sáng tưng bừng cỏ thơm
Vút roi giục ngựa bước dồn,
Vó câu thắm thoát thẳng bon đường dài.

Chú giải: Sự vinh quang được chào đón, hòa quyện với không khí tưng bừng. Lòng người hớn hở mở rộng niềm vui. Sự việc được hài hòa, công thành danh toại. Phải nhớ:

Các Đấng nói: “Cái khôn ngoan của mình là quỉ, nếu nó dìu đường mình đi theo nó thì mong gì đoạt được ngôi vị cao trọng đối phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật mà Chí-Tôn đã hứa: “Nếu các con có thể hơn Thầy, thì Thầy cũng hạ mình cho các con đoạt được ngôi vị”, ấy là hàng phẩm của Đức Chí Tôn đối cả Chơn-Thần. Hại thay, họ không muốn nghe và không muốn biết, bởi không dám biết mình sợ e cho họ không biết, nên Quỉ tánh họ dục theo con đường thú, thành thử ra cái tấn tuồng tương-tàn, tương sát nhau tại thế-gian này.”

&
                                   QUẺ - 039:
Đại tứ phóng linh đan,
Cứu nhân hành vạn lý,
Đáo đầu đăng bỉ ngạn,
Độ quá nhập tiên bang.
丹。
岸。

                                   Dịch nghĩa :
Thuốc tiên ban rải khắp nơi
Muôn ngàn người hưởng ân Trời dành cho
Quay đầu muốn vượt bên bờ
Đưa người vào chốn mộng mơ Tiên thần.

Chú giải: Làm việc phải cũng như gieo giống quí sẽ gặt hái quả ngon. Tuy vậy không phải chỉ hưởng riêng một mình mà phải biết ban rải cho nhơn sanh hưởng nhờ. Cũng như nền Đại-Đạo ngày nay sở dĩ gọi là Tam Kỳ Phổ Độ là vì tôn chỉ là dẫn đến Đại Đồng. Nay, Việt Nam hân-hạnh được đón nhận nền Đại-Đạo trước tiên để rồi thông truyền cho cả thế giới một nền Tân Tôn giáo với chủ-nghĩa Đại Đồng để hưởng Cơ Đại-Ân-Xá lần ba của Đức Thượng Đế 

 Đại-Ân-xá là gì?  Tức là một cuộc Ân-xá lớn (tiếng Pháp gọi là Troisième Amnistie de Dieu en Orient). “Mỗi nguơn hội Đức Chí-Tôn với lòng Từ-bi tha thiết thương con cái của Người không nỡ để chìm đắm nơi sông mê bể khổ, nên mỗi nguơn hội Đức Chí-Tôn có mở một kỳ Phổ-Độ để cứu vớt nhơn-sanh và rước các Nguyên nhân tức là nguyên linh đã xuống trần nay đem trở về ngôi vị cũ. Như thế thì mỗi Kỳ Phổ-Độ đều có mở một cuộc Ân-xá, mở cửa dễ dàng cho các Đẳng chơn hồn có đủ phương lập vị. Nền Đạo này là Cơ Đại-Ân-Xá tận độ chúng sanh nên Cao-Đài xưng là Đại-Đạo. Vì chủ-nghĩa tối cao của Đại-Đạo chẳng những là QUI TAM-GIÁO HIỆP NGŨ CHI mà thôi, mà phải làm thế nào dầu bậc Đế vương ngoài thế cũng phải bái phục, phải tùng Đạo, phải dò theo các cơ thể của Đạo, phải nhờ Đạo mới mong trị an thiên hạ đặng.
            Vậy mới gọi là HIỆP NHỨT.!
            Vậy mới gọi là ĐẠI-ĐẠO !
&
                                   QUẺ - 040:
Nhất đái thuỷ, bích trừng trừng,
Châu vãng giang thượng,
Nguyệt đáo thiên tâm,
Ổn bộ kỳ trung, Huyền diệu bất văn,
Phi nhân ngộ kỷ, Kỷ táng sinh thân.
澄澄
月到
玄妙
幾喪

                                   Dịch nghĩa:
Nước xanh một dãy trong veo
Thuyền neo trên bến,  trăng treo lưng trời
Bước chân đã chắc vững rồi,
Huyền hư đâu thấy hẳn người hại ta
Cơ hồ nguy hiểm chắc là.

Chú giải: Buổi đầu thấy như thành công rực rỡ, nhưng chớ vội mừng. Vì chữ Tài đi với chữ Tai một vần. Thành công hay thất bại cũng đã có số Trời. Hãy nhìn chữ SỐNG phải chăng khởi bằng chữ SỐ hay sao ? Tức nhiên khi con người vừa sinh ra là có số định, nếu không như vậy thì liệu con người có làm gì khác hơn không. Tuy nhiên, phía sau chữ SỐ còn có chữ NG (đọc là ngờ) nghĩa là nếu biết lấy đạo đức giồi tâm thì có thể cải số. Bằng ngược lại thì niềm vui chóng tàn. Cuộc đời này sự thạnh suy bĩ thái như giọt sương trên ngọn cỏ, chỉ lâu hay mau là do ánh nắng đến sớm hoặc muộn mà thôi: sương tan biến tức thời. 

&
                                   QUẺ - 041:
Đào lý thư nghiên, xuân quang tiên lệ,
Lương thần mỹ cảnh, quân tu ký,
Tuy tâm sở vãng, sự sự tương nghi,
Vô dụng đa nghi, can độc thần chỉ.
。春光鮮
君須
往。事事
。干瀆

                                   Dịch nghĩa:
Vẻ xuân tươi sáng lý đào xinh
Ngày đẹp cảnh vui khá vững tin
Việc hẳn muốn đi thời cũng hợp .
Nghi ngờ chi nữa phạm thần linh.

Chú giải: Sự tốt ắt lâu bền. Phải biết cách duy trì. Phải chăng cũng do ân đức tiền nhân lưu lại. Nhưng nên nhớ “Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây” và phải biết vun quén cho cây thêm xanh tốt. Người muốn hưởng phước lâu dài phải biết trồng “cây đức”.Do vậy mà người muốn làm Môn đệ của Thượng Đế “Khi mới Nhập môn vào Đạo Cao-Đài lập Minh thệ thì đặng hưởng hồng-ân là thọ phép Giải oan. Phép này rửa sạch tội tiền khiên của mình từ trước. Phép này cũng là một Đại Ân xá những tội tình, nhưng từ ngày Nhập môn về sau thì phải gìn giữ đừng gây thêm tội mới cho đến ngày chết tức là ngày trở về với Đức Chí-Tôn (Đại-Từ-Phụ) thì được nhẹ nhàng rất nhiều. Ngoài Bí Pháp giải-oan này Đức Chí-Tôn còn ban cho Pháp Tắm Thánh, pháp làm Hôn phối và đặc biệt nhứt là phép xác và phép độ thăng. Người Tín-hữu Cao-Đài nào giữ được 10 ngày chay trong mỗi tháng đổ lên được thọ truyền bửu pháp tức là hưởng được phép xác, cắt hết 7 dây oan-nghiệt. Linh hồn không còn bị ràng buộc với thi hài bởi 7 dây oan nghiệt nữa nên được xuất ra nhẹ-nhàng về cõi Thiêng liêng hằng sống. Còn phép Độ thăng là để giúp cho linh hồn  Chức-sắc được nhập vào Bát-Quái-Đài dễ-dàng hơn”.

&
                                   QUẺ - 042:
Ẩn trung hiển, hiển trung vi,
Cá trung hữu huyền cơ, tham đắc thấu liễu,
Trực thượng Tiên thê.
參得

                                   Dịch nghĩa :
Ẩn hiện, hiển minh quá tế vi
Huyền cơ ắt hẳn há còn nghi?
Dự vào tất sẽ lòng ta thấu.
Lên thẳng thang Tiên có khó gì !

Chú giải: Ẩn là dấu kín, hiện là bày ra trước mắt mọi người. Cũng như người có thể xác và linh hồn. Kẻ nào chối sự có mặt của linh hồn thì một là chưa rõ thông lý Đạo, hai là làm ra vẻ tinh thông khoa học thực nghiệm. Cả hai đều đáng tội nghiệp. Đức Hộ-Pháp nói “Phải hiểu THỂ-PHÁP, biết Thể pháp rồi mới thấu đến BÍ-PHÁP. Khó lắm! Phải để tinh-thần tìm hiểu cho lắm! Khó lắm ! Phải rán học cho lắm mới có thể đoạt  đặng! Điều rất khó khăn là phải viết sách. Vì “Có Thể pháp thì có Bí-pháp! Các vị Giáo-chủ cũng phải tùng theo khuôn luật đó, một nền Tôn giáo có THỂ PHÁP là cơ-quan GIẢI KHỔ cho chúng sanh, tức nhiên phải có BÍ-PHÁP đặng làm cơ quan GIẢI THOÁT cho chúng sanh. Hễ độ phần xác tức nhiên phải độ phần hồn cho toàn vẹn. Một nền TÔN GIÁO đã xuất hiện tại thế gian này dầu Thể-Pháp cao siêu bao nhiêu đi nữa, nếu không có Bí Pháp làm tướng diện căn bản thì nền Tôn Giáo ấy chỉ là Bàng môn Tả đạo mà thôi”.
&
                                   QUẺ - 043:
Vô thượng khứ, tại tiền đầu,
Hồi đầu nhứt ngộ,
Thằng cương hảo thu,
Thiên điều vạn tuyến lộ thường tại,
Tự hảo sưu cầu.
。回
好收。千條萬線 在。自好搜

                                   Dịch nghĩa:
Con dường trước mặt khá nhanh chân
Ngảnh lại nghĩ suy nhụt chí dần
Tuấn mã dây cương thu gấp lại
Tự mình chọn lối giữa ngàn phương.

Chú giải: Phải liệu gấp, thời gian không đợi. Hãy thu xếp, không còn chần chờ được nữa. Sáng suốt mà liệu biện. Việc này có khác nào các vị Tướng soái của Thầy cắm cờ Bến hải. Đức Hộ-Pháp nói: “Nhiệm vụ trọng yếu của Thầy trò ta phải ra gánh vác. Đó là CƠ CỨU KHỔ thực hiện”. Phong trào Hòa Bình Chung Sống do các ông THOẠI, KỲ, ĐẠI, LỢI tổ chức Ban Túc trực Bến Hải cắm cờ Nhan Uyên tại đó kêu gọi hai miền Nam- Bắc sớm thống nhất, bị chánh quyền Ngô Đình Diệm giải tán. Cũng nên biết vào ngày 23-10-1961 Sĩ Tải Phạm Duy Nhung thừa Ủy-quyền của Đức Hộ Pháp họp báo tại nhà hàng Soái Kình Lâm (Sài gòn) công bố các bức thư gởi qua Mỹ, Anh, Pháp (trong Hội nghị Genève) có đoạn viết: “Chúng tôi tin tưởng sự chân thành của qúi quốc với đại danh là liệt cường luôn luôn có ý chí giúp đỡ dân tộc chúng tôi mà không vụ lợi” ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt và tra tấn đến chết.
&
                                   QUẺ - 044
Tứ cố vô môn lộ,
Đào nguyên lộ khả thông,
Tu luyện thành chánh quả,
Vạn tuế thọ như tùng.
路。桃
。萬

                                   Dịch nghĩa:
Bốn phương không lối biết tìm đâu?
Chốn ấy Đào nguyên ngõ dễ vào.
Tu luyện tất thành viên quả mãn,
Nghìn năm hưởng đặng tuổi tùng cao

Chú giải: Trong vũ trụ trời đất rộng thinh. Thế mà có người vẫn than rằng không lối thoát, đó là khi tâm hồn quá quẫn bách. Người bị nhốt trong tứ khổ, cũng như cái xác thân này nhốt cả linh hồn không lối thoát vậy. Chỉ có một cách duy nhất là phải năng tu hành. Khi tu thì phải quên đi những gì ràng buộc, chịu khó chịu nhọc sửa tánh trau lòng, phụng sự vạn linh. Sự khó nhọc này như nước bốc hơi. Nước bốc hơi phải chịu cao độ mới thành mây trời bảng lảng, bay ngút chín từng cao, mặc tình bay lượn trên trời. Ấy là lúc nước mây trở lại với “Quê hương tinh thần” trên chín từng  không là vậy.

&
                                   QUẺ - 045:
Bất dụng mang, bất dụng hoang,
Tự hữu trú túc hương,
Minh cổ hưởng chung địa,
Tam bảo kiến môn tường.
忙。不 用慌
地。三

                                   Dịch nghĩa:
Đừng quá hoang mang trước sự tình
Hữu duyên vững thế rõ như in
Khua chuông gióng trống thần linh chứng
Cửa Phật không xa, tất hiện hình.

Chú giải: Phải có đức tin mạnh mẽ, khi đã làm thì không còn hoang mang vì biết chắc đây là việc phải làm, nên làm. Khi đã quyết đoán rồi sẽ có thần linh ám trợ. Còn nếu việc tà thì cũng có tà thần giúp sức. Nên nhớ cuộc đời luôn có hai mặt. Nó cũng nằm trong qui luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” mà thôi. Thi văn dạy Đạo rằng:
Ðài vân Quan Võ để phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.

&
                                   QUẺ - 046:
Bôn ba nhứt thế, tổng thị hư phù,
Vô thường nhứt đáo,
Vạn sự hưu, cấp tảo hồi đầu.
世。 總是
。萬

                                   Dịch nghĩa:
Bôn ba lắm nỗi lại thành không
Số đã định rồi luống uổng công.
Mọi sự khá dừng tua giác ngộ
Hãy mau  ngoảnh lại chốn thiền không.

Chú giải: Trong cuộc sống phần đông cứ bôn ba để lo vun bồi vật chất, nhưng vật chất không bao giờ đủ, tức nhiện đòi hỏi sự lợi lộc cho bản thân, cho gia đình, cho con cháu, người đời nói rằng đó là “Túi tham không đáy”. Chuyện ngụ ngôn về “Ăn khế trả vàng” không ai còn lạ. Nhưng phải biết người đến thế trước nhứt là trả quả. Đức Lý Giáo-Tông có nhắc lời của Chí-Tôn dạy cách trả quả:
Trái oan chưa dứt  thuở nào thôi ?
Muốn đặng phi thăng, ráng  trả rồi.
Cượng lý  tu hành  cho thoát tục,
Tiền  vay  nợ  hỏi, sổ ai  bôi ?

“Các con ôi ! Phải ráng vui lòng mà chịu điều cực khổ. Hễ Thầy thương các con chừng nào thì hành hạ các con chừng nấy. Bởi vậy, khi các con hiến thân hành đạo với Thầy, đã lịnh truyền cho Thần, Thánh bắt  các con  phải trả cho đủ kiếp, đặng trừ cho kịp kỳ nầy. Bởi các con phải chịu Luật luân hồi, vì cớ mà các con phải chịu điều khổ sở như vậy, các con chớ than phiền, chính theo lời thề của các con thì Thầy hành các con cho đúng lẽ. Vậy mới xứng đáng là Môn đệ của Thầy. Có nhiều đứa vì không rõ Luật Thiên điều, cứ  than van mãi.” Vậy, chư Hiền hữu, Hiền muội nghe Ơn Trên dạy đành rành. Nợ thì phải trả, chớ không chạy đâu được. Dầu  một vị  Đại La mà phạm luật Thiên điều thì cũng phải tái kiếp mà đền bù cuộc trả vay.”

&
                                   QUẺ - 047:
Chân chân chân, nhân bất thức,
Chân chân chân, thần hữu linh,
Qui tông phản bổn,
Phương uý nguyên tinh.
不識
有靈
方畏

                                   Dịch nghĩa:
Quá thực mà người chửa biết sao !
Toàn chân linh ứng có thần cao
Quay về nguồn gốc tìm chân lý
Chỉ sợ tinh thần vẫn xuyến xao.

Chú giải: Tâm chân chánh thì làm cốt cho Thần, Thánh, Tiên, Phật ngự, phải biết trọng kỉnh. Người đời khi được dịp may thì nghĩ rằng chính mình hay khéo giỏi, quên rằng luôn có sự ám trợ bên trong đó. Phải lập cho mình một đức tin vững chắc. Thầy dạy ngày  29-1-Bính Dần (1926):

“Thầy cho các con biết trước đặng sau đừng trách rằng quyền hành Thầy không đủ mà kềm thúc trọn cả môn đệ. Các con đủ hiểu rằng, phàm muôn việc chi cũng có thiệt và cũng có dối. Nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt. Cười...”
&
                                   QUẺ - 048:
Tẩu tận thiên nhai,
phong sương lịch biến,
bất như vấn nhân, tam thiên tiệm tiệm,
hữu hồi thủ kiến.
。風
人。三天 。有

                                   Dịch nghĩa:
Sẩy chân đến tận chơn trời
Gió sương dù trải hỏi người vẫn hơn
Ba ngày lần lửa qua luôn
Ngoảnh đầu tất thấy tỏ tường tướng chân.

Chú giải: Sự thể tưởng đâu dễ dàng, sống trong xã hội phải chịu vày bừa cùng thế sự. Nó như dòng nước lũ cuốn trôi tất cả rồi đưa ra biển. Bởi người đến thế này một là trả quả, hai là học hỏi; ba là làm thiên mạng. Nhưng phải biết:

Thế nào gọi là Trả quả ? -Là nhận chịu các nợ tiền khiên đã kết nạp trong nhiều kiếp chỉ quyết trả cho xong mà không vay thêm nữa.

Có hai cách Trả quả: - Một là quả báo về tinh thần ở phạm vi tư tưởng, buồn  thảm âu sầu. - Hai là quả báo về xác thịt, tật bệnh, đói rét, khốn nàn. Quả lại chia ra làm ba ảnh hưởng:
1 - Là quả báo cá nhân do mình tạo ra.
2 - Là quả báo của chủng tộc do  nòi  giống  tạo  ra.
3 - Là quả báo do quần chúng của mỗi người trong xã hội gây ra. Vậy muốn dứt các dĩ vãng là kết quả của hiện tại âu sầu thống khổ thì phải lấy cái hiện tại mà tạo cái tương lai cho được rực rỡ vẻ vang, rồi lấy cái tương lai đó mà tạo một cơ sở vững vàng muôn kiếp, tức là đi tới chỗ trường sanh bất tử đó vậy.”

                        QUẺ - 049:
Trầm trầm a nhiễm, bất kiến thiên tâm.
Lôi môn nhứt chấn, thể kiện thân khinh.
。不
。體 輕。

                                   Dịch nghĩa:
Bệnh tình trầm trọng khổ đau
Lòng Trời khôn rõ thấp cao thấu tình
Cửa lôi chấn động giật mình,
Thể thân khang kiện, sự tình khỏi lo.

Chú giải: trước có điều lo nghĩ, sau mọi việc đều thuận hợp, ấy là nhờ một tinh thần đạo đức sẵn, đức tin lớn. Như trường hợp của Ngài Tiếp Pháp Chơn Quân Trương văn Tràng: Qua cuối mùa thu năm Giáp-Thìn (1964) Ngài Tiếp pháp Trương văn Tràng ngoạ bịnh điều trị tại nhà thương Phạm Hữu Chương (Chợ-lớn) kế qua nhà thương Grall (Đồn đất) Sài gòn. Bịnh tình ngày càng gia tăng mãnh liệt, gần như tuyệt vọng. Ngài xin với Hội-Thánh cầu một đàn cơ để cầu xin thiêng liêng cho thuốc chữa trị. Hội-Thánh chấp thuận, liền thiết đàn Cơ tại Giáo-Tông-Đường. Ngài Khai-pháp giáng Cơ dạy Hội-Thánh xuống nhà thương Crall rước Ông về Tòa Thánh cầu nguyện và dùng thuốc Nam. Lời dạy ấy nhằm ngày 4-01-1964. Sau 7 ngày,  làm đúng như lời dạy, bịnh tình Ngài Tiếp-Pháp khỏi hẳn. Ngài Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa và Tiếp-pháp Trương văn Tràng là một cặp Cơ Phổ-Độ từ buổi khai Đạo. Ngài Khai-pháp dầu đã Qui Thiên, nhưng lúc nào cũng quan tâm đến bạn đồng môn còn tại thế. Sau khi bình phục Ngài Tiếp Pháp có làm mấy bài thi  để tỏ lòng biết ơn Hội-Thánh và tất cả đã lo cho Ngài:
1 -  Đường đời khúc-khuỷu biết đâu lường,
Trên có Huỳnh-Nương hết dạ thương.
Khai-Pháp Chơn Quân truyền diệu lý,
Quần Tiên rưới phước hộ Thiên-lương.

*  *  *

2 -  Trời chiều bảng-lảng bóng thiều-quang,
Tiếng trống thu không giục khách nhàn,
Đoái lại chúng sanh thiên vạn ức,
Vẫn còn bận bịu với thời gian.
Tiếp Pháp Trương-Văn-Tràng

&

                        QUẺ - 050:
Tài mã lưỡng vật mang,
Quan lộc hữu định phương,
Ngưu khuyển trư dương,
Tự khứ chủ trương.
忙。官祿

                        Dịch nghĩa:
Của cải ngựa xe há bận tâm
Tiền tài quan chức đã an phần
Thú nhà vốn sẵn tâm an nghỉ.
Lo liệu tuỳ nghi thích ứng dần .

Chú giải: Dầu cho cá nhân bạn được an hưởng cỡ nào, nhưng phải thấy đây là cảnh trần là cảnh khổ nhiều vui ít:
“Trần tục là cõi sầu than khổ lụy dành cho các Đấng vô hình vì bị tội lỗi, lạc lầm mà phải sa đọa đặng tìm phương giải thoát trầm luân qui hồi cựu phẩm. Trần tục cũng là trường thi công đức, dành cho khách phàm trả nợ tiền khiên, dứt đường oan trái đặng lập vị thiêng liêng khỏi luân hồi chuyển kiếp. Khái niệm như trên thì bao nhiêu khổn trần là bấy nhiêu bài học, mặc dầu mặn đắng chua cay, nhưng cứu cánh là cảnh tỉnh người trí, rút lấy kinh nghiệm, quay về đời sống thuận theo Thiên lý, bỏ đời sống dựa theo nhục dục. Thiên lý là Đạo, nhục dục là tội tình. Đạo thì mãi còn, tội tình thì sớm mất. Vả lại, Đạo không xa người, duy người xa Đạo, nên sách rằng: "Đạo giả dã bất khả tu du ly dã. Khả ly phi Đạo dã". Bởi đó:
- Người không Đạo thì xử sự không hợp lý, hợp tình.
- Nhà không Đạo thì luân thường đảo ngược.
- Nước không Đạo thì chơn trị không còn.
&
                                   QUẺ - 051:
Không không không không.
Hoàn đắc thành công.
Bàn đào thiên tải thục.
Bất phạ ngũ canh phong.
。不

                                   Dịch nghĩa:
Không không rồi lại cũng hoàn không
Muôn việc tất thành há đợi mong
Đào tiên đã chín muôn năm đó.
Đâu sợ năm canh gió ngược giòng.

Chú giải: Cuộc đời này nếu nhận chân rõ-rệt thì nó đúc kết bởi 4 chữ “không” tức là không thực, không tồn tại, không vĩnh cữu, không là cứu cánh mà chỉ là phương tiện.

Vậy thì ngày nào con người còn mạnh tranh trên thị trường cơm áo đất đai; ngày nào thiên hạ còn nhị phân lý tưởng, chưa hòa đồng trên một độc nhứt kế hoạch tồn sinh, thì khó trông mong tái lai ngày quang đãng. Ánh Thái Dương rọi sáng khắp nơi, nẻo Đạo-đức dễ tìm khắp chốn, nhưng nhơn tâm còn lắm say sưa trong phồn hoa ảo mộng, thì phương tối hậu để vén màn hắc ám là nhờ năng

lực tinh thần của Tôn giáo. Từ thử nhiều Tôn giáo đã đem hết thiện chí trợ khổn cho đời, nay ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ cũng cùng theo một chí hướng.
Đức Phật Quan Âm kết thúc  bài thơ vận “Không”
Khán đắc phù sinh nhứt thế không,
Điền viên sản nghiệp diệc giai không.
Thê nhi, phụ tử chung ly biệt.
Phú quí công danh tổng thị không.
Cổ ngữ vạn bang đô thị giả,
Kim ngôn bách kế nhứt trường không,
Tiền tài thu thập đa tân khổ,
Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ không.

                        Soạn giả Tạm dịch:
Xem trong cuộc thế rốt rồi không !
Ruộng vườn nhà của cũng hư không .
Vợ chồng, cha mẹ đâu thường tại,
Danh vọng, Giàu sang cũng hóa không
Lời xưa chứng chắc trăm ngàn dối.
Nay quyết mưu sâu cũng chữ không
Thâu thập tiền tài nhiều khổ lụy,
Đường về nhắm mắt nắm tay không !

&
                        QUẺ - 052:
Sầu kiểm phóng, tiếu nhan khai,
Thu nguyệt thụ cao đài,
Nhân tòng thiên lý lai.
顏開
 

                                   Dịch nghĩa:
Nét sầu trên mặt dần phai
Nụ cười tươi tắn như ngày trăng lên
Đài cao chiếu sáng mông mênh
Dặm ngàn như đã có tin người về.

Chú giải: Trong cuộc đời được toàn vẹn như vậy cũng đủ lấy làm hạnh phúc, nhưng nếu hưởng chừng ấy khác nào như bóng bọt xà phòng ! Mà thế gian là trường tấn hóa, nên phải học. Khi đã qua trường Đời phải học Đạo nữa “Học Đạo là tìm hiểu Chơn lý và một khi thấu triệt rồi thì không còn vui thú nào ở thế gian sánh kịp. Nhờ vậy, người hành đạo mới dám hy sinh những cái gì ràng buộc Thần trí và Tâm hồn, ngõ hầu giải thoát cảnh trầm luân bể khổ, đặng qui hồi nguyên bổn. Từ xưa đến nay, đã có nhiều Tôn giáo xướng xuất nhiều phương hướng dìu dẫn nhơn sanh trong trường xử sự, tiếp vật theo Đạo hóa sanh của Trời. Song le, văn minh vật chất càng ngày càng tiến triển như hiện giờ, khoa học gần như muốn chiếm đoạt cơ mầu nhiệm của Tạo Đoan, thì trái lại, tinh thần Đạo Đức của nhơn sanh ngày càng lu mờ, mặc dầu, các Tôn giáo kia đã tận lực giáo nhơn qui thiện. Đại Đạo Tam Kỳ xuất thế, với một yếu lý qui Tam Giáo hiệp Ngũ Chi, thành thử những tu sĩ của nền Tân Tôn Giáo nầy không còn phân biệt Giáo phái, tức là coi nhau như bạn thân, đồng theo một khuynh hướng “Cứu nhơn độ thế”. Lẽ dĩ nhiên, Đạo Cao Đài phải có một Giáo lý phù hạp với trình độ của nhơn sanh hiện tại đặng chuyển đọa vi thăng, tiêu trừ nghiệp chướng.

&
                                   QUẺ - 053:
Tu trước lực, mạc viễn du,
trường can câu, hướng thiềm thừ quật,
chân dục vân trung đắc cự ngao.
遠遊
竿 蟾蜍
得巨

                                   Dịch nghĩa:
Tận dùng sức lực chớ chơi xa
Cầm chiếc cần dài hướng nguyệt nga
Để mắt dõi tìm gương ngọc thỏ.
Muốn cầu ngao lớn đợi mây qua .

Chú giải: Người đến thế giới hữu hình ai cũng mang một niềm tin lớn, tức nhiên muốn làm Trời lắm, hay ít ra cũng phải được làm vua mới hả dạ. Nhưng tất cả những điều ẩn ước ấy Thượng Đế đã dành cho nhiều giải đáp rồi. Trước hết phải làm vua chính mình đã, vì thắng một vạn quân không bằng tự thắng lấy mình. Hãy tự thắng mình, làm chủ được mình tức làm chủ cả vũ trụ. Nếu chưa tự thắng mình dù ngồi trên cao chín bệ thì cũng dễ rơi xuống chỗ tận cùng mà thôi. Kìa Trụ Vương mê sa đắc Kỷ, Ngô Phù Sai chết mê chết mệt vì ả Tây Thi. Nghĩ thật buồn cười, có gì mà đáng sỉ hổ hơn cái vòng say đắm ấy. Rốt rồi lại đổ cho người đẹp quyến rủ, mê hồn ? Hoa đẹp trong vườn ai không cho ngắm, nhưng ai biểu đắm, say đến lụy mình? Người ngoài nhìn vào buông lời: Thật đáng kiếp !

&
                                   QUẺ - 054:
Vô tung vô tích, viễn cận nan mịch,
hãn hải hành châu, không lao giả lực.
跡。 遠近

                                   Dịch nghĩa:
Gần xa dấu vết khó tìm
Thuyền đi biển cạn những thêm cực lòng
Hoài công chưa thoả ước mong.

Chú giải: Việc trong trời đất muôn hình ngàn vẻ, nhưng vì còn nằm trong thế giới nhị nguyên, nên cứ lẩn quẩn bằng những  điều: buồn, vui, họa, phúc, tức là nhân quả trả vay của nhân loại không bao giờ dứt. Đây:

Đức Hộ-Pháp thuyết Đạo tại Đền Thánh Tòa-Thánh Tây ninh, ngày 15 tháng 6 năm Mậu-Tý (dl: 21-7-1948): “Hôm nay Bần Đạo giảng về Luật Nhân quả vay trả của nhân loại trong thời kỳ Hạ nguơn hầu mãn bước sang thời kỳ Thượng nguơn Thánh Đức. Các con rán ẩn nhẫn để Ông Trời hát từ màn cho các con coi; các con trông cho đời mau tới, tới chừng tới các con khóc mẹ khóc cha luôn. Bần Đạo nói thật cái quyền năng vô đối của Đức Chí-Tôn một nháy mắt không còn một sanh mạng ở quả địa cầu này, không cần một tích tắc đồng hồ, những nhân nào quả ấy trả cho rồi đặng lập đời Thánh Đức mà thôi.”

&
                                   QUẺ - 055:
Tế vũ mông mông thấp,
Giang biên lộ bất thông
Đạo đồ âm tín viễn,
Bằng trượng tá đông phong.
。江
遠。

                                   Dịch nghĩa:
Rơi rơi từng hạt mưa sương
Ven bờ sông lạnh nẻo đường khó thông
Tin thư dường đã vắng không
Chỉ còn mong mỏi gió đông thấu tình .

Chú giải: Cái chu kỳ  của trời đất cứ qua một vòng: Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn. Đông là mùa cùng  cuối trong một năm. Người xưa ký hiệu bằng chữ có bộ băng là chỉ sự lạnh giá. Thiên hạ giờ này mới thắm thía cái lạnh đó: Thánh ngôn Thầy có báo trước: "Kỳ Hạ Nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà phải tiêu tan, mười phần chỉ còn lại một mà thôi. Than ôi ! Buồn thôi ! Nghĩ vì Thiên cơ đã định như vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện, ăn năn sám hối, lo việc tu hành, đồng với nhau, cả quốc dân mà quì lụy khẩn cầu coi Trời có đoái tưởng đến chăng? Bởi thế nên Đức Ngọc Đế và chư Phật, chư Tiên, chư Thánh mới lập Hội Tam Kỳ Phổ Độ đặng cứu vớt chúng sanh đương linh đinh nơi bể khổ. Nếu gặp thuyền Bát Nhã mà không xuống không theo thì chắc thế nào cũng chơi vơi mé biển."
&
                                   QUẺ - 056:
Bình địa khởi phong yên,
Thời hạ vị năng yên,
Cao xứ mịch nhân duyên.
安。

                                   Dịch nghĩa:
Đất bằng sóng gió bổng dâng trào
Cuộc thế chưa yên luống ước ao
Nhân duyên may được thêm vừa ý
Công trình há ngại cậy nơi cao.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét