Dưới ba mươi sáu từng Trời còn có một từng nữa là nhứt
mạch đẳng tinh-vi gọi là cảnh Niết Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên khai hóa
tức là chín phương Trời cộng với Niết-Bàn là mười, gọi là Thập phương Chư Phật.
Gọi “chín phương Trời, mười phương Phật” là do đó…
Rồi tới Hạ tầng Thế-giái, Tam Thiên thế giái. Ba ngàn quả tinh-cầu phân làm
Tứ
đại bộ châu rồi nối theo Thất thập nhị điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68.”…
đại bộ châu rồi nối theo Thất thập nhị điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68.”…
Như vậy sự đặt định đều có duyên cớ mà cơ Đạo ngày nay đều được nhịp-nhàng
trong sự ứng hợp giữa hữu hình và vô hình đó vậy.
Khi lập Pháp-Chánh-truyền cho cả Nam Nữ Chức sắc Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài
là hiệp đủ ba ngôi. Thật ra mỗi việc chi chi Thầy lập ra không ngoài các con số
huyền-diệu, nhiệm-mầu ấy.
LUẬN VỀ BÁT-QUÁI
TIÊN-THIÊN & HẬU-THIÊN
A - Bát quái Tiên Thiên:
Xin lập lại lời Thánh-ngôn có dạy:
“Thầy đã nói với
các con rằng: Khi chưa có chi trong càn-khôn thế-giới thì Khí Hư-vô sanh có một Thầy và
ngôi của Thầy là Thái-cực.
“Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi,
Lưỡng-nghi phân ra Tứ tượng, Tứ tượng biến Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô cùng
mới lập ra Càn-khôn thế-giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà phân ra vạn-vật là: Vật-chất,
thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh.
“Các con đủ hiểu rằng: Chi chi hữu-sanh
cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống,
vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận”.
Thử hỏi ngày nay Thầy đến thế mở Đạo, Thầy lập Pháp Chánh-Truyền Cửu-Trùng-Đài
do đâu mà lập “Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền,Tam
thiên đồ đệ”?
Từ xưa đến nay nhân-lọai đã thừa hưởng cái di-sản quí báu của các bậc tiền
Thánh để lại là hai Bát-Quái: Tiên Thiên và Hậu Thiên. Vậy xin bàn đến Bát-Quái
Tiên-Thiên trước cũng đồng thời trả lời câu hỏi trên qua tinh-thần của các
Bát-Quái ấy trong cương vị của Hà-Đồ, Lạc-Thư mà Thánh nhân đã lưu lại.
1 - Cách lập thành Bát-Quái Tiên-Thiên:
Khi nói đến Đạo là nói đến đầu mối ÂM DƯƠNG. Âm dương tương-hiệp mới phát
khởi càn khôn, tức là Nhứt khí Hư-vô sanh Lưỡng-nghi, nghĩa là ánh Thái-cực biến
tướng ra phân làm hai ngôi: âm-quang và dương quang. Ví bằng hai ngôi này muốn
biến sanh ra nữa thì cần phải tương-hiệp, nếu không tương hiệp thì không thế
nào sanh biến thêm được: đó là hình chữ thập. Nếu âm dương mà để riêng ra, thì
hai cũng vẫn là hai: phải hiệp mới có sanh biến.
Muốn âm dương tương-hiệp nghĩa là phải đặt chồng lên nhau thành một góc
vuông, điểm gặp nhau là điểm 0, đó gọi là Thái-cực làm căn bản. Bởi có hiệp với
ngôi Thái cực mới thành ra bốn, ấy gọi Lưỡng-nghi sinh Tứ-Tượng. Nếu muốn biến
ra thêm nữa thì cũng phải có Tứ Tượng nữa rồi nhập lại vào tâm, mới có thể biến
ra được mà thành 8 cánh. Gọi là Tứ tượng biến Bát-Quái (Tứ Ấm tứ Dương)
Khởi đầu: vua Phục-Hi ngẩng lên xem Thiên-văn, cúi xuống thì xét lý đất, gần
thì lấy thân mình mà suy nghiệm. Ngài mới đặt ra những nét chẵn, lẻ tức là vạch
liền tượng dươngvạch đứt tượng âm cũng từ
trong lý tính của nam, nữ mà ra để làm chuẩn, định cho cái âm dương ấy. Lấy hai
điểm này làm gốc, khởi đầu, nên luôn luôn điểm chuẩn đặt ở dưới hết của quẻ gọi
là Hào. Hào, tính từ dưới tính lên. Đọc quẻ từ trên đọc xuống.
Người dân-tộc thiểu-số hay người Chàm họ cũng lấy cái vật biểu tượng âm
dương là hình ảnh cối, chày đặt lên nhau gọi là cái “Linga”. Đó cũng là một bước
tiến của dân-tộc bán khai. Người Á-Đông văn-minh hơn nên dùng phù hiệu bằng những
nét liền, nét đứt làm ký hiệu.
Giai-đoạn kế mới thêm nét Âm Dương nữa cho mỗi cái gốc đó, để lần-lượt biến-hóa
thêm, theo luật song-tiến số (nghĩa là cứ gấp đôi lên) tức là nếu lấy dương làm
gốc rồi thêm dương nữa thành ra:
- Hai nét dương gọi là Thái-dương (số 1)
- Cũng từ gốc dương thêm nét âm lên trên thành ra gọi là Thiếu-âm (số 2)
- Tới gốc âm cũng qua hai lần biến hóa, tiếp-tục thêm dương, thêm âm sẽ có
là Thiếu-dương (số 3) và là Thái-âm (số 4) .
Thái là rất, là ròng một thứ; thái dương
là rất dương, cho nên tượng bằng hai vạch liền; thái-âm là rất âm, tượng bằng hai vạch đứt.
Thiếu là trẻ, nghĩa là mới sinh ra, nên đặt lên trên, vì nét âm mới sinh
nên gọi là Thiếu-âm cũng như nét dương mới
sinh nên gọi là Thiếu dương Họp chung gọi
là Tứ tượng, tức là bốn hình tượng. Tứ tượng có một vị-thế rất quan trọng,
không thể không nhớ kỹ được; từ cái phù-hiệu cho đến con số biểu tượng của nó.
Trên là Tứ tượng đặt trên đường thẳng.
Tứ tượng có thể đặt trong vòng tròn, đồng thời xác định phương vị của nó nữa.
Xem hình thấy rõ phía bên trái là dương, bởi gốc nó là dương mới biến ra
Thái-dương số 1 và Thiếu âm số 2. Âm dương luôn đi liền nhau.
Bên phải là Âm: bởi gốc nó là âm, biến qua hai lần là Thiếu-dương số 3 và
Thái-âm số 4 tức là trong âm vẫn có dương và trong dương vẫn có âm.
Lý dịch luôn luôn như vậy, không bao giờ có tình trạng cô âm hay cô dương
(tức là thuần âm hay thuần dương) Cô dương thì không sanh, cô âm thì không hóa.
Giai-đoạn thứ tư là Tứ-tượng biến Bát-quái, cũng từ gốc của Tứ tượng, rồi
thêm dương, thêm âm, lần-lượt gấp đôi lên thành ra 8 quẻ, tức là: Càn 1, Đòai 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn
7, Khôn 8. Đây cũng là phù-hiệu về quẻ và số của Bát-quái Tiên-Thiên vậy.
Trước nhứt:
* Gốc Thái-dương cho ra hai quẻ là
Càn 1 và Đòai 2
* Gốc Thiếu-âm cho ra hai quẻ là
Ly 3 và Chấn 4
* Gốc Thiếu-dương cho ra hai quẻ Tốn
5 và Khảm 6
* Gốc Thái-âm cho ra hai quẻ là
Cấn 7 và Khôn 8
Chú-ý:- Gọi là nghi, khi thành-phần cấu-tạo chỉ có một nét (hào dương hoặc
hào âm)
- Gọi là Tượng là thành-phần cấu-tạo do hai nét họp thành (chỉ có 4 tượng)
- Gọi là quẻ (hay quái) là cấu-tạo bởi ba nét họp thành (chỉ có 8 quẻ đơn
thôi). Mỗi một quẻ 3 nét như vậy gọi là quẻ Đơn (đơn quái) đó là lấy Bát-Quái (
8 quẻ) làm căn-bản cho nhiều trường hợp.
Bảng tóm-tắt: Đặc biệt một quẻ đơn là có đủ 3 nét, gọi là Tam tài: trên là
thiên, Dưới là địa, giữa là nhân. Vì chỉ có con người mới được dự phần vào việc
của trời đất. Yếu tố này rất quan trọng trong lý Dịch.
Tại sao nói là giai-đoạn thứ tư?
Đức Lão-Tử có nói “Đạo sanh nhứt, nhứt sanh
nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn-vật”.
Nhìn qua đồ hình sẽ thấy rõ lời nói ấy; tức nhiên khởi đoan là Đạo, có trước
nhất. Từ trong Đạo mới sanh ngôi Thái-cực, như Đức Chí-Tôn đã nói “Khi chưa có
chi trong càn khôn thế giới thì Khí Hư-vô
sanh có một Thầy, ngôi của Thầy là Thái-cực (đây là giai-đoạn thứ nhì),
Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi (giai-đoạn thứ ba), Lưỡng nghi phân ra Tứ tượng (giai-đoạn thứ tư), Tứ tượng biến Bát quái (giai-đoạn thứ năm). Bát-quái biến-hóa vô cùng mới thành ra càn-khôn thế giái (đây là giai-đoạn thứ sáu).
Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi (giai-đoạn thứ ba), Lưỡng nghi phân ra Tứ tượng (giai-đoạn thứ tư), Tứ tượng biến Bát quái (giai-đoạn thứ năm). Bát-quái biến-hóa vô cùng mới thành ra càn-khôn thế giái (đây là giai-đoạn thứ sáu).
Tức là sự thành hình thành tướng (8x8=64 quẻ). Phải trải qua 6 giai-đoạn để
trở về lý Tam âm tam dương là vậy).
(Lưu ý:
Phần lý giải về quẻ Tiên Thiên và Hậu Thiên, sọan giả cũng có diễn giải qua
các quyển: Dịch lý Cao Đài, Khảo cứu vụ …Nhưng ở đây vẫn được ghi đầy đủ, vì rằng
số sách này chưa được phổ biến rộng nên e độc giả phải nhọc công tìm kiếm. Vì vậy
mà có sự lập lại nhiều lần, mong chư độc giả thông cảm cho)
CHƯƠNG V
Sự thành hình cơ Đạo qua
ba thời-kỳ
A - Thời-kỳ khởi thủy:
1 - Tam đầu chế Hiệp-Thiên-Đài:
Đức Chí-Tôn thành lập Đạo Cao-Đài có hai Đài hữu hình: Cửu Trùng Đài và Hiệp
Thiên Đài có mối tương quan nhau. Phân làm ba thời kỳ; quan-trọng nhứt là cơ khởi
thủy.
Chính ba vị Tướng-soái của Thầy đã có đủ yếu-tố để khởi-đoan cho mối Đạo Trời
trong cái cơ-vi: “Thiên địa tuần-hoàn châu nhi phục thỉ”; phải chăng tất cả đều
có một sự sắp xếp tế-vi, nên mới nói “Đạo thành do ba người.”
“Hiệp-Thiên-Đài là hình-trạng của Ngọc
Hư-Cung tại thế. Ấy là cửa mở cho các chơn-linh vào đặng đi đến Tam thập lục
thiên, Cực-lạc thế giới và Bạch-Ngọc-Kinh là nơi chúng ta hội-hiệp cùng Thầy
hay là chỗ ải địa-đầu ngăn cản các chơn linh chẳng cho xông phạm đến đường Tiên
nẻo Phật.
“Lòng Từ-bi của Thầy cho có kẻ rước
là Thượng Sanh, người đưa là Thượng-Phẩm và người dẫn nẻo mở đường cứu độ là Hộ-Pháp,
đặng đem cả con cái của Thầy về giao lại cho Thầy, kẻo hằng ngày trông đợi”.
Đức Hộ-Pháp vừa Chưởng quản chi Pháp mà còn là Chưởng Quản cả Hiệp-Thiên-Đài
nữa, do vậy mà Quyền hành của Hộ Pháp được Pháp Chánh Truyền qui định:
“Trong Hiệp-Thiên-Đài thì HỘ-PHÁP
thay quyền cho các Đấng Thiêng-liêng mà gìn-giữ công-bình tạo-hóa, bảo-hộ nhơn-loại
và vạn-vật lên cho tới địa-vị tận thiện tận mỹ; người thì tận thiện còn vật thì
tận mỹ. Chẳng cần lấy sức mình mà lập, chỉ bảo-hộ cho sự tấn-hóa tự nhiên khỏi
điều trở ngại, nếu nói có quyền bảo-hộ thì phải có luật-pháp, lấy luật-pháp mà
kềm chế nhơn-sanh cũng như các Đấng trọn lành lấy Thiên-điều mà sửa trị
càn-khôn thế giới.
“Hộ-Pháp là thể các Đấng trọn lành,
Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo đặng dìu-dắt các chơn-hồn lên tột
phẩm-vị của mình, tức là nâng-đỡ binh vực cả tín-đồ và chức sắc thiên-phong ngồi
an địa-vị, cũng như chư Thần, Thánh điều-đình càn-khôn thế giới cho an tịnh mà
giúp sức cho vạn-loại sanh sanh hóa hóa:
- “Thượng-Phẩm tiếp các chơn-hồn của Thượng Sanh giao vào cửa Đạo. Thượng-Phẩm
là người thể ĐẠO đối với hàng Thánh, ấy là người làm đầu các Thánh.
- “Thượng-Sanh về THẾ ĐỘ, đem các chơn-hồn vào cửa Đạo, dầu nguyên-nhân hay
là hóa-nhân cũng vậy, phải nhờ Người độ-rỗi. Thượng-Sanh đặng mạng lịnh chuyển
thế, buộc Thượng-Sanh phải gần kẻ vô đạo đặng an-ủi, dạy dỗ, mà kể từ hạng vô-đạo
trở xuống cho tới vật chất thuộc về phàm, ấy vậy Thượng-Sanh là thể ĐỜI, Người
đứng đầu của phẩm phàm-tục” (PCT)
Ba Ngài được mệnh danh là Tướng-soái của Chí Tôn nên các Ngài đã cống-hiến
cho nền Đạo thật là to-tát.
Lời Ngài Hiến-Pháp: “Luận về tâm-lý, trong ba ông, mỗi người đều có một đặc-tính
mà ta cần biểu-dương để xưng tụng công đức:
- Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư, nhờ đức tính cao-thượng và cương quyết nên
hễ làm việc gì thì cố-gắng làm cho kỳ được. Bởi thế nên khi nhận chân mối Đạo,
thì ông nghe theo tiếng gọi thiêng-liêng mà phế đời hành Đạo, dù lúc đó ông đang là một công chức của
chính-phủ Pháp.
- Đức Hộ-Pháp Phạm-CôngTắc. Ông là người có tánh cao-thượng và hùng khí,
thương đời mến Đạo nên khi nhận rõ mối Đạo cũng liền phế đời hành Đạo, ông cũng
là công chức lúc ấy (Ông đã đóng góp trọn đời suốt 35 năm)
- Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài Sang cũng có tánh cao-thượng và yêu đời mến Đạo,
nhưng vì hoàn-cảnh phải ở lại với chức-vị công-chức của ông. Ông chỉ hành-đạo
trong lúc rảnh rang. Ông rất dày công phổ-độ lúc ban sơ”.
Ba ông đều đắc Thiên-phong trước hết và đắc lịnh chấp cơ truyền Đạo phổ-độ
chúng sanh. Hai ông Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm hiệp thành một cặp đồng-tử chấp cơ
phong Thánh truyền giáo, lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân luật là Hiến-chương của nền
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ hiện giờ. Đầu công của hai ông vào bậc nhất, vì trước hết và trên hết, Đức
Chí-Tôn mượn tay Thần-lực của hai ông mà lập thành Đại-Đạo cho đến ngày nay.
“Chúng ta suy đoán chỉ có Thương-yêu, duy có một người hay nửa người thương
mà các vị Giáo-chủ đã lập thành Tôn-giáo tại mặt thế này”.
Đức Hộ-Pháp nói: Đạo thành do ba người:
“Chúng ta xét lại thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn
hạnh phúc hơn các nền Tôn-giáo khác, nếu
nhận quả-quyết thì có ba người, mà ba
người tức nhiên nhiều hơn thiên-hạ rồi.
Cái thiệt tướng của nền Tôn-giáo Đức Chí Tôn hiện tượng do quyền-năng vô đối
của Ngài mà đoạt đặng, trong đó các vị thừa-hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên
hình, nắn nên tướng của nó.
Bần-Đạo kiếu lỗi cùng con cái của Ngài không phải tự kiêu hay là tự đắc,
chính tay Bần Đạo có một phần khá lắm, vì cớ Bần-Đạo rủ chúng ta dùng phép hồi-quang
phản chiếu đặng định tướng diện của mình, cốt-yếu là một phần tử trong nền
Tôn-giáo. Hễ mình coi chơn tướng của mình, rồi tổng số các chơn tướng đó làm
chơn tướng của Đạo. Bần-Đạo thấy Đạo Cao-Đài nên hình đặng tức là thành tướng
Thương-yêu.
Ta không có mơ vọng và không có lường gạt tâm-lý nhơn-sanh, trước mặt mỗi
người đều thấy, hỏi do quyền năng nào tạo thành quyền-lực ngày nay?
Quyền tạo ngày nay do luật Thương-yêu mà thành tướng. Vậy mà nếu do luật
Thương-yêu thành tướng thì không có quyền-năng nào tàn phá nó đặng, nó có sợ
chăng là sợ luật thù hận. May thay, cả lực-lượng thù hận cũng không xung-đột được bởi có bàn tay thiêng-liêng gạt thù hận ra khỏi
rồi.
Nó nên hình bởi sự Thương-yêu, trưởng thành trong sự Thương-yêu bởi hình chất
của Thương-yêu. Hễ càng ngày càng lớn lên càng tráng-kiện, nó sẽ làm CHÚA cả
thù hận không hề xâm-lấn nó đặng.
Nói quả-quyết Bần-Đạo đã đánh tan thù hận ra, khi các đảng-phái dùng quyền-lực
đặng chiếm ngôi vị của Chí-Tôn để tại mặt thế-gian này.
Bần-Đạo đã can-đảm dùng quyền của Bần Đạo đánh ngã hết đặng bảo-trọng hình
tướng Thương-yêu của Đạo, Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều, Bần-Đạo gánh lấy cả thù hận
ấy đặng bảo-tồn hình thể của Chí-Tôn cho trọn THƯƠNG YÊU”.
Đó là Tam đầu chế của HIỆP-THIÊN-ĐÀI
2 - Tam đầu chế Cửu-Trùng-Đài:
Về Cửu-Trùng-Đài cũng có Tam đầu chế như Hiệp Thiên-Đài vậy. Ấy là ba vị ĐẦU
SƯ trước tiên mang chữ: NHỰT- NGUYỆT- TINH là Tam bửu của Trời; nhưng chỉ riêng
trong thời khởi khai Đại Đạo thì Chức-sắc Cửu Trùng-Đài Nam-phái được một đặc-ân
ấy mà thôi.
Ba vị Đầu-Sư có Thánh-danh:
- Thái Đầu-Sư Thái-Nương TINH
- Thượng Đầu-Sư Thượng-Trung-NHỰT
- Ngọc Đầu-Sư Ngọc-Lịch NGUYỆT
Hội Thánh Đại-Đạo có chia ra làm hai Đài hữu-hình:
- Cửu-Trùng-Đài lo về cơ-quan giáo-hóa nhơn-sanh.
- Hiệp-Thiên-Đài là cơ-quan bảo tồn luật pháp Đạo.
Tuy vậy mà Ông Thiện-Minh, Thánh-danh Thái-Minh Tinh, đắc phong ngày
13-10-Bính-Dần; sau cùng bị Đức LÝ cách chức.
Qua ngày 12-12-Bính Dần (dl: 15-01-1927) Thầy phong ông Dương văn Nương làm
Đầu Sư phái Thái là Thái Nương Tinh. Vậy là có đến hai vị Đầu sư phái Thái
Nhưng Đạo là lý, mà lý của vũ-trụ vốn vô cùng. Nếu luận về Tam-bửu của Trời
thì Phái:
Nếu kể Tam thiên thế-giới và thất thập nhị điạ là Tinh-tú thì có đến 3.072
vì sao. Do vậy, mà phái Thái phải có hai:
1 - Thái Minh-Tinh; 2-Thái Nương Tinh.
Theo thứ-tự BA PHÁI là Thái, Thượng, Ngọc:
- Phái Thái thuộc Phật,
- Phái Thượng thuộc Tiên.
- Phái Ngọc thuộc Thánh.
Trong Tam-Kỳ Phổ-Độ này thì:
* phái Thái có hai vị, mang chữ TINH số 2 thuộc âm.
* phái Thượng có 1 vị mang chữ NHỰT số 1 thuộc dương.
* phái Ngọc có một vị, mang chữ NGUYỆT thuộc âm.
Còn lại BÁT-QUÁI-ĐÀI là nơi thờ Đức CHÍ-TÔN và các đẳng Thần, Thánh, Tiên,
Phật, thuần dương, thuộc quẻ CÀN ☰ (Càn vi thiên, càn là trời vậy).
Kết-luận:
Tính cách chiết Khảm điền Ly của Cao-Đài
Từ xưa đến giờ, người tu-hành chỉ mong LUYỆN để “chiết Khảm điền Ly phản vị
CÀN”; có nghĩa là căn-cứ trên quẻ, nếu lấy hào Dương của Khảm đem thế vào hào
Âm ở giữa của quẻ Ly thành ra quẻ Càn. Như vậy, nay là cơ Đại-ân-xá của Chí-Tôn
nên chính Thầy đã “chiết khảm điền Ly” cho tất cả rồi, thế nên Thầy mới nói
“Các con chỉ có TU mà đắc Đạo. Phải ngó đến hằng ức, thiên, vạn kẻ nhơn-sanh
chưa đặng khỏi luân-hồi, để lòng từ-bi độ rỗi kẻo tội nghiệp.”
Mà Tu thì làm
sao? Thầy dạy:
“Người dưới thế này, muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về
phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo, phải có công quả.
Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường đạo đức cho các con nên Đạo. Vậy
đắc Đạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho con nghe.
K…ôi ! Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa-vị mình, thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc
Đạo bao giờ.” (TN I/27)
Thầy chiết KHẢM điền LY bằng cách nào?
Theo thứ-tự trên đã cho thấy rõ: lẽ ra Đền Thánh được kiến-thiết: Từ phía
trong Đền tính ra thì:
Đây là về phần Địa-hình thì Thầy đã đặt Cửu Trùng Đài ở giữa Bát Quái và Hiệp
Thiên, tức nhiên đặt Khảm lên Ly, có nghĩa là Ly - Khảm đã hợp nhau rồi thì hào
Dương giữa của Khảm đã chồng lên hào Âm giữa của Ly, để tất cả thành CÀN có 3 hào Dương.
Thế nên, người tu theo Đạo Cao-Đài ngày chỉ cần Phụng sự Vạn linh là đủ; vì
phụng-sự Vạn linh tức là phụng-sự
Chí-linh. Cúng Tứ thời là Luyện Tam-bửu vậy.
PCT: “Ngày nay Chí-Tôn đã định khai Đạo đặng thị chứng cho các Tôn-giáo biết
nhìn nhau trong đường hành thiện, trừ tuyệt hại tranh-đấu thù hiềm, làm cho thế
giới đặng Hòa-bình, thoát cơ tự diệt.
“Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương
theo chữ HÒA mới toan thành lập. Chí-Tôn định lập thành Hội Thánh đặng thay thế
hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép tạo-hóa cá-nhân mà gầy nên ảnh-tượng:
- Cửu Trùng-Đài là thi-hài, ấy là
Tinh.
- Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần, ấy là Khí.
- Bát-Quái-Đài là linh-hồn, ấy là Thần.
Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Đạo đặng”
Lại nữa: “Thần là khiếm-khuyết của cơ mầu-nhiệm từ ngày Đạo bị bế, lập
“Tam-Kỳ Phổ-Độ” này duy Thầy cho “Thần” hiệp “Tinh Khí” đặng hiệp đủ “Tam bửu”
là cơ mầu-nhiệm “siêu phàm nhập Thánh.”
… “Phẩm-vị Thần, Thánh, Tiên, Phật từ ngày bị bế Đạo, thì luật-lệ hỡi còn
nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên-đình mỗi phen đánh tản “Thần” không cho
hiệp cùng “Tinh Khí.”
“Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn-thần
cho các con đắc Đạo. Con hiểu “Thần cư tại nhãn.” Bố trí cho chư đạo-hữu con hiểu
rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên mỗi phen nói Đạo hằng
nhớ đến danh Thầy.” (Thánh-ngôn Hiệp tuyển)
2 - Thời kỳ kiến tạo:
Qua thời-kỳ kiến tạo để lập công, dành cho người biết dâng công đổi vị, thì
bên Cửu-Trùng-Đài chính Đức Quyền Giáo-Tông về mặt hữu-hình đã góp vào một công
quả to lớn để dựng Đức-tin làm nền tảng Đại-Đạo ngày nay cùng với hai vị: Thượng-Phẩm
và Hộ-Pháp bên Hiệp Thiên-Đài. Với lời minh-chứng của Đức Hộ-Pháp như sau:
“Bần-Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng
cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn: Nam Nữ cũng vậy. Nếu toàn thể con cái của Ngài
một đôi triệu chơn linh mà có Đức-tin vững chắc như Đức-tin của:
- Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư,
- Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,
- Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.
Nếu cả thảy đều có Đức-tin vững-vàng dường ấy Bần-Đạo dám nói chắc rằng: Các người dời núi
Bà xuống châu-thành Sài-gòn cũng đặng. Có thể nói: nền Đạo Cao Đài này thiệt-hiện
được như ngày nay là nhờ Đức-tin của Thượng-Trung Nhựt.
Đức Hộ-Pháp nói lý do: “Cả toàn con cái Đức Chí Tôn buổi nọ còn lại có ba
người. Thật ra hồi ban sơ chỉ có ba người. Ba người ấy thiên-hạ kêu là ba người
lỳ; ba người ấy là:
- Đức Cao-Thượng-Phẩm
- Đức Quyền Giáo-Tông
- Và Bần-Đạo đây (Hộ-Pháp)
“Chúng tôi nhứt tâm, nhứt trí quyết
làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn. Bởi vì không biết duyên cớ nào
chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí-Tôn và tự nhiên quyền-năng
thiêng-liêng giúp chúng tôi biết ĐẠO CAO-ĐÀI này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng-tộc
và giống-nòi.”
Đó là tấm lòng hiếu thảo của Đức Hộ-Pháp thì như vậy, còn lại tinh-thần của
Đức Thượng Phẩm thì…Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
“Bần-Đạo thú thật buổi nọ:
“Chỉ có ba Anh em, ôm sứ-mạng Thiêng
liêng âý nơi mình. Lãnh sứ-mạng khó-khăn thì tưởng đâu Đạo Cao Đài thì cũng như
Đạo Phật hay Minh-sư, Minh-đường. Đáo-để, cạo đầu vô chùa làm Thầy chùa tu là
cùng, tưởng dễ-dàng lắm, kiếp sanh nơi thế, thời bấy giờ đã khổ-não tâm-hồn và
xác thịt, lệ thuộc như thế. Ổng biểu tu, nào dè mở Đạo trong thời-gian ngắn-ngủi,
không bao lâu thấy cả con cái của Ngài đến cùng Ngài cả muôn cả triệu, chừng đó
mới biết sợ-sệt. Chính mình buổi nọ, Đức Quyền Giáo Tông ra hậu-điện, Người hỏi
Bần-Đạo: làm cái gì vậy?
“Thấy thiên-hạ vào cửa Đạo quá chừng,
Đại-Từ Phụ làm cái gì kỳ quá vậy ? Chính
mình Bần-Đạo cũng không biết.
- Biết đâu ! Ông làm gì?
“Ông đến thâu tín-đồ nhiều quá ảnh than
rằng: tới đâu hay tới đó, biết sao!
Kể từ đó bị khảo miết: Đức Cao Thượng-Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày
giờ cuối cùng, nằm trên giường bịnh cho tới hơi thở cuối cùng không buổi nào
không bị khảo, không buổi nào không bị nhục-nhã. Cái luật thiên-nhiên không có
điều gì xin-xỏ, điều gì cũng phải mua chuộc. Bần-Đạo đã quyết rồi, xin để Bần-Đạo
kết luận: Bởi mua chuộc với cái khảo-đảo, nhục-nhã của đời, để bảo-trọng
danh-giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang trọng vô đối.”
Sự-nghiệp vẻ-vang của Đức Thượng-Phẩm như vậy chính do Ngài biết giữ được
chữ “nhẫn” chữ “hòa”, một là để tô-bồi thiên-vị, hai là nâng cao phẩm-giá chơn-linh
cao trọng của Ngài:
“Đức Cao Thượng-Phẩm là chơn-linh Hớn-Chung
Ly: một vị Đại-Tiên trong Bát Tiên, làm sứ-mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nên
Tôn giáo tại thế này. Người cùng với Hộ Pháp họp thành cặp cơ phong Thánh lập
Pháp Chánh truyền và Tân-luật để làm Hiến-chương cho nền Quốc Đạo.
“Chúng ta phải nhìn-nhận đầu công khai Đạo của Đức Cao Thượng-Phẩm, vì nếu
thiếu bàn tay xây dựng của Người để chấp cơ cùng Hộ Pháp thì:
- Đâu có Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
- Đâu có Chức-sắc Thiên-phong Nam Nữ.
- Đâu có Hội-Thánh và các cơ-quan trong Đạo.
- Đâu có Pháp-Chánh-Truyền và Tân-luật.
- Đâu có đại-nghiệp hiện giờ cho nhơn-sanh thừa hưởng”
Đức Thượng-Phẩm là người đứng ra cùng góp công với nhân-sanh bứng gốc phá
chồi, thật là Đấng đã khai sơn phá thạch cùng với Đức Hộ-Pháp tạo nên một ngôi
thờ phượng khang-trang, một ngôi Tổ đình lưu lại cho nhơn sanh một đức-tin tuyệt-đối.
Nhưng đại nghiệp ấy mới nửa chừng Người phải về Thiêng-liêng làm nhiệm-vụ của Đức
Chí Tôn giao-phó, đành buông gánh Đại-Đạo cho Hộ Pháp một tay lèo-lái, lại còn
chịu lao-lý để gánh ách nạn cho dân-tộc. Với hai Đấng đầu công thật là
công-trình vẹn vẻ, vừa lo phần Thể pháp, vừa thực hiện Bí-pháp của Đạo, hai
Ngài đã thể hiện cơ Âm Dương tương đắc vậy.
Ấy là hai Chức-sắc Đại-Thiên-phong nơi cửa Hiệp Thiên-Đài trong cơ kiến-tạo
nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ
- Một là Đức Hộ-Pháp, đầy lòng hiếu đạo cùng Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
- Hai là Đức Thượng-Phẩm đầy-đủ đức kiên-nhẫn với một đức-tin tuyệt-đối.
Còn với công-quả phi-thường của Đức Quyền Giáo-Tông, Đức Hộ-Pháp đã giải:
Thật sự hồi ban sơ chỉ có ba người (lập lại một lần nữa rằng):
“Bần-Đạo nói không có gì! Đức
Chí-Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách không ai tưởng-tượng được. Khi Ngài đến
thì chỉ có Đức Thượng-phẩm và Bần-Đạo mà thôi. Về sau Bần Đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm
mới đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung-Nhựt đặng Chí Tôn chuyện vãng cùng
Người. Đứng đầu trong trường chính-trị đã chịu ảnh-hưởng một tình thế bị
trích-điểm cũng có, được tôn-sùng cũng có, được khen cũng có, bị chê cũng có.
Buổi ấy bị họ ghen-ghét nên chê nhiều hơn khen. Chính mình Bần-Đạo lấy làm lạ tại
sao Đức Chí Tôn biểu Thượng-Phẩm đến nơi đó?
“Để cái dấu hỏi mơ hồ, chẳng dè một
người đó lại phi-thường ! Giờ phút này Bần-Đạo nói đến lấy làm lạ !
“Một là từ thử tới giờ Bần-Đạo chưa
ngó thấy. Đến chuyện vãng cùng Ngài, Đức Chí-Tôn nói cái chi chỉ có hai người
biết với nhau mà thôi. Bần-Đạo với Thượng Phẩm chỉ là hai người dự thính không
biết gì hết, mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với nhau mà thôi.
“Trong 24 giờ, một người đã là Thượng Nghị-viện, một cái gia-nghiệp đủ
vinh-hiển, đủ cao-trọng, đủ đương đầu với thiên-hạ.
“Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà
thôi. Cho tới một cái lạ hơn hết là đương hút á-phiện, người phong-lưu như ai
kia vậy bỏ một cái một, cả sự ăn chơi cũng thế.
“Đức Chí-Tôn kỳ hạn có 24 giờ mà
thôi:
- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải trường trai.
- 24 giờ Anh Cả phải dâng cả sự-nghiệp cho thiên hạ.
- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải từ bỏ chức Thượng Nghị-viện, dâng mảnh thân
phàm cho Đức Chí-Tôn làm ngọn cờ cứu-khổ.
“Một người, Bần-Đạo thấy ban sơ có một
người là Thượng-Phẩm, rồi sau lại có người này nữa: Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt.
Ngồi nghĩ thầm cái đức-tin gì mà lạ-lùng như thế ! Giờ phút này Bần-Đạo mới
hiểu hai vị Đại-Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề Đức Chí-Tôn đã
giao-phó một sứ-mạng nặng-nề, khó-khăn để đảm-nhiệm trách-vụ gánh vác tạo dựng
nền chơn-giáo của Ngài như thế này.
“Nói thật ra,
“Thưa cùng chư Chức-sắc Thiên-phong
Cửu Trùng Đài Nam Nữ! Cái ngôi của Ngài tạo dựng, cái ngôi Giáo Tông-Đường của
Ngài đã ngồi trên ấy, đầu tiên hết, cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất Việt-Nam này một
cái báu vật quí giá vô cùng, từ thử tới giờ chưa hề có.
“Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của
Đức Giáo Hoàng Saint Pière thế nào, thì Bần-Đạo có lẽ nói rằng và cũng có thể mơ-ước:
cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”
Xem thế, thì người tu lập công bằng con đường Cửu Phẩm Thần Tiên theo gương
của Đức Quyền Giáo-Tông cũng đoạt được ba hào Dương của quẻ Càn, tức là đắc Đạo
vậy (đó, chiết Khảm điền Ly phản vị Càn là thế ).
Như thế, Đức Chí-Tôn đã mở con đường phụng-sự cho Vạn-linh để hiệp Nhứt
linh đó vậy.
Nếu lập công bằng con đường Phước-Thiện (là cơ quan của Hiệp-Thiên-Đài) thì
hãy xem gương của Ngài Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa.
Đức Hộ-Pháp giải-thích rằng: “Từ thử tới giờ nếu nói về kẻ đảm-nhiệm gánh
vác Hiệp-Thiên-Đài thì Bần Đạo quả-quyết cho Ba người: Ban sơ có Cao Thượng Phẩm,
sau có KHAI PHÁP và Bần-Đạo thôi”.
Lý do tại sao? Ngài nói tiếp về việc TÌM PHÁP xem như thế nào ? - Thật cũng
là một huyền-diệu Thiêng liêng khiến cho nên việc. Đức Hộ-Pháp kể rằng:
“Đức Chí-Tôn đã định sẵn đâu hồi
nào, mà chính mình Đức Chí-Tôn lựa thật là xứng-đáng. Trong buổi lập Hiệp-Thiên-Đài,
Đức Chí-Tôn dạy:
“Con muốn ra gánh vác sự-nghiệp thiêng-liêng lập nên nền Đạo, trước hết con
phải lập PHÁP cho xong thì Đạo mới vững bền được.
“Buổi nọ, Bần-Đạo nguyện để trọn-vẹn Đức Chí Tôn chọn lựa, chớ không phải
phàm nhơn. Khi được lịnh Cơ Bút dạy đi tìm PHÁP, thì chỉ dạy Bần-Đạo đến tỉnh
Gò công mà tìm tên Trần-Duy-Nghĩa. Đức Chí-Tôn chỉ cho biết nơi Tỉnh Gò-công mà
thôi. Khi tìm đến biết đâu, có phải hay chăng?! Bởi vì nơi tỉnh Gò-công Bần-Đạo
chưa từng đến và không làm bạn với một người nào nhưng mà cũng vâng lịnh để đi
tìm. Khi vừa đến tỉnh thành Gò-công, ngừng xe lại tìm hỏi thăm thì đã trúng
ngay nhà ông Trần Duy Nghĩa và gặp Người đứng trước thềm nhà. Người nói: Tôi là
Trần-Duy-Nghĩa đây !
Qua phút giây trò chuyện. Bần-Đạo đưa bài Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy đi tìm
Người thì Ngài nói rằng:
“Tôi tưởng dòng-dõi của dân-tộc Việt-Nam
trên 4.000 năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn đã đến lập QUỐC-ĐẠO thì chắc
hẳn rằng đất nước Việt-Nam sẽ sống lại được mà lo cứu chữa Tổ quốc và giống-nòi
dân tộc, Việt-Nam sẽ cổi ách lệ-thuộc giữa thời Pháp-thuộc đang bạo-hành” (Đức-Hộ-Pháp
thuyết 12-8 Ất-Mùi 1950).
Ngài Khai-Pháp Chơn-Quân tuổi Tý (1888) là người có tuổi đứng đầu trong Thập
Nhị Địa Chi, mà cũng đứng đầu của Thập-Nhị Thời-Quân, tức là con số 1, cũng biểu
tượng bằng hào Dương, nếu đặt vào giữa quẻ Ly
(Hiệp-Thiên-Đài) sẽ biến ra quẻ CÀN như dưới đây:
Ba vị trên chính là Chức-sắc Hiệp-Thiên Đài đó.
Ngài Khai-Pháp là người đã thừa lịnh Đức Hộ-Pháp đến nhà Tịnh nơi
Trí-Giác-Cung - Địa-Linh-Động là nhà tịnh của Hiệp-Thiên-Đài Khai PHÁP cho cơ Đạo
nhằm lúc khởi công kiến-tạo vào năm Mậu-Tý (1948).
Người có được tấm lòng trung với Đạo và hiếu nghĩa với Thầy là Hộ-Pháp,
trong lúc bị đày nơi Hải-Đảo Madagascar (Phi-châu), Ngài hết lòng lo-lắng và
săn-sóc cho Đức Hộ-Pháp trọn nghĩa Thầy trò, dù cảnh tù đày mà tình-cảm vẫn khắn-khít.
Người đứng đầu bên Cơ-quan Phước Thiện cũng đủ cho nhơn-sanh cùng nhau “đi tìm
PHÁP”, là hãy hết lòng phụng-sự cho Vạn-linh bằng con đường hành thiện cũng đạt
Đạo vậy.
Đức Hộ-Pháp xác nhận:
“Chính mình Hộ Pháp là người cầm đầu
trong Hiệp Thiên-Đài, trách-nhiệm đó nặng-nề làm sao đâu ! Khi ấy chỉ có ba người
Hiệp Thiên-Đài lãnh phận-sự Thầy”.
Đức Chí-Tôn nói:
“Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi ấy hết khổ”.Bởi “Cái
khổ ách của nhơn-loại là cùng khắp thế gian, nên Thánh-ý Thầy muốn giao cơ cứu
khổ cho con phải làm thế nào nên ngọn cờ cứu-khổ, để giải khổ cho nhơn-sanh
cùng khắp mặt địa-cầu này”.
[Ngày:17-4 Ất-Mùi (1955)]
Nhìn chung thì lập công bằng con đường Cửu Thiên Khai-Hóa như Đức Quyền
Giáo-Tông hay bằng con đường Thập-Nhị đẳng cấp Thiêng liêng, là cơ-quan cứu khổ
của Phước-Thiện cũng được hiệp nhứt với Trời, tức là hội hiệp cùng Đức Chí-Tôn
bởi hình ảnh các Ngài là đã tượng-trưng cho sự HIỆP TAM BỬU tức nhiên hiệp TINH
- KHÍ - THẦN đó vậy!
Kết luận: Đạo CAO ĐÀI thành hình do ba người, nhưng phải trải qua ba giai đọan,
theo bảng tóm tắt sau:
Do đâu mà các Ngài được sự lựa chọn như vậy?
- Đó là những bậc lương-sanh mà Đức Chí Tôn đã chọn và cho xuống trước để đến
ngày giờ này Ngài đến qui lại mà lo cứu vớt quần-sanh. Là các bậc nguyên-nhân.
“Những vai tuồng của Chí-Tôn sắp đặt
trên sân khấu Đạo, nếu so-sánh lại cũng chẳng khác chi những bậc nguyên-nhân lãnh
phận-sự dìu đời từ xưa đến giờ mà thôi. Nguyên-nhân là các nguyên-linh Đức
Chí-Tôn cho xuống trần để dìu dắt hóa-nhân đi lên đường tấn-hoá và cũng để học-hỏi
về cơ tấn-hóa. Cũng có phần nguyên nhân đến đặng mở cơ giáo-hóa song không có
trong số một trăm ức nguyên-nhân của Chí-Tôn đã cho xuống thế từ buổi Thượng-nguơn”.
Đây là cơ NHÂN đã Hiệp Tam-Bửu rồi vậy,
chỉ còn mỗi cơ THIÊN mà thôi.
4 - Lý Dịch trong ba thời-kỳ:
Kết quả qua ba giai-đoạn chuyển-biến mà thành hình, lẽ ra đó là con số 9 (3x3=9), gọi là “Tam luân Cửu chuyển” nhưng thật sự lại là số 12. Vì thời khởi thủy có đến hai cơ-quan: Hiệp Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài, đó là Âm Dương tương hiệp (bởi Hiệp Thiên-Đài quẻ LY là Dương, Cửu-Trùng-Đài quẻ Khảm là Âm).
Tức nhiên con đường Thập Nhị Khai Thiên Đức Chí-Tôn đã mở ra cho nhơn-loại
tu để về đến ngôi Trời, nên “số 12 là số riêng của Thầy”.
Số 12 là số đặc-biệt, tức là (9+3=12). Số 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi.
Lấy ba ngôi hiệp vào cơ vận chuyển tức là cơ Qui nhứt, nắm cả các pháp trong
tay; mà Người nắm pháp ấy là Chủ-tể Càn Khôn vũ-trụ. Nên Thầy có nói số 12 là số
riêng của Thầy là vậy.
Nếu cộng lại theo hàng ngang thì (1+2=3) tức là 3 ngôi đầu tiên (Phật,
Pháp, Tăng) hay là Thiên, Địa, Nhân và cũng là TINH- KHÍ- THẦN hiệp nhứt.
Nếu tính theo vị-trí, thì 1 rồi đến 2 tức là lý Thái Cực (số 1) đứng trước
luật Âm Dương (số 2) thì thấy rõ quyền-năng Chưởng-Quản trong đó.
Vì thế nên THẦY nói “Chi chi cũng có luật định, không một vật chi ngoài quyền
sở-định của Tạo-hóa hết”. Nhưng luật công-bình có hai phần: một Âm, một Dương
biến động, dù ngay trong luật-định cũng có. Ở đâu cũng có cái lý mâu thuẫn
trong đó, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh. Hết vòng biến-đổi mới trở
về trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 mới trở lại trạng-thái Hư-vô (là 0), cho
nên người tu “Đắc nhứt qui cơ” là thành Đạo, là hiệp cùng lý Thái-Cực để trở lại
trạng-thái tĩnh-lặng nhiệm mầu.
“Trong lý Hư-vô phát sanh một Thái-cực.
Thái-cực biến-hóa ba ngôi, mỗi ngôi lại biến hóa nữa thành ra Cửu chuyển.
Nhất là ba vị: Thượng-Phẩm, Giáo-Tông, Hộ-Pháp thuộc cơ kiến-tạo, phát-triển
nên vai-trò rất quan-trọng mà cửa Đạo Cao-Đài đòi hỏi người tu phải đủ Tam-lập
là: lập Đức, lập Công, lập Ngôn. Hơn nữa các Ngài là Thiên-Soái Mạng của Đức
Chí-Tôn đã chọn lựa trước, tức nhiên “Ngài dùng lương-sanh để cứu vớt quần-sanh”
trong buổi Tam Kỳ Phổ-Độ vậy.
Đức Hộ-Pháp kết-luận:
“Bần-Đạo nhấn mạnh một điều: ĐẠO
CAO-ĐÀI này vốn là một Tôn-giáo để cứu-khổ cho nhơn-loại, Đạo Cao-Đài cốt-yếu
không phải làm chủ thiên-hạ, mà cốt-yếu làm tôi-đòi tạo hạnh-phúc cho thiên-hạ,
tạo cái hạnh-phúc chơn thật.
“Hôm nay, Ngài Khai-Pháp hưởng đặng
nơi cõi thiêng liêng hằng sống mà Ngài đã hiểu thấu chơn-lý ấy là thực sự nên Bần-Đạo
cùng Ngài, Đức Thượng-Phẩm và Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt đã có công
lao chung chịu khổ-hạnh cùng nhau, nhứt tâm nhứt đức quyết gồng-gánh một nền
Tôn giáo của Đức Chí-Tôn và bảo-vệ, nâng-đỡ, thiệt hiện hình tướng cho cơ-quan
cứu khổ.
“Bần-Đạo lấy làm hân-hạnh, phúc hậu, vui hứng thấy Ngài đã đoạt Đạo, Đức
Khai Pháp Chơn-quân đã đoạt Đạo tại thế đó vậy. Bần-Đạo làm chứng cho cả thảy
con cái Đức Chí-Tôn điều ấy.”
Như vậy, Chỉ có 4 hào Dương, tượng trưng 4 nhân vật là: Hộ-Pháp, Khai-Pháp,
Đức Thượng-Phẩm và Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt. Trong câu trên, Đức Hộ
Pháp nói: “Hiểu thấu chơn-lý ấy thực-sự nên Bần Đạo cùng Ngài, Đức Thượng-Phẩm
và Đức Quyền Giáo Tông Thượng-Trung-Nhựt.”
Đây là cơ THIÊN, hiệp đủ Tam-Tài rồi vậy.
Bốn hào Dương này chính là bốn đức của Trời là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh;
nơi người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, đó (sẽ bàn sau).
Chính các Ngài cũng phải lập Đức, lập Công, lập Ngôn để hoàn thành Tam lập
trong con đường hành thiện như vầy:
Đến khi khởi công xây dựng Thánh-thất tức là nhà chung của Đạo (là Thánh-thất
tạm trước khi xây Đền Thánh bây giờ) thì Đức Thượng-Phẩm là người đứng ra cùng
góp công với nhân-sanh bứng gốc phá chồi, thật là Đấng đã khai sơn phá thạch
cùng với Đức Hộ-Pháp tạo nên một ngôi thờ phượng khang-trang, một ngôi Tổ đình
lưu lại cho nhơn-sanh một đức-tin tuyệt-đối. Nhưng đại nghiệp ấy mới nửa chừng
Người phải về Thiêng-liêng làm nhiệm vụ của Đức Chí-Tôn giao-phó, đành buông
gánh Đại-Đạo cho Hộ-Pháp một tay lèo-lái, lại còn chịu lao-lý để gánh ách nạn
cho dân-tộc. Với hai Đấng đầu công thật là công-trình vẹn-vẻ, vừa lo phần Thể
pháp, vừa thực hiện Bí-pháp của Đạo, hai Ngài đã thể hiện cơ Âm Dương tương đắc
ấy.
Đấy là hai Chức-sắc Đại-Thiên-phong nơi cửa Hiệp Thiên-Đài trong cơ kiến-tạo
nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ.
- Một là Đức Hộ-Pháp, đầy lòng hiếu đạo cùng Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
- Hai là Đức Thượng-Phẩm đầy-đủ đức kiên-nhẫn với một đức-tin tuyệt-đối.
Còn với công-quả phi-thường của Đức Quyền Giáo-Tông, Đức Hộ-Pháp đã giải:
5 - Dịch trong ba thời-kỳ:
Nếu nhìn vào phần tổng-kết trên thì thấy có ba giai đoạn chuyển-biến mà thành hình, lẽ ra đó là con số 9 (3x3=9), gọi là “Tam luân Cửu chuyển” nhưng thật sự là con số 12. Vì thời khởi thủy có đến hai cơ-quan: Hiệp Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài, đó là Âm Dương tương hiệp
Lại nữa, con đường Thập Nhị Khai Thiên Đức Chí Tôn đã mở ra cho nhơn-loại tu để về đến
ngôi Trời, nên “số 12 là số riêng
của Thầy”.
- Chính ra Hộ Pháp là nhứt Phật
(Thái cực)
- Thượng Phẩm và Thượng Sanh là nhị Tiên (Thượng Phẩm ( Dương), Thượng Sanh
(Âm).
Vì thế nên THẦY nói “Chi chi cũng có luật định, không một vật chi ngoài quyền
sở-định của Tạo-hóa hết”. Nhưng luật công-bình có hai phần: một Âm, một Dương
biến động, dù ngay trong luật-định cũng có. Ở đâu cũng có cái lý mâu thuẫn
trong đó, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh. Hết vòng biến-đổi mới trở
về trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 mới trở lại trạng-thái Hư-vô (là 0), cho
nên người tu “Đắc nhứt qui cơ” là thành Đạo, là hiệp cùng lý Thái-Cực để trở lại
trạng-thái tĩnh-lặng nhiệm mầu.
Đó là những tấm gương sáng “Đạo thành do ba người”
Mỗi một giai-đoạn có ba người như vậy là thể hiện sự tròn đầy viên mãn. Nhưng
thực-tế phải kể đến 5 người, để làm nên Ngũ Hành biến-hóa:
Nhìn vào hình vẽ, thấy đủ ba giai-đoạn:
1 - Cơ khởi thủy: Thượng-Phẩm, Thượng Sanh, Hộ-Pháp (hàng giữa) Hiệp-Thiên-Đài.
2 - Cơ kiến-thiết: Thượng-Phẩm, Giáo Tông, Hộ Pháp (bên trái)
3 - Cơ định-vị: Thượng-Phẩm, Khai-Pháp, Hộ Pháp (bên phải).
Như vậy mỗi người là một Thái-Cực, tượng trưng tâm-điểm của vòng tròn hay
là tâm của vũ trụ. Năm điểm họp lại thành một vòng tròn lớn đó là lý Ngũ-Hành
thuộc Thổ, trong Càn Khôn vũ-trụ gồm có Tam tài và nhị khí Âm Dương. Mà 3 cũng
là một, bởi hình ảnh của tam-giác: Một cũng là 3; thêm nhị khí âm dương, cọng lại
thành 5.
Trong Hội-Thánh có chia ra hai phần hữu hình:
- Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hóa dưới quyền Giáo-Tông Chưởng-Quản.
- Hiệp-Thiên-Đài là cơ-quan bảo-thủ chơn truyền, dưới quyền Hộ-Pháp Chưởng-Quản.
“Cửu Trùng-Đài là Đời, Hiệp-Thiên-Đài
là Đạo, cho nên buộc Đời phải nương Đạo mà lập ra thiệt tướng, mới mong độ rỗi
nhơn-sanh chuyển cơ Tạo-hóa.
“Cái hệ-trọng là nếu không có Hiệp-Thiên
Đài thì không có Đạo. Trời đất qua chớ Đạo không qua, nhơn loại tuyệt chớ Hiệp-Thiên-Đài
không tuyệt.
“Hiệp-Thiên-Đài là tay vén màn bí-mật
cho sự hữu hình và vô-vi hiệp làm một tức là tay phàm làm cho Đạo và Đời
tương-đắc vậy, vì cớ ấy mà Thầy giáng cơ buộc cả chư Môn-đệ Thầy chẳng khi nào
đặng phép trái mạng lịnh của Thầy.”
Như vậy trong nền Đại-Đạo hiện thời dưới quyền của hai nhà lãnh-đạo là
Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Khi nào Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền hành của
Chí-Tôn tại thế.
“Trên ba Hội lập quyền thì có
Giáo-Tông và Hộ Pháp:
- Giáo-Tông là chủ Cửu-Trùng-Đài thì lo về việc chánh-trị của Đạo có Chưởng-Pháp
và Đầu Sư ở trung gian giúp sức điều-đình các luật-lệ truyền xuống cho ba Chánh
Phối-Sư nắm trọn quyền hành-chánh. Giáo-Tông có quyền định đoạt trong việc
chánh-trị của Đạo.
- Hộ-Pháp thì lo giữ luật-lệ của Đạo cho khỏi sái Thiên-điều vì luật-lệ của
Đại-Đạo Tam kỳ Phổ-Độ ngày nay thì thế cho Thiên-điều.
Hộ-Pháp có quyền đặc-biệt về Ân-xá cũng như Giáo-Tông có quyền Chánh-trị vậy.
.
Hộ-Pháp Chưởng-quản Hiệp-Thiên-Đài có Thượng Phẩm, Thượng-Sanh và Thập Nhị
Thời Quân giúp sức.
Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là Quyền Chí-Tôn”.
Châu Tri số 01 của Quyền Giáo Tông
Thượng Trung Nhựt (1933).
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Bát Niên)
Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt
CHÂU TRI (Số 1)
Cho chư Thiên Phong,
Chư vị Ðầu Họ Ðạo,
Chư vị chủ Thánh Thất,
Và chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái.
Chư Hiền Hữu, chư Hiền Tỷ, chư Hiền Muội,
Chiếu theo Thánh giáo của Ðức Chí Tôn ngày 4-2-1933.
Chiếu theo Thánh giáo của Ðức Lý Giáo Tông ngày 01-01-1933 và ngày
10-3-1933.
Chiếu theo những điều của Thượng Hội quyết định ngày 25-12-1932.
Việc chánh trị của nền Ðạo đã được sắp đặt lại từ 17-2-Quý Dậu (dl:
12-03-1933) như sau nầy:
Ðiều thứ Nhứt: Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt còn cầm Quyền Giáo Tông mà thôi.
Ðiều thứ Nhì: Trong lúc Chưởng Pháp chưa có chánh vị thì quyền hành Chưởng Pháp giao
cho Hiệp Thiên Ðài cầm. Ba vị Thời Quân cầm quyền Chưởng Pháp là: vị Bảo Pháp
Nguyễn Trung Hậu, vị Bảo Thế Lê Thiện Phước và vị Hiến Ðạo Phạm Văn Tươi.
Ðiều thứ ba: Ba vị Chánh Phối Sư: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang
Thanh còn cầm quyền: Quyền Ðầu Sư mà thôi.
Ðiều thứ Tư: Trong lúc Chánh Phối Sư chưa có chánh vị thì quyền hành giao cho Hiệp
Thiên Ðài cầm. Ba vị Thời Quân cầm quyền Chánh Phối Sư là: Vị Khai Pháp Trần
Duy Nghĩa, vị Khai Ðạo Phạm Tấn Ðãi và vị Khai Thế Thái Văn Thâu.
- Vị Khai Pháp cầm quyền Ngọc Chánh Phối Sư.
- Vị Khai Ðạo cầm quyền Thái Chánh Phối Sư.
- Vị Khai Thế cầm quyền Thượng Chánh Phối Sư.
Ðiều thứ Năm: Ba vị Chánh Phối Sư tân được quyền lập Nội Chánh để cầm quyền Cửu Viện tại
Tòa Thánh.
Tòa Nội Chánh được chia ra như vầy:
PHÁI THÁI:
- Lương Viện:
Quản Lý: Phối Sư Thượng Tông
Thanh,
Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng
Hộ Thanh
- Hộ Viện:
Quản Lý: Giáo Hữu Thái Như
Thanh,
Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thái Bộ
Thanh, Lễ Sanh Thượng Chất Thanh
- Công Viện:
Quản Lý: Giáo Hữu Thái Gấm Thanh,
Phó Quản
Lý: Lễ Sanh Thượng Nguơn Thanh.
PHÁI THƯỢNG:
- Y Viện:
. Quản Lý: Giáo Sư Thượng Thành Thanh, Giáo Sư Thượng Latapie Thanh.
. Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, Giáo Hữu Ngọc Non Thanh.
- Học Viện:
. Quản Lý: Giáo Sư Thượng Thành Thanh,
. Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng Sáng Thanh.
- Nông Viện:
. Quản Lý: Giáo Hữu Ngọc Bổn Thanh,
. Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng Ðứa Thanh.
PHÁI NGỌC:
- Lại Viện:
. Quản Lý: Giáo Sư Thượng Bảy Thanh,
. Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng Tuy Thanh, Giáo Hữu Thượng Thiện Thanh, Giáo
Hữu Thượng Áo Thanh.
- Lễ Viện:
. Quản Lý: Giáo Sư Ngọc Trọng Thanh,
. Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng Mía Thanh, Giáo Hữu Thượng Lai Thanh.
- Hòa Viện:
. Quản Lý: Giáo Sư Thượng Liêng Thanh,
. Phó Quản Lý: Giáo Hữu Thượng Tại Thanh, Lễ Sanh Thượng Tài Thanh ...
Lễ Ðăng Ðiện và ban quyền cho Quyền Giáo Tông, Quyền Ðầu Sư, Chánh Phối Sư
và Nội Chánh đã thiết hành ngày 12-3-1933 tại Tòa Thánh Tây Ninh, nhằm ngày
17-2-Quý Dậu.
Ba vị Chánh Phối Sư và Nội Chánh đã bắt đầu hành chánh kể từ ngày
26-3-1933, nhằm ngày 1-3-Quý Dậu là ngày ba vị cựu Chánh Phối Sư thăng lên Quyền
Ðầu Sư, đã giao trách nhậm cho ba Chánh Phối Sư tân là: Ba vị Khai Ðạo, Khai
Pháp và Khai Thế.
Chiếu y Ðạo Nghị Ðịnh thứ nhì, thứ ba và thứ tư của Ðức Lý Giáo Tông thì mỗi
việc chi thuộc quyền chánh trị đều giao cho Chánh Phối Sư như là quyền thay mặt
cho toàn Ðạo mà giao thông cùng Chánh Phủ và cả Tín đồ, quyền giáo dục nhơn
sanh, quyền xem xét các nơi, chăm nom Ðạo Hữu, quyền trị Chức Sắc phần Ðạo và
phần Ðời, buộc Chức Sắc làm y phận sự, quyền tạp tụng, quyền điều đình sự phổ độ,
tài liệu của Ðạo, quyền chủ trương Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh
Vậy chúng tôi xin khuyên chư Thiên Phong phải hết lòng vì Ðạo, giúp cho ba
vị và Hội Thánh có đủ sức thi hành cả chương trình hành Ðạo. Chương trình nầy
có in theo sau đây cho chư Chức Sắc và chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái biết.
Từ đây các việc truyền bá trong Ðạo phải có tờ của ba vị Chánh Phối Sư tân
ký hay là Ban Nội Chánh thay mặt cho ba vị ký. Ai không được lịnh của ba vị ký
mà tự chuyên đi giao thông với chư Chức Sắc và chư Ðạo Hữu là người muốn sanh
việc rối loạn làm hư nền Ðạo.
Hiện thời, Hội Thánh rất cần việc hiến công quả, chư Ðạo Hữu có tài nghề
chi cũng nên thừa lúc nầy đem ra hiến cho Ðạo nhờ, vì một năm nay phải lo khởi
cất Bát Quái Ðài.
Năm rồi Thái và Ngọc Chánh Phối Sư có ra Châu Tri số 39 đề ngày 6-1-1932,
xin chư vị Chức Sắc, Ðầu Họ Ðạo, chủ Thánh Thất cho trong Ðạo Hữu hay, ai có
lòng bác ái hộ vật thực đến Tòa
Thánh hỉ
cúng đặng đủ
nuôi
Ðạo Hữu hiến thân làm công quả cho nền Ðạo.
Năm nay Tòa Thánh phải tạo tác nhiều việc lớn lao, nên cũng xin chư Ðạo Hữu
hết lòng lo việc hộ vật thực như: lúa, gạo, nếp, bắp, khoai, muối…
Các vật thực và vật dụng hộ về Tòa Thánh đều có Chức Sắc Thiên Phong thâu nạp
và chứng kiến công ơn của chư Ðạo Hữu hỉ cúng cho Ðạo.
Ngoài năm nay Hội Thánh còn phải lo việc phổ độ ngoại quốc (việc hiệp nhứt
trong năm Quý Dậu, vì cả Thế Giới trông mong hai chữ Hòa Bình). Năm nay là năm
lập thành đại công quả xin chư Chức Sắc và chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái phải tận tâm
chung lo chấn hưng nền Ðạo cho hoàn tất, y theo Thánh giáo của Ðức Chí Tôn hồi
năm Bính Dần.
Tòa Thánh, ngày 07-3-Quý Dậu (dl: 01-04-1933)
Hộ-Pháp Qu. Giáo-Tông
PHẠM CÔNG TẮC THƯỢNG TRUNG NHỰT
CHƯƠNG VI
TÂN- LUẬT 新 律
E: The New Religions Code
F: Le Nouveau Code Religieux
(Tân là mới. Luật là đồ dùng ngày xưa
để thẩm xét thanh-âm) nói rộng ra là những phép khuôn đã đặt định để làm chuẩn,
cứ do theo đó mà thực-hiện, không làm sai trái, ví như Pháp-Luật là những qui-tắc,
hành-vi để cho nhơn sanh tùy theo tập-quán của dân-tộc mà thi hành, mục đích để
giữ vững trật-tự an-ninh cho cuộc sống.
Gọi là TÂN-LUẬT để phân biệt với Cựu Luật. Chữ Tân là mới, ý-nghĩa ở đây rất
linh-động, thể hiện tinh-thần của Tiên Nho “Nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt
tân” (ngày mới, ngày ngày mới, mỗi ngày mỗi mới). Có như vậy mới phù hợp với
trào-lưu tiến-hóa của nhơn-sanh. Có nghĩa là TÂN-LUẬT của ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ
ngày nay sẽ được thay đổi theo từng thời gian cho hợp với dân trí chớ không phải
bất di bất dịch.
Đầu tiên Thầy giao cho Hòa Thượng Như Nhãn lập Luật nên có bài Cơ này:
Chùa Giác Hải, Sài gòn: 15-8-Bính Dần (dl: 21-9-1926)
THÍCH CA MÂU NI
PHẬT viết
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG
ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
chuyển Phật giáo
Nam phương
Như Nhãn, con nghe Thầy:
- Khi giáng trần
Chí Tôn Phật Tổ, Thầy duy đặng có bốn môn đệ, chúng nó đều chối Thầy.
- Khi giáng lập
đạo Tiên, Thầy có một trò là Nguơn Thỉ.
- Khi lập đạo Thánh thì đặng mười hai môn đệ, song đến khi bị bắt và hành
hình thì chúng nó đều trốn hết, lại còn bán xác Thầy nữa. Còn nay, Thầy đã sắm sẵn
môn đệ cho con cũng đã nhiều, con đừng thối chí.
Thầy thường than rằng: Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh, nên
Thầy nôn nóng nhưng Thiên cơ chẳng nghịch đặng. Ma quỉ hằng phá Chánh mà giữ
Tà, chư Tiên Phật trước chưa hề tránh khỏi.
Còn cái địa vị cao trọng, nó làm cho nhơn tâm ganh gổ. Con phải lấy Phật
tâm con mà dòm ngó đám sanh linh bị phạt, luân hồi chưa dứt, thì tưởng đến Thầy
mà cam chịu nhục nhã, lòng từ bi có vậy mới xứng đáng là tôi con Thầy. Nếu Thầy
dùng quyền pháp Chí Tôn thì mất lẽ công bình thiêng liêng Tạo hóa. Con cứ lo LẬP
LUẬT, để công phổ độ cho chư đạo hữu con hưởng chút ít.
Ngày ban hành Tân Luật: 02-05-Đinh Mão (dl: Thứ Tư, 01-06-1927)
Ngày 02-05-Đinh Mão, tại Cửu Trùng Đài Tòa Thánh, sau khi đọc xong bộ TÂN
LUẬT, Đức Hộ Pháp cầm bộ Tân Luật ấy đưa lên và tuyên bố ban hành.
- TÂN LUẬT là Luật tu thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, các Luật tu thời Nhứt Kỳ
và Nhị Kỳ Phổ Độ đã thành luật cũ nên gọi
là Cựu Luật.
- TÂN LUẬT do Đức Chí Tôn ban lịnh lập thành, do Hội Thánh thay mặt cho Nhơn
sanh làm nên, đương nhiên phù hạp với trình độ tiến hóa của nhơn sanh.
Như ngày sau, nếu Đức Chí Tôn ban quyền cho nhơn sanh lập Luật lại nữa, khi
trình độ tiến hóa đến một giai đoạn cao hơn, thì Luật sẽ được nhơn sanh chỉnh đốn
cho phù hạp với nhơn trí, làm cho Đạo - Đời tương đắc mà dìu dắt cả nhơn sanh đời
đời kiếp kiếp.
TÂN LUẬT gồm 3 phần: Đạo pháp, Thế luật và Tịnh thất
1 - Đạo pháp gồm 32 điều, 8 chương.
2 - Thế Luật : có 24 điều
3 - Tịnh thất : có 8 điều.
Như vậy cộng chung cả thảy là 64 điều (32+24+8) ấy cũng trở về Bát Quái biến
hóa, có nghĩa là Bát quái có 8 quẻ đơn, nhân 8x8=64 là quẻ kép, mỗi quẻ kép có
6 hào.
Đạo Đức Học Đường được Hội Thánh lập thành căn cứ theo TÂN LUẬT,phần Đạo
pháp chương VI về Giáo huấn.
PCT: “Thí dụ: Như có kẻ hỏi: Sao Thầy không dùng Cựu Luật trong Tam Giáo đã
có sẵn rồi, lại lập chi TÂN LUẬT nữa, mà buộc nhơn sanh phải yểm cựu nghinh tân
vậy?"
Ta lại đáp: "Chính Thầy đã giáng cơ nói: Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm
Tự phá Cổ; ấy vậy Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ Pháp thì Lôi Âm
Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu Luật và Cổ Pháp chẳng còn ý vị chi hết. Những
bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu Luật hay là Cổ Pháp thì trái hẳn với
Thiên Ðiều của ĐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ÐỘ thể
Thiên hành chánh.
Bởi cớ ấy nên CHÍ TÔN đã cấm Ngũ chi phái Ngọc, dùng Cổ Luật mà mê hoặc nhơn
sanh nữa. Hễ tùng Cựu Luật tức phải tùng Thiên Ðiều, mà hễ tùng Thiên Ðiều thì
khó lập vị cho mình đặng".
Sự thành hình bộ TÂN-LUẬT được dẫn giải qua các giai-đoạn sau, diễn tiến
theo từng thời-gian mà các Đấng giáng Cơ dạy buổi đầu, nghĩa là lúc mới khai Đạo:
- Một là ý-nghĩa
TÂN-LUẬT.
- Hai là sự diễn-tiến
của việc lập thành TÂN LUẬT
A - Ý-NGHĨA
TÂN-LUẬT
Đã nói rằng “Ngọc-Hư-Cung bác Luật, Lôi Âm-Tự phá Cổ” tức là không tùng Cựu-Luật, mà hễ không
tùng Cựu Luật tất nhiên phải tùng TÂN-LUẬT. Buổi Tam-kỳ Phổ-Độ Đức CHÍ TÔN dùng
huyền-diệu Cơ Bút giáng trần dạy Đạo xưng mình là Thầy, kêu chúng-sanh là Môn đệ,
chính mình Thầy đến để độ rỗi con cái của Thầy. Thầy không giao Chánh-giáo cho
tay phàm, vì phàm thì hữu hình hữu hoại, lần lần canh-cải chánh giáo ra
phàm-giáo. Giáo-điều của các Tôn-giáo xưa phát-xuất nhằm nguơn Nhị kỳ phổ-độ tuy tương-đối cao siêu đặc-sắc,
nhưng cũng phải do ảnh-hưởng dân tâm, dân trí địa-phương khai Đạo, do các Đấng
Giáo-chủ cũng phải mang hình thể con người của địa-phương để dễ bề truyền Đạo.
Nay buổi Hạ-nguơn, Càn Khôn dĩ tận thức, tức nhiên nhân-loại đã thực sự hiểu
biết nhau, thông-cảm nhau qua phong-tục, tập-quán, phương-tiện giao-thông, hệ
thống truyền thanh, truyền hình các thứ, xem như năm Châu chung chợ, bốn biển
chung nhà, ấy là nhân-loại đã hiệp đồng. Do vậy mà Đức Chí-Tôn đến lập Tam-Kỳ
Phổ Độ, không lâm phàm với xác thân hình-hài sắc tộc; mà chính Đại-Từ-Phụ giáng
cơ lập nên mối Đạo Đại-Đồng, vì vậy Luật Đạo cũng lập trên căn bản Đại Đồng,
nghĩa là phải do toàn cả chúng sanh, phát xuất từ các Tôn-giáo cổ truyền tổng hợp
thành TÂN-LUẬT. Chí đến việc thờ phượng Đức Chí-Tôn phải dùng THIÊN-NHÃN làm
tiêu biểu lương-tâm (La conscience) của cả nhơn-loại để tránh nạn hình cốt
(Idolâtrie).
Bí-quyết của Đạo Cao-Đài là luôn luôn có quyền Thiên Thượng và Thiên-hạ
(Dieu et Humanité) tức là quyền Chí-linh và Vạn linh hiệp một. Thánh-ý Đức Chí
Tôn muốn để con cái của Ngài tự lập LUẬT, tùy theo sức khép mình vào con đường
tu-luyện để khỏi than rằng: Luật quá mắc mỏ rồi không đoạt thành phẩm-vị sanh
ra chán nản, hoặc viện lẽ rằng quá rẻ mà sanh dạ dễ-duôi. Bởi cớ nên bộ Luật của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ gọi là TÂN LUẬT do chư Môn-đệ của Thầy hợp nhau lập
thành rồi dâng lên cho Đức LÝ
GIÁO-TÔNG phê-chuẩn.
TÂN-LUẬT sau này có thể tu-chỉnh tùy trình độ tiến hóa của nhân-sanh từng
thế-hệ nhưng dù được sửa đổi hay bổ-túc cũng phải cầu xin phê chuẩn như trước.
Cũng bởi lẽ tùy sự tiến hóa của loài người, sửa đổi LUẬT cho phù-hợp trình-độ
dân trí nên dù trải bao thế-kỷ hậu lai Luật vẫn mang tính cách mới mãi mãi nên
gọi là Tân-Luật.
B - KHỞI SỌAN TÂN LUẬT:
Thiền Lâm Tự - Gò Kén- Tây Ninh: ngày 29-7-Bính Dần (Chúa nhựt: 05-09-1926)
Thầy dạy ông Như Nhãn lập TÂN LUẬT:
“Rằm tháng 10 nầy, Thầy xin con hội cả chư Hòa Thượng tại Thánh-Thất đây
chung lo lập TÂN LUẬT. Ngày ấy Thầy sẽ dạy cho hai vị Hòa-Thượng phò loan, đặng
có điều chi bợ ngợ thì cầu Thầy mà hỏi.
Thầy phú thác một trách nhậm nặng nề cho con, nhưng mà
con đừng ái-ngại. Danh
giá con, Thánh Đạo THẦY trong ấy,
con khá hết lòng. Con phải hiểu rằng, hội chư Hòa-Thượng trọn đôi ba tháng thì
là hao tốn, song
Chú thích:
- Trung: Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung)
- Tương: Ngài Chánh Phối Sư Thượng
Tương Thanh.
- Trang: Ngài Chánh Phối Sư Ngọc
Trang Thanh.
- Như Nhãn: Hòa Thượng Như Nhãn, pháp danh là Thích Từ Phong, thế danh là
Nguyễn Văn Tường (1874-1938), trụ trì tại chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn, nên
Ngài còn được gọi là Hòa Thượng Giác Hải. Ngài có góp tiền trong bổn đạo mua đất
cất chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén, Tây Ninh. Ngài được Đức Chí Tôn phong là Thái Chưởng
Pháp.
Từ Lâm Tự, thường được gọi là chùa Gò Kén, còn có tên là Thiền Lâm Tự.
Minh: Hòa Thượng Thích Thiện Minh, học trò của Hòa
Thượng Như Nhãn. Ngài Thiện Minh được Đức Chí Tôn phong chức Thái Đầu
Sư Thái Minh Tinh. chẳng hề chi, để THẦY
định liệu. Tuy vân, Thầy biết sức một mình con
cũng đủ lập TÂN-LUẬT nhưng mà Thầy
muốn có Hòa Thượng đặng cho khỏi
trành-tròn, lại còn làm tay chơn
Thầy để thâu phục Thích Đạo.
Thầy cậy con một điều là đòi MINH, vì nó là Môn đệ của con, đặng giao chức
THÁI ĐẦU SƯ cho nó đi phổ độ nhơn sanh. Cái trách nhậm ấy đáng lẽ về phần con,
song con tuổi đã cao rồi, khó bề cực nhọc, nghe à !
Thầy để con trọn quyền mà Thầy xin con an lòng, Thầy lo chung cùng con, Thầy
trông cậy nơi con lắm đó !
C - SỰ DIỄN-TIẾN của việc LẬP TÂN-LUẬT: TÂN-LUẬT
của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ được diễn tiến qua bốn giai-đoạn:
- Soạn thảo
Tân-luật.
- Bàn thảo
Tân-luật.
- Dâng Tân-luật.
- Thành
Tân-luật.
Với thời-gian 3 tháng kể từ ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (dl: 19-11-1926)
các vị Hoà-Thượng họp bàn thảo đến ngày 08- 01- Đinh-Mão (dl: 09-02-1927).
1 - Soạn thảo TÂN-LUẬT:
Việc soạn thảo Tân-luật Đức Chí-Tôn giao cho Hòa Thượng Như-Nhãn hội các
Hòa-Thượng, từ ngày rằm tháng mười năm Bính-Dần, phải nạp bản dự thảo LUẬT để họp
chư Thánh bàn thảo do chứng tích và ý-nghĩa còn ghi trong Đạo-sử của Bà Đầu Sư
Hương-Hiếu.
Đức Chí-Tôn dạy: “Thời-kỳ dấu-diếm Thiên-cơ đã qua rồi, Thầy phong cho con
(Hòa-Thượng Như-Nhãn) là Quảng Pháp Thiền-sư Thích-Đạo chuyển Luật-lịnh Diêu Đạo-sĩ,
con vừa lòng chăng ? Con đã giúp Thầy gìn-giữ Thích-Đạo nguyên luật từ thử nay
mới còn đặng như vậy, không thì đã ra Bàng môn Tả đạo rồi, con phải biết Thầy
ngày nay trông công con mà lập thành TÂN LUẬT Thích Giáo. Con phải đại tịnh kể
từ tháng 09 cho tới rằm tháng 10. Thầy không muốn cho con lo lắng điều gì khác
hơn là xét xem kinh điển lại. Con biết Ngũ Chi: Minh Đường, Minh-Sư, Minh Tân,
Minh-Lý, Minh-Thiện, cũng đều do nơi Phật-giáo mà ra, duy có giáo-lý của các
Chi ấy thì có Tiểu-học, Đại-học, Trung-dung và Tứ Thư là kinh-điển mà thôi. Còn
phái LÃO duy có Đạo-Đức-kinh và Huỳnh-Đình kinh làm căn-bản, con phải xem-xét hết
lại mà lập TÂN LUẬT. Thầy nhứt định giao Thánh-Thất này lại cho THƠ lo-lắng thế
cho con, song sự thờ-phượng phải có thay đổi chút ít. Sau Thầy sẽ dạy chư Đạo-hữu
con định-liệu”.
“Tuy vân, Thầy biết sức một mình con cũng đủ lập Tân-Luật, nhưng mà Thầy muốn
có Hòa Thượng đặng cho khỏi trành-tròn lại còn làm tay chơn Thầy để thâu phục
Thích đạo”.
2 - Bàn thảo TÂN-LUẬT:
Ngày: 02-11-Bính Dần (Lundi 06 Décembre 1926)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM
PHƯƠNG
(Lẽ ra phải nạp bản Tân-Luật vào ngày 02-11-Bính Dần. Vì lý-do trễ nãi Ngài
Thượng-Đầu-Sư cầu xin dừng lại một tuần và nhân dịp này Đức Chí-Tôn giải-thích
thêm).
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ, chư Nhu, chư Tín Nữ, TRUNG bạch Thầy xin cho đình
lại qua ngày Thứ Bảy tới sẽ nạp Luật cho Thầy phê chuẩn....
Phải ở luôn luôn nơi Thánh Thất đặng lập Luật sẵn. Nghe Thầy dạy, khởi đầu
lập:
- "Luật Tu" gọi là "Tịnh Thất Luật",
- Kế nữa lập "Luật Trị" gọi là "Ðạo Pháp Luật",
- Ba là lập Luật đời gọi là“Thế-luật” các con hiểu à?
Sau khi soạn thảo Tân-Luật xong:
Ngày 14-11-Bính
Dần (Samedi, 18 Décembre 1926):
THÁI BẠCH. Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe dạy:
Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng: "Buổi lập LUẬT phải ngưng sự phổ
độ lại đôi chút" lo cho xong TÂN LUẬT thì mới truyền bá chơn Ðạo rõ lý hơn.
Vậy ngày Ðại Lễ Thánh Giáo Giáng Sanh phải có mặt tại đây cho đủ và nạp LUẬT
cho kịp ngày ấy. Làm lễ xong qua ngày kế thì Chư Thánh mặc Ðại phục vào Điện
bái rồi Hiền Hữu biểu sắp ghế vòng theo Ðại điện. Hiền Hữu và Ngọc Lịch Nguyệt
lên tọa Bửu vị, rồi theo chức phận “Chư Thánh” ngồi vòng hai bên như lúc Hiền Hữu
còn tại Thượng Nghị Viện đặng Cải Luật đó vậy.
Hiền Hữu Chưởng-Quản làm chủ Hội, mỗi vị “Thánh” đều đặng quyền cải lẽ,
nghe à!
Phải giữ phép kẻ trước người sau, tùy phiên nhau cho có lễ:
- Phái THÁI trước,
- Phái NGỌC giữa,
- Phái THƯỢNG chót.
Phải viết thơ cho TƯƠNG và TRANG nạp Luật cho kịp một lượt với THƠ, nghe à!
Thượng Kỳ Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu, như không tuân lịnh xuất ngoại.
Thầy cho làm lễ Cầu siêu cho cha Mục Thanh.
* Qua ngày 16-11 Bính-Dần (dl: 20-12-1926)
Đức Chí-Tôn giáng dạy: Chư môn-đệ nghe!
"Thầy đã nói muốn cho hoàn-toàn phải có Luật, mà hễ có Luật thì cần phải
do theo đó mà hành Đạo mới khỏi điều sơ thất đặng. Nhiều đứa nhờ công-quả chút
ít mà được Thầy trọng dụng là có ý để cho chúng nó đặng vui lòng mà bước tới,
dè đâu chẳng trọng sợ lịnh Thầy, lại lấy ý riêng mà làm cho có lời kích-bác
trong Đạo. Nếu Thầy chẳng lấy Đức từ-bi mà dìu dắt các con thì chư Thần, Thánh
đã phạt mấy đứa âý một cách nặng nề hơn, các con khá liệu mà hành Đạo”
Ngày: 20-11-Bính
Dần (Vendredi 24 Décembre 1926)
THÁI BẠCH
Ðại hỉ, đại hỉ. Lão mừng cho chư Ðạo Hữu. Chỉnh đàn Thầy ngự. TRUNG, Hiền Hữu nhớ mời hội:
- Từ 6 giờ mơi chí 11 giờ nghỉ;
- Từ 2 giờ tới 6 giờ nghỉ.
- Tối từ 8 giờ tới 11 giờ nghỉ.
Như chưa hoàn toàn ngày mai cũng phải vậy. Thầy dặn phải tuân y theo lời.
Luật lệ truyền lâu dài, chư Ðạo Hữu phải rán cẩn thận nghe à.!
Cùng ngày, có Đức Chí-Tôn giáng :
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM
PHƯƠNG
“Các con ôi, nếu nói rằng Thầy đã chịu cực nhọc từ ngày Khai Ðạo đến chừ, Ðạo
đặng phổ thông mau chóng dường nầy, thì đáng lẽ Thầy mừng cho các con lắm mới
phải, sao Thầy lại buồn ?
Các con ôi, các con đã chịu lắm khổ não nơi biển trần nầy, từ mười ngàn năm
rồi đã ở dưới quyền tà quái áp chế, vì vậy mà Thầy phải phế Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh
Kim Khuyết, giáng trần độ rỗi các con. Chớ chi Thầy đến mà làm giảm bớt sự khổ
não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào lại còn lập "TÂN LUẬT"
ràng buộc các con thêm nữa, vì cớ mà Thầy buồn.
Thầy tỏ thật, cái Luật lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí lập thành đây,
nó có ảnh hưởng về đạo đức, Thiên phong Phật sắc của các con, nên Thầy buộc
mình cam chịu vậy. Chẳng Luật lệ thì là trái phép, mà trái phép thì làm thế nào
vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng.
Vậy các con gắng làm phận sự cho hoàn toàn rồi có Thái Bạch giáng cơ sửa Luật”.
* Ngày 21-11 Bính-Dần (Samedi, 25-12-1926)
(Nay, ngày chính thức bàn thảo
Tân-Luật, nhưng buổi hội chư Thánh suốt ngày hôm đó không đem lại kết quả nên Đức
Lý giáng cơ chỉ vẽ dặn-dò)
THÁI BẠCH
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu khai hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết.
Việc tán Thành TÂN LUẬT nếu Thầy để cho Lão nội trong hai giờ hoàn thành tất cả.
Ngặt một điều là nếu Lão lập Luật, chẳng một ai trong hàng Ðạo Hữu hành Ðạo đặng.
Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho chư Ðạo Hữu lập thành là chủ ý để phần nhơn lực
vào đó chút ít, rồi lấy huyền diệu làm ra Thiên Luật, ấy là một hạnh công bình
đó.
Vậy Lão giao ba bộ Luật hiệp một cho Thái THƠ Thanh trước, nội trong một tuần
lễ phải hiệp thế nào cho ba bộ phải chung vô làm một;
- Qua tuần nữa tới Thượng TƯƠNG Thanh;
- Kế một tuần nữa tới Ngọc TRANG Thanh, nghĩa là trong ba tuần nữa phải lập
thế nào cho rồi luật lệ, đem về Thánh Thất đặng cải lại nữa.... chư Thiên
Phong.
* Ngày 22-11 Bính-Dần (Dimanche 26-12-1926)
Đức Lý nhắc: Trung, Hiền-Hữu nhớ viết thơ cho chư Thánh, ngày Cải Luật phải
đủ mặt, bằng ai chẳng tuân mạng Lão trục xuất, nghe à!
* Ngày 12-12 Bính-Dần (Samedi 15-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy:
Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu cũng nên để tịnh tâm đặng lo Cải Luật, chẳng
nên ham vui quá nghe! Thầy sẽ ngự trong lúc Cải Luật. Lão giáng cơ trước khi mở
hội. Vậy khi chư Thánh đủ mặt phải cầu cho Lão dạy việc, chừng Lão ngự Đại Điện
thì tức cấp khai hội liền. Hết thảy đều mặc Đại-phục trong khi Cải Luật chẳng
nên thay Tiểu phục, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ngự xem, coi ra khiếm lễ vậy…nghe
à! Tuân! Ngày nay chẳng dạy văn. Lão để cho chư Đạo-hữu tịnh trí.
Tái cầu: Đức Chí-Tôn nhắc-nhở:
“Trước mắt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật
phải Cải Luật cho nghiêm-chỉnh, Thầy khuyên Thái-Bạch cho kẻ hầu săn-sóc các
con” (Đây là ngày cuối cùng về việc cải Luật (bàn thảo đã xong)
3 - Dâng TÂN-LỤẬT:
Ngày: 13-12-Bính
Dần (Dimanche 16 Janvier 1927)
THÁI BẠCH
(Đức Lý
Giáo-Tông dạy cách dâng Tân Luật):
Lão khen chư Hiền-Hữu. Đại hỉ! Đại hỉ ! Đại hỉ! Thượng-TƯƠNG-Thanh! Coi Lão hành-sự mà
bắt chước. Mời Chưởng-Pháp phái Nho, chư Hiền Hữu bình thân.
Đứng bài ban:
Chưởng-Pháp, Đầu-Sư toạ vị, Phối-Sư Tam-giáo tới trước: Thái-THƠ-Thanh phải
ôm bộ Chú giải các Luật: Tân Luật của chư Hiền-Hữu cải đó nữa. THƠ-Thanh ôm chí
mày dâng cho TƯƠNG Thanh, rồi Tương-Thanh cũng phải làm như vậy mà trao cho
TRANG Thanh phò.
Bái nhau.
TRANG Thanh ôm Luật, hiệp với nhị vị Hiền Hữu đến dâng cho ba vị Đầu-Sư. Ba
vị Ðầu Sư đồng đứng dậy bái nhau mà tiếp
Luật một lượt, thế nào sáu bàn tay đều có trong mấy bộ Luật
Ngay giữa. Cả ba tiếp dâng lên Chưởng-Pháp.
Hai vị Chưởng-Pháp cũng phải bái mà tiếp một lượt, đội dâng lên Đại-Điện.
Day vô. ..Đưa lên chí trán nghe dạy:
LÃO giao Luật này cho nhị vị Chưởng-Pháp xem-xét lại nữa trong một tháng phải
rồi mà giao lại cho Hộ-Pháp cầu Lão sửa Luật, phải làm một phòng thanh-tịnh mà
giả Hiệp Thiên Đài; Thập Nhị Thời-Quân phải có mặt; Thượng Sanh, Thượng Phẩm phải
có mặt khi cầu Lão.
Phải tái cầu nghe dạy:
Nhị vị Chưởng-Pháp đem LUẬT để ngay tượng Lão một đêm nay. DƯƠNG ! Phải đội
Hiệp Chưởng như Luật và đắp khậu như Luật (Yết-Ma)
NƯƠNG! Phải sắm Thiên-phục như Thơ Thanh vậy nghe! Đem Luật để lên rồi xuống
tọa vị.
Lên đầu…để xuống.
Chư Thiên-phong đồng lạy Thầy”.
Tái Cầu: THÁI BẠCH
Ðại hỉ ! Nhiều điều mầu nhiệm của Ðạo còn thiếu sót lắm... Cười....Những điều
ấy chư Hiền Hữu biết đâu mà lập cho đặng; mà lập quyền hành gì mà lập cho đặng
? Hại thay, nếu chẳng có những cơ mầu nhiệm bí mật ấy thì chẳng thành Luật. Nếu
chẳng thành Luật thế nào đặng thành Ðạo... Cười.!...
Lão sẽ tâu cùng Ðại Từ Ðại Bi, xin thêm vào LUẬT những điều bí mật yếu trọng
ấy.
Vậy chư Hiền Hữu cũng phải cầu khẩn với Lão nội hạ tuần tháng nầy thì khởi
nguyện. Dặn các Thánh Thất, các Ðạo Hữu phải để lòng thành khẩn nguyện, hiệp sức
làm một với Lão mà nài xin Thánh-Luật nghe à... Cười !
Ðạo đã thành, Ðạo đã mạnh, cho đến đỗi trái CÀN KHÔN này dở hổng lên khỏi
ngất mấy từng, làm cho các Tôn Giáo đã lập thành trên
mặt địa cầu nầy phải
kinh khủng sợ sệt... Cười !...
Chư Hiền Hữu cầm trọn nhơn loại vào tay, Lão hỏi có chi quý trọng mạnh mẽ bằng
chăng?... Hay.!...
Hễ Ðạo trọng thì tức nhiên chư Hiền Hữu trọng. Vậy thì chư Hiền Hữu biết trọng
mà lo sửa vẹn người đời. Từ đây Lão hằng gìn giữ chư Hiền Hữu hơn nữa, nếu thoảng
Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh là cố muốn giồi giá trị của chư Hiền
Hữu thêm cao trọng nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe.!...
Thượng Trung Nhựt bạch trả lời câu hỏi của Lý Ðại Tiên về sự CƠ BÚT:
. Chẳng phải vậy gọi là chắc chánh trị; muốn thế nào đặng thế ấy. Nhứt là
quốc gia chư Hiền Hữu còn dưới quyền Chánh Phủ Lang-Sa cai trị, Lão tưởng chẳng
nói thì chư Hiền Hữu cũng đủ hiểu, mấy đứa nhỏ là mấy Tướng Soái, Thầy lập
thành Ðạo. Vậy cứ tuân y theo lời Lão dặn, nếu muốn chắc nữa cứ đem tên chúng
nó cả thảy là mười lăm đứa với Mỹ Ngọc mà tuyên bố cho cả quốc gia biết thì đủ.
Nhưng Lão dặn thêm một điều nầy là cả thảy mấy em chẳng phải phò loan đặng
huyền diệu hết. Như kể ra thì có ba cặp mà thôi, còn các cặp khác phải cẩn thận
cho lắm vì Thần chúng nó không đủ trọn mà cầm tánh mạng nhơn sanh hay là ngăn
ngừa tà ma quỉ mị xung nhập nghe à.!
Viễn Thanh, đến ngày nay Hiền Hữu cũng chưa có Thiên phục há ! Cười.... mà
cũng vì Hiền Hữu chưa cố công hành Ðạo đó nữa, Lão cám ơn Hiền Hữu.
Thượng Trung Nhựt, những mấy miếng Thiên Nhãn Hiền Hữu cũng nên thâu nạp
cho đẹp lòng Thầy... Cười.!...
CHIÊU khẩn vái thường ngày ăn năn sám hối, lo tận tâm cùng chư Hiền Hữu
hành Ðạo.
Thầy xin Lão tha, song tha sao cho tiện, nếu chẳng giữ nghiêm, Ðạo phải loạn.
Lão chẳng tha, nhưng mà Thiên Nhãn chư Hiền Hữu thâu dụng đặng cho thuận theo
Thánh ý, lại cũng chỉ rõ cho đời hiểu rằng chư Hiền Hữu đã mang hàm oan buổi trước
vậy.
Lão dạy để Luật nơi Ðại Ðiện trọn đêm nay, mai hai vị Chưởng Pháp phải
cầu cơ cho Lão giao lại. Chư Hiền Hữu đặng đầy ơn Thầy. Lão rất cám ơn lắm đó.!
Về điểm này sau Đức Hộ-Pháp có giải thích:
“Buổi ba vị Chánh-Phối-sư Dâng Luật,
Hộ Pháp và Thượng-Phẩm phò-loan cho Đức Giáo Tông sửa (13 tháng chạp năm Bính-Dần).
Ngài có truyền dạy ba vị Đầu Sư và Chưởng Pháp phải ngự trên ngai; đoạn đòi ba
vị Chánh Phối-Sư vào hành lễ, rồi kêu Chánh-Phối-Sư Thượng Tương-Thanh mà dạy rằng
“Hiền-Hữu coi Lão hành-sự đây mà bắt chước”.
- Ngài lại dạy ba vị Chánh-Phối-Sư mỗi người phải dâng Luật thế nào cho đủ
sáu bàn tay dâng Luật ấy, chẳng nên cho hở, đặng dâng lại cho Đầu-Sư.
- Đầu-Sư cũng phải cho đủ sáu bàn tay mà dâng lên cho Chưởng-pháp;
- Rồi Chưởng-Pháp cũng đủ sáu bàn tay mà dâng lên cho Ngài.
Khi ấy Ngài dạy phải đi ngay lên Đại-điện đưa qua khỏi đầu Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm.
Ngài hạ Ngọc-Cơ xuống dưới, đặng đi ngang qua cho khỏi Ngài nữa (1) (Hay!) Chưởng-Pháp
tiếp LUẬT rồi, lại đưa ngay qua khỏi đầu Khương-Thái-Công và Thánh Chúa Jésus nữa.
Sau Hộ-Pháp có để lời than cùng Thầy về điều ấy, thì Thầy cười mà phán dạy rằng
“Mắc Tiên-vị của Thái-Bạch còn ở dưới Thích-Ca, Khổng-Tử và Lão-Tử, bằng chẳng
vậy thì bộ LUẬT cũng đi ngang qua đầu các Đấng ấy nữa, vì nó là THIÊN LUẬT đó
con! (2)
Bộ Tân-Luật để trước Tiên-vị của Đức
Giáo-Tông một ngày một đêm cho Ngài xét đoán; bữa sau Ngài giáng cơ than
rằng: “Thiên-điều mầu-nhiệm của Đạo còn thiếu sót lắm” Ngài cười rồi nói tiếp
“những điều ấy chư Hiền Hữu biết đâu mà lập cho đặng”. Hại thay! Nếu chẳng có
cơ mầu-nhiệm bí mật ấy, thì chẳng thành Luật; nếu chẳng thành Luật, thế nào
thành Đạo. Ngài cười rồi tiếp “Lão tâu cùng Đại-Từ-Phụ xin thêm vào Luật những
điều bí-mật yếu-trọng.
Ấy vậy chư Hiền-Hữu cũng phải cầu-khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng này thì
khởi nguyện, dặn các Thánh Thất, các Đạo-hữu phải để lòng thành-khẩn; hiệp sức
làm một với Lão mà nài xin Thánh-Luật, nghe à! (Cười!).
Ngài liền kêu hai vị Chưởng-pháp lên lấy bộ LUẬT xuống đặng dâng qua cho Hiệp-Thiên
Đài, lại dạy Hộ Pháp và Thượng-Phẩm xuống Cửu-Trùng-Đài đứng nơi vị mình. Hộ-Pháp
thì bắt ấn Hộ-Pháp trấn trên bộ Luật, còn Thượng Phẩm thì cầm Long-Tu-phiến che
trên ấn ấy, rồi dạy hai vị Chưởng-Pháp như vầy “Ta kỳ cho một tháng phải nạp Luật”.
Hai vị Chưởng-Pháp lãnh kiểm-duợt Luật trong một tháng đem nạp hồi cho Lý
Giáo-Tông; rồi Ngài mới cậy hai vị Đầu-Sư thay mặt cho Ngài, đệ lên Hiệp-Thiên
Đài dâng cho Hộ-Pháp cầu Thầy giáng xuống sửa lại. Nhờ Ngài và Hội Thánh cầu-khẩn,
Thầy đã giáng bút truyền các BÍ-PHÁP ấy
cho Hộ-Pháp (3)
Coi theo đây thì thấy rõ: Đức Giáo-Tông kêu Chánh Phối-sư Thượng-Tương-Thanh
xem người hành-sự đây mà bắt chước, thì đủ chỉ rõ rằng: Ngài ban quyền hành-sự
trọn vẹn cho Chánh-Phối-Sư lại buộc cả ba đều để sáu bàn tay vào cho đủ, tức là
buộc cả ba hiệp một mới đặng.
Đầu-Sư cũng vậy, mà Chưởng-Pháp cũng vậy, phải hiệp một mới phù-hạp câu
Thánh-ngôn “Một thành ba mà ba cũng như một”.
Sao lại giao cho Chánh-Phối-Sư chỉnh-đốn TÂN LUẬT ? Ngày sau có phải giao
cho Chánh Phối-Sư như vậy nữa chăng ?
- Trên kia đã nói: Chánh-Phối-Sư là người thay mặt cho cả nhơn-sanh giữa Hội-Thánh,
ấy là người làm chủ nhơn-sanh trong nền Đạo (4), hễ gọi là chủ nhơn-sanh ấy là
nhơn-sanh vậy.
Đức Lý dạy tiếp “Đạo đã thành, Đạo đã mạnh, cho đến đỗi trái càn-khôn này dở
hổng lên khỏi ngất mấy từng, Chư Hiền-hữu cầm trọn nhơn-loại vào tay, Lão hỏi
có chi quí trọng mạnh-mẽ bằng chăng?
Ngày: 14-12-Bính
Dần (Lundi 17 Janvier 1927)
THÁI BẠCH.
Hỉ chư Ðạo Hữu, Nhị Ðạo Muội, Lão rảnh sẽ nói chuyện nghe. Khai môn.
Lão đương quyền
là Giáo Tông, ngặt nỗi Lễ chức chưa có đặng giao LUẬT lại.Vậy
Lão
cậy nhị vị Hiền Hữu
Chú thích:
(1) Hay ! Ấy là
lời khen của Đức Lý
(2) Cái giá-trị của Tân-Luật dường đó, mà cả Hội-Thánh
coi rẻ rúng chẳng kể, làm cho Lão phải từ ngôi Giáo-Tông, đặng lấy Thiên-điều
khảo tội. Ôi thôi!Biết bao kẻ đoạ lạc Phong-đô vì đó
(3) Mừng thay cho nhân-loại chút ít rồi. Hội-Thánh
chơn truyền Tân-Pháp đã đạt đặng như phép “Giải oan”, phép “khai sanh-môn, Ban
kim-quan”…lại còn nhiều Bí-pháp nữa mà Hộ Pháp chưa có lịnh truyền và lại bị chúng sanh và Hội Thánh còn mờ-hồ không nạp
dụng. Ngày nay chẳng biết các Đấng Thiêng-liêng là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Bát Quái-Đài đã…làm cho các Tôn-giáo đã lập thành trên mặt địa
cầu này phải kinh-khủng, sợ sệt. Cười !
Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, thế giùm chức ấy, lên Ðại Ðiện phò Luật,
đặng giao Hiệp Thiên Ðài cho Hộ Pháp (Thượng Sanh vắng mặt)... Một
ngày bỏ làm việc, chẳng đặng sao há ?
Hộ Pháp, Thượng Phẩm nghe dạy: Nhị vị Hiền Hữu lên bàn đứng theo phẩm mình
đợi LUẬT đến, bái tiếp rồi Hộ Pháp bắt ấn tay mặt của Hộ Pháp mà để trên chồng
Luật ấy. Còn Thượng Phẩm thì lấy cây quạt mà che trên. Nhị vị Chưởng Pháp khi tọa
vị rồi đến Ngai bái thì hai người phải bái lại như lúc hành lễ hôm qua.
Chú Thích:
…… thọ lịnh của Thầy mà hành-pháp vì thuộc về quyền-hành của các Đấng ấy,
ngày nay mới tính sao? Trong các Bí-pháp có cơ mầu-nhiệm đắc Đạo, bây giờ các Đấng
ấy có cho hay là không ? Thảm! (cười!) nếu Lão có phương chỉnh đốn nền Đạo lại
thì đặng, bằng chẳng vậy, thì không có một người đắc Pháp, Cửu-Trùng-Đài cũng đã
yểm quyền Bát-Quái Đài mà chớ!. Thật vậy đó chút” Ấy là cơ vô-vi: TINH- KHÍ -THẦN
hiệp nhứt, chư Hiền-Hữu có biết à! Ngọc là TINH, Thượng là KHÍ, Thái là THẦN, nếu
cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ !
(4) Đây cũng nên giải vì cớ nào kể từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở xuống thuộc về
THẾ, nghĩa là ĐỜI và từ phẩm Đầu-Sư đổ lên thuộc về THÁNH, nghĩa là ĐẠO, bên Hiệp-Thiên-Đài
cũng có Đời và Đạo, mà Bát-Quái-Đài cũng phải có vậy, mới nhằm cơ hiệp một Đời
cùng Đạo. Tức là trong Đạo có Đời, mà trong Đời cũng có Đạo.
(5) Có việc chi phải cầu cơ? Bạch-Ngọc-Kinh
có Đại-hội cải Luật cho buổi Tam-kỳ Phổ-Độ. Đức Lý Đại-Tiên có trọng trách lớn,
nhiệm-vụ lớn, bận vấn đáp chơn-lý Tam-Kỳ lo cứu độ chúng-sanh, ngày ngày phải
có mặt nên không thể giáng cơ để tiếp xúc với trần thế mà chỉ dạy được. Chư Đạo-hữu
chớ khá khi lịnh mà xem thường. Đợi đến ngày đầu năm mới sẽ gặp lại.
Hộ Pháp khi đưa Luật thì nói: Kỳ một tháng nạp lại. Ngọc Lịch Nguyệt dạy em
bắt ấn Tý, khai môn cho hết thảy chúng sanh xem; vì là LUẬT TRUYỀNTHẾ ai cũng
như nấy.
4 - Thành Tân-Luật
* Ngày 8-1 Tân-Mão. Đức Lý giáng cơ cho biết:
Đại hỉ! Đại hỉ! Lão đã nói Đạo đã lập thành, vậy cây cờ chơn chánh đã vững
gốc đặng làm biểu-hiệu cho cả chúng sanh dòm lấy đó mà đến nơi Bạch-Ngọc-Kinh,
nghĩ mà mừng, mà hễ mừng thì lại càng thêm giận lẫn vào trong.
Thượng-Trung-Nhựt! Lão đã nói, mà Thầy cũng đã nói trước rằng: Khi thành Đạo,
nghĩa là khi “TÂN-LUẬT” phát hành thì trong hàng Môn-đệ may lắm còn lại nửa phần,
trong đám Thiên-phong nhiều kẻ e còn bị trục-xuất thay! Thầy vì lòng Từ bi
can-gián Lão, bằng chẳng Lão đã dụng hình-phạt mà răn những kẻ giả dối ấy và
nay là ngày Đại Lễ của Chí-Tôn, nhiều kẻ cầu Đạo không đáng dung nạp, nhưng mà
Từ-Bi biểu Lão ân xá, nên toàn thâu không đuổi ai hết.Ban phước cho cả chư Đạo-hữu,
chư Đạo muội.
Chư Đạo-muội khá hội đủ mặt ngày nạp LUẬT đặng Lão ban “THIÊN PHỤC” .
* Trọng-yếu của TÂN LUẬT:
Là người giữ Đạo phải biết “giữ Ngũ giới-cấm và Tứ đại điều-qui”.
Nhất là về Thế-Luật ở điều thứ ba là:
“Phải giữ TAM CANG NGŨ THƯỜNG là nguồn
cội của Nhơn-đạo:
- Nam thì hiều-đễ, trung-tín, lễ-nghĩa, liêm sĩ.
- Nữ thì Tùng phu, Tùng phụ,
Tùng tử và
Công, Dung, Ngôn, Hạnh”.
“Trong Tân-luật ấy Chí-Tôn định cho Ngũ-Giới Cấm, Tứ Đại Điều Qui và trong ấy
cốt yếu bảo-vệ TAM CANG NGŨ THƯỜNG của toàn thể con cái của Ngài. Thật ra cái
Thiên-Luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm não con cái của Ngài:
Đây là vấn-đề căn-bản của Nhơn-đạo nên trong Thánh-ngôn Hiệp-tuyển: Thầy dạy
Nữ-phái biết trọng Tam Tùng Tứ Đức, Nam-phái Tam Cang Ngũ Thường. Hễ Nhơn-đạo
thành thì là phù-hạp Thiên-đạo, nghe à!”
(TNI/ 101)
Tân Luật đã gồm trọn Tam giáo:
Nay Thầy đã quyết-định:“Tân-Luật đã gồm trọn Tam giáo mà ba Cựu luật của Tam-giáo hiệp
nhau thì cũng như một, nghĩa là “TÂN LUẬT”.Vậy một mà thành ba, mà ba cũng như
một. Chẳng luật-lệ thì là trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch Ngọc-Kinh
cho đặng. TÂN LUẬT có ảnh-hưởng đến Tiên phong Phật-sắc của người tu. Bởi
Tân-Luật đã thể hiện được Tinh- Khí- Thần hiệp nhứt”
Cửu-Trùng-Đài thể hiện cơ vô-vi Tinh- Khí- Thần ấy: Ngọc là TINH, Thượng là
KHÍ, Thái là THẦN. Nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ!
Từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở xuống thuộc về Thế là Đời, từ Đầu-sư trở lên thuộc
về Thánh nghĩa là Đạo.
Bên Hiệp-Thiên-Đài cũng có đời và Đạo.
Mà Bát-Quái-Đài cũng phải vậy, tức là trong Đạo có Đời mà trong Đời cũng có
Đạo. Nghĩa là trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Con số 3 đã đứng vào vị-thế
tối ư quan trọng trong Tân-luật này.
Ngày 17-09-1927. Thầy dạy:
Trung, Thơ, Lâm Thị Ái Nữ, ba con,
Thầy vì lòng từ bi hay thương Môn Ðệ phong tịch lần nầy là chót vì Tân Luật
đã hoàn toàn, nếu chẳng do theo đó thì Lý Bạch hằng kêu nài; Quan Thánh và Quan
Âm cũng hiệp sức mà dâng kêu về sự ấy. Vậy sau nầy nếu có ai đáng thì do TÂN LUẬT
mà công cử; còn về phong TỊCH thì có Lý Giáo Tông tiến cử, Thầy mới nhậm phong
nghe.!”
D - Luận Đạo: Luận về
Tân-luật
1 - Đạo quí ở chữ “Hòa” tức
Âm Dương hòa hợp
Thể-pháp của Đại-Đạo đâu đâu cũng thấy sự HÒA một cách khít-khao, do vậy mà Thể pháp đã hiện
hình Bí pháp làm chơn-truyền để phổ-thông nền chơn-đạo của Chí Tôn trong buổi
Tam-Kỳ Phổ-Độ.
“Theo Bí-pháp chơn-truyền của cơ
sanh hoá phải có đủ Âm-Dương. Trong sanh-quang chúng ta có điện quang (Positif
và Négatif) cũng như vạn-vật có trống mái. Nền Tôn-giáo nào có đủ Âm-Dương thì
mới vĩnh-cữu”.
Riêng về Pháp-Luật Đại-Đạo thì có:
* Tân-luật thì do Đức Chí-Tôn dạy nhóm Hội Thánh lập Luật. Tân-Luật được
thành hình, tuy nhiên theo thời gian cũng phải thay đổi cho phù-hạp với trình-độ
tiến-hóa của nhơn-sanh, nên đó là cơ Âm.
* Pháp-Chánh-truyền thì do chính Đức Chí-Tôn truyền Chánh-pháp đời đời
không thay đổi, nó sẽ bất di bất dịch với thời-gian“Thất ức niên” đó là Âm Dương
hòa-hiệp
2 - Tân-luật đã gồm trọn
Tam-giáo
Tinh - Khí - Thần hiệp nhứt
Người tu theo Đạo Cao-Đài nếu tùng theo Cựu-luật thì trái hẳn với Thiên-điều
của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ Độ. Vì tùng Cựu-luật tức tùng Thiên điều, hễ tùng thiên
điều thì khó mà lập-vị cho mình đặng.
"Nay Thầy đã quyết-định điều ấy nên Pháp Chánh truyền dạy “Tân-Luật đã
gồm trọn Tam giáo mà ba Cựu luật của Tam-giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa
là Tân-luật”. Vậy một mà thành ba, mà ba cũng như một. Chẳng luật-lệ thì là
trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch Ngọc-Kinh cho đặng.
Cửu-Trùng-Đài thể hiện cơ vô-vi Tinh, Khí, Thần ấy: Ngọc là Tinh, Thượng là
Khí, Thái là Thần. Nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ!
Từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở xuống thuộc về Thế là Đời, từ Đầu-sư trở lên thuộc
về Thánh nghĩa là Đạo.
Bên Hiệp-Thiên-Đài cũng có đời và Đạo.
Mà Bát-Quái-Đài cũng phải vậy, tức là trong Đạo có Đời mà trong Đời cũng có
Đạo. Nghĩa là trong Âm có Dương, trong Dương có Âm.
Con số 3 đã đứng vào vị-thế tối ư quan trọng trong Tân-luật này.
Các con số của Bát-Quái: Trong “cái tinh-túy của Tân-luật là Chí Tôn định
cho Ngũ-giới-cấm, Tứ đại điều qui và trong ấy cốt-yếu bảo vệ Tam cang ngũ thường
của toàn thể con cái của Ngài. Đó là Thiên-luật của Đại Đạo”. Như vậy đã gồm đủ
các con số Tam (tam âm tam dương), con số tứ (Tứ âm tứ dương), số ngũ, là ngũ
trung để hoàn thành Bát Quái Cao Đài, tức là Bát-Quái Đồ thiên đó vậy)
3 - Luật phản-phục:
Khi lập Luật, Thầy dạy khởi đầu (dl:18-12-1926)
- Lập luật Tu gọi
là “Tịnh-thất-luật”
- Kế nữa lập luật
trị gọi là “Đạo-pháp-luật”
- Ba là lập luật
đời gọi là “Thế-luật”. Các con hiểu à?
Nhưng thực tế khi thành Luật:
* Thì “Đạo-pháp-luật” được lập trước, cả thảy có 8 chương, tổng cộng 32 điều
* Kế đến là “Thế-luật” 24 điều.
* Sau cùng là “Tịnh-thất-luật” 8 điều. Cọng chung là 64 điều ứng với 64 quẻ
Bát-Quái biến-hóa (8x8=64)
Đó là Tân-luật đã thể hiện theo hai chiều của chữ “VẠN” tức là theo “cơ tấn-hóa”
trước, để rồi trở về theo “cơ phục-nguyên” đều theo chu-kỳ của Bát-Quái biến-hóa,
mà chính Đức Chí-Tôn dùng phép “phản tiền vi hậu”.
4 - Dâng Tân-luật là “cơ định-vị” tức là con đường trở về với Đại-ngã
- 3 Chánh-Phối-sư dâng Luật thế nào cho đủ 6 bàn tay trên bộ Luật ấy chẳng
cho hở đặng dâng lại cho Đầu-Sư ( 6)
- 3 vị Đầu-Sư phải đủ 6 bàn tay trên bộ Luật đặng dâng lại cho Chưởng-Pháp
(số 6)
- 3 vị Chưởng-Pháp phải đủ 6 bàn tay trên bộ Luật đặng dâng lên cho Đức Lý
Giáo-Tông (số 6)
Xem thế thì mỗi phẩm cấp có 3 vị, mà 3 phẩm-cấp là 3x3= 9 vị (con số 9)
Kế đến mỗi phẩm phải đủ 6 bàn tay, mà mỗi phẩm-cấp thì 3 vị cho nên bằng
(6x3=18). Nếu lấy 1+8=9, tức là 99. Theo như Đức Trạng Trình thì đây là thời kỳ
của:
"Cửu Cửu Càn Khôn dĩ định".
Nếu lấy 9 tăng lên 4 lần tức là 36 (4x9=36) ấy là thành số của BÁT QUÁI HƯ
VÔ, ứng hiệp với câu:
Ba mươi sáu cõi Thiên-tào,
Nhập trong Bát-Quái mới vào Ngọc-Hư.
36 còn là con số chiều cao của Hiệp Thiên Đài (Bạch Ngọc chung Đài và Lôi
Âm Cổ Đài). (9x3= 27) là bề ngang của Đền Thánh. (9x9=81) là bề dài của Cửu
Trùng Đài. Tức là sau khi đã đến con số 9, là con số huyền-diệu nhiệm-mầu, chuyển
biến đến mức độ tận thiện, tận mỹ, toàn tri, toàn năng ở trạng-thái tĩnh vận-hành
suốt thông trời đất, rồi từ đó mới biến-hóa ở chu-kỳ kế tiếp.
“Bộ Luật được đặt tại “nơi Tiên-vị của
Đức Lý Giáo Tông một ngày một đêm”. Số 1 mở ra cho chu-kỳ mới, cho nên sau cùng
thì hai vị Chưởng-Pháp lên lấy bộ Luật
xuống giao cho Hiệp-Thiên-Đài, có nghĩa là sự vận hành không bao giờ ngừng
dứt.
Tóm lại Tân-Luật đã thể hiện rõ nét của hai Bát-Quái:
* Bát-Quái Đồ Thiên.
* Bát-Quái Hư-Vô.
6 - Nội-dung bộ Tân-Luật:
Tòan bộ Tân-luật chỉ có ba vấn-đề:
- Đạo-pháp có 8 chương:
Chương I: Chức-sắc cai-trị trong Đạo có 8 điều.
Chương II: Về người giữ Đạo có 7 điều.
Chương III: Về việc lập họ có 5 điều
Chương IV: Về Ngũ giới cấm có 1 điều.
Chương V : Về Tứ đại điều-qui có 1
điều
Chương VI: Về giáo-huấn có 3 điều
Chương VII: Về hình phạt có 6 điều.
Tổng-cộng:
- Đạo pháp có 32 điều
- Thế-luật có 24 điều
- Tịnh thất có 8 điều
Như thế tòan bộ Tân-luật có cả thảy 64 điều
Việc này cho kết-luận về con số Bát-quái thành hình:
* 3 vấn-đề lớn tượng-trưng lý Tam-tài thật rõ nét.
* Về Đạo-pháp có 8 chương, đó là con số chỉ Bát quái quẻ đơn. Nhưng khi biến
thành quẻ kép thì bằng (8x8=64 quẻ kép); thế nên tổng cộng có 64 đề mục.
Đây là sự biến-hóa của Bát-quái đó vậy. "Trọng-yếu của TÂN LUẬT là người
giữ Đạo phải biết giữ Ngũ giới-cấm và Tứ đại điều-qui”.
Nhất là về Thế-luật ở điều thứ ba là:
“Phải giữ Tam cang ngũ thường là nguồn
cội của nhơn-đạo:Nam thì hiếu-đễ, trung-tín, lễ-nghĩa, liêm-sĩ. Nữ:Tùng
phu,tùng phụ,tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh”
“Trong Tân-luật ấy Chí-Tôn định cho
Ngũ-giới-cấm, Tứ đại điều qui và trong ấy cốt yếu bảo-vệ Tam cang Ngũ-thường của
toàn thể con cái của Ngài. Thật ra cái Thiên Luật của Ngài mà Ngài đã để trong
tâm-não con cái của Ngài: Đây là vấn-đề căn-bản của Nhơn-đạo nên trong
Thánh-ngôn Hiệp-tuyển: Thầy dạy Nữ-phái biết trọng Tam tùng Tứ đức, Nam-phái
Tam cang ngũ thường. Hễ nhơn-đạo thành thì là phù-hạp Thiên-đạo, nghe à! (TNI/
101)
KẾT LUẬN
Luật Thương yêu & Quyền Công chánh
1 - LUẬT QUYỀN HÒA ƯỚC:
Chính Luật Quyền này mà nay trở
thành Bản
ĐỆ TAM THIÊN NHƠN HÒA ƯỚC.
ĐứcHộ-Pháp nói:“Bây giờ Bần-Đạo luận về cái QUYỀN:
Cái Quyền đôi bên bao giờ cũng phải quyết-định với một cái Pháp-Luật của Hội
Thánh. LUẬT của Hội Thánh để định quyền cho Đạo, cho đại gia-đình của tinh thần
nhân loại, ngó thấy Tân-Luật và Pháp-Chánh-Truyền là một chơn tướng lập
Thánh-Thể của Ngài không cần luận đến, chỉ luận về TÂN-LUẬT mà Đức Chí Tôn và Đức
Lý Giáo Tông đã dạy Hội-Thánh khi mới khai Đạo, lập trong ba tháng phải thành-tựu.
Trong Tân-Luật con cái của Đức Chí-Tôn đều ngó thấy, Bần-Đạo không cần lập đi lập
lại vô-ích, chỉ lấy cái tinh-túy của nó là trong Tân Luật ấy Đức Chí-Tôn định
cho Ngũ Giới-Cấm và Tứ Đại-Điều Qui và trong ấy cốt bảo-vệ Tam Cang Ngũ Thường
của toàn thể con cái của Ngài, thật ra cái Thiên-Luật của Ngài mà Ngài đã để
trong tâm não con cái của Ngài.
- LUẬT chỉ có một là THƯƠNG-YÊU,
- QUYỀN chỉ có một là CÔNG-CHÁNH.
Thiên-hạ đã lập Luật nhiều quá, mà cái Luật của thiên hạ lập ấy tưởng khi cả
thảy đều thấy, dầu cho họ có thay đổi cho tới tận thế, họ chưa có phương nào
làm cho nó phù hợp với cả nhân-tâm bao giờ. Còn Đức Chí-Tôn đến lập LUẬT có một
điều mà thôi là THƯƠNG-YÊU. Cả thảy đều hiểu cái Luật ấy, nghĩ coi có ai tránh
khỏi đặng không? Người nào không có dính trong cái Luật Thương Yêu ấy thì chẳng
hề họ sống được bao giờ, nhất là sống chung của đồng-loại, hoặc họ phải tự họ
ly-dị cả nhơn loại hay là cả nhơn-loại buộc phải đào-thãi họ, nếu họ không tuân
cái Luật ấy.
Còn cái quyền CÔNG-CHÁNH: Công-bình, Chánh trực; dầu một kẻ không học kia,
dốt nát thế nào mà học được hai cái đặc tính quí-báu ấy. Tôi tưởng cả thảy
thiên hạ đều cúi đầu tôn trọng, kính nhường và nhứt là họ THƯƠNG -Yêu.
THIÊN-LUẬT của Chí-Tôn là vậy!
Tân-Luật, Đức Chí-Tôn cốt yếu muốn cho ta làm, đặng ta bảo-vệ cái Tam Cang
Ngũ Thường của nhân-loại.
Nói về phương Đông này dầu cho luận tới các quốc gia, xã-hội, đến đâu đi nữa,
họ tự-trọng, họ văn minh thế nào, họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm-luật ấy
bao giờ, nếu họ ra khỏi là muốn tự-tử bỏ cả xã-hội của họ thì nó sẽ thành cái
gì chớ không thành xã-hội.
2 - Giờ đây luận tới Luật
Hội-Thánh:
LUẬT của HỘI THÁNH chỉ lập ra trong buổi con cái Đức Chí-Tôn bị óc ngoại
hình ngoài đời kia xâm-phạm tinh-thần và hình-chất của nó. Hội Thánh buộc phải
lập Luật chẳng khác nào như một phương pháp che-chở, như ta đã ngó thấy một người
kia đi tới miệng giếng họ muốn sa vào đó, ta kêu trở lộn lại. Luật của Hội
Thánh phải chuyển-luân theo thời thế của xã-hội, nhứt là trong con cái của
Ngài, chớ thật ra không có giá-trị gì hết. Bởi hình không có!
Bây giờ nói tới HÌNH của luật Đạo!
Cái quyền của Đạo quì hương, tụng kinh sám-hối, đáo để trục-xuất nội thành
nơi Thánh-địa, rồi còn dữ hơn nữa trục xuất ra khỏi Đạo, chớ chưa giết ai, chưa
có tù tội, ngục hình, cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết bao giờ ! Ấy là Luật
của Đạo. Vậy cốt-yếu cái khuôn-khổ đại gia đình tinh-thần này để tạo con cái của
Đức Chí-Tôn thành THÁNH, nong-nã dạy-dỗ dìu-dắt thế nào cho họ thành THÁNH đặng
họ mới cầm cái cơ cứu-khổ của Đức Chí Tôn vững-vàng và mạnh-mẽ, họ mới thay-thế
hình ảnh của Đức Chí-Tôn đặng.
Vì cớ cho nên cả khuôn-khổ quyền-lực của Đạo cốt yếu để tạo THÁNH.
Bây giờ ta muốn luận về quyền đời, cả quyền đời thật quyền của họ, thiệt lực
của họ là Nhơn-đạo. Muốn thành-tựu Nhơn-đạo ấy họ phải thông-minh trí-thức, lịch
duyệt thế-tình; thông-minh trí-thức phải học, lịch-duyệt thế-tình họ phải
chuyên-nghiệp lấy họ, nghiệp làm QUAN ấy, vì cớ cho nên một Ông quan mới đầu
tiên thủng-thỉnh bực nhỏ lên cao, học đặng chuyên-chế nghề-nghiệp của họ. Cốt yếu
họ cầm quyền trị dân ấy, đặng chi ? Họ mong mỏi gì ?
- Họ mong-mỏi cho cả toàn dân được hạnh-phúc. Cả cái sống còn của dân được
hòa-ái tương-thân, thật ra họ không có đi ngoài khuôn-khổ TAM CANG NGŨ THƯỜNG của
văn-minh ta lưu lại từ thử tới giờ. Muốn bảo-vệ cho họ đặng Hòa-bình thân ái với
nhau phải “dĩ Đạo vi trị”. Họ phải mượn văn-minh Đạo giáo của TỔ PHỤ ta để Tam
Cang Ngũ Thường làm căn-bản, có căn bản ấy thì mới ích nước lợi dân, trừ gian
diệt nịnh.
Hại có một nỗi là họ tạo Luật quá-quắt, có nhiều điều họ lập ra khuôn-luật
mình thấy thất đức, bất nhân, toàn ác; họ dùng cả cường lực trị dân, vì cớ cho
nên cái xã-hội nhơn-quần hiện tại bây giờ đây loạn là vì họ không lấy “đạo-đức
nhi trị” họ không tùng theo tâm-lý mà họ chỉ tùng theo quyền-lực mà thôi, nào
là khám lớn, nào súng, nào gươm máy, hễ tuân theo khuôn-luật của họ trị thì họ
để cho sống, nếu không tuân theo khuôn-luật thì họ giết. Mà kỳ trung, thật ra Bần-Đạo
tổng luận gia-đình tinh-thần tức nhiên:
- ĐẠO là TU THÂN,
- Còn gia-đình, xã hội là TRỊ QUỐC;
- Còn thiếu TỀ GIA; Tề gia không phải tề gia đình tối thiểu của mọi gia
đình, mà TỀ GIA ĐÌNH THIÊNG LIÊNG, gia đình tinh-thần về xã-hội, duy có tề gia ấy
mà đôi bên: bên Đạo và bên đời hiệp phương chước lại với nhau dùng cái phương tề
gia ấy mà tương-liên mật-thiết với nhau, nó phù-hợp lấy nhau đời mới hưởng được
hạnh phúc thái bình. Ngoài ra nữa, dầu phương-chước nào hay hơn bao nhiêu mà không
có đặng cái TỀ ấy, chữ TỀ ấy không quyết định đặng thì nước vẫn loạn mà thôi,
nhơn sanh phải thống-khổ mà thôi, vì cớ cho nên Bần-Đạo mới nói “Đạo không Đời
không sức, đời không Đạo không quyền”, hễ họ tương-liên với nhau không được Tề
gia nhứt thống về gia-đình tinh-thần và gia-đình xã-hội của họ thì bao giờ họ
cũng bất lực hết thảy” (ĐHP 30-3nh. Ất-Mùi).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét