Lý Dịch Trong Pháp Chánh Truyền, Hay Pháp Luật Đại Đạo - 6 / 7 (Nữ Soạn giả Nguyên Thủy)

Do vậy mà Đức Hộ-Pháp khi nhận được bài thơ trên lần đầu hẳn là Đức Thượng-Đế đã ngầm giao cho sứ mệnh mở Đạo Trời, mà mối Đạo này có “Bí-quyết đắc Đạo”: Thờ chữ CHỦ trên Thiên bàn. Người người quên chữ Chủ trong người mình thì như ngựa không cương. Đó chính là Đức tin họp bởi: Tự tín, Tha tín rồi Thiên tín.
Nhưng bản tính của con người như “ngựa không cương” dễ buông lung, nhà Phật nói là “tâm viên ý mã”, tức nhiên cái tâm của người như con vượn, cái ý của người như con ngựa, cho nên rất dễ phân tâm, nhà Phật phải dùng phép để “cột” nó lại nên có bức tranh “thập mục ngưu đồ” tức là 10 bức tranh vẽ trâu, ngụ ý  là giữ cái tâm.

Một lần nữa, Đức Hộ-Pháp xác nhận:
 “Bần-đạo nhớ lại hồi buổi ban sơ mới khai Đạo, thật ra Bần-Đạo không có Đức-tin gì hết, không có Đức tin đến nước Đại-Từ-Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần-Đạo năm Sửu dạy cả mấy Anh lớn ngày nay là Chức-sắc của Đạo, đi đến mọi nhà. Thật ra Đức Chí-Tôn đến thăm, đến viếng mọi con cái của Ngài.

 “Bần-Đạo không Đức-tin gì hết, nghe nói Tiên giáng, đi theo nghe thi chơi, làm cho Đại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho bài thi ai nấy cũng tốt, duy có bài thi của Bần-Đạo di-hợm như vầy- THI:
Ngao-ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp-út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng
Đại-Từ-Phụ còn thêm hai chữ “Nghe con”!

Cho đến bảy tháng, lúc xuống ở Thủ-Đức, năm thiên hạ bị bịnh chướng, khi không khởi phù mình rồi chết, nhứt là ở tại Thủ-Đức lắm bịnh nhơn quá chừng. Đức Chí Tôn biểu xuống ở Thủ Đức cứu bịnh cho họ trong bảy tháng, xuống ở Thánh-Thất của Đạo, nhờ Đức Lý giảng dạy với ngòi bút trọn bảy tháng trường mới biết Đạo. Có cái hay-ho hơn hết là những điều gì Ngài dạy trong Cơ Bút là những sở-hành trong kiếp sanh của Bần-Đạo”.

Qua hai bài thi trên Đức Chí-Tôn giáng ban cho Đức Hộ-Pháp, Người đều không vừa ý và đều cho rằng “Dị hợm”. Nghĩ ra cũng “dị-hợm” thiệt ! Vì sao?

Vì trọng-trách của Đức Người quá ư to lớn ! Thường gánh một gánh đã oằn vai, nhưng bấy giờ Ngài phải gánh hai gánh một mình; bởi:

 “Trong buổi Kỳ ba phổ-độ, Chí-Tôn giáng cơ tiếp điển  mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ hiệp đủ Phật, Tiên, Thánh, là kỳ kiết-quả, độ đủ 92 ức nguyên-nhân trở về nguyên-thủy. Sách có câu “Thiên địa tuần-hoàn châu nhi phục thỉ- Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt”. .

Nhiệm-vụ của Hộ-Pháp trong cơ chuyển thế và cứu thế!
Giải câu 1: Ngao-ngán không phân lẽ thiệt không": hai chữ “ngao-ngán”trong câu đầu tiên: vậy có đến ba chữ “không” và nhất là chữ “phân” nó kết hợp bởi bộ đao và chữ bát , ý nói dùng con dao cắt ra làm tám mảnh một vật gì; muốn nói đến số 8 là chỉ về Bát-Quái. Bát Quái là do hai lần Tứ tượng họp lại. Mà ở phần Thiên Đạo của Đạo Cao-Đài có đến hai Bát-Quái rồi !.

Cả câu trên là chỉ sự biến dịch của trời đất, âm dương, cương nhu, ở người là Nhân-Nghĩa, đi trong vòng lý Tam tài: Thiên, Địa, Nhơn vậy.

Câu 2: “Thấy thằng áp út quá buồn lòng”
Ngón tay “áp út” là chỉ vào ngón trước của ngón út, tức là ngón tay không tên hay còn gọi là “vô danh chỉ”.

Đức Hộ-Pháp là con thứ tám trong gia đình, đứng vào hàng áp út, sau Ngài có một em gái thứ chín, đã chết.

Về lý Đạo: đây là “vô danh thiên địa chi thỉ” đúng vào cung Tý là sự khởi điểm. Ngón cái là mẫu “hữu danh vạn-vật chi mẫu”. Khi bắt ấn Tý thì ngón cái ấn vào cung Tý ấy là âm dương hiệp nhứt. Nhưng khi hai tay nắm lại thì ngón cái của bàn tay mặt ấn vào cung DẦN (chỉ kỳ ba này là nhơn sanh ư Dần- Đức Ngài hạ sanh vào ngày 5-5-Canh Dần), là một Thiên mạng tá phàm.

Lại nữa ẤN TÝ của Chí Tôn ban cho nhân-sanh trong kỳ ba Phổ-độ này ấy là ấn kiết quả. Kiết quả là kết trái. Do đó nếu tu thì thành như lời Chí-Tôn đã hứa, chẳng những nền Đại Đạo độ cả toàn cầu nhơn-loại, mà còn độ cả vạn linh  “Bát hồn vận-chuyển hóa thành chúng sanh”.

Người mà Chí-Tôn sắp giao cho hai cái gánh nặng  Đời và Đạo ấy chính là Ông PHẠM CÔNG-TẮC trong buổi “Nhơn sanh ư Dần”, cũng hiệp với tuổi của Ngài là Canh Dần (1890) Đó là đã đi vào cơ Nhị Ngũ, Ngài "Hiệp nhứt Ngũ Chi Đại Đạo và Ngũ Chi Minh Đạo".

Xem thế thì Ngài đã hiệp đủ điều kiện: ba con số 0 để cho Thầy chọn lựa Người để Thầy giao cho “cây cân công-bình thiêng-liêng tạo hóa”. Bởi hai câu thi sau:
“Muốn giàu Thầy hứa đem cho của.
“Cái của cái công phải trả đồng”.

“Cây cân Thiên-bình dưới bàn tay của Thượng-Đế” cho ta thấy: nếu khi cả hai bên cân và vật đồng nhau thì cây kim mới chỉ vào điểm 0. Cũng như hai gánh Đạo và Đời mà Ngài sắp giao cho Ông Phạm-Công Tắc cũng phải giữ cho tương-đồng thì mới vẹn phận “Đạo Đời tương đắc” vậy.

Hai bài thi này Đức Chí-Tôn ban cho Đức Hộ-Pháp trong buổi đầu khai Đạo mà Ngài còn cho là “dị hợm”. Nghĩ kỹ lại cũng thấy “dị hợm” thiệt ! Vì lời lẽ khó đóan ra quá. Nhưng chính cái dị hợm đó là cái áo giáp để che dấu cho Ngài để khỏi bị đồng môn ganh tỵ, đố kỵ Ngài.

Với bài thi Tứ tuyệt như thế đã đủ ý nghĩa cho vai tuồng của Đức Hộ pháp phải diễn trên sân khấu Đạo. Số 4 là Tứ tượng biến hóa. Tất cả có 28 chữ (4x7) là nói lên nhị Thập Bát Tú rất quan trọng, thêm hai chữ “Nghe à” cộng là 30 chữ, đi vào vô vi của Tam bửu: Tinh-khí-Thần

C - Kỷ nguyên Đạo-lịch của Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ

Quyển “Đạo Mạch truy nguyên” của Ngài Bảo Văn  Pháp Quân Cao-Quỳnh-Diêu soạn, thì trong Tý thời ngày mùng Một tháng Giêng năm Bính Dần, Thầy khởi khai nguồn Đại Đạo, lấy hiệu là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ”. Còn Đức Ngài thì tá danh là “Cao Đài  Tiên Ông  Đại-Bồ

Tát Ma-Ha-Tát” rồi Ngài giải rõ trong danh hiệu của Ngài gồm đủ Tam giáo: Nho- Đạo- Thích. Thế nên Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ khai nhằm giờ Tý, ngày mùng 1 tháng 1 năm Bính Dần là do nơi đó”.

Đạo Cao-Đài lấy giờ 1, ngày 1, tháng 1, năm Bính Dần (dl: 13-02-1926) làm Kỷ nguyên Đạo-lịch của Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Như thế năm Bính Dần là năm Đạo lịch thứ nhứt. Ba con số Nhứt ấy là đủ đắc nhứt: “Thiên đắc nhứt Linh, Địa đắc nhứt Ninh, Nhơn đắc nhứt thành”.

Hơn nữa năm Dần là năm thứ 3 (Tý- Sửu-Dần) là một sự tròn đầy. Nếu số 1 là số Trời “Thái Dương” thì số 3 là số của người “Thiếu Dương”: Thiên nhơn tương hợp nên nói “một mà ba, mà ba cũng là một”. Số 3 tượng là CÀN “Tam Dương khai Thái” là hình tam giác đều, tượng Tam giáo. Ngày giờ này Đức Chí Tôn khởi lập Đại Đạo, Tôn chỉ “Qui Tam giáo” thì duy chỉ có Thầy đứng chủ trung “Qui Nguyên Phục Nhứt” mà thôi.

Trước mặt ba vị: Cao Quỳnh Cư - Phạm Công Tắc – Cao Hoài Sang; Đức Ngài hỏi rằng:
- “Thầy muốn dùng các con mà khai Đạo, các con có dám lãnh trọng-nhậm ấy chăng ?”.
- Ba ông bạch rằng: “Trong các con từ bé chí trưởng, chẳng thông Đạo lý chi, duy nhờ Đức Chí Tôn dạy bảo bấy lâu, thì sự biết chưa đặng trong muôn một, e  cho  chẳng  xứng  đáng    lãnh  trách nhậm lớn lao ấy”.

Đức Ngài nói rằng: “Chi chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu, gắng để trọn tấc lòng, thì chẳng hề chi”.

Khấn vái xong rồi thì vào nhà phò loan, Đức Chí Tôn giáng dạy như vầy:
 “Thầy cho các con hiểu rằng: Buổi tạo  Thiên  lập

Địa, Thầy sanh loài người ra, nhằm ngày Dần “Nhân sanh ư Dần”. Vậy từ đây, Thầy dùng các con, làm tay chơn, mà gầy dựng nền Chánh-giáo. Lại cũng kể ngày nay là ngày phát khởi nguồn Đại-Đạo, lấy hiệu ĐẠI-ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ, còn Thầy thì Tá-danh “Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma Ha-Tát”.

Đấng ấy đã thật sự đến dạy Đạo tại phương Nam. Vậy mỗi mỗi đều có tiền định không thể lầm lẫn được qua danh xưng: NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam phương.
Đức Thượng Phẩm giáng cơ ngày 15-07-Giáp Tuất (1934) có để lời giảng luận:

“Tâm tư ba đứa mình (Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh) nhờ lẫn lộn trong cảnh dở mới thấu đáo được nhơn tình, ngày nay mới có oai linh cầm sanh chúng. Mình ở trong dở mới đoạt được cái hay thì sự dở là bài học giỏi. Cười…ấy vậy cả sự dở của đời có lạ chi với mình phòng luận biện. Cười…Ôi ! họ dở để cho họ dở chơi, còn Bần Đạo cần cho các Bạn biết chọn hay đặng làm hay thêm nữa. Cười… phải vậy không Anh lớn ?

- Quyền Giáo Tông: Em giải hay lắm, quân tử với anh hùng phải đủ luận chưa, nói thêm chơi !.
- “Quân Tử TẮC,
- “Anh Hùng SANG” mà !

Đức Hộ-Pháp thuyết ngày  22-12 Đinh-Mùi (1958):
 “Do lịnh Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, ba vị Thượng-Phẩm, Hộ Pháp, Thượng-Sanh, hiệp với chư vị: Bảo-Văn Pháp-Quân, Bảo-Pháp, Hiến-Pháp, Khai Pháp, Tiếp-Pháp, chia nhau đi khắp các tỉnh Nam-phần để phò loan thâu người cầu Đạo nhập-môn”.

Đức Hộ-Pháp nói: “Hội Thánh Phước Thiện tức nhiên là Hội Thánh của Hiệp Thiên Đài. Trước, chưa xuất hiện Hội Thánh Phước Thiện mà Hiệp Thiên Đài vẫn có ít người làm, sau lập thành Hội Thánh được Chí Tôn định đâu sẵn rồi nên giao phó trách nhậm ấy cho Qua, tức là chính mình Hộ Pháp là người làm đầu trong Hiệp Thiên Đài, trách nhậm đó nặng nề làm sao đâu !. Khi ấy chỉ có ba người Hiệp Thiên Đài lãnh phận sự  Thầy.

Chí Tôn nói: - “Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi đó hết khổ ”.

1 - Ba người đó là ai ?

Chính là ba vị Tướng-soái của Thầy đã chọn lựa sẵn cho xuống trước, ngày nay Thầy đến lập nền chơn giáo chỉ qui-tựu lại mà thôi, tất cả đều có đầy đủ để giao cho sứ mạng xây cơ chuyển thế, khai Đạo cứu đời.

Đức Hộ-Pháp có nói rằng: “Dùng Lương-sanh để cứu vớt quần-sanh”.
Những ngày đầu, Đấng AĂÂ gọi ba vị này là “Tam vị Đạo-hữu” một từ thân-mật; mà cũng chính là thể hiện theo nguyên lý của vũ trụ: Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn này thể hiện cơ tuần-huờn châu nhi phục thỉ, Tôn-chỉ là “TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHỨT” để đưa nhân-loại đến Đại-Đồng.

Theo nguyên-lý thì:
       - Thiên khai ư Tý  là trời khai vào hội Tý
       - Địa tịch ư Sửu  là đất thành hình ở hội Sửu
       - Nhơn sanh ư Dần là có nhơn-loại vào hội Dần. Cho nên buổi khai Đạo này Đức Chí-Tôn phái ba vị Tướng Soái đến trong cửa Hiệp-Thiên-Đài đứng đầu ba Chi: PHÁP- ĐẠO- THẾ;  thì:
- Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư Chưởng quản chi ĐẠO, tuổi Mậu-Tý (1888). Ngài qui thiên ngày 01 tháng 03 năm Quí-Tỵ (1929).
- Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang Chưởng quản chi THẾ, tuổi Tân-Sửu (1901). Ngài qui thiên ngày 26 tháng 03 năm Tân-Hợi (1971)
- Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc Chưởng-quản Chi PHÁP, tuổi Canh-Dần (1890). Đức Ngài qui thiên ngày 10 tháng 04 năm  Kỷ-Hợi (1959). Ngoài ra Đức Ngài còn là Giáo-chủ của nền Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ này về mặt hữu hình nữa. Hôm nay nói Đạo thành do ba người chính là ba vị Tướng-soái của Chí-Tôn đó vậy. Nhưng đây chỉ nói về Hiệp-Thiên-Đài. Sở dĩ đặt thứ tự ba vị Tướng soái là theo thứ tự  về tuổi: TÝ- SỬU - DẦN.

Theo Chơn-pháp của ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ thì mọi cơ-cấu nơi cõi vô-hình đều có cơ-cấu hữu hình đối tượng của Đạo nơi mặt thế. Ở cõi Thiêng liêng có Cửu Thiên Khai Hóa, thì trong cửa Đạo Cao-Đài có đối tượng hữu-vi là Cửu Trùng-Đài.

Còn ở vô-hình có cơ-cấu tạo ra cung Trời là Thập Nhị Khai Thiên tức là Thập Nhị Thời Thần thì ở cửa Đạo Cao-Đài có đối tượng hữu-vi là Thập Nhị Thời Quân.”
Đối với luật thiên nhiên của vũ trụ, ta từng nghe nói “Thiên địa tùân hòan chu nhi phục thỉ”  

Từ tạo thiên lập địa, Càn Khôn phát khởi tới ngày nay biết mấy muôn vạn lần xuân qua hè lại, thu mãn đông về. Nay tới đời Hạ nguơn mạt kiếp cũng gọi là cuối cùng.

Phàm muôn việc đều có thủy, có chung, có khởi, có cùng, như một ngày một đêm 24 giờ: khởi ở Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Túât, Hợi…Tới Hợi rồi phải khởi lại Tý….”

Nếu lấy khoa học nhận xét thì sự ăn khớp nhau giữa Hà đồ và Địa dư thì thấy rõ ràng sự đúng nhau của trái đất bắt đầu từ lúc sơ khai.

Mới bắt đầu số 1, phát sinh ở hướng Bắc, tức là cái vi-dương (vi dương đây là Đạo). Bắt đầu có ở hướng Bắc cho nên trên quả địa-cầu lúc đó có đại-lục mà chỉ ở hướng Bắc hưởng thụ cái khí vi-dương đầu tiên của sao Bắc-đẩu. “Thiên nhứt sanh thủy”.

Rồi dần dần phát-triển qua hướng Nam, tức là số 1 tiến dần đến số 2; số 2 ở về hướng Nam thể trên, tức là đaị-lục của Bắc Á-châu (chi THẾ xuất-hiện).

Bấy giờ sang hướng Đông đến số 3. Số 3 tức là số của Thiếu-Dương (đây là lúc thịnh hành của cơ Pháp) cho nên trong thời thái-cổ theo sự phát triển về thời gian, vì lẽ ấy mà  thời đó ở Á Đông văn-minh trước Âu-Tây, mà chính cái văn minh tinh-thần vô-cùng sáng-suốt đó mới thấu hiểu được trời đất. Do lẽ ấy nên có câu: “Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần”.

Tức là Tý-hội khai thiên, qua Sửu-hội sanh địa-cầu và Dần-hội thì sanh nhơn-loại: Thiên- Địa- Nhơn gọi là Tam tài hay là Thiên-hoàng- Địa-hoàng- Nhân-hoàng.

Như thế buổi khai Đạo này Đức Chí-Tôn phái ba vị Tướng soái của Ngài đến trong cửa Hiệp-Thiên-Đài đứng đầu ba chi: ĐẠO- PHÁP- THẾ nên gọi đây là Tam Đầu chế của Hiệp Thiên  Đài. Vì lẽ đó nên nói "Đạo thành do ba người".

2 - Trên tinh-thần một Tôn-giáo

Muốn sống bền vững và phát-triển tốt đẹp, thì Tôn giáo ấy phải có đủ Tam bửu: TINH  - KHÍ  - THẦN cũng là Phật - Pháp- Tăng đó.

Trên hết: Đức Chí-Tôn là Phật, Đức Phật-Mẫu là Pháp; Pháp mới sanh ra vạn-vật Càn-Khôn Vũ-Trụ; vạn vật ấy là do nơi Tinh mà ra, tức là Tăng.
- Thần tức nhiên là Đức Chí-Tôn,
- Thần phân định Khí,
- Khí mới sanh ra Tinh.

Phật là Chí Tôn, Pháp là Civa tức Phật-Mẫu, Tăng là vật-loại trên Càn-Khôn Vũ-Trụ này.
- Về Thần: thì khi  lập Đạo Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh-hồn của Đạo-giáo.     
- Về Khí: thì buổi phôi-thai chưa mấy tựu thành, nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể của Diêu-Trì-Cung làm  chữ Khí.
- Về Tinh: thì hình thể của Đạo Cao-Đài tức là ba Chi: Pháp- Đạo- Thế, tượng-trưng là: Hộ Pháp, Thượng Phẩm,  Thượng-Sanh (là ba ông TẮC- CƯ-  SANG).           

Ấy vậy:
 “Chúng ta xét thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn hạnh-phúc nhiều hơn các Tôn-giáo khác, nếu nhận quả quyết thì được có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên hạ rồi. Cái thiệt tướng của nền Chơn-giáo Đức Chí Tôn đã hiện tượng do quyền-năng vô-đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó.”

3 -  Ngôi vị Ba vì Tướng-soái của Đức Chí-Tôn:

Dưới  ba  pho  tượng  của  Đức  Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh là 5 bực đá mài, màu nâu hình bán nguyệt, gọi là Bán nguyệt Ngũ Lôi Đài, dành cho Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài đứng chầu lễ Đức Chí Tôn.

Đức Thượng-Sanh xác nhận:
 “Lúc ban sơ, Đức Chí-Tôn dùng Huyền-diệu Cơ Bút thâu phục các Chức-sắc thượng-cấp Hiệp-Thiên-Đài, dùng những vị này trong việc phò-loan để lập thành ĐẠI ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ.
 “Trước thời-kỳ Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài được lịnh dùng Đại-Ngọc-cơ trong việc truyền-giáo thì chỉ là một giai đoạn chơi giải trí của ba vị nói trên là các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm-Công-Tắc, Cao-Hoài-Sang. Sau được đắc phong là: Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh”. Cái đêm mà ba Ông ngậm-ngùi và xúc-động hơn hết là đêm 10-11-1925 Đức Tả-quân Lê-Văn-Duyệt nhập bàn cho thi. Sau đó, Đức Chí-Tôn thâu-phục chư vị Thời quân Hiệp-Thiên-Đài, vị Đầu sư Thượng-Trung Nhựt và các vị Đại-Thiên-phong Cửu-Trùng-Đài.

4 - TAM NGÔI NHỨT THỂ

Nay Đạo Cao-Đài cho biết rõ về Ba ngôi một thể:
- Ngôi một là Đức Thượng-Đế, là Đức Chí-Tôn còn gọi là Đại-Từ-Phụ.
- Ngôi hai là Đấng Mẹ Sanh của nhân loại, tức là Đức Phât-Mẫu Diêu-Trì.
- Ngôi Ba tức là Cha Mẹ phàm thể này đây.

Nay trong cửa Đạo  về quyền năng của ba ngôi ấy thì:
- Ngôi Chí-Tôn là Phật tạo ra Chơn linh hay linh hồn, tức là Ngài ban cho điểm linh quang sáng suốt, mà con người hơn con vật và đứng đầu cả chúng sanh.
- Ngôi Phật-Mẫu là Pháp, tạo ra Chơn thần, tức là trí não, nhờ đó mà học mới hay, mới hiểu biết mọi việc.
- Ngôi Tăng là Hội Thánh tức là các cơ quan giáo hóa  nhơn sanh cho được tận thiện, tận mỹ và dẫn dạy phương tu cho thành Tiên tác Phật.

“Thầy nói cơ tạo đoan Càn-Khôn Vũ Trụ ra sao thì trong vạn vật cũng tương liên như vậy: cùng một khuôn khổ, một định luật như nhau hết:
- Trên hết cả là Phật, ấy là ngôi cao thượng hơn hết, nắm pháp huyền vi,
- Phật mới chiết tánh ra Pháp ấy là ngôi thứ nhì.
- Pháp mới sanh Tăng ấy là ngôi thứ ba.
Ba cơ quan ấy chừng Qui Nhứt lại thì duy chỉ có một nguyên căn, một bổn thể”.

5 - Nguyên lý của ba ngôi:

Trước nhứt, Đấng Tạo Hóa phóng Chơn linh lập Ngôi Một của Ngài là Thái Cực (Premier Logos).

Thái Cực vốn là cơ động tịnh. Thái Cực động sanh Chơn Dương làm Hỏa. Hỏa là Thần (Esprit), tức là cái động thể Nguơn Thần của Tạo Hóa (Brahma-Vira) mà Đạo thơ gọi Mộc Công vì Mộc năng sanh Hỏa.

Thái Cực lại tịnh mà sanh Chơn Âm làm Thủy. Thủy là Tinh (Matière), tức là cái tinh thể Nguơn Thần của Tạo Hóa (Brahma-Vâch), mà Đạo thơ gọi Kim Mẫu vì Kim năng sanh Thủy.

Tạo Hóa vận chuyển ngôi Thái Cực cứ một động một tịnh mà sanh ra hai Nguyên lý Thái Dương - (Pratyag-atman) và Thái Âm  (Mula-prakriti), lập thành Ngôi Hai là Lưỡng Nghi (Deuxième Logos).

Đạo thơ nói Mộc Công và Kim Mẫu sanh ra Anh Nhi và Trạch Nữ, rồi nhường ngôi cho hai người mà đi tu. Đó là nói bóng. Sự thiệt thì Chơn Dương và Chơn Âm (Mộc Công và Kim Mẫu) sanh ra nhị nguyên lý Thái Dương và Thái Âm (Anh Nhi và Trạch Nữ).

"Nhường ngôi mà đi tu” nghĩa là sau khi thành lập ngôi Hai (Lưỡng Nghi) thì ngôi Một (Thái Cực) trở về địa vị vô vi.

Tạo Hóa lại dùng phép Âm Dương giao cảm, biến thành hai Khí Thiếu Dương (Fohat) và Thiếu Âm (Koilon) mà lập Ngôi Ba là Tứ Tượng (1) (Troisième Logos).

Đó là một Thể ba Ngôi (2) (Trinité).
 (Nay, buổi đầu khai Đạo, Đức Chí Tôn cũng đã lập thành: một thể ba ngôi: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh. Nhờ chơi Xây bàn mà ba ông: CƯ- TẮC-SANG học hỏi đạo lý, trau giồi trí thức cho tới ngày Đấng AĂÂ xưng chính là Đức Chí Tôn dạy ba ông vọng Thiên bàn ngòai sân, quì giữa trời mà cầu Đạo (nhằm ngày mùng 1 tháng 11-Ất Sửu (dl: 16-12-1925). Đó là ba vị Đệ tử mà Đức Chí Tôn thâu Nhập môn trước nhứt trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Tòa Thánh- Tây Ninh)

Chú thích: (1) Hư không đây không phải là trống không, hoang vu, ảo tưởng. Đó là cõi Siêu Hình mà phàm trí, phàm giác chưa thấu đáo. Cái Không Không đó là Không mà Có. Cái Có, Có là Có lại Không. (Cao Đài Tiên Bút)

  (2) Trong Bát Quái, thì Thiếu Dương thuộc quẻ Khảm Thiếu Âm thuộc quẻ Ly . Biểu hiệu Thiếu Dương là một gạch liền giữa hai gạch đứt. Tuy thấy phần Âm lấn phần Dương nhưng nó là biểu hiệu cho Dương, vì trong luật điều hòa cai quản Võ trụ Kiền Khôn, bao giờ cái phần thiểu số cũng cầm quyền thống trị tất cả các hiện tượng. Ai rõ thông y học, xét về thai dựng của đàn bà do chỗ Âm Dương yếu mạnh mà sanh hoặc trai hoặc gái, thì thấy rõ cái phần thiểu số bao giờ cũng mạnh hơn phần đại số và luật điều hòa của Tạo Hóa trái hẳn với công lệ “mạnh được yếu thua” của cuộc cạnh tranh phàm tục. Cái lẽ huyền vi rất khó hiểu. Xin nhắc lại trong bài Thánh giáo ngày 29-9-26, có câu nầy: “Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà quyền thế, các con nhịn nhục mà các con hành phạt. Cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình, thì là gần ngôi Tiên Phật đó”.
 (2) Tôn giáo nào cũng có cái biểu hiệu một Thể Ba Ngôi:
- Đại Đạo có: Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng.
- Đạo Phật có Tam Bửu: Từ Tôn Di Đà, Quan Âm, Thế Chí.
- Thiên Chúa giáo có ba Ngôi: Đức Chúa Cha (Père), Đức Chúa Con (Fils), Đức Chúa Thánh Thần (Saint-Esprit).
- Đạo Bà la môn thì có: Thần Sáng Tạo (Brahma), Thần phá hoại (Shiva), Thần Bảo Tồn (Vishnou).

6 - BA PHO TƯỢNG (Hiệp-Thiên-Đài)
Quay mặt nhìn vào gian giữa, thấy ba pho tượng to lớn đứng trên ba tòa sen: 
- Tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ở giữa, mặc Đại phục Khôi giáp, đứng trên tòa sen giữa Thất Đầu Xà ở bực đá mài cao hơn hết, tay cầm cây Kim Tiên (Bửu pháp của Thái Sư Văn Trọng thời nhà Trụ trao cho Hộ Pháp).
- Tượng của Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư ở phía tay mặt của Đức Hộ Pháp, đứng trên tòa sen trước cây Phướn Thượng Phẩm, mặc Đại phục, tay mặt cầm Long Tu Phiến có gắn Phất Chủ, tay trái cầm xâu chuỗi Từ Bi.
- Tượng của Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang ở phía tay trái của Đức Hộ Pháp, đứng trên tòa sen trước cây phướn Thượng Sanh, mặc Đại phục, tay mặt cầm cây Phất Chủ, tay trái nắm xâu chuỗi Từ Bi, sau lưng thì giắt Thư Hùng kiếm.
- Đặc biệt Đức Hộ-Pháp thứ 8 (tám) trong gia đình.
- Đức Thượng Phẩm thứ Tư  (4)
- Đức Thượng Sanh cũng thứ tư  (4)

Vậy: hai lần 4 là 8. Cả thảy có hai số 8, biểu hiệu cho hai Bát Quái Cao Đài do Đức Chí-Tôn ban cho làm hành trang Phổ Độ trong cơ chuyển thế và cứu thế này.

Ba tòa sen đặt trên ba cái đôn, một con rắn lớn, da màu nâu sậm, có 7 đầu gọi là Thất Đầu Xà, mình rất dài, quấn vào cả ba cái đôn nầy, đuôi rắn quấn tròn vào đôn của Đức Thượng Sanh, thân rắn quấn vào đôn của Đức Thượng Phẩm, phần đầu quấn vào đôn của Đức Hộ Pháp,  7 đầu rắn tượng trưng Thất Tình của con người, chia ra:
- 3 đầu HỈ, ÁI, LẠC đưa thẳng lên cao sau lưng Đức Hộ Pháp giống như tạo thành chỗ dựa;
- 2 đầu Ố và Dục tẻ ra hai bên, gục xuống vừa tầm để Đức Hộ Pháp đặt 2 tay lên để chế ngự;
- 2 đầu Nộ và Ai ở dưới thấp, gục xuống vừa tầm để Đức Hộ Pháp đặt chân lên khi Đức Ngài ngồi trên tòa sen.

Như thế, 7 đầu rắn ấy kết hợp với tòa sen đặt trên cái đôn, tạo thành như một cái ngai để Đức Hộ Pháp ngự trên đó, với 2 tay kềm chế 2 đầu Ố và Dục, 2 chân đạp lên 2 đầu Ai và Nộ, không cho 2 đầu nầy ngẩng lên.

Chỉ riêng 3 đầu HỈ, ÁI, LẠC, cho ngẩng đầu lên cao như làm chỗ dựa lưng cho Đức Hộ Pháp tức là bảo trì 3 tình cảm tốt đẹp luôn được vươn lên, cao thượng.

Người tín hữu Cao Đài khi chầu lễ Chí Tôn, thì đã có Thất tình trong người rồi. Trước mặt là 7 cái ngai vàng son rực rỡ của Cửu phẩm Thần Tiên, sau lưng là Thất đầu xà chủ ý là chế ngự Thất tình; Tu để biến Thất tình thành thất bửu, chính là đường thăng hoa: thành Tiên tác Phật.

Đây chứng tỏ người tu theo Đạo Cao Đài là chế ngự Thất tình chứ không diệt thất tình như nhà Phật, vì Đạo Cao Đài là Tu vừa nhập thế cũng vừa xúât thế.

Nếu xếp các tình cảm này theo hình chữ Phi (là không) sẽ thấy rõ: ba đầu rắn ngẩng lên: HỈ, ÁI, LẠC là hướng thượng, ba đầu gục xuống là hướng hạ; duy có đầu rắn mang chữ DỤC là đứng ở giữa. Vì có thể dục lên thành ra dục Hỉ, dục Ái, dục Lạc; dục xuống như dục Ai, dục Ố, dục Nộ. Nhưng cái dục này phải là người đạo đức biết kềm chế để cho hướng thượng, nếu không thì rất nguy hiểm. Vì vậy tình DỤC cũng phải đè nén là vậy. Thấy rõ trên hình vẽ có 7 tình (thất tình) nhưng chỉ có 6 Dục (lục dục). Nhưng khi một người biết chế ngự Thất tình “Vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thấm vào chân tánh” thì chừng ấy những cái “gai nhọn” sẽ  lẫn  khúât vào trong thành ra chữ Phi là không tức là cái “tâm không”. Nếu thêm bộ tâm vào dưới chữ Phi thành ra chữ BI là buồn. Thế nên các Đấng Đại giác mới xưng mình là “Đại bi”có nghĩa là buồn trước cái buồn của chúng sanh mà ra tay cứu vớt, có nghĩa là Đấng ấy đã “làm Chủ  được thất tình”. Thật ra Đức Chí Tôn cũng đại nộ; Đức Hộ Pháp đại nộ  làm rung rinh cả tinh đẩu của Thầy nữa kìa !

TRẤN THẦN THẤT ĐẦU XÀ

Ngài Hiến Pháp nói: “Khi trấn thần Ngai Hộ-Pháp ngự, Ngài trấn chữ KHÍ, có tượng một con rắn bảy đầu quấn vào dưới ngai Ngài.

 Phương pháp trấn Pháp của Đức Hộ-Pháp; khi hành bí Pháp cùng Thể pháp các Đàn, Vía, Sóc, Vọng: lúc Ngài đứng là chuyển Pháp, Ngài ngồi là trụ Pháp và khi Ngài ngồi hai chân đạp hai đầu: Ai bên tả, Nộ bên hữu; hai tay đè: Ố bên Hữu, Dục bên tả. Đức Ngài nói: khi Hộ-Pháp trấn trên Thất Đầu Xà là để nén các vật dục ở thế này gom lại khỏi cấu xé nhau, để Mừng, Vui, Thương, cho mọi người chung hưởng Thái bình để gìn giữ đạo đức tu hành cho dễ dàng, nước nhà thanh trị, e sau này Hộ-Pháp xuất ngoại, Thượng Sanh về ngự nơi đuôi thì tự do Thất tình lôi cuốn cấu xé lẫn nhau, không phương kềm chế, ấy là cơ thử thách nội và ngoại nơi Tòa Thánh đó vậy..

Ngày nào Hộ-Pháp trấn lại trên Ngai thì mới có thể dễ dàng mọi việc Đời - Đạo. Quyền Thiêng liêng phải vậy đặng “trả vay cho sạch vết oan khiên”, mới đem thuần phong mỹ tục vãn hồi hoà bình, trật tự, tháng Thuấn ngày Nghiêu, trở nên đời Thượng Cổ, Thánh đức thùân lương.

Vì lời tiên tri trên của Đức Hộ-Pháp mà Hội Thánh rất lo ngại nên quyết định đúc tượng của Đức Ngài gấp rút để trấn an trên Thất Đầu Xà nghĩa là trấn áp phần nào Thất Tình của con người, đặng tránh bớt biến cố trong Đạo. Lời tiên tri ấy đã ứng hiện rõ rệt từ ngày Thượng Sanh về cầm quyền tối cao trong Đạo. Có nhiều hiện tượng cho thấy Thất tình đã dậy, gây sự bất hòa giữa người Đạo với nhau.

Bùa chữ KHÍ : Trên vách phía sau ngai của Đức Hộ Pháp là bùa chữ  KHÍ vẽ màu vàng trên nền đỏ. Sau lưng Đức Thượng Phẩm có treo lá phướn Thượng Phẩm, trên đó có Cổ pháp Thượng Phẩm là Long Tu Phiến và Phất Chủ.

Sau lưng Đức Thượng Sanh thì có treo lá phướn Thượng Sanh, trên đó có Cổ pháp Thượng Sanh là Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ.       

Hai cây cột hai bên chữ KHÍ có đôi liễn Phạm Môn:
- PHẠM giáo tùy nguơn cứu thế độ nhơn hành chánh pháp
- MÔN quyền định hội trừ tà diệt mị hộ chơn truyền.
梵敎

門權

Nghĩa là:
. Phật dạy tùy thời kỳ mà cứu độ người đời thi hành theo Chánh pháp.
. Quyền lực của Đại Đạo định ra thời kỳ này trừ tà diệt mị bảo hộ chơn truyền.

Dưới ba pho tượng có 5 bực đá mài màu nâu, gọi là bán nguyệt Ngũ Lôi Đài, dành cho Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài đứng chầu lễ Đức Chí Tôn, thì:.
- Cấp thứ 1 (thấp nhứt) là của Cửu-Trùng-Đài. Trong cấp nầy, phần giữa dành cho các Chức sắc Pháp Chánh Hiệp-Thiên Đài đứng chầu lễ Đức Chí Tôn,
- Hai phần hai bên dành cho các tín đồ, Đạo hữu nam nữ chầu lễ (đây cũng trở về con số bí pháp Tam Ngũ)

7 - BA NGÔI THÁP Hiệp-Thiên-Đài

“Thượng Sanh – Hộ Pháp – Thượng Phẩm”
Thánh Ngôn ngày 9-3-Kỷ Tỵ (dl: 18-4-1929) Đức Chí Tôn dạy việc xây Tháp cho Đức Cao Thượng Phẩm: “Các con…Cười ! Ấy cũng tại Thầy mà các con lộn xộn cùng nhau…Cười…Thơ! Con cũng phải, mà Bính cũng phải! Lỗi ấy nơi Thầy. Bính ! Chớ chi con lấy năm lần chín (5x9=45) thì con đã trúng rồi đó, con lại sợ thằng…Sang đứng cận đường, song cũng còn xa đó con, không hề gì. Hai con muốn đem vào cây ba nhánh một chút  nữa càng tốt, nhưng đã lỡ rồi, cứ để y.”

Theo Thánh Ngôn dạy trên, thì ba ngôi Tháp cách nhau 45 thước, lấy tháp Hộ-Pháp làm trung tâm và Tháp của Thời Quân không có trước mặt tiền Tòa Thánh.

Để rõ hơn, ngày 7-3-Kỷ Tỵ, Đức Chí Tôn dạy:
 “Thơ! Con xây Tháp Cao Thượng Phẩm trước cây ba nhánh, day về hướng Đông, giống như ngó vào Điện hầu Thầy vậy… Đừng làm như Tháp Bảo Đạo, vì phẩm vị khác nhau…”. (Không dạy rõ khoản cách, nên nói lỗi tại Thầy là vậy).

8 - Quyền uy của ba Tướng soái:

Thầy đã ân-cần nhắc-nhở: “CƯ, TẮC, SANG, ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm-tối trong buổi ban sơ. Thầy lại khiến ba đứa phải liên-hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Đạo cho đến cùng”.                                                                                                                                                        
Phần yếu-trọng  của ba người, Thầy có nói:
“CƯ, TẮC, SANG, con ơi ! Lập Đạo thành đặng chăng tại nơi ba con. Con đã nghe quyền-hành của yêu quỉ Thầy cho lớn đến bực nào? Chẳng phải là cơ thử Thánh, Tiên, Phật mà thôi, lại còn là Công-bình Thiêng liêng của Tạo-hóa. Nếu hai đầu cân chẳng song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý”.

 “Nội nơi Nam-phương này, như có mặt cho Tà thần yêu-quái sợ thì duy có BA CON. Vậy rán giữ-gìn cho thanh-khiết. Thầy nói thật cho các con hiểu trước rằng: Cả Môn-Đệ Thầy đã lựa chọn, lọc-lừa, còn lại lối nửa phần  Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám-dỗ, đi bao nhiêu thì mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên-cơ phải vậy, thi nhiều đậu ít là lẽ hằng. Các con liệu phương thế mà nâng đỡ đức-tin của Môn-đệ Thầy lên cao hằng ngày, ấy là công-quả đầu hết.”(ĐCT Giáp-Dần 1926) Nguyên lý về Số:

Đức Chí-Tôn ban đầu đến với giả danh là AĂÂ,
Thất-Nương Diêu-Trì-Cung VƯƠNG-THỊ LỄ đến với giả danh Đoàn-Ngọc-Quế, hẳn  phải có lý-do:
1 - Là thời kỳ ẩn-danh của Đức Chí-Tôn, của Thiêng  Liêng chuẩn-bị đến trao mối Đạo nhà cho Việt-Nam.
2 - Là thiêng liêng đưa cái giả là cái bóng đến trước rồi cái hình là thật đến sau, tức nhiên Thể-pháp có trước mới bày ra Bí-pháp sau.
3 - Riêng Đức Chí-Tôn tạo sự thân-mật, gần-gũi để tình-cảm đến một cách tự-nhiên, không gượng ép.

Đây là số 3 tròn đầy, đủ: Tinh- Khí- Thần hiệp nhứt.
Riêng Đức Chí-Tôn thì chỉ đến với danh xưng là AĂÂ tức nhiên là 3 chữ cái (nguyên-âm) của vần Quốc ngữ Việt-Nam, mà vần Quốc-ngữ này lại khởi nguyên từ vần của La-tinh, thế là dụng ý của Ngài họp cả Đông-Tây thu về một mối, Tam-Tài Thiên - Địa -  Nhơn toàn vẹn.

Người Việt-Nam mình hay nói “Nhứt quá tam” nghĩa là từ một đến ba mà thôi, chứ không quá, vì đến số 3 là đủ một chu-kỳ. Khi đến bốn là đã biến-hóa ra rồi.

Nay Đức Chí-Tôn đến, Ngài xưng danh là AĂÂ, tức là con số Tam, mà Tam là Càn-Khôn vũ-trụ định thể. Ba chấm nói rõ ra là con số 3. Số  thiêng-liêng  tạo đoan vạn-vật.

Dịch nói: Dương khí sinh ở Đông Bắc, Âm khí thành ở Tây Nam. Dương khí có trước mà ở dưới âm khí.       

Số 3 là dụng số của Trời nên sau quẻ Kiền (1) Khôn (2), đến Truân (3). Truân là quẻ số ba trong Thượng kinh.

Thượng kinh bắt đầu ở số 3, tức là mọi sự, mọi vật đều khởi đầu ở số 3, nghiã là bằng sự truân-khó, người hành xử ở thời này cũng lắm truân-chuyên, khó nhọc lắm, vì ở cái thời-kỳ khởi điểm. Dầu là một suy nghĩ, một tư tưởng mà chưa hành động đó mới là thời Truân. Truân là thời đầy gian khó nên có câu “Vạn sự khởi đầu nan”.

Số 3 là số hoàn tất. Bởi đó là nguyên lý cấu tạo càn khôn vũ trụ và vạn vật  “Một mà ba, ba mà một”  là vậy.

Vì sự truân khó đó cho nên Đức Chí-Tôn có dạy :
 “Thầy có hội chư Tiên Phật mà thương nghị về sự lập Đạo tại Đại Nam Việt-Quốc. Các con khá nghe lời Thầy dặn, chớ khá nghịch lẫn nhau, phải đồng một lòng một dạ mà lo chấn-hưng đạo-đức, tuy bây giờ phân chia nhiều nhánh nhiều chi chớ ngày sau cũng có Một mà thôi. Các con dầu bên nào cũng thương nhau như con một nhà chớ khá ganh gỗ chê bai nhau” (TNI/110)                                                                                                         

 “Vì mỗi việc khó-khăn trắc-trở là lúc sơ khai, vậy Thầy khuyên các con rán thành tâm hành Đạo, mà Đạo không phải giữ bằng lỗ miệng đâu”(TNI/71)                    

10 - Tình cảnh đôi TA phản trắc:

Đây là lời của Đức Lý nói với Đức Hộ Pháp khi Ngài mới vừa về sau những ngày pháp nạn ở Phi châu.

Bởi Đức Hộ Pháp hiệp với Đức Lý Giáo Tông  là quyền Chí Tôn tại thế nhưng trị về vô vi. Còn Hộ Pháp hiệp với Quyền Giáo Tông là quyền Chí Tôn tại thế mà trị về hữu hình. Ở đây đủ cả Nhị khí Âm- Dương, Tam Tài thống hiệp vậy.
Cung Đạo Đền Thánh: 1-3-Mậu Tý (dl: 9-4-1948)

Đức Lý Giáo-Tông giáng nói: “Từ ngày Hiền Hữu hồi mã, Lão chưa đến viếng đặng, chẳng phải lơ lảng tình nhau, nhưng buổi Thiên thơ biến chuyển, nếu Lão đến thì  e cho vì thương mà thố lộ Thiên cơ, phải bị tội Ngọc Hư định án. Nay vì đã gần liễu kết, dầu cho còn xảy ra tai nạn cho nhơn sanh chút ít chẳng hại gì, nên Lão đến phân trần đôi điều hơn thiệt.

Hiền Hữu khuynh tâm vì Lão và Thượng Trung Nhựt lập quân  đội khi Hiền Hữu vắng mặt có phải ?

Tình cảnh đôi TA phản trắc:
- Lão là Thiên điều mà cầm quyền trị thế.
- Còn Hiền Hữu tại thế mà nắm Thiên điều.

Lão xin nhắc: Khi Hiền Hữu tịnh pháp tại Thủ Đức, Lão đã nói cơ chuyển thế Trời Người hiệp một. Hiền Hữu có nhớ ?  Cười !. . .

Thiên Đình tại thế, thế tại Thiên Đình, cơ huyền bí  độ tận chúng sanh mới đặng, có phải ? Thoảng như vậy thì cơ chuyển thế nguy hiểm nầy, nhơn sanh sẽ định số phận  Hiền Hữu  thế nào có biết ?

Cười ! Chẳng lẽ phải chịu một phen khảo xác nữa thì nạn chiến tranh Lão đã tiên tri từ trước, vì chủng tộc Việt Nam vô đạo, mới khó giải kiết cứu nguy. Nếu Hiền Hữu ngày nào cầm lại Thiên Thơ thì mới rõ phần nhơn quả. Chẳng lẽ Lão là chủ phần xác của nhơn sanh mà ngồi khoanh tay, không tìm phương cứu chữa. Địa vị của Hiền Hữu như Lão thì Hiền Hữu mới thế nào ? - Chẳng phải vì những kẻ lợi dụng vô tâm, đọa đày thiên hạ mà lại đố kỵ chẳng dám cứu đời. Hiền Hữu căn dặn cả thảy các con cái của Chí Tôn rán sức ăn năn cầu nguyện”. Nghe Thi:
Việt Thường hữu phúc xuất Thiên Quân,
Chuyển thế Chí Tôn dĩ định tuần.
Trị loạn Nam phương trừ mãnh hổ,
Thừa  bình Bắc địa kiến kỳ lân.
Hoàng triều hậu nhựt nghi tùng cổ,
Văn  hiến tương lai  khả hoán tân.
Thánh Chúa hiền thần phò tổ nghiệp,
Khải ca định vận tại Thu phân.

Cung Đạo Tòa Thánh: 22-4-Mậu Tý (dl :30-5-1948)
Đức Lý Giáo Tông giáng nói: “Hộ Pháp, Hiền Hữu muốn Lão ký tên Thánh Lịnh thăng vị cho chư Chức sắc Thiên phong. Điều ấy vốn không khó, chỉ sợ nghịch Thiên điều. Lão đã nói, hoàn cảnh của đôi ta phản trắc:
- Lão vô hình lại đảm nhiệm trách nhậm trị thế định vị, tức là Chủ khảo Thiêng liêng vị. Bởi thế cho nên khi Hộ Pháp trấn Thánh Phi châu, Lão mới đến cầm quyền đặng định vị cho các Thánh Tử Đạo, vì đó mà lập nên Quân đội.
- Còn Hiền Hữu hữu-hình mà lại nắm Thiên điều Hành pháp lập Giáo. Hiền Hữu là Chủ khảo hữu hình vị, bởi cớ cho nên Hiền Hữu làm đầu toàn Hội Thánh.

Khi Ngọc Hư  giáng lịnh thì Hiền Hữu vẫn nhớ hai câu thi nầy :
“CỬU TRÙNG không kế an thiên hạ,
“Phải để HIỆP THIÊN  đứng  trị  vì.”

Bởi lẽ ấy, Lão đến khi nọ giao quyền trong bài thi:
 “HỘ PHÁP CHƯỞNG QUẢN NHỊ HỮU HÌNH ĐÀI”. Ấy vậy, nơi tay Hiền Hữu đủ quyền Chí Tôn mà chuyển thế. Lão bất quá là một Gián-Nghị Đại-Phu ở gần Hiền Hữu, chia lo sớt nhọc mà thôi. Lão tưởng khi thiên hạ chưa an, có phải ?  Cười ! Thì nay đã hiện diện là Quốc Sư Việt Nam, đặng bước qua Quốc Sư thiên hạ. Xong chưa mà toan thối thác? Cứ ký đi  như trước đến giờ là đúng phép”.

Ấy cũng đã rõ phần nào “Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài” trong công việc “Vạn thù qui nhứt bổn”.

D - ĐẠO PHỤC CỦA CHỨC SẮC HIỆP THIÊN

ÐẠO PHỤC CỦA HỘ PHÁP:

CHÚ GIẢI: Ðạo Phục của Hộ Pháp có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục: người phải mặc giáp, đầu đội Kim Khôi toàn bằng Vàng, trên Kim Khôi có thể Tam Sơn, giống như cái chỉa ba ngạnh, chủ nghĩa là Chưởng Quản Tam Thiên bên Tây Phương Cực Lạc. Chơn đi hia, trên chót mủi hia có chữ "Pháp" ngoài giáp thì choàng mãng bào, thế nào bên tả phải giáp, bên hữu thì mãng. Tay hữu (bên Ðạo, nghĩa là bên Thượng Phẩm) cầm Giáng Ma Xử (thể, lấy Ðời chế Ðạo) còn tay tả (bên Thế, nghĩa là bên Thượng Sanh) nắm xâu chuỗi "Từ Bi" (thể, lấy Ðạo chế Ðời) thành ra nửa Ðời nửa Ðạo. Ngang lưng cột dây lịnh sắc có ba màu Ðạo (thể Chưởng Quản Tam Giáo nơi mình, nắm trọn Thể Pháp và Bí Pháp đặng qui nhứt), cái mối dây lịnh sắc phải ngay chính giữa bụng.

Bộ Tiểu Phục: thì toàn bằng hàng vàng (màu Ðạo), đầu đội Hỗn-Nguơn-Mạo màu vàng, bề cao một tấc ngay trước trán chính giữa có thêu ba Cổ Pháp của Tam Giáo là Bình Bát Vu, cây Phất Chủ, và bộ Xuân Thu, ngay trên ba Cổ Pháp ấy có chữ "Pháp" chơn đi giày vô ưu màu trắng. Nơi chót mũi có chữ "Pháp   lưng nịt dây lịnh sắc y như Ðại Phục.

Khi ngồi Tòa Tam Giáo, thì phải mặc bộ Tiểu Phục, còn Ðại Phục thì chỉ để khi ngự trên ngai mình.
LUẬN ĐẠO

1 - ĐẠO PHỤC CỦA HỘ PHÁP

PCT: “Đạo-phục của Hộ-Pháp có hai bộ, một bộ Đại phục và một bộ Tiểu phục”.  Đấy chứng tỏ rằng “HỘ-PHÁP” là người nắm cơ mầu-nhiệm của Đạo, nắm luật của Đời” tức nhiên là Ngài nắm cả hai Bát Quái Cao-Đài cũng như Giáo-Tông. Đó là lý Âm Dương luôn đi liền nhau. PCT Thầy ban cho đạo phục cũng chính là xác định quyền hành.

PCT: “Bộ Đại phục: Người phải mặc giáp, đầu đội Kim Khôi toàn bằng vàng, trên Kim Khôi có thể Tam sơn, giống như cái chỉa ba ngạnh, chủ nghĩa là Chưởng quản Tam Thiên bên Cực Lạc.”

GIÁP: là lọai áo bằng sắt để chiến sĩ ra trận, mặc vào để chống lại vũ khí. Ở đây là “thiết giáp đạo bào” để “trừ tà diệt mị hộ chơn truyền” mà quyền hành của Ngài là nắm pháp Đạo- Đời.
KIM KHÔI: là chiếc mão vàng, trên chiếc mão này có hình dáng giống như cây chỉa ba ngạnh, gọi là “tam sơn” tượng trưng việc Chưởng Quản Tam Thiên, là cảnh ở Tây phương Cực Lạc. Thế nên niệm danh Ngài đáng lẽ ra là “Nam-mô Tam Thiên Thế Giái Hộ-Pháp giáng lâm” nhưng vì thường quen niệm danh  là “Nam-mô Tam châu Bát Bộ Hộ-Pháp Thiên Tôn” cho nên không sửa đổi. Điều ấy chứng tỏ rằng uy-quyền của Ngài rất nên yếu trọng. Nghĩa là trên Thiêng Liêng có bốn châu mà Ngài trấn ba châu. Riêng Bắc Cù lư châu giao cho Kim Quan-sứ trấn giữ để làm Giám khảo trong kỳ Hạ nguơn này. Đức Ngài không ngó tới: Khôn nhờ dại chịu.
Chơn đi hia, trên chót mũi hia có chữ "Pháp"

Hia: là lọai giày cao ống, trước mũi cong lên, lọai giày của các võ quan  ngày xưa, mang hia để tăng thêm uy quyền.

Chữ Pháp : Thêu chữ Nho này ngược, chứ không phải chữ quốc ngữ, chứng tỏ Ngài là người nắm Pháp, vì “HỘ PHÁP là người nắm cơ mầu nhiệm của Ðạo, nắm Luật của Ðời, xử đoán chư Chức Sắc Thiên Phong và cả Tín Ðồ cùng là xin ban thưởng; công thưởng, tội trừng nơi thế nầy”. Chữ Pháp có bộ thủy và chữ khử tức là dùng nước để khử trược. Ngài nắm cả Bí Pháp Cao Đài vậy.

 “Ngoài giáp thì choàng mãng bào, thế nào bên tả phải giáp, bên hữu thì mãng”. Mãng bào là lọai áo chầu, rộng, bằng hàng bóng lóang, có thêu hình con mãng. Thế nào bên tả phải giáp, bên hữu thì mãng.

“Tay hữu (bên Ðạo, nghĩa là bên Thượng Phẩm) cầm Giáng Ma Xử (thể, lấy Ðời chế Ðạo) còn tay tả (bên Thế, nghĩa là bên Thượng Sanh) nắm xâu chuỗi "Từ Bi" (thể, lấy Ðạo chế Ðời) thành ra nửa Ðời nửa Ðạo”.

Giáng Ma Xử: về hình thể là một lọai gươm bằng gỗ để trừ tà diệt quỉ. Giáng Ma Xử là cái chày để hàng phục quỉ ma. Đây là bửu pháp của Vi Hộ thời Phong Thần. Sau, Vi Hộ trở về núi tu luyện đắc quả Phật Hộ Pháp, nên gọi là Vi Hộ Pháp. Bửu pháp này được Đức Hộ Pháp đem trấn nơi Cực lạc Thế Giới thuộc cõi thiêng liêng.

Đức Quyền Giáo Tông dạy: 17-09-Kỷ Sửu (1949) “Lẽ thì Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy các em, nhưng vì cặp loan mới tập, Ngài không thể giáng được. Anh vưng lịnh Đức Lý đến tỏ cơ Đạo ngày hôm nay cho các em được rõ. Nền Chánh giáo của Chí Tôn hoằng khai kỳ Phổ Độ thứ ba nầy gọi là Quốc Đạo, thì các  em  cũng  đủ  hiểu  ý nghĩa ra sao. Nếu đời không loạn lạc thì Đạo khai chẳng ích chi. Xem đời  Châu- Thương chiến đấu thì  đạo Lão mới ra bình phục, bởi do nơi lịnh Ngọc Hư, Khương Tử Nha lên núi 40 năm phải thừa mạng xuống trần lãnh  roi  Đả-Thần-Tiên trị  loạn. Đó là do Đạo  của  Đời. Ngày nay Hộ Pháp cũng lãnh cây Giáng Ma Xử để cầm quyền trị thế thì các em cũng biết rằng cây roi Đả Thần-Tiên là linh nghiệm thế nào, thì cây Giáng Ma Xử còn huyền năng gấp mấy. Vậy các em khá tuân mạng Người cùng Đức Lý Giáo Tông, hai quyền ấy hiệp một là quyền Chí Linh tại thế. Các em đã mang trọng trách nơi mình trong cơ chuyển thế, thì đã có ký hứa buổi hạ trần, cũng như các Tướng nhà Châu lãnh lịnh nơi Côn Lôn khi trước. Vậy mọi việc hành trình khá nhớ căn tu là gốc, làm điều chi phải thuận theo Thiên mạng là toàn thắng với danh nghĩa “Vì Đạo cứu Đời” thì có Đức Lý cùng Qua thị chứng. Các em cứ tiến hành”.

“Tay tả nắm xâu chuỗi "Từ Bi". Nhà Phật thường dùng chuỗi này để lần trên ngón tay, vừa lần chuỗi vừa niệm Phật, mục đích là “Trấn tâm chi bửu”. Ý nói tìm sự bình an cho tâm hồn, quên sầu muộn; thể hiện lòng Bác ái.

 “Ngang lưng cột dây lịnh sắc có ba màu Ðạo (thể Chưởng Quản Tam Giáo nơi mình, nắm trọn Thể Pháp và Bí Pháp đặng qui nhứt), cái mối dây lịnh sắc phải ngay chính giữa bụng”. Dây lịnh sắc hay dây Sắc lịnh (Xem  trang 252 đã giải). Chi pháp để mối dây giữa bụng. Hộ Pháp thuộc Khí đứng giữa Thượng phẩm và Thượng Sanh.

PCT: “Bộ Tiểu phục thì toàn bằng hàng vàng (màu Đạo), đầu đội Hỗn-Nguơn-Mạo màu vàng, bề cao một tấc ngay trước trán, chính giữa có thêu ba Cổ pháp của Tam giáo là Bình Bát vu, Cây phất chủ, Bộ Xuân thu, ngay  trên ba Cổ pháp ấy có chữ Pháp.

Riêng chữ Pháp phân-tích sẽ thấy cái lý mầu nhiệm: gồm bộ thuỷvà chữ khử tức nhiên là dùng nước để khử trược. Bộ thuỷ 3 nét ứng với Tam tài, chữ khử  5 nét là lý Ngũ-hành; cộng 3 và 5 là 8 là Bát Quái vô hình, tức là một yếu-tố để chứng tỏ đây là Hư-Vô Bát-Quái.  

Hộ-Pháp là người của cung Hỗn-Nguơn-Thiên (số 11) thế nên trên bàn thờ của Hộ-Pháp có cả thảy 11 cúng phẩm, đó là quẻ Bát Thuần Càn, chứng tỏ Ngài là Người đã thay trời tạo thế trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này, từ đó những vấn-đề có liên-quan cũng phải đúng vào con số biểu tượng 11 mới đúng thời, đúng lúc.Vì thế trên chiếc mão của Ngài đội có tên là “Hỗn-Nguơn-Mạo”

- Bề cao một tấc trước trán (số 1).
Số 1 là số đầu tiên sau số 0, tức là cái nguồn sanh  hoạt trước nhất để biến-vi hữu-tướng. Số 1 chỉ về Thái cực tức Dương, người mang số này có tánh chuyên nhất và cầm quyền vi chủ. Số 1 là số động, nó vốn là lý Thái-Cực suy ra nên nó huyền-diệu, nhiệm-mầu, hiện biến nên Đạo gia nói “Thiên đắc nhứt linh, địa đắc nhứt ninh, nhơn đắc nhứt thành” là vậy. Ngôi số 1 thuộc về ngôi Phật: chủ quyền cai trị và giáo-hóa vạn-linh.
Tại sao phải đặt trước trán? 
Bởi Đạo là lấy chính trung, nên chi đặt ở trán là điểm giữa của mặt. Lại nữa chính giữa “có thêu ba Cổ-pháp của Tam giáo” là Xuân Thu, Phất chủ và Bình Bát-vu (xem phần Cổ Pháp ở trước)

Đứng đầu Tam-giáo có ngôi “Chưởng Pháp của ba phái  là Thích- Đạo- Nho. Nghĩa là mỗi phái là một vị, mà ba Đạo vẫn khác nhau; nội dung, ngoại dung đều khác hẳn, luật-lệ vốn không đồng chỉ nhờ Luật lệ làm cơ Qui Nhứt”.

   Cổ-Pháp của Tam giáo:
“Mỗi Chưởng-Pháp phải có Ấn riêng:
-Thái Chưởng-Pháp thì  Bình-Bát vu
-Thượng Chưởng-pháp thì  cây Phất chủ,
- Ngọc Chưởng-Pháp thì  Bộ Xuân thu.

Hiệp một gọi là Cổ pháp. Ba cái Cổ-pháp ấy vốn của Hộ Pháp hằng kỉnh trọng. Nơi  mão Tiểu phục của Người phải có ba Cổ-Pháp ấy” (PCT)

Đức Hộ-Pháp là Người của Cung Hỗn Nguơn Thiên, nên đội Hỗn Nguơn Mạo. Buổi Tam Kỳ Phổ Độ này Ngài là Giáo Chủ Đạo Cao Đài về hữu hình, tức nhiên Ngài nắm hai

 Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng. Kinh Đại Tường có câu:
Hỗn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo-chủ,
Di-Lạc đương thâu thủ phổ duyên.
Tái sanh sửa đổi Chơn truyền,
Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong.

“Hộ-Pháp là thể các Đấng trọn lành, Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo, đặng dìu-dắt các chơn hồn lên tột phẩm-vị của mình, tức là nâng-đỡ binh vực cả Tín-đồ và Chức-sắc Thiên-phong ngồi an địa-vị, cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật điều-đình Càn  khôn thế  giới  cho an-tịnh”.
 “Chơn đi giày Vô ưu màu trắng: nơi chót mũi có chữ Pháp, lưng nịt dây lịnh Sắc  y như Đại phục”

Đức Hộ Pháp đi giày vô ưu,  là Phật vị, là Đấng Trọn lành.
Tóm lại: Pháp Chánh Truyền ban đạo phục cho Chức sắc Đại thiên phong là một lần nữa xác định quyền uy tối thượng của các Ngài: trước là quyền uy của Hộ Pháp.

2 - THƯỢNG PHẨM  
Fr: Chef du Domaine Spirituel
Cao-Quỳnh-Cư (1888-1929)
Sinh năm: Mậu-Tý  (1888)
Qui Tiên ngày: 01-3 Kỷ-Tỵ (dl: 10-4-1929)

Hễ bước chân vào cửa Đạo là có Thiên phẩm, mà hễ có Thiên phẩm rồi thì Thầy lại đem lên cho tới Thượng phẩm.
ĐẠO PHỤC CỦA THƯỢNG PHẨM

Luận: Thượng Phẩm cùng với Hộ Pháp lo cho chúng sanh trọn cả “Đường Đạo và Đường Đời”. Riêng Đức Ngài thì đặc biệt về phần Thiêng liêng.

Thep Pháp Chánh Truyền dạy: “Vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, cầm thú hữu sanh, nhơn loại hữu sanh, tức là chúng sanh. Trong chúng sanh đã có nguyên sanh, hóa sanh và quỉ sanh. Trong các kiếp hữu sanh, duy có phẩm người là cao hơn hết, nên gọi là Thượng Sanh”.  Nguyên nhân là ai?   
- Nguyên nhân là những người mà chơn linh được sanh ra từ lúc khai Thiên đã có.
- Hóa nhân là chơn linh vật lọai, đọat đến phẩm vị nhơn lọai. Hóa sanh là khai thiên rồi mới biến hóa ra.
- Quỉ nhân là hai chơn linh kia xu hướng ác hành mà bị đọa đày vào Quỉ vị.

Chú giải: Ðạo Phục của Thượng Phẩm cũng có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục”. Ấy cũng là hòan tất lý Âm-Dương một cách tòan vẹn.

- Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng trắng, ngoài mặc áo lá màu xanh có viền chỉ kim tuyến bạc. Ðầu để trần, chơn đi giầy vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ Ðạo . Lưng buộc dây lịnh sắc y như của Hộ Pháp song mối phải thả ngay bên hữu. Tay hữu cầm Long Tu Phiến (nghĩa là cây quạt kết đủ 36 lông cò trắng) trên đầu quạt ngay giữa có Phất Chủ, (thể, quạt đưa các chơn hồn vào Tam Thập Lục Thiên, nghĩa là vào Thiên vị) tay tả cầm xâu chuỗi Từ Bi, (thể, dâng Ðạo vào cho Hộ Pháp).
- Bộ Tiểu Phục cũng bằng hàng trắng, lưng cột dây lịnh sắc y như Ðại Phục, đầu đội Hổn Ngươn Mạo màu trắng, y như của Hộ Pháp, ngay giữa trán có thêu "Long Tu Phiến" ngay trên hình Long Tu Phiến có chữ "Ðạo .

Khi đến Tòa Tam Giáo, thì phải mặc bộ Tiểu Phục, còn Ðại Phục thì chỉ dùng khi đến ngự trên ngai mình.

Luận: Vì Ngài nắm “Chi Đạo” là vô vi nên đầu để trần (không có khăn hay mão). Áo lá màu xanh là màu của Đạo Tiên, thể hiện Ngài là Hớn Chung Ly, người của Bát Tiên. Trong Tam Đầu chế Hiệp Thiên Đài thì Hộ Pháp ở giữa là Nhứt Phật; Thượng Phẩm và Thượng Sanh đứng hai bên là nhị Tiên, nên thả mối dây Sắc lịnh cũng tùy phía

“Tay hữu cầm Long Tu phiến, trên đầu quạt ngay giữa có Phất Chủ”. Đặc biệt Long Tu Phiến có ý nghĩa:
LONG TU PHIẾN 
E:  Fan by the beard of dragon
F:  Éventail en barbe de dragon

((Long tu là râu rồng; Phiến là quạt. Tức nhiên là cây quạt kết bằng râu rồng),  nhưng trên thực tế, Rồng chỉ là một vật biểu tượng, vật tổ, chứ không có trong cõi trần này. Long Tu Phiến là cây Quạt của Đức Thượng Phẩm.
-Về Pháp thể thì dùng 36 lông cò trắng kết thành một cây quạt;
- Về Pháp linh thì Ðức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy như vầy:

"Long Tu Phiến là cây quạt do điển khí của Tam Thập Lục Thiên kết thành, quạt ấy tiết ra một điển lực có ảnh hưởng đến cuộc tấn hóa của quần linh. Chơn thần nào trong sạch thì nương theo đó mà siêu nhập Cực Lạc Thế Giới. Trái lại, chơn thần nào luyến ái tà mị thì lánh xa mà đi lần đến U Minh cảnh giới. Cả cơ "thu” và "đẩy” của Long Tu Phiến với Chơn thần đều do luật "đồng khí tương cầu” mà thành tựu. Nghĩa là chơn thần đạo đức thì Long Tu Phiến hấp dẫn đến gần và đưa vào Cực Lạc Thế Giới; còn chơn thần trọng trược thì Long Tu Phiến đẩy ra xa và lần hồi đi đến cảnh U Minh đen tối.

Đức Hộ-Pháp cũng dạy: “Hôm nay là ngày mở cửa thiêng-liêng và đưa nơi tay các Đấng nguyên-nhân ấy một quyền năng đặng tự giải thoát lấy mình, hai món Bí pháp:
1 - Long-tu-phiến của Đức Cao Thượng-Phẩm
2 - Kim Tiên của Bần-Đạo, hiệp với ba vòng vô vi tức nhiên diệu quang Tam giáo hay là hình trạng của càn khôn vũ trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ-quang-khiếu của chúng ta đó vậy. Con người có ngũ-quan hữu tướng và lục quan vô hình, mà phải nhờ cây Kim-Tiên ấy mới có đủ quyền-hành mở lục quan của mình đặng”

Đức Hộ Pháp khi trấn pháp nơi Trí Huệ Cung thì Đức Ngài dùng hai bửu pháp:
- Một là Long Tu Phiến của Đức Cao Thượng Phẩm,
- Hai là cây Kim Tiên của Đức Hộ Pháp do Thái Sư Văn Trọng trao cho. Đức Ngài nói về Long Tu Phiến như:
 “Long Tu Phiến có thể vận chuyển Càn-Khôn Vũ-Trụ do nguơn khí đào độn sanh ra đó vậy. Nó có quyền đào độn nguơn khí, thâu hoạch nguơn khí để trong sanh lực. Con người nắm được điều ấy là người đắc Pháp. Nhờ nó mới có thể luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hóa Thần được.”

Phất Chủ: Phất Chủ là điển khí của Thất Bửu Diêu Trì kết hợp dùng để trau rửa Chơn Thần trở nên thanh khiết.”. Ðó là Bửu pháp của Ðức Cao Thượng Phẩm, chúng ta là đoàn em cũng nên noi gương của người Anh mà lần bước trên đường hành Ðạo. Nay Ðức Thượng Phẩm thuộc về người Thiêng Liêng thì Ngài lại có nhiệm vụ “cứu rỗi phần hồn của chúng sanh”. Trong tay Ngài sẵn có hai món Cổ Pháp nói trên là "Long Tu Phiến" và "Phất Chủ". Đó là sở dụng của hai món Cổ Pháp ấy.

Ngày 23-04-1931 Đức Thượng Phẩm giáng  cho Thi:
Long-Tu-Phiến quạt bợn sơn hà,
Như Giáng-Ma-Xử trấn quốc gia.
Rưới nước Cam-lồ lau xã tắc,
Múa gươm thần huệ dẹp can qua,
Niệm Kinh Khổng Thánh thâu Mao- Tưởng,
Phất phướn Nhan Uyên chận Mỹ - Nga
Thế giới Hòa bình ai chủ xướng ?
Thì dân nước Việt khải hoàn ca.

 Chính bài thơ này làm động cơ thúc giục cho bốn vị trong nhóm Hòa-Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp phấn khởi tính thần mà đi cậm cờ Bến hải. Đó là: Thoại, Kỳ, Đại, Lợi đã thực hiện tinh thần yêu nước. Bốn vị này dám đột nhập cầu Hiền lương treo cờ trắng (Bạch kỳ).

Câu chuyện về 36 lông có trắng để làm Long-Tu-Phiến (Bà Đầu Sư Hương Hiếu) tức là Bà Tư Nguyễn Thị Hiếu là Hiền nội của ông Cao Quỳnh Cư (sau đắc phong Thượng Phẩm) có bổn phận làm chiếc Long Tu Phiến cho Đức Ngài, đúng như lời Đức Chí Tôn giáng dạy, nhưng thật sự chỉ làm bằng 36 lông cò trắng kết thành. Vì lẽ đó mà Bà Tư truyền rao trong giới công quả, ai có lông cò trắng đem hiến, với hai điều kiện là:

1 - Lông cò luỵ (tự chết).
2 - Lông cò nuôi chớ không được bắn giết.
Sau đó, có người Tà Mun đem tặng Bà Tư 18 lông cò trắng. Anh ta thưa với Bà Tư: Cây dầu trước nhà tôi, cách tháng nay có cặp cò đến ở. Bỗng nhiên, hôm qua con cò trống dãy chết. Tôi chỉ lựa được 18 lông tốt, còn những lông khác lem luốt không lấy được.

Hôm sau, vợ anh đó lại đem đến cho bà Tư 18 lông cò mái. Chị ta nói: Tội nghiệp đôi vợ chồng nhà cò quá ! Làm ổ chưa đẻ đã chết. Tôi chôn cả hai xác dưới gốc dầu, chớ không dám ăn thịt vì chim sa cá luỵ linh hiển lắm.

Ngay đêm hôm đó, Bà Tư thấy cậu Cao Quỳnh An về thăm có dẫn theo người bạn gái có cái mũi thật cao.

(Cao-Quỳnh-An là người con trai duy nhứt của Bà và ông Cao-Quỳnh-Cư, học bên Pháp rồi chết ở bên ấy. Cùng một năm mà Bà Tư chịu ba cái tang: là cậu Cao Quỳnh An, Bà ngoại cậu An và Đức Cao Thượng Phẩm).

Cậu An nói: Thưa mẹ, con xin trả lại xương cốt cho mẹ và xin Ba giúp đưa con vào cõi Cực Lạc. Nghe đến đó, Bà Tư giựt mình, mồ hôi ướt đẫm. Bà  nhủ thầm,  nhớ  lời dặn của Đức Cao Thượng Phẩm:
"Âu cũng là số kiếp: 18 lông cò trống tượng trưng cho cơ thu thuộc Dương, 18 lông cò mái tượng trưng cho cơ xuất (đẩy) thuộc Âm. Đạo Đức Kinh có viết "Nhất Âm, nhất Dương chi vị Đạo”. Ta thuộc chi Đạo, như vậy là hợp lẽ thiêng liêng. Điều đó chứng tỏ ngay cả Bà Tư cũng chưa thấu hiểu cơ huyền vi trong 36 lông cò trắng gồm có 18 lông Dương và 18 lông Âm. Vào năm 1949 sau ngày lễ xuất quân, một nữ thư ký đến hỏi Bà Tư: Thưa bà, bà dạy con cái quạt chỉ có 36 lông cò, sao mấy ông quân đội bông mỗi mặt tới 36 lông. Bà Tư ôn-tồn đáp: Nếu lông cò tượng trưng một mặt 36 lông cò thì không sao.
- Dạ tới hai mặt: 72 lông cò .         
- Như vậy, ta đã cầu Thất thập nhị địa sát tới rồi. Họ sẽ nhập vào tướng tá mà quấy nhiễu khó lường trước được. Bà Tư âu lo. Sau đó ít lâu Bà lên trình với Đức Hộ Pháp xin đưa Quân đội ra khỏi Nội-ô mà vẫn không tránh khỏi nạn phản Thầy trừng Đạo do tướng Nguyễn Thành Phương cầm đầu.

Nay, Đức Thượng Phẩm thuộc về người Thiêng liêng thì ngài lại có nhiệm vụ “cứu rỗi phần hồn của chúng sanh”. Trong tay Ngài sẵn có hai món Bửu pháp nói trên là Long Tu Phiến và Phất chủ. Đó là sở dụng của hai món Cổ Pháp ấy.

3 - THƯỢNG-SANH  
Fr: Chef du Domaine Temporel
Cao-Hoài-Sang  (1901-1971) .
Ngày sinh: 29-7- Tân-Sửu      (dl: 11-9-1901)
Qui Tiên: ngày 26-3-Tân Hợi  (dl: 24-1-1971)

Thọ 70 tuổi.
PCT:... Trong các kiếp hữu sanh, duy có phẩm người là cao hơn hết, nên gọi là Thượng Sanh. Lập Tam-kỳ phổ-Độ này, Thầy đem các chơn linh dầu nguyên sanh, quỉ sanh hay là hóa sanh lên phẩm vị nhơn loại mới trọn câu Phổ Độ. Chơn linh các nguyên nhân bị đọa trần, quỉ nhơn chuộc tội hay là hóa nhân thăng cấp đều nhờ Thượng Sanh độ rỗi (ấy là Thế độ)

Đạo phục của Thượng Sanh:

Chú giải:“Đạo phục của Thượng Sanh cũng có hai bộ, một bộ Đại phục và một bộ Tiểu phục”. Ấy là hoàn tất lý Âm Dương một cách toàn vẹn.

Bộ Đại phục cũng y như của Thượng-Phẩm, đầu bịt “Thanh Cân” nghĩa là (một bao đảnh xanh), lưng mang dây thần Thông (nghĩa là một đường lụa đỏ) và nịt dây lịnh sắc y như của Hộ Pháp và Thượng Phẩm, song mối phải thả ngay về bên tả. Nơi lưng giắt Thư Hùng Kiếm (thể, tạo Thế và chuyển Thế) tay hữu cầm cây Phất Chủ (thể, đưa Thế vào cho Hộ Pháp) tay tả nắm xâu chuỗi “Từ Bi” (thể, dâng Đạo cho Nhơn Sanh), chơn đi giày vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ “THẾ” .

Bộ Tiểu Phục cũng y như của Thượng Phẩm, song ngay trước mão chính giữa có thêu Thư Hùng  Kiếm    Phất Chủ, ngay trên hình Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ có chữ “Thế”, lưng cột dây lịnh sắc như Đại Phục.
Khi đến Tòa Tam Giáo, thì phải  mặc bộ Tiểu Phục, còn Đại Phục thì chỉ khi đến ngự trên ngai mình.

LUẬN- PCT: “Đạo phục của Thượng Sanh cũng có hai bộ: một bộ Đại Phục và một bộ Tiểu Phục”. Ấy là bậc đã nắm đủ lý Âm-Dương , thể thiên hành hóa, như Đức Hộ Pháp và Thượng Phẩm, nhưng có khác về quyền hành của mỗi người, tuy nhiên về đạo phục thì phần đại cương có nét giống nhau như PCT qui định (đã giải trước).

Bài thơ sau đây cũng nói lên được nguơn linh của Đức Thượng Sanh là Lữ-Đồng-Tân, một vì Tiên trong Bát Tiên. Ngày nay Ngài được Đức Chí Tôn ban cho phẩm Thượng Sanh là đứng đầu của nhơn sanh, tức nhiên chủ quyền Đời, xem như bậc Vương Đế. Ngày xưa Ngài cũng mộng Đế Vương, nhưng nay mới là Đế Vương thật sự.

Bài thơ này đặc biệt nhứt là hai câu cuối:
Cao-Đài khai hội tại Tây trường,
Cải cựu hoán tân chế Lệ Thương.
Qui chánh cải Tà huờn miếu võ.
Tòng chơn khử giả định phong cương.
Hồng Môn thử nhựt tri thành bại,
Xích-Bích kim triêu biện nhược cường.
Phụng tấn Long hồi huờn nhứt thổ,
LẬP CÂN hiển hiện tỉnh HUỲNH-LƯƠNG

 Giải theo cách chiết tự sẽ là:
“huờn nhứt thổ” là chữ VƯƠNG. Bởi chữ nhất đặt trên chữ thổ là chữ Vương . Lập là đứng, ở trên, cân là cái khăn, ở dưới, ghép lại thành chữ Đế (có nghĩa là đứng mà đội khăn. Đạo phục của Đức Thượng Sanh có hình ảnh này mà thôi. Hơn nữa câu Tỉnh Huỳnh Lương là nhắc lại câu chuyện về tiền kiếp của Ngài, khi Ngài được Đại Tiên đến độ Ngài qua giấc chiêm bao, Ngài thấy toàn mộng công hầu khanh tướng, vợ đẹp con xinh rồi lại bị vỡ mộng. Thời gian ấy chỉ trong thoáng chốc; khi ấy thì chủ quán nấu nồi kê chưa chín, nên cuộc đời giả tạm như giấc “mộng  huỳnh lương”. Ngài nắm phần Thế độ.                                  

Quyền hành cao trọng của Đức Thượng Phẩm và Thượng Sanh nằm trong Tam Đầu chế của Hiệp Thiên đài..

4 - THẬP NHỊ THỜI QUÂN

Bên cạnh Tam Đầu chế Hiệp Thiên Đài còn có Thập Nhị Thời Quân, Đức Hộ Pháp xác nhân công trình ấy:
 “Các Bạn Hiệp Thiên Đài! Các Bạn đã có từ buổi ban sơ đến giờ, Đạo vừa mở là có các Bạn, các Bạn đã chia sớt mọi điều từ trong cảnh khổ cho đến cảnh vinh quang. Hôm nay không ai biết định hướng của Đạo hơn các Bạn”.

Cuộc đời của các Ngài được tuyên dương trong các bài Thài cúng tế chung hằng năm như sau:
Tướng soái Thời quân đã đạt thành
Công trình lập Đạo sử nêu danh,
Ngàn năm để tiếng đời ca tụng,
Không hổ mặt mày với kiếp sanh.

THẬP NHỊ THỜI QUÂN HIỆP THIÊN ĐÀI
            PCT: Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân chia làm ba:
   1 . Phần của HỘ PHÁP chưởng quản về PHÁP thì:
   - HẬU       Bảo Pháp, (1)
   - ÐỨC      Hiến Pháp,
   - NGHĨA là  Khai Pháp,
   - TRÀNG là Tiếp Pháp,
   Lo bảo hộ Luật đời và Luật Ðạo, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết.

   2 - THƯỢNG PHẨM thì quyền về phần ÐẠO:
   - CHƯƠNG là   Bảo Ðạo,
   - TƯƠI         Hiến Ðạo,
   - ÐÃI            Khai Ðạo,
   - TRỌNG      Tiếp Ðạo, (2)

   Lo về phần Ðạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm Luật đến khổ khắc cho đặng.

   3. THƯỢNG SANH  thì lo về phần ÐỜI:
   - BẢO THẾ  thì    PHƯỚC
   - HIẾN THẾ   -    MẠNH
   - KHAI THẾ   -    THÂU
   - TIẾP THẾ   -     VĨNH

Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo. Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền ắt trọng phạt. Thầy ban ơn cho các con”.

LUẬN: Nhìn qua cách thức Thầy phong phẩm tước cho Thời quân Hiệp Thiên Đài đủ thấy rõ:
Chi Pháp và chi Đạo: Thầy để tên của Chức sắc phía trước và phẩm tước phía sau, như:
- HẬU là Bảo pháp, ĐỨC là Hiến pháp…

Riêng về Chi Thế  thì phẩm đặt trước, tên phía sau:
- BẢO THẾ thì PHƯỚC; HIẾN THẾ thì MẠNH.

Đấy là đã phân ra: Chi Đạo là Dương, Chi Thế là Âm; còn chi Pháp là cơ Hòa. Cũng đủ Âm Dương, Tam Tài rồi vậy.

Phải chăng Đức Thượng Sanh đã thấy rõ về sự khác nhau giữa Nhơn tước và Thiên tước nên Ngài giải rằng:
- “ Nhân nghĩa trung tín, vui làm điều lành không mỏi là cái tước của Trời ban cho, tức là Thiên tước;
- Công khanh đại phu là cái tước của người cho, tức là Nhơn tước. Người xưa lại sửa cái Thiên tước thì cái Nhơn tước theo sau và được bền bĩ. Người đời nay chỉ lòe mình có cái Thiên tước để cầu lấy cái Nhơn tước. Khi đã được cái Nhơn tước rồi thì dẹp bỏ cái Thiên tước không nói đến nữa. Như thế thật quá nông nỗi, vì rốt cuộc thành ra mất hết, cái Nhơn tước cũng không giữ được bao lâu”.

Thầy giải thích [Thứ Sáu 27-8-1926 (âl 20-7-Bính Dần)] “Hàng phẩm Nhơn tước đạo đức các con nó trùng với hàng phẩm Thiên tước của các con. Ngôi thứ Thầy đã sắp sẵn, các con rán đoạt thủ địa vị mình. Trước qua sau tới, liệu mà tu hành. Thầy khuyên các con một điều là: Ðừng tưởng lầm tước phẩm Thiên đạo Thầy đem cho ai cũng đặng. Cửa Bạch Ngọc Kinh chẳng phải ai vô cũng đặng. Mỗi đứa con đều có tên trong Thiên Thơ cả, chức phận cũng đã tiền định, chớ chẳng phải tước hàm trần thế dâng cho kẻ lễ nhiều. Nếu Thầy làm đặng vậy, đạo phổ thông rất lẹ, ngặt gia tài mỗi đứa đều có phần, Thầy không phép lấy cho kẻ khác, trừ ra đứa nào chê bỏ thì mới đặng tùy ý Thầy định đoạt mà thôi.”

Thầy nói cho các con biết: Dầu một vị Ðại La Thiên Ðế xuống phàm mà không tu, cũng khó trở lại địa vị đặng. Các con nghe à!”

Một bài thi trong Thánh giáo  có câu:
“Nhơn tước vốn nơi thiên tước định,
“Quyền phàm là của thế phàm đưa.”

* Thập Nhị Thời quân là gì?
Thập Nhị Thời Quân là mười hai vị Thánh bên Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền của Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh Chưởng-quản.

“Thập nhị Thời-quân đối với Thập nhị thời Thần. Các chơn-linh đến bực nào cũng phải do nơi ấy mà xuất hiện, như Thầy nắm trọn Thập nhị thời Thần vào tay rồi mới khai thiên lập địa:
    - Thiên khai ư Tý.
    - Địa tịch ư Sửu.
    - Nhơn sanh ư Dần.

Các chơn-linh dầu nguyên-nhân hay là Hóa nhân, hễ chịu hữu-sanh thì đều nơi tay Thập nhị Thời Quân mà siêu đọa, cũng như Thần, Thánh, Tiên, Phật nhờ Thập nhị Thời thần mà thăng giáng.

Thập Nhị Thời Quân tức là Thập Nhị Thời Thần tại thế đó vậy. Thập Nhị Thời Quân chia ra làm ba Chi: PHÁP- ĐẠO- THẾ .

Lý giải qua đồ hình sẽ thấy rõ:
Tam giác giữa là tượng trưng ba ngôi một thể:
- Thượng Phẩm (bên phải của Hộ Pháp- trong nhìn ra),
- Hộ Pháp (ngôi chính giữa) nhứt Phật
- Thượng Sanh (bên trái của Hộ Pháp- trong nhìn ra)

Hai vị này là Nhị Tiên.
- 12 Thời Quân ứng với 12 Thời Thần. Đặc biệt 12 vị này tuy tuổi tác lớn nhỏ khác nhau, nhưng mỗi người đứng đầu một con giáp, không ai trùng tuổi với ai tất cả. Ngòai ra cũng vẫn chịu ảnh hưởng của tam hạp, lục hạp, hoặc lục xung, Tứ hành xung, chẳng hạn…

Người lớn tuổi nhất là Bảo Đạo Ca Minh Chương tuổi Canh Tuất (1850), nhỏ tuổi nhất là Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh tuổi Quí Mão (1903). Một vị ở đầu bảng và một vị ở cuối bảng của Thập Nhị Thời Quân. Quả là một cơ mầu nhiệm của Tạo hóa. Tuổi xếp theo thứ tự như:
1- Khai Pháp Trần-Duy-Nghĩa tuổi      Mậu Tý  (1888)
2- Khai Đạo Phạm-Tấn-Đãi tuổi          Tân Sửu  (1901)
3- Hiến Pháp Trương Hữu Đức tuổi  Canh Dần  (1890)
4- Tiếp Thế  Lê Thế Vĩnh  tuổi           Qúi Mão   (1903)
5- Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu    Nhâm Thìn   (1892)
6- Tiếp Pháp Trương văn Tràng tuổi    Qúi Tỵ    (1893)
7- Hiến Thế  Nguyễn-văn Mạnh tuổi  Giáp Ngọ  (1894)
8-Bảo Thế  Lê -Thiện Phước  tuổi         Ất Mùi   (1895)
9- Hiến Đạo  Phạm-văn Tươi tuổi   Bính Thân   (1897)
10- Tiếp Đạo  Cao-Đức Trọng tuổi   Đinh Dậu   (1897)
11- Bảo Đạo  Ca-Minh Chương tuổi Canh Tuất (1850)
12- Khai Thế Thái-văn Thâu tuổi          Kỷ Hợi   (1899)

Trước khi Chí-Tôn đến gieo truyền mối Đạo là Thiên-điều đã định mở cửa Thập Nhị Khai Thiên đặng đem cơ cứu khổ để tại mặt thế-gian này mà cứu vớt toàn cả Cửu Nhị ức nguyên nhân, con cái của Ngài, Chí-Tôn giao phó cho Hiệp-Thiên Đài, mà trong Chức-sắc Hiệp Thiên-Đài có 15 người kể luôn (HP) Hộ-Pháp, (TP) Thượng-Phẩm, (TS) Thượng Sanh. Đứng vào vị trí ở  tam giác giữa của đồ hình. Trong số 12 vị Thời Quân nầy, người được Đức Chí Tôn chọn đầu tiên là Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa và người được chọn sau cùng là Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng. Tuổi và ngày giờ được ghép bởi Thập thiên can và Thập nhị Địa chi còn gọi là Thập nhị Thời Thần.

Thập Nhị Thời Quân ứng với 12 con giáp, tức là tuổi của các vị này ứng với Thập nhị Thời Thần. BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN vẫn có đủ số 15 là hình ảnh của 15 vị trong cơ quan Hiệp-Thiên-Đài.

Xem như trên thì Tam đầu chế Hiệp-Thiên-Đài tức là ba vị Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, Hộ-Pháp có tuổi lần lượt là Tý- Sửu -Dần; tức là đứng đầu ba con giáp. Trong 12 vị Thời-Quân cũng vậy, có ba vị: Khai-Pháp (Tý), Khai Đạo (Sửu), Hiến-Pháp (Dần) cũng đứng đầu ba con giáp, tạo thành Tam Âm hợp với Tam Dương của Tam Đầu chế Hiệp-Thiên-Đài để điều-hòa máy Âm Dương của trời đất. Tuổi tác các vị này quan-hệ đối với cơ Đạo cũng như thời tiết bốn mùa trong một năm vậy. Tất nhiên rất  trọng-yếu.     

Kinh Phật-Mẫu có câu:
“Thập thiên can bao hàm vạn tượng
“Tùng địa chi hóa trưởng càn khôn”.

Thập thiên Can là  Giáp, Ất, Bính,  Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Theo thứ tự người ta ghép một can với một chi như can thứ nhất với chi thứ nhất thành tuổi Giáp-Tý…Tiếp tục phối hợp can thứ nhất với chi thứ mười một …cứ tuần tự như vậy lại đến năm Giáp-Tý nữa là đáo tuế. Trong một chu kỳ, tên mỗi Can xuất hiện sáu lần (60 : 10 = 6) và tên mỗi Chi xuất hiện năm lần (60: 12 = 5). Chu kỳ này, ta gọi là Lục Thập giáp hay biểu Giáp Tý.

Do đó, chư vị Thập Nhị Thời Quân là đồng tử, làm trung gian giữa Trời và Người. Nếu không có Thập Nhị Thời Quân thì cũng không có Đạo, vì chư vị là những Thiên sứ phò cơ nhận lời Phật Tiên dạy. Từ trước Hiệp Thiên Đài đã có qui định 4 cặp cơ là:
- Hai ông Tắc, Cư  là cơ lập giáo
- Hai ông Hậu, Đức    cơ lập pháp
- Hai ông Sang, Diêu    cơ truyền giáo
- Hai ông Nghĩa, Tràng là cơ bí pháp

Cơ Bút là bí pháp mầu nhiệm và là quyền lực của Thiêng Liêng. Thánh ngôn chỉ có giá trị khi cầu ở Cung Đạo và đồng tử là người được Ơn Trên chỉ định. Còn những ai khác hoặc cầu ở nơi khác thì chỉ để học hỏi không có giá trị truyền Đạo.

* SỰ ỨNG HỢP  GIỮA THỜI-QUÂN

& THỜI THẦN

Đức Hộ-Pháp nói: “Cả toàn Thánh-Thể và con cái Đức Chí-Tôn đều hiểu: Trong 12 vị Thời-quân của 12 con giáp là cơ huyền bí tạo càn khôn vũ-trụ thế nào có lẽ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn đều hiểu thấu”.

Bần Ðạo đã nói:“Thập Nhị Thời Quân, Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh, gọi là Ngự Mã Quân của Chí Tôn. Phật Mẫu sợ Chí Tôn tạo Ðạo không nên phải tái kiếp, nên Bà phải cho theo xuống Thập Nhị Thời Quân, phẩm tước cao trọng thay, nhưng không có gì trước mắt Phật Mẫu, tất cả con cái của Người vinh hiển sang trọng đến đâu, Người càng rầu càng lo sợ, e sang trọng ắt tự kiêu, biết đâu không hại cho tương lai vô biên của họ vì quyền tước. Cả thảy lấy triết lý ấy để răn mình. Còn bây giờ Bần Ðạo phải kết luận như sau đây: Về tới cửa của Mẹ rồi, coi như đồng sanh, đồng tử, cốt nhục tương thân, đừng để tâm khinh trọng tôn ti, làm mất khuôn mẫu của Mẹ hằng mong ước,cả thảy nam nữ cũng vậy, phẩm vị bên Cửu Thiên Khai Hóa không giống như ở đây, mấy em dầu có tâm thương mến ở bên kia cũng phải nhớ nơi Bà Mẹ, ở sao cho xứng đáng là con đối với Mẹ, là anh em, đối với anh em cốt nhục của mình chung một gia đình là phải đạo.

* Thập nhị Thời quân dưới quyền Hiệp-Thiên Đài
Thầy dạy: “Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo. Thầy cho các con biết: Hễ trọng quyền ắt có trọng phạt”.

Đức Hộ-Pháp nói: “Còn nhứt Phật, nhị Tiên, Thập nhị Thánh tại Hiệp-Thiên-Đài thì là các Đấng hầu-hạ bên Thầy lúc trước, nay tuy xuống thế cũng cứ giữ phận hầu Thầy mà thôi”.

 “Hiệp-Thiên-Đài là nơi chuyên về Đạo pháp, bảo hộ luật Đời và luật Đạo, như Ngọc-Hư-Cung nắm Thiên Điều tức là Ngọc-Hư-Cung tại thế mà Hộ-Pháp Chưởng quản. Hiệp-Thiên-Đài là cửa Trời đó vậy. Hiệp là chung với, Thiên là trời; hiệp cùng Trời tức là cửa vào đường trời, cái thang bắc cho phàm đến cùng Trời. Trong Hiệp Thiên-Đài có Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng-Sanh”.

Trọng yếu là thâu mấy vị Tông đồ:
Đức Hộ-Pháp nói: “Khi Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí Tôn mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo Cao-Đài.

Tới chừng Ngài biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn bút đi các nơi thâu Môn-Đệ. Trọng-yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông-đồ có sứ-mạng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ làm môi-giới độ Đạo sau này. Đức Chí Tôn biểu chúng tôi phò loan đặng Ngài dùng quyền năng kêu gọi mấy vị Tông đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời quân hiển hiện ra, trong số các vị Thời Quân ấy có Cao Tiếp Đạo ở tại Kim-biên chớ không phải ở Sài-gòn.

“Ngày nay Đức Chí-Tôn đến, Ngài không giáng thân như các lần trước, mà giáng linh bằng HUYỀN DIỆU CƠ BÚT. Vì lẽ đó Ngài phải lập Hội-Thánh để làm Thánh Thể cho Ngài.”

Thầy dạy:
 “Thầy lại nhắc cho các con hay rằng: Trong Thập Nhị Thời Quân, đâu đó đều có sắp đặt, nếu không phải mấy đứa phò-loan của Thầy đã định thì các Thánh-ngôn do nơi khác mà ra đều là không phải lời của Thầy nói. Con phải đề phòng cẩn thận, nghe à!

Thầy hằng nói cho các con biết, việc CƠ BÚT là việc tối trọng, nếu không có Chơn-linh quí trọng thì thường có Tà quái xung nhập mà khuấy rối làm cho thất nhơn tâm, lại còn một điều đáng quan phòng nữa là trong mấy đứa phò-loan cũng có đứa không dè-dặt, tưởng CƠ BÚT là việc khinh thường làm thế nào cũng đặng, rồi muốn lấy đó mà cầu hỏi những điều vô vi, nên cũng có nhiều khi vì đó mà sanh biến trong Đạo.

Thầy nói cho các con hiểu bậc Chơn Thánh mà phải đọa trần nếu không đủ tánh chất để dìu-dẫn nhơn sanh thì cũng chưa xứng đáng cầm bút cho Thầy truyền Đạo. Các con nghe à!”
Đi thâu Thập Nhị Thời quân rồi Đức Chí-Tôn mới mở Đạo.
Nhiệm-vụ của Thời-quân được Ngài Khai-Pháp giáng cơ xác nhận:

          “Ngày Bần-Tăng về Chí-Tôn mới rõ quyền-năng Thiên-triều vô biên. Chính Bần-Tăng rón-rén bước vô Bạch-Ngọc-Kinh phải nhờ chơn-linh Vi-Hộ dẫn tấn. Từ đây mới biết Chí-Tôn phần nào và được thấu-đáo nhiệm vụ của Thời-quân, chẳng những nơi thế-gian này mà còn nơi cõi Thiên nữa. Như thế mới khiếp sợ trách-vụ mình.

Nếu quí vị được thấy thì tưởng không còn muốn ở cõi trần nữa làm gì. Vậy Bần-Tăng ước mong quí Bạn Thời Quân dòm về hướng Chí-Tôn để rộng quyền làm tròn Thiên-soái-mạng”.

* ÐẠO PHỤC CỦA THẬP NHỊ THỜI QUÂN

Chú giải: Ðạo Phục của Thập Nhị Thời Quân có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
- Bộ Ðại Phục toàn bằng hàng trắng, cổ trịt viền chỉ Kim Tuyến bạc. Ðầu đội mão quạ cũng bằng hàng trắng, lưng nịt dây lịnh sắc theo Chi mình mà thả mối, chơn đi giầy vô ưu màu trắng.
- Bộ Tiểu Phục cũng toàn hàng trắng. Lưng nịt dây lịnh sắc y như Ðại Phục. Ðầu đội mão cũng như Tiểu Phục của Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh, tùy theo chi mình mà để Cổ Pháp, chơn đi giầy vô ưu màu trắng.

Khi Hành Chánh thì mặc bộ Tiểu Phục, còn Ðại Phục thì khi Ðại Lễ. Còn nhiều vị Chơn Quân khác hoặc đã đến rồi hoặc chưa đến, mà Ðạo Phục còn để tạm hay là Thầy chưa quyết định, sau sẽ giải rõ.

Nếu một năm có 24 tiết khí cũng chia làm Âm- Dương; một ngày một đêm có 24 giờ cũng phân chia tối sáng. Con người có 24 chiếc xương sườn phân ra tả hửu để chở che lồng ngực.

Trong cửa Đạo Cao Đài ngày nay khi đã có Thập Nhị Thời Quân ứng với Thập Nhị Thời Thần; thì còn có Thập Nhị Bảo Quân để hòan thành Hàn Lâm Viện Đại Đạo.

5 - THẬP NHỊ BẢO-QUÂN
A: The twelve Technical Academicians, twelve Protectors.
P: Les douze Académiciens techniques, douze Protecteurs.

Ngoài Thập Nhị Thời quân ra còn có 12 vị Bảo Quân dưới quyền chỉ huy của Giáo-Tông và Hộ-Pháp.
Thập Nhị Bảo Quân là 12 vị Bảo-Quân do Đức Chí Tôn lập nên tạo thành Hàn Lâm Viện của Đạo Cao Đài.

Khi thỉnh giáo về Thập Nhị Bảo Quân, Đức Hộ Pháp có lời phê về Thập Nhị Bảo-Quân, là:
“Toàn thể Bảo-Quân là Hàn-Lâm-viện, mỗi vị có sở thức, sở năng ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như: Huyền-linh-quân nghĩa là Thần linh hồn khác với Bảo Học quân là thuộc về khoa-học hay thực tế học..”

Bảo-Quân có 12 vị gọi là Thập Nhị Bảo Quân, là:
  1 - Bảo Huyền-Linh-Quân (Science mystique)
  2 - Bảo-Học-Quân (Science physique – Instruction
Publique)
  3  - Bảo Thiên-văn Quân (Astrologie)
  4 - Bảo Địa Lý Quân (Géologie)
  5 - Bảo Sanh Quân (Santé puplique)
  6 - Bảo Cô Quân (Chevalerie)
  7 - Bảo Văn Pháp Quân (Belles lettres)
  8 - Bảo Y Quân (Médecine)
  9 - Bảo Nông Quân (Agriculture)
10 - Bảo Công Quân (Arts et Métiers)
11 - Bảo Thương Quân (Commerce et Industrie)
12 - Bảo Phong hoá Quân (Philosophie) hoặc còn gọi là

Bảo-Sĩ-Quân tức là Triết-học.
Đó là định luật của đất trời. Giờ đây tổ chức trong cơ quan Hiệp-Thiên-Đài cũng tương tự như vậy:
- Thập Nhị Thời Quân ấy là  Dương.
- Thập Nhị Bảo-Quân ấy là Âm.

Âm Dương tương hiệp mới phát khởi Càn Khôn. Bất cứ trường hợp nào vẫn có Âm Dương không lìa nhau.

Phẩm vị Thập Nhị Bảo Quân do Đức Chí Tôn hay Quyền thiêng liêng giáng cơ phong thưởng, giống y như Thập Nhị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài, chớ không do cầu phong hay cầu thăng hoặc công cử như bên Chức sắc Cửu Trùng-Đài và Cơ quan Phước Thiện.

Thập Nhị Bảo Quân đối phẩm với Phối Sư Cửu Trùng-Đài. Khi chầu lễ Đức Chí Tôn tại Tòa Thánh, chư vị Bảo Quân đứng tại chỗ Hiệp-Thiên-Đài, dưới các bực của chư vị Thời Quân và đứng sắp hàng phân ra hai bên tả hữu của chư vị Thời Quân. Nếu chỉ có một vị Bảo Quân chầu lễ thì vị ấy đứng phía bên Chi Thế, tức bên phía Đức Thượng Sanh.

Chú giải Pháp-Chánh-Truyền:
 “Ngoại Pháp-Chánh-Truyền, dưới quyền Hộ Pháp thì còn - Bảo Văn Pháp Quân (Arts et Belles Lettres), trước phong đỡ làm Tiếp Lễ Nhạc Quân, nay đã vào chánh vị đặng chỉnh đốn Lễ Nhạc lại cho hoàn toàn cho tới ngày thành Đạo.
- Bảo Sanh Quân (Assistance Publique), Thầy phong đỡ làm Tiếp Y Quân, đặng đợi ngày thành Đạo.
- Bảo Học Quân (Enseignement) và nhiều Chức sắc khác nữa Thầy chưa lập. Các vị ấy Hộ Pháp đang chờ đến.”

* Đạo phục của BẢO VĂN PHÁP QUÂN
 “Bộ Đại phục của Văn pháp Quân toàn bằng hàng trắng, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo như các Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, song hai bên ngay chính giữa có kết một bông sen năm cánh, trên mỗi bông thì thêu Thiên nhãn Thầy ngay đường giữa các Mão cũng kết một bông sen nhưng khỏi thêu Thiên Nhãn. Cả thảy là ba bông sen trên mão”.

LUẬN: (Nhựt: mặt trời; Nguyệt: mặt trăng; Mạo: mão đội đầu) Ấy là cái mão có hình dáng tượng mặt trời và mặt trăng; là Mão của chức sắc Hiệp Thiên Đài đội chầu Lễ Đức Chí-Tôn.

Mão này gồm:
- Cái vòng tròn úp lên đầu là thể Nhựt hình, hình tròn giống như mặt trời.
- Bên trên Mão giống nửa hình tròn, hình bán nguyệt, thể Nguyệt hình.

Thánh giáo ngày 13 Mars 1931 của Lục Nương Diêu Trì Cung dạy về Mão của Thập Nhị Thời Quân thì cái vòng tròn úp lên đầu đội là “Thể Nhựt hình” còn hình bán nguyệt của Mão là “Thể Nguyệt tượng”.

Nhựt Nguyệt Mạo cũng là hình ảnh của Âm Dương vậy, nhưng đây là Âm trên Dương. Đạo Cao-Đài luôn có một tinh thần nhứt quán là chỗ đó. (Tính về Quẻ thì Âm trên là Địa, Dương dưới là Thiên, phối hợp thành quẻ Địa Thiên Thái có nghĩa là hanh thông)

* Đạo phục của BẢO SANH QUÂN
Bộ Đại Phục của Bảo Sanh Quân toàn bằng hàng trắng. Đầu đội Nhựt nguyệt Mạo giống như Chức sắc Hiệp Thiên-Đài, ngay giữa Mão từ 3 phân lên 4 phân thêu một Thiên Nhãn, hai bên Mão thêu hai Thiên Nhãn nữa, cả thảy là ba. Vòng theo vành Mão cột một sợi dây Tiên thằng (ngang tám phân, dài hai thước) buộc thế nào chừa Thiên Nhãn ngay giữa Mão ra, cho hai mối thòng xuống hai bên vai” (PCT)

CHƯƠNG IV

TIÊN THIÊN – HẬU THIÊN
E: Ante-Creation, Post-Creation
F: Ante-Création, Post-Création

A - HÀ ĐỒ TIÊN THIÊN BÁT QUÁI:
Vua Phục Hi sanh về đời tối cổ bên xứ Trung Hoa. Thời đại ấy, Thần linh học phát triển đến tột độ cao siêu. Ngài là một ông vua Minh quân, Thánh trí tài cao, đức rộng; tinh thần minh mẫn, hàm dưỡng được trọn vẹn trí huệ của Trời ban cho. Huệ nhãn của Ngài xem suốt cõi vô hình. Khi dạo trên bờ sông Hà (ngày nay gọi là Hoàng-Hà). Ngài trông thấy một con thú mình ngựa đầu rồng, mạng danh là Long Mã, trên lưng có năm mươi lăm chấm. Vua Phục Hi do đó mà chế ra bản đồ "Tiên Thiên Bát Quái", đời thường gọi là Phục Hi Bát Quái       

1 - Sự tích Long Mã: Theo sách Nho, Long Mã bề cao 8 thước, năm tấc (thước Tàu), xương cổ dài, chưn ngựa đầu rồng, trên mình có vảy như rồng. Kinh Dịch chép rằng:

Long Mã là vật linh kết hợp bởi 8 tinh túy của Thái dương hệ biến hiện dưới tầm mắt của vua Phục Hi là một vị chí Thánh, xem được các vật trong cõi vô hình, thấy rõ Linh vật của Trời Đất, mang chở những cái tinh anh của Thái dương hệ. Rồng là một Linh vật trong số Tứ Linh "Long, Lân, Qui, Phụng", có đủ nơi mình tinh túy của Vũ Trụ. Ngựa là vật chở người và đồ vật đi mau lẹ. Tóm lại, Long Mã tượng trưng Âm Dương tương hiệp, tức thời gian trôi qua mau lẹ và mang theo những tinh túy của Trời đất để chan rưới sự sống cho muôn loài vạn vật. (Giáo lý của Tiếp Pháp Trương văn Tràng).

2 - Long Mã phụ Hà Đồ:
Trên nóc Tòa Thánh Tây Ninh, chỗ Nghinh Phong Đài, Đức Hộ Pháp cho làm một bán cầu tượng trưng Địa cầu 68 của nhơn loại, trên có có đắp hình Long Mã phụ Hà đồ, Long mã, mình hướng theo chiều Tòa Thánh, bộ điệu đang chạy từ hướng Đông sang hướng Tây, nhưng đầu Long mã ngoáy nhìn lại hướng Đông. Với ý nghĩa là Long Mã tượng trưng Âm Dương (Rồng tượng trưng Dương vì rồng bay trên Trời, ngựa tượng trưng Âm, vì ngựa chạy trên mặt Đất), Âm Dương phối hiệp là ĐẠO, nên Long mã tượng trưng Đạo. Long mã chạy từ Đông sang Tây, ý nói “Đạo xuất ư Đông” và truyền qua hướng Tây. Nhưng đầu Long Mã ngó ngoáy lại phương Đông, ý nghĩa là Đạo sẽ xuất hiện ở hướng Đông, vì đây là gốc của Đạo. Chứng tỏ lời Thánh nhân là “Thiên địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ”. Đạo Cao Đài mở ra tại nước Việt-Nam là nước mà Âu Châu gọi là “Hòn Ngọc Viễn Đông, rồi Đạo Cao Đài sẽ truyền qua hướng Tây để cứu độ các sắc dân ở đó. Sau cùng Đạo Cao Đài cũng  khởi phát từ nước Việt-Nam đến toàn Thế giới, vì Đức Chí Tôn đã chọn Việt-Nam là Thánh địa và chi chi cũng tại Tây-Ninh mà thôi.

Trấn Thần con Long Mã: “Sớm mai ngày mùng 6 tháng Giêng năm Đinh Hợi (dl: 27-01-1947), Đức Phạm Hộ Pháp hành lễ Trấn Thần Toà Thánh và trấn Thần con Long Mã:

Đức Hộ-Pháp sang bên Nam, phía tả Đền Thánh, ngang Cửu Trùng Đài đúng 12 bước thẳng, trấn Thần con Long Mã. Ngài giải: “Long Mã tượng trưng Đạo là cơ sanh hóa vạn vật, trên lưng nó có bộ Bát Quái Đồ Thơ và cây Bửu kiếm, nên có câu “Long Mã phụ Hà đồ”. Ý nghĩa: Đạo xuất từ Đông, đem từ Đông sang Tây cứu vớt chúng sanh, đem Vạn linh trở về nơi sanh hóa, tránh cơ tự diệt, nên hình Long Mã chạy về Tây mà đầu ngó ngoéo về Đông. (Sau nầy Đức Ngài sẽ giải thêm hay là nhờ các bậc uyên thâm đạo đức giải rõ)         

3 - Tám quẻ gồm có:
CÀN Càn tam liên   (tức là ba vạch liền)
ĐOÀI Đoài thượng khuyết  (trên lõm vào)
LY  Ly trung hư  (ở giữa trống không)
CHẤN Chấn ngưỡng bồn (giống như chậu ngửa)
TỐN Tốn hạ đoạn (ngang dưới đứt ra)
KHẢMKhảm trung mãn (ở giữa đầy)
CẤNCấn phúc uyển  (như cái bát úp xuống).
KHÔNKhôn lục đoạn (Khôn sáu nét đứt ngang).

Phương vị các số trong Hà Đồ:
Hà Đồ gồm có 10 số: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9,10.
Năm số lẻ, số Dương là số Trời: 1,3,5,7,9.
Năm số chẵn, số Âm, là số đất:   2,4,6,8,10.
Cộng riêng các số Âm Dương sẽ có kết quả là:
1+3+5+7+9= 25     2+4+6+8+10=30

Vậy:  Tổng số Âm Dương trong Hà Đồ là: 25+30= 55
Dịch nói rằng: “Thiên số ngũ, Địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hạp. Thiên số nhị thập ngũ, Địa số tam thập. Thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử sở dĩ thành biến hóa nhi hành quỉ thần”; nghĩa là số trời có năm số, số đất có năm số; năm ngôi cùng tương đắc mà điều hợp nhau. Số Trời có 25, số đất có 30. Tổng số của số Trời đất là 55. Các số ấy tạo nên sự biến hóa và điều hành quỉ thần.

Ngũ hành trong Hà Đồ: Sự biến hóa các số sinh thành trong Hà Đồ:
- Thiên nhất sanh Thủy, Địa lục thành chi.
- Địa nhị sinh Hỏa,        Thiên thất thành chi.
- Thiên tam sanh Mộc,  Địa bát thành chi.
- Địa tứ sanh Kim,        Thiên cửu thành chi.
-Thiên ngũ sanh Thổ,   Địa thập thành chi.

Nghĩa là:
- Trời số 1 sanh nước,  Đất số 6 thành nước,
- Đất số 2 sanh Hỏa,    Trời số 7 thành Hỏa
- Trời số 3 sanh Mộc,  Đất số  8 thành mộc.
- Đất số 4 sanh Kim,   Trời số 9 thành Kim.
- Trời số 5 sanh Thổ,   Đất số 10 thành Thổ.

Số 5 là số đặc biệt, nếu đem nó cộng với số sinh sẽ được số thành. Tức nhiên số sinh ra nước là 1+5= 6 là số thành của nước. Tương tự như vậy sẽ có các kết quả như trên. Khi sanh bởi Dương số thì thành ra Âm số và ngược lại; Âm Dương phối hợp có công dụng sinh thành.

Bởi vậy, nếu không có số 5 làm trụ cột; bất di bất dịch ở trung cung thì không có sinh cũng chẳng có thành, vạn vật do đó mà phát sinh và chung qui cũng trở về đó.

Số 5 và số 10  (Ngũ, thập tại trung cung) là huyền cơ của trời đất. Chính nó là ngôi Thái cực, căn bản của tạo hóa. Đó là số bất dịch của Dịch.

Nhìn trên Hà Đồ cho thấy rõ lẽ Âm Dương tiến hóa và Tiên Thiên Bát Quái một cách rõ nét:
Phân nửa bên trái thì Âm hàm Dương (Tiên Thiên), còn nửa phần bên mặt (Hậu Thiên) thì Dương hàm Âm. Bởi Dương ở trong thì tụ, Dương ra ngoài thì tán. Tụ thì mạnh, tán thì yếu.

Hà Đồ có những đặc điểm cần lưu ý:  -Trong Dương thì ngoài Âm, trong Âm thì ngoài Dương nghĩa là trong Dương có Âm và trong Âm có Dương.
- Âm căn là: 2, 4. Dương căn là 1, 3.
- Tổng số Âm là 30, Tổng số Dương là 25, tức là Âm phải bao bọc che chở cho Dương. Dương tụ bên trong.
- Phía bên phải (hướng Tây) các số Dương tản ra (số 7,9) các số Âm lại ở bên trong (2, 4) Dương tán ra ngoài.

Như thế HÀ ĐỒ chủ trương Âm dương nội ngoại tương ứng, biến thiên đều đặn, đổi thay ngôi vị Đông Tây.
Số 5 rất quan trọng trong Hà Đồ:
Số 5 nằm ở vị trí trung ương của Hà-Đồ. Vạn vật không có nó không sanh và cũng không thành được vì đó là Thái cực, là nguyên lý của Âm Dương.

Luận về Thái cực và Lưỡng nghi (Âm Dương) Hệ Từ Thượng trong Kinh Dịch đã cho biết: cốt tủy Kinh Dịch nằm trong câu “Dịch hữu Thái cực nhi sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái;  Bát quái sinh vạn vật” nghĩa là Dịch có ngôi Thái cực, Thái cực sanh Lưỡng nghi (tức là Âm Dương), Lưỡng nghi sinh Tứ Tượng (là Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm). Tứ Tượng sanh Bát Quái  (CÀN  nhất, ĐOÀI nhị, LY tam, CHẤN tứ, TỐN ngũ, KHẢM lục, CẤN thất, KHÔN bát). Bát Quái sinh ra vạn vật.
Sinh đây là biến hóa bất diệt và vô cùng huyền diệu.
Bát Quái Tiên Thiên đặt nằm ngang:
Dưới đây là sự biến hóa từ Thái cực đến khi thành hình một Bát Quái đầu tiên đó là Bát Quái Tiên Thiên đặt nằm ngang:

Đạo Cao Đài ra đời Đức Chí-Tôn xác định điều ấy: “Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn Khôn thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra:
- Có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực,
- Thầy phân Thái cực ra Lưỡng Nghi,
- Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng,
- Tứ Tượng biến Bát Quái,
- Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sinh ra vạn vật là: vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh” (TN II /62)

Thầy nói tiếp: “Một Chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới. Nên chi, các con là Thầy, Thầy là các con”.

Thánh nhân đã chỉ rõ rằng: đầu tiên ngôi Thái cực phân hóa thành hai, gọi là Âm Dương. Ví như hột giống khi nứt mầm thì có hai lá đầu tiên, gọi là song-tử-diệp, tức là Âm Dương đó. Nhưng khi biểu tượng là dùng: nét liền tượng Dương, nét đứttượng Âm. Với 1 nét như vậy thì gọi Nghi (tức nghi Dương và nghi Âm).

Khi sanh biến thì hai nghi Âm Dương sẽ sanh ra Tứ tượng. Khi gọi là Tượng thì biểu hiệu bằng hai nét, có bốn Tượng là: Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm.

Gọi là sinh tức là làm tăng thêm, luôn luôn nghi ban đầu vẫn làm gốc có nghĩa là hai nét Âm Dương vẫn đặt nằm dưới cùng, vì đó là gốc, là khởi điểm để từ đó tiếp diễn sinh ra.

Khi thành Tượng thì lấy Nghi dương làm gốc, đặt nét Dương lên nghi dương thành hai Dương là Thái Dương  lần biến thứ nhì thì đặt nét Âm lên nghi dương sẽ là Thiếu Âm Đến nghi Âm cũng qua hai lần biến hóa thành ra Thái Âmvà Thiếu Dương

Tứ Tượng biến Bát Quái lấy Tượng làm gốc:
- Thái Dương lần biến thứ nhất là thêm một nét Dương lên trên thành ra CÀN lần biến thứ nhì ra ĐOÀI 
.
- Thiếu Âmlần biến thứ nhứt là thêm một nét Dương lên trên thành LY lần biến thứ nhì sinh ra CHẤN
- Thiếu Dương lần biến thứ nhứt là thêm một nét Dương lên trên thành TỐN lần biến thứ nhì sinh ra KHẢM.
- Thái Âm lần biến thứ nhứt là thêm một nét Dương lên là CẤN lần biến thứ nhì sinh ra KHÔN

Thành phần mới sinh có 3 nét gọi là Quẻ. Chỉ có 8 quẻ căn bản này mà thôi, từ đó biến hóa vô cùng, gọi đây là BÁT QUÁI, tức là 8 hiện tượng quái dị, lạ lùng. Thầy cũng có nói lẽ ra phải gọi là Bát Tượng hay Bát Tướng, nhưng vì đã quen gọi nên không sửa được, nên gọi là BÁT QUÁI.

Điều nên lưu ý:
-Thứ nhứt là phần gốc bao giờ cũng đặt dưới hết, nét mới sinh sẽ đặt lên trên.
- Thứ hai là Âm Dương luôn đi liền nhau, không bao giờ  sai lệch

Trên nguyên tắc thì vẽ quẻ từ dưới lên, khi đọc quẻ từ trên đọc xuống, cũng là thể hiện vòng Âm Dương, thuận nghịch đó vậy.

Hà Đồ Tiên Thiên Bát Quái:
Những hiện tượng Thiên thể xét theo Tiên Thiên Bát quái thì 4 quẻ: Kiền , Ly , Chấn , Cấn của Tiên Thiên chứng minh những thời kỳ biến hóa của khí thể đi dần đến cố thể
- KIỀN tượng cho định tinh nóng sáng (mặt trời 6500 độ) có những sao nóng trên 20.000 độ.
- LY  Mặt trời hay Tinh tú sáng lâu năm, phí rất nhiều nhiệt độ chỉ còn khối than hồng ngoài đỏ, trong đen, nên biến thành Ly. Hào Âm ở giữa tượng trưng cho đất, đá, than….ở trong một hành tinh ấy.
- CHẤN hành  tinh, vệ tinh có những chất cháy như than dầu, khi sao đen va chạm vào sao sáng bốc cháy dữ dội, vì vỏ ngoài dồn ép phát ra tiếng nổ.
- CẤN  tượng cho cái sao sáng khi nhiệt độ hạ thấp, chất nguội ở nội tâm tăng lên và sức nóng chỉ làm cho các chất kim thạch ở bên ngoài chảy ra nước.

4 quẻ còn lại là: KHÔN   ĐOÀI KHẢM TỐN ở Tiên Thiên chứng minh những thời kỳ biến hóa của cố thể tan dần ra khí thể:
- KHÔN là một khí Âm đen, lạnh, tượng cho vệ tinh lạnh giá, bao phủ bởi một lớp băng.
- ĐOÀI tượng cho cái sao đen đi dần từ tối đến sáng. Nhiệt độ bên trong khá cao.
- KHẢM tượng cho cái sao đen lạnh có khí nóng ở trong.
- TỐN tượng trưng cho bão lửa trên định tinh.

Tiên Thiên Bát Quái là bản đồ về khí hóa của vũ trụ.

B - Sự tích Hậu Thiên Bát Quái:
Lạc Thư là sách do nơi sông Lạc mà được lập thành. Nguyên vua Võ, sanh lối 2.206 năm trước Tây lịch, Thỉ Tổ nhà Hạ, khi nước lụt, người ta trấn nước ở bực sông Lạc, khi nước cạn, có một con Linh Qui đội cầu, trên lưng có 9 số, vua Võ theo đó mà sắp đặt thành bản đồ Hậu Thiên Bát Quái. Chính Vua Đại Võ có công trị thủy, nhân đó mà lập ra Cửu trù “Lạc Qui trình triệu, Đại  Võ nhân liệt Cửu Trù”

Sau, vua Văn Vương phỏng theo Lạc Thư và lập thành TÁM QUẺ Hậu Thiên Bát Quái, để hình dung những hiện tượng trong trời đất. Thế nên vị trí các quẻ của Hậu Thiên Bát quái hoàn toàn khác với Quẻ của Tiên Thiên Bát Quái.

Lạc Thư có 9 số gồm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Cũng chia ra Âm Dương:
- Nếu cộng các số dương là: 1+3 +5+7+9= 25
- Cộng các số Âm là: 2+4+6+8= 20 (không có số 10)    

Vậy Tổng số của số Âm Dương Hậu Thiên Bát Quái là:
25 +20 = 45

1 - Cách sắp đặt các số trong Lạc Thư:
Các số này được xếp theo dạng con Rùa Thần (Linh Qui).
Đầu đội 9, chân đạp 1          “Đới Cửu, lý nhất”
Bên trái 3, bên phải 7          “Tả tam, hữu thất”
Vai trái 4, vai phải  2           “Nhị Tứ vi kiên”
Chân trái 8, chân phải 6      “Lục bát vi túc”
Số 5 ở giữa lưng                     “Ngũ tại kỳ trung”

3 - Vị trí và phương hướng Hậu Thiên Bát Quái:
Các con số nằm trên đồ Hậu Thiên Bát Quái được phân bố như sau: nhất KHẢM, nhì KHÔN, Tam CHẤN, Tứ TỐN, Ngũ Trung, Lục CÀN, Thất  ĐOÀI, Bát  CẤN, Cửu LY. Đồ hình này chỉ có biểu tượng bằng các Quẻ và định vị các phương hướng của Quẻ mà thôi

Như thế 8 quẻ Hậu Thiên Bát Quái hình dung được những hiện tượng trên quả Địa cầu, mà:
- Quẻ Kiền đây tượng trưng cho khoảng thiên không lồng lộng.
- Quẻ Khôn tượng trưng cho mặt đất mênh mông, vì trời đất rộng lớn vô cùng, thế nên KIỀN KHÔN trong Hậu Thiên Bát Quái không lấy gì làm quan trọng cho lắm.

Sáu quẻ còn lại: Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Đoài đều chiếm hữu những vị trí quan trọng vô cùng: bởi có tác dụng trên mặt đất như:
- Quẻ Đoài: chỉ hơi nước bốc lên thành sương mù.
- Quẻ Chấn: chỉ sự động đất.
- Quẻ Khảm: chỉ nước băng giá.
- Quẻ Ly: chỉ lửa ở Hỏa-Diệm-Sơn phun lên.
- Quẻ Tốn:  chỉ gió.
- Quẻ Cấn: địa chấn làm cho chất nóng trong quả đất trào ra  biến thành dung nham đóng lại thành núi.

Phương vị của Hậu Thiên Bát Quái khác với Tiên Thiên Bát Quái là vì:
- Một bên nói về hành tinh nguội (quả đất);
- Một bên nói về hành tinh nóng (mặt trời).

4 - Công dụng của Lạc Thư và Hậu Thiên Bát Quái:
Đây là một Hâu Thiên Bát Quái qua sự cấu tạo một cách chặt chẽ với vị trí quẻ và các phương hướng rõ rệt.
Đầu tiên vẽ một vòng tròn, tượng trưng Càn Khôn vũ trụ. Kế đến vẽ hai tam giác đều, chính là Tam Âm tam Dương là hình ảnh của Càn   (3 nét Dương) Khôn  (3 nét Âm). Xong vẽ hai hình vuông đặt lên nhau gọi là Tứ Âm Tứ Dương. Bấy giờ cho Quẻ vào các vị trí thích hợp mà Thánh nhân đã đặt từ xưa đến giờ: Hậu Thiên Bát Quái thuận chiều kim đồng hồ. Khởi trước là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài
- CÀN Tam liên (ba  vạch liền) Tây- Bắc. TUẤT, HỢI.
- KHẢM Trung mãn (giữa đầy) Chánh Bắc. Đương TÝ
- CẤN    Phúc uyển (chậu úp) Đông - Bắc SỬU- DẦN
- CHẤN Ngưỡng bồn (chậu ngửa) chánh Đông. Đương MẸO
- TỐN      Hạ đoạn (dưới đứt) Đông- Nam THÌN TỴ
- LY   Trung hư (giữa  rỗng) Chánh Nam, đương NGỌ
- KHÔN Lục đoạn (đứt làm 6) Tây – Nam, MÙI THÂN
- ĐOÀI Thượng khuyết (trên lõm) chánh Tây, đương DẬU

Lý giải:
- Sở dĩ nói CÀN tam liên là  chỉ cho cách vẽ, gồm ba vạch liền, Càn ở vào hướng TÂY BẮC, giữa hai cung Tuất và Hợi (về các cung sẽ vẽ sau để giản dị hóa đồ hình này)
- KHẢM giữa đầy, tức nhiên nét giữa liền (dương) hai bên là hai nét đứt (âm), ngay chánh BẮC,  ở vào Cung Tý.
- CẤN như chậu úp, nghĩa là nét trên đầy (dương) như đáy chậu mà úp xuống; hai nét dưới đứt (âm), ở ngay ĐÔNG BẮC,  vào Cung Sửu Dần
- CHẤN như chậu ngửa, chánh ĐÔNG, ở vào Cung Mẹo
- TỐN đứt nét dưới, ĐÔNG NAM, ở  Cung  Thìn Tỵ.
- LY   giữa rỗng, chánh NAM, ở vào Cung Ngọ.
- KHÔN đứt  6 khúc, TÂY NAM,  ở Cung Mùi Thân.
- ĐOÀI Trên lõm, chánh TÂY, ở vào Cung Dậu

Thật ra Dịch là bài toán Số rất tinh vi, phải nhận định các ký hiệu về QUẺ một cách tường tận, không thể sai lầm. Sau đây là một Hậu Thiên Bát Quái có đủ 12 Cung ấy là 12 Thời Thần đó.

Cách vẽ Hậu Thiên Bát Quái:
Hậu Thiên Bát quái  cũng có thể vẽ theo một hình thức khác, rất khoa học qua sự cấu hợp của hình học phẳng, thường dùng đến ba hình căn bản: Tròn, vuông và tam giác đều; Ở đây gồm có hai tam giác đều gát chồng lên nhau và hai hình vuông đặt trong một vòng tròn. Vòng tròn tượng Càn Khôn vũ trụ. Hình tam giác là ngôi Dương, hình vuông là ngôi Âm. Âm dương luôn hòa quyện vào nhau.

Ngày  xưa Thánh nhân chế ra Lạc Thư được người đời dùng vào việc nhân sự, như Chánh trị thì có Cửu trù, Địa lý thì có Cửu châu, canh nông thì lập Tỉnh điền…

Ngày nay thường dùng Lạc Thư áp dụng vào những việc khoa học thực dụng như: Y-học, Toán-học, Hóa học.. nhất là cách cấu tạo nên Ma-phương-số (carré magique).

Sở dĩ gọi là Ma Phương số là vì những số này xếp lên một bản ô số có giá trị một cách kỳ quặc, nhưng linh diệu vô cùng ….Do đó mà Hậu Thiên Bát Quái có mặt trên 6.000 năm nay đủ cho nhân loại khai triển để làm nên “Túi khôn cho loài người”. Kết quả là ngày nay nhân loại đã đạt đến văn minh vật chất đến chỗ tuyệt đỉnh. Vì lẽ đó mà họ quên đi Thượng Đế là Đấng tạo hóa đã tạo nên sự khôn sáng cho tất cả loài người. Vì một khi vật chất quá đầy đủ thì tâm linh bị xem nhẹ. Thế nên nay là cuối Hạ Nguơn Tam chuyển, cả Thế giới hầu như đang đi vào cơ thanh lọc của Thượng Đế.
Hậu Thiên Bát Quái áp dụng trong cuộc sống.

Dựa theo hình vuông trên (Ma phương số) nhận thấy các số sinh sản và hoàn thành cũng như Hà Đồ Tiên Thiên Bát  Quái. Ngoài ra cổ nhân còn áp dụng  9 cung của Lạc Thư trong việc quan chế (theo chương Hồng phạm Cửu Trù)           
CÁCH BIẾN ĐỔI TỪ TIÊN THIÊN
QUA HẬU THIÊN BÁT QUÁI

So sánh theo bản đồ trước đây chúng ta thấy từ Tiên Thiên qua Hậu Thiên  có những sự thay đổi:
a/ - Vị thứ các quẻ Tiên Thiên biến thành Hậu Thiên:
CÀN      1  Tiên Thiên biến thành    LY    9 Hậu Thiên
ĐOÀI    2   ………………………TỐN    4………………..
LY         3   ………………………CHẤN 3……………….
CHẤN   4……………………….. CẤN    8………………..
TỐN      5………………………..KHÔN  2…………………
KHẢM  6  ……………………….ĐOÀI   7………………..
CẤN     7 …………………………CÀN   6 ………………..
KHÔN  8 ………………………..KHẢM  1………………..

b/ - Trục Kiền Khôn (Nam bắc ở Tiên Thiên) chuyển qua  Hậu Thiên thành trục Ly Khảm.
Trục Ly  Khảm Tiên Thiên (Đông Tây) chuyển qua Hậu Thiên thành trục Chấn Đoài.
Khi trục  thay đổi thì phương hướng cũng theo đó mà thay đổi

Phương  thức HÀ ĐỒ  thành TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
Hà Đồ biến thành Tiên Thiên Bát Quái. Trong hình vẽ Hà Đồ biến thành Tiên Thiên Bát Quái, có đủ Thái cực, Lưỡng Nghi, Tam Tài, Tứ Tượng, Ngũ hành, Bát Quái.

Thái cực 5 điểm trắng và 10 điểm đen ở trung tâm.
Lưỡng nghi được phân chia bằng một gạch chéo, bắt đầu từ điểm cuối cùng của 9 điểm trắng. Chín là số thành của hành Kim, ở giữa quẻ Kiền và quẻ Tốn (giữa phương Nam và phương Tây Nam) chạy dài đến điểm đen cuối cùng của 6 điểm đen (6 là số thành của Thủy) ở giữa hai quẻ Khôn và Chấn  (giữa phương Bắc và Đông Bắc.

Tam Tài biểu tượng bằng Ba vạch ở giữa hình vuông ấy là: Thiên- Nhân- Địa. Trời theo Thái Dương. Đất theo Thái Âm, người theo Thiếu Dương và Thiếu Âm. Về triết học  đây là ba ngôi quan trọng trong vũ trụ  Đạo trời là Âm Dương, đạo đất là Cương nhu, đạo Người là Nhân Nghĩa. Người ở ngôi giữa phải hòa được cái đạo của Trời đất để dựng nền tảng Nhân cực một phương cách sáng tạo về Dịch học, nhằm mục đích mưu cầu hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại.

Tứ Tượng là:
- Thái Dương ở phần hành của Kim, quẻ Đoài và quẻ Càn ở phương Đông Nam và Nam.
- Thái Âm ở phần của hành Thủy, quẻ Cấn và quẻ Khôn phương Tây Bắc và Bắc.
- Thiếu Dương ở phần của hành Hỏa, quẻ Tốn và quẻ Khảm  phương Tây Nam và Tây.
- Thiếu Nam ở phần hành Mộc, quẻ Chấn và quẻ Ly phương Đông bắc và Đông.

 Ngũ hành là:
- THỦY ở Thái Âm (Cấn và Khôn ở Tây Bắc và Bắc)
- HỎA ở với Thiếu Dương (Tốn và Khảm ở Tây Nam và Tây),
- MỘC ở với Thiếu Âm (Chấn và Ly, ở Đông Bắc và Đông
- KIM ở với Thái Dương (Đoài và Kiền, ở Đông Nam và Nam) - THỔ ở trung ương

Bát Quái là Kiền ở Nam, Tốn ở Tây Nam, Khảm ở Tây, Cấn ở Tây Bắc, Chấn ở Đông Bắc, Ly ở Đông, Đoài ở Đông Nam.
Hai cơ-quan hữu-hình trong nền Đại-Đạo là sự cấu-tạo Càn-khôn thế-giới
1 - Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan quản-trị Càn Khôn:
Lập Đạo kỳ này Thầy chọn đến:
Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị Hiền,Tam Thiên đồ đệ. Các con số này ứng với:
 “Trước khi chưa phân Trời đất, KHÍ HƯ VÔ bao quát càn-khôn, sáng-soi đầy vũ-trụ. Đó là một cái Trung Tâm-điểm tức là ĐẠO. Rồi Đạo ấy mới sanh ra Thái-cực. Hồng-mông sơ khởi, huyền huyền hạo hạo khối lại thành ngôi Thái-cực, rất đầm-ấm lưng-chừng trong đó toàn là một khối, đúng mấy muôn năm bùng nổ ra tiếng dường như thiên khuynh điạ khúc, thì đã có Thầy ngự trong ngôi THÁI-CỰC; rồi có một tầng ÂM  và một tầng DƯƠNG gát chồng nhau thành hình chữ thập ló ra bốn cánh gọi là LƯỠNG-NGHI sanh ra TỨ TƯỢNG. Chữ thập mới dần dần quay lộn chạy lăn tròn như chong-chóng, lăn tủa ra muôn ngàn quả tinh-cầu thế giới, chữ thập ấy dưới có bốn cánh bóng kêu là TỨ ÂM, TỨ DƯƠNG tác thành Bát quái là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Bát-quái mới biến-hóa vô cùng, phân định Ngũ hành, Càn-khôn muôn vật. Thái-cực sanh Lưỡng-nghi tức Tam thiên-vị (ba ngôi Trời). Dưới ba ngôi ấy có Tam thập tam thiên (ba mươi ba từng trời) cộng với ba ngôi trên là ba mươi sáu từng trời, nên gọi là Tam thập lục Thiên. Trong mỗi từng Thầy chia chơn-linh, có một vị Đại-La Thiên-Đế Chưởng-quản.

Chỗ Thầy ngự gọi là Bạch-Ngọc-Kinh, là kinh toàn ngọc trắng, rộng cao vòi-vọi, ngoài có Huỳnh-Kim-Khuyết là cửa ngõ bằng vàng ròng cực kỳ mỹ-lệ.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét