Lý Dịch Trong Pháp Chánh Truyền, Hay Pháp Luật Đại Đạo - 1 / 7 (Nữ Soạn giả Nguyên Thủy)

 Thay Lời Tựa.
Ðức Thượng Phẩm dạy về “Pháp Luật vô tư”:
"Pháp luật vốn vô tư, đứng trong chánh giới chơn truyền, nó là Bác ái, Công bình. Thi hành luật pháp đại khái là làm cho cả chúng sanh biết tương thân tương ái trên đường sanh sống và tấn hóa. Vậy phận sự của Pháp Chánh Hiệp Thiên-Ðài là gieo rắc sự Thương yêu trong toàn sanh
chúng: không tư chẳng vị và giúp chúng sanh một cách cận kề; kẻ hung người bạo, kẻ tham người tà, rồi tìm phương nâng đỡ tinh thần họ trở về với chơn lý. Ðó là áp dụng Luật Bác ái. Còn như kẻ dữ nào còn muốn dở lối tà mị, không thể sửa cải được, chừng ấy mới đem Pháp luật thi hành một cách công minh, chẳng vì thương mà trọng, không vì ghét mà khinh, chẳng vì trung trực mà binh, không vì tà vạy mà bỏ. Như thế thì cân tội phước mới chói rạng. Ấy là phương bảo tồn trật tự trước Luật Công bình. Vậy, thực hành cái thuyết Bác ái - Công bình là phận sự của Pháp Chánh Hiệp-Thiên-Đài. Thành thử có khi dùng Ðức để cảm hóa, có khi dùng Pháp luật để khuyên răn, cầu cho kẻ sai lầm giác ngộ chơn lý.

Nhưng chúng ta cũng chẳng khá quên rằng, ngoài Pháp luật của Ðạo, kẻ tu hành còn phải chịu dưới hệ thống thưởng phạt của Luật Nhơn Quả: Lành thì thăng, dữ thì đọa. Sự báo ứng chẳng hề sai chạy mảy may. ‘Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”. Ðó là một điều mà người hành đạo nên lưu tâm cho lắm." (Hạnh Ðường 1973)

Thế nên câu liễn Bộ Pháp Chánh đề rằng:
-  PHÁP luật vô tư đạo giáo từ oai tùng lý,
-  CHÁNH tông bất dịch chơn truyền thiện ác tùy hình.
Nghĩa là: Pháp luật của Ðạo thì vô tư, nhơn từ, oai nghiêm tùng lẽ phải. Chơn truyền của nền Ðạo chơn chánh thì không đổi, việc lành hay dữ tùy mức độ mà có hình phạt.

KHÁI NIỆM VỀ PHÁP LUẬT

TÂN - PHÁP
E:  The new doctrine
F:  La nouvelle doctrine

TÂN PHÁP là nói tắt tên của hai quyển Luật Đạo căn bản: TÂN-LUẬT và PHÁP CHÁNH TRUYỀN.

"Đức Chí-Tôn lập TÂN PHÁP là lập Chủ quyền cho Đạo. Nếu chúng ta biết Đạo và ý-thức rằng Pháp-Luật là do Thiên-ý và Công-lý mà lập ra thì tự nhiên phải tuyệt đối tôn trọng Chủ quyền đó là tuân-hành qui điều PHÁP LUẬT ĐẠI ĐẠO".

PHÁP LUẬT ĐẠI ĐẠO

Pháp-Luật hay là Luật-Pháp?
Bao giờ cũng vậy, Pháp-Luật dường như luôn có sự phản khắc giữa Đạo và Đời.
- Về phần Đạo: trí thức tinh-thần nhơn-loại nhìn nơi vô biên, biết Càn Khôn Vũ-trụ tức là cơ-quan tạo-đoan nó định luật cho khối người, thành ra PHÁP là chủ của Luật; tức là Pháp có trước Luật có sau nên gọi là PHÁP LUẬT.

- Về cơ-quan Đời tức là cơ-quan xu-hướng theo cái sống, định-luật được rồi, mới tìm-tàng giải-pháp đặng thi hành LUẬT, định Pháp-hình để bảo-vệ Luật, thành ra Luật có trước, Pháp có sau, gọi là LUẬT PHÁP.

Do vậy, khi Chí-Tôn vừa khai Đại-Đạo là đã lo lập ngay PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN, đồng thời dạy các Chức sắc nhóm họp Hội-Thánh để lập TÂN-LUẬT. Thế nên Pháp Luật Đại-Đạo dùng làm qui củ chuẩn thằng, phép khuôn, duy có Pháp-Chánh-Truyền để truyền Chánh-Pháp và Tân Luật gọi chung là PHÁP LUẬT ĐẠI  ĐẠO.

Điều quan trọng là ngày 13-8-Bính Dần (Samedi, 18 Septembre 1926) Thầy quyết định: từ đây trong nước Nam duy có một Ðạo chơn thật là Ðạo Thầy đến lập, để lời rằng

* Thầy có việc nói cùng chư Môn đệ:
- Các con! Thầy đã lập thành THÁNH-THẤT; nơi ấy là nhà chung của các con; biết à !
- Thầy lại Qui Tam Giáo lập TÂN LUẬT, trong rằm tháng mười có Đại hội cả Tam Giáo nơi Thánh Thất. Các con hay à!
- Sự TẾ TỰ sửa theo "Tam Kỳ Phổ Ðộ" cũng nơi ấy mà xuất hiện ra; rõ à!
- Thầy nhập BA CHI lại làm một là chủ ý qui tụ các con trong Ðạo Thầy lại một nhà. THẦY làm CHA CHƯỞNG QUẢN; hiểu à!
- Từ đây trong nước Nam duy có một Ðạo chơn thật là Ðạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là "QUỐC ĐẠO", hiểu à!”

Xem thế, thì PHÁP-LUẬT ĐẠI ĐẠO là điều tối yếu, tối trọng của mọi người: từ Tín-đồ đến chư Chức sắc, xem nó như là một nhu cầu, là một sự chờ đợi, là niềm tin tưởng được đặt vào đó làm đòn cân Công-lý, là điều cần thiết không thể không có được, Thầy đã dạy rõ:

 “… Nó có ảnh-hưởng đến Thiên-phong Phật-sắc của các con”, bởi vì: chẳng Luật-lệ thì trái phép, mà trái phép thì thế nào vào  BẠCH-NGỌC-KINH cho đặng”.

Hơn nữa, trong cuộc sống hiện-hữu đây nó là “hàng rào, cây gậy” cho mỗi nhơn-sanh nương theo đó mà lần bước đến thang mây, đồng thời để cho Chức-sắc Hành Chánh-Đạo do theo đó mà dắt-dìu  nhơn-sanh cho  khỏi sa chân trái bước.

PHÁP-LUẬT chính là đèn và gương soi vậy.

Nếu hỏi Đạo mà phải có PHÁP có LUẬT để làm gì?
- “Thầy vì sợ phàm tâm tục tánh lập Luật Pháp rất nghiêm đặng đủ quyền-hành buộc cả Hội-Thánh, nghĩa là thân thể thiêng-liêng hiệp-hòa làm một:
- LUẬT thì có Tân-Luật,
- PHÁP thì có Pháp-Chánh-Truyền,
- QUYỀN  thì có Tòa-Tam-giáo.

Ấy là: cái còi, cây gậy, hàng rào thiêng-liêng đặng lùa cả các chuồng chiên của Thầy hiệp một” (PCT)
 “Trong xã-hội ấy định phương-pháp đặng lập cái đại thể gia đình của toàn một sắc dân. Đại-gia-đình của một sắc dân gọi là gia-đình, xã-hội, tướng diện của hai bên đó !

 “Do nơi BÁC-ÁI và CÔNG BÌNH: những phương pháp của các vị Giáo-chủ lập Pháp-Luật trong các Tôn giáo, cốt-yếu mở đường chỉ nẻo, chỉ cho nhơn-loại đi lên hiệp cùng chơn-tướng và chơn-pháp của Đạo-giáo tức nhiên là tín-ngưỡng THỜ NGƯỜI và THỜ TRỜI, luật pháp duy có BÁC ÁI, CÔNG BÌNH mà thôi.

Đức Phật Thích-Ca nếu nói Ngài không Bác-ái, Công-bình thì Đạo giáo không Công bình sao !
Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn dạy:
 “Phàm Pháp-Luật lập thành đều tùng sở dụng, buộc kẻ chung công hiệp trí tác thành một cơ-sở vĩ-đại, Đông Tây tương-thân tương-ái. Bởi cớ mà Pháp Luật vẫn nhiều mặt đặc biệt cùng nhau, tùy theo phương dụng, chẳng thế dùng một mặt Pháp-Luật nào mà thay thế vào một cơ-sở khác hành-vi cho đặng, cần thì mới lập, còn vô ích thì bỏ. Vậy các Pháp Luật của Chí-Tôn đã đào-tạo đều hữu-ích cho cơ-quan hành-động cho Chánh giáo của Người, một cái dấu bỏ ra cũng chẳng đặng. Hễ tùng thì Đạo thành, còn nghịch thì Đạo diệt. Cả thảy Hội Thánh chưa ai đặng quyền ra khỏi ngoại Luật. Chúng ta vâng theo mới đắc thành quyền-hành Hội-Thánh, thảng có một người nghịch thì làm rối loạn Chơn  truyền. Kẻ nghịch cùng Thế đạo thì trục ngoại xã hội hay là diệt tàn cho khỏi lưu hại, còn kẻ nghịch cùng Đạo-pháp thì tội trục ngoại Thánh Thể Chí Tôn hay là có ngày quyền Thiêng-liêng diệt thác. Chúng ta từ đây coi kẻ phạm Pháp Luật như thù địch của Đạo, dùng phương trừ khử. Bần Đạo đã thọ Sắc lịnh Ngọc-Hư lo Chuyển Pháp, thì không phương tha thứ điều phạm bao giờ. Từ đây Hội-Thánh Ngoại giáo giữ nghiêm Pháp-Luật. Bần-Đạo xin để lời cầu-khẩn cùng Giáo-Tông và Hộ-Pháp cũng để lòng lo phương trừ hại, đừng vì BÁC ÁI- TỪ BI  vị  nễ”.
                   [ Ngày 03-03-Quí-Dậu  (dl:  26-5-1933) ]

Thầy cũng đã nhắc-nhở: “Trường đời có ấm lạnh, cũng như lẽ Đạo có thạnh suy, mà cùng cực cái thạnh ắt lại suy, cùng cực cái suy ắt lại thạnh. Mà cái thạnh của Đạo thì vô cùng, người thường không phương thấu-đáo. Chơn-truyền Luật-pháp là bất di bất dịch, ai sửa cải chơn truyền Luật-Pháp ắt bị tội chẳng sai, dầu là địa-vị gì đi nữa. Thầy phong thưởng chúng nó đặng ắt thầy hình phạt chúng nó cũng đặng vậy”.

Chính đây là Thiên Luật. Vậy Thiên Luật là gì ?
1 - THIÊN LUẬT 

(Thiên là trời, Luật là luật lệ, phép tắc được đặt ra để mọi người đi theo con đường ấy cốt yếu giữ an ninh, trật tự). Thiên Luật đây là Luật Trời do Đức Thượng Đế đến mở Đại Đạo là cốt yếu chấn chỉnh lại phong hóa, kỷ cương cho toàn thế giới. Nếu không thì cái đà xuống dốc như vầy không khỏi tiêu diệt trong một sớm một chiều nào đây !.
Ngày 20-10-Bính Dần (Thứ tư: 24-11-1926)

Đức Chí Tôn dạy: "Lương tâm  của các con  là một  khiếu thiêng  liêng của Thầy ban để sửa trị  riêng các  con  trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức; làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi THIÊN LUẬT; phải quấy Thần Thánh chỉn chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc. Khá biết lấy!”

Nhưng:
“Điều trọng yếu như TÂN-LUẬT ngày nọ thì Lý Giáo Tông hội cùng chư Thánh mà lập thành, chớ Thầy chưa hề biết đến, chỉ ngày nào đã dâng lên cho Thầy thì nó thành Thiên-Luật mà thôi. Hễ Thiên Luật thì phải vô tư, tỉ như Thiên-điều, dầu cho chính mình Thầy là Chí-Tôn cũng chẳng vị tình. Bởi cớ ấy mà khi lập PHÁP CHÁNH TRUYỀN, Thầy không lập Hiệp-Thiên-Đài một lượt với Cửu-Trùng-Đài, e cho cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài ra ngoại luật. Thầy lại để cho các Chức-sắc ấy dự hội lập Luật cùng chư Chức sắc Cửu Trùng Đài thì phàm thân của họ cũng phải dưới quyền luật lệ như mọi người vậy.

Hội-Thánh hiệp nhau lập TÂN-LỤẬT cũng như cả Thập Nhị Khai Thiên lập LUẬT.
Thập nhị Khai Thiên lập Luật giao lại cho Thầy, còn Hội Thánh lập Luật cũng giao lại cho Thầy. Vậy thì TÂN LỤẬT với THIÊN ĐIỀU cũng đồng giá trị.
- Dầu Hộ-Pháp phạm luật cũng bị đòi đến Toà Tam Giáo bên Cửu Trùng Đài thì Thiên phẩm mình dường như không có, kể như một người Đạo hữu kia vậy.
- Còn Giáo Tông nếu phạm tội cũng phải bị đòi đến Tòa Hiệp Thiên Đài thì cũng chẳng khác một người Tín đồ kia vậy. Hội Thánh hiệp nhau lập Luật Đạo thì cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hội lập Thiên điều. Vậy thì Hội Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đồng một thể. 
2 - Pháp-Chánh-Truyền và Tân- Luật  
là Thiên-điều tại thế.

Đức Hộ-Pháp giải rõ: “Muốn cho xã-hội loài người trong thế-giới này đạt được mức quân-bình tuyệt-đối thì phải có sự công-bình được lập lại bởi cán cân Công-lý, mà xã-hội loài người từ xưa đến giờ chưa có Công bình thật sự. Ngày nay Thiên Thơ đã định cho nước VIỆT NAM này có được cán Cân Công-lý do bởi tay THƯỢNG-ĐẾ đến cầm đòn cân định vận-mạng cho Việt-Nam và cả nhân loại. Cho nên khi mở Đại-Đạo Tam Kỳ Phồ-Độ, Đức Chí Tôn lập ngay PHÁP CHÁNH TRUYỀN và TÂN-LUẬT tức là Thiên-điều tại thế để điều-hành guồng máy Hành chánh-đạo hầu bảo thủ Chơn truyền và Công-bình Thiên Đạo vì nếu thiếu Pháp Luật thì còn gì là Đạo nữa !".

Nhưng hiện tại:
 “Cái Công-lý của nhơn-loại bây giờ là Công-lý giả, vì bởi công-lý giả ấy, cho nên mới có trường hỗn loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, phải họ đem công-lý về mặt tinh thần quả quyết, đặng cân phân cùng các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu này, nếu Cân Công chánh ấy thiệt tướng của nó thì thiên-hạ không có tương tàn tương-sát với nhau, ngày nay máu sông xương núi, họ dùng lời, dùng tiền thực hiện công-chánh đặng lòe-loẹt nghĩa lý công chánh của họ, con người chưa có đoạt đặng công-chánh thật sự vì cớ con người chưa có mặt luật CÔNG-BÌNH BÁC-ÁI dưới thế gian này. Bởi cớ cho nên Đức Chí Tôn buộc cả con cái của Ngài nhứt là Thánh-Thể của Ngài thi-hành cho được thiệt tướng. Bởi vậy có câu Thánh-Ngôn của Ngài nói:
"Ngày giờ nào các con dòm thấy một lẽ bất công nào nơi mặt thế gian này thì ngày giờ ấy chưa thành Đạo".

Như thế:“Pháp-Chánh-Truyền và Tân Luật cốt để bình tâm thiên hạ đặng để gỡ tội cho kẻ có tội-lỗi: phạm mà không biết thú tội trước mặt người và trước phép thiêng-liêng. Định Pháp-Luật ấy cũng là sợi dây thiết tỏa liệng xuống Âm-quang cho kẻ tội nhơn nắm nó mà phăng về thiêng liêng cựu cảnh chớ chưa phải là Chơn-luật và Chơn pháp…Toàn Thánh-Thể Đức Chí-Tôn nếu biết thì nắm quyền luật thiên-nhiên ấy, ngày giờ nào thiên-hạ được Yêu thương nhau nồng-nàn, thì giờ ấy quyền Đạo là quyền tối thượng nơi mặt thế đó”  (Thuyết-Đạo II / 98)

Đức Hộ-Pháp nói: “PHÁP CHÁNH TRUYỀN ở trong cuốn THIÊN THƠ  mà ra,  còn  CHÚ GIẢI    phân quyền hành, Quyển Thiên Thơ Đức Chí Tôn đã để tại thế gian nầy. Ngài giao cho con cái của Ngài gìn giữ mà làm của báu không gì bằng: tức là “THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN”. Trong quyển Thiên Thơ nầy, ngày kia có sản xuất nhiều cơ quan khác trọng yếu nữa chớ không phải một cơ quan Phước Thiện mà thôi. Mấy con cứ mạnh dạn trả lời: “Pháp Chánh Truyền Hộ-Pháp và Giáo-Tông lấy trong Thánh Ngôn mà ra; thì Phước Thiện, Phạm Môn nó cũng ở trong THÁNH NGÔN của Đức Chí Tôn dạy lập ra chớ không có chi gọi là lạ”.

Ấy là phần xuất xứ của PHÁP CHÁNH TRUYỀN. Đây, một lần nữa xác định Thánh Ngôn Hiệp-Tuyển chính là Bộ THIÊN-THƠ của nền Đại Đạo mà Đấng Chí-Tôn đã ban cho Đức Quyền Giáo Tông  nắm phần hành:
 “Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
“Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên”

CHƯƠNG   I

PHÁP CHÁNH TRUYỀN
E: The religious constitutional laws of Caodaism
F: Lois constitutionnelles religieuses du Caodaïsme

A - Định nghĩa:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN là HIẾN PHÁP ĐẠI-ĐẠO:
(Trích: Chánh Trị Đạo của Ngài Khai Pháp)

Trước hãy định nghĩa Hiến Pháp là gì ?
- Theo nghĩa thông thường: Hiến Pháp là một bản văn kiện ghi chép những Luật lệ căn bản qui định sự tổ chức quyền chánh trị trong một nước và bảo vệ các công quyền của toàn thể công dân.

PHÁP CHÁNH TRUYỀN của Ðạo là một bản văn kiện do Huyền diệu Cơ Bút của Ðức CHÍ TÔN truyền dạy, qui định sự tổ chức của nền Ðại Ðạo, sắc phục của chư Thiên Phong: đẳng cấp, quyền hạn của chư Chức sắc cầm quyền chánh trị, hầu giữ vững chơn truyền của nền chánh giáo, không cho có sự xâm phạm, giữ gìn cho cơ Ðạo khỏi qui phàm.

B - Hiến Pháp có hai lọai:
1 - Bất thành văn Hiến Pháp: Ngày trước không có Hiến Pháp, chỉ có các điều lệ do phong tục, tập quán, vì thời gian mà biến thành. Bởi nguyên căn của nguồn gốc do sự biến thiên của tập tục và không văn kiện làm bằng chứng cho nên thường bị xâm phạm. Vì thế về sau, muốn cho nó được tôn trọng, cần phải biên chép thành Hiến Chương gọi là Hiến Pháp.
2 - Thành văn Hiến Pháp:  Là thứ Hiến Pháp lấy từ chương làm căn bản, được thông dụng trong các nước, vì nó ấn định một cách minh bạch quyền hạn của chánh phủ, công nhận và bảo đảm các quyền tự do chánh trị cùng tự do dân sự của nhân dân.

Hiến Pháp thành văn lập thành do nhiều cách:
- Do Vua ban.
- Do sự cam kết giữa Vua và dân.
- Do Quốc Hội Lập Hiến làm ra.

PHÁP CHÁNH TRUYỀN thuộc về loại Hiến Pháp thành văn và lập thành theo cách thứ nhứt, song có điều khác nhau với Ðời là Hiến Pháp do Vua ban hành; còn Pháp Chánh Truyền do Ðấng CHÍ TÔN dụng quyền năng Thiêng Liêng của Huyền diệu CƠ BÚT mà truyền thế”.

C - SO SÁNH CÁC TÁNH CHẤT CỦA HIẾN PHÁP
  PHÁP CHÁNH TRUYỀN

1 - Hiến Pháp khác với Pháp luật thường:
Thường, trong một nước sau khi lập quốc, lập tức Chánh Phủ triệu tập một Quốc Hội Lập Hiến, để lập Hiến Pháp, do theo dân nguyện. Xong rồi, Quốc Hội Lập Hiến giải tán, để triệu tập Quốc Hội Lập Pháp, chỉ có quyền hạn lập thành các Pháp Luật thường để thi hành Hiến Pháp thôi.

Trong nền Ðạo, có ba Nghị-Hội hiệp lại làm cơ quan cho quyền Vạn Linh, ba Hội ấy, quyền hạn tương đồng như Nghị Hội Lập Pháp, chỉ lập Pháp Luật thường do nguyện ước của Nhơn sanh, đặng thi hành chơn truyền chánh giáo là Pháp Chánh Truyền.

2 - Cang tánh Hiến Pháp và nhu tánh Hiến Pháp:
- Khi Nghị Hội Lập Pháp không có quyền sửa đổi Hiến Pháp thì Hiến Pháp ấy gọi là cang tánh Hiến Pháp (Constitution rigide).
-Trái lại, khi Nghị Hội Lập Pháp sửa đổi Hiến Pháp đặng, như các pháp luật thường thì Hiến Pháp ấy gọi là nhu tánh Hiến Pháp (Constitution souple).

PHÁP CHÁNH TRUYỀN thuộc về loại cang tánh Hiến Pháp, bởi nó bất di bất dịch, bất khả xâm phạm và Ba Hội Lập quyền Vạn Linh không có quyền sửa cải.

3 - Hiến Pháp đại yếu và Hiến Pháp chi tiết:
- Những bản Hiến Pháp nào nói tỉ mỉ về sự tổ chức các cơ quan, các ty, các sở, như Hành Chánh, Tư Pháp ....gọi là Hiến Pháp chi tiết. Thứ Hiến Pháp nầy rất bất tiện, vì phải sửa đổi luôn, mà sửa đổi Hiến Pháp là một điều phiền-phức.
- Còn Hiến Pháp đại yếu, chỉ nói những điều thật bao quát. Các điều lệ chi tiết để cho Nghị Hội Lập Pháp tùy nghi ấn định cho hợp thời. PHÁP CHÁNH TRUYỀN thuộc loại Hiến Pháp đại yếu.

Kết luận:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN là Pháp Luật chơn chánh được Đức Chí Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng cơ truyền dạy để làm căn bản Lập GIÁO, tổ chức và điều hành nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

PHÁP CHÁNH TRUYỀN được xem là HIẾN PHÁP của Đại Đạo do Đấng Chí Tôn dụng quyền năng Thiêng Liêng qua HUYỀN DIỆU CƠ BÚT mà truyền thế, nên có tính cách cố định, bất di bất dịch, truyền đến Thất ức niên.

D - Các hình thức Pháp Chánh Truyền:
Ngay sau Ðại Lễ Khai Ðạo Rằm tháng 10 năm Bính Dần  (Vendredi, le 19-11-1926) Ðức Chí Tôn dạy rằng:
 “Ðêm nay các con phải thành tâm cầu nguyện đặng ngày mai Thầy lập PHÁP CHÁNH TRUYỀN nghe à.!”

* Sau Ðại lễ Khai Ðạo ngày 15-10-Bính Dần tại Thánh Thất tạm đặt tại Từ Lâm Tự Gò Kén- Tây Ninh, Ðức Chí Tôn liền lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài Nam phái vào ngày 16-10-Bính Dần (dl: 20-11-1926).

* Đức Lý Thái  Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm.
Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài NỮ PHÁI vào ngày 11-01-Đinh-Mão (dl: Thứ bảy, 12-02-1927) đồng thời Đức Giáo Tông ban sắc phục cho Nữ phái.

* Đức Chí Tôn giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền HIỆP THIÊN ĐÀI vào ngày 12-01-Đinh Mão (dl: Chúa Nhựt: 13-02-1927).

Thế là trọn vẹn, tạo thành HIẾN PHÁP: có tổ chức để điều hành toàn bộ Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Phần thực hiện.
1 - Pháp Chánh Truyền Chú Giải:

Pháp Chánh Truyền là văn bản tổng quát tổ chức nền Ðạo Cao Ðài: đó là Hiến Pháp của Ðạo, cho nên Ðức Lý Thái Bạch- Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông ÐẠI-ÐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ, truyền lịnh cho Ðức Hộ Pháp Chú giải tỉ-mỉ từng chi tiết để cho Chức sắc hai Ðài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng dễ thi hành, có Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ hiệu đính, gọi là Pháp Chánh Truyền Chú Giải, tạo thành Hiến Pháp bất di bất dịch của Đạo Cao Ðài.

Ðức Lý Giáo Tông nói rõ trong Ðạo Nghị Ðịnh thứ 6, ngày 3-10-Canh Ngọ (1930) như sau:
Nghị Ðịnh: "Hai vị Thiên phong Giáo Tông và Hộ Pháp phải điều đình Hiến Pháp, sửa trị Ðài mình cho hiệp Pháp-Chánh-Truyền, nên đồng ký tờ nầy mà ước hẹn."

2 - Tính cách quan trọng
của PHÁP CHÁNH TRUYỀN CỬU-TRÙNG-ĐÀI:

Cửu Trùng Đài là cơ-quan rất quan-trọng của Ðạo Cao Đài vì Cửu-Trùng-Ðài tượng trưng thể xác của Ðạo. Nếu không có thể xác là hình ảnh của Cửu-Trùng-Ðài thì không phổ thông được Chơn Đạo của Thầy; tất nhiên những Tôn chỉ qúi hóa của nền Đại-Đạo không thể hiện  được nơi cõi trần nầy,  là không thi hành được Bí pháp.

Theo lời thông báo mở Đạo của Đức Quyền Giáo Tông:  Ông ERNEST OUTREY trả lời rằng:
* Tôn-chỉ của Cao-Ðài-Giáo là mưu cuộc HOÀ BÌNH THẾ GIỚI cho các dân tộc. Nếu quả thật như vậy, thì ai là người biết điều mà còn dám đứng lên phản đối một cái lý thuyết tối cao như thế !”.

Thật ra không chỉ bấy nhiêu, mà còn  rất  nhiều  điều:
* Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là thờ Trời và các Đấng Thần- Thánh- Tiên- Phật hầu cầu xin cứu rỗi cho các chơn linh quá vãng được siêu thăng và cầu nguyện cho nhơn loại được thái bình”.

* Tôn-chỉ của Đại-Đạo ngày nay là gồm cả ba nhà Đạo chánh là Nho –Thích - Đạo. Chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm MỘT, nên chi chúng ta tu theo Đại Đạo thì phải noi theo Tôn-chỉ của Tam Giáo. TU mà gồm được cả ba thì là gần Thần,Thánh,Tiên, Phật. Phải năng thực hành:
- Giữ  Tam Cang Ngũ thường (Nho-giáo)
- Vẹn gìn Tam qui Ngũ giới (Phật-giáo)
- Luyện Tam bửu Ngũ hành (Tiên-giáo)

* Tôn chỉ của Đạo Cao-Đài là “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” nên hình thức biểu hiện rõ rệt:  
- Tín-ngưỡng  thì thờ TRỜI và thờ NGƯỜI.
- Về Luật-pháp là thực thi BÁC-ÁI và CÔNG-BÌNH.
- Mục-đích là đưa nhân-loại tấn-hoá trên con đường CHÂN-THIỆN-MỸ. Chung qui dầu ở nơi Tôn-giáo nào cũng lấy TÂM làm gốc: Các Tôn-giáo đã  dạy  đời  những gì, đó chính là Tôn-chỉ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ. 

* Tôn-chỉ của Ðạo là truyền bá cho nhơn sanh khỏi lầm đường lạc lối và cũng phải có đại hùng đại lực mới gánh vác nỗi trách-nhiệm lớn lao của Ðại-Ðạo ngày nay.      

3 - Pháp Chánh Truyền HIỆP THIÊN ĐÀI:

Khi Chí-Tôn đến Lập Pháp-Chánh-Truyền giao cho Hiệp-Thiên-Đài gìn-giữ trong đó có diệu-pháp của Chí Tôn đến lập vị cho con cái của Người tại thế-gian này. Ngài mượn xác thịt của con cái Ngài tổng hợp lại cho có trật-tự, có đẳng-cấp tức nhiên là lập Thánh-Thể của Ngài; các phẩm-trật có liên quan với các phần-tử, tức nhiên Hội Thánh tổng hợp lại là Thánh-Thể của Ngài, mà hễ đạt quyền được tức nhiên về với Ngài được. Ấy vậy, Pháp Chánh Hiệp-Thiên là phương định vị, lập quyền đặng  hiệp một  con cái của  Chí Tôn cùng Chí Tôn vậy”.

Thế là trọn vẹn, tạo thành Hiến Pháp tổ chức điều hành toàn bộ Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

4 -  Pháp Chánh Truyền NỮ PHÁI:
Nữ phái là nguồn sống của Đạo. Nay Đức Chí-Tôn mở Đại Đạo ban cho một sự bình quyền giữa Nam Nữ là một vinh dự lớn cho Việt Nam và cả nhân lọai nữa. Nữ Phái đứng vào cơ Hòa, trùng hợp với mục đích của Đạo:
 “Cơ Đạo của Chí-Tôn đến lập buổi Hạ nguơn Tam Kỳ Phổ-Độ này duy lấy một chữ HOÀ làm tôn-chỉ: có hòa mới có hiệp, có hiệp mới có Thương-yêu, mà sự Thương yêu là chìa khóa mở cửa Tam Thập Lục Thiên, Cực-lạc thế-giới và Bạch Ngọc-Kinh y như lời Đức Chí Tôn đã dạy, chỉ nghĩa là phải Từ-bi, Bác-ái mới đắc Đạo vô-vi,  phải HOÀ HIỆP mới có cơ qui nhứt”.

5 - “Chư Môn Ðệ ham muốn phong TỊCH”:
Thầy dạy: “Các con, phần nhiều chư Môn Ðệ ham muốn phong Tịch, nhưng chưa hiểu phong Tịch là gì ? Thầy để lời cho các con biết rằng: Nhiều Thánh, Tiên, Phật, xuống phàm nếu căn quả tiền khiên không mấy trọng hệ, nghĩa là kiếp trần duyên không chi phải nhơ bợn nhiều, thì dầu  không Thiên Phong  hễ  gắng tâm  thiện  niệm  thì địa vị cũng đạt hồi đặng.

Thiên Phong là để cho bậc Thánh, Tiên, Phật, lìa trần phải lắm dày công cùng sanh chúng mới trông mong hồi cựu phẩm đặng. Các con nên nhớ Thầy lấy từ bi phong TỊCH, nhưng các Chức Sắc nếu vì ÁO MÃO hơn vì đạo đức thì tội chất bằng hai.

Lại nữa:“Mỗi Kỳ Phổ Độ đều có mở một cuộc ÂN XÁ, mở cửa dễ dàng cho các đẳng chơn hồn có đủ phương lập vị. Nền Đạo này là Cơ Đại-Ân-Xá tận độ chúng sanh nên Cao-Đài xưng là ĐẠI-ĐẠO. Vì chủ-nghĩa tối cao của Đại Đạo chẳng những là Qui Tam-Giáo Hiệp Ngũ Chi mà thôi, mà phải làm thế nào dầu bậc Đế Vương ngoài thế cũng phải bái phục, phải tùng Đạo, phải dò theo các cơ thể của Đạo, phải nhờ Đạo mới mong trị an thiên hạ đặng.
- Vậy mới gọi là  HIỆP NHỨT!
- Vậy mới gọi là  ĐẠI-ĐẠO !

ĐẠI-ĐẠO ngày nay cũng là Phật-Đạo vì gồm hết Tam giáo NHO- THÍCH- ĐẠO và Thích-Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích-Ca”.

6 - Sự yếu trọng của Pháp Luật:
Riêng về Pháp Chánh Truyền thì như thế: có đủ Âm Dương, Tam Tài vẹn vẻ. Giờ đây khi Chí-Tôn lập Pháp Chánh Truyền xong thì Thầy cho con cái của Ngài tự lập TÂN LUẬT để tu, tức nhiên có đủ Trời-Người thống hiệp: người trị xác, Trời trị hồn. Xem đó cũng thấy rằng:
-  PHÁP CHÁNH TRUYỀN thì bất di bất dịch,
- TÂN LỤẬT có thể thay đổi tùy theo sự tiến hóa của nhơn sanh, nhưng cũng thay đổi trong qui luật đã định.

Thế nên: Pháp Chánh Truyền là Dương; Tân Luật là Âm. Âm Dương hòa-hiệp, luôn hòa quyện vào nhau trong cái lý “Nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo” là vậy. Xen vào giữa là Pháp Chánh Truyền Chú Giải, phải chăng đây cũng là cơ Hòa, để hiệp thành Tam Tài không bao giờ thiếu. Lý ấy xem như đan khít vào nhau một cách chặc-chẽ như tấm lưới. Càng xét nét càng thấy đó là “Lưới Trời” do câu: “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”.

7 -  Giá trị của PHÁP LUẬT.
Lời tựa Pháp Chánh Truyền nói rằng: “Nghĩ vì cơ huyền vi mầu-nhiệm của Đạo có THIÊN ĐIỀU cũng như cơ đời có Luật-Pháp chơn-truyền để chế ngự những dục vọng bất chánh mà ở cõi nào và đời nào cũng có, nếu không có gì chế-ngự thì sự điều-hòa tốt đẹp của cơ tạo hóa sắp đặt có thể mất đi mà chớ ! Nên khi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn đã lập ngay một PHÁP CHÁNH TRUYỀN và TÂN LUẬT để điều-hành guồng máy Hành Chánh-Đạo hầu bảo-thủ Chơn-truyền và Công bình Thiên Đạo, kèm theo Pháp Luật còn có Thánh Ngôn và Giáo điều dạy bảo.

Muốn lập một nền Đạo lớn lao như Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có khả năng truyền giáo đến thất ức niên mà không lập PHÁP thì làm sao điều-độ được một số giáo-đồ quá đông gồm gần toàn thể nhân-loại. Bởi thế nên quyển PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN này cần được tục bản mãi mãi, kỳ này hết tới kỳ khác, để lấy đó làm căn-bản cho các giáo đồ noi theo mà hành-đạo hoặc giữ-gìn cho trọn tư cách người Đạo đến cùng, không ai phạm Luật Đạo và không sai đường lạc lối. Mặc dầu không Luật-Pháp nào được gọi là hoàn bị cả, nhưng Luật-Pháp nào cũng đều phải ấn định ít nhứt những đại-cương và nguyên-tắc chẳng hạn như: Luật Công bình giữa người với người thì phải có nguyên tắc bất di bất dịch là: “Kỷ sở bất dục vật thi ư  nhân” (cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác).

Ví dụ: nếu mình muốn được tự-do thì đừng làm mất tự-do của người khác).
 “Tuy nghe rất đơn-giản nhưng không còn cách giải thích nào đúng hơn nữa. Luật-pháp rất cần ích cho sự điều hòa trật-tự trong xã-hội. Nó lại còn cần-ích hơn nữa cho Đạo vì nếu thiếu Pháp Luật thì khó tránh sự hỗn loạn. Mà nếu trong Đạo có sự hỗn-loạn thì còn gì là Đạo lý !

 “Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền cho Đạo tức là lập CHỦ QUYỀN cho ĐẠO đó vậy. Nếu ai có tinh thần xây dựng nền Đạo thì tất nhiên phải tôn-trọng chủ quyền đó. Cũng nhờ chủ-quyền đó mà HỘI-THÁNH là hình thể Đức Chí-Tôn tại thế mới có đủ quyền-hành để thể thiên hành-hóa. Tuy nhiên, quyền ĐẠO có khác hơn quyền đời là vì nó do sự THƯƠNG YÊU mà có, chớ không phải dùng ÁP LỰC  để chế-ngự người ta.

 “Pháp-Luật đã do Thiên-lý và Công-lý mà lập ra, thì tự-nhiên phải tuyệt-đối Công-bình, không còn sự chênh lệch nào đối với toàn thể bổn đạo. Vì trong ĐẠO từ trên tới dưới, từ nhỏ tới lớn đều có qui luật định phân, lớn không giành quyền nhỏ, nhỏ không lấn quyền lớn. Nếu cứ chiếu luật thi-hành thì toàn đạo được điều-hòa êm-ái và guồng máy Hành-Chánh-Đạo cứ tiến hành theo luật-định thiên nhiên không còn gì trở ngại.”

Thầy khẳng định: “Thầy tưởng chẳng còn nói, nếu ai là đạo-đức, đọc đến cách lập PHÁP của Thầy mà chẳng mừng giùm cho nhân-loại. THẦY buộc mình hứa cùng Ngọc-Hư-Cung rằng: Nếu Đạo còn, thì Thầy cũng theo gìn các con. Các con coi lời Thầy trọng-hệ là dường nào ! Như biết coi ĐẠO trọng, thì cả tinh-thần các con cũng nên tom góp vào mỗi điều đó mà trông-cậy nơi Thầy lập PHÁP”.

CHƯƠNG II

I -  Ðức Chí Tôn  lập Pháp Chánh Truyền
CỬU TRÙNG ĐÀI NAM PHÁI
[ Ngày 16-10-Bính Dần (dl: 20-11-1926) ]

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
viết  CAO ÐÀI Giáo Ðạo Nam Phương
Hỉ Chư Môn Ðệ.
Chư Minh Lý có mặt há?
Thầy mừng các con, Chư Môn Ðệ nghe:
Thầy lập phẩm GIÁO TÔNG nghĩa là Anh Cả các con, có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.

Thầy mừng các con ! Chư Môn Ðệ nghe: Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giới đặng cầu rỗi cho các con, nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng !
CHƯỞNG PHÁP của ba phái là: ĐẠO- NHO- THÍCH; Pháp luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mắt Thầy vốn coi như một vậy, thì một thành ba, mà ba cũng như một. Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành; hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống hay là nơi Ðầu Sư dâng lên. Như hai đàng chưa thuận thì chúng nó phải dưng lại cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống sửa lại, hay là tùy ý lập Luật lại. Vậy chúng nó có quyền xem xét Kinh điển trước lúc phổ thông, như thoảng có Kinh luật chi làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ chẳng cho xuất bản. Buộc các Tín Ðồ vùa sức mà hành sự trước mặt Luật đời, Thầy khuyên các con rán xúm nhau mà giúp chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng, ba ấn phải có đủ trên mỗi Luật mới đặng thi hành.

Chư Môn Ðệ tuân mạng !
ÐẦU SƯ có quyền cai trị phần Ðạo và phần Ðời của Chư Môn Ðệ. Nó đặng quyền lập Luật, song phải dâng cho Giáo Tông phê chuẩn. Luật lệ ấy phải xem xét một cách nghiêm nhặt coi phải có ích cho nhơn sanh chăng ! Nên Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.

Chúng nó phải tuân mạng lịnh GIÁO TÔNG, làm y như luật lệ Giáo Tông khuyến dạy; như thoảng luật lệ nào nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh thì chúng nó đặng phép nài xin hủy bỏ. Thầy khuyên các con phải thương yêu nhau và giúp đỡ nó, Thầy lại dặn các con: Như có chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó. Ba Chi tuy khác chớ quyền luật như nhau, như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả BA đều ký tên không tuân mạng, thì Luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông. Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa, chúng nó có ba cái ấn riêng nhau, mỗi tờ giấy chi chi phải có ẤN mới thi hành nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng !.
PHỐI SƯ mỗi phái là mười hai người cộng là ba mươi sáu, trong 36 vị ấy có ba vị CHÁNH PHỐI SƯ. Ba vị ấy đặng thế quyền cho ÐẦU SƯ mà hành sự, song không quyền cầu phá luật lệ nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng.!
GIÁO SƯ có 72 người, trong mỗi phái là 24 người. Giáo Sư là người để dạy dỗ chư Môn Ðệ trong đường Ðạo với đường Ðời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em, chúng nó cầm sổ bộ của cả Tín Ðồ. Chúng nó phải chăm nom về sự Tang, Hôn của  mỗi đứa.

Như tại Châu Thành lớn, thì mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy như thể Ðầu Sư và Phối Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về Luật lệ làm hại nhơn sanh, hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó phải thân cận với mỗi Môn Ðệ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng.!
GIÁO HỮU là người để phổ thông chơn Ðạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ Ðạo. Ba ngàn Giáo Hữu chia ra đều mỗi phái một ngàn, chẳng đặng tăng thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng phép khi hành lễ làm chủ các Chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. Ðiều chi chúng nó xin thì buộc GIÁO TÔNG phải cần mẫn xét nét hơn hết, như điều gì mờ hồ thì chúng nó là kẻ sai đi kiểm duyệt. Chúng nó phải đủ hạnh đức, tư cách mới đặng, vì chúng nó là người thân cận với nhơn sanh hơn hết... nghe à.!

LỄ SANH là người có hạnh lựa chọn trong chư Môn Ðệ để hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi Khai đàn cho mỗi Tín Ðồ. Thầy dặn các con hiểu rõ rằng: Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. Như vào đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua hàng Chức Sắc. Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới đi khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à.!

Chư Môn Ðệ tuân mạng.!
... Con khá an lòng chờ đợi, Thầy sắp đặt NỮ PHÁI, công con Thầy chẳng quên, con chớ rầu buồn. Thầy còn lắm điều sắp đặt, con đừng vội mà ngã lòng nghe à !.

Tiếp theo, ngày 17-10-Bính Dần:
THẦY

- Ðầu Sư  muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ 3 vị công cử.
- Phối Sư  muốn lên Ðầu Sư thì nhờ 36 vị kia công cử.
- Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì nhờ 72 vị xúm nhau công cử.
- Giáo Hữu  muốn lên Giáo Sư,  thì  nhờ  3000  vị  xúm nhau công cử.
- Lễ Sanh  muốn lên Giáo Hữu, thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.
- Môn Ðệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả Môn Ðệ xúm nhau công cử, kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.

Còn GIÁO TÔNG thì hai phẩm Chưởng Pháp và Ðầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn Môn Ðệ công cử mới đặng; kỳ dư Thầy giáng Cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi. Chư Môn Ðệ tuân mạng.!
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.”

Tóm tắt về Hệ thống tổ chức Cửu Trùng Đài:
Cơ quan Cửu Trùng Đài có ba cấp kể từ trên xuống là: Tiên vị, Thánh vị, Thần vị. Mỗi cấp như vậy gồm có ba phẩm và có phần đối phẩm, theo bảng tóm tắt sau:
- Tiên vị: Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư
- Thánh vị: Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu
- Thần vị: Lễ Sanh, Bàn Trị Sự, Tín đồ.

Nếu nhìn vào ba cơ quan của nền Đại Đạo thì:
- Bát Quái Đài dưới quyền Đức Chí Tôn chưởng quản ấy là cơ quan LẬP PHÁP.
- Cửu Trùng Đài dưới quyền Đức Giáo Tông Chưởng Quản ấy là cơ quan HÀNH PHÁP
- Hiệp Thiên Đài dưới quuyền Đức Hộ-Pháp Chưởng Quản ấy là cơ quan TƯ PHÁP

II - Đức Chí-Tôn lập
PHÁP CHÁNH TRUYỀN HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 12-01-Ðinh Mão (dl: 13-2-1927 )

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
Giáo Đạo Nam phương

Các con. Cả chư môn đệ khá tuân mạng !
Hiệp Thiên Đài là nơi THẦY ngự cầm quyền thiêng liêng mối Ðạo. Hễ Ðạo còn thì Hiệp Thiên Ðài vẫn còn.

Thầy đã nói Ngũ Chi Ðại Ðạo bị qui phàm là vì khi trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà lập ra Phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa.

Lại nữa, Hiệp Thiên Ðài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế giới, Lục thập bát Ðịa cầu, Thập Ðiện Diêm Cung, mà cầu siêu cho cả nhơn loại.
Thầy đã nói sở dụng thiêng liêng, Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.
Hiệp Thiên Ðài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm.
Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân chia làm ba:

1 . Phần của HỘ PHÁP chưởng quản về PHÁP thì:
- HẬU là Bảo Pháp, (1)
- ÐỨC là Hiến Pháp,
- NGHĨA là Khai Pháp,
- TRÀNG là Tiếp Pháp,

Lo bảo hộ Luật đời và Luật Ðạo, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết.

2 - THƯỢNG PHẨM thì quyền về phần ÐẠO:
- CHƯƠNG là Bảo Ðạo,
- TƯƠI là Hiến Ðạo,
- ÐÃI là Khai Ðạo,
- TRỌNG là Tiếp Ðạo, (2)

Lo về phần Ðạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm Luật đến khổ khắc cho đặng.

3 . THƯỢNG SANH  thì lo về phần ÐỜI:
- BẢO THẾ thì  PHƯỚC
- HIẾN THẾ - MẠNH
- KHAI THẾ - THÂU
- TIẾP THẾ - VĨNH

Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo.
Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền ắt trọng phạt. Thầy ban ơn cho các con”.

Luận: Bài Thánh Ngôn nầy, Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài, ngày 12-01-Ðinh Mão (dl: 13-02-1927) và phong chức chánh thức cho Thập Nhị Thời Quân mà trước đây Ðức Chí Tôn chỉ tạm phong là: Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ.

Chức sắc cầm quyền Hiệp Thiên Ðài gồm có:
- Chưởng quản HIỆP THIÊN ĐÀI và Chưởng quyền Chi PHÁP là Ðức HỘ-PHÁP  PHẠM CÔNG TẮC.        
Phụ Tá Hộ Pháp có Thượng Phẩm và Thượng Sanh:
- Ðức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư Chưởng quyền chi Ðạo
- Ðức Thượng Sanh Cao Hoài Sang Chưởng quyền chi Thế.

Dưới Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh có Thập nhị Thời Quân, chia ra ba Chi: Pháp- Ðạo -Thế.
* Chi Pháp gồm bốn vị Thời Quân:
Nguyễn Trung Hậu - Bảo Pháp 
Trương Hữu Ðức - Hiến Pháp
Trần Duy Nghĩa - Khai Pháp
Trương Văn Tràng - Tiếp Pháp

* Chi Ðạo gồm bốn vị Thời Quân:
Ca Minh Chương - Bảo Ðạo 
Phạm Văn Tươi - Hiến Ðạo
Phạm Tấn Ðãi - Khai Ðạo
Cao Ðức Trọng - Tiếp Ðạo

* Chi Thế gồm bốn vị Thời Quân:
- Bảo Thế: Lê Thiện Phước
- Hiến Thế: Nguyễn Văn Mạnh.
- Khai Thế: Thái Văn Thâu.
- Tiếp Thế: Lê Thế Vĩnh.

(1) Bảo là giữ gìn; Hiến là dâng; Khai là mở, bày ra; Tiếp là rước. Ông Cao Ðức Trọng đắc phong Tiếp Ðạo sau hết.

Chú giải:
Theo ÐS.II. 11-12, để dự bị Thập nhị Thời Quân, ÐỨC CHÍ TÔN lập 6 cặp Phò loan, phong là Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo sĩ, gồm:

1 - Trương Hữu Ðức - Nguyễn Trung Hậu: Phò loan tại đàn Cầu Kho (nhà của Ông Ðoàn Văn Bản).
2 - Trần Duy Nghĩa -Trương Văn Tràng: Phò loan tại đàn Lộc Giang (Phuớc Long Tự Chợ Ðệm, sư trụ trì: Yết Ma Giống)
3 - Phạm Văn Tươi - Ca Minh Chương: Phò loan tại đàn Tân Kim (nhà Hội Ðồng Nguyễn Văn Lai, xã Tân Kim, Cần Giuộc)
4 - Nguyễn Thiêng Kim - Phạm Tấn Ðãi: Phò loan tại đàn Long Thành Tự ở gần Chợ Rạch Kiến, Cần Ðước).
5 - Huỳnh Văn Mai - Võ Văn Nguyên: Phò loan tại đàn Thủ Ðức (nhà của Ông Ngô Văn Ðiều, gần Chợ Thủ Ðức).
6 - Nguyễn Văn Mạnh - Lê Thiện Phước.

Khi lập Pháp Chánh Truyền HIỆP THIÊN ĐÀI, ba vị Phò loan: Nguyễn Thiêng Kim, Huỳnh Văn Mai, Võ Văn Nguyên không đến dự, nên ba vị nầy không được vào Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Ðài. Ðức Chí Tôn phong cho ba vị khác là: Thái Văn Thâu, Lê Thế Vĩnh, Cao Ðức Trọng.

Ngài Cao Ðức Trọng được Ðức Chí Tôn phong sau cùng khi Ðức Chí Tôn bảo Ðức Hộ Pháp lên Nam Vang mở đạo. Tại Nam vang, Ðức Hộ Pháp phò loan cùng Ngài

Cao Ðức Trọng, để Ðức Chí Tôn giáng thâu môn đệ.
Ngài Cao Ðức Trọng được Ðức Chí Tôn ân phong Tiếp Ðạo ngày: 29-6-Ðinh Mão (dl: 27-7-1927).

Đặc biệt: Đạo Cao Đài ngày nay thông công (tức  liên lạc) với các Ðấng thiêng liêng qua CƠ BÚT của Hiệp Thiên Ðài để tham khảo ý kiến hay nhận mệnh lệnh.
- Lục thập bát Ðịa cầu là  Ðịa cầu Thứ 68 mà nhơn loại đang sinh sống trong số Thất thập nhị Ðịa. Dưới Ðịa cầu số 68 còn 4 quả địa cầu nữa, gọi là U Minh Ðịa.
- Thập Ðiện Diêm Cung là 10 Cung Ðiện của 10 vua Diêm Vương (Thập Ðiện Diêm Vương).
- Sở dụng là Sự quan trọng về công dụng của nó.

Tại sao chi Đạo và chi Pháp Thầy lại để tên của Chức sắc trước, phẩm tước sau? Riêng chi Thế thì phẩm tước trước, tên Chức sắc sau?

Đức Thượng Sanh nói: Các bậc hiền thời xưa đựơc có cái tiết tháo như vậy là nhờ biết phân biệt cái tước của Trời cho và cái tước của người cho: Nhân-Nghĩa, Trung-tín, vui làm điều lành không mỏi là cái tước của Trời cho, tức là Thiên tước. Công khanh, đại-phu là cái tước của người cho, tức là Nhơn tước. Người xưa lo sửa cái Thiên-Tước thì cái Nhơn tước theo sau và được bền bĩ. Người đời nay chỉ lòe mình có cái Thiên tước để cầu lấy cái nhơn-tước; khi đã được cái nhơn tước rồi thì dẹp bỏ cái thiên-tước không nói đến nữa. Như thế thì thật là qúa nông-nỗi vì rốt cuộc thành ra mất hết, cái nhơn tước cũng không giữ được bao lâu!”
 (Huấn-từ của Đức Thượng-Sanh nhân lễ tấn-phong Hiền-Tài. 08-02-Canh -Tuất (dl: 15-03-1970).

Đấy cũng là lý Âm- Dương thuận nghịch đó vậy !
Chi Đạo (Dương), chi Thế (Âm- Đời của Đạo). Âm Dương tương hiệp. Chi Pháp là cơ Hòa. Hiệp đủ Tam tài.

III - Ðức Lý lập Pháp Chánh Truyền.

Nữ PHÁI - Cửu Trùng Ðài.
Thánh giáo ngày 8-6-Bính Dần (Samedi 17 Juillet 1926)

Thầy dạy thành lập Nữ phái:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
Giáo Đạo Nam Phương.

“Ðường Thị ! Thầy giao phe Nữ cho con lập thành. Chẳng phải vì đờn bà mà sớm nồi cơm, chiều trã cháo hoài.

Phần các con truyền đạo kỳ Phổ-Ðộ nầy cũng lắm nặng nề; bao nhiêu Nam tức bao nhiêu Nữ; Nam biết thành Tiên Phật chớ Nữ lại không sao ? Thầy đã nói Bạch Ngọc Kinh có cả Nam và Nữ, mà phần nhiều Nữ lấn quyền thế hơn Nam nhiều.

Vậy con phải tuân lịnh Thầy mà lập thành NỮ PHÁI. Nghe và tuân, Thầy hằng ở với con, lo chung cùng con; con chớ ngại.

H... Thầy giao Nữ Phái cho con rộng quyền dạy dỗ, làm chủ, chờ Thầy thâu đến mà giao cho con, trách nhậm con Thầy sẽ chia bớt với”.

Tây Ninh, vào ngày 11-01-Đinh-Mão (Thứ Bảy, 12-02-1927) Đức Lý lập Pháp Chánh Truyền Nữ phái, đồng thời Đức Lý Giáo Tông cũng ban sắc phục cho Nữ phái.
THÁI BẠCH

NỮ PHÁI
 (Trích y Thánh Ngôn của Giáo Tông Lý Thái Bạch)

Nữ phái vốn của Ðức Lý Giáo Tông lập thành.
Hộ Pháp nhắc lại lời Thầy nói cùng Chánh Phối Sư HƯƠNG THANH rằng: muốn phế Nữ Phái, song con cũng đồng con, hễ bao nhiêu Nam tức cũng bao nhiêu Nữ; Nam, Nữ vốn như nhau, nên Thầy đến phong cho Nữ Phái buổi lập Pháp Chánh Truyền, chẳng hiểu có điều chi huyền bí với Thầy cùng Ngọc Hư Cung nên Thầy mới đành lòng nói ra lời ấy, rồi lại cam lòng để cho Ðức Giáo Tông đứng lập đặng tránh cho khỏi luật lệ Thiên Ðiều hay chăng ? Hễ càng suy nghĩ lại càng thêm sợ hằng ngày. Xem lại Nữ Phái không biết trau giồi trí thức đặng làm trách nhậm cho xứng vị mình, thì lại càng âu lo thêm nữa    Chính mình Cao Thượng Phẩm mới giáng cơ nói rằng nhờ Ngài cầu xin tha thứ cho Nữ Phái nơi Ngọc Hư, bằng chẳng thì đã bị phế; xin chư Ðạo Tỷ để dạ lo lấy phận mình.

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ phái; nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp".

CHÚ GIẢI: Ðức Giáo Tông đến kêu Hội Thánh Nam Phái nói rằng: Từ đây phải xem sắc tốt của Nữ Phái Ngài đến ban đặng hành lễ theo đẳng cấp.
Cái tiếng sắc tốt không, dầu ai đọc đến cũng thầm hiểu nghĩa lý sâu xa.(1)

Giáo Tông duy chỉ dặn xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp, ấy là Ngài buộc phải có trật tự cho lắm, vì vậy mà cũng chính mình Ngài đến lập lệ Nam Nữ phái phân biệt nhau, chẳng đặng chung hiệp nhau về phần xác và phần hồn cũng vậy.

Hộ Pháp có hỏi Ngài về sự tôn ti phẩm trật, thì Ngài dạy rằng: Nam Nữ vốn đồng quyền, còn hỏi về Lễ Nghĩa giao thiệp về phần Ðời, thì Ngài dạy Giáo Hữu Nam Phái cũng chịu dưới quyền Giáo Sư Nữ Phái (2), còn lễ thì khi vào Ðại Ðiện tỷ như Giáo Sư Nam Phái gặp Phối Sư Nữ Phái thì Nam phải đảnh lễ Nữ trước, lớn nhỏ vẫn đồng, quyền hành tùy Chức Sắc.

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Nữ Phái phải tùng Ðầu Sư Nữ Phái song Ðầu Sư lại phải tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp.

CHÚ GIẢI: Hội Thánh Nữ Phái phải tùng quyền Ðầu Sư Nữ Phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo Tông và Chưởng Pháp.

Xem rõ lại thì Pháp Chánh Truyền truất quyền Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông.

Hộ Pháp để lời phân phiền cùng Thầy như vầy: Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất quyền của Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng

Pháp và Giáo Tông, thì con e mất lẽ công bình chăng?

Thầy dạy: Thiên Ðịa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn Khôn Thế Giái nhờ Dương thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương quang đã tuyệt, Âm khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn Thế Giái phải chịu trong hắc ám, mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ Phái cầm quyền Giáo Tông làm chủ nền Ðạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Ðạo ắt bị tiêu tàn ám muội.

Hộ Pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy truất quyền Giáo Tông Nữ Phái thì đã đành, song quyền Chưởng Pháp thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.

Thầy dạy: "Chưởng Pháp cũng là Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng Ðài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị Giáo Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa vị Hộ Pháp, con ! Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt thòi, lẽ Thiên Cơ đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương yêu binh vực thay Thầy kẻo tội nghiệp !”

Chú thích: (1) Nếu chư Hiền Hữu biết coi Nữ Phái như em thơ dại, chỉ biết mến đẹp ham xinh, liệu phương dụ dỗ như Lão vậy mới đặng làm trai con  Thầy mà chớ.  (2) Phải vậy. !

IV - LUẬN ĐẠO

Như trên cho thấy rõ Pháp-Chánh-Truyền Cửu Trùng Đài Nam phái (tượng Âm) được lập trước, kế đến lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài (tượng Dương); như vậy là Thể pháp đến trước, Bí pháp đến sau; Âm trước, Dương sau.

Đây là Đạo Trời thì Âm- Dương là chỉ hai quẻ: CÀN (thiên), KHÔN (địa), từ đó mới phát khởi. Song song, thì Đức Lý lập Pháp Chánh Truyền cho Nữ phái Cửu Trùng Đài, ấy là cơ HÒA, hoàn thành con số 3 ứng với Tam Tài thật là mầu nhiệm.

I - Tại sao phải Âm trước Dương sau?
  Một:  là thành quả của quẻ  ĐỊA THIÊN THÁI
Trên là KHÔN tức nhiên khí Âm từ trên giáng xuống; dưới là CÀN khí Dương từ dưới bốc lên, hai bên giao hòa, thế mới gọi là THÁI, là hanh thông, Càn Khôn giao nhau, lấy Âm bao Dương, vạn vật  mới sanh sanh hóa hóa.

- Hai là mở Thể pháp trứơc, mở Bí pháp sau, theo lời của Đức Hộ Pháp nói: "Trong thời kỳ Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí-Tôn xuống thế mở Đạo thì Đức Chí Tôn mới hỏi rằng:     

. Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí Pháp trước hay là mở Thể-Pháp trước ?
. Bần-Đạo mới trả lời:  - Xin mở Bí-Pháp trước!

Chí-Tôn nói: Nếu con mở Bí-pháp trước thì phải khổ đa ! Đang lúc đời đang cạnh-tranh tàn-bạo, nếu mở Bí-pháp trước cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại, thì mối Đạo phải ra thế nào ? Vì thế nên mở Thể-pháp trước, dù cho đời quá dữ có tranh giành phá hoại cả cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại. Xin miễn là mặt Bí-Pháp còn là Đạo còn”.
[ĐHP:  30-5-Quí-Tỵ (1953)]

Đức Ngài dạy rằng:
 “Phải hiểu THỂ PHÁP, biết Thể pháp, rồi mới thấu đến BÍ-PHÁP. Khó lắm ! Phải để tinh-thần tìm hiểu cho lắm! Khó lắm ! Phải rán học cho lắm mới có thể đoạt đặng! Điều rất khó-khăn là phải viết sách”  (ĐHP: 5-4 Kỷ-Sửu)

Như vậy:
 “LUẬT của Đạo, cốt yếu làm cái khuôn khổ cho đại gia đình này còn, tức là làm cho nên chí Thánh; có nghĩa là ĐỨC CHÍ-TÔN muốn tạo cho con cái của Ngài thành THÁNH thì phải làm sao?
- Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch-sẽ làm cho thiên-hạ muốn gần, vì đáng tôn sùng yêu-ái mà gần. Hình-luật Tam-giáo là nước Cam-Lồ để tắm rửa linh-hồn vậy. Chơn truyền từ trước đến nay Đức Chí-Tôn để tại mặt thế trên các Đạo: Phật- Tiên- Thánh là phương để gội rửa linh-hồn”.   

Thế nên trong cửa Đại Đạo ngày nay đâu đâu cũng thấy chữ “THÁNH” như Thánh Thất, Thánh Thể Chí-Tôn, Tòa Thánh, Thánh địa…Vậy thì người sống trên Thánh Địa này cũng  phải có Tâm Thánh; đó là điều quan trọng.

2 - Vậy Thánh là gì ?
- Phân tích chữ THÁNH có ba phần: phần trên hết hợp bởi chữ nhĩ (nhĩ là lỗ tai, tai để nghe) kế đến chữ khẩu (khẩu là miệng, miệng để nói); nghe là học, nói là hành; tức là “Tri hành hiệp nhứt” dù khi còn học hay khi ra thực hành cũng được mọi người khen tặng, nễ vì như một vì VƯƠNG (vương  là vua). Trong chữ Vương lại có Càn 3 nét, ấy là Tam Tài: Thiên- Nhân- Địa, đó vậy. Tức nhiên chữ Vương đặt ở dưới hai chữ nhĩ và khẩu đã nói trên, họp lại là chữ THÁNH là người tài đức thông hiểu mọi việc
Luận về Tài Đức, Bát Nương Diêu Trì Cung dạy:
Tài lấn đức tài mau diệt tận,
Ðức đồng tài, tài phấn khởi thêm.
Mênh mông biển khổ con thuyền,
Ðạo sơ đức kém ngửa nghiêng sóng trần.
Ỷ tài sức cậy thân dựa thế,
Tài càng nhiều càng lụy đến thân.
Tài kia tai nọ luôn vần,
Ðức tài trau luyện đồng cân mới mầu.
Trăm năm một cuộc bể dâu !

Tố Như Tiên sanh là cụ Nguyễn Du dạy đời qua hai câu:
“Thiện căn ở tại lòng ta,
“Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài"

Ở người tài ba, đạo đức cao thượng thì ba nét (Tam tài) này là phải đạt cho được những điều tối yếu:
    - Trên thông thiên văn,
    - Dưới đạt địa lý,
    - Giữa quán nhân sự.

Lại nữa chữ vương thì nét trên là thiên, dưới là địa, nét giữa là nhân; là  phải thông suốt, chữ Thập  ở giữa là sự quán thông thiên địa. Chúa Cứu Thế chết ở chữ Thập này.

Nếu giải chữ THÁNH qua bốn chiều không gian, thì chữ THANH đứng vào trung tâm, tức nhiên điều cần yếu là phải tự thanh lọc, đạo đức, rồi từ đó biết hướng thượng là nên THÁNH. Dẫu làm việc gì cũng THÀNH, được thành công bởi đã noi theo căn bản tốt đẹp thì THẠNH bình, thạnh vượng. Vậy là tâm hồn THẢNH thơi, hạnh phúc.
3 - Thánh Thể CHÍ TÔN khởi từ GIÁO HỮU  教友
Trong cửa Đại Đạo ngày nay Giáo Hữu đã vào Thánh-vị, đối phẩm ĐỊA THÁNH nên Pháp Chánh truyền qui định:
“Giáo-Hữu là người để phổ-thông Chơn Đạo của Thầy” nhưng Thầy buộc:
-  Phải học cho lảu thông Chơn Đạo của Thầy.
-  Phải có khoa-mục mới đặng.
-  Phải thể Đạo cho xứng đáng Tôn-chỉ của Đạo.

“Cái phận sự phổ thông là một phận sự lớn lao quí trọng, nếu chẳng biết tôn chỉ của Ðạo cho thông suốt, lại đem xuống truyền bá cho nhơn sanh những tư tưởng nghịch cùng chơn lý của Ðạo, là hại Ðạo. Huống chi Thầy đã nói GIÁO HỮU là người thân cận của nhơn sanh hơn hết, nếu chẳng lựa chọn kẻ hạnh đức, tu tâm, có đủ tư cách mà bày gương Ðạo cho rõ ràng, nhơn sanh chỉ để mắt vào đó mà khen, hay là chê Ðạo, vì sự chơn thật, hay là giả dối, nhơn sanh chỉ coi đó mà quyết đoán. Trò phải như Thầy, mà Thầy thế nào Trò phải thế ấy, nhơn sanh xem Trò mà đoán Thầy. Cái thể thống của Ðạo Thầy gọi là chơn thật thì phải hành Ðạo thế nào cho ra chơn thật y như Thầy sở định. Bực trí thức, muốn quan sát một nền Ðạo nào, thì chẳng cần biết hết Chức Sắc, chỉ lựa một phẩm vị yếu trọng hơn hết là bực hạ thừa, mà so sánh tư cách, hạnh đức, đặng quyết đoán tôn chỉ nội dung của Tôn Giáo ấy.. Muốn cho xứng đáng thì phải thông suốt cả các chơn lý Ðạo”. (PCT)

GIÁO HỮU là người phải đạt Tam Tài như trên đã nói. Vì sợ e rằng còn khiếm-khuyết, chưa đầy đủ nên mới “buộc”. Ở vào thời-kỳ còn buộc tức là còn nghi ngờ, chờ sự kiểm điểm, khảo-duợt, lọc lừa, nên ứng với lời chiếm của hào Sơ Cửu quẻ CÀN là  “Tiềm Long vật dụng”.

Vật dụng tức là chớ dùng. “Chớ dùng” đây là vì vấn đề trọng-yếu chớ không phải không dùng được, vì tính cách hào Sơ Cửu quẻ Kiền là Dương cương ở vào vị Dương được đắc chính, cho nên phẩm Giáo-Hữu chỉ được dạy bạn mà thôi, ở vào thời “Chớ dùng”, cho nên phải:
- Tích-luỹ tài năng, đức độ cho được cao dày: sáng chói hơn, vững-vàng hơn, thông suốt nhiều hơn.
- Chờ sử dụng cho đúng với địa vị và quyền hành thích đáng hơn;
- Chờ đúng thời-gian, đúng lúc, vì mỗi phẩm cấp phải đủ năm năm công quả mới được thăng lên phẩm kế tiếp, với điều kiện công nghiệp không gián đoạn.

GIÁO-HỮU, là một phẩm cấp đầu tiên bước vào hàng THÁNH, là nền tảng của Đại Đạo nên Chí Tôn đã chủân bị kỹ lưỡng. Từ đây những phẩm kế tiếp cứ theo cái đà tiến triển đó mà tiến dần vừa là TÀI NĂNG vừa là ĐỨC HẠNH thì tương lai sẽ có một HỘI THÁNH HÒAN TÒAN TỐT ĐẸP, lo gì nền Đại Đạo này không phổ biến khắp năm châu như Thánh Ý của Thầy truyền đến ĐẠI ĐỒNG THẾ GIỚI trong Thất ức niên tuổi Đạo..

Thánh Ngôn:“Hiệp-Thiên-Đài còn chưa muốn nhìn, thì ĐẠO một ngày kia cũng sẽ bị chối. Thầy tìm phương sửa cải cũng đáng đó chút ! Nhưng cũng bởi chư Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho rõ cơ ĐẠO của thế-gian này, nên Thầy không giáng cơ mà phân-giải lại nữa. Các con đã chịu một trách-nhiệm nơi mình, nếu Thầy chẳng để cho các con học tập mà lập nên địa-vị mình trước mặt chúng sanh cho xứng-đáng, thì Đạo cũng chưa ra vẻ Đạo. Vì vậy mà Thầy chịu ép lòng để cho các con hằng nhớ rằng: Chẳng giờ phút nào Thầy xa các con hết.  Nghe à!
THI
Cậy kẻ dạy con cũng lẽ thường.
Cho roi cho vọt mới là thương.
Nhơn-tình ví chẳng mưu thâu-phục,
Thế-giới mong chi phép độ lường.
Nhỏ dại Thầy nuôi mùi đạo-hạnh,
Lớn khôn bây xứng mặt hiền-lương,
Vinh-hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,
Khổ cực các con chớ bỏ trường.!

V - PHÁP CHÁNH TRUYỀN CHÚ GIẢI VỀ

QUYỀN HÀNH của GIÁO TÔNG
A - Pháp Chánh Truyền: Giáo Tông là ANH CẢ các con
LUẬN: Trong nền Đạo có hai Giáo Tông là hai Anh Cả:
- Một về vô vi: là Đức Lý Thái Bạch Kim Tinh,
- Một  hữu hình là Quyền Giáo Tông Lê văn Trung

Cả hai đều là ANH CẢ của nhơn sanh được tôn tặng.
Đức Hộ-Pháp nói: đêm nay 17-8-Quí Tỵ (1953): Vía Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Ðức Giáo Tông chúng ta lấy làm hân hạnh nhờ ơn Ðức Chí Tôn ban cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng Liêng hiển linh, quyền năng vô đối.

Chữ Hán gọi ANH là Huynh trong chữ huynh có hai phần: trên là chữ khẩu là cái miệng để nói, dưới là bộ Nhơn đứng . Thế thường, Anh là người chỉ có quyền dùng lời nói dạy bảo em. Khi cha mẹ còn tại tiền thì Anh là “Quyền huynh thế ngôn”, khi cha mẹ mãn phần thì Anh là “Quyền huynh thế phụ”; nghĩa là trong nền Đại Đạo, Đức Chí-Tôn muốn cả thảy xem nhau như ruột thịt.

CHÚ GIẢI: “Giáo Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại thế, thì ANH CẢ nhơn sanh đặng dìu dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi, quyền Thiêng Liêng đã định vậy.

Tuy trong Hội Thánh có chia ra hai phần hữu hình là: "Cửu Trùng Ðài" và "Hiệp Thiên Ðài" mà nơi Hiệp Thiên Ðài, dầu cho Hộ Pháp cũng phải là em của Giáo Tông, song Hộ Pháp phải nhỏ về phần hữu hình đã nói trên đây, chớ phần Thiêng Liêng thì đồng vị”.

LUẬN: Về thiêng liêng thì đồng vị, nên: đồ hình bên đây biểu tượng bằng hai hình tam giác đều (suy từ hai quẻ Càn Khôn ) cùng nội tiếp trong vòng tròn. Nhưng:
- Hộ Pháp tượng tam giác đỉnh quay lên, vì Hiệp Thiên Đài  (Đạo- Dương quẻ Càn).
- Giáo Tông tượng tam giác đỉnh quay xuống, vì là Cửu Trùng Đài (Đời- Âm quẻ Khôn)

Xem ra: Đời (Âm), Đạo (Dương) tức nhiên trong Âm có Dương và trong Dương có Âm, gọi là “Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn” luôn luôn là qui luật, ấy là ĐẠO- ĐỜI tương đắc (nhưng Đời đây là Đời trong Đạo, phân biệt với đời của đời có khác nhau xa).
- Giáo Tông lớn ở dưới (Anh Cả - đỉnh dưới của tam giác)
- Hộ-Pháp nhỏ mà ở trên (Em- đỉnh trên của tam giác).

Thượng Đế ngự vào tâm để chứng minh quyền Thiêng Liêng là tối thượng. Tam Kỳ Phổ Độ này Đức Thượng Đế là Giáo Chủ về vô vi. Ngài đến ban quyền Chí Tôn tại thế cho hai ông Chủ của hai Đài hữu hình là Giáo Tông và Hộ-Pháp: khi hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế.

Ngày nay, Thầy đến chia đôi quyền CHÍ TÔN ra:
- GIÁO TÔNG chỉ có quyền dìu dẫn con cái của CHÍ TÔN về phương châm giáo hóa, chánh trị cho thuần phong mỹ tục, thay quyền cho CHÍ TÔN trong đường Ðạo và đường Ðời mà thôi .
- Còn HỘ-PHÁP có đặc quyền gìn giữ luật pháp, bảo thủ chơn truyền; gìn giữ ngôi vị cho con cái CHÍ TÔN, không cho loạn hàng thất thứ.

Phương pháp ấy CHÍ TÔN rất công bằng và còn chia đôi cho lưỡng quyền không thể chuyên chế để áp dụng mà hà hiếp con cái của Người.

Thánh Ngôn: “Khai Thiên Ðịa  vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy. Thầy đã nói một Chơn Thần mà biến Càn Khôn Thế giới và cả nhơn loại.

Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật”.

PCT: Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.

CG: Giáo Tông đặng đồng quyền cùng Thầy mà dạy dỗ cả chư Môn Ðệ của Thầy trong đường Ðạo-đức, dìu bước từ người, chăm nom săn sóc cho khỏi phạm Thiên Ðiều, thì là buộc tuân y TÂN LUẬT. Ấy vậy dầu cho phẩm vị nào phạm tội; thì Giáo Tông cũng chẳng vì tình riêng gọi là tha thứ khoan dung, để lòng che chở, làm cho kẻ phạm phải mất Thiên-vị, lại gây điều đố kỵ của nhơn sanh, làm cho nhẹ giá trị của nền Chánh Giáo. Những sự đau thảm khó khăn của Tín Ðồ tức là chúng sanh, những sự khổ hạnh của Hội Thánh, nghĩa là hàng Chức Sắc Thiên Phong, thì Giáo Tông phải liệu phương che chở an ủi làm cho đời khổ não hóa ra đời hạnh phước; người nắm trọn quyền thể Thiên hành hóa, ấy là phận sự tối cao tối trọng của Ðức Giáo Tông đó.

PCT: Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.

CG: Hễ nói về phần xác là nói phần hữu hình, mà nói về phần hữu hình của chúng sanh tức là nói về phần Ðời. Còn như nói về phần hồn tức là phần Thiêng Liêng ấy là phần Ðạo.

Trên đây Thầy đã nói rằng: Có quyền dìu dắt trong đường Ðạo và đường Ðời, thì Thầy đã chỉ rõ rằng, có quyền dìu dắt cả các con cái của Thầy trên con đường Ðạo Ðức của chính mình Thầy khai tạo và trên con đường Ðời cơ Ðạo gầy nên; chớ chẳng phải nói trọn quyền về phần Ðạo và phần Ðời, nghĩa lý phân biệt nhau duy có chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN,xin rán hiểu đừng lầm hai chữ ấy”

LUẬN ĐẠO:
1 - Phân biệt  chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN:

Đường Đạo Thầy mở ra ngày nay là con đường “phản bổn hòan nguyên” ấy là ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO. Đặc biệt là Thầy đến ban cho nền ĐẠI ĐẠO này thêm hai Bát Quái nữa làm hành trang cho bước đường trở về:

Đây là nói đến hai Bát Quái Cao Đài:
 (Xem khai  triển các Bát Qúai. Trang:  68- 82)

Ấy là nhiệm vụ của Đức  Giáo Tông  hữu hình đó:
- “Có quyền dìu dắt cả các con cái của Thầy trên con đường Ðạo-đức của chính mình Thầy khai tạo”, nghĩa là dẫn dắt “con cái của Thầy” phải đạt cho được BÁT QUÁI HƯ VÔ, chính là đường trở về để hiệp nhứt với Thượng Đế  là Đức Chí-Tôn - Đại Từ Phụ.
 (Bát Quái luyện Đạo trên Áo Tiểu phục Giáo Tông)

- “Và trên con đường Ðời cơ Ðạo gầy nên” Đó là con đường giáo hóa nhơn sanh, là biểu tượng của BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN, mà quyền hành Giáo Tông đã thể thiên hành hóa, dìu dắt chúng sanh thi hành TAM LẬP: lập Đức, lập Công, lập Ngôn và đạt cho được ba ngàn công quả.

Vì lẽ đây là con “ĐƯỜNG” THIÊN ĐẠO, duy nhứt trong cửa Đạo Cao Đài do Đức Chí-Tôn đến ban thêm  cho hai BÁT QUÁI trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này mà thôi.
Còn trước đây chúng sanh đã biết qua nhiều về  THẾ

ĐẠO hay Nhơn Đạo tức là thực hành hai Bát Quái đã có  từ trước, nhờ đó mà nhân lọai đã văn minh đến tuyệt đỉnh, đây là phần hành của ĐẦU SƯ. Qua hai Bát Quái Tiên Thiên và Hậu Thiên, ấy PCT nhấn mạnh là chữ “PHẦN”:

Nói chung đây là “PHẦN” THẾ ĐẠO tức là gồm cả phần Đạo và phần Đời, cũng có Bí pháp và Thể pháp của Thế Đạo nữa.
Đấy là đã giải rõ về “nghĩa lý phân biệt nhau duy có chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN” .

Tóm lại:
- Giáo Tông nắm hai Bát Quái Cao Đài để thể Thiên hành chánh, là con ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO:
1 - Bát Quái Hư vô: ấy là Đường Đạo, thành Tiên tác Phật
2 - Bát Quái Đồ Thiên là Đường Đời, phụng sự vạn linh.

- Đầu Sư nắm hai Bát Quái Tiên Thiên & Hậu Thiên, mục đích là “Dạy dỗ nhơn sanh làm lành”, PHẦN THẾ ĐẠO, thực hành  Thể pháp và Bí pháp Thế Đạo:

1 - Bát Quái Tiên Thiên: là phần Đạo, giải nguyên lý vũ trụ.

2 - Bát Quái Hậu Thiên:phần Đời, cách sống của con người.
Chú Gỉai: “Ðây là lời Thánh giáo của Thầy đã dạy Hộ Pháp khi Người hỏi Thầy về quyền của Giáo Tông.

Hộ Pháp hỏi: "Thưa  Thầy  theo  như  luật  lệ Thánh Giáo Da-Tô (1) Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về phần hồn và phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Ðạo Thánh mới có thế lực hữu hình như vậy. Ðến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con về phần hồn đi, thì con sợ e cho Người không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng?"

Thầy đáp: "Cười ! Ấy là một điều lầm lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt. Hơn nữa, cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho các con.
Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì chẳng chi hay hơn là chia đôi nó ra, không cho một người nhứt thống.

Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế.

Như Thầy để cho Giáo Tông trọn quyền về phần xác và phần hồn (nghĩa là Ðạo và Ðời) thì "HIỆP THIÊN ÐÀI" lập ra chẳng là vô ích lắm sao con ? "CỬU TRÙNG ÐÀI" là Ðời, "HIỆP THIÊN ÐÀI" là Ðạo, Ðạo không Ðời không sức, Ðời không Ðạo không quyền: Sức quyền tương đắc mới mong tạo thời cải thế, ấy là phương hay cho các con liên hiệp cùng nhau, chăm nom săn sóc lẫn nhau, mà giữ vẹn Thánh Giáo của Thầy cho khỏi trở nên phàm giáo 

(1) Bài Thánh thi của Đức Da-Tô 耶蘇 (Da viết D) có câu:
“DA  nồi thịt xáo hại lòng đau,
“TÔ  cả Năm Châu cũng máu đào”.

LUẬN: “Trước  kia  Ðạo  Thánh, CHÍ TÔN    quá thương Nhơn sanh, đã  giao  phần  hồn  và phần xác cho Ðức Chúa Giê-Giu (Jésus Christ) đủ quyền năng lập Ðạo. Trái lại, Nhơn sanh lợi dụng lẽ thương yêu ấy, nhứt là những kẻ kế vị cho Chúa, vì mang phàm thân nhục thể, thành ra quá lạm dụng quyền tối cao ấy như ngọn gươm bén mà sát phạt con cái của CHÍ TÔN. Chính CHÍ TÔN đã nói: "Vì quá thương mà ban cho". Ngày nay CHÍ TÔN cũng không phải đến lấy lại, mà chỉ chia đôi quyền hành ấy ra cho Giáo Tông và Hộ Pháp.

 “Giáo Tông là người thay mặt cho Ðức CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa dìu dắt toàn thể con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực ngang hàng cùng Thầy, trọn quyền dung nạp tâm lý của toàn thể nhơn loại đặng tạo thành một cơ quan Chánh Trị Thiên Triều, trọn cả đường Ðạo và đường Ðời cho trọn câu Thể Thiên Hành Hóa. Ngôi Giáo Tông là tột bực của loài người, mà chỉ truyền hiền, chớ không truyền tử. Như thế mới có thể lập đời Thánh Ðức trường tồn được”.

2 - Đức Thượng Phẩm nhận định về sự chia quyền:
 “Nếu một thời-kỳ mà Giáo lý đã Thất Chơn-truyền thì đem đến cho nhơn-sanh biết bao tang-thương biến đổi. Cũng vì lẽ ấy mà nay Đức Chí-Tôn giáng trần lập Đạo lại chia hình thể của Ngài ra hai phần để có phương kềm thúc nhau trên bước đường lập vị.

- Phần Cửu-Trùng-Đài chuyên về mặt giáo hóa nhơn-sanh - Còn phần của Hiệp-Thiên-Đài thì lo về mặt Luật Pháp để bảo-thủ chơn-truyền của Đạo. Nhờ đó nền Thánh giáo của Đức Chí-Tôn khỏi phải qui thành phàm-giáo. Cũng vì lẽ quyền-hành riêng biệt ấy mà khiến cho hai bên thường có phản khắc Đạo quyền, bởi tánh phàm thường hay có phạm những lỗi-lầm mà chẳng chịu phục thiện đặng cải sửa cho trở nên tận thiện. Các Em đâu hiểu rằng CHÍ-TÔN giao quyền sửa trị Chức Sắc, Chức việc và toàn Đạo Nam, Nữ cho bên Hiệp-Thiên-Đài là Thánh-ý Đức Chí-Tôn muốn dùng hình phàm đặng làm cho giảm bớt tội vô hình. Nếu ai chẳng thận-trọng để cho phạm vào Pháp Luật mà chẳng chịu pháp sửa trị của Hiệp-Thiên-Đài thì rất uổng cho một kiếp tu mà không trọn phận và đến khi rời bỏ xác phàm rồi làm sao có cơ hội lập công nữa !”.

 PCT: Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu và Thập Ðiện Diêm Cung, đặng cầu rỗi cho các con.

CG: Thầy đã nói, đặng cầu rỗi cho các con thì Thầy đã chỉ rõ rằng, Giáo Tông có phần cầu rỗi mà thôi, chớ phần siêu rỗi là về quyền của Bát Quái Ðài chưởng quản. Ðức Giáo Tông làm thế nào mà thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu và Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu rỗi cho các Tín Ðồ?

Người phải  đến  Hiệp Thiên  Ðài  cầu  huyền  diệu Cơ Bút mới đặng.  Xin trích lục ra đây, đoạn  Pháp  Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài nói về việc ấy:
"Lại nữa  Hiệp Thiên  Ðài là  nơi  của  Giáo  Tông thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu, Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại. Ấy vậy về phần Thiêng Liêng là phần Ðạo, thì Ngài chẳng có quyền  hành chi hết, dầu  cho dâng sớ cầu điều chi cùng Bát Quái Ðài, thì cũng phải do nơi Hiệp Thiên Ðài cả. Hiệp Thiên Ðài là trung gian để liên hiệp Giáo Tông cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật”.

LUẬN:
Đức Cao Thượng Phẩm nói: “Tam Thiên Thế giới là ngôi vị, còn Thất Thập Nhị Địa là trường thi công quả".

“Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Ðịa và Tam thiên Thế giới thì đều là Tinh Tú”. Lục Thập Thất Ðịa Cầu là địa cầu thứ 67, tức nhiên trên trái địa cầu mà nhân loại đang sống là địa cầu 68 trong số 72 địa cầu.Thầy cho biết dầu một vị Đế Vương ở Địa cầu 68 này cũng không bằng một người thường ở Địa cầu 67. Con số càng nhỏ dần là sự yếu trọng cho đến đệ nhứt cầu. Như vậy Giáo Tông được phép thông công cùng “Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giới”, tức là ba mươi sáu từng Trời và bảy mươi hai Qủa địa cầu.

Thầy cho biết là “Tới Hạ tầng Thế-giái, Tam Thiên thế giái, Ba ngàn quả tinh-cầu phân làm Tứ đại bộ châu rồi nối theo Thất thập nhị điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho  đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68”.
Ngày 28-8-Bính Dần (Thứ hai: 04-10-1926)

Thầy dạy: Chúng Nam nghe:
- Thầy Khổng Tử trước có Tam thiên đồ đệ, truyền lại còn Thất thập nhị Hiền.
- Thầy Lão Tử trước đặng một trò là Nguơn Thỉ.
- Thầy Giê-Giu trước đặng Mười hai người, chừng bị bắt còn lại là Pierre mà thôi.
- Thầy Thích-Già đặng bốn người, ba người bỏ Thầy còn lại một.

Còn nay, Thầy giáng thế chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên Ðồ đệ. Các con coi đó mà hiểu rằng, các con có sự mà thiên hạ từ tạo thế đến chừ chưa hề có chăng?

Nơi Bạch Ngọc Kinh, hơn 60 năm trước, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, thấy đại nộ của Thầy, nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời. Thầy coi bọn ấy lại còn làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy vì cớ chi các con biết chăng?

Các con có cả ba Chánh đạo là Tam giáo, các con biết tôn trọng, ngày nay lại thêm Chánh đạo nữa, các con biết ít nước nào đặng vậy! Bị hàng phẩm Nhơn tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước, đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con chịu số phận bần hàn mà không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy. Thầy nói cho các con biết: Dầu một vị Ðại La Thiên Ðế xuống phàm mà không tu, cũng khó trở lại địa vị đặng. Các con nghe à !”

3 - Do những số vi diệu này các Thánh lập Đạo:
- Ðức Khổng Tử  xưa có Tam thiên đồ đệ (3000 học trò),
- Trong đó có Thất thập nhị Hiền  (72 người tài giỏi),
- Trong Thất thập nhị Hiền có Thập Triết (10 Triết gia) và đặc biệt có hai vị Thánh là: Phục Thánh Nhan Hồi, Tông Thánh Tăng Sâm. (Ðời sau có thêm hai vị Thánh nữa là Thuật Thánh Tử-Tư và Á-Thánh Mạnh Tử, hịêp với hai vị Thánh trước nữa gọi chung là Tứ Phối).

Ngày nay lập Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn chọn:
- Nhứt Phật: là một phẩm Giáo Tông, đối phẩm Thiên Tiên hay Phật vị.
- Tam Tiên: là 3 vị Ðầu Sư cho 3 phái, mỗi phái 1 vị,  đối phẩm Ðịa Tiên.
- Tam Thập Lục Thánh: là 36 vị Phối Sư, chia đều mỗi phái 12 vị, đối phẩm Thiên Thánh
- Thất Thập Nhị Hiền: là 72 vị Giáo Sư, chia đều mỗi phái 24 vị, đối phẩm Nhơn Thánh.
- Tam Thiên Ðồ Đệ: là 3000 Giáo Hữu, chia đều mỗi phái 1000 vị, đối phẩm Ðịa Thánh.

Vậy chức sắc Cửu Trùng Ðài Nam phái cả thảy 3112 vị, cộng số (3+1+1+2=7). Số 7 chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình; trong thân người là thất khiếu ở trên đầu, cũng là chỉ Thất tình. Người tu biến thất tình thành thất bửu.

Nếu kể thêm 3 vị Chưởng Pháp nữa (đối phẩm Nhơn Tiên) thì tổng số Chức sắc Cửu Trùng Ðài là 3115 vị. Cộng lại sẽ là  (3+1+1+5= 10)  (tượng thập Thiên can).
Số 10 do 9+1 là số hiền-hòa, lặng-lẽ, an-bình, đầm-ấm

THỰC TẾ NỀN ĐẠO CÓ 3 GIÁO TÔNG:

Pháp Chánh Truyền qui định Giáo-Tông (1 vị) là người đứng đầu Tôn-giáo có trách nhiệm hữu hình là “Anh Cả của con cái Đức Chí Tôn”. Lãnh đạo tối cao toàn Đạo, có phận-sự dìu dắt Đạo Hữu trong đường Đạo và đường Đời. Phẩm này chỉ có  một mà thôi đứng vào hàng  Nhứt Phật; Đối phẩm với Thiên Tiên.

GIÁO TÔNG là người thay mặt cho Ðức CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa, dìu dắt toàn thể con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực ngang hàng cùng Thầy, trọn quyền dung nạp tâm lý của toàn thể nhơn loại đặng tạo thành một cơ quan Chánh Trị Thiên Triều. Ngôi Giáo Tông là tột bực của loài người, chỉ truyền hiền, chớ không truyền tử. 

Tuy Pháp Chánh Truyền qui định chỉ có một phẩm Giáo Tông; nhưng thực tế có đến ba Giáo  Tông:
1 - Giáo Tông Ngô văn Chiêu (bị mất ngôi):
Đức Chí-Tôn dạy: 13-3-Bính-Dần (dl: 24-4-1926):
“Chiêu đã có công tu, lại là Môn-đệ yêu dấu của Thầy, nên Thầy muốn ban chức Giáo Tông cho nó, song vì lòng ám-muội phạm đến oai-linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà dìu-dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy mà dạy-dỗ các con”.  

Tái cầu: “Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn-loại là dường nào! Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội-hiệp cùng nhau, thương-yêu nhau trong đạo đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia-lìa các con là đứa thù-nghịch của Thầy.

“Chiêu đã hữu căn, hữu kiếp: Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục, độ rỗi nó trước các con. Biết bao phen Thầy gom các Môn-đệ lại. Thầy sở cậy nó ấp-yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con. Song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách-nhiệm rất lớn của Thầy toan phú-thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó. Nghe và tuân mạng lịnh Thầy !”.

Thầy dạy (đêm 14 rạng 15 tháng 3 năm Bính Dần (25 và 26-4-1926):
 “Chiêu, thiếu đức, thiếu tài.
 “Trung, con sợ ai?  - TA không sợ ai ! TA biết hơn ngươi. TA há không biết thương sao ?
 “Ấy cũng vì thiếu đức. Nó đã biết TA. Cứ tuân lời  THẦY đã truyền mà thi-hành !

Cao-Đài:  ngày 26 Avril 1926:
 “Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh TA, Ai kiên? TA chờ ngươi. Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh TA, ai thừa lịnh ? TA đã nói ngươi làm đầu Tam-giáo, đã bao phen TA lập Đạo sẵn cho, ngươi chê há? TA đã sở định, ngươi dám cải:
Chuyên quyền từ đó bỏ tuồng xưa,
Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
Sám-hối TA cho tu ít tháng.
Tài hay, tài khéo chớ đua lừa.

Qua các bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn, chúng ta biết được Ngài Ngô Văn Chiêu bị Quỉ Vương thử thách trước khi được lên ngôi Giáo Tông. Ngài bị thử thách và chỉ trong vòng năm ngày, Ngài không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương bày ra, nên đành chịu mất ngôi Giáo Tông.

Sự thử thách của Quỉ Vương là cần thiết đối với ngôi Giáo-Tông là phẩm vị số MỘT của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nếu thắng nỗi Quỉ Vương thì bọn chúng mới chịu phục, còn không thắng nỗi thì phải chiụ mất ngôi.

Đồ hình dưới đây là ba ngôi Giáo Tông nhưng cũng là Một, đứng đầu hàng Tiên vị.
Chú thích: Trên là “Cửu Trùng Đài hàng Tiên vị” gồm:
Tam giác giữa Giáo Tông là Anh Cả thay trời, có ba:
- Đỉnh giữa: Đức Lý- Giáo Tông ĐĐTKPĐ (Thần)
- Góc trái: Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung (Khí)
- Góc phải (ngoài nhìn vào) Ngô văn Chiêu (Tinh)

Giác lớn đỉnh quay lên: Chưởng Pháp
- Thượng Chưởng Pháp (ở đỉnh trên )
- Thái Chưởng Pháp (góc trái)
- Ngọc Chưởng Pháp (góc phải)

Tam giác đỉnh quay xuống:  Đầu Sư
- Thượng Đầu Sư   (ở đỉnh dưới)
- Thái Đầu Sư        (góc phải)
- Ngọc Đầu Sư       (góc trái. Ngòai nhìn vào)

Tất cả bấy giờ đi vào qui luật “tuy ba mà một, một mà ba”
- Tuy một tiếng hứa của Đức Chí-Tôn, ông Ngô văn Chiêu cũng là Giáo Tông, thuộc về TINH  (một trong Tam bửu)

2 - Một hữu hình là Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung. Ngài tượng cho KHÍ. Ngài đã hành Quyền Giáo Tông 8 năm tròn không dư không thiếu một ngày. Nếu tính từ:
ngày Khai Đạo:   14-10-Bính Dần   (19-11-1926)
đến ngày qui Thiên:   13-10-Giáp Túât  (19-11-1934)

3 - Một về vô vi: là Đức Lý Thái Bạch Kim Tinh: THẦN.
Ấy cũng là qui luật “Một mà ba, ba mà một”.

Bấy giờ: tổng số Chức sắc Cửu Trùng Ðài sẽ là = 3115 vị + 2 (Giáo Tông, số thêm ra) sẽ là 3117 (3+1+1+7= 12 là số riêng của Thầy. Số 12 (Thập nhị Địa chi) hiệp với số 10 ở trên (trang 44) thập Thiên Can là Quyền năng tối thượng của Gíao Tông là Anh Cả thay Thầy trị thế.
“Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,
“Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn”

Muốn biết rõ quyền hành của Chức sắc trong nền Đại Đạo thì trước hết phải luận về ĐẠO PHỤC của CHỨC SẮC

ĐẠO PHỤC GIÁO TÔNG:
CHÚ GIẢI: Ðạo phục của Giáo Tông có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.

Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba Cổ Pháp là: Long Tu Phiến, Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ. (Ấy Cổ Pháp của Thượng Phẩm và Thượng Sanh trị thế) Ðầu đội mão vàng năm từng hình Bát Quái (thế Ngũ Chi Ðại Ðạo) ráp tròn lại bít chính giữa; trên chót mão có để chữ "Vạn". Giữa chữ Vạn có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí; nơi ngạch mão, phải chạm ba Cổ Pháp cho rõ ràng, y như hai bên cổ áo đã nói trên kia, tay mặt cầm cây gậy 0m90, trên đầu gậy có chữ "Vạn" bằng vàng, nơi giữa chữ Vạn có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí.

Bộ Tiểu Phục cũng toàn bằng hàng trắng, có thêu chữ BÁT QUÁI bằng vàng: cung KHẢM ngay Hạ Ðơn Ðiền, cung CẤN bên tay mặt, cung CHẤN bên tay trái, cung ÐOÀI bên vai mặt, cung TỐN bên vai trái, cung LY ngay trái tim, cung KHÔN ngay giữa lưng. Ðầu đội mão Hiệp Chưởng (Mitre) cũng toàn bằng hàng trắng, bề cao ba tấc ba phân ba ly (0m333) may giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh hiệp lại có một đường xếp (ấy là Âm- Dương tương hiệp) cột dây xếp hai lại, nơi bên tay trái có để hai dải thòng xuống, một mí dài một mí vắn (mí dài bề ngang 0m03, bề dài 0m30) trên mão ngay trước trán có thêu chữ cung CÀN. Chơn đi giày vô ưu toàn bằng hàng trắng, trước mũi có chữ Tịch Ðạo Nam Nữ.

Tỷ như Ðức Lý Giáo Tông đương thời. thì nơi trước mũi giày của Ngài phải có chữ Tịch Ðạo là "THANH HƯƠNG"

ĐẠO PHỤC XÁC ĐỊNH QUYỀN HÀNH CỦA CHỨC SẮC
Trong cửa Đại-Đạo ngày nay điều đặc biệt là do Đức Chí Tôn giáng Cơ dạy đủ mọi nghi thức, nhất là phần Đạo-phục cho các Chức sắc tử Tiểu cấp đến Chức sắc Đại Thiên phong đều được qui định trong Pháp Chánh Truyền.

Với Đức Quyền Giáo Tông thì Đạo phục của Ngài đã hiện tượng qua hai Bát Quái:
- Quyền hành: biểu tượng bằng BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN
- Áo Tiểu phục: biểu tượng bằng BÁT QUÁI HƯ VÔ

Lý Tam Tài trong Đạo phục của Chức sắc:
- Về Thiên: do Pháp Chánh Truyền qui định hẳn hoi từ chi tiết một về áo mão, có kích thước rõ ràng….

- Về Địa: là Thầy giao trách nhiệm cho Bà Hương Hiếu may áo mão cho tất cả các Chức Sắc trong buổi mới lập Pháp Chánh Truyền, nếu khó khăn có Thầy hướng dẫn chi tiết. Về sau Thầy còn nhờ thêm Bà Lâm Hương Thanh may một số áo Mão cho Chánh Phối sư nữa.

- Về Nhân: Thầy còn ban cho bài Thi để xác định những quyền hành tối cao, tối trọng, nhưng chỉ riêng Đức Quyền Giáo Tông  và kế đến là Đức Hộ Pháp mà thôi. Vì hai phẩm này hiệp Một là Chí Tôn, thay Trời tạo thế..

Lần lượt sẽ khai triển các vấn đề trên, để thấy rõ: “Thầy dùng Lương sanh để cứu vớt quần sanh”.

Bởi Đạo-phục đây là Thiên phục, Đức Cao Đài giáng nói [Dimanche 25 Juillet 1926 (16-6-Bính Dần)] “T... con coi mặc Thiên phục có xấu gì đâu con ? Một ngày kia sắc phục ấy đời sẽ coi quí trọng lắm. Con ôi ! Con có biết những điều ấy bao giờ ! Cười.!...”

B -  Ðạo phục của Giáo Tông qua PCT:

PCT: - “Ðạo phục của Giáo Tông có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục”.

LUẬN: Đấy là đầy đủ lý Âm-Dương, tượng trưng cho quyền hành của Ngài nắm hai BÁT QUÁI để hòan thành con ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO mà Chí Tôn đã ủy thác qua Pháp Chánh Truyền  (xem triển khai Bát Qúai. Tr 68, 82)

I -  Bộ Ðại Phục:
PCT: “Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới”.

LUẬN: Chức sắc Cửu-Trùng-Đài Nam phái, đặc biệt chỉ có Giáo Tông và Thượng Chưởng Pháp mặc sắc phục trắng chầu lễ Chí-Tôn, ngoài ra đều mặc theo sắc phái.

Vì sao ? - Màu trắng là màu tổng-hợp của bảy sắc cầu vồng, đó là màu  Đại-Đồng,  mục-đích  của  Đạo Cao Đài là phải phổ thông ra cho đến Đại-Đồng Thế-Giới.

Về Bí pháp là phần riêng biệt của Đức Chí-Tôn dùng trong cơ chuyển thế và Cứu thế: Đức Chí-Tôn đã chọn người ANH CẢ để thay hình thể cho Ngài cầm đầu cả nhơn loại. Việc này giải rõ là loài người phải đi từ không trở về sắc-tướng đặng tạo nghiệp vị, rồi trở lại Hư vô.

Phái TIÊN-ĐẠO là phái giữ phần lập-trường thi công quả của sắc tướng. Bởi Đạo Cao-Đài là tinh-hoa bổn nguyên triết lý của chính nền Tôn-giáo này.

Bấy nhiêu đã nói lên Đạo Cao Đài là tu theo Tiên Đạo “Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh”. Điều này được thấy rõ ở phần hữu hình, hữu tướng như các vấn đề sau:
- Đức Chí-Tôn xưng Thánh danh “Cao Đài TIÊN ÔNG  Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”.
- Ngôi Đền  của Đức Ngài ngự gọi là Đền Thánh.
- Màu sắc tượng trưng: màu chính là màu xanh, phái

Thượng đặt ở điểm chính và trung.
- Đền Thánh tượng chữ SƠN (núi). Người Tín hữu mỗi ngày Tứ thời chầu lễ, tượng chữ Nhân . Hiệp hai chữ lại là chữ TIÊN , không thể lầm lẫn  được.
- “Thêu bông Sen”. Bông sen tượng trưng sự đạo đức, thanh khiết, cao thượng. Như người tu chân chính thì dù sống nơi trần mà “Cư trần bất nhiễm”. Tánh tình người đạo phải thanh cao, tầm cho đạt được ngôi chí Thánh như  Sen sống trong bùn mà không  hôi mùi bùn. Ca dao rằng:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.
Nhụy vàng  bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

- “Màu vàng” tượng cho phái Phật. Đạo Cao Đài là Phật giáo chấn hưng. Vì Đại-Đạo ngày nay cũng là Phật Đạo và gồm hết Tam giáo Nho- Thích - Đạo và Thích-Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích-Ca” (trong ý nghĩa Qui Tam Giáo).
- “Hai  bên cổ áo mỗi phía có ba Cổ Pháp là: Long Tu  Phiến, Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ. (Ấy Cổ Pháp của Thượng Phẩm và Thượng Sanh trị thế)”.

Vẫn cũng là con số 3 – 2, tức “Tham thiên lưỡng địa”
3 là Thiếu Dương, 2 là Thiếu Âm; cộng cả hai số này lại là 5, tức nhiên Ngũ hành, đứng vào giữa gọi là ngũ trung.

- “Mỗi phía có ba Cổ Pháp” mà cả hai bên cổ áo, tức là có 6 Cổ Pháp, ấy là: Tam Âm -Tam Dương.
Nhưng đặc biệt: Giáo Tông thuộc Cửu Trùng Đài mà CỔ PHÁP là của Thượng Phẩm và Thượng Sanh trị thế (là Người của Hiệp Thiên Đài).  Đấy cũng là “Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm” đó là nguyên lý của Càn Khôn vũ trụ không bao giờ thay đổi.
- ‘Ðầu đội mão vàng”: màu vàng là phái Phật, là hình ảnh của Phật giáo chấn hưng như trên vừa nói, mà tuyệt phẩm của người tu là đạt đến Phật-vị. Giáo Tông vào hàng Nhứt Phật, xác định quyền uy của Người Anh Cả hiện giờ..
- “Năm từng hình Bát Quái (thế Ngũ Chi Ðại Ðạo)”

Năm từng là tượng Ngũ Chi: Tôn chỉ của Đại Đạo là “Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi”. Hơn nữa gồm:
. Ngũ Chi Đại-Đạo: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo (Dương). 
. Ngũ Chi Minh Đạo: Minh Đường, Minh Sư, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân (Âm).

Như vậy có đủ Ngũ hành Dương và Ngũ Hành Âm một cách trọn vẹn.
-“Ráp tròn lại bít chính giữa”. Mão Giáo Tông có vòng tròn đội lên đầu, đây là tượng Càn Khôn vũ trụ, “ráp tròn lại” là chỉ một sự “Quản súât Càn Khôn” của nền Tân Tôn giáo này sẽ trấn phục Ngũ châu, mục đích  đưa  nhân  lọai  đến Thế giới Đại Đồng, làm Hòa bình cho nhân lọai.

- “Trên chót mão có để chữ "VẠN", giữa chữ VẠN có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí”:
Chót mão tức là phần giữa của Mão, khi đội lên là ở đỉnh đầu, tức nhiên là tâm của vòng tròn, ấy là tâm của vũ trụ. Chữ VẠN có hai: là hiệp Âm Dương. Vòng tròn bên ngoài chỉ vũ-trụ; hai chữ VẠN ngược, xuôi này xoay quanh tạo nên tám đường kính xuyên qua tâm của vòng tròn trong Bát Quái, ấy là Càn Khôn, tượng Bát phẩm chơn hồn là: vật chất, thảo mộc, thú cầm, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật-hồn.

- Mỗi hồn đều có tánh chất riêng. Từ vật-chất đến nhơn hồn là cơ tấn-hóa, nên có hình chữ Vạn số 1, là chỉ cơ đi xuống trần để tạo nghiệp trần duyên.
- Tạo cho đầy-đủ quả-nghiệp thành khối gia-sản rồi bắt đầu đi lên để học thêm nhiều điều mầu nhiệm, nên Cơ phục-nguyên ở chữ vạn số 2.

 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét