Lý Dịch Trong Pháp Chánh Truyền, Hay Pháp Luật Đại Đạo - 3 / 7 (Nữ Soạn giả Nguyên Thủy)

Phương pháp ấy CHÍ TÔN rất công bằng và chia đôi cho lưỡng quyền không thể chuyên chế để áp dụng mà hà hiếp con cái của Người.

2 - Thể-pháp của Đạo Cao-Đài:
Đức Hộ-Pháp nói: “Nói về Thể-Pháp chúng ta hân hạnh làm sao, muốn cho chúng ta lập đức chính mình Đức Chí-Tôn đã cho chúng ta mượn
danh thể của Ngài, chúng ta đã làm Thánh-thể của Ngài nơi mặt thế của Ngài.

Ôi ! Quyền-lực về phương-pháp lập đức đối lại với cảnh thiêng-liêng là mua ngôi-vị của chúng ta đó vậy.

Lập công là Ngài đã tạo hình thể của Ngài, tức nhiên  Đền-Thánh đó là Đền Thờ hữu-hình của Ngài để tại mặt thế này. Chúng ta phải lập công với sanh-chúng tức nhiên lập công cùng con cái của Ngài. Ngài để cho chúng ta lập công chớ không phải làm nô-lệ cho ai tất cả. Chúng ta thấy Ngài phụng-sự cho con cái của Ngài, chúng ta lập công là tạo danh thể của Ngài, do lập công mà ra.

Bây giờ tới lập ngôn. Chính mình Ngài, Ngài phải làm, cầm cây Cơ, Bút, viết dạy chúng ta từ lời nói, việc làm; từ tánh đức, từ đạo-lý. Còn ngôn, có ngôn gì hơn Ngài nữa, để cả thảy các thể-pháp đặng chúng ta định vị chúng ta, chính tay Ngài cho chúng ta mượn cả thảy”.             

Lại nữa Thầy còn dạy: “Trong buổi Tam-Kỳ Phổ Độ, Thầy giáng thế chọn đến:
 - Nhứt Phật
- Tam Tiên.
-Tam thập lục Thánh
-Thất thập nhị Hiền,
- Tam thiên Đồ đệ.
“Các con coi đó mà hiểu rằng: Các con có sự mà thiên-hạ từ tạo thế đến chừ, chưa hề có chăng”?

GIÁO-TÔNG là người đứng đầu của những Chức sắc vào hàng Thánh Thể Đức Chí-Tôn bên Cửu Trùng Đài vào hàng Tiên-vị và Thánh-vị, gồm các phẩm như :
- Từ Chưởng-Pháp đến Giáo Hữu có đủ ba phái:
Thái-Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh, chia đều các con số trên, không được tăng thêm hay là giảm bớt. Con số này tính cho Chức-sắc Nam-phái mà thôi, còn Nữ phái thì không có hạn định, nghĩa là con số bao nhiêu cũng được. Đó là những Chức-sắc vào hàng Thánh-Thể của Chí-Tôn. Ông Mỹ Ngọc tức Bảo Văn Pháp-Quân có lời thỉnh-giáo:
- Bạch Thầy về bảy cái Ngai Nhơn-Đạo, Chưởng Pháp và Đầu-sư  ngồi đặng chăng?
- Thầy cười…Bảy ngai ấy, Thầy lập ra là để cho mỗi Chức-sắc lớn biết ngôi-vị của mình nơi Bửu-điện. Kế theo Thầy, Tam-Trấn cùng chư Tiên, Thánh, nhập về Tam Kỳ Phổ-Độ mà thôi. Lúc hành lễ, nếu chúng nó ngồi đối diện  với  các Môn  đệ  khác của  Thầy    khứng chịu sự thành kỉnh của nhơn-sanh đối với các phẩm-vị lớn cao kia thì mất vẻ thành kính của chúng nó.

Chức-sắc đặng ngồi Ngai riêng của mỗi đứa là lúc nào có Hội Tòa Tam-giáo phân-xử các Đạo-hữu của chúng nó mà thôi”.                               

3 - Phương-diện Chánh-Thể Đạo:
Thuở Đức Quyền Giáo-Tông còn sinh tiền Ngài có thuyết về phương-diện Chánh-Thể Đạo, có nói rõ quyền hạn của Ngài rằng:
 “Tệ-Huynh có thọ lãnh chỉ rõ phương-diện Chánh thể của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ của Thầy trong cuối Hạ nguơn chuyển thế đây. Xin chư Hiền-Hữu lưỡng phái ráng nhớ và lo phận-sự, đừng sai luật Đạo mà bị tội và mình tuân trọn luật Đạo của Thầy là món binh-khí diệt tà-quyền giả mị đó. Tệ-Huynh xin nhắc lời tuyên-ngôn của Đại-Từ Phụ nói buổi ban sơ. Thầy có nói: Thầy lập Đạo kỳ này là lập một cái trường công-quả, nếu các con đi ngoài trường công-quả ấy thì không trông mong gì về cùng Thầy đặng.
 “Trường công-quả của Thầy có đôi bên:
- Một bên vô hình là các Đấng ThiêngLiêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần) cùng lập công-quả trong buổi chuyển thế này, các Đấng Thiêng-liêng thường theo một bên chúng ta đặng ám-trợ chúng ta về phần vô-vi.
- Các việc hữu-hình tại thế là các việc phải có thi hành như chúng ta giờ đây mới làm đặng, thì về phần chúng ta phải lo làm rồi có các Đấng Thiêng-liêng ám-trợ.

 “Thí-dụ như đi độ rỗi nhơn-sanh phải nói Đạo cho người nghe, như phải lập phương để giúp thế đang nguy nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc-học, nhà thương, nhà dưỡng-lão cùng các nghề-nghiệp cho Đạo-hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần đặng che thân ấm cật …thì chúng ta phải lo hết, rồi các Đấng Thiêng liêng ám-trợ cho thành-tựu. Nếu chúng ta làm biếng không làm công quả chi cho Đạo bên hữu-hình thì các Đấng Thiêng-liêng theo mình không lập công-quả được thì tội trọng về phần mình chịu lấy.

 “Từ hồi tạo thiên lập địa tới ngày nay, trong mỗi thời kỳ khai Đạo không có thời-kỳ nào mà chính mình Thầy là Chủ-tể Càn-khôn thế-giới xuống mà lập ra, không có một Tôn-giáo nào đặng một vị Đại-Tiên là Đức Lý Thái-Bạch lãnh làm Giáo-Tông như ngày nay

 “Tệ-Huynh đây là lãnh về phần xác thay thế cho Ngài đặng lo làm các việc hữu-hình tại thế cho Ngài, rồi ở trong có Người ám-trợ. Tệ-Huynh xin chỉ rõ quyền hành lớn-lao của Đức Lý  Đại-Tiên Thái-Bạch Kim Tinh cho mấy em rõ.

Có tất cả  4 Bát Quái từ xưa cho đến giờ:
* Hai Bát Quái Cao Đài này là chỉ Đường Đạo (Bát Quái Hư vô) và Đường đời (BQ Đồ Thiên) mà Đức Quyền Giáo Tông đã thực hiện trong 8 năm hành Đạo của Ngài.
1 - Bát Quái Đồ Thiên    (Thể pháp Thiên Đạo)
2 - Bát Quái HƯ VÔ        (Bí- pháp Thiên Đạo)

* Hai Bát Quái 3 và 4 này có từ 6.000 năm nay là nói về phần Đạo và phần Đời
3 - Bát Quái Tiên Thiên   (Bí pháp Thế Đạo)
4 - Bát Quái Hậu Thiên    (Thể pháp Thế Đạo)

4 - Giáo-Tông làm chủ hai Bát-Quái
Quyền-hành của Giáo-Tông thể hịên trên hai bộ Đạo phục:
- Bộ Đại-phục và quyền hành Giáo-Tông là ứng với Bát Quái Đồ Thiên (xác định qua bài Thi của Đức Chí-Tôn)           
- Bộ Tiểu-Phục Giáo Tông ứng vào Bát-Quái Hư Vô.
Các Bát-Quái hiện nay đúng vào cơ qui nhứt đó là thời kỳ “vạn thù qui nhứt bổn”.

Trên là hai Bát Quái Cao Đài đặt chung trong một đồ hình:
- Bát Quái Hư Vô nằm trong, tượng cơ vô vi, ấy là thời kỳ của ĐẠO TÂM thành hình, mục đích chánh là HÒA: Tứ Dương hòa với Tứ Âm, tức Đạo Hòa ở bên trong 

Vậy Bát Quái Hư vô là cái tâm, là Đạo, là Hư vô chi khí, là Thái hòa, tượng cho Trời- Người hiệp một, về cùng  Trời.
- Bát Quái Đồ Thiên: tượng trưng đường về của người tu. Chữ Điền bên trong là do Càn Khôn phối hợp (Tam giáo qui nguyên, khởi từ Âm Dương; lý tam ngôi nhứt thể). Bát Quái này nghịch chuyển tức là đường đi lối về trong cõi Thiêng liêng Hằng Sống, quên đời sống đạo. Ấy là lúc Khảm chuyển qua Ly, Ly chuyển qua Khảm là lúc “Thủy Hỏa Ký Tế”.”Chiết Khảm điền Ly phản vị Càn”

Con đường Đại Đạo là con đường ngắn nhất trong buổi chuyển thế ngày nay của người tu theo Đạo Cao Đài.

III - QUYỀN HÀNH CHƯỞNG PHÁP

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: “CHƯỞNG PHÁP của ba Phái là: ÐẠO- NHO – THÍCH”.
LUẬN:  làm sao để Chức sắc có sắc phái ?
- Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam Phái, trừ phẩm Giáo Tông và Thượng Chưởng Pháp ra, tất cả đều chia ra theo sắc phái rõ rệt. Trước tiên thì khởi từ LỄ-SANH là phẩm đầu tiên để chủân bị bước vào hàng Chức Sắc, thì do Đức Lý chấm phong đồng thời chấm phái. Sở dĩ vị Chức sắc được nhận sắc phái Tam Thanh ấy là vì chỉ có Đức Lý mới biết được tiền kiếp vị này tu theo phái nào mà thôi:
- Nếu trước đây vị này tu bên Phật giáo, ngày giờ này Đức Ngài chấm phái Thái (màu vàng),
- Nếu trước đây tu phái Tiên thì ngày giờ này Đức Ngài chấm phái  Thượng (màu xanh)
- Nếu trước đây tu phái Thánh, thì ngày giờ này Đức Ngài chấm phái  Ngọc (màu đỏ)

 Chấm phái là sự ban thưởng và thăng phẩm cấp trong cửa Đạo Cao Đài  nên bước đầu tiên được “Chấm phái”.

“Hàng phẩm Chức việc Bàn Trị Sự cầu phong lên hàng Lễ Sanh, được Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ chấm phái. Khi được chấm phái rồi phải giữ sắc phái đó suốt đời, dù được thăng lên nhiều cấp hay thay đổi đời Giáo Tông khác cũng vậy. Từ Giáo Hữu trở lên là chấm phong.

PCT: “Ba chi tuy khác chớ quyền lực như nhau”.
■ Các Chức sắc Cửu Trùng Đài được phân ra làm ba phái:
- Phái Thái, cũng gọi là phái Thích hay phái Phật mặc đạo phục màu vàng,  mão  vàng, có  Thánh danh khởi đầu bằng chữ THÁI .
- Phái Thượng, cũng gọi là phái Lão hay phái Tiên:
mặc đạo phục màu xanh, mão xanh, có Thánh danh khởi đầu bằng chữ THƯỢNG .
- Phái Ngọc, cũng gọi là phái Nho hay phái Thánh: mặc đạo phục màu đỏ, mão đỏ, có Thánh danh khởi đầu bằng chữ NGỌC

Các Chức sắc đồng phẩm nhưng khác phái đều đồng quyền nhau, không ai lớn không ai nhỏ.
Khi đã được quyền Thiêng Liêng chấm phái rồi thì  Chức sắc ấy mới được đứng vào Thiên phong; Nhưng nếu để người phong tặng cho thì gọi là nhơn phong hay phàm phong, không có giá trị và toàn Đạo không tín nhiệm.

Huấn lịnh 638, Đức Hộ Pháp dạy Thiên phong:
Tại sao Hội Thánh lại dám mạo hiểm xưng mình là Thánh Thể của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, là Thầy của chúng ta?
- Thì Chí Tôn đã nói: Người đến qui lương sanh đặng Người có quyền năng hữu hình mà giáo hóa và cứu vớt quần sanh. Cái quyền hành ấy cao trọng chừng nào, chúng ta không cần để luận ! Muốn nắm quyền hành ấy nơi tay tức phải tỏ ra là mình phẩm giá Lương sanh mới đáng. Dầu tòan Hội Thánh hay là một phần tử của Hội Thánh tức là một Chức sắc Thiên phong nào cũng vậy phải đáng mặt Lương sanh đặng vào Thánh Thể của Người chẳng phải là dễ. Vì vậy mà Chí Tôn phải đem lương sanh ấy vào bậc Thiên phong cho đồng thể cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật mới đáng làm hình thể của Người. Nếu để phàm phong thì quả nhiên nhân lọai đã lăng mạ danh thể của Người. Ấy là tội Thiên điều chẳng hề dung thứ. Mà Thiên phong chánh vị còn giữ phàm tánh, thì lại lăng mạ danh thể của Người hơn thập bội”. 

Nay nhờ Cơ Đại Ân xá của Chí-Tôn nên các nguyên căn ấy mới được tiếp tục TU trong cửa  Đạo Cao  Đài  này, tùng theo phép tu của Đức Cao Đài Ngọc Đế..

CG - Nghĩa là: mỗi Phái là một vị, mà ba Ðạo vẫn khác nhau, nội dung, ngoại dung đều khác hẳn, luật lệ vốn không đồng, chỉ nhờ TÂN LUẬT làm cơ qui nhứt, cho nên Thầy mới nói:

 PCT: "Pháp Luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một".

CG: Vì coi như một, nên Thầy mới đến cho nhơn loại lập TÂN LUẬT, thế nào cho phù hạp với nhơn trí, hiệp tánh với nhơn tâm, chung chịu một Ðạo Luật, có phương hành Ðạo, chẳng nghịch với Thiên Ðiều, đặng lập vị mình dễ dàng, mới toàn câu PHỔ ĐỘ.

LUẬN: Chưởng Pháp của ba phái: mỗi phái có vị đại diện cho phái của mình như:
- Phái Thái là phái Phật còn gọi là THÍCH (Thích-giáo)
- Phái Thượng là phái Tiên còn gọi là ĐẠO (Đạo giáo)
- Phái Ngọc là phái Thánh còn gọi là NHO (Thánh giáo)
"Pháp Luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau”.

 Phân biệt như thế nào? 
- Phái Phật và phái Tiên thì tu xúât thế, xưa là lánh đời, ly gia cắt ái, lên non luyện pháp trường sinh, tu như thế là tu “độc thiện kỳ thân” là chỉ tu riêng cho mình thôi.

- Phái Nho còn gọi là phái Thánh là TU nhập thế:
Đạo Thánh do Đức Khổng Tử làm Giáo Chủ truyền bá Nhơn đạo là Đạo Nho, mục đích chấn chỉnh nhơn tâm, vì bấy giờ nhân tâm điên đảo; gọi Ngài là ông THÁNH Ta.

Đạo Thánh của Đức Chúa Jésus-Christ làm Giáo Chủ là phát huy nhơn đạo, gọi Đức Chúa là ông Thánh Tây.

Ngày nay Đạo Cao Đài làm cơ qui nhứt nên Đức Chí Tôn Qui Tam giáo làm một: lấy Nho Tông chuyển thế, trong đó đã có Đông- Tây hòa hợp: vừa để phát huy tinh thần Nho giáo thùân túy, vừa lấy văn minh khoa học làm phương tiến triển về khoa học. Còn Phật và Tiên thì lấy tinh hoa của những triết lý này làm căn bản về tâm linh, có như thế người tu mới tiến hóa vừa vật chất vừa tinh thần.

“Pháp Luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau” như trên đã nói, vì pháp tu của Phật và Tiên là xúât thế; của Thánh thì nhập thế. Bấy giờ Đạo Cao Đài chỉ lấy TÂN LUẬT làm cơ qui nhứt, dìu dẫn người TU là để tạo Tiên tác Phật.  Nhân lọai theo phép tu của Thánh là nhập thế thì phát triển về văn-minh khoa học, vật chất đến tột đỉnh như ngày nay.Nhưng càng văn minh vật chất thì con người càng xa rời tâm linh, kém văn minh tinh thần chừng đó.
Do vậy “nên Thầy mới đến cho nhơn loại lập TÂN LUẬT” làm  cơ qui nhứt, nghĩa là trong tinh thần hòa hợp.

Nay “Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt ngôi vị là phải trau luyện cho TINH hiệp với KHÍ. Tinh – Khí huờn THẦN là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo vậy”.

Như lời Đức Hộ-Pháp muốn minh xác:
Đức Ngài “Hỏi, đã có nảy sanh ra một Giáo chủ nào đủ đức tánh, đủ quyền-năng, đủ phép mầu, đủ trí hụê làm cho hai đảng ấy dung-hòa mới mong-mỏi Đại Đồng Thế Giới hay chăng?

1 - Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ:
PCT: “Buổi trước thì Thiên Ðiều buộc nhơn loại phải nâng cao phẩm hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đặng đoạt đức tánh mà lập vị mình, còn nay thì các Ðấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn loại đặng dìu cả chơn hồn lên tột phẩm vị Thiêng Liêng, đến ngang bực cùng Thầy. Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn trí ngày nay đã qua khỏi “Nguơn Tấn Hóa" (1) thì đã tăng tiến lên địa vị tối cao; chủ nghĩa Cựu Luật của các Tôn Giáo không đủ sức kềm chế đức tin, mà hễ nhơn loại đã mất đức tin về đạo đức rồi, thì cơ tự diệt vốn còn, mà cơ tự diệt còn thì nhơn loại khó tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng. Ðời phải tùy Ðạo mới còn, mà Ðạo cũng phải tùy Ðời mới vững, biết đâu TÂN LUẬT ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành; trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với nhơn trí Ðạo- Ðời tương đắc, mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp.
Thí dụ: Như có kẻ hỏi: "Sao Thầy không dùng Cựu Luật trong Tam Giáo đã có sẵn rồi, lại lập chi TÂN LUẬT nữa, mà buộc nhơn sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?"

Ta lại đáp: "Chính Thầy đã giáng cơ nói: Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá CỔ; ấy vậy Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ Pháp thì Lôi Âm Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu Luật và Cổ Pháp chẳng còn ý-vị chi hết. Những bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu Luật hay là Cổ Pháp thì trái hẳn với Thiên  Ðiều của Đại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ  thể Thiên hành chánh.

Bởi cớ ấy nên CHÍ TÔN đã cấm Ngũ Chi phái Ngọc, dùng Cổ Luật mà mê hoặc nhơn sanh nữa.
Hễ tùng Cựu Luật tức phải tùng Thiên Ðiều, mà hễ tùng Thiên Ðiều thì khó lập vị cho mình đặng".
Xin xem tiếp đây, thì thấy rõ Thầy đã quyết định điều ấy.

PCT: “Vậy thì một thành ba, mà ba cũng như một”
CG: Ấy vậy Tân Luật đã gồm trọn Tam Giáo, tức là một thành ba, mà  ba Cựu Luật của Tam Giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là: "Tân Luật".

LUẬN: “Buổi trước thì Thiên Ðiều buộc nhơn loại phải nâng cao phẩm hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật” là thế nào ?
- Thuở trước là “người tìm Đạo”. Giả sử muốn tu theo Phật thì phải cố nâng cao đức tánh mình như Phật, ngồi ngang Phật xem Phật làm gì thì bắt chước theo thế ấy: nhưng Phật có nói đâu “Phật giả vô ngôn” (Phật không nói). Thế nên chỉ bắt chứơc được cái áo-dà mặc bên ngòai (đầu tròn cổ vuông), cầm Bình Bát đi khất thực, ngồi tĩnh tọa, mà không thông giáo lý được, vì “Phật tông vô giáo” (Phật không có giáo lý). Thế nên khi người mới bước chân vào cửa Phật thì đã gọi là “Phật Tử” (con Phật); nhưng với Cao Đài Giáo thì Phật Tử laị là tuyệt phẩm trong hàng Thập Nhị đẳng cấp Thiêng Liêng (phẩm thứ 12) !

Ngay chính Đức Tam Tạng khi thỉnh Kinh từ Đông Độ về được rồi mà còn một nỗi lo ngại, lo vì chưa tự tin:
Đức Hộ-Pháp nói:“Cũng như hồi trước TAM TẠNG đi thỉnh kinh nơi Ấn-Độ. Ngài là người Tàu mà kinh viết tiếng Phạn, muốn dịch ra rất khó lắm, lấy cả Kinh-Luật trong tiếng Phạn đem ra rất khó cho Ngài lắm, cho nên Ngài đại nguyện: Ngài làm thế nào Ngài rán sức, Ngài âm tiếng Phạn ấy ra chữ Nho.Ngài chắc ý Ngài âm tiếng Phạn ấy chưa đúng, Ngài có hứa chừng nào mà tôi qui liễu, nếu trong Kinh-luật Đạo giáo mà tôi không minh tả ra đặng thì khi chết cho cái lưỡi tôi đen, nếu tôi tả trọn vẹn thì cho cái lưỡi tôi đỏ. May phước Bắc-Tông được hưởng một ân huệ của nhà Phật đã ban ân riêng cho Đức Tam-Tạng, khi Ngài chết người ta vạch lưỡi của Ngài ra coi thì lưỡi của Ngài đỏ, vì cớ mà Chơn-giáo của nhà Phật là Bắc Tông có thể nhờ Đức Tam-Tạng đã minh-tả ra trọn vẹn”.

Tóm lại: tinh thần của  người tu-  đơn  cử    người Việt Nam-  muốn tu theo Phật, Tiên, Thánh, Công giáo, Bà La môn…mà hầu hết là kinh viết bằng ngọai ngữ làm sao hiểu được trọn vẹn.? Thế nên tu nhiều mà thành ít.

Vì sao? –
- Vì từ trước đến giờ nứơc Nam chưa có mối Đạo nhà. Nay là “Đạo tìm người” nên Thầy xác nhận:
Từ  thử nước NAM  chẳng Ðạo nhà,
Nay TA gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả ?
Rằng trẻ noi sau biến hóa già.

Hơn nữa nền Đại-Đạo này phát xúât ở Việt Nam, ngôn ngữ hòan tòan là tiếng Việt Nam, giáo lý, giáo pháp, nghi thức cúng kính, thờ phượng hòan tòan do CƠ BÚT lập ra TÂN LUẬT và PHÁP CHÁNH TRUYỀN tức là để truyền Chánh pháp. Nhờ vào pháp thông thần lực này mà tất cả các nước trên thế giới đều có thể học hỏi thêm qua ngôn ngữ của chính nước họ được dễ dàng. Nhưng cốt tủy vẫn phải là tiếng Việt Nam là nguồn phát xúât. Lại nữa cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều lâm phàm giáo hóa. Thử hỏi còn  gì hơn ? Điều hạnh phúc nhất mà từ xưa đến giờ các bậc tiền bối chúng ta vẫn ứơc mơ nhưng chưa từng có.

-  “Nay thì các Ðấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn loại đặng dìu cả chơn hồn lên tột phẩm vị Thiêng Liêng, đến ngang bực cùng Thầy”.

  Tức nhiên, Thầy mở Đạo Kỳ ba này là đã chủân bị:
- PHÁP CHÁNH TRUYỀN là Thiên điều, là bất dịch
- TÂN LUẬT là do Hội-Thánh hiệp nhau lập Luật. Luật thì có thể thay đổi tùy theo sự tiến hóa của nhơn lọai nên Pháp Chánh Truyền có ghi:..
…“biết đâu TÂN LUẬT ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với nhơn trí Ðạo- Ðời tương đắc, mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp”.

Phải như vậy, vì: TÂN là mới, nằm trong câu “Nhựt TÂN, nhựt nhựt TÂN, hựu nhựt TÂN” (ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới) là nghĩa của chữ TÂN LUẬT này. Bởi Tân Luật có thể thay đổi theo thời gian tùy theo sự tiến hóa của nhơn sanh:
- Pháp Chánh truyền là Dương, vì Dương thì thể cố định.
- Tân Luật là Âm (đối với Dương) nên Âm có thể thay đổi.
- Dương là Đạo, là Hiệp Thiên Đài, là cơ quan bảo thủ.
- Âm là Đời, là Cửu trùng Đài, là cơ quan giáo hóa.

Nhưng phải thấy rằng: Đời là Đời trong Đạo, thế nên câu:
nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với nhơn trí Ðạo, Ðời tương đắc, mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp”.

Qua hai chữ TÂN PHÁP cũng cho thấy rằng Âm trước, Dương sau, Âm trên, Dương dưới, ấy là qui luật lấy Âm bao Dương là vậy (là quẻ Địa Thiên Thái- là hanh thông). Cũng như về Dịch  thì chi ly lắm:
- Ngay trong chữ “Âm Dương” chứ không nói Dương Âm  - Nói “vợ chồng” chứ không nói chồng vợ.     

2 - Vì sao “một thành ba, ba cũng như một ?
Luận: Là Đạo Trời nên tượng bằng quẻ KIỀN ba nét Dương ấy là “Tam Dương khai Thái”. Ba nét này đã đủ lý Tam tài: Thiên- Nhân -Địa rồi. Rõ ràng ba nét dương tạo nên quẻ Càn, ngược lại quẻ Càn ba nét Dương, không đổi.

PCT cũng định rõ: "Pháp Luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một".
Vì coi như một nên mới có được sự đồng quyền đồng đẳng nhau, rồi từ đó mới biến hóa để ba nét này xếp lại thành một Tam giác đều: ba cạnh bằng nhau, ba góc bằng nhau, bằng 60o. Từ đây về sau đối với hình ảnh biểu tượng trong Tôn giáo: “Tam giác đều nội tiếp trong vòng tròn” trở nên phổ biến mà cũng hết sức quan trọng, áp dụng khắp mọi nơi trong nền Đại Đạo này.

Tôn giáo Cao Đài là một khoa-học siêu khoa học, một khoa học siêu nhiên, những lý giải bằng khoa học Đạo học này sẽ thay đổi hòan tòan những tư tưởng từ trước đến giờ cho rằng Tôn giáo là dị đoan mê tín; rồi toan diệt Đạo!

PCT: “Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành, hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống, hay là nơi Ðầu Sư dâng lên”.

CG: Nơi Cửu Trùng Ðài có:
- Ðức GIÁO-TÔNG là người thay mặt cho các Ðấng Thiêng Liêng đặng hành hóa; Giáo Tông có quyền lập LUẬT, ấy là quyền cao trọng của các Ðấng Thiêng Liêng cùng CHÍ TÔN ban cho nắm giữ,

- Và ÐẦU SƯ là người thay mặt cho cả nhơn sanh, ấy là quyền cao trọng của nhơn sanh ban cho, hai  đàng  phải tương đắc mới bền vững cơ "Tạo Thế"Trời-Người hiệp một

Thường thấy Thiên Mạng hằng quá sức phàm thế còn phàm thế thì nghịch hẳn Thiên Mạng; biết đâu một ngày kia Giáo Tông không lập ra Luật-lệ quá sức người phàm làm đặng và Ðầu Sư lại không xin một Luật lệ quá phép Thiên Ðiều, thì hai đàng ắt phải nghịch lẫn nhau; nếu không có CHƯỞNG PHÁP đứng trung gian thế quyền Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu Trùng Ðài mà điều độ cho êm đềm hòa nhã, thì nền Ðạo phải chinh nghiêng sanh ra rối loạn, thượng hạ khắc nhau, phải mất trật tự mà gây nên đảng phái.

Ấy vậy CHƯỞNG PHÁP có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành.Luật lệ nào không có ba Ấn CHƯỞNG PHÁP thị nhận và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn thì cả chư Tín Ðồ của Thầy không tuân mạng. (Hay ! Đức Lý khen)

PCT: Như hai đàng không thuận thì chúng nó phải dâng lên cho HỘ PHÁP đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại, hay là tùy ý mà lập Luật lại.

 CG: Một Ðạo Luật nào của Giáo Tông truyền xuống mà nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh, Ðầu Sư đã định quyết không thể thi hành đặng, thì chính mình Ðầu Sư phải đệ lên cho CHƯỞNG PHÁP mà cầu người sửa cải. Còn như Giáo Tông tiếp đặng một Ðạo Luật nào của Ðầu Sư dâng lên mà phạm phép Thiên Ðiều thì chính mình Giáo Tông cũng phải truyền xuống cho Chưởng Pháp xét nét, hai bên không đặng ỷ quyền bỏ luật, làm cho thất thể đôi đàng; phải phải phân phân, để cho CHƯỞNG PHÁP định liệu. Như quyết định mà hai đàng không thuận, thì Người phải dâng lên cho Hộ-Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy sửa lại, hay là Hộ Pháp luận ý đôi bên mà lập lại.

PCT: Vậy chúng nó    quyền  xem  xét  kinh  điển trước lúc phổ thông, như thảng có Kinh luật làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản.

CG: Nói rằng có quyền xem xét Kinh điển trước lúc phổ thông, thì tức phải kiểm duyệt các kinh điển ấy trước khi xuất bản; ấy vậy,tuy kiểm duyệt thì tự quyền CHƯỞNG PHÁP định đoạt, bất câu kinh sách nào mà làm cho hại phong hóa cùng là sái Ðạo Luật thì Ngài có quyền trừ bỏ, không cho xuất bản, song trước khi thị nhận cho xuất bản, hay là không cho, thì buộc Chưởng Pháp phải đệ lên Hiệp Thiên Ðài cầu xin phê chuẩn mới đặng. Chẳng phải nói các kinh điển của người trong Ðạo làm ra mà thôi, dầu cho người ngoại giáo làm ra đi nữa, nếu có thương phong bại tục, thì buộc Hội Thánh phải vùa giúp Chưởng Pháp mà lo trừ diệt cho đặng; bởi vậy cho nên Thầy có nói câu nầy:

PCT: "Buộc cả Tín Ðồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật Ðời".
CG: Dầu cho luật lệ Ðời mà làm cho thống khổ nhơn sanh thì Chưởng Pháp cũng liệu phương nài xin chế giảm. Cái quyền lực ấy phải nhờ nương Ðạo quyền mới đủ mạnh, nghĩa là Ðạo mạnh thì quyền người mới mạnh, mà Ðạo mạnh thì mới mong tế độ nhơn sanh khỏi đường Ðời thảm khổ; vì vậy mà Thầy lại buộc phải nói thêm câu sau này nữa:

PCT: "Thầy khuyên các con phải xúm nhau vùa giúp chúng nó".
PCT: Mỗi Chưởng Pháp phải có Ấn riêng.
CG: - Thái Chưởng Pháp thì Bình Bát Vu,
- Thượng Chưởng Pháp thì Cây Phất Chủ,
- Ngọc Chưởng Pháp thì Bộ Xuân Thu.

Hiệp một gọi là CỔ PHÁP. Ba cái Cổ Pháp ấy vốn của Hộ-Pháp hằng kỉnh trọng. Nơi Mão Tiểu phục của Người phải có ba Cổ Pháp ấy.

Còn nơi mão Ðại phục của Ðức Giáo Tông thì  lại có ba Cổ Pháp khác nữa, nghĩa là:
-  Long Tu Phiến.
-  Thư Hùng Kiếm.
-  Phất Chủ.
Ấy là Cổ Pháp của Thượng Phẩm cùng Thượng Sanh.

PCT: Ba ấn phải có trên mỗi luật mới đặng thi hành.
CG: Bất câu luật lệ hay là kinh điển nào, dầu đã đặng hai vị Chưởng Pháp phê chuẩn rồi mà thiếu một, thì cũng không đặng phép ban hành; nghĩa là: Trên Giáo Tông không đặng phép thị nhận, dưới Ðầu Sư không đặng phép thi hành. Cửu Trùng Ðài vẫn là Chánh Trị, mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật lệ, vậy thì Chưởng Pháp là người thay mặt Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu  Trùng Ðài. Ấy là cơ Ðạo cổ kim hi hữu”.

5 - LUẬN ĐẠO
a/ - Luận về CỔ PHÁP của HỘ PHÁP
Mỗi Chưởng Pháp phải có ấn riêng, như:
 - Bình Bát Vu  thuộc phái Phật    (Thích)
 - Cây Phất Chủ thuộc phái Tiên   (Đạo)
- Bộ Xuân Thu thuộc phái Thánh  (Nho)

“Hiệp một gọi là CỔ PHÁP. Ba cái Cổ Pháp ấy vốn của Hộ Pháp hằng kỉnh trọng”.

Ba Cổ Pháp này của ba Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Đài, bây giờ hiệp một lại là CỔ PHÁP của HỘ PHÁP, là người đứng đầu Hiệp Thiên Đài, tức “trong Dương có Âm”. Cổ Pháp này sử dụng trên Tiểu phục của Hộ Pháp. Còn Đại phục của Ngài thì đã có Khôi Giáp rồi.

Đây cũng là hình ảnh quẻ KIỀN ba vạch liền. Kiền (Càn) số 1, nhưng khi là quẻ kép thì gọi là Bát Thuần Kiền số 11, vì lẽ ấy mà trên Bàn thờ HỘ PHÁP có 11 cúng phẩm, để chỉ cái Dương đến cùng cực, tối cao. Quyền hành Hộ Pháp là tối thượng.

Ấy cũng là qui luật trong Dương (Hộ-Pháp) có Âm (Ấn Chưởng pháp). “Ba mà một, một mà ba”.

b/ - CỔ PHÁP của GIÁO TÔNG:

CG: “Nơi Mão  Ðại  phục của  Ðức GÍAO TÔNG  thì  lại có ba Cổ Pháp khác nữa, nghĩa là:
- Long Tu Phiến.
- Thư Hùng Kiếm.
- Phất Chủ.

Ấy là Cổ Pháp của Thượng Phẩm cùng Thượng Sanh”.
Vậy Giáo Tông đứng đầu Cửu Trùng Đài mà gồm CỔ PHÁP của hai vị (2): Thượng Phẩm, Thượng Sanh, gồm ba Bửu pháp (3); cũng trở về con số 3-2, tức là qui về “Tham Thiên lưỡng địa”. Ở đây lại là trong Âm có Dương. Cổ Pháp này đặt trên Mão Ðại phục của Ðức Giáo Tông”.
- Hộ-Pháp đội Mão có Cổ Pháp là khi mặc Tiểu phục, 
- Giáo Tông thì sử dụng Mão có Cổ Pháp như trên là khi Ngài mặc Đại phục.

Bấy nhiêu đó cũng rõ lý Âm Dương luôn đi liền bên và đan khít vào nhau như hai giềng lưới lớn, đối với hai vị Chưởng Quản của hai Đài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng.

Mão Giáo Tông là gồm Cổ Pháp của hai vị Thượng Phẩm và Thượng Sanh (số 2) gồm cả ba bửu pháp (3). Như đã nhiều lần bàn qua số 2 là Khôn (6 nét Âm) gấp 2 lần Càn, Càn Dương 3 nét, nên mới nói Càn 3 Khôn 2 “Tham Thiên Lưỡng Địa”. Nhưng ở đây số 2 làm chủ, nên biến thành quẻ ĐỊA THIÊN THÁI 

Tóm lại:
- Mão của Đức Hộ-Pháp tượng quẻ (Càn) hay  KIỀN
- Mão của Đức Giáo Tông tượng quẻ THÁI (hanh thông)

PCT: Ba ấn phải có trên mỗi Luật mới đặng thi hành.
CG: Bất câu luật lệ hay là kinh điển nào, dầu đã đặng

hai vị Chưởng Pháp phê chuẩn rồi mà thiếu một, thì cũng không đặng phép ban hành; nghĩa là: Trên Giáo Tông không đặng phép thị nhận, dưới Ðầu Sư không đặng phép thi hành”.

Luận: Tại sao “Luật lệ nào không có ba Ấn CHƯỞNG PHÁP thị nhận và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn thì cả chư Tín Ðồ của Thầy không tuân mạng ?.

- Bởi Chưởng Pháp đứng vào Nhơn Tiên trong “Tam Tiên” là đứng vào cơ hòa nên phải đủ: Hòa Thiên, hòa Địa, Hòa nhân, thì quyền-uy Chưởng Pháp mới trọn vẹn.

CG: “Cửu Trùng Ðài vẫn là Chánh Trị, mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật lệ, vậy thì Chưởng Pháp là người thay mặt Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu  Trùng Ðài. Ấy là cơ Ðạo cổ kim hi hữu”.

Cổ kim hi hữu thật ! Vì mỗi cơ quan hành sự sẽ không dẫm lên quyền hạn của nhau; có sự phân quyền và phân nhiệm rõ rệt; thể hiện bình đẳng một cách tuyệt đối.

Vì ĐẠO TRỜI nhất định phải có những nét tuyệt vời và hòan hảo hơn tất cả những Tôn giáo từ trước. Gọi là Tôn giáo ví như những dòng sông. Nhiều dòng sông dù nhỏ dù lớn đều đổ ra biển cả. Biển này là ĐẠI-ĐẠO.

Đặc biệt hơn hết và trước hết là vấn đề CỔ PHÁP.

c/ - CỔ PHÁP
E:  The archaic attributes.
F:  Les attributs archaïques

(Cổ: Xưa, cũ. Pháp: có rất nhiều nghĩa, ở đây có nghĩa là cái dấu hiệu của một Tôn giáo). Vậy Cổ Pháp là cái dấu hiệu riêng tượng trưng của các nền  Tôn-giáo.
- Bình Bát vu tượng trưng                     Phật giáo.
- Cây Phất chủ  tượng trưng                 Tiên giáo.
- Kinh Xuân Thu tượng trưng   Nho giáo.

Ngày nay Ðức Chí Tôn dùng Cổ pháp Tam Giáo trên hiệp thành một Cổ Pháp duy nhứt, gọi tắt là CỔ PHÁP CAO ĐÀI. Buổi này Đức HỘ-PHÁP là Giáo Chủ hữu hình nên Cổ Pháp này trên áo Tiểu phục của Ngài.

Hiệp ba món ấy lại với nhau để tượng trưng Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là “Tam Giáo Qui Nguyên”, là đem ba Tôn giáo lớn ở Á Đông (Phật giáo- Tiên giáo - Nho giáo) hiệp về một gốc là Đại-Đạo, do Đức Thượng Đế làm chủ.

Phật Mẫu Chơn Kinh có câu:
“Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
“Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn”.

Ngòai ra Ðạo Cao Ðài gồm có tất cả năm Cổ pháp:
* CỔ PHÁP HỘ-PHÁP: gồm Bình Bát vu, Cây Phất chủ và Kinh Xuân Thu. Cổ Pháp nầy có ý nghĩa là Ðức Hộ Pháp nắm trọn Bí-Pháp Tam giáo, để thực hiện Tôn chỉ “Qui Nguyên Tam Giáo” trong thời Tam-Kỳ Phổ-Độ.

* Cổ Pháp Thượng Phẩm: gồm Phất chủ và Long Tu phiến đặt chồng lên nhau. Cổ pháp nầy có ý nghĩa là Ðức Thượng Phẩm dùng pháp bửu đưa các chơn hồn đắc Đạo đi lên; vào Tam thập Lục Thiên hay Cực Lạc thế Giới
* Cổ Pháp Thượng Sanh: gồm Phất chủ và Thư Hùng kiếm, gác tréo lên nhau. Cổ Pháp nầy có ý nghĩa là Ðức Thượng Sanh dùng pháp bửu để trị thế, dọn đường cho nhơn sanh đi vào cửa Ðạo.

* CỔ PHÁP GIÁO-TÔNG: gồm Cổ Pháp Thượng Phẩm và Thượng Sanh ghép chung  lại.    ba  pháp  bửu:
Phất chủ, Long Tu phiến, Thư Hùng  kiếm,    ý  nghĩa 

Ðức Giáo Tông nắm Cơ chuyển  thế, giáo hóa  nhơn  sanh, hướng Ðời vào Ðạo, làm cho Ðời tận thiện tận mỹ.

* Cổ Pháp Chưởng Pháp: mỗi Chưởng Pháp có Cổ Pháp riêng.
- Thái Chưởng Pháp có Cổ pháp là  Bình Bát vu.
- Thượng Chưởng Pháp có Cổ pháp là  Cây Phất chủ.
- Ngọc Chưởng Pháp có Cổ pháp là  Kinh Xuân Thu.
Nhập ba Cổ pháp của ba Chưởng pháp thành Cổ Pháp Hộ Pháp cũng là biểu hiệu của nền Ðại-Ðạo mà Đức Hộ Pháp là Giáo Chủ về hữu hình. Còn Giáo Chủ vô vi là Đức Thượng Đế. Ấy cũng là một điều độc đáo về lý Âm Dương Thiên- Nhơn đồng trị: Người trị xác, Trời trị hồn.

Luận:
- Hiệp Thiên Đài có ba Cổ Pháp: Hộ Pháp, Thượng phẩm, Thượng Sanh.
- Cửu Trùng Đài có hai Cổ Pháp:Giáo Tông,Chưởng Pháp.

Điều này thấy rõ cái lý “Tham Thiên Lưỡng địa”:
- Đức Hộ Pháp và Giáo Tông mỗi Cổ Pháp có ba pháp bửu là người “thay Trời tạo thế” phải đủ tam tài.  (Nhứt Phật)
- Thượng Phẩm và Thượng Sanh: mỗi Cổ pháp có hai pháp bửu là đứng vào Âm Dương nhị khí  (Nhị Tiên).
- Chưởng Pháp mỗi vị chỉ có một pháp bửu mà thôi, tức là qui về điểm đơn nhất Thái cực (số 1)

Đặc biệt là hai con số 2 và 3: Số 2    Thiếu  Âm,  3 là Thiếu Dương. Cọng chung lại 2+3=5 đó là Ngũ Hành, nên:
- Cổ-Pháp của Thượng-Sanh:Phất Chủ và Thư Hùng-Kiếm; -Cổ Pháp của Thượng-Phẩm: Phất  Chủ và Long Tu Phiến.   Ấy là Lưỡng nghi. Hai vị Thượng Phẩm và Thượng Sanh là Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Giờ đây Cổ-Pháp của hai vị này họp lại là CỔ-PHÁP của Giáo-Tông (Cửu Trùng Đài).
Trong khi đó Cổ pháp của Mỗi Chưởng Pháp chỉ có một, ấy là số Thái cực. Hiệp cả ba lại là Tam tài.
d/ - Luận về Tham Thiên lưỡng địa:

(Tham là dự vào, tham là nói về con số 3 mà tự nó không thể chia lìa, như “tham thiên” tức là dự vào việc của trời ấy là Thiên- Nhân- Địa. Tam cũng là ba nhưng có thể chia lìa được. Tương tự như thế có:

Lưỡng là hai, nhưng Lưỡng là dùng vào việc không thể chia lìa: Lưỡng mục, lưỡng thê (loài vật vừa sống dưới nước vừa sống trên cạn), lưỡng quyền (hai gò má). Còn có thể chia lìa được thì gọi là Nhị, như nhị nhân (hai người). Chỉ có người mới được gọi là “tham thiên lưỡng địa”.

“Đây là nói qui tắc và hạn số vận chuyển pháp luân mà trong Kinh Dịch gọi là “Tham Thiên lưỡng địa” vì *Trong năm con số sanh của Ngũ hành là 1,2,3,4,5 thì:
- Số trời có ba số lẻ (1,3,5) cộng ba số này lại thành 9.
- Số đất có hai số chẵn  (2,4) cộng hai số này lại thành 6
Số 9 là số Thái Dương; số 6 là số Thái Âm.

* Tham Thiên Lưỡng địa còn có thể giải thích: Bát Quái mỗi quẻ có ba hào, số 3 là số quan trọng trong Kinh Dịch:
- Lấy số 3 mà nhân 3 thì thành 9 (3x3=9) gọi là Tham Thiên, số Trời, số Thái Dương.
- Lấy số 3 nhân cho 2 thành ra số 6 (3x2=6) gọi là Lưỡng địa, vì số 2 là số chẵn, số đất. Số 6 là số Thái Âm.
.Hào quẻ Càn dùng số 9 (Cửu),
.Hào quẻ Khôn dùng số 6 (Lục).

Dùng số 9 của quẻ Càn mà nhân cho 4 thì được 36. Áp dụng con số này làm chiều cao 36m của hai Đài Lôi Âm Cổ và Bạch Ngọc Chung (hai bên Hiệp Thiên Đài) của Đền Thánh- Tòa Thánh Tây Ninh.

Dùng số 6 trong quẻ Khôn nhân 4 thì được 24: Áp dụng con số này làm chiều cao cho Nghinh Phong Đài Đền Thánh có chiều cao 24 m. (Số 4: thượng nguơn tứ chuyển).

Lấy 36 và số 24 nhân 4 lần (36x4= 216) +(24x4=144)=360
Số thăng giảm đều số 4. Hiệp lại thành 360 (vòng tròn 360o), đó là hoàn thành độ số vận chuyển pháp luân. Phép tu tánh mạng (trung đạo) dùng phương pháp này để tịnh dưỡng vận chuyển pháp luân bằng cách hô hấp đúng theo qui tắc mà vận hành: Càn Cửu Khôn Lục”.

Tại sao có số 3 ?
(ví như 3 ly RƯỢU trên Thiên bàn)

- Dịch Hệ Từ thượng viết rằng: “Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi…” nghĩa là Dịch có Thái cực liền sinh hai ngôi. Vậy Thái cực là Một, Lưỡng nghi là hai (Âm –Dương). Thái cực họp với Lưỡng nghi thành 3. Có 3 rồi mới sinh ra Tứ tượng, biến Bát Quái, từ đó mới biến hóa vô cùng. Vậy số 3 là đầu mối của vạn  vật.

Ông Thiệu Khang Tiết cho rằng Số 3 được gọi là số chân chính và đó là số đầu của Trời- Đất.
- Cũng cùng một ý ấy, Đức Lão-Tử nói rằng “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, Nhị sinh tam, Tam sinh vạn vật” nghĩa là Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Vậy số 3 chính là nguyên tắc tạo thành vạn vật vậy.

- Luật tam nguyên trên đây không phải là chỉ tìm thấy trong Dịch học, Lão học ở Trung Hoa mà còn tìm thấy trong nhiều tín ngưỡng trên thế giới như:
. Ấn Độ có ba vị Thần: Brahma, Shiva, Krishna.
. Ở Ba-Tư có ba vị Thần là Ormuzd (Thiện), Ahrimane
 (Ác), và Nithra (dung hòa).

. Ở Ai cập có ba vị Thần là Shou (khí), Tefnet (hư không) và Atoum (dung hòa).
. Trên Thiên bàn CHÍ-TÔN cúng phẩm phải đủ ba  chung Rượu trắng (số 3 là số tham thiên) và hai tách nước (nước trà  -Âm và nước trắng- Dương, ấy là 1+1=2).  Số 2 là số Lưỡng Địa (Lưỡng nghi).Như đã biết Ngũ hành:
-  3 Số lẻ là Dương:  1,3, 5
-  2 Số chẵn là Âm:  2, 4   

Trong các số trên thì số 9= 1+3+5 là do tòan số lẻ (dương) cộng lại, gọi là thùân Dương hay Lão Dương tức là Số trời  (Thiên) và số 6= 2+4 là do tòan số chẵn cộng lại mà nên, được gọi là số thùân Âm hay Lão Âm tức số đất (Địa).

Ngòai ra số Trời 9=3x3 gấp 3 lần số 3 được gọi là số “Tham Thiên” (ngang với trời), còn số đất 6=2x3 tức là  2 lần 3. Số 2 gọi là Lưỡng địa (2 lần mà thành đất). Do đó hai số 3 và 2 vừa nói trên gọi là “Tham Thiên lưỡng địa”.

Số 2+3= 5 (ngũ trung) là số  của  hành  Thổ. 
Thiệu Khang Tiết nói “Thổ giả, Âm dương, Lão Thiếu: Mộc, Hỏa, Kim, Thủy xung chi khí, sở kết dã” (Thổ là nơi mà Âm Dương, Tứ Tượng cùng các hành: Mộc, Hỏa, Kim, Thủy kết hợp tất cả với nhau tạo thành Khí Hư vô (Lão, Thiếu tức Lão dương, Lão âm; Thiếu dương, Thiếu Âm). Như vậy Thổ số 5 là nơi chứa Khí Hư vô (tức là Đạo) và đầy đủ cả Âm- Dương, Ngũ hành.

Lại nữa, hai số Tham Thiên lưỡng Địa là đầu mối của việc lập Quẻ, chế ra Hào. Thuyết quái truyện viết rằng: “Tham Thiên lưỡng địa nhi ỷ số, quan biến ư Âm- Dương nhi lập Quái, phát huy ư cương- nhu nhi sinh Hào” nghĩa là dựa vào hai số Tham thiên (3) Lưỡng địa (2) để quan sát sự biến hóa của Âm –Dương mà lập quẻ, phát huy sự cứng mềm mà sinh ra các Hào.

Vậy khi đã có hai rồi thì phải có 3 cho đúng luật “Tham Thiên Lưỡng địa” vậy.
Gần đây nguyên lý 3- 2 “Tham Thiên Lưỡng địa” đó đã được đem áp dụng vào khoa Vật lý học nguyên tử. Nguyên là hai nhà bác học người Trung hoa là Lee Tsung-Dao và Yang-Chen-Ninh đã thí nghiệm và chứng minh được rằng khi một hạt nguyên tử nổ thì sẽ phóng ra những ly tử Âm và ly tử Dương dài không đồng đều nhau: tia ly tử dương bao giờ cũng có bề dài 3 đơn vị và tia ly tử Âm dài 2 đơn vị, nghĩa là đúng theo luật 3/2 của hai số “Tham Thiên Lưỡng địa” này. Nhờ cuộc thí nghiệm và chứng minh thành công mà hai nhà Vật lý trẻ tuổi này được Giải thưởng Nobel về Vật-lý-học năm 1957.

Tóm lại: “Tham Thiên Lưỡng địa” được giải rõ:
- Có thể chia lìa nhau được gọi là “Tam” là 3; không thể chia lìa nhau gọi là “Tham” (là dự vào 3).
- Tương tự: có thể chia lìa nhau được gọi là “Nhị” là 2; không thể chia lìa nhau gọi là “Lưỡng” (2 ngôi).

Các cúng phẩm trên Thiên bàn có một ý nghĩa cao siêu không thể thay đổi được, mà phải tầm lý Đạo để hiểu biết: ấy là lý “Tham Thiên Lưỡng địa”. Trong Tam Tài: Thiên- Nhân- Địa thì chỉ có con người đứng giữa trời đất mới được tham dự vào chuyện của trời đất mà thôi. Nay là thời “Nhơn sanh ư Dần” cũng không ngòai ý nghĩa ấy.

Đó là kết quả của hai quẻ CÀN KHÔN tức nhiên cả hai đều có 3 hào Dương và 3 hào Âm, nhưng Khôn thì có số vạch gấp đôi (2 lần) của Càn, Ấý là thành quả 3/2 của “Tham Thiên Lưỡng địa” đó.

Hơn nữa ba ly rượu có thể nói là tượng cho ba cõi trời: Thượng, Trung, Hạ. Mỗi ly rượu  rót ba  phân    chỉ người tu có ba bậc: Nguyên nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân.

Dâng Tam bửu thì một ly bằng 9 phân là hợp nhất.
Ngày trước thì Đức Chí-Tôn độ các Nguyên nhân trước, kế đến Hóa nhân, sau cùng là Quỉ nhân, nên Kinh là:
“Tùân-huờn phục vị Thiên môn,
“Nguơn linh, Hóa chủng, quỉ hồn nhứt thăng”.

Ngày nay là cơ Đại Ân xá của Chí Tôn nên Thầy cho về cùng một lượt. Kinh Phật Mẫu có câu:
“Trùng huờn phục vị Thiên môn,
“Nguơn linh, Hóa chủng, quỉ hồn nhứt thăng”.

Vì là “Trùng huờn” tức nhiên về cùng một lượt nên có một số còn giữ “bản chất quỉ” mà thường xảy ra việc muốn phá họai nền Chánh giáo của Thầy, Thầy cũng dùng họ cho làm “Giám khảo” để duợt kiếp khiên trong hàng Thánh Thể, tức là dùng làm chất xúc tác, nói nôm na là chất phèn để lóng cho nước thêm trong. Trong cơ:
 “Thưởng phạt đến cùng Thánh đức thôi”

Ba ly rượu trên Thiên bàn có mang số 6- 7- 8 ấy là hình ảnh của các Tiên Nương nơi Diêu-Trì-Cung đến giáo hóa trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này đồng thời cũng là chấm công quả nữa:
- Số 6 ấy là Lục Nương Diêu-Trì-Cung, là Thánh Jeanne-D’Arc, tiền kiếp là người Pháp. Nay với trách nhiệm “phất phướn truy hồn”
- Số 7 là Thất Nương Diêu-Trì-Cung, người đến trước nhứt để độ dẫn, giả danh Đòan Ngọc Quế, nhiệm vụ là “khêu đuốc Đạo đầu”. Đồng thời báo cho nhân lọai biết giờ này Đức Chí-Tôn đến ban cho một nền VƯƠNG Đạo lấy LỄ làm đầu, dùng Nho Tông Chuyển thế, qua tánh danh Tiên Nương VƯƠNG THỊ LỄ.
- Số 8 là Bát Nương Diêu-Trì-Cung, là Tiên Nương

Hớn Liên Bạch. Trong buổi này thì:
“Bát Nương thật Đấng Chí linh,
“Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu”.

Ba Tiên Nương là hình ảnh ba ly Rượu trên Thiên bàn thuộc về KHÍ. Trong số này thì Lục Nương là người Pháp (Tây), Bát Nương là Trung Hoa (Đông), Thất Nương gốc Việt Nam. Tiên Nương đến trước nhất đứng vào chữ CHÁNH, người đứng giữa 3 con số nên được chữ TRUNG Nếu cộng cả ba số lại chia đều cho 3 thì cũng vẫn số 7 là con số chỉ Thất tình, Tu để biến thành Thất bửu. Đấy là 3 người, ở 2 phương Đông Tây hòa hợp trong nền Tôn giáo.

e/- Lý Âm Dương nhặc nhiệm:

Dầu là khởi điểm, nhưng những việc tế vi, ít người lưu ý mà cũng có bàn tay của Thượng Đế sắp đặt:
- Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung Nhập môn vào Đạo tại nhà Đức Cao Thượng Phẩm, ngày 11-01-1926.
- Đức Chí Tôn mượn bàn tay của Đức Thượng Phẩm chấp nhang để trục Thần của Ngài Phạm Công Tắc ra để chơn linh HỘ-PHÁP VI-ĐÀ nhập vào đêm 13-05-Bính Dần tại nhà Ngài Lê Văn Trung.

Thế mới thấy rằng Âm Dương luôn hiển hiện ở mọi nơi, mọi chỗ, không có chỗ nào mà không có Âm Dương.
- Đức Văn Trung (Đời) mà nhập môn ở nhà Đức Cao Thượng Phẩm (Đạo) là “Đời trong Đạo”.
- Đức Hộ-Pháp (Đạo) mà Thầy trục Thần Ngài ở nhà Đức Văn Trung (Đời). Vậy là “Đạo trong Đời”

Lúc khởi Xây bàn cũng có hai loại bàn:
- Bàn tròn có một trụ ở giữa và ba chân, ban đầu dùng  Xây bàn tại nhà ông Cao Hoài Sang (hiện là Thượng Sanh- Chi Thế) ở phố Hàng Dừa. Bàn này mặt tròn có đường kính 51 phân, bàn cao 79 phân. Hiện chiếc bàn tròn được lưu giữ nơi Thảo Xá Hiền Cung – Tây Ninh.

- Bàn mặt vuông bốn chân dùng Xây bàn tại nhà ông Cao Quỳnh Cư (hiện là Thượng Phẩm – Chi Đạo) ở  số 134 đường Bourdais (Sài-Gòn). Chiếc bàn vuông mỗi cạnh là 44 phân, cao 75 phân, hiện được lưu giữ nơi Nữ Đầu Sư Đường- Tòa Thánh - Tây Ninh.

Như vậy khi Xây bàn tại nhà ông Cao Hoài Sang thì sử dụng bàn tròn “Dương trong Âm”. Khi xây bàn tại nhà ông Cao Quỳnh Cư thì sử dụng bàn vuông “Âm trong Dương”. Tuy việc làm này về phía người thì hoàn toàn không có sự chuẩn bị, nhưng hầu như thiêng liêng đã chuẩn bị một cách chu đáo, đủ thấy rằng Đạo Trời không một điều gì thừa, cũng không một điều gì thiếu hết, là do:
Âm Dương tương hiệp:
 “Theo Bí-Pháp Chơn-Truyền của cơ sanh hóa phải có đủ Âm Dương, trong sanh quang chúng ta có điện quang (Positif và Négatif) cũng như vạn vật có trống mái. Nền Tôn Giáo nào có đủ Âm Dương thì mới vĩnh cữu. Như Ðức Chúa Jésus ngày trước bị đóng đinh trên cây Thánh Giá đầu thuận lên trên gọi là đạt dương. Ông Thánh Pierre là Ðệ nhứt Tông Ðồ bị đóng đinh trở ngược lại, gọi là phản âm. Âm Dương tương hiệp đúng theo Bí Pháp, nên Ðạo Thánh lưu truyền lại hai ngàn năm, không ai dùng quyền gì tiêu diệt đặng”.

KẾT LUẬN:
3 Chưởng Pháp đầu tiên Chí Tôn phong:
- Tương (Minh Sư) Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thượng" Ngày 24-07-Bính Dần.
- Như Nhãn (Huề Thượng Giác Hải): Quảng Pháp Thuyền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Linh Diệu Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thái".
- Thụ (Minh Sư: Vĩnh Nguyên Tự) Nho Tông Chưởng   Giáo Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Ngọc" Phong ngày 10-9-Bính Dần.

A- Ðạo Phục của THÁI CHƯỞNG PHÁP:

CG: Ðạo Phục của Thái Chưởng Pháp có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng màu vàng (màu Ðạo) có thêu chữ BÁT QÚAI y như Bộ Tiểu Phục Giáo Tông, ngoài thì choàng Bá Nạp Quang màu đỏ, tức gọi là Khậu, đầu đội Mão Hiệp Chưởng Hòa Thượng tay cầm bình Bát Vu, chơn đi giày vô ưu cũng màu vàng, một sắc với áo, trước mũi có chữ "Thích".

Bộ Tiểu Phục thì cũng màu vàng, y như áo Ðại Phục, ngoài không đắp khậu, không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ Nhứt.

LUẬN ĐẠO
CG: Bộ Ðại Phục thì toàn bằng màu vàng (màu Ðạo) có thêu chữ BÁT QUÁI y như Bộ Tiểu Phục Giáo Tông.

Hai bộ Đạo phục là đủ lý Âm-Dương. Nhưng với Thái Chưởng Pháp áo màu vàng (màu Đạo) tức phái Phật, mà có thêu chữ BÁT QÚAI y như Bộ Tiểu Phục Giáo Tông, ấy xem như có nửa quyền của Giáo Tông, cũng là Bát Quái Luyện Đạo (xem Bát Quái Hư vô. Trang 68) để cùng với Đức Giáo Tông hòan thành con Đường Thiên Đạo mà Chí Tôn đã ủy thác qua Pháp Chánh Truyền.

- Ngoài thì choàng Bá Nạp Quang màu đỏ, tức gọi là Khậu: Bá nạp quang hay Bá-nạp-y là một lọai áo của các tu sĩ Phật giáo. Sở dĩ gọi là bá nạp là vì áo ấy được kết bằng hằng trăm miếng vải vụn (thời nguyên thủy). Theo luật của nhà Phật thì các vị tu sĩ phải góp nhặt vải vụn để kết lại thành áo mặc: ấy là chịu đựng sự khổ hạnh là hạnh của người tu. (Ngày nay có khác hơn nhiều)

- Đầu đội Mão Hiệp Chưởng Hòa Thượng…
 (Hiệp: Hợp hay Hiệp, là hợp lại, góp lại, gồm cả, đúng phép, đúng khớp. Chưởng: bàn tay. Mạo: cái mão) Hiệp Chưởng Mạo là cái mão đội trên đầu có hình dáng giống như hai bàn tay úp lại.
- Đức Giáo Tông, khi mặc Tiểu phục thì đội mão Hiệp Chưởng.
- Thái Chưởng Pháp, khi mặc Đại phục thì đội mão Hiệp Chưởng Hòa Thượng của nhà Thiền.
- Thượng Chưởng Pháp, khi mặc Đại phục thì đội mão Hiệp Chưởng màu trắng y như mão Tiểu phục của Giáo Tông.
- Giáo Sư phái Thái, khi mặc Đại phục cũng đội mão Hiệp Chưởng của nhà Thiền.
- Tay cầm bình Bát Vu, là cái vật chứa thức ăn khi đi khất thực, nhưng công dụng bình Bát Vu của Phật thì to lớn lắm, Đức Hộ-Pháp nói: “Bần-Đạo xin nói thật, Đức Phật Thích-Ca, dầu sự trị thế của Ngài đã hết, chúng ta chỉ nói là hết thôi. Hai ngàn năm trăm năm (2.500) lập Đạo trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, Môn-đệ của Ngài nhiều lắm, các người đừng tưởng Ông già ăn mày ấy không đủ quyền năng mà các người khi dễ. Nội cái Bình Bát-Vu của Ông đựng cả chơn hồn trong Càn Khôn Vũ Trụ, Ông ăn mày tại thế này vậy mà ngôi vị Cực Lạc Thế Giới của Ông các người xin một phẩm Liên Hoa, Ông có thể cho, là một người không nên khi dễ, không nên nguội lạnh với người đó, bởi vì Môn đệ của Ngài trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống nhiều lắm.”

- Chơn đi giày vô ưu cũng màu vàng, một sắc với áo, trước mũi có chữ "Thích" . Chơn đi giày vô ưu chứng tỏ người tu đã chứng ngộ, dẹp hết phiền não. Trước mũi giày có chữ THÍCH   chỉ phái  Phật  (Thích Ca)
- Bộ Tiểu Phục thì cũng màu vàng, y như áo Ðại Phục, ngoài không đắp khậu, không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ Nhứt.

Khăn của Thái Chưởng Pháp là khăn đóng chín lớp chữ Nhất Số 9 (do 3x3=9) tượng cho Cửu Trùng Đài  (nhắc lại: Chưởng Pháp là người có phận sự đặc biệt của Hiệp Thiên-Ðài mà phẩm vị lại ở bên Cửu-Trùng-Ðài. Ấy là Thánh ý của Ðức Chí Tôn  muốn  Cửu-Trùng-Ðài  phải    Hiệp Thiên Ðài chăm nom gìn giữ làm thế nào cho nền Chơn giáo của Ðức Chí Tôn không qui phàm).

Số 9 là con số huyền diệu. Huyền diệu hơn hết là số đó. Nó là cơ chuyển biến đến mực độ tận thiện tận mỹ, toàn tri, toàn năng. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến 9 rồi trở về 0 là vậy, là vô cực; nhưng hữu hình bằng 1 (nhất).

Chữ Nhứt- (là Thái cực) Dịch nói: Vô cực cũng là Thái cực. Khi cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh Số 9 là số gấp 3 tam nguyên, ấy Thái cực biến hóa ba ngôi, mỗi ba ngôi lại biến hóa nữa thành ra Cửu chuyển.

Khăn đóng ở đây khác với khăn của Đạo Hữu chỉ bảy lớp chữ Nhơn là hãy còn Thất tình vướng bận.

B - Ðạo Phục THƯỢNG CHƯỞNG PHÁP

CG: Ðạo Phục Thượng Chưởng Pháp có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
- Bộ Ðại Phục thì toàn hàng trắng. Nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí. Đầu đội mão Hiệp Chưởng (Mitre) màu trắng, y như kiểu mão Tiểu Phục của Giáo Tông. Tay cầm Phất Chủ. Chơn đi giày vô ưu cũng màu trắng trước mũi có chữ "Ðạo".

- Bộ Tiểu Phục thì màu trắng y như áo Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu trắng chín lớp chữ Nhứt.

Luận Đạo:
Đạo phục của Thượng Chưởng Pháp có hai bộ ấy là lý Âm Dương đã thể hiện rõ trong quyền hành của Người. Đặc biệt là Thượng Chưởng Pháp mặc sắc phục trắng y như Đạo phục Giáo Tông. “Đầu đội mão Hiệp Chưởng (Mitre) màu trắng, y như kiểu mão Tiểu Phục của Giáo Tông” xem như Người có nửa quyền của Giáo Tông, tức là “có quyền thay thế cho Giáo Tông khi vắng mặt”.

- Nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí. Thiên Nhãn Thầy là biểu tượng của nền Đại Đạo kỳ ba, mục đích cứu thế và chuyển thế. Thiên Nhãn đặt phía trứơc là sự nhập tâm giáo lý, giáo Pháp Đại Đạo. Thiên Nhãn phía sau là sự phổ hóa chúng sanh, hòăng khai Đại Đạo. Vòng Minh khí là ánh sáng minh triết của người tu: học Đạo, hiểu Đạo là cái văn minh tinh-thần đã khởi điểm, tạo cho mình nguồn ánh sáng tỏa ra ngòai, nên tự nó phát ra bằng vòng Minh-khí.
- Đầu đội mão Hiệp Chưởng (Mitre) màu trắng, y như kiểu mão Tiểu Phục của Giáo Tông. (Xem phần trên)
- Tay cầm Phất Chủ. (Phất chủ là gì ?)

PHẤT CHỦ (TRẦN)
E: The dust brush of the immortals
F: L’époussette des immortels

Phất trần 拂塵 hay Phất chủ 拂麈 là cây chổi Tiên  để quét sạch bụi trần.(Phất là quét, Chủ là con chủ) Phất chủ là cây chổi quét bụi làm bằng lông đuôi con Chủ. Do vậy mà Phất chủ còn được gọi là Phất trần (phất: quét; trần là bụi) Con Chủ là một loài thú, thuộc loại nai, hình dáng như con huơu nhưng lớn hơn, có lông đuôi dài chấm đất, khi đi thì cái đuôi của nó phe phẩy như để quét bụi. Thông thường thì con Chủ đi trước, đàn huơu đi theo sau, con Chủ đi đến đâu phẩy sạch bụi đến đó.

            Các vị thường dùng lông đuôi con Chủ để quét bụi. Nhưng đây nói là cây chổi Tiên, nên nó rất nhiều huyền phép nhiệm mầu, dùng nó để quét sạch bụi bám vào Chơn Thần làm cho Chơn Thấn không còn ô-trược, nó cũng là chổi để quét sạch tâm hồn, làm cho tâm thêm sáng tỏ. Do đó Phất chủ là bửu bối của Tiên gia. Đạo Cao Đài chọn Phất Chủ làm Cổ Pháp tượng trưng Tiên giáo hay Lão giáo. Theo Bí pháp, Phất Chủ là kết tụ điển khí của Thất bảo Diêu Trì Cung  để sửa trau Chơn Thần cho tinh khiết.

Cây Phất Chủ là của Đức Thái Thượng Lão Quân,  chính nó là bảo vật của Tiên gia. Các vị Tiên trong tranh  vẽ thường thấy cầm cây Phất Chủ.

- Chơn đi giày vô ưu cũng màu trắng trước mũi có chữ "Ðạo”
Người mang “giày vô ưu” là giác ngộ đến bậc siêu phàm, đã thật sự “chết đời sống Đạo” tức nhiên chỉ biết phụng sự nhơn sanh, tức là Phụng sự TRỜI mà thôi.
- Bộ Tiểu Phục thì màu trắng y như áo Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu trắng chín lớp chữ Nhứt. Khăn đóng chín lớp hình chữ nhất .Chín lớp là nói về giá trị của con số 9 (Như trên)

Đây là chỉ Chức Sắc thuộc Cửu Trùng Đài cũng có ba cấp, mỗi cấp có 3 phẩm (3x3=9)
- Tiên vị:  Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư.
- Thánh vị:  Phối Sư,  Giáo Sư,  Giáo Hữu.
- Thần vị: Lễ Sanh, Bàn Trị Sự, Môn đệ của Thầy.
Cả Cửu Trùng Đài đặt dưới Quyền Giáo Tông là Anh Cả

C - Ðạo Phục của NHO CHƯỞNG PHÁP

CG: Ðạo Phục của Nho Chưởng Pháp có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
- Bộ Ðại Phục thì toàn bằng màu hồng (màu Ðạo). Nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí. Ðầu đội mão Văn Ðằng màu hồng, trên mão ngay trước trán có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí và trên có sao Bắc Ðẩu Tinh Quân. Tay cầm bộ Xuân Thu. Chơn đi giày vô ưu màu hồng trước mũi có chữ "NHO"

 - Bộ Tiểu Phục cũng hàng màu hồng, y như áo Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu trắng chín lớp chữ Nhứt. 

Bắc Đẩu Tinh Quân 北斗星君
E: The polar star.
F: L'étoile polaire.

Bắc Ðẩu là ngôi sao Bắc Ðẩu, là một định tinh, dùng để định chính xác hướng Bắc của Ðịa cầu.

Ở Miền Nam Việt Nam khó nhìn thấy sao Bắc Ðẩu hơn miền Bắc Việt Nam vì ngôi sao Bắc Ðẩu nằm gần sát chơn trời, nên thường bị cây cối che khuất. Vị trí của ngôi sao Bắc Ðẩu ở chừng 10 độ so với đường nằm ngang.

Cách tìm sao Bắc Ðẩu:
Muốn tìm sao Bắc Ðẩu để định hướng Bắc, trước hết phải tìm chùm sao Ðại Hùng tinh (Chùm sao Gấu lớn: Grande Ourse) gồm 7 ngôi sao khá sáng xếp theo hình bánh lái, dễ nhìn thấy trên bầu Trời về đêm, hoặc tìm chùm sao Thiên Hậu gồm 5 ngôi sao xếp đặt theo hình chữ M, rồi mới tìm chùm sao Tiểu Hùng tinh (Chùm sao Gấu nhỏ: Petite Ourse). Chùm sao Gấu nhỏ có 7 ngôi sao, nên được gọi là Thất Tinh, sao Bắc Ðẩu nằm trên đầu cán của chùm Thất Tinh nầy.

Trên Quả Càn Khôn thờ nơi Bát Quái Ðài của Tòa Thánh, Ðức Chí Tôn bảo vẽ Thiên Nhãn ngay phía trên sao Bắc Ðẩu. Ấy là một định tinh ở tại trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ, các ngôi sao khác đều chuyển động quanh ngôi Bắc Ðẩu và trục quay của các hành tinh đều hướng về sao Bắc Ðẩu. Đây là chỉ ngôi Trời,Đức Chí Tôn đang ngự.

Luận: Áo mão hai bộ cũng như hai Chưởng Pháp trên. Duy có Mão Văn Đằng (Văn:văn chương, chữ nghĩa. Đằng là sao chép lại). Mão Văn Đằng tục gọi là mão cánh chuồng, là mão của các quan đời xưa. Quan ở cấp bực dưới thì hai cánh ngang nhau, Quan cấp trên thì hai cánh dựng đứng hoặc xiêng là tùy theo cao, thấp. Mão Văn Đằng ở đây giống như bực Thừa Tướng ngày xưa. Mão này màu hồng (màu Đạo). Phía trước mão, trên trán có thêu Thiên Nhãn Thầy. Thiên Nhãn Thầy ngòai ý nghĩa là biểu tượng của nền Đại Đạo mà còn có nghĩa là người hành Đạo không bao giờ làm sai lệch tôn chỉ, mục đích, giáo lý, giáo pháp uy nghiêm của Ông Thầy Trời. Ở đây trên bộ Đại phục của Nho Chưởng Pháp có tất cả là ba Thiên Nhãn Thầy ấy là hiệp Tam Tài rồi vậy. Vòng Minh Khí là chỉ sự trau luyện của người tu đến mức độ cao và tự tỏa sáng ra.
- Bao quanh một vòng Minh Khí và trên có sao Bắc Ðẩu Tinh Quân. Sao Bắc Đẩu là nơi Chí-Tôn ngự, là hướng tới để đưa chúng sanh về nguồn cội là Thượng Đế.
- Tay cầm bộ Xuân Thu. Kinh Xuân Thu là pháp bửu của Nho giáo. Chơn đi giày vô ưu màu hồng trước mũi có chữ "NHO" .Tất cả là chỉ Đạo Nho (Thánh). Là nhu cầu cần thiết của người tu, là lấy Nhơn đạo làm căn bản.

Ý nghĩa Kinh Xuân Thu:

Tên quyển Kinh do Đức Khổng Tử san định vào lúc cuối đời của Ngài, sau khi Ngài đã san định Ngũ Kinh.

Xuân Thu nguyên là bộ Sử ký của nước Lỗ do Đức Khổng Tử (551-479 trước Tây lịch) san định lại, tức là ghi chép  những việc quan trọng xảy ra hằng năm, từ năm đầu Vua Lỗ Ẩn Công nguyên niên, là năm 49 đời vua Chu Bình Vương nước Lỗ đến năm thứ 14 đời vua Ai-Công nước Lỗ, tức là năm thứ 39 đời vua Chu Kinh Vương, gồm 12 đời Vua, cộng tất cả 242 năm. Đây là loại Sử biên niên:  đánh dấu giai đoạn lịch sử Trung Hoa, thời kỳ mạt điệp nhà Châu, ngôi Thiên Tử suy nhược, bị Ngũ-Bá: Tề Hoàn Công, Tấn văn Công, Tần Mục Công, Tấn Tương Công, Sở Trang Công, nổi tiếng lấn át quyền Thiên Tử, các nước chư hầu tranh lẫn nhau, các sử gia gọi là thời đại hỗn loạn nên người đời sau đã mượn tên Kinh Xuân Thu để gọi thời đại ấy là “thời đại Xuân Thu” (722-480 trước Tây lịch).

Dù Kinh Xuân Thu là cuốn Sử ký, nhưng khi ghi chép, Đức Khổng Tử đã vận dụng văn tự và bút pháp để khen chê, hầu phân biệt kẻ thiện người ác hết sức minh bạch và đanh thép. Người đời sau phải công nhận đó là búa rìu trong Kinh Xuận Thu “Xuân Thu  phủ việt”.Như đã nói: Đức Khổng Tử làm Kinh Xuân Thu mà bọn loạn thần tặc tử sợ“Khổng Tử tác Xuân Thu nhi loạn thần tặc tử cụ”.

Kinh Xuân Thu đã có tác dụng về đạo lý, giữ một địa vị quan trọng trong nền văn hóa phương Đông nói chung, Nho giáo nói riêng, trong sự biểu dương học thuyết “Chính danh, Nhất quán, Trung dung, Đại đồng” của vị “Vạn Thế Sư biểu” mà Việt Nam chịu ảnh hưởng hơn 2.000 năm.

Kinh Xuân Thu còn có tính cách điển hình làm gương mẫu cho người đời sau phải tôn trọng danh dự và nhiệm vụ trong khi viết sử. Kinh này được liệt vào năm bộ Kinh căn bản của Nho giáo: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu. Về văn chép sử của Kinh Xuân Thu rất tóm tắt, hàm súc nên ít người hiểu thấu; thế nên về sau có ba nhà học giả làm thêm Tam Truyện để giải ý nghĩa của Kinh Xuân Thu.

KẾT LUẬN:
Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa nói thêm về:
"CHƯỞNG PHÁP (Cardinal-Censeur): Ba vị Chưởng Pháp là người có phận sự đặc biệt của Hiệp-Thiên-Ðài mà phẩm vị lại ở bên Cửu-Trùng-Ðài. Ấy là Thánh ý của Ðức Chí Tôn  muốn  Cửu-Trùng-Ðài  phải    Hiệp Thiên Ðài chăm nom gìn giữ làm thế nào cho nền Chơn giáo của Ðức Chí Tôn không qui phàm, nhờ vậy mà Chánh Trị Ðạo không tự tung tự tác, tự do canh cải mà làm mất nét đạo đức, để xứng đáng là một nền Chánh-trị của TRỜI tại thế có sự công bằng hy hữu vậy”.

Khi “Hộ Pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy truất quyền Giáo Tông Nữ Phái thì đã đành, song quyền Chưởng Pháp thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.

Thầy dạy: "Chưởng Pháp cũng là Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng Ðài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị Giáo Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa vị Hộ Pháp, con ! Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt thòi, lẽ Thiên Cơ đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ Thương yêu binh vực thay Thầy kẻo tội nghiệp  !”

 Thượng Chưởng Pháp có quyền thay thế cho Giáo Tông khi vắng mặt (Pour remplacer le Pape par intérim). Áo của Giáo Tông màu trắng tức là màu nguồn gốc của Ðạo. Ðạo không màu sắc, hay tượng trưng một màu rất trong sạch là trắng, là màu vô tội, trắng có thể biến ra các màu vàng, xanh, đỏ.. ..Trái lại, các màu sắc khác không thể làm nên màu trắng. Màu trắng tức là qui hồi căn bổn vậy. Màu trắng là màu nguyên thủy- là Đạo”.

Trong 3 phái: Thái -Thượng- Ngọc thì phái Thượng ở giữa được (chữ chính) và (chữ trung); còn hai vị Chưởng Pháp kia thì màu áo theo sắc phái mình.

Lời Thỉnh Giáo của Tiếp Lễ Nhạc-Quân về Ba vị Chưởng-Pháp:
-  Phái Ngọc mặc sắc phục đỏ.
-  Phái Thái mặc sắc phục vàng.
- Phái Thượng theo lẽ phải mặc sắc phục xanh, nhưng bây giờ lại mặc sắc phục toàn trắng, ý nghĩa và quyền hạn cũng như sắc phục của Giáo Tông vậy:

Đây chính là điểm “Tam Giáo Qui Nguyên” của nền Đại Đạo, “ba mà một, một mà ba” là ý nghĩa cao đẹp mà từ xưa đến giờ chưa bao giờ có.

Chú thích (1) - Thượng Nguơn là Nguơn Tạo Hóa; ấy là Nguơn Thánh Ðức tức là Nguơn vô tội (Cycle de création c'est à dire cycle de l'innocence).
- Trung Nguơn là Nguơn Tấn Hóa; ấy là Nguơn Tranh Ðấu tức là Nguơn tự diệt (Cycle de progrès ou cycle de lutte et de destruction).
- Hạ Nguơn là Nguơn Bảo Tồn; ấy là Nguơn Tái Tạo, tức là Nguơn qui cổ (cycle de conservation ou cycle de reproduction et de rénovation).
(Hay !)  Ấy là lời khen của Ðức Lý Giáo Tông. 

IV - QUYỀN HÀNH ÐẦU SƯ

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: “Ðầu Sư có quyền cai trị phần Ðạo và phần Ðời của chư Môn Ðệ "CHÍ TÔN".

CHÚ GIẢI: Ðây Thầy dùng chữ "phần Ðạo" và "phần Ðời" đặng định quyền hành của Ðầu Sư, thì là Ðầu Sư có trọn quyền về phần Chánh Trị của Cửu Trùng Ðài và phần luật lệ của Hiệp Thiên Ðài. Vậy thì người đặng quyền thay mặt cho Giáo Tông và Hộ Pháp trước mặt nhơn sanh. Hễ thay quyền cho Giáo Tông và Hộ Pháp, tức là người của Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài; bởi vậy buộc Ðầu Sư phải tùng quyền cả hai mà hành chánh, chẳng đặng phép tự ý riêng mình mà thi thố điều chi không có lịnh của Giáo Tông và Hộ Pháp truyền dạy.

LUẬN ĐẠO
Nhắc lại trước đây PCT nói về quyền hành Giáo Tông:
 “Thầy đã nói rằng: Có quyền dìu dắt trong đường Ðạo và đường Ðời, thì Thầy đã chỉ rõ rằng, có quyền dìu dắt cả các con cái của Thầy trên con đường đạo-đức của chính mình Thầy khai tạo và trên con đường Ðời cơ Ðạo gầy nên; chớ chẳng phải nói trọn quyền về phần Ðạo và phần Ðời, nghĩa lý phân biệt nhau duy có chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN, xin rán hiểu đừng lầm hai chữ ấy”.

Nghĩa lý phân biệt nhau một cách rõ ràng rồi, như đã nói: Đạo Cao Đài hiện Đức Giáo Tông đã sử dụng hai Bát Quái Cao Đài, là trọn về Đường Đạo và đường Đời, qua:
1 - Bát Quái Hư Vô (Bí Pháp Thiên Đạo) Trg: 68
2 - Bát Quái Đồ Thiên (Thể Pháp Thiên Đạo) Trg:92

Hai Bát Quái sau: chỉ Phần Đạo và Phần Đời của Đầu Sư:
3 - Bát Quái Tiên Thiên  (Bí Pháp Thế đạo)
4 - Bát Quái Hậu Thiên  (Thể Pháp Thế đạo)

Như thế thì:
- Hai Bát Quái  về Thiên Đạo là phần của Giáo Tông.
- Hai Bát Quái  về Thế Đạo là phần của Đầu Sư.

Ấy, lời Chú giải nói rõ: Thầy dùng chữ “phần Ðạo" và "phần Ðời" đặng định quyền hành của Ðầu Sư.
 (Xem Khai triển Bát Quái Tiên và Hậu Thiên phía sau)

Con người vốn là Tiểu Thiên Địa, nơi mình có 4 Bát Quái: Mỗi cánh tay có ba phần: cánh tay ngòai có 2 xương dài (Âm-Dương) cánh tay trong có 1 xương dài; cộng chung là ba (tam tài). Ngòai có 5 ngón tay (ngũ hành) hiệp chung là  Bát Quái; thành ra cả thảy có 4 Bát Quái. Trời đất là Đại Thiên Địa nên sự liên quan của người là Tiểu Thiên Địa, cùng chung một định luật. Ở người cả hai tay và hai chân có 12 xương dài cũng như một năm có 12 tháng vậy.

PCT: “Nó đặng quyền lập Luật, song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn”.
CG: “Ðầu Sư đặng quyền lập Luật cho phù hạp cùng sự chánh  trị của nền Ðạo, thế nào cho thuận với nhơn tình và không nghịch cùng Thánh ý; mà phàm như hễ thuận nhơn tình thì hằng nghịch với Thánh ý luôn luôn, nên chi buộc Ðầu Sư trước phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn, vì Giáo Tông là người thay quyền cho Thầy, đặng điều đình chẳng cho nhơn sanh trái Thánh ý.

PCT: “Luật lệ ấy lại phải xem xét một cách nghiêm nhặt, coi phải hữu ích cho nhơn sanh chăng ?”

CG: “Câu này đã chỉ rõ rằng: Phàm như Ðầu Sư có lập Luật lệ chi, thì Luật lệ ấy buộc phải cần ích cho nhơn sanh mới đặng, nên chi Thầy có dặn: "Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phải xem xét cho nghiêm nhặt, điều chi không thật hữu ích cho nhơn sanh thì Ðầu Sư không nên lập Luật hay là phá Luật".

PCT: “Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn”.

CG: “Dầu cho Luật lệ ấy đã thuận ý Giáo Tông đi nữa, thì Giáo Tông cũng không quyền phê chuẩn tức thì, nhưng buộc phải giao lại cho Chưởng Pháp xét nét trước đã. Trên đã có định quyền cho Chưởng Pháp rằng: Các Luật lệ chẳng đủ ba vị phê chuẩn thì luật lệ ấy không đặng phép ban hành.

Vậy thì Ðầu Sư và Giáo Tông chẳng đặng thuận tình với nhau mà trái nghịch cùng Pháp Chánh Truyền, hễ đôi bên chẳng do nơi Chưởng Pháp xét nét Luật lệ thì là phạm pháp: Mà hễ phạm pháp thì dầu cho bực nào cũng khó tránh qua khỏi Luật Tòa Tam Giáo.

Buộc Ðầu Sư phải tùng mạng lịnh của Giáo Tông truyền xuống mới đặng phép ban hành, nên Thầy nói:

PCT: "Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông truyền dạy".
CG: “Ðầu Sư chỉ có tuân mạng lịnh của Giáo Tông mà thôi, dầu cho Người, là người thay mặt cho Hiệp Thiên Ðài về phần luật lệ đi nữa, thì luật lệ ấy trước đã xét nét bởi Chưởng Pháp và phê chuẩn bởi Hiệp Thiên Ðài rồi, tức là luật lịnh của Hiệp Thiên Ðài sẵn định vào đó.

PCT: “Như thảng luật lệ nào nghịch với sự sinh hoạt của nhơn sanh, thì chúng nó đặng cầu xin hủy bỏ”.
CG: “Chẳng nói là Tân Luật ngày nay mà thôi, nếu sau Tân Luật nầy mà trở nên Cựu Luật đi nữa, nếu nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh thì Ðầu Sư cũng đặng phép nài xin hủy bỏ.

PCT: “Thầy khuyên các con phải thương yêu nó, giúp đỡ nó.
CG: “Thầy nhủ lời khuyên cả Hội Thánh đôi bên để mắt vào trách nhậm nặng nề của Ðầu Sư mà thương yêu và giúp đỡ Người cho tròn phận sự.

PCT: “Thầy dặn các con, như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó”.
CG: “Thầy dặn cả chư Môn Ðệ của Thầy, ấy là toàn cả chúng sanh, như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi Ðầu Sư, vì Người thay quyền cho Ðạo trọn vẹn nơi thế nầy

PCT: “Ba chi tuy khác, chớ quyền lực như nhau”.
CG:  Ba chi của Ðạo là: Nho- Lão- Thích: ba Chi tuy khác mà quyền lực vẫn so đồng, bởi tùng theo TÂN LUẬT Ấy là “một thành ba mà ba cũng như một”.

Ba vị Ðầu Sư không ai lớn, không ai nhỏ, Hay(1) quyền vốn đồng quyền, Luật Lệ nào của Giáo Tông truyền xuống hay là của nhơn sanh dâng lên mà đã có Chưởng Pháp và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn, thì dầu cho một người trong ba mà chịu vâng mạng thì Luật Lệ ấy cũng phải buộc ban hành. Hay..(1) Trừ ra khi nào ba người đồng không thể tuân mạng lịnh đặng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông; buộc Giáo Tông phải truyền xuống cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa, Hay..(1) vì vậy mà Thầy nói:

PCT: "Như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông, Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa".

CG: Thầy đã nhứt định rằng: Nếu cả ba đồng ký tên không vâng mạng đặng, thì Thầy đã chắc chắn rằng luật lệ ấy quả nghịch với nhơn sanh; mà cần yếu hơn hết thì phải quyết định thế nào cho sự nghịch với nhơn sanh ấy cho có cớ hiển nhiên thì Ðầu Sư mới đặng phép nghịch mạng bề trên, cầu nài bác luật. Thảng có một người trong ba mà tuân mạng lịnh đặng thì cũng chưa quyết đoán rằng luật lệ ấy đã nghịch hẳn với nhơn sanh, mà hễ nếu chưa nghịch hẳn cùng nhơn sanh thì buộc phải ban  hành. Quyền  hành

ấy, nghiêm khắc nầy, nghĩ ra cũng quá  đáng; vì Thánh  ý muốn cho cả ba phải hiệp một mà thôi. Hay (Đức Lý khen)

PCT: “Chúng nó có ba cái Ấn riêng nhau; mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành, nghe à !”
CG: Ba ấn ấy là: Thái- Thượng- Ngọc; mỗi tờ giấy chi hễ định thi hành thì buộc phải có đủ ba Ấn Ðầu Sư mới đặng. Trước khi Ðầu Sư lãnh quyền chấp chánh buộc Người phải lập Minh thệ nơi Tòa Thánh, hằng giữ dạ vô tư hành đạo, y như Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đã lập thệ.

QUYỀN THỐNG NHỨT: Khi minh thệ rồi, Ðầu Sư đặng cầm quyền luôn cả Chánh Trị cùng Luật Lệ. Nhờ quyền lớn lao này; Ðầu Sư sẽ có đủ thệ lực mà ngăn ngừa tà quyền hại Ðạo. Thảng gặp cơn nguy biến mà ba Chánh Phối Sư không đủ sức chống ngăn, thì Ðầu Sư đặng dùng Quyền Thống Nhứt ấy mà điều khiển Hội Thánh. Cả Chức Sắc Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phải phục mạng, dầu cho Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải vậy”.

KẾT LUẬN
Đây là điều đặc biệt, có phần khác hẳn với phần hành của ba Chưởng Pháp; xin nhắc lại:
- “Chưởng Pháp có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành. Luật lệ nào không có ba Ấn Chưởng Pháp thị nhận và Hiệp Thiên  Ðài phê chuẩn thì cả chư Tín Ðồ của Thầy không tuân mạng”.

Còn đối với Đầu Sư thì khi:
- “Đã có Chưởng Pháp và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn, thì dầu cho một người trong ba mà chịu vâng mạng thì Luật Lệ ấy cũng phải buộc ban hành”.

Cái nghịch lý ấy là luật Âm Dương trong Tam Tiên.
Con số Tam tài: với Thiên (Giáo Tông), Nhơn (Chưởng Pháp) đã hiệp rồi thì phần Đầu Sư (Địa) dầu chỉ một người cũng cho là đủ. Bởi Đầu Sư là đứng vào Địa Tiên. Có câu:
 “Thiên thời, địa lợi đôi điều sẵn,
“Chỉ thiếu Hòa nhơn để hiệp quần”

A - Nam ĐẦU SƯ có Thánh danh

NHỰT- NGUYỆT- TINH tức Tam bửu của Trời

Từ lúc khởi khai nền Đại Đạo đến giờ Cửu Trùng Đài Nam phái trải qua nhiều lượt ĐẦU SƯ, nhưng trước tiên là các vị này mang Thánh danh có chữ: Nhựt- Nguyệt- Tinh, kế tiếp lấy chữ “THANH” trong Tịch Đạo THANH HƯƠNG.

- Ba vị  ÐẦU SƯ đầu tiên:
Chỉ có ba vị Đầu Sư đầu tiên này có Thánh danh mang chữ: Nhựt-Nguyệt-Tinh. Ba vị được Thiên phong lần lượt: -Thái Đầu-Sư: Đức Chí Tôn phong Ngài Dương văn Nương vào phái Thái là Thái Đầu Sư Thái-Nương-TINH. Thay cho vị Thái-Minh TINH bị Đức Lý cách chức.  

-Thượng Đầu-Sư Thượng-Trung-NHỰT (1876-1934). Sau là Quyền Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Hầu như chỉ một mình Ngài đảm đang gánh vác việc Đạo. Chính Ngài khi được thăng phẩm Quyền Giáo Tông Lê văn-Trung là tiếp nối ra tay chống đỡ Đạo quyền suốt 8 năm trường, không dư không thiếu một ngày, cho đến ngày qui Thiên, thật là vẹn phận Đạo-Đời tương đắc.
- Ngọc Đầu-sư Ngọc-Lịch-Nguyệt (1890- 1947). Riêng Ngài Lê văn Lịch thích tịnh luyện hơn. Ngày 28-2-Bính

Dần (dl: 10-04-1926): Đức Chí Tôn khai đàn cho ông Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt:
Đức Cao-Đài dạy: Trung, sau khi cho chư Nhu cầu Đạo rồi, phải khai đàn cho Lịch nội ngày nay (khai đàn tại Vĩnh Nguyên Tự xong, chư vị lập đàn Cơ, Đức Chí-Tôn giáng ban cho Ngài Lê-văn-Lịch 4 câu thi:

Đầu Sư phái Ngọc hiệp quần Nho,
Tam Giáo Qui Nguyên dẫn ngã đồ,
Vạn tải vô tư đương hội ngộ,
Đạo thành chí khởi lập Da-Tô.

Ngày 14-07-Bính Dần (dl: 21-08-1926) Thầy dạy về trường hợp Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt. Bài này có in trong TNHT, xin trích ra một đoạn:

…“Nhưng có điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ nên tu nhiều mà thành ít. Vì vậy các con coi thử lại, từ 2000 năm nay bên Á-Đông này đã đặng bao nhiêu Tiên Phật. Các con duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi”.

(Phần bổ sung) “Các con nghĩ sự tu hành khổ hạnh dường nào! Đời mạt kiếp này dữ nhiều lành ít. Nếu Thầy không chuyển Pháp lại thì chưa ai tu đặng trọn Đạo nên Thầy lựa Ngọc Đầu Sư trong hạng thiếu niên mới có đủ công phổ độ. Trong phần nhiều các con chưa vừa lòng cho Lịch ngồi địa vị ấy, cho nên có điều cản trở trong sự truyền đạo. Thầy cũng nhìn như vậy, song vì tiền kiếp của LỊCH và nhơn đức của TIỂNG nên Thầy mới phú thác cái trách nhiệm tối đại ấy cho nó. Các con đều có Chức sắc lớn hay nhỏ đều thọ Thiên phong nơi Thầy. Cứ giữ phẩm vị các con nhưng có một điều yếu thiết là cầu các con lập nhiều công quả nơi trường Thầy sáng tạo cho khỏi phế hủy nửa chừng. Các con khá gìn luật lệ cho tới ngày Thầy lập thành Tân Luật. Thành cùng chẳng thành cũng do nơi Thầy. Đương lúc đầu Thầy khai Đạo thì Luật pháp rẻ rúng đặng dụ kẻ biếng  nhác. Các con đừng phế phận”.

B - BA ĐẦU SƯ có Thánh danh mang chữ THANH

Từ đây các Nam Đầu sư Cửu Trùng Đài đều mang Thánh danh có chữ “THANH” theo tịch Thanh Hương:
Ngày 17-2- Quí Dậu (1933), ba vị Chánh Phối Sư ba phái được quyền Chí Tôn thăng lên Quyền Ðầu Sư, là:
-Thái Ðầu Sư Thái Thơ Thanh (Nguyễn Ngọc Thơ).
- Thượng Ðầu Sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương). Sau bỏ Đạo, lập chi phái Bến Tre.
- Ngọc Ðầu Sư Ngọc Trang Thanh sau lập  phái Bến Tre. 

3 - Ba vị Đầu Sư kế tiếp hòan thành số 9:
* Ngài Thái Sư Thái Bộ Thanh (1891-1976). Thế danh là Nguyễn Lễ Bộ, sanh ngày 7-7-Nhâm Thìn (dl:28-8-1892) tại làng Bình Hòa, Tổng Cửu Cư thượng, quận Thủ Thừa, tỉnh Tân an. Qui Tiên vào lúc 7g 15ph ngày 27-9-Bính Thìn (dl: 18-11-1976).
* Ngài Thượng Đầu Sư Thượng Sáng Thanh (1888-1980). Cuộc đời hành  Đạo  thật  trong sáng  như  cái tên của Ngài, nhưng đêm 8 rạng mùng 9 tháng Giêng năm Canh Thân (1980) Ngài đột ngột qui Thiên.
* Ngài Ngọc Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh (1906-1985).

Đây là vị Đầu Sư duy nhứt của Đạo Cao Đài từ trước tới nay, khởi đầu đi từ phẩm Đạo Hữu, hành Đạo hơn 30 năm, lên phẩm Đầu Sư, ngài đăng Tiên vào lúc 0g30 ph ngày 12-9-Ất Sửu (dl: 25-10-1985), thọ 80 tuổi.

Đến giai đọan này hầu như con số 9 vị Nam Đầu Sư đã hòan thành trong Tịch Đạo “Thanh Hương”.

Đức Thượng-Đế xác nhận về ba vị Tướng soái của Thầy bên cơ-quan Cửu-Trùng Đài rằng:
 “Thầy đến đây đặng cho hội-hiệp sum-vầy BA NGÔI cho đoàn-tụ đó, bớ mấy con! Nghĩa là Ngọc-Thanh, Thái Thanh và Thượng-Thanh đã đủ mặt ngày nay rồi, thì phải lo thi-hành bổn-phận cho chóng.

“Bởi ngày giờ đã muộn, rán mà làm bia cho đời sau noi dấu đến bảy chục muôn năm đó con! Chớ chẳng phải là cuộc nhỏ mọn đâu con, phải rán mà đồng công cọng sự mới đặng, trong thì Thầy giúp sức, ngoài thì BA CON phụ lực mới thành-công.”

C - ÐẠO PHỤC CỦA ÐẦU SƯ
I - Ðạo Phục của Thái Ðầu Sư:
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục của Thái Ðầu Sư có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
- Bộ Ðại Phục toàn hàng màu vàng (màu Ðạo) nơi trước ngực và sau lưng có thêu sáu chữ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, bao quanh ba vòng vô vi, ngay giữa có một chữ Thái, áo có chín dải, ngoài choàng Bá Nạp Quang màu đỏ, y như của Thái Chưởng Pháp. Ðầu đội Bát Quái Mạo màu vàng, có thêu đủ tám cung chung quanh, chơn đi giày vô ưu màu đen, trước mũi có chữ "Thái".
- Bộ Tiểu Phục thì cũng hàng màu vàng y như áo Ðại Phục. Ðầu không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ Nhứt”.

LUẬN: Đạo phục của Thái Đầu Sư có hai bộ cũng chỉ vào Âm Dương  hòa hiệp.
- Toàn hàng màu vàng, màu Ðạo  (Ấy màu phái Phật)
- Nơi trước ngực và sau lưng có thêu sáu chữ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, bao quanh ba vòng vô vi, ngay giữa có một chữ Thái”

Trước ngực và sau lưng đều có miếng “Bố tử” hình tròn, đường kính 20 phân, thêu sáu chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ  bằng Cổ tự 大道三 bao quanh ba vòng vô vi, chính giữa có chữ Thái .
 (Phải đặt chữ Đạo   đỉnh giữa, chữ và chữ  đối xứng qua chữ Đạo. Nghịch chiều với kim đồng hồ).

Ba chữ còn lại (Kỳ, Phổ, Độ) tiếp đặt theo trên vòng tròn.
- Vòng vô vi là ánh-sáng minh triết, mà cái văn minh tinh thần đã khởi điểm nơi này. Người tu học có khả năng nói Đạo cho mọi người hiểu Đạo, ban-bố khắp nơi bằng huyền lực, bằng hào quang, điển sáng gọi là vòng Vô Vi. Ba vòng là chỉ sự tròn đầy, tòan hảo.
- Áo có chín dải: 
DẢI (là những thẻ) phía sau áo đạo phục, dẫn giải qua:

LỜI-PHÊ của ĐỨC HỘ-PHÁP:
Chỉ “Dải sau lưng” là Chí-Tôn muốn định phận mình là Tam-Thừa.
- Phó-Trị-Sự hành quyền về Hạ-thừa chớ chưa vào Thánh-Thể nên mang MỘT THẺ nơi lưng.
- Còn Phối-Sư là bậc Thượng-Thừa nên có BA THẺ. Trung-Thừa Chí-Tôn không cần định để cho mỗi người cố gắng lập vị mình mau chóng tới bậc Thượng-Thừa.
- Nếu qua khỏi ba thẻ lên CHÍN (thẻ) tức là   vào  hàng phẩm Cửu Thiên Khai-Hóa. Cách nhau có một mức Phối Sư với Chánh-Phối Sư mà xa nhau một Trời một vực. Hễ đủ tài đức cầm quyền Đạo có quyền Vạn-Linh và quyền Chí-Tôn ủy nhiệm ân-tứ quyền-hành thì là vào ngay Cửu Thiên Khai Hóa qua khỏi Tam-Thừa. 

PCT: - ngoài choàng Bá Nạp Quang màu đỏ, y như của Thái Chưởng Pháp (xem trang 137. Giải về Bá nạp Quang của  Thái Chưởng Pháp)
- Ðầu đội Bát Quái Mạo màu vàng, có thêu đủ tám cung chung quanh:

BÁT QUÁI MẠO 
E: The hight octogonal cap of ceremony
F: Le haut bonnet octogonal de cérémonie
(Bát: Tám, Quái: Quẻ. Mạo: Cái mão đội trên đầu).

Bát Quái Mạo là cái mão cao có hình Bát Quái, tức là có 8 cạnh đều nhau, trên đó có thêu 8 chữ Nho: Càn , Khảm , Cấn , Chấn , Tốn , Ly , Khôn , Ðoài   Mỗi cạnh Bát Quái của mão, phần trên thì tròn và vảnh ra ngoài. Màu sắc của Bát Quái Mạo thì tùy theo phái:
- Vàng cho phái Thái,
- Xanh cho phái Thượng
- Đỏ cho phái Ngọc.

Hai phẩm Ðầu Sư và Phối Sư nam phái đều đội Bát Quái Mạo khi hành Đại lễ Cúng Ðức Chí Tôn.

Cách may MÃO BÁT QUÁI  (Bát-quái-Mạo)

Thầy dạy Bà Hương Hiếu “Đem nước phấn  ra đây Thầy vẽ mão. Tám khía, ngó nghiêng thì Vọng, ngó ngay thì như vầy: 8 khía, hai khía trước thêu chữ vàng CÀN KHÔN 乾坤 còn sáu khía kia thì để thế nào cũng đặng, thêu chánh chữ Cổ tự, nhung hay là hàng, tùy sắc phục mỗi đứa, cao 3 tấc 3 phân tây hai khía trước, còn mấy khía sau, làm sao cho lài lài trước cao sau thấp thì làm coi cho đặng. Giữa kín, phải cứng cho nó đứng, chớ con bồi bằng vải  càng tốt hơn”.
- Chơn đi giày vô ưu màu đen, trước mũi có chữ "Thái"    (Xem các phần giải trước)
- Bộ Tiểu Phục thì cũng hàng màu vàng y như áo Ðại Phục. Ðầu không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ Nhứt”

          Khăn: tức là khăn đóng, may bằng hàng, vải, thành hình như một cái khung: Nếu kết 7 lớp vải, thường là khăn đóng đen thì mặc với áo dài đen gọi là quốc phục của nam phái. Đặc biệt trong nền Đạo khăn đóng chín lớp, có màu Vàng, xanh, đỏ, tùy theo sắc phái là Tiểu phục của Đầu Sư.
2 - Ðạo Phục của Thượng Ðầu Sư:
CHÚ GIẢI: Ðại Phục của Thượng Ðầu Sư cũng có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
- Bộ Ðại Phục thì toàn hàng màu xanh da trời (azur) (màu Ðạo) nơi trước ngực và sau lưng có thêu sáu chữ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ bao quanh ba vòng vô vi, cũng y như của Thái Ðầu Sư, song ngay giữa có để chữ "Thượng" , áo cũng chín dải, đầu đội Bát Quái Mạo y như của Thái Ðầu Sư, mà màu xanh da trời, chơn đi giày vô ưu màu đen, trước mũi có chữ "Thượng"

- Bộ Tiểu Phục thì cũng hàng màu xanh da trời y như Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu xanh da Trời, chín lớp chữ  nhứt (y như lời giải phái Thái)

3 - Ðạo Phục của Ngọc Ðầu Sư:
CHÚ GIẢI: Ðạo phục của Ngọc Ðầu Sư cũng có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
- Bộ Ðại Phục toàn bằng hàng màu hồng (màu Ðạo) nơi trước ngực và sau lưng có thêu sáu chữ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ bao quanh ba vòng vô vi cũng y như Thái Ðầu Sư và Thượng Ðầu Sư, song ngay giữa có để chữ "NGỌC" , áo cũng chín dải, đầu đội Bát Quái Mạo y như của Thượng Ðầu Sư song màu hồng. Chơn đi giày vô ưu màu đen, trước mũi có chữ "Ngọc" .

(Phải đặt chữ Đạo   đỉnh giữa, chữ và chữ  đối xứng qua chữ Đạo . Đặt nghịch chiều với kim đồng hồ. Đây là hình chụp trên mẫu áo thêu sẵn, không chính xác).

- Bộ Tiểu Phục thì cũng hàng màu hồng, y như áo Ðại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu hồng chín lớp chữ Nhứt”  (Giải : Y như Thái và Thượng Đầu Sư)

C -  Ba vị Nữ Ðầu Sư đầu tiên:
Khai Ðạo từ năm 1926 đến 1975, Ðạo Cao Ðài có ba vị Nữ Ðầu Sư hiện được thờ tại Nữ Đầu Sư Đường:

1 - Nữ Ðầu Sư Hương Thanh (Lâm Ngọc Thanh).
(1874-1937)
Phần Đời: Thế danh là Lâm Ngọc Thanh, Bà là Nghiệp Chủ Vũng Liêm, sanh năm Giáp Tuất (1874) tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Thân mẫu Bà là Trần thị Sanh. Bà là vợ của người Pháp tên Monnier, gọi là Huyện Xây. Ông Huyện Xây qui, Bà tái giá với Ông Huyện Hàm Nguyễn Ngọc-Thơ, nghiệp chủ ở Tân Định Sài-Gòn. Cả hai mộ Phật giáo, qui y theo Phật. Sau được Đức Chí-Tôn độ vào Đạo Cao-Đài.

Đêm 14-10-Bính-Dần (dl: 18-11-1926) nhân Đại Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất tạm Từ-Lâm-Tự. Bà Lâm-Ngọc Thanh thọ Thiên Ân Nữ Giáo Sư, Thánh danh là Lâm Hương-Thanh  (TNHT.II./13)

Kỳ phong Thánh Nữ-phái lần I, ngày 14-01-Đinh Mão (dl: 15-2-1927), thăng Phối Sư.
Ngày 09-03-Kỷ Tỵ (dl:16-4-1929) Bà thăng phẩm Nữ Chánh-Phối-Sư, Chưởng quản Hội-Thánh Nữ phái.   
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét