Người ta tò mò là các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ ? Người Ấn
mỉm cười khẽ lắc đầu: Chắc chắn như thế,
nhưng phép thuật Thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ
là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư,
sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các Ngài phải làm. Mục đích của con đường
đạo là Gỉai Thoát, là trở nên toàn thiện như những Đấng cao cả mà Đức Jésus là
một. Giáo sư Spalding cãi: Nhưng chúa
Jésus
đã từng làm các phép lạ. Người Ấn bật cười trả lời: Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jésus làm vậy vào mục đích khoe khoan hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.
đã từng làm các phép lạ. Người Ấn bật cười trả lời: Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jésus làm vậy vào mục đích khoe khoan hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.
&
QUẺ - 328:
Cô dương vi hề, quần âm dật hề,
Lực ký đàn hề, Tương bất khả mạo hề,
Chân cẩn thận hề, nghi khả bảo hề.
孤 陽 微 兮 群 陰 溢 兮
力 既 殫 兮 將 不 可 耄 兮
真 謹 慎 兮 宜 可 保 兮
Dịch nghĩa:
Phần Dương đã khá suy vi
Phần Âm lại thịnh khó bề hợp đôi
Vứt đi giữ lại phân hai,
Đề phòng cẩn thận kẻo hoài thiệt hơn.
Chú giải: Quyền Chí-Tôn định truất quyền Nữ phái. Đức Hộ-Pháp
để lời phân phiền cùng Thầy như vầy: Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con,
Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất quyền của Nữ-phái không cho lên địa vị Chưởng-Pháp
và Giáo-Tông, thì con e mất lẽ công bình chăng?Thầy dạy: Thiên địa hữu Âm
Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn Khôn thế giới nhờ Dương thạnh
mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương-quang, ngày nào mà Dương quang đã
tuyệt, Âm khí lẫy-lừng, ấy là ngày càn khôn thế giới phải chịu trong hắc-ám, mà
bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ phái cầm quyền Giáo-Tông
làm chủ nền Đạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Đạo ắt bị tiêu tàn ám-muội."
&
QUẺ - 329:
Hiểu vũ sơ tình ánh bích khê,
Trùng trùng xuân sắc thượng sài phi.
Hoàng kim bất tận gia ân phú.
Hà tất khu khu tiện cẩm y.
曉 雨 初 晴 映 碧 溪
重 重 春 色 上 柴 扉
黃 金 不 盡 家 殷 富
何 必 區 區 羨 錦 衣
Dịch nghĩa:
Sớm mưa vừa tạnh, sông êm,
Nghìn trùng xuân sắc gắn lên cửa sài.
Bạc vàng đầy đủ gia tài,
Cần chi khen ngợi bề ngoài áo xiêm.
Chú giải: Vị Tiên Lam Thể
Hòa giáng Cơ nói: Đạo gặp kỳ phổ-độ, khá biết cải thế thì. Đạo khả trọng, đức
năng trau. Đời dời đổi, Đạo chờ người. Khách tục nương thuyền độ, non Tiên tiếng
khánh đưa, gắng nhọc thế lọc-lừa, tìm đường ngay thẳng-rẳng. Nguồn rửa bợn nhiều
đường cay đắng, bước nâu sòng dặm lắm gay go. Liệu sao khỏi trễ con đò, mới
thoát vòng khổ hải. Gắng sức vì sanh mạng, lao tâm chớ sợ bởi căn xưa. Đường
quanh co, bước khá ngừa; nẻo hiểm trở, chơn nên lánh. Hậu tái ngộ.
Từng vào non Thánh lại đền vàng,
Mãn quả sớm nhờ sắc ngọc ban.
Lần
hạc tu tâm thìn nét Đạo,
Biển
trần độ chúng vững con thoàn.
Cuộc
cờ chung hứng nơi rừng thắm,
Bầu rượu riêng vui với cột tàng.
Gặp lúc dìu đời qua bến tục,
Để công phải nhọc đến phàm gian.
&
QUẺ - 330:
Thế đạo đa kinh cức. nhân tình mỗi dụng ta,
Lợi danh các hữu lộ. Cần khổ trục sinh nhai.
世 道 多 荊 棘 。人 情 每 用 嗟 。
利 名 各 有 路 。勤 苦 逐 生 涯 。
Dịch nghĩa:
Đường đời lắm nỗi chông gai,
Nhân sinh đạm bạc xưa rày chẳng sai.
Lợi danh Trời sẵn an bày,
Ai mà khắc khổ sinh nhai tuỳ phần.
Chú giải: Vị Tiên Trương Quả Lão giang Cơ: Đạo gặp lối quanh co,
khá biết ngừa vực thẵm, gắng sức cho tròn trách-nhậm lớn lao của Đấng Chí-Tôn phú thác. Khá biết.
Trương kỳ bạch động mộ Tiên gia,
Quả diệu thâu trì tác trí kha.
Lão dược độ sanh tiên tự khởi,
Hiến trần tu thức trực ninh tà.
Ách nước nạn dân, số Trời
đọa thế. Vòng vay trả, mối buộc ràng; nếu có tai mắt rộng xa, tự hỏi vì đâu
nông-nỗi.
Đạo Trời gỡ nạn, chuông
Thánh truy hồn, bến khổ vớt khách chìm, non Thần chờ kẻ lạc; mà cũng còn khư
khư nắm chắc miếng đỉnh chung, cấp-củm giữ đầy lòng nhơ bợn. Đạo, Đời đều chẳng
trọn, phương chi tìm chốn thoát lao lung. Ngảnh lại cuộc giả của trò đời, mà thương
đau cho trẻ dại. Lần-lần lựa-lựa, ngẩn-ngẩn ngơ-ngơ, đứa trí gạt phường ngu, lũ
khôn ăn đám dại.
&
QUẺ - 331:
Sơn cùng lộ chuyển, mê thuỷ cấp châu nan độ,
Vạn sự mạc cưỡng vi, xuất xứ tao gian đố.
山 窮 路 轉 。迷 水 急 舟 難 渡 。
萬 事 莫 強 為 。出 處 遭 奸 妒 。
Dịch nghĩa:
Non hiểm đường khúc khuỷu,
Nước gấp thuyền ngựơc triều.
Việc làm thà chịu khổ nghèo,
Đề phòng kẻ xấu thầm theo ghen rình.
Chú giải: Ngày vui vẻ của sanh linh đã mòn, họa Thiên
điều đã cận, Càn khôn Thế giới còn đeo đuổi, dụng thất đức vô nhân mà gieo thảm
chất sầu trong nhân loại. Họa Âu tai Á sẽ lần lần thay phiên nhau, dụng luật
Thiên đình mà diệt phạt người vô đạo. Càn khôn cũng vì đó mà phải điên đảo. Thầy
lấy đức háo sanh mở Ðạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ
phạt. Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị Tà yêu cám dỗ. Than ôi!
Chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà thuyền Bát Nhã độ người không mấy kẻ. Ðức
thừa ít có, mà tài vô dụng chẳng thiếu chi. Phong hóa khiến suy tồi, cang thường
càng loạn phép. Tài mọn, đức hèn, mượn chước khoe mình, việc kỉnh thành Thánh
giáo, hư thiệt, thiệt hư, đâu qua máy hành tàng của Tạo hóa. Nhơn luân giữ trọn,
ấy là mối đạo nhân, lo Thánh đức trau lòng là phương thoát tục. Mấy ai xét nét
thế tình, lắm kẻ khinh khi nguồn Thánh. Chư chúng sanh khá liệu mình.
&
QUẺ - 332:
Thời đa nạn, chiến chiến cạnh,
Giới cẩn khủng cụ như lý bạc băng,
Tu thức tiền trinh nguy dữ hiểm,
Nhứt lung phong lý nhứt chi đăng.
時 多 難 戰 戰 競 。戒 謹 恐 懼 如 履 薄 冰
須 識 前 程 危 與 險 。一 籠 風 裡 一 枝 燈
Dịch nghĩa:
Hoạ
nàn vương vấn, dạ hoang mang.
Cẩn thận đề phòng dẫm phải băng.
Nguy hiểm đường đêm nên tự biết,
Một lồng gió quyện chiếu đài không.
Chú giải: Đức Lý dạy: “Hễ Đạo trọng tức nhiên chư Hiền-hữu
trọng, vậy thì chư Hiền-hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người Đời. Từ đây Lão hằng gìn-giữ cho chư Hiền-hữu
hơn nữa. Nếu thoảng ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh là cố ý muốn giá-trị
chư Hiền-hữu thêm cao-trọng hơn nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền-hà nghe!” Đức
Hộ-Pháp giải:“Trong Thánh-ngôn Hiệp tuyển có bốn câu thi của Ngài rất ngộ-nghĩnh:
- Cửu tử kim triêu đắc phục huờn: là cảnh trần
Ta chết đã lâu mà hôm nay Ta được phục sanh lại trong Thánh-thể của Đức
Chí-Tôn.
- Hạnh phùng Thiên-mạng
Đáo khai nguơn: là còn hạnh phúc đặng Thiên-mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài
nói đến? Bần-Đạo đã thuyết: Cuối Hạ-nguơn Tam chuyển khởi Thượng-nguơn Tứ chuyển,
Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ. Bần-Đạo dám chắc rằng Đấng nào khác hơn
Ngài thì không thi-hành được. Ngài đến đặng mở Thượng nguơn Tứ chuyển.
- Thế trung kỵ tử hà tri tử
? Thế-gian sợ chết mà không biết cái chết là gì! Chính Ngài hỏi rồi nói:
- Tử giả hà tồn chủ tịch
Huơng: Tịch Hương là tịch của Nữ-phái. Nữ-phái là nguồn sống của nhơn-loại, nếu
nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ-phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế-gian
này chi?
&
QUẺ - 333:
Nhứt đoá hoa chi diễm cánh phương.
Thanh hương phúc úc thấu lan phòng,
Thời phong xuy tống chung thành tiếu,
Hảo cú diên tiền tấn kỷ trường.
一 朵 花 枝 豔 更 芳
清 香 馥 郁 透 蘭 房
時 風 吹 送 終 成 笑
好 句 筵 前 進 幾 腸
Dịch nghĩa:
Cành hoa tươi đẹp nhường bao!
Hương thơm ngào ngạt thoảng vào phòng lan.
Gió đưa cười cợt hân hoan,
Thơ hay trước tiệc lại càng thêm duyên.
Chú giải: Người có ba món
báu là: Tinh, Khí, Thần. Người tu-hành là cốt-yếu luyện Tinh hóa Khí. Tinh là một
chất tinh-ba được lọc thật kỹ ở trong người để tư nhuận cho cơ thể như Khí tức là chánh khí ở trong cơ thể con người,
nhờ nó mà con người luôn luôn được mạnh khỏe, và một khi chánh khí suy thì tà
khí ở ngoài xâm nhập, gây ra bịnh hoạn. Thần thuộc về phần Thiêng liêng linh diệu
trong cơ quan suy tư cảm giác của con người, nó vốn bất tiêu bất diệt. Điểm
linh quang do Chơn linh của Tạo Hóa ban cho. Người nhờ ba món báu đó mà tạo
Tiên tác Phật.
- Trời có ngũ khí là: Ngũ Hành chi khí.
- Đất có Ngũ Hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
- Người có Ngũ Tạng là: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận.
- Thế giới có ngũ châu là: Châu Á, Châu Âu,
Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Úc.
&
QUẺ - 334:
Tự tòng trì thủ định, cộng tại chúng nhân tiên,
Biệt hữu phi thường hỉ, tuỳ long đáo cửu thiên.
自 從 持 守 定 功 在 眾 人 先
別 有 非 常 喜 隨 龍 到 九 天
Dịch nghĩa:
Phận mình đã định xong xuôi
Lập công phải tính cho người trước tiên
Cỡi rồng đi tới cửa thiên
Thế là phước đức may duyên vô cùng.
Chú giải: Ống tiêu có bảy
lỗ tượng cho tổ khiếu thất tình, nếu con người khéo tu nó sinh thất bửu cũng thể
hiện cho thất khiếu sanh quang, nhưng đắc pháp rồi thần khí phục hồi mở được cửu
khiếu nhờ kết tụ tam diệu sẽ chiếu ngần ánh xá lợi. Nên Thích Lão định danh là
Mâu ni bửu châu hoặc Thử mễ huyền châu hay Cửu Khúc Minh Châu. Phật CIVA da đỏ
mình trần đứng day chánh Nam, tay tả chống nạnh thể hình tam giác ở lý tam tài
Thiên, Địa, Nhân, tay hữu chống gươm với phép định địa, chơn phải đạp trên đầu
Giao Long để trừ cái dữ phô bày nơi mặt thế làm khổ chúng sanh, dầu mọi vật thể
đúng chu kỳ với định luật bị đào thải trở lại vật chất. Lẽ tất nhiên phần đó phải
có sanh hồn, như thế Thần Phá Hoại tức Thần bảo tồn là vậy. Thần CiVa có bộ
tinh nhũ là hiện thân của Phật Mẫu, nhưng Phật Mẫu chính Đức Nguơn Thỉ với hạnh
huỳnh kỳ.
&
QUẺ - 335:
Viễn lộ ba đào nhứt diệp châu,
Nhi kim thuỷ đắc quá than đầu,
Niên lai tâm sự tiễn thành tựu,
Khuất chỉ tòng tiền đa khả ưu.
遠 路 波 濤 一 葉 舟 。而 今 始 得 過 灘 頭 。
年 來 心 事 踐 成 就 。屈 指 從 前 多 可 憂。
Dịch nghĩa:
Dòng xa thuyền vượt ba đào
Ngàn khơi qua khỏi giờ vào bến kia
Nhiều năm tâm sự khôn bì
Từng bao lo ngại ít khi yên lòng.
Chú giải: Với sự chiêm ngưỡng
của tín đồ trong nền Đại Đạo, Toà Thánh Tây Ninh là nơi thờ Trời được thể hình
pháp Địa Chi có mười hai cửa nội ô ra vào, còn ngôi thờ cũng biểu tượng ba đài
Bát Quái là Phật, Hiệp Thiên là Pháp, Cửu Trùng là Tăng, để phát huy chơn tướng
của Đạo. Cửu Trùng Đài là phần xác, Bát Quái Đài là linh hồn, Hiệp Thiên Đài là
Chơn Thần, chẳng khác nào ở bản thân của con người chúng ta cũng có ba: một là
Thân, hai là Tâm, ba là Tánh, y như ngôi Đền Thánh mà Đức Hộ Pháp đã tạo, Bát
Quái Đài phần nguơn linh tức là Đạo, Hiệp Thiên Đài phần nguơn khí tức là Pháp,
còn Cửu Trùng Đài phần nguơn Tinh tức là Thế. Mỗi đài đều có liên hệ ảnh hưởng
cho nhau. Chẳng khác nào Thân Tâm và Tánh, Tánh là cái thể của Tâm, nhưng Tâm
cũng là Tánh, Tánh để tiêu biểu mọi sắc thái về hành động, còn Tâm là cái trừu
tượng xuất phát những tư tưởng cho Tánh, Tâm thay vì tòa Bát Quái, tánh ví như
cửa HiệpThiên, Thân tượng thể Cửu Trùng,
đó là phần xác của vạn linh được tiêu biểu đạo pháp của Càn Khôn tức là hình ảnh
Chí Linh đó vậy.
&
QUẺ - 336:
Thụ quân chi lộc, cửu giáng trinh tường,
Doanh nhi bất phú, Thủ chi nãi xương.
Vô đãi vô kiêu, vĩnh bảo an khương.
受 君 之 祿 久 降 禎 祥
盈 而 不 phú 守 之 乃 昌
毋 怠 毋 驕 永 保 安 姜
Dịch nghĩa:
Xưa từng thọ lộc vua ban
Lâu nay đặng hưởng vinh an phước tường
Giữ gìn cho vững long xương
Đừng kiêu đừng biến việc thường được an.
Chú giải: Đến đời Tây
Châu, Đức Văn Vương ngồi tù nơi Dữu Lý bảy năm, nhầm con số Thất Diệu, định thần
mở khiếu huệ quang để nghiên cứu cơ huyền nhiệm của vũ trụ. Khi về nước mới tìm
lại những vạch ở Hà Đồ của Phục Hi, để lại gọi Tiên Thiên Bát Quái và căn cứ Lạc
Thư soạn ra Hậu Thiên Bát Quái, cũng lấy số tượng cho lý. Đến Đức Khổng Phu Tử
nhìn thấy cơ hành xử của Vũ Trụ nên phụ chú vào cho mỗi hào thêm sáng tỏ mới có
sách gọi là Kinh Dịch, đây cũng bằng chứng cụ thể kể nòi giống Rồng Tiên mới là
Thỉ Tổ của Dịch Lý, nên chuyện bánh chưng bánh dầy không ngoài ý nghĩa về minh
triết của đạo pháp ở câu "Thiên viên Địa phương".
&
QUẺ - 337:
Vạn sự bất do nhân, kế giao nhứt sinh tận
Thị mệnh
an bày mạc nghi sai,
Mệnh lý hữu thời tổng hữu phận,
Hà tu lục lục hỗn trần ai. Hưu tai!
萬 事 不 由 人 計 交 一 生 盡
是 命 安 排 莫 疑 猜
命 裡 有 時 總 有 分
何 須 碌 碌 混 塵 挨 休 哉
Dịch nghĩa:
Muôn việc chẳng do người
Lo lường trọn cả đời
Rủi may đều duyên số
Bận gì việc trần ai. Ôi thôi!
Chú giải: người có hai mắt
gọi là mục目cốt để nhìn ra. Nhưng người tu là tạo ra Thiên nhãn,
Thánh nhãn, Thần nhãn. Bây giờ mới gọi
nhãn 眼 chỉ có một mà thôi. Nhãn gồm chữ mục và cấn, tức
là khi mắt nhìn bị núi chắn phải nhìn vô. Tôn Giáo Cao Đài dạy thờ Thiên Nhãn,
tức thờ Trời mà cũng là thờ chúng ta đó. Về lý âm dương giữa Trời và Người cũng
như pháp thập tự giá với hình tứ tượng có ác, có thiện, thể hiện đạo Chúa đủ lý
âm dương mới trường tồn, còn ta thờ Đức Chí Tôn bằng Thiên Nhãn, với căn bản
tinh túy ở nguyên lý âm dương. Thờ Thiên Nhãn tức là thờ Thần Thiên Lương của
nhơn loại sự trọng đại chỗ Trời Người hiệp nhứt, Thượng Đế tức là chúng ta mà
chúng ta cũng là Thượng Đế, vì thế chúng ta sùng bái cái điểm linh của bản tâm,
bởi Nhãn thị chủ Tâm. Thần cư tại nhãn, Thiên Nhãn là căn bản của chúng sanh,
vì mỗi chúng sanh đều thọ một phần nguơn linh của Tạo Hóa. Thờ Thiên Nhãn là thờ
đủ Phật-Pháp-Tăng.
&
QUẺ - 338:
Nhất phiến ưu tâm vị chỉ hưu,
Hoa phùng xuân vũ diễm nan lưu,
Đắc ý qui hưu thất ý qui hưu.
Tiên gia chỉ thử nhứt trù mưu.
一 片 憂 心 未 旨 休
花 逢 春 雨 豔 難 留
得 意 歸 休 失 意 歸 休
仙 家 只 此 一 籌 謀
Dịch nghĩa:
Mối sầu vương vấn chưa xong
Mưa xuân lác đác sắc hồng dần phai
Được thua về nghĩ hỡi ai!
Tiên gia chỉ có mưu này ấy thôi.
Chú giải: giống Rồng Tiên
phát khởi do nguyên lý của đạo pháp. Tiên ở núi, Rồng ở bể, thể hiện lý âm dương
của trời đất, về dân tộc tánh chưa mất nguồn gốc trên bốn ngàn năm lịch sử của
Tổ Tiên lưu lại cho con cháu Âu Lạc. Âu là Âu Cơ mẹ của chúng ta là Tiên ở núi
(Liên Sơn Thành Khí), còn Lạc là Lạc Long Quân tức cha của chúng ta là Rồng ở bể,
vốn thủy sanh. Khí coi như phép ký tế của đạo pháp, giữa nhị khí tạo thành lý
Thái Cực mới sanh một bọc trăm trứng, nhờ đó mà biến ra nguyên chủng Rồng Tiên,
chẳng khác nào buổi khai thiên lập địa trăm ức nguyên nhân giáng trần trong cơ
khởi thỉ. Vì lẽ đó, cái nguyên lý Rồng Tiên của chúng ta 50 người theo Cha xuống
biển là dương gián, thể hiện đạo Trời với chơn lý từ ngôi dương đến ngôi âm cơ
sanh hóa, còn 50 người theo Mẹ lên núi là âm phù, coi như từ ngôi âm trở về
ngôi dương của lý trưởng dưỡng, trong số đó chẳng có nói nam hay nữ đều ám chỉ
lý âm dương giữa Cha và Mẹ mà thôi. Với con số Ngũ của trời đất ở Khung Hồng Phạm
mới biến dịch cơ tạo đoan Càn Khôn và vạn vật
&
QUẺ - 339:
Lưỡng nữ nhứt phu. Thượng hạ tương khứ,
Âm khí thừa dương, dụng thị háo hư.
兩 女 一 夫 。上 下 相 去 。
陰 氣 乘 陽 。用 是 耗 虛 。
Dịch nghĩa:
Gái hiền hai kẻ lấy chồng chung
Cảnh nhà trên dưới khó hoà thông
Âm dương trái luật phần suy thịnh
Hao tổn tinh thần luống uổng công.
Chú giải: điển tích “HỚN RƯỚC DIÊU TRÌ”.Vốn là vua Hớn
Vũ Đế có lòng mộ Đạo và sùng kính Đức DIÊU-TRÌ KIM-MẪU hơn hết trong các triều
đại. Ngài là Vua thứ V của nhà Hán (Hớn) bên Tàu khoảng 141-87 trước Tây lịch
nghĩa là cách nay hơn 2.000 năm, Ngài có lập một cảnh chùa cực kỳ tráng lệ gọi
là Hoa Điện để sùng kính Đức Diêu-Trì. Nhân ngày lục tuần, Ngài thiết lễ ăn mừng,
được vị tiên Đông Phương Sóc đến mách bảo cho
cách thức để thỉnh Đức Phật Mẫu Diêu-Trì ngự. Thường Đức Mẹ Diêu Trì cỡi
con chim Thanh loan tức là con chim linh
của Đức Phật-Mẫu. Theo hầu có 4 vị Tiên Đồng Nữ nhạc là: Hứa Phi Yến, An Phát
Trinh, Đổng song Thanh, Vương Tử Phá. Đồng
thời có 9 vị Tiên Nương theo sau Đức Phật Mẫu. Khi đến ngự nơi Hoa Điện Đức Phật
Mẫu có ban cho HỚN VÕ ĐẾ 4 quả Đào Tiên. Ông Đông Phương Sóc hai tay nâng cái
dĩa để nhận tặng vật ấy. Do theo điển tích ấy mà trên bức hình này đều được đắp
tượng nổi để tỏ lòng ngưỡng vọng Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu. Ảnh Hớn Võ Đế đắp theo
gương mặt của Đức Cao Thượng Phẩm, vì
Ngài là hậu thân của Hớn Chung Ly hay tiền kiếp của Ngài.
&
QUẺ - 340:
Song yến qui Nam quốc, lai tầm Vương Tạ gia,
Hoa đường xuân trú tĩnh, tạo thử thác sinh nhai.
雙 燕 歸 南 國 。來 尋 王 謝 家 。
華 堂 春 晝 靜 。造 此 托 生 涯 。
Dịch nghĩa:
Én đôi bay trở về Nam
Để tìm Vương Tạ nhà quan đậu nhờ
Hoa đường xuân vắng ban trưa.
Từ đây nương tựa thoả vừa lòng mong.
Chú giải: Đức Hộ-Pháp nói:
“Nhớ lại, từ khi Đức Chí-Tôn chọn Bần-Đạo làm Hộ-Pháp; dạy Bần-Đạo phò-loan và
chấp bút, đặc biệt hơn hết là chấp bút, vì nhờ chấp bút, mà Bần-Đạo được Đức
Chí-Tôn dạy cách Tham-Thiền, khi biết Tham-Thiền rồi mới Nhập-định. Nhưng Nhập-tịnh
không phải dễ, chỉ sai một tí, sót một chút là có thể hỏng cả cuộc đời, nhập-tịnh
mà không tới thì bị hôn-trầm tức là ngủ gục, còn nhập-tịnh mà quá mức thì phải
điên đi mà chớ; nhập-tịnh mà đúng rồi, còn phải nhờ các Đấng Thiêng-liêng mở Huệ-quang-khiếu
nữa mới xuất hồn ra được. Con đường mà Chơn-Thần xuất ra rồi về với Đức Chí-Tôn
là con đường Thiêng Liêng Hằng Sống đó vậy. Chính Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn mở
Huệ quang-khiếu nên mới được về hội kiến cùng Đức Chí-Tôn và đã học hỏi được
nơi Đức Chí-Tôn nhiều điều bí-yếu bí trọng.”
&
QUẺ - 341:
Mệnh vận kiển hề,
Thời phùng tai ương cập hề,
Thân bì vọng hoàng thiên hề,
Bất ngã cố ta ngã thân hề, bịnh tư nguy.
命 運 蹇 兮 。時 逢 灾 殃 及 兮 。
身 疲 望 皇 天 兮 。不我 顧 嗟 我 身 兮 。病 斯 危
Dịch nghĩa:
Vận xấu mắc tai ương.
Lo lường đủ mọi hương
Cầu trời trời chẳng hộ
Bệnh hoạn cứ miên trường.
Chú giải: Đức Hộ-Pháp nói:
“Tội nghiệp thay, vì 92 ức nguyên nhân ấy mà chính mình Đức Chí Tôn phải giáng
trần mà lập nền chơn giáo của Ngài, chúng ta đã ngó thấy cái Thánh ân, đặc biệt
hơn hết là Đức Chí-Tôn đã thấy rõ rằng: Các nguyên nhân ấy không phương gì tự
giải thoát đặng vì quá tội tình, quá mê luyến hồng trần hoặc đào tạo quả kiếp nặng
nề quá đỗi, vì cớ cho nên Tu thì có Tu mà thành thì không có thành, tức nhiên từ
ngày Đạo bế thì cơ siêu thoát đã mất tại mặt thế này, chính mình Đức Chí Tôn biết
rằng không thế gì các nguyên nhân tự mình đạt cơ giải thoát đặng.” Kinh Phật Mẫu dạy rằng:
Trùng hườn phục vị Thiên môn,
Ngươn linh, Hóa chủng, Quỉ hồn nhứt thăng.
&
QUẺ - 342:
Phù dược thiên, đài lộ chuyển mê,
Đào hoa ngoạn thuỷ phú giai kỳ,
Xuân phong đề mã đa tình tứ,
Kỷ ngữ Lưu lang thả mạc quy.
扶 藥天 臺 路 轉 迷
桃 花 玩 水 賦 佳 期
春 風 啼 馬 多 情 思
kỷ 語 劉 郎 且 莫 歸
Dịch nghĩa:
Thiên thai hái thuốc lạc đường
Hoa đào trôi nước liệu lường gặp nhau
Gió xuân chim hót tình sâu
Nhớ lời hò hẹn chàng Lưu chớ về.
Chú giải: Thầy dạy: “Nguồn
Tiên, nẻo Phật, từ trước đến giờ, vẫn chờ kẻ hữu phần hữu đức hữu công, tu thân
dưỡng tánh, mà lánh khỏi thói đời mê muội nầy. Biển khổ lắm chơi vơi mà khách
phàm hằng đeo đuổi. Ðài Nghiệt Cảnh rọi chẳng biết bao nhiêu tội tình, mà chốn
tội tình lắm người đưa chân tìm đến. Kiếp phù sinh không mấy chốc, đời mộng ảo
chẳng là bao, sanh đứng nên người chen vai vào vòng thế cuộc, có khác chi kẻ bị
đày vào biển khổ, để làm xong nhân sự đặng chuộc thửa tội tiền khiên. Bao nhiêu
tiếng khóc câu cười, thế lộ bước đã mòn mà giấc mộng trần chưa thức tỉnh. Cang
thường điên đảo, phong hóa suy vi, những mảng ghét lẫn nhau, giành xé nhau, mối
tôn giáo phân chia, đạo nước nhà chẳng đoái, chánh tà tà chánh nan phân, còn
chút hơi thở ở cõi trần mà tính tình dọc ngang chưa chịu dứt, một mai hồn xuống
Diêm Ðài, khổ A Tỳ bảo sao không buộc trói. Ðạo Trời khai dẫn bước lỗi lầm, đem
kẻ hữu căn lánh vòng phiền não. Nếu chẳng bả bươn nhặt thúc bóng thiều, kiếp
phù sinh qua dường nháy mắt.”
&
QUẺ - 343:
Xuất ôn nhập hàn, bị bạc y đan,
khứ ngã từ hàng, nan giải hoành khiên.
出 溫 入 寒 。被 薄 衣 單 。
去 我 慈 航 。難 解 橫 愆 。
Dịch nghĩa:
Lạnh
trời khoác chiếc áo đơn,
Lầm
vào cảnh khổ Từ Hàng bèn xa
Nỗi
buồn ai thấu cùng ta,
Ai
người nhân đức mặn mà cho ai ?
Chú giải: Thầy dạy: “Sanh
ra phận làm người, đã mang vào mình một trách nhậm đặc biệt, phải gắng sức làm
cho hoàn toàn, hầu chờ buổi chung qui tương công chiết tội, tiêu quả tiền khiên,
mà nâng mình vào địa vị cao thượng hơn phẩm vô vị chốn sông mê nầy. Thấm thoát
ngày tháng thoi đưa, bóng thiều quang nhặt thúc, sen tàn cúc rũ, đông mãn xuân
về, bước sanh ly đã lắm nhuộm màu sầu, mà con đường dục vọng chẳng còn biết đâu
là nơi cùng tận. Lợi danh xạo xự, chung đỉnh mơ màng, cuộc vui vẻ chẳng là bao,
mà chốn đọa đày chen chẳng mãn. Nỗi đau thương bề ấm lạnh, nào tiếng khóc đến
câu cười, co duỗi duỗi co, dở bước đến cảnh sầu, thì thấy chẳng lạ chi hơn là mồ
hoang cỏ loán, đồng trống sương gieo,thỏ lặn ác tà, khách trần nào ai lánh khỏi.
Ðạo mầu tìm đến, lấy hạnh đức giồi tâm, mượn nâu sồng lánh thế, càng dìu sanh
chúng, càng bước bước càng cao, lên tột mây xanh, vẹt ngút trông vào cảnh cực lạc
an nhàn, non chiều hạc gáy, động tối qui chầu, ấy là khách Tiên gia lánh khỏi đọa
luân hồi nơi cõi thế vậy. Mau bước gắng tìm đường kẻo rừng chiều bóng xế. Chúng
sanh khá biết cho.”
&
QUẺ - 344:
Tam ngũ tam khẩu, phóng tại nhứt đẩu,
mãn nhi ích, tử tự đắc.
三 五 三 口 。放 在 一 斗 。
滿 而 益 。子 自 得 。
Dịch nghĩa:
Năm
ba miệng người. Trông vào cái đấu
Đầy
rồi sẽ vơi. Lợi cho con cháu.
Chú giải: Thánh ngôn Thầy dạy:
Rừng
thiền ác xế khuất non Tần,
Vày
vã từ đây khỏi nhọc thân.
Bền
dạ tua thìn trau đạo Thánh,
Ra
công khá gắng đắp nền nhân.
Gặp
chiều nhạn trở về rừng trước,
Ðợi
lúc thuyền nương lánh bến trần.
Mái tóc sương pha thiều nhặt thúc,
Sanh linh độ dẫn hưởng Thiên ân.
“Chiều thu nguyệt xế, non
nhạn ngày thâu, lẩn thẩn ngày tháng qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc. Nếu
chẳng bền lòng theo nẻo chánh mà thoát lối sông mê thì căn quả trả vay, chẳng
biết ngày nào tiêu tận đặng. Non cao suối lặng, tìm đến rửa bụi hồng. Ðạo đức
làm thang để lên địa vị thanh cao, lánh khỏi đường tội lỗi, thưởng phạt hai đường,
gắng công trình sẽ rõ.”
&
QUẺ - 345:
Thuỳ thuyết cố hương vô tư vị,
Phiêu linh hồ hải tại thiên nhai.
Nhiệm tư ta. Trung thu nguyệt ẩn.
Xuân vũ lâm, Hoa đa tạ. Chinh nhân trường ức gia.
誰 說 故 鄉 無 滋 味 。
飄 零 湖 海 在 天 涯 。
任 咨 嗟 。中 秋 月 隱 。
春 雨 淋 。花 多 謝 。征 人 長 億 家 。
Dịch nghĩa:
Ai rằng quê
quán chẳng vui
Mà
cam phiêu bạt bùi ngùi phương xa
Trăng thu ẩn bóng mưa sa.
Lá vàng rơi rụng nhớ nhà chinh phu.
Chú giải: “Ngày qua thấm
thoát, nhặt thúc bóng quang âm, xuân mãn kế xuân về, nước non màu cũng vẫn như
xưa mà tâm hạnh nhơn tình biết bao thay đổi. Một xuân qua tức là Ðạo một lần bước
chóng. Ngày nầy năm ngoái vẫn ra sao mà đến ngày nay, màn Chánh giáo đã diềm dà
xủ khuất bóng trần, gương trí huệ rạng ngần soi khách tục. Thầy mầng cho các
con đã chịu lao tâm tiêu tứ mà vun đắp nền Ðạo, làm cho mối tương thân tương ái
càng khắn khít vững bền, rán công thêm nữa mà đi cho cùng bước đường của các
con đã chịu lắm nhọc nhằn, vạch lối chông gai, dìu chơn hậu tấn. Môn đệ nơi đây
mảng buộc ràng nhơn sự mà hiệp chẳng đủ nghe Thánh ý. Vì vậy mà Lý Thái Bạch định
cho làm đại lễ nơi Thánh Thất Cầu Kho cho các môn đệ đó có thế hầu đàn đủ mặt.”
&
QUẺ - 346:
Vân tán nguyệt đương không,
ngưu tiền mã hậu đồ trương cung.
Phương để ngự, nhứt tiễn định toàn công.
雲 散 月 當 空 。牛 前 馬 後 途張 弓 。
方 抵 禦 。 一 箭 定 全 功 。
Dịch nghĩa:
Mây tan trăng sáng giữa trời
Trước trâu sau ngựa bao hồi gặp nhau
Dương cung chận bắn đương đầu
Một tên định đoạt toàn chầu công danh.
Chú giải: “Kiếp trần ai lắm
nỗi vày vò, các con ở nhằm thời đại nầy, đặng lắm cuộc tân toan, nên mới để ý
vào đường đạo đức. Nếu chẳng vậy thì các con cũng đã như ai, đem thân vùi dập
trong chốn lợi quyền, tranh tranh cạnh cạnh, biết ngày nào rồi? Ấy vậy, các con
phải lưu tâm mà chấn hưng mối Ðạo, ấy là kế bảo tồn quốc túy, lại là phương
thoát tục. Cơ Trời, Thầy không lẽ tỏ ra đây, song các con nên biết xét mình là
đứng vào địa vị tối cao hơn muôn vật, nên các con phải có trí độ phi phàm, thì
mới có đủ tư cách làm người. Các con nên biết, Thầy sanh ra mỗi chủng tộc đều
có đặc biệt một phần linh diệu riêng, mà cũng vì nhơn loại không chịu khó tìm
tòi cho ra lẽ thiên nhiên, cứ thấy những điều cận lợi mà quên hẳn lương tâm, chẳng
hay thương mà hay chém giết lẫn nhau, sanh phương tiện thông đồng không muốn, lại
tìm kế sát hại nhau. Nếu các con vì Ðạo Thầy là Ðạo gìn công lý mà biết mấy sự
đó tránh đi, và rủ nhau hiệp làm mối Ðại đồng, thì chẳng những thuận lòng Trời
mà nhân loại đặng gội nhuần ân huệ. Các con hiểu à!”
&
QUẺ - 347;
Mã tấn từ hành tự hữu trình,
Nguyệt trầm tây hải nhựt đông thăng.
Vận lai hà tất lao tâm lực,
Phong tống giang hồ vạn lý thanh.
馬 進 徐 行 似 有 程
月 沈 西 海 日 東 升
運 來 何 必 勞 心 力
風 送 江 湖 萬 里 清
Dịch nghĩa:
Ngựa tiến từ từ nẻo lối thông
Bể Tây trăng lặn nhựt lên đông
Đắc thời hà tất lao tâm lực
Gió thuận buồm xuôi thẳng một dòng.
Chú giải: “ Thầy, Các con, Thầy vì lẽ công mà phong chức sắc cho mỗi đứa
cũng là do Tòa Tam Giáo xin, chớ xem lại trong hàng môn đệ đã thọ tước cũng chưa đặng thấy mấy đứa cho xứng đáng. Vậy các con đứa nào đã được
thưởng phong cũng chẳng nên vội mừng mà quên phận sự, còn mấy đứa chưa đặng
phong thưởng cũng không nên vội buồn mà thất đạo tâm. Các con hiểu à! Thầy ước
sao các con biết tự lập thì Thầy mới vui lòng, chớ các con nhập môn cho đông,
lãnh Thiên phong cho nhiều mà không đủ tư cách thì các con phải tự hỏi mình coi
có bổ ích vào đâu chăng?”
&
QUẺ - 348:
Vân hoành sơn tế thuỷ mang mang.
Thiên lý trường đồ vọng cố hương,
Kiển dĩ sự
lai quân mạc hận,
Ỷ môn trù-trướng lập tà dương.
雲 橫 山 際 水 茫 茫
千 里 長 途 望 故 鄉
蹇 已 事 來 君 莫 恨
倚 門 惆 悵 立 斜 陽
Dịch nghĩa:
Mây vờn đỉnh núi miên man
Đường trường ngàn dặm quê làng trông mong.
Việc buồn chớ vội hận lòng
Bóng tà tựa cửa, ngõ song đợi chờ.
Chú giải: “Cái tình cảm
hóa của con người là tình thường ứng hiệp Trời Ðất. Cho nên khi tâm tịnh thường
cảm hoài, hằng tìm nơi u huyền mà nghĩ nghị trong trí khôn, ấy là kẻ có sẵn tình
ý thiên nhiên Tạo hóa. Còn có một hạng người cũng có tánh thiêng liêng ấy,
nhưng lại không để trí khôn vào lối cao thượng, mà cứ quen thói hung hăng, nghĩ
những việc bạo tàn, làm điều tội lỗi, ấy là những kẻ nghịch Thiên, không biết
luân hồi là chi cả. Chúng nó lại tưởng rằng, kiếp người là kiếp sống chỉ có
giây giờ rồi tiêu mất, nên tìm những chước sâu kế độc cho đặng của nhiều, no lòng
sướng dạ, trối kệ luân hồi. Thầy hỏi: Vậy chớ cái trí khôn của con người biết
thương ghét, vui buồn, mà toàn trong nhơn loại đều có, khi rốt cuộc thì trí
khôn ấy đi đâu? Không lẽ cái trí khôn ngoan dường ấy mà cũng mất đi đặng sao
các con? Thầy hỏi như vậy đặng cho các
con mỗi đứa về suy nghĩ mà trả lời cho mình. Hễ trả lời phù hạp thì dễ biết Ðạo,
còn ngu xuẩn cũng huờn ngu xuẩn. Thầy dạy Nữ phái biết trọng Tam Tùng, Tứ Ðức;
Nam phái Tam Cang, Ngũ Thường. Hễ Nhơn đạo thành thì là phù hạp Thiên đạo, nghe
à!”
&
QUẺ - 349:
Phong ba kim dĩ tức, châu ấp vạn an lưu,
Tự thử công danh toại, hà tu thán bạch đầu.
風 波 今 已 息 。舟 揖 萬 安 流 。
自 此 功 名 遂 。何 須 歎 白 頭 。
Dịch nghĩa:
Phong ba giờ đã êm rồi
Con thuyền thuận gió dòng xuôi một chiều
Từ đây công quả đạt nhiều
Còn gì than thở cả kêu bạc đầu.
Chú giải: “Chư đạo hữu, lúc nầy đã đến buổi người hành
khách phải trải qua một lối chông gai. Muốn bước khỏi cần phải có bền chí tận
tâm, và phải gắng xem đạo đức là trọng hơn muôn việc vui thích ở cõi trần nầy.
Ðạo tuy gần thành, nhưng còn phải chịu nhiều việc trắc trở nữa. Ấy là lúc các đạo
hữu gặp một trường thi rất khó trong buổi rốt.
Sự phổ độ, Thiên cơ đã định,
sức người cũng khó lướt qua. Bần đạo chỉn để lời cho các đạo hữu rõ đặng lưu
tâm mà hành sự, chớ con đường tuy chớn chở, triền núi vẫn khó qua, song ngọn
đèn Trời đã chiếu tỏ mà dìu dắt các đạo hữu, thì nhiều ít gì rồi sau cũng đến
chốn được. Hội Tam Giáo đương chầu Ðức Từ Bi định khai đạo cho khắp nơi đặng hiệp
theo lẽ Trời cuối kỳ Hạ nguơn nầy.”
&
QUẺ - 350:
Dĩ đáo bình an địa, Giang san vạn lý trình,
Duyên dương phương thảo xứ.
Phong quyết mã đề khinh.
已 到 平 安 地 。江 山 萬 里 程 。
緣 楊 芳 草 處 。風 抉 馬 啼 輕 。
Dịch nghĩa:
Đất lành đã tới nơi yên
Nước non muôn dặm khỏi phiền âu lo
Cỏ xanh liễu biếc đượm màu
Gió nhanh theo ngựa vó câu nhẹ nhàng.
Chú giải: “Nguồn đạo đã gội
khắp sanh linh mà nơi đây vẫn còn mơ màng trong mộng điệp. Nhân sanh chưa dễ
thoát được cảnh trụy lạc ở cõi trần mê muội nầy, lành ít dữ nhiều, phước nhỏ tội
thêm. Ấy chẳng qua ách nạn Thiên cơ đã sắp bày hành phạt. Con cũng đồng thương,
nhưng khí số phải mang lấy về buổi sau nầy. Thầy cũng đau lòng mà nắm cơ huyền
vi Tạo hóa. Thầy hằng rõ chí hành tàng chơn đạo của các con, nhưng nhơn lực khó
lướt qua Thiên cơ, các con cứ đường ngay bước tới, đợi ngày sẽ lập chút công trình
để lướt khỏi lối gai chông, vẹt ngút mây xanh, tìm vào cảnh thiêng liêng mà rửa
sạch bụi hồng. Khách trí nhàn đời ấy là buổi chung qui của bậc Chí Thánh vậy.
Xôn xao gió bụi, mờ mệt tuồng đời, mồi phú quí bả công khanh, mấy kẻ biết nhuộm
nét nâu sồng, lánh cả muôn sự não phiền mà khách trần đều gọi là vinh diệu. Thảm thay! mà cũng tiếc thay! Gió khuất thuyền
đưa, nhạn về rừng cũ. Con đường đạo hạnh đợi buổi khuất dấu, mờ mệt nét rêu
phong, mới sửa soạn lần chơn, âu dễ biết vô phần hay hữu phúc.”
&
QUẺ - 351:
Điêu hào lôi thu thế chuyển hùng.
Thừa phong phân dực đáo thiềm cung,
Vinh hoa khổ vấn tương lai sự,
Tiên hậu danh thanh đạt cửu trùng.
鵰 鴞 雷 秋 勢 轉 雄。乘 風分翼 到 蟾 宮 。
榮 華 苦 問 將 來 事 。先 後 名 聲 達 九 重
Dịch nghĩa:
Trời thu sấm sét điểu kinh hồn
Tung mây rẻ cánh tới cung thiềm
Tương lai muốn biết điều may rủi
Sau trước thanh danh đạt chín từng.
Chú giải: “Thầy cũng ghe
phen muốn phạt những kẻ lấy bực phẩm của phàm mà gây nên rối rấm trong Ðạo, nhưng
chẳng nỡ. Chúng nó đã bị Thần Thánh biên chép, ngày chung cuộc sẽ liệu tội phát
lạc mà thôi. Nơi trần nầy, thiếu chi bực
giả dối. Các con có tin ai cho bằng tin cậy nơi các con? Nhiều kẻ dụng thế để cầu
Thầy, chớ kỳ thật là chúng nó muốn tìm cách dòm hành mong các con lầm mà bại lộ
cơ quan mật yếu mà thôi. Cơ mầu nhiệm đã định nơi Thiên thơ. Ðạo mở chủ ý dìu dắt
những kẻ hữu phần, đặng rán cùng nhau dắt lên khỏi con đường trắc trở, vẹt nẻo
chông gai, bước tận đến thang Trời hội hiệp cùng Thầy trong buổi chung qui. Ðặng
cùng không do nơi tâm chí của các con. Thầy chẳng lẽ tỏ việc Thiên cơ cho cùng
tận đặng.
&
QUẺ - 352:
Thử vi hoạn, chung tiêu bất đắc ninh,
miêu nhi nhứt khiếu kỷ dạ thái bình.
Nhân khởi thức như thú. Kỳ lý thậm phân minh.
鼠為患 。終 宵不 得 寧 。貓 兒一 叫 幾 夜 太平。人 起 識 如 獸 。其 理 葚 分明
Dịch nghĩa:
Suốt
đêm chuột quấy ngủ không yên
Mèo
chạy loanh quanh tính chẳng hiền
Đạo
lý cao sâu và rõ rệt
Người linh hơn thú vượt hàng
trên.
Chú giải: Thầy dạy: “Trong
các con có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Ðạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng
nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân
luyện đạo. Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa đủ, nhơn sự chưa xong,
thì không thế nào các con luyện thành đặng đâu mà mong. Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ
chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất,
thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao. Các con phải hiểu Thánh ý Thầy mà trau giồi
chí lớn. Dầu đi lối nào cũng phải cần cái đèn thiêng liêng chiếu rõ mới đặng vững
bước. Làm vua, làm thầy, làm công nghệ, làm đạo sĩ, cũng cần phải có cái chí lớn
mới mong thành tựu đặng. Các nghề dưới thế không có nghề nào là vô dụng, mà vô
dụng là tại người không chuyên vậy. Chư ái nữ ôi! Các con thường để mắt dòm
lên, thấy kẻ cao sang thì các con cho rằng các con vô phước, còn nhìn xuống thấy
đồng chủng thấp hèn thì các con lại đem lòng khi bạc. Ấy là một điều vô đạo. Thầy
khuyên các con phải mở rộng trí ra mà thương nhơn loại thì mới hạp ý Thầy. Các
con phải giữ gìn đức hạnh, đối với kẻ trên bằng chữ khiêm hòa, đối với kẻ dưới
bằng chữ khoan dung. Nghe các con!”
&
QUẺ - 353;
Lưỡng nhân tại bàng, thái dương tại thượng,
chiếu nhữ thốn tâm, Tiên cơ tằng phủ minh.
兩 人 在 旁 。太 陽 在 上 。
照 汝 寸 心 。仙 機 曾 否 明 。
Dịch nghĩa:
Hai người ở bên, Mặt trời ngự trên,
Chiếu
soi một tấc tâm hiền,
Lòng
ngay cho thấy cơ Tiên sáng ngời!
Chú giải: “Nền Ðạo lập nên
là nhờ có lòng đạo đức và tánh khiêm cung của mỗi môn đệ của Ðức Từ Bi. Nếu đạp
vào nẻo Ðạo mà còn bôn chôn tranh lướt theo thói thường tình thì dầu có bao
nhiêu đạo hữu, bao nhiêu công quả đi nữa, mối Ðạo chẳng qua là một trường ngôn
luận của thế gian đó thôi, chớ công quả đạo đức mong chi thấy sự kết quả xứng
đáng đặng. Phần nhiều đạo hữu vì tánh
tình tục phàm mà làm cho gay trở bước Ðạo, lại e chẳng khỏi sanh ra một trường
náo nhiệt trong Ðạo về buổi sau nầy. Ðức Từ Bi đã lấy lòng quảng đại mà gieo giọt
nhành dương để rửa lỗi phàm gian, hầu đem mình trong giá trắng gương vào nơi Cực
Lạc. Ðã chẳng biết tự cải lại bợn thêm tánh tối tục mà để cho cả muôn người phải
chịu khổ tâm, thế thì hành đạo như vậy có giúp đặng ai chăng?
&
QUẺ - 354:
Quân tử đạo tiêu, tiểu nhân đạo trường, âm khí uất
uất, dương khí bất dương, như hà như hà, lương cổ thâm tàng
君 子 道 消。 小 人 道 長 。陰 氣 鬱 鬱 。
陽 氣 不 揚 。如 何 如 何 。良 賈 深 藏 。
Dịch nghĩa:
Người Quân tử chủ đạo tiêu
Kẻ
tiểu nhân thì đạo trường
Khí
âm ẩn khuất, khí dương chưa thịnh
Làm
sao lo liệu ,vật báu tích tàng.
Chú giải: “Thầy có hội chư Tiên, Phật lại mà thương nghị về sự lập Ðạo tại Ðại Nam Việt quốc. Các con khá nghe lời
Thầy dặn, chớ khá nghịch lẫn nhau, phải đồng một lòng một dạ mà lo chấn hưng đạo đức. Tuy bây giờ phân chia nhiều nhánh, nhiều chi, chớ ngày sau
cũng có một mà thôi. Các con, dầu bên
nào cũng thương nhau như con một nhà, chớ khá ganh gổ chê bai nhau. Thầy xin lập
Tiểu đàn nầy là Thầy biết con đến đó, Trung. Con khá nhớ những lời Thầy đã dạy:
Con phải nên trợ giúp Minh Lý cho nên việc, nghe há. Có nhiều đạo, cũng như cái
nhà, phải có nhờ nào là cột cái, nào là cột con, đòn tay, kèo, rui. Rui là nhỏ,
mỏng mảnh hơn hết, mà cũng phải nhờ nó. Tuy kể cho nhiều tên, chớ cất rồi thì
có một chủ mà thôi.”
&
QUẺ - 355:
Khứ đáo trường an. Đông tỷ chuyển giác.
Phùng khán thiên môn. Tiện hữu hạ lạc.
去 到 長 安 。東 比 轉 角 。
逢 看 天 門 。便 有 下 落 。
Dịch nghĩa:
Đi tới Trường an. Chuyển qua Đông Bắc
Gặp thấy cửa Trời. Việc may đã chắc.
Chú giải: Thầy dạy: “Trường náo nhiệt Thầy đã định và nói trước, nay đã khởi đầu loán lần ra. Nếu trí các con chẳng lanh lẹ,
hạnh các con chẳnghoàn toàn, cách cư xử các con chưa hòa hiệp, đường Ðạo các con chưa liệu chung, nét khiêm cung các con chưa trọn vẹn, cách đối đãi các con chưa ôn hòa, thì nền Ðạo sau nầy e khi phải vì đó mà để một trò
cười, dầu đức từ bi của Thầy cũng khó gỡ rối rấm được. Các con trước đã vì Thiên mạng phải bỏ các
ngôi cao đặng đem mình vào nơi khổ não, Thầy chỉ đường vẽ bước, dạy từ nét, dẫn
từ dặm đường mà đem các con về chốn Cực Lạc xưa, các con chẳng chịu vầy hiệp
nhau cho đặng bền, cho thân ái, đặng tiến bước đường, thì Thầy cũng lắm nỗi thương
đau mà nắm cân công bình ngó xem một phần trong các con sa nơi u hiểm. Vậy thì
các con nên hiểu lấy mà làm bổn phận. Nếu Thầy quá thương dìu dẫn cho các con
khỏi chốn khó khăn ấy, thì các con phải đem mình trở xuống mấy lần như vầy nữa
mới được công quả hoàn toàn, hầu trở về ngôi vị đặng. Thói vạy tà của nhiều đứa,
ấy chẳng qua là những bẫy của Tòa Tam Giáo để cho các con hơ hỏng mà phải vướng
chơn lúc hành trình đó. Liệu mà bước, lo mà ngừa, thế nào cho vuông tròn đặng.
Thà bỏ một hai đứa mà vớt cả muôn triệu, các con nên biết.”
&
QUẺ - 356:
Từ bộ nhập thiên đài. Vị kiến hảo tiêu tức
Thái dược hữu Tiên đồng. Động phủ biệt xuân sắc.
徐 步 入 天 台 。為 見 好 消 息 。
採 藥 有 仙 童 。洞 府 別 春 色 。
Dịch nghĩa:
Nhẹ bước vào Thiên thai
Đã thấy lành tin tức
Hái thuốc cậy thần đồng
Động xuân đầy khí sắc.
Chú giải: Thầy dạy: Các
con phải biết, Ðạo tại lòng Bác ái và Chí thành. Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình.
Cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng
Trời Ðất. Còn Chí thành, là mỗi việc lấy lòng thành thật mà đối đãi trong đời
và trong đạo. Dù kẻ phú quí đến bậc nào đi nữa mà không có lòng bác ái và chí
thành thì không làm chi nên việc. Vậy nên, Thầy khuyên các con trước hết phải ở
sao cho ra vẻ Ðạo, đừng để ý gì về việc công quả mà nêu danh nơi cõi tạm nầy.
Các con phải mở rộng tâm chí ra mà hành đạo mới nên cho, chớ đừng mờ hồ rằng, Ðạo
thành thì mình được làm đặng một vị xứng đáng và đại ích trong Ðạo. Ðiều đó lẽ
thì các con không cần Thầy nhắc đến mới phải, nhưng vì còn nhiều đứa háo danh
và ham làm một vị chủ tướng trong Ðạo, nên cần phải nói cho mà xét mình. Nếu
các con thật lòng vì Ðạo thì đâu có chậm trễ như vầy.
&
QUẺ - 357:
Tư lương nhứt dạ, bất như đả cán nhứt phiên,
Nhược hoàn thác, phiền não cập phế can.
思 量 一 夜 。不 如 打 幹 一 番 。
若 還 錯 。煩 惱 及 肺 肝 。
Dịch nghĩa:
Trải qua tư lự một đêm
Chẳng bằng tính toán bao phen cho rành
Nếu như còn có sai lầm
Thì cơn phiền não lần lần bận tâm.
Chú giải: Trong Thánh-ngôn hiệp tuyển Chí-Tôn có nói:
“Các con, người dưới thế này muốn giàu sang thì phải kiếm phương thế mà làm ra
của; còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn đắc Đạo phải có công quả. Thầy đến thế
này Thầy lập một trường công đức. Vậy các con muốn đoạt thủ điạ-vị mình thì phải
đến trường Thầy mà thi-thố, chớ không đi nơi nào khác mà đắc Đạo bao giờ. Ấy vậy, cơ quan Phước-Thiện,
Phạm-môn là trường thi công quả của Đức Chí-Tôn đã đến lập sẵn mỗi nơi; làng
nào, ấp nào cũng có một cơ-sở Phước-Thiện cho toàn đạo-hữu có chỗ đến đó đặng
thi thố, lập công bồi đức, hầu đoạt thủ địa vị thiêng-liêng, Đức Chí-Tôn đã
dành sẵn cho mỗi con cái của Ngài” . Thi văn dạy Đạo;
Tạo nên sự nghiệp thế ai màng.
Chưa đến Đài mây đã đặng sang,
Trau chuốt nền NHƠN
con gắng vó
Thầy đây sẽ để một ngôi hàng.
&
QUẺ - 358:
Tâm tế đảm thô, khả thắng
thượng tướng chi nhiệm, dũng vãng tiền hành, Thành bại hà tất tại tâm, hung
trung bả trì đắc định, địch nhân tự năng
thụ khổn.
心 細 膽 粗 可 勝 上 將 之 任 勇 往 前 行 成 敗 何 必 在 心 胸 中 把 持 得 定 敵 人 自 能 受 困
Dịch nghĩa:
Tâm thì tế nhị lại to gan
Còn hơn đại tướng chẳng ham công thành
Việc làm dũng cảm thi hành
Thành công, thất bại đã đành do thiên
Trong lòng cân nhắc cho êm
Đối phương địch thủ tự nhiên qui hàng.
Chú giải: Thầy dạy “Ðạo một ngày một nên, bước đường của các con một ngày một thêm trở gay khó nhọc, nhưng nếu các con
chẳng dụng quyền hơn dụng đức, biết thương sanh chúng hơn thân mình, vì Ðạo hơn vì danh vọng theo thói đời, thì các con thế nào cũng được
vững con đường mà đi cho cùng bước Ðạo. Ðời cũng vậy, mà Ðạo cũng vậy. Hễ chác danh cao
quyền lớn, bực quí phẩm Tiên thì phải dày chịu gian nguy, nặng đeo sầu thảm.
Các con hãy suy đó mà gìn trọn phẩm hạnh, vẹn giữ bước đường, chậm rãi từ năm từ hồi thì tự
nhiên được lương tâm yên tịnh. Còn những đứa choán phẩm ham quyền, cũng có lúc
gặp điều hành phạt thiêng liêng mà nêu gương cho đoàn sau soi lấy.”
&
QUẺ - 359:
Thiên niệm khổ tu nhân, chung bất lạc hồng trần
Thanh tâm năng kiến đạo, nhiễu nhiễu táng chân
linh.
天 念 苦 修 人。 終 不 落 紅 塵 。
清 心 能 見 道。 擾 擾 喪 真 靈 。
Dịch nghĩa:
Trời thương những kẻ khổ tu
Chung qui khỏi đoạ ngục tù trần gian
Lòng trong thấy đặng đạo thường
Tại mình tự rối phá tàn chân linh.
Chú giải: Đạo Cao-Đài là Phật-giáo
chấn hưng, thế nên trong cửa Đạo mới dùng đến danh-từ “cửa Phạm”. Phạm 梵 hay Phạn cũng đồng một nghĩa, là nơi làm cho tâm hồn thanh tịnh. Đã vào
nguơn Thánh-Đức là quyền-năng của Phật, thuộc Thượng-nguơn Tứ chuyển, mục đích
của Cao Đài mở ra để cứu thế, độ người hành theo chánh pháp.
Đạo Cao-Đài có hai
cơ-quan để thi hành hai nhiệm-vụ:
1 - Bí- pháp là Hiệp-Thiên-Đài
giữ,
2 - Thể-pháp là Cửu-Trùng-Đài
cầm quyền đặng giáo-hóa .
Đức Hộ-Pháp phân bày cặn kẽ:“Đang
khi cơ-quan Cửu-Trùng-Đài mở-mang đặng bành trướng về mặt phổ thông chơn-giáo
thì bên Hiệp Thiên-Đài Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí-Tôn mở Phạm môn dùng tấm màn
bí-mật bao phủ khuất lấp cả hành vi, khó
ai hiểu đặng” .
&
QUẺ - 360:
Bổ huỷ ư uyên, cầu ngư ư sơn. Tòng triêu chí mộ,
Công phụ lực tổn, cải huyền dị triệt, thứ khả đồ toàn.
補 兕 於 淵 。求 魚 於 山 。從 朝 至 暮 。
功 負 力 損。 改 弦 易 轍。 庶 可 圖 全 。
Dịch nghĩa:
Lùng bắt hươu tơ trong đầm sâu
Mang cần câu cá tận non đầu
Từ sớm đến chiều lòng mong mỏi
Hao công phí sức chịu hơi mòn
Đổi bánh thay dây cầm phương chắc
Mới mong cuộc thế được vuông tròn.
Chú giải: Mười mấy năm khổ hạnh nâu sồng trong cửa Phạm, ần-nhẫn
tạo nên cả cơ-thể hữu tướng dường ấy. Hại thay! Chúa Quỉ biết rõ cơ mầu-nhiệm
nên mới tương liên cùng Chánh-phủ Pháp tìm hiểu yếu lý huyền-vi của Phạm-Môn,
liền ra lịnh đóng cửa thì lại nảy sanh ra trăm ngàn sở Phước-Thiện. Từ ngày Phước-Thiện
ra đời cho đến nay thì toàn cả nhơn-sanh
Nam, nữ vào cửa Phước-thiện này và đoạt vị rất nhiều đã hiển-nhiên y như theo bài thi của Đại-Từ-phụ mà Bần-Đạo mới vừa
đọc trên đây. …Cơ Đạo của Chí-Tôn giáng lập kỳ ba là cốt ý cứu vớt Cửu nhị ức nguyên-nhân còn lẫn lộn
trong hàng tín-đồ đang vạch lối tìm đường mở ngõ hầu trở về ngôi phẩm .
&
QUẺ - 361:
Thủ trì nhứt mộc ngư, duyên nhai khử hoá,
vị kiến từ công lai. Khước ngộ nhứt điểu khứ.
手 持 一 木 魚。 沿 街 去 化 。
未 見 徐 公 來。 卻 遇 一 鳥 去。
Dịch nghĩa:
Tay cầm một cái mõ. Khắp nơi đi giáo hoá
Chẳng thấy ông họ Từ. Gặp được một con quạ.
Chú giải: Trường xuất
Thánh của Đạo, Đức Đại-Từ-Phụ mở rộng mà hại thay những người giữ cửa rất hẹp-hòi,
lại quá ư nghiêm-khắc, từ Phước-thiện, Phạm-môn ra đời kêu réo mỏn hơi, song
hàng nguyên-nhân phần nhiều bị đóng cửa chẳng đặng vào thì ngày nào độ tận
nhơn-sanh mới tròn câu Phổ-Độ ? …Cơ-quan Phước-thiện, Phạm-môn là một danh-từ
chung của toàn nhơn-loại chớ không riêng biệt cho người nào, ngày nay cái màn
bí-mật ấy vén hết lên rồi, dòm thấy rõ-ràng chớ không còn ẩn -vi như trước nữa.
Vậy Bần-đạo xin Chư chức-sắc Thiên-phong nam nữ, chư Chức-việc lưỡng phái hãy mở
quát cửa thiêng-liêng ra cho Cửu nhị ức nguyên-nhân lần bước vào trường thi
công quả của Đức Chí-Tôn.”
&
QUẺ - 362:
Thuỷ hoả ký tế. Âm dương tương khế.
Dục vật tân dân, tham thiên tán địa.
水 火 既 濟。 陰 陽 相 契 。
育 物 新 民 。參 天 贊 地 。
Dịch nghĩa:
Thuỷ Hoả được tương tế,
Âm dương càng đắc thế
Vật thịnh lại tân dân.
Trời đất đầy sinh khí.
Chú giải: “Nếu tất cả con
người sống nơi mặt thế ai biết nhìn Đức Thượng Đế là Đấng Cầm quyền vi chủ Càn
Khôn. Rất may duyên cho chúng ta đã vào hàng Môn đệ của Đức Chí Tôn rồi phải lấy
tâm linh vi chủ bản thân, dùng cái phần Thiên Lương để xử kỷ tiếp vật tất nhiên
Trời người đồng trị mới là “vũ trụ tiện thị ngô tâm” cái phần vi chủ nội tại là
tâm linh, do ta khéo tu sinh ra pháp sinh ấy là vũ, còn ngoại diện luyện thấy
được chơn tánh mới là định. Định ấy là Trụ, coi như Dương đã đắc Âm (thiên địa
chi tâm là vậy).
&
QUẺ - 363:
Kỵ ngọc thố. Đáo Quảng Hàn.Quá Thường Nga.
Tương quế phan, mãn thân phúc úc,
Lưỡng tụ hinh hương.
騎 玉 兔 。到 廣 寒 。過 嫦 娥 。
將 桂 攀 。滿 身 馥 郁 。兩 袖 馨 香 。
Dịch nghĩa:
Cỡi con thỏ
ngọc lên cung
Hái cành đan quế tương phùng Hằng Nga
Đầy thân hương sắc mặn mà
Hai tay áo gấm mùi hoa ẩn tàng.
Chú giải: Người đời thường xem những người đi theo một Tôn-giáo là “mê- tín dị đoan”.
Xin giải từng chữ trước đã. Mê-tín 迷 信 là tin-tưởng một cách mê-muội, không biết nguyên-nhân, đầu mối gì cả, nghe
gì tin nấy. Bởi chữ mê 迷 là gồm có chữ mễ 米 là gạo và bộ sước 辶 là đường đi.
Mễ là chỉ vật chất, là sự
ăn uống mà thôi, tức nhiên người mê là người chỉ biết theo con đường sống về vật-chất
mà không biết tìm cho mình một món ăn cho cuộc sống về tinh thần; hiện tại sống
nơi đây rồi khi chết sẽ về đâu? Thế nên, vì sợ, cho nên phần đông theo những mị-mộng, tà thuyết, bóng rỗi, lập
đàn thầy pháp, thầy phù, ếm đối của phần đông tả đạo, bàn môn làm cho nhiều
khách muốn biết lẽ nên hư của Đạo-giáo thì chỉ gặp toàn những hạng người này;
nên sinh lòng bất mãn, mất niềm tin, họ cho rằng “mê tín” là đúng! Bởi việc làm
của họ không thể giải thích được, đó là “dị đoan” tức nhiên là không có đầu mối.
&
QUẺ - 364:
Nhứt cá thần đạo. Tuỳ nhĩ khứ hành, Phùng nhân thiết
pháp. Đáo xứ hiển linh.
一 個 神 道 隨 爾 去 行 逢 人 設 法
到 處 顯 靈
Dịch nghĩa:
Một nhành thần đạo. Tuỳ thời chuyển giáo
Gặp người chỉ dẫn..
Hiển linh chu đáo.
Chú giải: Cân công bình biểu
tượng linh thể cơ phán xét của Đức Hồng Quân là Đấng Chí Tôn cầm quyền Càn Khôn
vũ trụ, đến Thái Cực biểu tượng linh thể Đức Chí Tôn là khối lửa ở ngôi tự hữu
độc nhứt quang minh. Với triết lý Cao Đài thể hình Nguơn Thần của Bái Hỏa giáo,
hình tam giác bao quanh Thiên Nhãn biểu tượng linh thể của Lý Thái Cực, tức là
bửu pháp Pythagore giáo, ông Thiện biểu tượng linh thể ngôi Càn Kiện của Đấng
Háo sanh, ông Ác biểu tượng linh thể con đường tự giác của thế nhân. Ngôi Đền
Thánh biểu tượng linh thể Long Mã phụ Hà Đồ, với quả đất biểu tượng linh thể Khối
Nguơn Chất của ngôi Âm để dưỡng sinh vạn vật. Chung quanh Tòa Thánh mỗi khoảng
lan can có dây Nho biểu tượng linh thể Ngôi Tam bửu mà Pháp Chánh Truyền đã định
nghĩa theo nguyên lý dây nho là Tinh, nước nho là Khí, rượu nho là Thần, chữ
Khí biểu tượng linh thể mệnh sanh của vạn vật.
&
QUẺ - 365:
Lô trung hoả. Sa lý kim,
Công lực đáo. Đơn đỉnh thành.
爐 中 火 。沙 裏 金 。功 力 到。丹 鼎 成。
Dịch nghĩa:
Lửa
trong lò.
Vàng
lẫn cát
Gắng
công phu.
Danh
lợi đạt
Chú giải:
Đức Hộ-Pháp một phen nhắc-nhở nữa: “Bần-Đạo xin cho cả thảy con cái Đức
Chí-Tôn biết rằng:
- Nền Đạo
Cao-Đài Đức Chí-Tôn đến lập do nơi chơn-lý tối cao, chính mình Đức Chí-Tôn đến
để diệt mê-tín dị đoan, Ngài chỉ đem đến nền Đạo chơn chánh này mà thôi. Nhơn-loại mê-tín dị-đoan đã nhiều rồi, tinh-thần
loài người bị họ gạt-gẫm nhiều rồi, bởi
thế không gạt được nữa. Lại nữa, nơi
Thánh-ngôn có dạy rõ “Nơi xứ này dân tình rất thuần-hậu và ôn-hòa nên Thầy đến
cũng như Chúa Cứu-Thế đã đến với chúng con để bài trừ tà thuyết và truyền bá chơn
Đạo trên toàn cầu. Người sống trên thế gian này, dầu thuộc giống dân nào cũng chỉ
có một Cha chung mà thôi, ấy là Trời đang chế-ngự số-mạng của các con. Tại sao các con lại chia rẻ nhau vì sự bất đồng
Đạo lý? Mà chính các con đều phải chung chịu đau khổ để rửa tội cho các con ở
thế gian này”
&
QUẺ - 366:
Thử khứ vạn lý trình. Khước ngộ hoa tri âm,
Đồng tâm cộng tế. Đại lập huân danh.
此 去 萬 里 程 。卻 遇 花 知 音。
同 心 共 濟。 大 立 勳 名 。
Dịch nghĩa:
Từ đây đi muôn dặm. Gặp gỡ bạn tri âm
Đồng tâm và cộng tế. Lập được cả công huân.
Chú giải: “Đạo Cao-Đài
không cần dùng Mê-tín dị-đoan làm cho sự tín-ngưỡng đặng mạnh-mẽ của nó. Chúng
ta không cần, trái ngược lụng lại, đem hết triết-lý chơn thật để lại thế này mà
thôi. Bởi vì dối trá dầu cho Đạo hay đời, trường dối trá ấy đã làm cho cơ thể tạo-đoan
nghiêng ngửa. Chúng ta không cần xu-hướng theo cái dối trá thường tình nữa,
chúng ta phải tiêu-diệt cái dối trá ấy. Lại nữa trong hoàn cảnh chúng ta, đương
làm trung-gian giữa Đạo và Đời, chúng ta chẳng nên mượn thế lực mê-tín dị đoan
để làm khiếp phục đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh-thần điên-đảo, một
trường ngôn-luận xù-xì đã kiếm thế hèn tiện của thiên hạ đang tính tạo thành một
phản động lực đặng làm mất giá trị của nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn. Bần-Đạo nói
thật muốn đánh tiêu cả sự dối trá, gian ngược ấy chẳng phải dễ, Người có thể
làm cho thiên hạ mê-tín dị đoan được là Bần-đạo mà Bần-đạo không làm; bởi vì Bần-Đạo
coi sự làm ấy hèn tiện và vô đạo-đức, Bần-Đạo chỉ lấy một triết lý chơn-thật của
Đức
Chí-Tôn để giáo Đạo cho con cái của Ngài mà thôi
&
QUẺ - 367:
Tầm phương xuân nhựt, thích kiến hoa khai.
Đoá đoá kham trích,
chi chi khả tài.
尋 芳 春 日 。適 見 花 開 。
朵 朵 堪 摘 。枝 枝 可栽 。
Dịch nghĩa:
Ngày xuân ta hãy
tìm vui
Hoa
xuân rải rác đâm chồi trổ bông
Cành
tươi sắc đẹp vô cùng
Đoá thì hái lấy cây trồng trước hiên.
Chú giải: Bần-Đạo duy muốn
làm Bạn với con cái của Ngài, nên Phẩm vị Phật sống của Đức Chí-Tôn để cho Bần-Đạo
mà Bần-Đạo chưa có ngồi. Ấy vậy mê-tín dị đoan trong cửa Đạo Cao-Đài không có
và không cần có, quả-quyết hẳn vậy, nên đình lại, đình bí-pháp chơn truyền; nếu
thuyết ra là lấy cái quyền năng mê-tín dị đoan mà thắng thiên hạ là một điều
hèn nhát nên Bần-Đạo không dùng, để khi nào
dùng được Bần-Đạo sẽ dùng. Bần-Đạo
hứa chắc sẽ giáo-hóa con cái Đức Chí
Tôn” .
Ngoạn mục chi hơn đặng ngoạn Tâm
Những mơ, những ước, những âm-thầm,
Trời khuya chưa rõ canh tàn lụn .
Não oán trí lo ruột nát bầm
&
QUẺ - 368:
Long nhứt ngâm.Vân tiện hưng.
Xung tiêu trực thượng. Khoái đổ thái bình,
vi văn vi vũ. Quân quân thần thần.
龍 一 吟 。雲 便 興 。沖 霄 直 上。
快 睹 太 平。 為 文 為 武 。君 君 臣 臣 。
Dịch nghĩa:
May duyên được thấy rồng ngâm
Mây bay gió thổi chín tầng trời cao
Thái bình hơn hết lúc nào
Quân thần văn võ vượt cao cửu trùng.
Chú giải: Nho giáo có câu
"Thiện hữu thiện báo ác hữu ác báo" còn thế nhân lập luận ai gieo gió
sẽ gặt bão. Với Thích Giáo có câu "Sát nhứt đao huờn nhứt đao", "Chưởng hoa đắc hoa, chưởng đậu đắc đậu".
Nên kẻ thế nói làm cái gì hưởng cái nấy, có những cái dầu thấy chẳng tính được
cho là "hằng hà sa số" kể như mớ cát của sông Hằng.Về Lão giáo nên kẻ
thế rất tế nhị ở câu, trần gian là quán trọ kiếp người là khách lữ hành. Nên
Trang Tử có chữ "tuất ảnh" có nghĩa thân còn đi bóng còn theo. Về Ky
Tô Giáo cũng đề cặp đến sự luân hồi quả báo nên cấm Sát Sanh, Chúa đã phán và
tiên tri ở sự đi và đến, với đại ý: "Kẻ nào cầm gươm sẽ chết về gươm, kẻ
nào làm đẹp lòng Cha Ta sẽ được về cùng Cha Ta nơi nước Chúa Trời, còn kẻ nào bị
nguyền rủa sẽ đời đời ở nơi hỏa ngục."
&
QUẺ - 369:
Hổ xuất kim thương, Hữu thành hà tế.
Chẩm tự Sơn ông. Phi phú do hữu thú.
虎 出 金 傷 。有 成 何 際 。
怎 似 山 翁 。非 富 猶 有 趣 。
Dịch nghĩa:
Hùm ra bị phải
kim thương
Giờ đây hùng dũng hết đường dụng oai.
Sơn ông đành chẳng chút tài
Tuy không giàu có cũng loài thanh cao.
Chú giải: Đức Hộ-Pháp có giải-thích vấn đề “Học-hành”
“Cả thảy, bao giờ loài người
nơi thế-gian này cũng phải học, có học rồi mới có hành “Tiên học nhi hậu hành”.
Không ai sanh ra dưới đất này là khi lọt lòng Mẹ mà tự biết được. Đức Khổng-Phu-Tử có nói “Bất học nhi tri phi
thánh nhi hà?” Ngài chỉ còn biết nói rằng, dầu cho “thiên kinh vạn điển bất vị nhi giáo nhân nhất ngôn
thiện” (dầu cho muôn ngàn kinh điển không bằng dạy cho người một lời lành).
Thiên hạ đã để nơi thế-gian này hai ngàn triệu cuốn sách, mà ở trong đó chỉ tổng-số
có một điều là; kiếm phương-pháp dạy người đặng lành; từ thử tới giờ khuôn luật
ấy vẫn một mà thôi.”
&
QUẺ - 370:
Quá dương trường, nhân khang trang,
ngũ lăng cừu mã, đương tự cố hương.
過 羊 腸 。人 康 莊 。
五 陵 裘 馬 。當 思 故 鄉 。
Dịch
nghĩa:
Ruột
dê đường nẻo đã qua
Khang
trang đại lộ thế là yên thân
Ngũ
lăng áo ngựa tưng bừng
Vinh
quang gặp lúc ân cần nhớ quê.
Chú giải: Hỏi: Đức Chí-Tôn đã đến chung hiệp
cùng ta đem nền chơn-giáo của Ngài để
trong Thánh-thể của Ngài, để trong cửa Thánh bây giờ đây ta để dấu hỏi: Ngài muốn tìm gì ? Thật sự Ngài tìm lành ! Ngài
muốn cho con cái của ngài lành. Sự hung-bạo của thế-gian đã quá lắm rồi ! Ngài
đến Ngài trồng giống lành đặng làm huờn thuốc cứu loài người, là huờn thuốc cứu khổ.
&
QUẺ - 371:
Đại tao thuỷ khắc, hoả diệt kỳ quang.
Thuỷ thế thao thao. Nguyên viễn lưu trường.
大 遭 水 剋 。火 滅 其 光 。
水 勢 滔 滔 。源 遠 流 長 。
Dịch nghĩa:
Mắc vào thuỷ khắc. Lửa
tắt hết tài
Ào
ào dòng nước. Nguồn thẳm trôi dài.
Chú giải: Thầy dạy: “Thầy
cũng đại lụy mà ngó xem một phần môn đệ xứng đáng của Thầy phải sa vào vực thẳm.
Các con nên ghi nhớ mà coi chừng đường lối sau nầy. Thầy đã chỉ rõ nẻo quanh
co, thì khá liệu chừng mà bước tới, tâm bền dạ vững, kính mến Thầy là yêu dấu
Thầy đó, nên nghe à! T..., T..., C..., từ đây nên liệu chừng nhau mà điều đình
gánh Ðạo, điều nào mà theo Tân Luật do Thánh ý, hiệp lòng chư đạo hữu, bổ ích
cho nền Ðạo thì các con nên thung dung liệu nhau mà thi hành, chẳng cần phải đợi
cầu hỏi. Các con được tin cậy nhau, dìu dắt nhau, nâng đỡ nhau, mà phủi hết sự
hềm nghi nhau theo thế tình, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui vẻ lớn lao
hơn hết đó. Còn kẻ phản bạn trở lòng, luật Thiên điều cũng có buổi trừng răn
cách xứng đáng vậy. C..., Thầy cấm từ đây chẳng nên lấp lửng cầu cơ hay chấp
bút chi, vì là một sự hại lớn lao cho Ðạo. Ðã phá đức tín ngưỡng của chúng
sanh, lại làm cho nhơn sanh bị nhơ trược”.
&
QUẺ - 372:
Đông các diên khai, giai khách tự lai.
Cao ca xướng hoạ, triển ấp thư hoài.
東 閣 筵 開 。佳 客 自 來 。
高 哥 唱 和。 展 挹 舒 懷 。
Dịch nghĩa:
Gác đông mở tiệc vui. Khách sang tự tới lui.
Nhạc ca thường xướng hoạ. Lòng dạ khoái mười mươi
Chú giải: Đức Hộ-pháp: Bần-Đạo
nói ngày giờ nào cả con cái của Ngài biết Tha-tín và Tự-tín, là lấy cả gương-mẫu
của tiền-nhân chúng ta, bậc Hiền-triết Thánh-nhân, thâu đoạt cho đặng cả
tinh-thần, cả hành-tàng của họ, đặng tạo dựng Tự-tín của mình. Tha-tín ấy, cả đầu
óc nam cũng thế, nữ cũng thế, nhứt là Thánh-thể của Ngài phải chiếm đoạt cho đặng
cái Bí-pháp ấy. Đức Chí-Tôn muốn thế, tức là một phương-pháp cậy người tạo dựng
Thánh-thể cho con cái của Ngài hầu làm khí-cụ nhiệm-mầu độ rỗi vạn-linh
sanh-chúng.
Bần-Đạo giảng rằng: Nền chơn-giáo của Ngài là một khối lành vô đối
của thế gian đương mơ vọng, đương khao-khát đặng hưởng lấy nó. Hưởng cho đặng
nó, đặng bảo vệ sanh mạng của mình, nếu khối lành này không hiện-tượng được thì
sự hung-bạo của nhân-loại sẽ xô đẩy họ đi đến con đường tự diệt mà chớ ”
&
QUẺ - 373:
Thế giới tự thanh ninh, bất tri từ dĩ hưu,
Đả điệp yếu tiểu tâm. Tu phòng tao đại độc.
世 界 似 清 寧 。
不 知 辭 已 休 。
打 叠 要 小 心。
須 防 遭 大 毒 。
Dịch
nghĩa:
Thế sự tựa thanh bình.
Từ quan tạm ẩn mình
Lo toan đừng nhẹ dạ.
Phòng gặp phải yêu tinh.
Chú giải:
NHO là nguồn đạo-lý phát xuất từ Đức Thánh Khổng-Phu-Tử là người sáng lập nên Đạo nhân-luân làm giềng mối trật-tự, kỷ cương, từ trong
gia-đình loáng ra ngoài xã-hội không đâu là không cần ích đến.
NHO 儒 là gì? Nhìn dạng chữ ta thấy rõ hai phần đủ nói lên
cái lý Âm dương không xa lìa nhau. Bên
trái là bộ nhân 人 nhân là người, bên phải là chữ nho hay là
nhu 需 nhu là sự cần yếu,
nhưng trong chữ nhu này có thể còn thấy hai yếu-tố
kết-hợp nữa: Trên là chữ vũ 雨 là mưa, dưới chữ nhi 而 là mày; như vậy chữ nhu là ý nói rằng của
này mày có quyền xử-dụng, như nước mưa mà trời đã ban-thí cho
nhân-loại vậy.
Tóm lại, kẻ được gọi là Nho-sĩ hay thông-nho là
kẻ ấy rất cần-ích cho mọi người. Bởi trong chữ Nho nó cấu-tạo tất cả là ba yếu-tố, như vậy chứng tỏ đây là con số 3 tròn
đầy: thể hiện con người đứng trong
Tam-tài: thiên, địa, nhân; chỉ có người đức-hạnh hoàn-toàn mới xứng đáng là bậc “Thông Nho”.Thế nên kẻ ấy
phải hiểu biêt: Trên thông thiên-văn. Dưới đạt địa-lý. Giữa quán nhân-sự.
&
QUẺ - 374:
Khiêu long môn, Tu hấp lãng,
Lôi điện oanh. Oanh dũng dược vạn trượng.
跳 龍 門 。須 吸 浪 。
雷 電 轟 。轟 踴 躍 萬 丈 。
Dịch
nghĩa:
Cửa
rồng nhảy vượt. Sung phá ba đào
Sấm sét long trời. Muôn trượng thế cao.
Chú giải: Hỏi tại sao ngày nay Đức Chí-Tôn phải đến lập
lại nền Nhân-Nghĩa trong cửa Đạo? (Lời ức Thượng-Sanh)
“Trước nhất phải thấy rằng nền Nhân-nghĩa của
con người trên trái đất này đã bị lung-lạc nhiều lắm rồi: Vì theo trào lưu tiến
bộ của văn-minh vật-chất hiện tại, nhất là trước hiểm-hoạ của làn sóng vô-thần
quá khích, con người dù là hạng trí-thức dễ bị lôi cuốn vào cảnh bê tha trụy-lạc,
hoặc bị đưa đẩy vào vòng lợi-danh đen tối làm tôi-tớ cho thế lực kim tiền, bán
rẻ lương-tâm, không còn kể Nhân-Nghĩa là lẽ phải nữa. Chủ-nghĩa duy-vật đã lan
tràn khắp trên thế-giới và cả dân tộc Việt-Nam bị đầu độc hết chín phần mười
dân-số, nền luân-lý cổ-truyền đã đổ vỡ, người ta đã vứt bỏ hết mọi đạo-đức và họ
luân-lạc trong đêm dài mờ-mịt, chỉ vì đời sống của họ thiếu hẳn quân bình giữa
vật-chất và tinh-thần tức là thiếu luồng điện hòa hợp, thiếu cái biết trí-tri của
tâm-linh hay là ánh-sáng dẫn đến trực giác”.
&
QUẺ - 375:
Sơn thượng hữu cổ tùng. Đình
đình xung hán đẩu. Cán lão chi cánh trường. Thiên địa sinh vinh trượng.
山 上 有 古 松 。
亭 亭 沖 漢 斗 。
幹 老 枝 更 長 。
天 地 生 榮 丈
Dịch nghĩa:
Đầu non có cổ tùng.
Ngay thẳng chỉ tinh đẩu
Thân
già cành càng dài.
Trời
đất cho trường cửu.
Chú giải: Đức Hộ-Pháp có lời thuyết-giảng về vấn-đề
này:
“Nghĩ cả khoa-học từ thế-kỷ 20 này nó đã đem lại
cho nhân-loại những gì ? Thật ra cái
sanh sống của nhơn-loại nó có thay đổi, nó có hướng
về duy-vật nhiều hơn là tinh thần khoa-học. Nếu để tâm suy-gẫm thì ta ngó thấy,
nó có thể tạo hạnh-phúc cho xác thịt nhơn-loại
mà nó làm cho tiêu-hủy cả tinh-thần loài người cũng có. Những nhà triết học Âu-châu nhứt là Pháp, đã
nói một câu rất chánh đáng, chánh đáng mà có
khuyết-điểm khoa-học lắm lắm đó vậy.
Họ nói rằng “La science sans conscience est le plus grave danger de
l’existence humaine” (khoa-học không có thiên lương là một điều nguy-hiểm cho sự sanh tồn của nhân loại).
&
QUẺ - 376:
Phỉ báng ngôn, Vật kế luận.
Đáo đầu lai, Số dĩ định, Lục lục phù sinh, bất tri an phận.
誹 謗 言 。勿 計 論 。到 頭 來 。
數 已 定 。碌 碌 浮 生。 不 知 安 分 。
Dịch nghĩa:
Người xuyên tạc. Ta
chẳng cần
Sau
sẽ biết. Định số phần
An thiên mạng. Kiếp phù sinh.
Chú giải: Nay vì thiếu nhơn-đạo, nhơn-loại không biết
yêu-ái với nhau, chỉ tranh sống, chỉ tranh mạnh, mong làm bá-chủ của hoàn-cầu,
gây biết bao chiến-tranh khổ-não, chẳng phải hao về
sanh mạng mà thôi, mà hao cả phú-hữu nơi mặt đất này mà chớ; biểu
làm sao nhân-loại không thống khổ cho đặng. Ai đời họ đã làm một điều trái hẳn
luật tạo-đoan mà chính mình Đức Thánh
Hava ở tại Đền Thánh La-Mã đã buộc phải lên tiếng: Sanh dục không cần Nam, nghĩa là người đàn-bà
không cần có chồng mà muốn có con, khoa-học có thể cho có con đặng. Nếu như cái
tình trạng ấy quả-nhiên có, đẩy nhơn-loại đi đến một điạ-điểm chúng ta sẽ ngó
thấy gì? Chúng ta ngó thấy Đạo luân-thường
của nhân-loại sẽ bị tiêu-hủy đi mà chớ!
Đi tới mục-đích đó biểu sao cả tinh thần con người không hướng về vật
hình, rồi cái Đạo nhân-luân không đếm-xỉa đến, thử hỏi nếu một trẻ thơ kia sinh
ra không có Cha,“Cha nó là một cái ống bơm kia mà thôi”
&
QUẺ - 377:
Nhứt cá trư khả tế thiên địa.
Tuy táng thân, diệc toán hảo xứ.
一 個 豬 可 祭 天地 。雖 喪 身 。亦 算 好 處 。
Dịch nghĩa:
Một con heo. Tế dâng trời đất
Thân tuy mất. Còn hưởng phước lành
Chú giải: Thử hỏi đạo nhân-luân của nhân-loại nó đã ra
sao mà chớ ? Họ muốn tiêu-diệt cấp bậc, tức nhiên là muốn phá-hủy cả định luật
thiên-nhiên, chúng ta thử để một dấu hỏi: Ngày giờ nào chúng ta đem một người
thường dân lên cầm quyrền được thì chúng ta mới có thể đả-đảo đẳng cấp được.
Chừng nào chúng ta đem một chú chăn bò lên ngôi làm quan Tòa, chừng đó
chúng ta mới có thể đả-đảo các đẳng-cấp được. Bởi cả đẳng-cấp nơi mặt thế-gian
này đều có định-luật, mà định-luật thiên-nhiên ấy không có quyền-năng nào sưả-đương
được”.
&
QUẺ - 378:
Dữ kỳ nhật doanh doanh,
hà như dạ thỗn thỗn.
Nhựt lý đa lao hình,
dạ gian khước an ổn.
與 其 日 營 營 。何 如 夜 忖 忖 。
日 裡 多 勞 形。 夜 間 khước 安 穩 。
Dịch nghĩa:
Ban ngày cặm cụi lo âu
Chẳng bằng tính toán đêm thâu cho tường
Ngày mà lao nhọc đủ phương
Thế là yên giấc vô lường yên thân.
Chú giải: Thầy có dạy “Con đã mang nơi mình mỗi đứa một
trách-nhiệm chẳng phải nhỏ. Thử nghĩ lập một nước còn dễ hơn dạy một người dữ đặng
hiền, huống chi trong Tam-Kỳ Phổ-Độ này các con phải độ rỗi cả nhân-loại, khắp
cả năm châu thì trách-nhiệm ấy lớn lao là bực nào. Cái hạnh và cái Đức của các
con nó phải phù-hợp với cái trách-nhiệm mới đặng. Các con là đèn và gương soi của
nhân-loại. Phải tập mình cho xứng đáng. Các con có đặng hạnh-phúc ấy là do học
đặng mảy-mún nơi Thầy”
&
QUẺ - 379:
Đông
phong lai. Hoa tự khai.
Đại
gia xướng hoà. Sướng ẩm tam bôi.
東 風 來 。花 自 開。大 家 唱 禾。暢 飲 三 杯 。
Dịch nghĩa:
Gió Đông vừa tới.
Hoa nở tức thì
Cùng nhau vui hát. Uống cạn ba ly.
Chú giải: trong nguơn này vai trò của Đạo Cao-Đài rất
quan-trọng. “Buổi Chí-Tôn mới đến tỏ danh hiệu Ngài. Ngài hứa với các Môn-đệ của
Ngài buổi đầu tiên về “cơ quan chuyển thế” làm phân-vân biết bao nhiêu nhà trí
thức, tìm hiểu hai chữ chuyển thế là gì ? Chuyển nghĩa là sửa đổi cũ ra mới, thế
là đời. Theo triết-lý-học định nghĩa chữ
chuyển-thế là xoay đổi thời-đại hiển-nhiên ra thời đại khác hoặc không phù hợp,
hoặc quá khuôn-khổ nên quyết-đoán thay đổi lập-trường thiêng-liêng vì thời-đại
này đã định. Nếu lấy nghĩa-lý đã định hẳn ra, tức nhiên chúng ta nhận thấy các khuôn luật đạo-đức từ trước
đến giờ để lại đều bị biếm-trách cả, bởi
vì đời quá hung- tàn bạo-ngược, vô-nhân-luân, tinh-thần đạo-đức không qui-định,
tâm-lý loài người không tương-quan cùng nhau, mất cả luật đồng sanh làm căn-bản
của lòai người, luật đồng sanh gần như bị
hủy bỏ; bởi thấy tấn-tuồng trước mắt nào
giặc-gĩa chiến-tranh, giành sống mà giết hại lẫn nhau, oán kết thâm thù,, lòai
người do nơi ấy mà biến-sanh tàn-ác, cái phương sanh sống đến một giai-đoạn rất
khó-khăn và chúng ta thử xét đoán trong các kinh-điển Đạo-giáo đã để lại là “nắng
lửa mưa dầu”.
&
QUẺ - 380:
Sơ thực ẩm thuỷ. Lạc tại kỳ trung.
Cao hương xú vị. Phản sử tâm mông.
蔬 食 飲 水 。樂 在 其 中 。
膏 梁 嗅 味 。反 使 心 朦 。
Dịch nghĩa:
Uống nước ăn rau. Khoái thích biết đâu
Cao lương mỹ vị. Lòng dạ sắc sâu.
Chú giải: Đức Ngài nói:
Dám quả-quyết rằng sẽ còn đại-động dữ-dội
một phen nữa nơi mặt địa cầu này, đặng
chi? Đặng giống da trắng giao quyền cho sắc dân mới nữa
là giống dân Thần-Thông-Nhơn (Race lucide) làm chủ, cầm giềng mối tòan mặt địa
cầu này. Hại thay ! Luật thiên nhiên, chiếu theo kinh-luật Thượng-cổ để lại
quan-sát hẳn-hoi, dở sách ra coi thấy trước thế nào sau thế ấy, bánh xe tiến-hóa
vẫn đi, xây một hướng một chiều. Bần-Đạo e cho loài người mài-miệt tội-lỗi đó
càng nguy hại cho loài người hơn nữa nên
Chí-Tôn lập Đạo Cao-Đài là Đền thờ cao-trọng, Đức-tin to lớn ngự trước
thiên-lương loài người mới có thể thắng cơ-quan Thiên-điều định trước. Chúng ta
là Thánh-thể của Ngài giải quyết được chăng? Nếu thoảng không được cái hại này
còn duy-trì nữa. Ngài muốn Việt-Nam này là Thánh-Địa cho nhân-loại biết rằng nhờ
đây mà giải-quyết cứu thế, bảo-tồn nhân-loại là do con cái của Ngài . Nếu bất lực
chúng ta có phần lỗi đó vậy”.
&
QUẺ - 381:
Hoàng ngưu tịch thổ.
Đại lực khai cương.
Tây thành thời hậu,
xác vị doanh thương.
黃 牛 闢 土 。大 力 開 疆 。
西 成 時 候 。殼 未 盈 蒼 觴 。
Dịch nghĩa:
Bò vàng cày đất khai hoang,
Bao nhiêu lao lực là vàng bấy nhiêu,
Đến khi gió thuận mưa đều
Mùa thu gặt lúa được nhiều đầy kho.
Chú giải: Cái giá-trị của
Pháp-Chánh-Truyền vô cùng thiêng-liêng mầu-nhiệm bởi đây là “Truyền Chánh
pháp”; Lời truyền-phán của Đức Chí-Tôn như vầy:
“Thầy đã nói Ngũ-Chi Đại-Đạo bị qui
phàm là vì khi trước Thầy giao Chánh-giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa
Thánh-giáo mà lập ra Phàm-giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy-dỗ
các con mà thôi, chớ không chịu giao chánh-giáo cho tay phàm nữa”
Cũng như Tân-Luật không đầy 20 trang
sách, nhưng đó là Thiên-điều tại thế; bởi tính cách thuộc về huyền-linh xưa nay
chưa từng có.
&
QUẺ - 382:
Xà khả hoá long, đầu giác tương xuất,
Bình địa nhứt thanh lôi oanh,
Phương hiển long xà hữu lực.
蛇 可 化 龍 。頭 角 將 出 。
平 地 一 聲 雷 轟 。方 顯 龍 蛇 有 力 。
Dịch
nghĩa:
Rắn
tu sau sẽ hoá rồng
Bao
năm ẩn núp gắng công luyện rèn
Có
hồi sấm sét vang lên
Hiện
ra Sứ mạng tạo nên kinh trời.
Chú giải: Tuy việc Đạo về luật hình không có
nhà tù, khám lớn, nhưng chắc-chắn rằng sẽ chí công vô tư, tuyệt đối công bằng, thưởng phạt phân
minh, lành siêu dữ đoạ, nếu không như vậy thì chả lẽ hằng triệu người tín-ngưỡng một Tôn-giáo đều là mê-tín hết hay sao ? Thi văn dạy Đạo:
Tâm thành có thuở nghiệp nhà nên
Đạo-đức khuyên con cứ giữ bền
Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên
&
QUẺ - 383:
Cửu hoa sơn đính, tử khí đằng dị,
Tận nhứt châu, Thủ khứ tiền hành.
九 華山頂 。紫 氣 騰 異。 盡一舟 。取去 前 行
Dịch nghĩa:
Nhìn xa đỉnh núi Cửu Hoa
Tường vân thuỷ khí ấy là điềm hay
Chiếc thuyền thuận gió về Tây,
Trên đường du khách gặp may trùng trùng.
Chú giải: Điềm lành cho nước
Trung hoa là thiên nhiên quá ưu đãi: nhiều danh sơn thắng tích, Trời lại ban
cho nhiều Đấng Giáo chủ đến khai hóa nhân tâm như các Ngài: Khổng, Mạnh, Lão,
Trang, nhưng tiếc thay đứng về “Luật nhân quả” Đức Hộ-Pháp thuyết rằng:
“Một ngày kia Trung-Cộng với
Cambodge (Căm bốt) chết không còn một con đỏ, bởi vì Cambodge nghe lời xúi giục
của người ta thành ra phải chết hết. Các con biết sau này sắc tộc, sắc tộc đánh
nhau; Tôn giáo, Tôn giáo đánh nhau. Đài-loan từ Hồng Kông tản cư qua Việt-Nam
trước, bởi vậy người hành ác mà mình theo họ, mình ôm eo ếch họ rồi họ trật
chân, sút tay, họ té chết thì mình cũng chết theo họ mà thôi, thành ra người
Miên (Campuchia) còn có bao nhiêu giống bên Việt Nam đó thôi, các con rán
thương giùm họ. Nói về Trung Cộng là đứa con cưng của Đức Chí Tôn, nên Đức
Chí-Tôn mới cho Khổng Tử, Lão Tử và Mạnh-Tử giáng trần dạy Đạo, làm lành lánh dữ,
nhưng hiện nay Trung-Cộng theo cái thế sắc, thủ đắc nguyên tử, sức mạnh là trên
hết, tất cả mộng làm bá chủ hoàn cầu đều phải tiêu diệt.”
&
QUẺ - 384:
Nhân phi Khổng Nhan,
Tiên năng vô quá nhi năng cải.
Nhưng phục vô quá,
Khai hoa bất túc bằng,
Kết quả phương vi chuẩn,
Phóng khai hoài bão ý hân hân.
人 非 孔 顏 。鮮 能無 過 而 能 改 。仍 復無 過 。開花不足憑 。結果方為準。放 開 懷保 意 欣欣 。
Dịch
nghĩa:
Người
phàm đâu phải Khổng Nhan
Ai
không lầm lỗi khoe khoan phần mình
Lỗi
rồi chớ biếng hàm thinh
Biết
rồi hối cải mới tinh khôn mà,
Cậy
chi cây cối trổ hoa,
Khi
nào kết quả ấy là thành công
Mới
là đắc ý thoả lòng.
Thoả
lòng đắc ý vô cùng hân hoan.
Chú giải: Tài năng như Đức Khồng Tử là bậc “Vạn thế Sư biểu” trong đời nay không có nữa. Hiền như thầy Nhan Hồi cũng khó kiếm. Lớp
hậu sinh chỉ học theo Ngài thôi.
Hiện nay: “Nơi địa-cầu 68
này là nơi luyện cảnh (Monde ex
piatoire) chúng ta chẳng những phải bị ma hồn quỉ xác cám-dỗ mà thôi, mà chúng
ta còn bị thiên-tai mộc ách; chúng ta chẳng những đối địch cùng hung-bạo của đời
mà thôi, mà phải đối địch cùng các nghiệt bịnh của Trời hành xác nữa. Ôi ! vì vậy mà nhiều bậc văn-tài trí-sĩ bên
Âu-tây cắm cúi cả đời tìm kiếm một phương hay mà sửa đời đặng bênh-vực
nhơn-sanh khỏi điều tận diệt. Trí-não phải tháo luyện đến đỗi nhiều vị đoạt đặng
cơ bí-mật của Trời mà làm ra một khoa-học, có nhiều phương hay và quá trí
khôn-ngoan của người, nên coi các Đấng âý như là Đaị Tiên cũng phải. Khi chúng
ta đã đặng đủ khôn-ngoan chiếm-đoạt cơ bí-mật của Trời mà lập ra các cơ-khí, nếu
không có Phật-giáo dạy ta giữ dạ Từ-bi mà cứu nhơn độ thế, thì cái học-thức
khôn-ngoan ấy nó trở lại hại cho nhơn-sanh hơn nữa”. (Diễn văn cuả Đức Hộ-Pháp
)
CHUNG
Lời bạt: Thực hiện bộ “Khổng
Minh Thần Toán” này với mục đích xiển dương cái tinh thần Nho học mà Đức Khổng
Minh đã sáng tạo ra một lối văn cực kỳ bí ẩn. Sở dĩ có 384 quẻ là thành quả của
384 hào. Mà số hào này bắt nguồn từ 8 quẻ Bát Quái (8 x 8 x 6).Chúng tôi cũng
thấy được cái vòng thuận nghịch âm dương của các Quái xây chuyển một cách
khít-khao, tuyệt vời lắm. Trong đó đủ cả Thái cực, Lưỡng nghi, Tam tài, Tứ tượng,
Bát Quái Ngũ hành. Tôi muốn làm một cái gì đó là khai thác thật đúng mức, nhưng
khả năng chừng tới đó thôi. Tạm thời chúng tôi lồng vào Tinh hoa Đại-Đạo hầu
làm sáng tinh thần đạo học, có lẽ ước muốn chỉ được có mấy phần trăm thôi. Nhờ
các bậc cao minh khai triển tiếp. Cái hay đã sẵn có của tiền nhân. Phần kém là
của Soạn giả, xin đừng vội phê phán tiền nhân mà soạn giả thêm tội rất nhiều vì
khả năng còn giới hạn.
Thứ đến là tôi viết lại là
để tri ân một bậc Lão sư lúc sanh tiền đã để lại trong tâm hồn chúng tôi một cảm
tình tuyệt đẹp.
Lại nữa hoài bão đã lâu, nhưng thực hiện phần Chú giải trong tập “Khổng Minh Thần Toán” này vừa phải
hoàn thành chỉ trong một tuần nay, nhằm ngày Vía Phật Bà Quan Âm. (Khởi soạn từ
ngày 15-02 đến 23-02-Canh Dần- 2010).
Kính dâng lên Đức Phật.
Trân trọng làm món quà
thân ái gởi đến đồng Đạo bốn phương với niềm tri âm, tri kỷ trong cuộc đời.
Nữ Soạn Gỉa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét