Hạc là giống chim lớn,
chân cao, cổ dài, lông trắng, bay rất nhanh, dáng thanh nhã, sống đến ngàn
năm, thường được các vị Tiên dùng làm phương tiện để du hành đây đó. Chim Hạc còn được đắp hình đứng trên lưng con Qui (rùa) để thờ nơi đình miếu. Có câu:
năm, thường được các vị Tiên dùng làm phương tiện để du hành đây đó. Chim Hạc còn được đắp hình đứng trên lưng con Qui (rùa) để thờ nơi đình miếu. Có câu:
Thương thay thân phận con rùa,
Nơi đình đội Hạc, nơi chùa đội bia.
Chim Hạc còn được ví với sự phóng khóang tự do
như câu “Hạc nội mây ngàn”. Thánh ngôn Hiệp tuyển quyển II Đức Lý có dạy:
“Lung kê hữu mễ thang oa cận,
“Dã Hạc vô lương thiên địa khoan”
Nghĩa là: Gà lồng có lúa
ăn hằng ngày, mà nồi nước sôi cận kề, không biết phải bị giết lúc nào. Chim Hạc
ở đồng nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng trời đất bao la mặc tình bay lượn. Bấy
nhiêu đó cũng cho người một ý niệm sống có hai hướng rõ ràng: kẻ đạo đức thư
nhàn, người cần lao khổ nhọc. Rốt lại còn gì?
&
QUẺ - 196;
Thâm đàm ngư bất điếu, u cốc điểu khả la,
Chỉ dụng cửu trường tâm, bất dụng sinh nghi hoặc.
深 潭 魚 不 釣 。幽 谷 鳥 可 羅 。
只 用 久 長 心 。不 用 生 疑 惑 。
Dịch nghĩa:
Đầm sâu khó được cá to,
Chim trời dễ đặt lưới dò trong hang
Chỉ cần tâm ý vững vàng
Ngại lòng ngờ vực khó đương cuộc cờ.
Chú giải: Đầm sâu khó câu cá, chim trời còn lưới rập. Nhưng đối với người lòng dạ vốn khó lường. Khi vui, lúc buồn thường
thái quá. Có thể vì người ghét cũng dám xuống tay, có thể vì người thương mà liều
thác.
Trường hợp Bà Nữ Đầu sư
Hương Hiếu một năm chịu ba cái tang: tang chồng Đức Cao Quỳnh Cư, tang mẹ ruột,
tang con là Cao Quỳnh An du học bên Pháp chết. Hầu như Bà không còn thiết sống.
Đức Chí-Tôn giáng Cơ an ủi, gợi chuyện làm đường.
Thầy nói: “Hiếu, con nghe
Thầy nói chuyện làm đường cát trắng, con !
(Hiếu bạch: Bạch Thầy con không biết)
- Đổ đường đen vào một cái
hủ thọc lủng đít, rồi định chừng cho vừa hai phần hủ đường, còn một phần hủ thì
đổ bùn non cho tới miệng, đem phơi nắng chừng một tuần thì đường trở nên trắng,
gạt lớp bùn đi thì con đặng một thứ đường trắng phau-phau rất ngon, rất đẹp đó
con. Cái khổ hạnh cuả con giống như đường đó, con à! Con có biết Thầy khóc như
con vậy chăng con? Nếu con không vậy, làm sao đáng con cái của Thầy. Con chỉ nhớ
rằng Thầy thương con là đủ. Đặng thế gian yêu mến ắt Thầy phải ghét, mà Thầy ghét con thì còn chi con,
con khá nhớ
&
QUẺ - 197;
Tấn bất an, thoái bất khả, thượng hạ tương tòng,
minh châu nhứt khoả.
進 不 安 退 不 可 。上 下 相 從 。明 珠 一 顆
Dịch
nghĩa:
Khó
lòng tiến bước xa hơn,
Muốn lùi không dễ và còn đắn đo,
Dưới trên tâm ý thuận hoà,
Minh châu một hột báu nhà hân hoan.
Chú giải: Không tiến thoái
được là bất thông, là bế tắc. Điềm không lành. Người chiếm quẻ này nên thận trọng
và kiên nhẫn vì trước khó sau dễ cũng là thời vận mà thôi. Khi đã tuyệt đỉnh
văn minh như Âu châu mà giờ gặp nguy khó cũng là thời trời vậy. Con đường để giải
khó chỉ là làm thuận với lòng trời.
Luận xét đến các nước ở
Âu-châu, ở Á-châu, đồng tìm chánh sách vạch triết lý ấy và đương họat động cho
lòai người hiệp nhau làm một. Bởi lý do đó các nhà thượng đẳng nhơn sanh chia nền
chánh trị ra mỗi quốc gia, dụng tâm lý chia đều quyền lợi cố ý tìm cách thống
nhứt cả lòai người làm một trong đường sanh họat mà thôi, ấy là nước Mỹ đang
thi thố hiện thời; còn nước Nga lại chia phân tài sản, dung-hòa tâm lý tạo cho
lòai người một phẩm-giá; một quyền lực đồng nhau. Phương pháp ấy khó đọat thành
nguyện vọng.
&
QUẺ - 198;
Trước trước thượng tiên cơ, kỳ trung lộ bất mê,
Mục tiền vô hợp ý, Sạ miễn thị hoà phi.
著 著 上 先 機 。其 中 路 不 迷 。
目 前 無 合 意 。乍 免 是 和 非 。
Dịch nghĩa:
Dần dần chiếm được điểm đầu
Mọi đường suông sẻ dễ đâu mê lầm
Dù rằng tình ý phân vân,
Mọi điều phải trái chẳng can hệ gì.
Chú giải: Thành công đến một
cách dễ dàng phải nghĩ rằng phúc đức nhiều đời để lại. Nhưng vừa hưởng phải vừa
vun quén “Phúc bất hưởng tận” là vậy. Luôn giữ đức khiêm nhường, từ tốn để cân
bằng trong lý sống lâu bền.
Thầy còn dạy rằng: “Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các
con nhỏ-nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con trách phạt; cử chỉ
các con khá lập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình, thì là gần ngôi Tiên Phật
đó!”
&
QUẺ - 199;
Chuy táo cao chi thượng, hành nhân cổ độ đầu,
Bình đồ bất liễu sự, nhựt mộ chuyển sinh sầu.
隹 噪 高 枝 上。行 人 古 渡 頭 。
平 途 不 了 事。 日 暮 轉 生 愁。
Dịch nghĩa:
Trên cành chim đã hót vang,
Khách đường ghé bước đò làng bến xưa,
Đường ngay, việc đến muộn chưa!
Bóng chiều vàng vọt, nắng chiều buồn tênh.
Chú giải: Lòng ngay thẳng,
đạo đức cao. Tâm con người phải tùng theo đường đạo để cuộc sống được hài hòa.
Hãy tìm cho biết rõ: Chơn luật hay vấn-đề đoạt Đạo là luật chơn chánh và cần yếu
nhất là sự Thương yêu: Chơn luật thể hiện ở hai điều kiện LUẬT và QUYỀN:
1 - Luật Thương-yêu: Ngài
định luật cho chúng ta là luật Thương-yêu; không phải thương-yêu nhân-loại mà
thôi, mà phải thương-yêu toàn cả vạn-linh
nữa.
2 - Về Quyền: Ngài chỉ định
là quyền Công Chánh. Đó là nội dung của bản Hòa-ước kỳ ba với Đức Chí-Tôn mà nhân loại phải thực thi đó vậy. Từ thử, ta
chưa thấy cái Hòa-ước nào đơn-sơ như thế ấy, mà nó oai quyền làm sao! Bởi từ
khi có loài người đến giờ LUẬT THƯƠNG-YÊU không xa rời trong tâm tưởng của con
người. Hỏi cha mẹ trong gia-đình trị con cái bằng bộ luật nào, nếu không phải
luật Thương-yêu? Nếu không nhờ luật Thương-yêu thì Đức Phật Thích-Ca không lập
giáo được, cho chí đến các tôn-giáo trên hoàn cầu cũng vậy.
&
QUẺ - 200;
Tạc thạch đắc ngọc, đào sa đắc châu,
Nhãn tiền mục hạ, hà dụng trù trừ.
鑿 石 得 玉 。淘 沙 得 珠 。
眼 前 目 下。 何 用 躊 躇。
Dịch nghĩa:
Ngọc còn ẩn đá đẽo ra,
Châu nằm lẫn cát bới đào được ngay.
Khéo nhìn phân biệt đúng sai,
Phân vân ắt khó lộc tài vẻ vang.
Chú giải: Người thợ ngọc phải tu học nghề nghiệp cho
chuyên mới gọi là chuyên nghiệp. Người đạo đức muốn có ngôi cao phẩm quí phải
biết tu hành. Công khó như nhau, là phải biệt phân ngọc đá vàng thau thường lẫn
lộn. Đây:
Dầu hồi buổi chưa tu,
chúng ta đã chán thấy sự hay dở của Ngũ-chi Đại-Đạo là thế nào và cũng thấu rõ
lẽ chánh tà của kẻ cầm quyền hành Đạo. Chẳng cần để luận những chi Tả-đạo bàn
môn, dầu chánh-pháp chơn truyền, mà đời chế giảm sửa đương cũng đã thành phàm
giáo.
Ta đã lãnh vai làm chủ khảo
thì buộc:
Mắt
của ta phải xét cho chánh,
Miệng
ta phải nói cho chánh,
Thân
ta phải làm cho chánh,
Trí
ta phải định cho chánh,
Tâm
ta phải giữ cho chánh;
Có như vậy
thì mới đủ quyền hành cầm cân Công bình thiêng-liêng thưởng phạt, hiệp tâm lý đặng qui nguyên phục nhứt”
&
QUẺ - 201;
Vô
đoan phong vũ thôi xuân khứ,
Lạc
tận chi đầu đào lý hoa,
Đào
bạn hữu nhân ca thả tiếu.
Tri
quân tâm sự loạn như ma.
無 端 風 雨 催 春 去 。落 盡 枝 頭 桃 李 花 。
桃伴 有 人 歌 且 笑。 知 君 心 事 亂 如 麻。
Dịch nghĩa:
Vô tình mưa gió giục xuân qua
Đào lý theo xuân tan tác hoa
Có kẻ bờ đào cười lại hát,
Rằng: “chàng, tâm sự khó bày ra”.
Chú giải: Tâm sự người khó
bày ra vì còn nhiều nghĩ nghị, bấy nhiêu cũng làm cho bậc Chí-Tôn khổ công đến
độ dẫn con cái của Người. Phải tìm phương hay kế diệu để kêu gọi con về. Ấy là
lúc mà Đại-Từ-Phụ còn giao nơi tay chúng ta những phần thưởng hữu hình và quyền
lực Thiêng-liêng của Thầy đã sẵn-sàng dành để mà nhủ rằng:
“Của cải này đủ thế lực cám-dỗ nhơn-sanh qui hồi
bổn thiện. Thừa tánh tham của phù du thế tục, các con trao phẩm vị
Thiêng-liêng. Do tâm dữ tranh quyền lộc công danh, các con đổi Chí-linh bổn thiện.
Cơ-quan cứu khổ chúng sanh cũng do nơi đó”
&
QUẺ - 202;
Nhàn uyển nhất thời xuân.
Đình tiền hoa liễu tân. Thanh truyền hảo tin tức, thảo thuỷ tận hân hân.
閒 苑 一 時 春 。庭 前 花 柳 新 。
聲 傳 好 信 息 。草 水 盡 欣 欣 。
Dịch nghĩa:
Vườn uyển đương xuân cảnh trí nhàn
Kiểng hoa tươi mới sắc hân hoan
Lời rằng đã có tin mừng đến,
Cây cỏ thắm nhuần khí tượng an.
Chú giải: nhân nói “vườn uyển đương xuân” ở trần tươi đẹp, làm cho người hân hoan. Đây xin nhắc cõi Trời có Vườn Ngạn Uyển là vườn trồng hoa
trên cảnh Thiêng liêng Hằng Sống. Mỗi sắc hoa là một Chơn hồn của những kẻ
nguyên nhân, Nhứt Nương Diêu Trì Cung chăm sóc, còn gọi là Ngạn-Uyển Chưởng Hồn.
Đức Hộ-Pháp nói về Cảnh
Thiêng Liêng Hằng Sống: “Có tánh tọc-mạch nghe nói nơi Diêu-Trì-Cung có Vườn Ngạn-Uyển
mà Vườn Ngạn-Uyển ấy ra sao? Trong Kinh luật có nói mỗi mạng sanh con người đều
có hiện tượng một bông nở trong Vườn Ngạn-Uyển, mỗi khi bông ấy héo rụng tức
nhiên là có một người chết, tại thế này gọi là chết chớ không phải chết. Loài
người không bao giờ chết cả, chết ấy là chúng ta thay một cái áo để ngoài, vào
nhà tắm, tắm rồi ta mặc lại nữa, sự sống chết như thay đổi cái áo kia vậy thôi.
Trước mắt chúng ta, hiện-tượng hào quang chiếu diệu một vườn hoa, đẹp-đẽ đủ
màu, vườn hoa ở cảnh Thiêng-Liêng ấy không phải như vườn hoa ở thế gian này
đâu. Bông hoa Thiêng-Liêng ấy sẽ sống một triệu lần, do nơi quyền-năng biến hóa
của nó và nó sẽ hiện tượng biến hóa trước mặt ta vô cùng tận vậy. Bởi vì nó
thay đổi màu sắc rực-rỡ vô biên, cho nên mỗi phen kiếp sanh tại thế này, đường
tấn hóa trên con đường trí-thức tinh thần, mỗi khi nhơn loại tấn triển lên thì
Vườn Ngạn Uyển nó sẽ đổi hình đổi tướng một cách đẹp-đẽ vô ngần”.
Nhứt Nương Diêu-Trì-Cung
nói: “Phận sự Ngạn Uyển Chưởng Hồn không giờ nào rảnh rang đặng đến mà trò chuyện
cùng mấy Anh cho thoả tình hoài vọng. Hộ Pháp hỏi: Đâu em cắt nghĩa dùm Ngạn-Uyển
Chưởng Hồn là sao cho Qua rõ ?- Dạ ! Ngạn-Uyển Chưởng Hồn là vườn Ngạn Uyển trồng
hoa. Mỗi sắc hoa là một Chơn hồn của cả kẻ nguyên nhân: thạnh suy, thăng đoạ
chi cũng do nơi khối sanh hoa, khí ấy định
sanh mạng của mỗi người, nên phải chăm nom từ buổi. Em không rảnh đặng là vì vậy.”
Nhứt Nương có nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển nơi từng Trời thứ nhứt trong Cửu
Trùng Thiên, xem xét các Nguyên nhân đang còn sống nơi cõi trần hay đã qui vị,
vì mỗi đóa hoa trong Vườn Ngạn Uyển tượng trưng một Nguyên nhân. Khi Chơn linh
Nguyên nhân ấy đầu kiếp xuống trần thì hoa nở, nếu làm điều thiện lương chơn
chánh thì sắc hoa tươi thắm, nếu Chơn linh làm điều tà mị gian ác thì sắc hoa ủ
dột xấu xí. Đến khi Chơn linh qui vị, tức xác thân sắp rời khỏi cõi trần thì
báo hiệu bằng một đóa hoa héo tàn. Bửu pháp của Nhứt Nương Diêu-Trì Cung là Đờn
Tỳ Bà”. Cửu Vị Tiên giáng ngày 15-8-Bính
Tuất (dl 9-9-1946): Thì đây là bài của Nhứt Nương Diêu-Trì-Cung nói lên nhiệm vụ
của chính mình:
Nhẫng ngồi giữ Huỳnh hoa Ngạn Uyển,
Mà quên nghe đặng tiếng vĩnh sanh.
Dọn đường lều cỏ chòi tranh,
Tay nương con gậy một mình trông vơi.
&
QUẺ - 203:
Môn ngoại sự trùng điệp, âm nhân đa ngộ hợp,
Hiền nữ tuy trợ xảo, Diểu diểu chung nan hợp.
門 外 事 重 疊 。陰 人 多 遇 合 。
賢 女 雖 助 巧。渺 渺 終 難 合。
Dịch nghĩa:
Bên ngoài việc quá bộn bề,
Hẳn người khuất mặt hiện về đâu đây
Gái hiền tuy khéo mỹ miều,
Chung cùng khó toại những điều ước mơ.
Chú giải: Đây nói về âm
dương ngăn cách là việc thế tình. Nhưng việc trời đất cũng có sự ngăn cách, nên
từ xưa đến giờ nhân loại chưa bao giờ được một lần biết danh Trời. Nay, Đức Hộ-Pháp
có nói: “Vậy thì Đại-Từ-Phụ đến khai Tam-kỳ Phổ-độ có đem theo một gia nghiệp
Thiêng-liêng xuống thế, rồi nắm tay các Lương-sanh mà dắt đến một nơi vinh-diệu
lại bảo rằng: Các con phải leo cho thấu trên chót Đài Cao này cùng Thầy đặng
xem tòan thể của địa hòan, ngó cho chường, suy cho quyết, rồi chung tâm hiệp
trí cùng Thầy lo liệu bề chuyển thế”
&
QUẺ 204;
Sự hữu hỉ, diện hữu quang,
chung thuỷ hảo thương lượng, Hồ trung nhựt nguyệt trường.
事 有 喜 面 有 光。 終 始 好 商 量。壺 中 日 月 長
Dịch nghĩa:
Việc may dạ khá mừng. Mặt lộ nét hoan hân
Sau cùng đều vẹn vẻ. Ngày tháng mặc xa gần.
Chú giải: mừng vui ghét giận
là chuyện thế nhân. Nhưng mỗi người mỗi vẻ mà nó mang nhiều ý nghĩa khác nhau.
Hãy nghe ông Thiệu-Khang-Tiết chia làm
ba hạng người:
- Bậc thượng-phẩm không dạy
mà được THIỆN
- Bậc trung-phẩm có dạy rồi
mới được THIỆN
- Bậc hạ-phẩm dù có dạy cũng không THIỆN
- Không dạy mà Thiện nếu
không là THÁNH thì còn gì ?
- Dạy rồi mới được Thiện nếu
không HIỀN thì còn là gì?
- Kẻ có dạy mà cũng không
Thiện, gọi NGU chớ còn gì ?
cái trí hóa của người đời
có cao, có thấp, không đều nhau, vì vậy Đức Thượng-Đế mới mở ra nhiều mối Đạo
khắp nơi trên địa-cầu này để tùy theo trình độ mỗi hàng phẩm mà dẫn dắt lên con
đường cao thượng hơn.
Đạo Cao-Đài, Đức Chí-Tôn
có phân rõ ba bậc:
- Nguyên-nhân là khi khai
thiên rồi đã có chơn linh người,
- Hóa-nhân là từ cầm thú đã
tiến hóa lên người,
- Quỉ nhân là do từ hai phẩm
trên bị tội mà đày vào quỉ vị.
&
QUẺ - 205;
Ám khứ hữu minh lai, ưu
tâm sự khả hài, chung tu thành nhất tiếu, mục hạ mạc nghi sai.
暗 去 有 明 來。 憂 心 事 可 諧 。
終 須 成 一 笑。目 下 莫 疑 猜 。
Dịch nghĩa:
Đi buồn về được hiển vinh,
Tâm hồn lo ngại, sự tình đạt thông.
Vui cười chung cuộc thoả lòng,
Không còn ngờ vực bớt phòng điều sai.
Chú giải: Chính cái thất tình
của con người đã đóng một vai trò quan trọng, chẳng những chuyện buồn, vui, họa,
phúc mà thôi; mà nó còn định cho sự đọa thăng luân hồi.
Thầy than: “Mỗi phen Thầy
đến lập Đạo thì phải cam đoan và lãnh các con, chẳng khác nào kẻ nghèo lãnh nợ.
Các con làm tội lỗi bao nhiêu, oan nghịêt bấy nhiêu Thầy đều lãnh hết. Các con
đặng thong-dong rỗi-rảnh chẳng lo tu đức mà sửa mình, lại còn cả gan trước mặt
Thần, Thánh, Tiên, Phật gây thêm tội-lỗi nữa, thật là đáng giận. Thầy chẳng biết
bây giờ đây Thầy phải bỏ Đạo, liều đọa với các con hay là đợi cho Đạo bỏ Thầy đó các con. Cắt ruột
ai lại không đau ! Nếu Thầy không cầu khẩn Thái-Bạch đình hình phạt lại cho tới
ngày lập thành Tòa-Thánh, các con lấy công mà chuộc tội, thì trong các con chẳng
đặng còn lại một phần mười, các con nên lấy lời răn Thầy đây làm vị thuốc khử tội
của các con, phải sợ mạng lịnh Thái-Bạch. Thầy nhắc cho các con một phen nữa”
&
QUẺ - 206;
Bảo kính vô trần nhiễm, kim điêu dĩ tiễn tài, d
Dã phùng thiên ý hợp, chung bất nhạ trần ai.
寶 鏡 無 塵 染。 金 貂 已 剪 裁 。
也 逢 天 意 合。終 不 惹 塵 埃。
Dịch nghĩa:
Gương báu gìn trau khỏi bụi mờ
Điêu vàng giữ kín dám thờ ơ
Âu là Trời đã ngầm giao phó
Báu vật trong tay khỏi bợn nhơ.
Chú giải: Gương báu của
người là tinh thần đạo đức của mỗi người. Ngày nay người đến trần lo tu hành là
tắm rửa hồn trong, chính là lau bụi trên mặt gương chứ không phải lau gương. Có nghĩa là mỗi người đều là tấm gương
rồi mà để lâu ngày bị mờ đi, hoặc nhiều hoặc ít, bây giờ lau bụi trên mặt gương
ấy để không bị mờ, chứ không ai có khả năng lau một tấm ván cho thành gương
trong được. Nói thế, người mà biết tu hành đều là nguyên căn xuống trần mới biết
trau tria đạo hạnh. Đức Thượng Đế than dài:
“Ôi, thảm thay ! Thảm thay ! Các mối Đạo Thầy
đã liều thân lập thành đều vào tay Chúa Quỉ hết, nó mê họăc các con. Nhiều bậc
Thiên Tiên còn đọa; huống lựa là các chơn thần khác của Thầy đương nắn đúc thế
nào thóat khỏi. Thầy đã chẳng trách phạt Kim-Quan-sứ lẽ nào lại trách phạt các
con, song hình phạt của Thiên-điều, dầu chính mình Thầy cũng khó tránh. Các con
tự lập hình phạt cho các con, cũng như Thiên-điều mà Thần, Thánh, Tiên, Phật lập
thành đó vậy. Thầy đã cho kẻ thù Thầy đặng hưởng ân-điển của Thầy lẽ nào truất
bỏ phần của các con, song tại các con từ chối, đáng thương mà cũng đáng
ghét’
&
QUẺ - 207:
Hoà hợp sự, tiếu đàm thành,
Hỉ âm tại bán trình. Bình bộ đạp thanh vân.
和 合 事 笑 談 成。
喜 音 在 半 程 。平 步 踏 青 雲 。
Dịch
nghĩa:
Việc
nên nhờ được hoà đồng
Vui
cười vì đã thành công sẵn rồi
Tin may chợt đến nửa vời.
Đất bằng thẳng bước đến nơi mây lành.
Chú giải: quẻ này ứng điềm lành làm cho người chiếm quẻ lắm hài hòa, thỏa vọng cầu mong.
Hãy tiếp tục đi trọn con đường đạo đức đã sẵn có để làm vui lòng Thượng Đế.
Thầy dạy: “Các con ôi ! Đã
gọi là Đấng câm cân, lẽ công bình thiêng liêng đâu mà Thầy đặng phép tư vị, Thầy
lấy lẽ công-bình thì tức nhiên phải chiếu theo Thiên điều, mà chiếu theo
thiên-điều thì là con cái Thầy tức là các con phải chịu trầm luân đời đời kiếp
kiếp. Các con phải ngồi nơi địa vị Thầy thì các con thế nào! Mỗi phen Thầy đau thảm khóc-lóc các con, phải
lén hạ trần, quyết bỏ ngôi Chí-tôn xuống lập Đạo, lại bị các con bạc đãi, biếm
nhẽ, xua đuổi, bắt buộc đến nỗi phải chịu cho các con giết chết.”
&
QUẺ - 208:
Hoa tàn nguyệt khuyết, kính phá thoa phân,
Hưu lai hưu vãng, sự thuỷ an ninh.
花 殘 月 缺。 鏡 破 釵 分 。
休 來 休 往。 事 始 安 寧。
Dịch nghĩa:
Hoa tàn theo lúc trăng vơi,
Kính đà tan vỡ,
trăm rời tóc mây
Lại qua kịp lúc dừng ngay,
Về sau công việc được hài lòng hơn.
Chú giải: Việc buổi đầu nhiều khó khăn chớ ngại, đời mà
đôi khi khó liệu trước. Khi đã được hạnh phúc nắm trong tay cũng đừng khinh suất.
Nhớ rằng cuộc đời này, vũ trụ này đều nằm trong vòng tay của Đức Thượng Đế hết.
Đức Thượng-Đế nói:“Cầm cả
quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu-diệt nó đặng, nhưng
mà phép Công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy !” Thầy dạy rằng: “Các con ôi
! Thầy hỏi vậy chớ mỗi phen độ rỗi cho đặng các con, các con có biết Thầy chịu
khổ-não dường nào chăng? Quyền hành Chí-Tôn của Thầy, các con nếu hiểu thấu thì
các con sẽ thấy nó là một hình phạt rất nặng-nề, chẳng khác nào như gông với tróng. Thầy lập nhơn lọai là giòng-giống
các con, chỉ tưởng rằng ban đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi cõi thế-giới
càn-khôn, đặng làm cho rõ Thánh-chất mạnh mẽ hơn phàm chất, nào dè còn lại đặng
chẳng đủ một phần triệu Đấng, thì thế nào Thầy không đau lòng cho đặng ? Thầy
chưa bao giờ biết hình phạt các con bao giờ. Từ khai thiên Thầy đã sanh ra các con,
sự yêu mến của một ông cha nhân-từ thế quá lẽ làm cho đến đỗi các con khinh
khi, phản-nghịch lại cũng như Kim-Quan-sứ là A-tu-la, Thánh-giáo gọi là Lucifer
phản-nghịch, náo động Thiên-cung. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật còn phàn-nàn
trách cứ Thầy thay !”
&
QUẺ - 209:
Môn ngoại hảo âm lai , sinh nhai ưng hữu khánh,
Danh lợi hữu cánh thiên, nhạn hành chung chiết trận.
門 外 好 音 來 。生 涯 應 有 慶 。
名 利 有 更 遷 。 雁 行 終 折 陣 。
Dịch nghĩa:
Tin vui vừa đến cổng ngoài
Sinh nhai tất được ấm no vẹn phần
Lợi danh dời đổi đôi lần,
Chân trời cánh nhạn lìa đàn kêu sương.
Chú giải: người có tâm thiện, biết hành thiện thì việc
thiện đến. Ngược lại làm việc ác thì sự ác trả ngay. “Thiện ác đáo đầu chung hữu
báo. Chỉ duy lai tảo dữ lai trì” Thật vậy làm thiện có thiện trả, làm ác có ác
báo, chỉ có điều là nó đến sớm hoặc muộm mà thôi.
Duy tìm biết chữ THIỆN 善phải như thế nào đây? Ngòai cái nghĩa Thiện là Hiền lành ra, còn có nghĩa
là phụng-sự, là hy-sinh nữa. Bởi chữ Thiện được cấu tạo trên là chữ Dương 羊 là con dê, là một trong ba con vật chịu hy-sinh để cúng tế trời đất, quỉ
thần ngày xưa (trâu, dê, heo gọi là Tam sanh) tức là khi làm được việc lành thì
tay múa miệng reo (dưới cùng là chữ khẩu 口 khẩu là miệng)..
Dân Việt-Nam là một dân-tộc
đầy đủ tinh-thần hy sinh, bất-khuất, đã chịu đựng biết bao thời kỳ nô-lệ, đã
rèn đúc thành một tâm hồn rắn chắc; đức hy-sinh, kiên-nhẫn và thiện chí có thừa
với một tâm hồn đạo-đức cao độ. Cái báu vật đã thọ hưởng từ đời ông cha ta để lại
biết bao đời, hôm nay đàn con cháu sẽ đời đời truyền nối cái tinh thần cao-khiết
ấy.
&
QUẺ - 210:
Vạn lý hảo giang san, phong sa tận nhựt nhàn,
Dĩ thôn điếu thượng nhĩ, hà tất ngộ ba lan.
萬 里 好 江 山 。風 沙 盡 日 閒 。
已 吞 釣 上 鉺 。何 必 遇 波 瀾。
Dịch
nghĩa:
Nước non ngàn dặm tốt tươi,
Ngày nhàn gió cát như nguôi dạ sầu
Mồi ngon cá đã cắn câu,
Nghĩ chi sóng gió giờ sau cũng thành
Chú giải: con cá cắn câu tức là ngậm được mồi cũng như
người tìm được Đạo. Nhưng giữa cá và người khác nhau xa. Cá ăn mồi trong sự mê,
người ăn mồi trong khi tỉnh. Mồi đạo đức hay ho biết mấy. Rán trau giồi hằng
ngày.
Thầy dạy: “Ðạo mầu tìm đến,
lấy hạnh đức giồi tâm, mượn nâu sồng lánh thế, càng dìu sanh chúng, càng bước,
bước càng cao, lên tột mây xanh vẹt ngút trông vào cảnh cực lạc an nhàn, non
chiều hạc gáy, động tối qui chầu, ấy là khách Tiên gia, lánh khỏi đọa luân hồi
nơi cõi thế vậy. Mau bước gắng tìm đường, kẻo rừng chiều bóng xế, chúng sanh
khá biết cho.”
&
QUẺ - 211:
Song yến hàm thư vũ, chỉ nhật nhứt tề lai,
Tịch mịch yễm lưu khách, tòng tư hạ điếu đài.
雙 燕 啣 書 舞。 指 日 一 齊 來 。
寂 寞 奄 留 客 。從 玆 下 釣 臺。
Giải nghĩa:
Tin thư theo én liệng bay,
Một ngày kịp đến trao tay cho người
Mịt mờ lòng khách phương trời
Lần theo bến nước kịp thời buông câu.
Chú giải: Cá sống trong nước
là môi trường thích hợp. Người cũng có môi trường đạo đức mới làm cho cuộc sống
vui tươi và bền bĩ. Nhưng nên nhớ kiếp sanh làm gì?
Sanh ra phận làm người, đã
mang vào mình một trách nhậm đặc biệt, phải gắng sức làm cho hoàn toàn, hầu chờ
buổi chung qui, tương công chiết tội, tiêu quả tiền khiên mà nâng mình vào địa
vị cao thượng hơn phẩm vô vị chốn sông mê nầy. Thắm thoát ngày tháng thoi đưa,
bóng thiều quang nhặt thúc, sen tàn cúc rũ, đông mãn xuân về, bước sanh ly đã lắm
nhuộm màu sầu, mà con đường dục vọng chẳng còn biết đâu là nơi cùng tận. Lợi
danh xạo xự, chung đỉnh mơ màng, cuộc vui vẻ chẳng là bao, mà chốn đọa đày chen
chẳng mãn. Nỗi đau thương bề ấm lạnh, nào tiếng khóc đến câu cười, co duỗi, duỗi
co, dở bước đến cảnh sầu, thì thấy chẳng lạ chi hơn là mồ hoang cỏ loán, đồng
trống sương gieo, thỏ lặn ác tà, khách trần nào ai lánh khỏi!”
&
QUẺ - 212:
Vọng khứ kỷ trùng san, cao thâm tiệm khả phan,
Cử đầu thiên thượng khán,
minh nguyệt xuất nhân gian
望 去 幾 重 山 。高 深 漸 可 攀 。
舉 頭 天 上 看 。明 月 出 人 間 。
Dịch nghĩa:
Nhìn xa mấy lớp
núi non,
Núi
cao non thẳm ắt còn gặp ta,
Ngẩng
đầu xem đấng Trời Cha,
Sáng
trăng sáng khắp gần xa cõi trần.
Chú giải: Cảnh núi non u-tịch gợi nhớ cảnh non
Tiên động Thánh mà tâm tu còn vọng lại trong cõi lòng.
Lời Thầy: Chư nhu nghe: Nguồn Tiên, nẻo Phật, từ trước đến giờ vẫn chờ kẻ hữu phần, hữu
đức, hữu công, tu thân, dưỡng tánh, mà lánh khỏi thói đời mê muội nầy. Biển khổ
lắm chơi vơi, mà khách phàm hằng đeo đuổi; Ðài Nghiệt Cảnh rọi chẳng biết bao
nhiêu tội tình, mà chốn tội tình lắm người đưa chơn tìm đến. Kiếp phù sanh
không mấy chốc, đời mộng ảo chẳng là bao, sanh đứng nên người chen vai vào vòng
thế cuộc, có khác chi kẻ bị đày vào biển khổ để làm xong nhân sự đặng chuộc thửa
tội tiền khiên; bao nhiêu tiếng khóc câu cười, thế lộ bước đã mòn mà giấc mộng
trần chưa thức tỉnh. Cang thường điên đảo, phong hóa suy vi, những mảng ghét lẫn
nhau, giành xé nhau; mỗi Tôn Giáo phân chia, Ðạo nước nhà chẳng đoái, chánh tà,
tà chánh nan phân, còn chút hơi thở ở cõi trần, mà tính tình dọc ngang chưa chịu
dứt, một mai hồn xuống Diêm Ðài, khổ A Tỳ bảo sao không buộc trói. Ðạo Trời
khai dẫn bước lỗi lầm, đem kẻ hữu căn lánh vòng phiền não, nếu chẳng bả bươn nhặt
thúc bóng thiều, kiếp phù sinh qua dường nháy mắt. Hãy biết lấy!”
&
QUẺ - 213:
Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng,
Nhứt kỵ xuất trùng quan, giai âm chỉ xích gian.
用之則 行。舍 之 則 藏 。
一 騎 出 重 關 。佳 音 咫 尺 間 。
Dịch
nghĩa:
Khi
dùng vật tất được công,
Cất
vào nơi kín như hòng bỏ rơi
Một mình một ngựa ra khơi
Tin lành bay đến như rời tấc gang.
Chú giải: Câu “Dụng chi tắc
hành, xả chi tắc tàng” mà người đời nói tắt là “hành tàng”. Trong kinh có câu
“Nay Hư linh đã thấy hành tàng” là do vậy. Hẳn nhiên cái đạo đức vốn trong tâm
mỗi người đều có. Duy có kẻ chưa khêu dậy nên thường sử dụng cái thú tính mà
hóa hung hăng. Còn người biết tu thì lần lần hóa giải, loại bỏ những thói hư tật
xấu hằng ngày như gương trong nhờ lau chùi hằng bữa. Đến khi nào thuần khiết thì
không cần phải lau nữa, như Đức Lục Tổ Huệ Năng vậy. Vì với ông thì “minh kính
diệc phi đài” Còn gương nữa đâu mà lau? Nhưng còn khó!
Thầy nói: “Lòng đạo đức của
con, Thầy đã thấu rõ, nhưng gương khổ hạnh rán giồi thêm, hầu dìu dắt sanh linh
vào nẻo chánh giáo, mà lánh khỏi đọa luân hồi, sanh nhằm thời buổi nhơn sanh dụng
gương bất đức mà gieo họa cho bước trần; khiến cho sai sót nẻo luân thường; bến
khổ đường mê vẫn cứ tìm vào mà làm cho biển trần chẳng biết bao nhiêu chìm đắm,
đạo đức chẳng rèn lòng mà tội tình càng chác lấy; nếu chẳng có một Ðấng Từ Bi lấy
đức háo sanh mở Ðạo Tam Kỳ đặng vớt những kẻ hữu căn, thì toàn thế giới sẽ bị dần
dần tiêu diệt, ngôi cựu vị ở chốn non thẵm rừng xưa, cũng chẳng có một bực Tiên
Thánh đọa trần nào đoạt lại được. Họa Âu tai Á sẽ vì Thiên Ðiều mà phạt kẻ bạo
tàn tội lỗi; Càn Khôn tiều tụy, mà bước tục hỡi chần chờ, nếu chẳng sớm xét mình
để buổi ác xế trăng tà, nước dời cạn bực, thuyền Bát Nhã đã lướt qua, nhành
dương liễu hết rơi giọt từ bi, thì ăn năn rất muộn. Khá biết lấy, chư chúng
sanh hãy nghe.”
&
QUẺ - 214:
Tích đức thi công hữu tử tôn,
Sát ngưu tế thần nãi tây lân,
Công danh lưỡng tự thành toàn nhựt,
Hồi thủ sơn hà vạn vật tân.
積 德 施 功 有 子 孫 。殺 牛 祭 神 乃 西 鄰 。
功 名 兩 字 成 全 日 。回 首 山 河 萬 物 新 。
Dịch nghĩa:
Chứa nhiều
công đức cháu con giàu,
Tế lễ thánh thần kỉnh thấp cao,
Công danh hai chữ tròn ngày tháng,
Ngoảnh lại nước non rực mọi màu.
Chú giải: người khác nhau
nhìn qua tánh tình, đạo đức, mà phân biệt. Con cháu cũng nhờ phúc hậu của tổ
tiên, ông bà, cha mẹ mà từ đó được nâng giá trị thêm cao. Làm người lớn phải biết
nêu cao tấm gương cho đời sau hậu hưởng.Con cháu phải biết theo lối mòn đạo đức
nghĩa nhân mà tô bồi âm chất. Phong hóa nay đã suy vi lắm rồi !
Thầy dạy: “Thầy để lời cho
con rõ, cảnh vui vẻ về sau của gia quyến con, đạo đức soi gương đem về chung một
nẻo; dầu cho sang vinh trăm mối, tiền của muôn chung, mấy kẻ đặng tìm đến địa vị
an nhàn xủ áo phồn hoa, để gương soi hậu thế. Một nhà sau gặp gỡ, ngàn trước vẫn
an vui. Ấy là nhứt môn hạnh phúc vậy.”
&
QUẺ - 215:
An thản lộ bình di, vân
trung nhứt nhạn phi, đào hoa phùng sậu vũ, thuỷ bạn nữ tần đề.
安 坦 路 平 夷。 雲 中 一 雁 飛 。
桃 花 逢 驟 雨 。水 畔 女 頻 啼 。
Dịch nghĩa:
Đường dài bằng phẳng an toàn,
Trong mây cánh nhạn bay ngang lưng trời,
Hoa đào trước trận mưa rơi,
Có người con gái buồn đời thở than.
Chú giải: Cảnh lịch, người xinh thắm thía lòng người, Sự
nhàn hạ cũng làm cho thế nhân yêu thích, nhưng không khéo làm yếu đuối tâm hồn.
Ở đây muốn gợi đến cảnh nhàn của người thoát tục và nhắc nhở kiếp nhân sinh hữu
hạn, hãy nhìn một ngày qua là thời gian sẽ thu ngắn tuổi đời lại gần hơn. Những
gì sẽ tới đây: già, chết không hẹn..
“Chiều thu nguyệt xế, non
nhạn ngày thâu; lẩn thẩn ngày tháng qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc. Nếu
chẳng bền lòng theo nẻo chánh mà thoát lối sông mê thì căn quả trả vay chẳng biết
ngày nào tiêu tận đặng. Non cao, suối lặng, tìm đến rửa bụi hồng. Ðạo đức làm
thang, để lên địa vị thanh cao, lánh khỏi đường tội lỗi; thưởng phạt hai đường,
gắng công trình sẽ rõ.
&
QUẺ - 216:
Môn nội khởi can qua, thân cừu lưỡng bất hoà,
Châu y tâm nhựt nguyệt, Thuỷ giác tiếu kha kha.
門 內 起 干 戈。 親 仇 兩 不 和 。
朱 衣 臨 日 月 。始 覺 笑 呵 呵 。
Dịch nghĩa:
Trong nhà giai thứ bất hoà
Họ hàng tôn tộc xem ra thù hằn,
Tháng ngày sẽ gặp quý quan,
Tình thân thắm
thiết mọi đàng cười vui.
Chú giải: Người không an,
sự cũng không an. Tâm sự còn ngổn ngang, làm sao vững mọi đàng ? Tuy nhiên phải
có tâm thành trí vẹn mới giải quyết mọi nghi nan bất ổn. Bởi:
Thầy nói: “Người sống trên
thế gian này, dầu thuộc giống dân nào cũng chỉ có một Cha chung mà thôi, ấy là
Trời đang chế-ngự số mạng của các con. Tại sao các con lại chia rẻ nhau vì sự bất
đồng Đạo-lý, mà chính tất cả các con đều phải chung chịu đau khổ để rửa tội của
các con ở cõi thế gian này. Con để chơn vào con đường đưa đến cảnh an-nhàn hưởng
những chuỗi ngày hạnh-phúc nơi cõi Niết-bàn. Con ráng tiếp tục đi trên con đường
vạch sẵn ấy, để theo đuổi đến mức cuối cùng “(TNI/ 134)
&
QUẺ - 217:
Hữu nhứt nhân, hoạch nhứt lộc,
Sự viên đồ, môn ngoại tố.
有 一 人 。獲 一 鹿 。事 圓 圖 。門 外 素
Dịch
nghĩa:
Trông
ra thấy dạng một ai,
Hươu
tơ nối bước theo tay dắt dìu
Thành
công đến với mọi điều
Cổng
ngoài nhân sự thuận chiều hân hoan.
Chú giải:
hươu, báo điềm lành, vì nó là con vật hiền, dễ thương. Nếu đã hiền lành, ngoan ngoãn thì sẽ bị thú dữ ăn thịt hiếp đáp. Chỉ
có người biết dụng cái hiền đó mới xử sự đúng mức mà thôi. Cũng như Việt Nam là
một dân tộc hiền nhưng không nhược, đạo
đức chứ không khuất phục, thế mà lại bị các cường quốc đô hộ, hết Tàu ngàn năm,
đến Tây trăm năm. Chỉ có Đức Thượng Đế mới
dùng giống
quí này mà làm nơi triển
khai nền Đại Đạo hầu tiến đến Đại Đồng: Đại Đồng xã hội, Đại Đồng chủng tộc, Đại
Đồng Tôn giáo. Người còn đến giao phó cho một dân tộc đã từng bị trị này “ngày
sau làm Chủ mới là kỳ”. Đúng là một sự chọn mặt gởi vàng.Là người Đạo Cao Đài hãy
làm một con người xứng đáng với sự tin yêu đó.
Chính Đấng Thượng Đế đã
nói: “Chỉ có xứ Việt Nam còn duy trì được sự tôn-sùng Tổ-phụ theo tục lệ cổ
truyền, mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu ở dưới quyền lệ-thuộc từ ngày được tạo lập
đến giờ. Nơi xứ này dân tình rất thuần hậu và ôn-hòa, Thầy đến cũng như Chúa Cứu-thế
đã đến với chúng con để bài trừ tà thuyết và truyền bá chơn Đạo trên tòan cầu.”
&
QUẺ - 218:
Nhữ vãng vô du lợi, hoa khai hựu cập thu,
Nghiêm sương vật tiến chí, thoái bộ bất tồn lưu.
汝 往 無 攸 利 。花 開 又 及 秋 。
嚴 霜 物 薦 至 。退 步 不 存 留 。
Dịch nghĩa:
Người đi chưa gặp điều may
Hoa vừa hé nhuỵ gặp ngày thu sang.
Sương dày phủ kín khắp đàng
Kíp quay gót lại kẻo ràng buộc chân.
Chú giải: Thu là mùa gặt
hái kết quả. Chữ Nho biểu tượng cho lời nói ấy. Thu 秋 gồm có bộ hỏa là lửa mặt trời. Hòa là lúa, sở dĩ lúa chín được nhờ ánh nắng
làm cho lúa chín. Nay là nguơn hội cùng cuối của Hạ nguơn Tam chuyển, Thầy mới
đến lập Đạo CaoĐài cũng là mùa gặt hái kết quả.
Thầy có dạy “Đạo là quí, của
quí chẳng bán nài; các con đừng thối chí”. Bởi: “Hàng phẩm nhơn tước của các
con nó trùng với hàng phẩm Thiên-tước của các con. Ngôi thứ Thầy đã sắp sẵn,
các con ráng đọat thủ địa vị của mình. Trước qua sau tới liệu mà tu hành. Thầy
khuyên các con một điều là: đừng tưởng lầm tước phẩm Thiên Đạo Thầy đem cho ai
cũng đặng. Cửa Bạch-Ngọc-Kinh chẳng phải ai vô cũng đặng. Mỗi đứa con đều có
tên trong Thiên-thơ cả, chức phận cũng đã tiền định, chớ chẳng phải tước hàm trần
thế dâng cho kẻ lễ nhiều”
&
QUẺ - 219:
Tân nguyệt vi câu, thanh phong tác tuyến,
Cử võng yên ba, cẩm tiên dị kiến.
新 月 為 鉤 。 清 風 作 線 。
舉 網 湮 波 。錦 鮮易 見 。
Dịch
nghĩa:
Trăng
liềm đầu tháng mới nhô ra
Gió
mát xe dây kẻo muộn mà
Buông
lưới trên sông cơn sóng nhẹ
Dễ nhìn cá gấm vượt dòng qua.
Chú giải: Cảnh gió mát
trăng thanh, cá trong nước nhởn nhơ bơi lội. Người nhàn tâm nhàn trí, cảnh nhàn
hạ thích hợp với tâm tu. Phải biết rõ để không còn phân vân:
Thầy dạy: “ Từ Ðạo khai
sáng đặng gieo truyền mối chánh giáo đến nay, thì phần nhiều môn đệ đã để trọn
tấc thành mà dìu dắt sanh linh và đắp vun mối Ðạo Trời, ấy là những đứa Thầy đã
tin cậy, đặng gia công dọn lấy chông gai để mở trống nẻo thiêng liêng, dẫn lần
dân sanh thoát khỏi sông mê bến khổ, tất là cõi trần vô vị nầy. Ðạo đã lập
thành, gót trần của phần nhiều môn đệ hầu rửa sạch bợn, nhưng các con phải chịu
lắm nỗi gay go mà gieo mối thương yêu cho đoàn hậu tấn, gương sáng đã giồi nên,
mà con thuyền Bát Nhã phải tùng nơi máy Thiên cơ, mà lắm phen lắc lẻo đắm chìm
biết bao khách tục.”
&
QUẺ - 220:
Tiên quan tiêu cẩn. Đề phòng tiểu tiết bất hoà.
Giới nhân tuần thành đại ương.
先 關 銷 謹 。提 防 小 節 不 和 。
戒 因 循 成 大 殃。
Dịch nghĩa:
Khép kín nên gìn thận trước sau
Tí ti việc nhỏ chớ khinh nào
Dần dà hao tổn theo ngày tháng
Hoạ nhỏ không phòng nạn lớn theo.
Chú giải: sự cẩn thận bao
giờ vẫn hơn. Trong dịch có câu “lý sương kiên băng chí” tức nhiên khi chân đạp
lên tuyết thì đoán được rằng băng giá sẽ đến. Nay vì sự khổ của nhơn sanh là
báo nguy cho ngày tận diệt, Đạo mới ra đời.
Thầy cho biết “Ðạo Tam Kỳ
hoằng khai tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên thơ, Hội Tam giáo, mà vớt chúng
sanh thoát vòng ly khổ, thiệt thiệt, hư hư, một mảy chi, cũng chẳng qua là máy
Thiên cơ mà thôi. Ðạo Trời mở ra cho một nước tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn.
Phải giồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương soi mình hằng bữa, phải
thương yêu nhau, giúp đỡ nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu, sự
giúp lẫn ấy sẽ dìu chung các con vào tận chốn Cực Lạc thiêng liêng, để tránh khỏi
nơi khổ cùng tiều tụy. Khá biết lấy.”
&
QUẺ - 221:
Yến ngữ oanh đề, hoa khai mãn viện,
Ỷ lan xuân thuỵ giác. Vô ngữ liếm sầu nhan.
燕 語 鶯 啼 。花 開 滿 院 。
倚 欄 春 睡 覺 。 無 語 斂 愁 顏 。
Dịch nghĩa:
Giọng oanh lời én líu lo
Đầy vườn hoa nở nhỏ to sắc hồng
Tựa hiên chợt giấc xuân nồng,
Mày chau biếng nói má hồng kém tươi.
Chú giải: Sắc diện con người
là hiển lộ cả tánh tình buồn vui, giận ghét. Vì mặt như kính soi cả tâm hồn,
gương mặt làm chủ con người. Thì đây Đấng Thượng đế làm chủ nhân loại, Ngài là
Chúa cả càn khôn, làm Cha của nhân sinh nên thấu rõ sự đau khổ của con người
nên sẵn sàng ra tay cứu vớt, gọi Ngài là Đấng Đại Từ đại bi là vậy.
Thầy dạy: “Từ đây, Thầy là
Ðứng chủ trung dìu dắt các con trong đường đạo hạnh, nhứt nhứt đều tưởng có Thầy
bên các con và đợi nơi Thầy mà thôi. Ðường
tuy xa, bước đường tuy gay trở, nhưng các con lướt nỗi sự hiểm nguy đặng đến
cùng Thầy trong buổi chung cuộc. Môn đệ nhiều đứa lòng vẫn nhẹ tợ lông, thấy sự
chi khó thì đã muốn bần dùn thối bước.”
&
QUẺ - 222:
Lao tâm lao tâm, lao tâm hữu thành,
Thanh phong tá lực, hoan tiếu tiền trình.
勞 心 勞 心 。勞 心 有 成 。
清 風 借 力 。 歡 笑 前 程 。
Dịch nghĩa:
Lao tâm luống những lao tâm
Lao tâm vui thấy việc thành không xa
Gió lành thêm sức đưa qua,
Tiền trình ắt đã vui hoà may duyên.
Chú giải: Con người là cái máy lo âu và nghĩ nghị. Nghĩ
nghị mà không thấu vấn đề chỉ là làm thêm rối mà thôi.Bất cứ đứng trước sự việc
gì phải nhận định cho rõ. Cũng như người muốn vào Đạo không phải nhắm mắt nghe
theo, mà phải tìm hiểu cho rõ tôn chỉ và
mục đích là gì ? Đây:
Tôn chỉ hay Tông chỉ là những
nguyên tắc và tư tưởng chánh yếu chi phối mọi hoạt động. Tôn chỉ của Ðạo Cao
Ðài là Qui Tam giáo Hiệp Ngũ Chi, làm thành một nền Tân Tôn giáo gọi là Ðại Ðạo
Tam Kỳ Phổ Ðộ do Ðức Chí Tôn làm chủ, cứu độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi, trở
về cõi thiêng liêng hằng sống.
&
QUẺ - 223;
Tấn bộ thả bồi hồi, xuân phong liễu khứ xuy.
Thuỷ biên hành lộ quyện, chẩm bạn hữu ưu hoài.
進 步 且 徘 徊 。春 風 柳 絮 吹 。
水 邊 行 路 倦 。枕 畔 有 憂 懷 。
Dịch nghĩa:
Tiến lên lòng những phân vân
Phấn hương nhuỵ liễu gió xuân thổi vào
Khách dần mỏi mệt bên bờ,
Tựa bên gối trống thẩn thờ buồn tênh.
Chú giải: Người buồn vẩn
vơ vì cuộc đời không định hướng, tâm tư không có nơi làm điểm tựa. Tiền bạc là
vật chất chỉ giải quyết những gì về vật
chất. Linh hồn phải có nơi an trụ, không gì bằng con đường đạo đức.
Thầy dạy: “Ai đặng phước
thêm cao trọng, ai vô phần thì trí não vẫn mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội, biết
biết không không, luật Trời đã định, phần công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn
là nơi rước khách tục trong lúc chung qui đó. Sanh nhằm đời có một Ðạo chánh chẳng
phải dễ, mà bước lên con đường chông gai, lần vào non thẳm kiếm ngọc lại càng
khó. Khó dễ nơi lòng, chớ đem thói ám muội mờ hồ vào đường đạo đức, sau ăn năn
rất muộn.”
&
QUẺ
- 224:
Ngọc thạch do chung thời, Na kham tiểu hối đa,
Chung vô cữu, tiếu kha kha.
玉 石 猶 終 時 。那 堪 小 悔 多 。
終 無 咎 。笑 呵 呵 。
Dịch
nghĩa:
Ngọc lành đợi giá thời gian
Vì chưng việc nhỏ thở than lắm điều
Tội tình tan biến qua
mau
Niềm
vui hả dạ cất cao tiếng cười.
Chú giải: Vật chất nó có
cái giá của vật chất. Ngọc quí vì hiếm. Thoản như nó nhiều như cát chắc không còn
ai quí nữa đâu. Bình tâm mà xét cái quí của nó để làm gì ? Nó có làm tăng cái
trí tuệ của người không ? Nó có đưa người lên thiên đàng không? Ngược lại nó
làm giảm là có. Vì người mang ngọc trong mình sẽ kiêu hãnh, cao ngạo, hách dịch.
Sự quí trọng của Đạo đức thì vô ngằn, không mua, không bán, không lỗ, không lời,
người có nó không bị cướp.
Thầy dạy: “Ta vì lòng đại
từ đại bi, vẫn lấy đức háo sanh mà dựng nên mối Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, tôn chỉ
vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi
và nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế
nầy. Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo
đức trau thân là phương châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời,
khua môi uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè
là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.”
&
QUẺ - 225:
Thuỵ dực dao thiên khứ, giai nhân tí nan hành.
Nhứt đồ kinh tế ý, hựu thị mãn viên xuân.
睡 翼 遙 天 去 。皆 因 避 難 行 。
一 途 經 濟 意 。又 是 滿 園 春 。
Dịch nghĩa:
Đường xa mỏi cánh chim trời
Cũng vì lánh bước vượt khơi núi đèo
Đủ đầy kinh nghiệm ý mưu
Như vườn xuân nở hoa nhiều mùi hương.
Chú giải: Người mưu trí
tính thiệt hơn với người kém trí đó là ma người. Đạo cao ma khảo ấy là ma đạo.
Đã là luật thì không tránh khỏi. Nói Phật là có Ma, nói Trời là có quỉ.
Hai đối tượng đi liền
nhau..Hãy nghe “Đạo khai tà khởi”:
“Sự biến xảy ra đến nay đã
thành một trường ngôn luận có khi cũng náo nhiệt đến nền Ðạo. Kẻ gọi Tà, người
nói Chánh. Nơi Thiên thơ đã có dấu ràng ràng. Các con có đi tranh luận cũng nhọc
công vô ích. Kẻ hữu phần, người vô phước, tin tin, không không, cũng chẳng sửa
cơ Trời đặng. Ðường còn dài, bước càng nhọc, thì nền Ðạo càng cao, công trình
càng rỡ. Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ, vớt trọn
cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế,
tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước. Thầy
cũng phải đau lòng mà nắm máy huyền vi để cơ Trời xây đổi. Các con liệu lấy.”
&
QUẺ - 226:
Giai tín chí, khai tiếu nhan,
phi đằng nhứt khứ, phi vân thượng thiên.
佳 信 至。 開 笑 顏 。飛 騰 一 去。 披 雲 上 天
Dịch nghĩa:
Tin lành thoắt đã đến nơi
Vẻ tươi theo với nụ cười trên môi
Sở cầu như nhạn bay cao
Mây xanh rẻ lối tới mau cửa trời.
Chú giải: Người muốn tìm
trời cầu Phật lắm. Vì sao, vì gốc con người vốn từ đó mà phát xuất. Câu “Nhứt
thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” không sai chạy. Nay Đấng Thượng Đế cho
nhân loại thấy hiện thân của Ngài là Đức Hồng Quân Lão Tổ, hình ảnh trên Cung đạo đó
Hồng Quân Lão Tổ là ai? Một
hóa thân của Thượng Ðế. Theo Truyện Phong Thần, Hồng Quân Lão Tổ có ba học trò
là: Lão Tử, Nguơn Thỉ Giáo chủ Xiển giáo, Thông Thiên Giáo Chủ Triệt giáo. Học
trò Xiển giáo và học trò Triệt giáo thường có chuyện tranh chấp nhau, khiến hai
vị Giáo chủ vì binh học trò mà bất hòa. Hồng Quân Lão Tổ phải can thiệp và phân
xử. Khi Ðức Chí Tôn chưa mở Ðạo Cao Ðài ở nước Việt Nam, Ðức Chí Tôn đã cho các
Ðấng dùng huyền diệu cơ bút mở đạo ở các nơi trên thế giới như: Thần Linh Học ở
Âu Mỹ Châu, Thông Thiên Học ở Mỹ và Ấn Ðộ, đạo Omoto ở Nhựt, đạo Minh Sư ở
Trung Hoa…để báo trước sự xuất hiện của Ngài đó vậy.
&
QUẺ - 227:
Thanh chiên không thủ cựu,
chi thượng sào sinh phong, mạc vị nhứt thời hỉ, hoàn nghi thử tượng hung.
青 羶 空 守 舊。 枝 上 巢 生 風 。
莫 為 一 時 喜 。還 疑 此 象 凶 。
Dịch nghĩa:
Chiên xanh giữ nếp thói nhà
Tổ chim gặp trận gió qua đầu cành.
Chớ nên hoan hưởng trăm phần
Hoạ hai dễ tới dập dồn ngaị lo.
Chú giải: những sự kiện trong trời đất dầu chưa xuất hiện
nhưng cũng có điềm báo trước. Như trước khi có Sấm nổ thì thấy được tia chớp
sáng lòe. Trước khi Đạo Cao Đài xuất hiện thì có lời tiên tri của các đấng báo
cho.
Thầy dạy: “Đạo mới khai lập,
tuy xuất hiện chưa đầy một năm, chớ chư Tiên, chư Phật đã lập cùng cả Năm Châu.
Chẳng khác nào khi trước, Nhơn đạo chưa mở thì đã có Châu Công truyền trước.
Thánh đạo Jésus chưa ra đời thì đã có Moise, Élie, Gérimie, Saint Jean Baptiste. Ðạo
Tiên Nguơn Thỉ chưa ra đời thì có Hồng Quân Lão Tổ, Lão Tử, Thông Thiên Giáo
chủ truyền đạo. Phật Thích Ca chưa ra đời thì đã có Nhiên Ðăng Cổ Phật và
Brahma truyền đạo. Thầy chưa giáng cơ lập đạo tại nước Nam, chớ chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật, dùng huyền diệu nầy mà truyền đạo cùng vạn quốc.”
&
QUẺ
- 228:
Mạc
ngôn kinh cức ố, chung vi loan phụng thê,
Mục
tiền ưng hữu đãi, hà dụng tảo
đào hô.
莫 言 荊 棘 惡 。終 為 鸞 鳳 棲 。
目 前 應 有 待 。何 用 早 濤 乎。
Dịch nghĩa:
Đừng phiền gai gốc rối ren,
Phượng loan
rồi cũng có phen đậu nhờ
Đường dài trước mặt gắng chờ
Cần chi gắp rút đắn đo ngại ngần.
Chú giải: quẻ này cũng ứng
cho việc luân hồi sanh tử. Đó là một cơ huyền diệu mà không thể bỏ được. Chính
đó là trường tiến hóa của kiếp nhân sanh, thể hiện sự công bằng.
Thầy dạy:“Nếu các con hiểu
rõ cơ huyền diệu của kiếp luân hồi con người, chẳng phải như thói thường tình định
liệu, thì con không buồn và cũng không oán trách Thầy. Nơi Bạch Ngọc Kinh, cả
thảy đều là con cái của Thầy, tức là anh em với nhau. Cái phẩm vị của các con
phải buộc tái sanh nhiều kiếp mới đến địa vị tối thượng mình là nơi Niết Bàn. Một
lời nói với nhau cũng đủ cả hai xuống thế mà khuyên giúp lẫn nhau. Con chẳng
nên gọi oan nghiệt.”
&
QUẺ - 229;
Thượng hạ hoà, ưu sầu quyết,
Thiên chướng vân, nhứt luân nguyệt.
上 下 和 憂 愁 決 。天 嶂 雲 一 輪 月。
Dịch nghĩa:
Trên dưới đã thuận hoà, Lo sầu giải quyết qua
Ngàn non mây phủ kín.Trăng sáng toả bao la.
Chú giải: điềm lành đã ứng
hiện. Đâu đo có trật tự phân minh. Cũng là một trường thử thách để phân thấp
cao thượng ha mà thôi.Quẻ này ứng với việc đạo pháp sau đây:
“Ðại Ðạo Tam Kỳ chẳng khác
chi một trường thi công quả. Nếu biết ăn năn trở bước lại con đường sáng sủa,
giồi tâm trau đức, đặng đến hội diện cùng Thầy, thì mới đạt đặng địa vị thanh
cao trong buổi chung qui cho”.
&
QUẺ - 230;
Ngọc xuất côn cương thạch, châu ly cổ độ than,
Hành tàng chung hữu vọng, dụng xả bất vi nan.
玉 出 崑 岡 石 。舟 籬 古 渡 灘 。
行 藏 終 有 望 。用 舍 不 為 難 。
Dịch nghĩa:
Núi Côn cho lắm ngọc vàng
Thuyền xa bến cũ thác ngàn hiểm nguy
Trước sau tất sẽ gặp thì,
Đem dùng hay bỏ lo gì nguy nan
Chú giải: Điềm may mắn,
nhưng nên nhớ của quí làm mồi cho trộm cướp. Thực ra tên cướp không độc ác như
đời thường tưởng nhưng chỉ động lòng tham, mà túng cùng phải liều để thoát
thân.Người vốn có sẵn tánh trời mà
Thầy dạy: “Thầy vì đức háo
sanh, nên chẳng kể bực Chí Tôn cầm quyền thế giới, đến lập Ðại Ðạo Tam Kỳ trong
lúc hạ nguơn nầy mà vớt sanh linh khỏi vòng khổ hải. Ai biết đạo tức là có
duyên phần, ai vô đạo tức là số chịu hình khổ luân hồi. Phải mau chơn, bằng luyến
ái sự thế thì sau ăn năn rất muộn. Than ôi! Thầy đã là Ðấng lập khổ hình, chiếu
theo phép công bình của Tạo hóa, nhưng thấy nhơn sanh càng ngày càng bước vào
con đường hắc ám, để đem số phận buộc vào đó, thì Thầy cũng bắt đau lòng, nhưng
chẳng lẽ bỏ phép công vì sanh chúng.
&
QUẺ - 231:
Mục hạ ý nan thư, hữu khách lai từ từ,
Kim xa tuy lịch hiểm, lận tất hữu chung dư.
目 下 意 難 舒 。有 客 來 徐 徐 。
金 車 雖 曆 險 。吝 必 有 終 輿 。
Dịch nghĩa:
Dưới mắt dạ chưa an
Dần dần có khách sang
Xe vàng gian khổ qua cơn hiểm
Cần kiệm ngày sau được vẻ vang.
Chú giải: Sự hạnh phúc con
người là của cải vàng bạc, nhưng cái hạnh phúc lớn cho nhân loại mà từ xưa đến
giờ mấy đời ông cha ta ao ước vẫn chưa được, đó là Đức Thượng Đế ban cho mối đạo
nhà,hạnh phúc này to lớn lắm.
Đức Lý nói: “Ðặng bậc Chí Tôn cầm quyền thế giới
dìu dắt, rửa lỗi, mà chẳng bươn chải cho kịp thì, để đua nhau nghĩ tính về miếng
đỉnh chung, nếu Thầy chẳng đại từ đại bi thì công quả đã chảy theo dòng nước.Từ
đây Bần đạo phải để ý dìu dắt bước đường cho các đạo hữu, phải gắng công thêm nữa
cho hiệp với cơ Trời. Ai hữu phước thì địa vị đặng cao thêm, ai vô phần thì bị
đọa Tam pháp. Phước phần cũng khó lựa người, rủi rủi may may đừng trách nơi Bần
đạo.”
&
QUẺ - 232:
Khả dĩ ký, khả dĩ thác, sự trì trì, vô suyễn thác.
可 以 記 可 以 託 。 事 遲 遲 無舛 錯 。
Dịch nghĩa:
Có thể gởi trao chẳng ngại ngần
Giao cho mọi việc vững lòng tin
Chậm chậm đợi thời tua đắc việc
Không hiềm sai trễ lẫn băn khoăn.
Chú giải: Một sự chuẩn bị
lâu dài của Đấng Thượng đế qua câu “khai Đạo muôn năm trước định giờ” mới thấy
rằng tất cả đều nằm trong Thiên-thơ, Việt Nam hân hạnh:
Đức Lý nói: “Mở một mối đạo
chẳng phải là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối đạo cũng chẳng
phải dễ. Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới
giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy. Thưởng phạt tuy chẳng
phải hữu hình, nhưng là một sự mừng vui, chưa có bậc cao thượng ở thế nào bằng,
và một sự buồn bã nào sánh đặng. Dầu có ăn năn hối hận mấy kiếp, ngày giờ cũng
đã qua rồi. Ngôi Cực Lạc vẫn có người choán hết.”
&
Quẻ - 233:
Khủng cụ ưu tiên, giai tại mục tiền,
Nhược phùng minh giám, chỉ phá không truyền.
恐 懼 憂 煎 。皆 在 目 前 。
若 逢 明 鑑 。指 破 空 傳 。
Dịch nghĩa:
Buồn lo sợ sệt chất chồng,
Bày ra trước mắt muôn phần ngại nghi.
May ra Thần thánh hộ trì,
Lời truyền nhảm nhí có gì phân vân.
Chú giải: Quẻ này ứng cho một trật tự phân minh, người chiếm quẻ này phải có bộ óc khoa học, toan tính rõ ràng, xử sự cho trên dưới hài hòa, có sự kính nhường nhau.
Đức Lý dạy: “Từ đây Thầy
đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần đạo. Vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng
vun đắp nền đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao
thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu
nay, lại thêm chẳng đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn đã hết sức nhọc
nhằn cùng sanh chúng.”
&
QUẺ - 234:
Nguyệt yễm vân gian, hôn mê đạo lộ,
Vân tán nguyệt
minh, Tiệm nghi tấn bộ.
月 掩 雲 間 。昏 迷 道 路 。
雲 散 月 明 。漸 宜 進 步 。
Dịch
nghĩa:
Mây
mờ che khuất vầng trăng,
Đường
đi lầm lạc biết chăng nơi nào ?
Mây
qua trăng tỏ trời cao,
Dần
dần tiến bước thăng mau toại lòng
Chú giải:
Mây mờ là bối cảnh bên ngoài, trăng là ngôi Âm, ngôi Mẹ. Từ xưa đến giờ qua hai kỳ Phổ Độ, các Đấng Giáo chủ chỉ thờ Đức Thượng đế là
ngôi duy nhất.. Ngoài ra nhân loại chỉ biết đến đấng Giáo chủ của thời kỳ đó mà
thôi. Nay Đức Thượng-đế đến mở cho Việt Nam một nền Chơn đạo có đủ Âm Dương hiệp
nhứt, tức nhiên.
Đức Thượng đế mà nhân sanh
tôn tặng là Đấng Đại-Từ Phụ, bên cạnh là ngôi Phật Mẫu tức là Mẹ sanh hay là Đại
Từ Mẫu. Như vậy là bây giờ có đủ cha mẹ thiêng liêng rồi
“Trong vũ-trụ Chúa cả tạo-đoan là Thầy nắm cả huyền-vi bí-mật trong tay. Thầy
mới phân tánh Thầy ấy là Pháp, Pháp tức là quyền-năng của Thầy thể hiện ra,
cũng như lý Thái-cực ở trong cõi tịnh, rồi từ trong cõi tịnh lý Thái-cực phát động
mới sanh ra Pháp. Pháp tức là những định-luật chi-phối cả Càn-khôn, mà người nắm
luật chi phối ấy là Phật-Mẫu.”
&
QUẺ - 235:
Đạo lộ tại chiêu hô, phong ba nhứt điểm vô.
Thời lai tâm tự loạn, toàn trượng quí nhân phù.
道 路 在 招 呼 。風 波 一 點 無 。
時 來 心 緒 亂 。全 仗 貴 人 扶。
Dịch nghĩa:
Đường đời chậm bước đợi chờ
Sóng yên gió lặng bấy giờ vững tin
Thời xuôi dù bận đến mình,
Nhờ người giúp sức sự tình yên vui.
Chú giải: Lời chiếm quẻ
này người trong cuộc không nên vội vã, dục tốc bất đạt mà ! Trái cây vú ép nào
có ra chi. Tuy nhiên dầu chậm một bước nhưng việc sẽ lướt tới một ngày. Hãy xem
quẻ này ứng với lời dạy Đạo sau đây:
Về mặt Tôn-giáo “Là một cơ
cấu hữu-vi thì cũng không ngoài luật ấy, nên trước tiên cần có đủ chủ hướng là
Tinh-thần ấy là Tín-ngưỡng, chủ Tinh-thần ấy là linh hồn của Đạo-giáo, mà linh
hồn của Đạo Cao-Đài là Đức Chí Tôn chủ về cực dương. Một tôn-giáo muốn sống bền
vững và phát triển tốt đẹp thì tôn giáo ấy có đủ Tam-bửu: TINH, KHÍ, THẦN.
- Về Thần: thì khi lập Đạo
Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh hồn của Đạo-giáo.
- Về Khí thì buổi phôi
thai chưa mấy tựu thành nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể Diêu-Trì-Cung làm Khí.
- Về Tinh là hình thể của
Đạo Cao-Đài tức là ba chi:
PHÁP, ĐẠO, THẾ tượng trưng là: Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh.
&
QUẺ - 236;
Lâm uyên phóng câu, thanh tuyệt trần ai,
Cự ngao tuỳ đắc,
bất dụng nghi sai.
臨 淵 放 鉤 。清 絕 塵 埃 。
巨 鰲 隨 得。不 用 疑 猜。
Dịch nghĩa:
Vực sâu ngư phủ buông cần,
Thanh cao là thú bụi trần ngại chi
Cá to mình được có khi,
Còn đâu ngần ngại nghĩ suy liệu lường.
Chú giải: Nhàn thì có nhàn, ấy là một tâm hồn thoát tục. Người chiếm quẻ này phải biết hướng thiện và hướng thượng vì đó là trọng tâm của quẻ, ứng với sở cầu. Quẻ này ứng
với lời dạy đạo. Điều cần nhứt là đạo làm người:
Hãy nghe tinh-ba của
Nho-Tông là gì ? Phải chăng cái chiến-thuật của nó là “Tu thân, Tề gia, Trị quốc,
Bình thiên hạ” tức nhiên cái tôn chỉ cao thượng của Đức Mạnh Tử là: “Đại học
chi Đạo, tại Minh Minh đức, tại Tân-dân, tại chỉ ư Chí thiện” Nhưng thế nào là
tu thân ? Từ trước, đề tu thân đã bàn
qua nhiều rồi, nay dẫn từ thượng cổ tới giờ, đức Thánh-nhân lấy hai chữ “tu
thân” làm căn bản. Hai chữ tu thân đã có từ lâu, nếu chúng ta xem lịch-sử của
Nho-Tông thấy nó đã xuất hiện từ đời Huỳnh-Đế, có trên không biết mấy ngàn thế-kỷ
trước Thiên-Chúa giáng sanh.
&
QUẺ - 237:
Vô trung ứng hữu chân. Tâm
sự hoàn thành thích, Vân trung nguyệt trùng viên, Thiên lý phong phàm cấp.
無 中 應 有 真。心 事 還 成 戚 。
雲 敢 月 重 圓 。千 里 風 帆 急。
Dịch nghĩa:
Trong rỗng ngoài kiên chí trượng phu
Chuyện mình vắng lạnh vẫn âu sầu
Mây qua trăng hiện tròn vành vạnh
Một cánh buồm xa gió thổi mau.
Chú giải: Người chiếm quẻ
này có lòng muốn có được một cuộc sống
đoàn tụ, thể hiện được cái gia phong, gia pháp, định lại kỷ cương trong nhà.
Hãy áp dụng ngay đi. Vì “Khuôn luật của
Đạo Cao-Đài là lo về phần thế-đạo tức là Nho-Tông chuyển thế. Mà
Nho-Tông chuyển thế tức nhiên Đạo của Tổ phụ chúng ta từ ngàn xưa để lại. Ấy vậy
những yếu-lý của Nho-Tông mới có thể làm
mực thước mà định chuẩn thằng trong khuôn khổ cái sống đương nhiên của mình
đặng, chúng ta đã ngó thấy Nho-Tông của chúng ta là một nền tôn-giáo xã-hội, đặc
điểm của nó là Đức Chí-Tôn đến lập trường Nho-tông trị thế .
&
QUẺ - 238:
Tạo hoá sinh lai tính tự nhiên,
Suý chinh thiên lý phúc miên miên,
Công danh đắc lợi thần minh trợ.
Xà thố tương phùng định biến thiên.
造化 生 來 信 自 然。 師 征 千 里 福 綿 綿 。
功名 得 利 神 明 助。 蛇 兔 相 逢 定 變 遷。
Dịch nghĩa:
Đất trời đã sẵn niềm tin
Triền miên phúc đức xuất chinh dặm ngàn
Thành công nhờ Đấng linh thần,
Xoay chiều thỏ rắn có lần gặp nhau.
Chú giải: Hạnh phúc của gia đình có bền lâu là nhờ giữ
được gia phong tốt đẹp có bao đời rồi. Dưới mắt chủ gia đình này chưa hài hòa,
vì tuy giàu có sang trọng mà mất đi một phần sự cao quí của gia pháp. Tất cả chỉ
là màu mè thôi, e ra không bền, như nhà thiếu nền móng, dễ lún lắm.
Tâm lý con người hay xu ác mà xa thiện, vì cớ
cho nên các vị Giáo-Chủ lập nên Tôn-giáo dạy phải làm thế nào gọi là tu thân. Dầu
cá nhân hay toàn thể nhơn loại cũng phải lấy hai chữ “Tu thân” làm gốc và chính
nó khởi đương cho sự lập đức là “tại minh
minh đức” vậy. Nếu cả thảy
đều biết nỗi khổ của nhơn loại mà làm phương Tu thân, lập đức thì cái giá trị của
thiên hạ thực hiện một cách dễ-dàng và chính những tâm hồn ưu-ái vì Đạo, vì Thầy
và vì nhân-loại phải đem cái đức thiêng liêng ấy rải khắp cả thiên hạ thì mới cứu
khổ được”.
&
QUẺ - 239:
Đại trượng thần uy, quần
dương vị diệt, liễu hựu tu uy, thần uy diệc cực lực, lao lao ký thủ, chí cửu hậu
thất điệt.
大 仗 神 威 。群 羊 渭 滅 。了 又 須 威 。
神 威 亦 極 力。 牢 牢 記 取 。至 久 後 失 跌。
Dịch
nghĩa:
Oai thần giúp sức gian phi,
Trong sáng cõi đời phải dụng uy
Tiếp xử khá gìn phương liệu chắc
Sẩy chân đâu ngại đến sau này.
Chú giải: Muốn biết lẽ thịnh suy bĩ thới của ngôi gia lấy
gì làm chắc? Cha phải xứng phận cha, con xứng phận con. Tất cả phải biết tôn trọng
nhau trong sự điều hòa, thế nên:
Phải làm thế nào gọi là TU ? Người muốn cho linh hồn khỏi mấy điều khổ nhục ở đời
như: Sanh, Lão, Bịnh, Tử, thì phải biết Đạo mà trau mình hạnh đức, phải lo tu
tâm dưỡng tánh. Chữ tu là trau giồi tánh hạnh, chớ không chỉ riêng việc từ mơi tới chiều tụng kinh gõ mõ mới gọi là Tu. Tu có nhiều bậc. Bậc Thượng thừa phải ép mình hành xác, phải nâu sồng, khổ hạnh, lo làm âm chất,
lo công quả cho Trời Phật, chừng quả
mãn, tìm chỗ an-nhàn mà luyện Đạo. Nếu
trong thế gian này mỗi người đều phế công việc,
không làm, mà tìm chỗ u-nhàn như vậy, cho là bậc Thượng thừa rồi
thì
thế sự này phải ấm lạnh, có ai đâu mà lo nhơn đạo ? Con người ở thế, mỗi cá nhân đều có phận sự; nếu bỏ phận sự thì thất nhơn-đạo, mà
không Đạo nào tránh khỏi nhơn-đạo cho được. Người hành đạo muốn bỏ nhơn đạo,
không lo nhơn-đạo cho hoàn-toàn thì
hành-đạo vô ích. Ấy vậy, trước hết phải biết Đạo là biết có Trời, có Phật,
Tiên,Thánh; phải biết có luân hồi chuyển kiếp.
&
QUẺ - 240:
Đạo tất kiên tâm, kiên tâm
tất đạo thành, kiến công huân tảo, hồi trình giá mao am, tu chân thân.
Nhứt nhựt phi thăng. Tiên
ban ngoại danh.
道必 堅 心 。堅 心 必 道 成 。建 功 勳 早 。回 程 這 茅 庵 。須 真 身。一 日 飛 升 。仙 班 外 名。
Dịch
nghĩa:
Đạo
phải vững tâm đạo mới thành
Đạo
thành sớm sớm kíp quay chân
Thảo
am tìm lý tu chân thể
Đạo
đắc thang tiên vượt thẳng đàng.
Chú giải: “Ðạo Trời soi gương
rạng, khá biết tỉnh mộng hồn, kiếp sanh chẳng bao lâu, đừng đợi đến ngày cùng tận.
Nơi trường thi công quả, nên cân lấy phước phần, chẳng sớm trau thân rừng chiều
ác xế. Chúng sanh rán biết lấy.Thầy hằng muốn cho các con hiệp chung nhau mở đường
chánh giáo, phải biết tương thân tương ái, chia vui sớt nhọc cho nhau mà dìu dắt
chúng sanh. Nếu vì chút phàm tâm mà chia đường phân nẻo, ghét nghịch lẫn nhau,
các con sẽ treo gương bất chánh cho kẻ sau, lại nền Ðạo cũng vì đó mà khó mau
thành đặng. Các con khá để ý đến, ấy là các con hiến cho Thầy một sự thành kính
trọng hậu đó.”
&
QUẺ - 241:
Nhứt niệm thướng thiên đường,
nhứt niệm nhập địa ngục, thiên đường địa ngục tiên phân lạc nhục.
Tự lập niệm đầu yếu chân,
bất khả tuỳ nhân lục lục.
一 念 上 天 棠 。一 念 入 地 獄 地 獄 。
天 棠 地 獄 便 分 樂 辱。
自 立 念 頭 要真 。不 可 隨 人 碌 碌 。
Dịch nghĩa:
Thiên
đường nẻo đến không xa
Đường
vào địa ngục âu là bên nhau
Hai
đàng vinh nhục thấp cao
Tâm
lành chọn lấy lối vào thẳng ngay
Chớ
nên tuỳ tục theo bầy.
Chú giải: Câu “họa phúc vô môn duy nhân tự triệu”
có nghĩa là “điều họa phúc không hay tìm tới,Tại mình dời nên mới theo mình” tức
nhiên gia đình biết giữ tròn câu nhơn đạo thì có trật tự kỷ
cương. Cái văn minh vật chất đã xô ngã bức tường lễ
giáo nhiều lắm rồi. Hãy xem còn lại vách nào cố chống đỡ lên
Theo tinh thần nhơn đạo thì:
- Trai thì lo Tam cang, Ngũ thường,
- Gái thì lo Tam tùng, Tứ đức.
Trước hết, lo tu tại gia, tại thiền,
tại thị; lo làm lành lánh dữ, trau-giồi tâm tánh chơn thành; ấy là tu đạo làm
người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, phải
giữ hẳn-hoi; Tam cang phải nắm chặt. Ở thế phải tuân theo luật thế. Người phải
giữ nhơn-đạo cho hoàn-toàn thì lo gì không gần Thiên đạo.
Giới tâm kinh, có lời rằng
Mày râu đứng giữa cõi trần gian,
Gắng sức chống cho vững miếu đàng.
Phận gái Tam tùng cùng Tứ Đức,
Tề gia nội trợ vẹn là ngoan,
Ngoan ngùy chơn chánh Phật, Thần thương.
Chơn chánh liên hòa với thiện lương.
Thần , Thánh thành do người chánh thiện.
Thiện lương chơn chánh đức không lường …
&
QUẺ - 242:
Dương thố quần nhựt đối dân,
Phùng ngưu khẩu, tiện giảo nhân,
Nhứt cá quân , nhứt cá thần, quân thần hữu ta kinh,
Tu du chân thần, chủng cứu thương sanh.
羊 兔 群 日 對 民 。逢 牛 口 。便 咬 人 一 個 君。
一 個 君 一 個 臣。君 臣 有 些 驚 。
須 攸 真 神 塚 救 蒼 生
Dịch nghĩa:
Dê con lạc lối lìa đàn,
Miệng trâu năm đói thì toan cắn người.
Thương dân lo tính cho rồi,
Quân thần phận sự bồi hồi thất kinh.
Phải khi cậy sức thần linh,
Cứu nguy giải khổ chúng sinh thoát nàn.
Chú giải: Cúng phẩm ngày
xưa (lúc chưa có Đạo Cao Đài) thì người ta dùng ba con vật sống là Tam sanh
(Trâu, Dê, Heo) để cúng Thần linh. Ngay thời vua chúa vẫn dùng những thức cúng ấy.
Chứng tích Đàn Nam giao còn đó. Nhưng nay, thời kỳ Đại-Đạo có khác. Hãy nghe Thần
Hoàng Mỹ Lộc vâng lịnh Đức Ngọc Đế giáng Cơ nói: “Ngọc Ðế và chư Phật, chư
Tiên, chư Thánh mới lập hội Tam Kỳ Phổ Ðộ đặng có cứu vớt chúng sanh, đương
linh đinh nơi biển khổ. Nếu gặp thuyền Bát Nhã mà không xuống, không theo thì
chắc thế nào cũng chơi vơi mé biển. Còn phần viên chức sắc cúng tế, bảo lên quì
trước đại điện cho Ta tỏ lòng thi ân cho chúng nó. Vui thay! Mừng thay ! Cả nhơn
dân đều biết Ðạo, duy còn một chút ít mà thôi. Từ đây ta hết dạ hết lòng mà lo
lắng, săn sóc chăm nom hơn khi trước nữa, Ta tỏ cho chức sắc hiểu, tại sao mà
Ta lo hết bổn phận. Ấy là từ đây Ngọc Ðế truyền lịnh cho Ta phải theo phò chư
Cao đạo hữu, nên Ta lo lắng bội phần, hơn khi trước; mỗi khi có việc chi tai biến
hay là có những bịnh truyền nhiễm, thì đến đây Ta sẽ dạy cho mà lánh những điều
tai hại. Còn việc tế Lễ Cúng, Ta muốn dùng đồ chay hay là cây trái, chớ sát
sanh. Ta cũng tỏ cho chư Chức sắc hiểu rằng: Tế tự là tại sao? Phàm có lòng tin
mới cúng chớ, cúng là lấy có lễ đó, gọi là kỉnh trọng. Chớ Thần, Thánh nào ăn của
ai. Bởi thế nên ai dùng vật thực mà cúng, tốt hơn nên dùng trái cây. Ai có lòng
thì tế lễ chi chi Ta cũng chẳng trách đặng, vì cựu lệ bày đến ngày nay. Nay ta
muốn theo Thánh ý của Ngọc Ðế. Vậy chức sắc liệu làm sao?... Trả lời thử ? Cười…!”
&
QUẺ - 243:
Nhược thị hữu duyên nhân, nhứt chỉ tiện hồi thủ,
Chấp mê bất ngộ giả, lũ dẫn dã bất tẩu.
若 是 有 緣 人。一 指 便 回 首 。
執 迷 不 悟 者 。屢 引 也 不 走。
Dịch nghĩa:
Duyên may sẵn dợi người thành
Một khi lầm lỗi khá năng cải hồi
Chấp, mê trở bước trên đời,
Dẫu người có chí khó ai dắt dìu.
Chú giải: Thế nào là duyên
may ? Trong ngày nầy 27-01-1926, có Thất Nương Diêu-Trì Cung giáng cơ, Đức Quyền
Giáo Tông hỏi: - Có duyên luyện đạo cùng chăng, xin Em mách giùm ? Đã gặp Đạo ắt
có duyên phần. Ráng tu luyện, siêng thì thành, biếng thì đọa, liệu lấy mà răn
mình. Phải sớm tính, một ngày qua là một ngày chết. Đừng dụ dự. Em xin kiếu”.
Điểm đặc biệt của Đạo Cao
Đài khác hẳn với Phật giáo là: các tu sĩ Phật giáo sống nhờ vào sự cúng dường của
nhơn sanh và sự khất thực của các khất sĩ. Các tu sĩ của Đạo Cao Đài chủ trương
tự làm ra lương thực và của cải để tự nuôi sống mình mà lo tu hành, đồng thời
có dư ra để làm các công việc từ thiện, cứu khổ nhơn sanh. Cơ Quan Phước Thiện
đảm nhận nhiệm vụ quan trọng nầy, nên được gọi là cơ quan bảo tồn. Thế nên, những
cơ sở Phước-Thiện như: Cô Nhi Viện, Dưỡng Lão Viện, Bảo Sanh Viện, Y Viện,
Nghĩa thục... là thuộc phần trách nhiệm
của Cơ Quan Phước Thiện.
&
QUẺ - 244
Nguyệt nhi thăng đông, thanh quang khả ấp
Vạn lý vô vân. Hải thiên nhứt bích.
月 兒 升 東。 清 光 可 挹 。
萬 里 無 雲。海 天 一 碧 。
Dịch nghĩa:
Vầng
trăng lố dạng phương đông
Làu
làu vẻ sáng dịu lòng muôn phương
Dặm dài không chút mây vương,
Biển trời một sắc bóng gương sáng ngời.
Chú giải: Thánh ngôn rằng: “Màn Trời che lấp dấu trần, Ðạo
Thánh dắt dìu bước tục, cuối hạ nguơn biết bao đời thay đổi. Trái cầu sáu mươi
tám nầy bỗng nhiên có một lằn yếng sáng thiêng liêng để thức tỉnh khách phàm,
chiếu dẫn người hữu căn hầu cứu khỏi họa Thiên điều, sẽ vì hung bạo của sanh
linh mà diệt tận. Chới với biết bao người giữa lượn sóng trầm luân, mà con đường
xô đẩy khách trần vào chốn đắm chìm hằng vẽ cảnh cùng sầu cho nhân loại. Ðường
tội phước chẳng biết cân, gương dữ lành không để ý. Triền cao, vực thẳm, rừng
trước, non xưa, cảnh vẫn đợi kẻ tìm về, nhưng giọng ai oán của khách lạc đường
chẳng thế vạch trời xanh soi thấu. Nào nhân xưa, nào đức trước, nào sách Thánh,
nào lời Hiền, trải qua chưa trăm năm mà cuộc cờ đời đã rửa phai hạnh đạo. Thế
thì nhơn loại, nếu chẳng có mối huyền vi để nhắc chừng tâm tánh, sẽ vì mồi danh
lợi, miếng đỉnh chung mà cắn xé giựt giành, giết hại lẫn nhau cho đến buổi cùng
đường, rồi vì hung bạo ấy mà cõi dinh hoàn nầy chẳng còn sót dấu chi của nhân vật
cả.
&
QUẺ - 245:
Nam nhi nhược đắc phong hầu ấn,
Bất phụ nhân môn tẩu nhứt biên,
Công thành thân thoái,
Yên hà tiếu ngạo thoát khước tử la bào,
Phương thị nam nhi đạo.
男 兒 若 得 封 侯 印。 不 負 人 門 走 一 邊。
功 成 身 退 。 胭 霞 笑 傲 脫 卻 紫 羅 袍 。
方 是 男 兒 道。
Dịch nghĩa:
Nam nhi đoạt ấn phong hầu,
Đường trần đâu thẹn mày râu chí hùng
Công thành hãy kíp lui chơn,
Cười vui ca hát giữa dòng nước mây,
Từ quan giải giáp hăng say,
Nam nhi là chí đạo thầy là duyên.
Chú giải: hai chữ “nam
nhi” là biểu lộ một tinh thần cứng cỏi, một ý chí cương quyết, nếu chưa có được
những đức tính ấy thì chưa thể gọi là “Nan nhi”.Vậy những từ sau này
Tuân Tử có viết một chương
về Chính danh phát huy được nhiều điều mới, nhưng ông thiên về mặt hình pháp,
còn Ðức Khổng Tử thì thiên về mặt đạo đức. Một nước thạnh trị thì trong nước,
vua phải ra vua, quan phải ra quan, cha phải ra cha, con phải ra con, thầy phải
ra thầy. Làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ trong gia đình phải tròn trách nhiệm
của mình thì con cái mới cảm phục và vâng lời, gia đình mới có trật tự và nề nếp,
mới thuận hòa và hạnh phúc.
Gia đình là căn bản của xã
hội. Nếu giữ được gia đình yên ổn thì xã hội mới trật tự phân minh. Như vậy,
Chính danh là căn bản trong việc chánh trị của người xưa.
&
QUẺ - 246:
Tâm mục hồ tinh, mê hoặc thế nhân,
Thế nhân bất sát, diên cửu khuynh thân.
心 目 狐 猩。迷 惑 世 人。世人不 察。延 久 傾 身
Dịch nghĩa:
Ý tình ranh mãnh tựa
hồ tinh
Mê
hoặc người đời lắm vẻ linh
Nếu người không biết phân chân giả,
Điên đảo tấm thân khó nỗi gìn.
Chú giải: Con người trong
cõi đời này không ai tránh khỏi ra ngoài bốn điều mầu-nhiệm của tạo hóa, đó là:
sanh ra, lớn lên, già với bao nỗi khổ về bịnh, sau cùng là chết; Chính đó là bốn
vấn đề khổ của con người.
“Trong bí pháp của Phật Tổ, Ngài đạt đặng bí
pháp, Ngài để trong khuôn viên giải-thoát chúng ta đã ngó thấy. Tại sao người
khác Đức Chí-Tôn không để cho tam diệu đề,
chỉ có Phật Thích-Ca thấy Tam diệu đề, Ngài mới thêm vô một đề Sanh nữa là Tứ
diệu đề (Sanh, Lão, Bịnh, Tử). Đức Phật
Thích-Ca nhờ Bí-pháp của Đức Chí-Tôn để trước mắt, Ngài đoạt được cơ quan giải
thoát, có chi đâu !
Muốn tránh Tứ-diệu-đề tức
nhiên Tứ khổ thì đừng gây NHÂN 因 có nhân tức nhiên có quả. Muốn
tránh cho khỏi Bịnh tử thì phải diệt cho hết quả, lẽ dĩ nhiên đó vậy. Xưa bí-pháp Đức Chí-Tôn đã cho Phật
Thích-Ca thế nào thì Đức Chí-Tôn cũng có thể cho con cái của Ngài mỗi người để
tự giải thoát lấy mình”.
&
QUẺ - 247;
Mộ địa cuồng phong khởi, đại thụ tận hân dương,
Chi diệp vị điêu linh, bồi điền chung vô dạng.
驀 地 狂 風 起。 大 樹 盡 掀 揚 。
枝 葉 未 凋 零。培 填 終 無 恙。
Dịch nghĩa:
Đất bằng vụt nổi gió cuồng
Cây to gốc rễ bật luôn lên rồi
May còn cành lá xanh tươi
Sửa cành bồi gốc lần hồi tốt xinh.
Chú giải Ngày nay nhân loại chứng kiến nhiều về “Đất bằng
vụt nổi gió cuồng” nghĩa là thế nào ? Tại sao vậy? Chính do con người. Bởi con
người gây nhân nên phải chịu quả thôi. Thử hỏi thế nào là Nhân-quả ?
Chữ nhân 因 hợp bởi bộ vi 囗 (vi là vây quanh, như một
caí vỏ bao bọc) và chữ đại 大đặt bên trong (đại là lớn,
nếu là lớn thì không có gì sánh bằng). Cái khởi điểm đã cho biết là lớn thì
không thể lường được; ví như một diêm quẹt cháy là khởi điểm (là nhân), vô tình
làm cháy cả khu rừng, làm tiêu hủy tài-nguyên quốc gia (là hậu quả). Cũng như
khởi điểm của con người là một điểm tinh cha hòa với giọt huyết mẹ mà làm nên
con người. Con người này lớn lên sẽ làm nên vũ-trụ, dựng xây hòa-bình, đem lại
hạnh phúc cho muôn đời như các bậc Giáo-chủ của nhân loại: Thích-Ca, Jésus, Khổng-Tử…còn
đó. Con người cũng có thể gây chiến tranh tàn diệt quả địa cầu bởi sức mạnh của
nguyên-tử. Hình ảnh của Tần-Thuỷ Hoàng-Đế làm điên-đảo thế-giới…còn đó Hỏi vậy
ta làm người nên chọn cái Nhân nào ? Nhân thiện hay nhân ác ?
&
QUẺ - 248:
Hư nhựt vượng tướng, pháp tu yếu suy tầm,
Tứ vi tuyền nhiễu. Đối địch xung doanh.
虛 日 旺 相 。法 須 要 推 尋。
四 圍 旋 繞 。對敵 沖 營。
Dịch nghĩa:
Ngày qua đã gặp duyên may
Tìm tòi cẩn thận thoát ngay hoạ nàn
Bốn bề tiếp xúc hỏi han
Đối tay kẻ địch mưu toan kịp thời.
Chú giải: Khi nói kẻ địch
tức nhiên chính thân này tạo gây nhân xấu. Nếu không xúc phạm đến người khác
làm sao có thù ? Phải biết mình, biết người chứ
Tất nhiên nhân thiện nên
giữ lại, nhân ác đã chôn vùi trong quá khứ, nếu tất cả muốn có Hòa-bình thật sự,
tức là không tạo nhân ác nữa, thì đâu còn cái cảnh tương tàn tương-sát nhau,
đâu còn máu đổ thịt rơi, đâu còn cảnh huyết lệ dầm dề .Nhưng cảnh đời vẫn luôn
trái ngược, ai cũng muốn sống hòa-bình, có ai muốn khổ, muốn chiến tranh đâu!
Cũng bởi tại, bị, lý do này, lý do khác; tức nhiên cái Tâm nhân-ái, nhân-đạo,
nhân-từ chưa thật sự đến trong tâm-linh của con người.Con người chưa biết mình
tức nhiên chưa biết người; chưa biết mình, chưa biết người làm sao biết được trời,
thế nên nhân-loại còn đau khổ. Nhân-loại đã phải chịu đau khổ lần này là do
Thiên-điều nhắc-nhở, để thử xem cái mùi đắng cay đến mức nào ? Cái cơ đời đã như
vậy rồi: Cái nguyên-nhân, cái duyên khởi đã rõ rồi:
“Mới sinh ra người đà khóc chóe,
“Đời có vui sao chẳng cười khì ?”
&
QUẺ - 249:
Vinh khô tảo định anh sa thương.
Tân khổ địa an
hưởng gia hương,
Vị thân nhân tác giá y thường.
Kim nhựt quân thường.
Tha niên cải điệu biệt nhân thường.
榮 枯 早 定 英 磋 傷 。辛 苦 地 安 享 家 鄉 。
為 親 人 作 嫁 衣 裳。 今 日 君 嘗 。
他 年 改 調 別 人 嘗。
Dịch nghĩa:
Thành bại riêng mình dám thở than
Khó khăn đất khách khó lo toan
Quê nhà an hưởng điều mơ vọng
Áo cưới vì người chăm chỉ luôn
Đã trót đáp tình nay hội ngộ
Ngày sau duyên đẹp báo ân dài.
Chú giải: “Chúng ta vì một
kiếp sanh thọ khổ trong tứ diệu đề, chúng ta chỉ mơ ước có một điều là: đoạt đặng
huyền linh Bí-pháp. Trước khi thực hiện đặng Bí-pháp chúng ta phải có một Đức-tin
mạnh-mẽ, đức-tin ấy phải đủ năng-lực trong tinh thần của Hội-Thánh. Muốn có đức-tin vững chắc chúng ta phải có đức
tự tín; có tự-tín mới đoạt đặng thiên-tín, tức nhiên đoạt đặng Đạo-tín của
chúng ta. Muốn thấu-đáo và muốn đoạt cho đặng tự-tín, chúng ta phải tự biết
chúng ta, rồi ta mới biết địa-vị đứng trong hoàn-vũ này đương đầu với vạn-linh,
ngôi-vị ở trong hàng phẩm nào, chúng ta phải biết ta ở đâu mà đến; chúng ta mới
hiểu con đường chúng ta sẽ về; bí-pháp sẽ dìu-dẫn chúng ta đi đến con đường ấy. Cả tinh-thần nhơn-loại hiện giờ
đang hoang-mang, giờ phút này họ chưa hiểu họ là ai, đến thế-gian này phải làm
gì, ngày mai này khi xác thân đã vùi chôn trong nấm mộ hồn sẽ về đâu ! Hiển-nhiên
ai cũng biết mình là kết-quả của tinh
cha huyết mẹ phối hợp mà thành. Thuở ban sơ chỉ là một điểm linh có sự sống, buổi
nó tượng nhơn-hình của nó. Hỏi vậy cái sống của nó ở đâu ? Ai cho mà có ? Và
cái linh ở đâu mà có ? .
&
QUẺ - 250:
Nữ nhi đại hỉ lâm môn, giá lương nhân,
Thiêm tử tôn, đồng bái thụ, cảm hoàng ân.
女兒大 喜 臨 門 。嫁 良人。
添 子 孫 同 拜受 感 皇 恩。
Dịch nghĩa:
Gái lớn cửa nhà mở tiệc vui
Kén chàng rễ tốt hiệp vầy đôi
Cháu con đông đảo nhà thêm phước
Cảm kính ân cao đức rạng ngời.
Chú giải: Ngày vui của người con gái ngày xưa chỉ là
ngày xuất giá, về nhà chồng. Nhưng ngày nay thì tất cả nghề nghiệp trong xã hội
cả đến thế giới nữa đang chờ nam, nữ anh tài, chứ không riêng một ai. Thế mà,
tiếc thay những nữ anh tài này ngày xưa bị yểm hết. Vì xã hội, gia đình không
cho gái đi học có phải là một thiệt thòi lớn cho quốc gia dân tộc không ? Từ sự dốt nát mới sinh vụng
về, kém đạo đức. Nếu không có Bà Hương Thanh thì Nữ phái bị truất hết quyền
hành rồi,nguyên nhân cũng do dốt mà ra.
Thầy phân phiền với bà Lâm
Hương Thanh về Nữ phái: “Thầy lập Đạo nơi cõi Nam này, là cốt để ban thưởng cho
một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thịnh nộ của Thầy, Thầy lại tha-thứ, lại
còn đến ban thưởng một cách vinh diệu. Từ tạo thiên lập địa, chưa nước nào dưới
quả địa cầu 68 này đặng vậy, cốt để ban thưởng các con thì các con hưởng phần
hơn đã đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều cho các nước khác sao! Ôi! Mà hại thay! Thảm thay!
Đau-đớn thay! “Hòn ngọc” đẹp đẽ quí báu dường này Thầy đến cho các con, các con
lại học kiêu-căng, trề nhún, Thầy đã chán mắt thấy phái Nữ hành-đạo thế nào, biết
bao phen Thầy buồn, mà buồn rồi lại giận, muốn chẳng lập Nữ-phái mà làm gì. Nhưng
trai gái cũng đồng con, Thầy không nỡ đành lòng từ bỏ, Thầy lại thương con nên đã lắm phen lấy khảo trừ công cho con trở lại phẩm cũ, bởi một lời đã hứa với
Quan-Âm, Thầy mới nhứt định dành phần công quả ấy cho con. Con ôi! Thầy thấy
con đau thảm bấy nhiêu, một phen lầm-lỡ lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm!"
&
QUẺ - 251;
Mộc sinh hoả khẩu bất cấm,
Phong điên tác chứng,
Hàn nhiệt tương xâm.
木生火 口 不 禁 。
瘋 癲 作 症。
寒 熱 相 侵
Dịch nghĩa:
Luật trời mộc hoả tương sanh
Có mồm phải nói làm câm được nào ?
Phong điên mắc bịnh tổn hao,
Nhiệt hàn làm dữ xông vào trong thân.
Chú giải: Chính đạo-giáo
nhà Phật có nói con người chúng ta là
con kỵ vật để cho vạn-linh cỡi nó đi đường từ mặt địa-cầu này qua mặt điạ-cầu
khác; mà con thú âý là người của chúng ta, mà người cỡi thú ấy là Phật tức nhiên cái linh của chúng ta đó vậy.
Hình ảnh của Đức Phật Thích-Ca cỡi con ngựa Kiền-trắc đứng trước Tòa-Thánh còn
đó để cho ta thấm-nhuần cái lý Đạo: Phật cỡi con ngựa có khác nào như mọi người
chúng ta đây đang phải chịu mang cái xác thú này, cũng đang chờ ngày chịu sự hủy
diệt. Nếu không lo tu như Phật để giải-thoát còn chờ đợi điều gì? Bây giờ không
phải thi hài này siêu thoát đựơc; thú là thú, sanh ra tại thổ hoàn về tại thổ, còn người cỡi nó là Phật, cho nên không có
quyền năng nào giam hãm hay trói chặt
linh-hồn này lại được. Phật ấy mới thật là con cái của Đức Chí-Tôn rước về,
chính mình con thú mà vật lý-học đã nói là con thú có người cỡi, mà người cỡi ấy
là Phật, là con đẻ của Đức Chí-Tôn. Ấy cơ-quan siêu thoát là Phật siêu thoát chớ
thú không siêu thoát bao giờ !
&
QUẺ - 252;
Hưu hưu hưu. Quá liễu tam niên hựu lục châu.
Bất mãnh tỉnh, Hoạ đáo đầu.
休 休 休 。過了三年又六 週。不 猛 省。禍 到 頭
Dịch nghĩa:
Dừng,
dừng, dừng. Hãy dừng thôi!
Ba
năm qua với sáu tuần rồi
Khó
cảm nỗi niềm cho thông suốt
Hoạ
nàn trước mắt biết sao vơi !
Chú giải: Tại sao ta phải
cần tìm hiểu đến Tứ diệu đề khổ để làm gì ? Đời đã là biển khổ rồi, cho nên người
khi đến thế-giới oan nghiệt này là đến biển khổ:-Một là vì căn kiếp quả nghiệp
mà đến để giải quyết, trong vòng trái chủ, hoặc trả nợ, hoặc là đòi nợ. 2-Hai
là đến đây để học hỏi mới mong tiến hóa thêm, bởi chính nơi thế gian này là môi
trường học hỏi, không có nơi nào khác. 3-Ba là đến nơi này để làm thiên-mạng:
dù là cơ quan Đời hay Đạo cũng vậy. Cái thiên-mạng ấy là lo cho đời, cho đạo
ngày càng tươi sáng thêm. Xưa nay, biết bao nhiêu vị Giáo-chủ đã lãnh lịnh
Chí-Tôn đến đây để làm thiên-mạng ấy, nhưng mỗi một đạo-giáo chỉ làm được mỗi một
công việc mà thôi, như: Hiền vì thương đời
mà đạt cơ tùng khổ,
Thần vì thương đời mà lập cơ thắng khổ,
Thánh vì thương đời mà dạy cơ thọ khổ,
Tiên vì thương đời mà bày cơ giải khổ,
Phật vì thương đời mà tìm cơ thoát khổ.
Nay là thời-kỳ cùng cuối,
chính mình Đức Chí-Tôn đến chớ không sai con cái của Ngài đến như các lần trước
nữa,
&
QUẺ - 253
Hạm lan khởi hoả. Nghiệt súc tao ương,
Dự phòng đắc lực, giảm hoả thành khang.
檻 欄 起 火。孽 畜 遭 殃 。預 防 得力。減火成 康
Dịch nghĩa:
Đóm
lửa ngoài hiên phải ráng gìn
E
điều hoả hoạn chớ xem khinh
Đề phòng cẩn mật may ra khỏi,
Diệt lửa cho yên thoả nội tình.
Chú giải: Người chiếm quẻ này phải biết phòng xa. Chớ thấy điều thiện nhỏ mà không làm, cũng như chớ thấy điều ác nhỏ mà làm. Luật nhân quả chưa phân biệt điều lớn nhỏ.
Phải kiêng luật trời mà sống cho phải đạo. Hãy xem:
“Đức Chí-Tôn sai các vì Giáo-chủ đến tạo Tôn
giáo nơi mặt thế này chẳng phải cầu nhơn-loại thờ phụng Ngài, mà chính Ngài đến
hay Ngài sai Người đến chỉ để tạo Đền thờ, thờ Đức-tin của nhơn-loại tức là tạo
Đền thờ cho nhơn-loại thờ nhơn-loại, không phải thờ Ngài đâu” (thiêng-liêng hằng
sống). Hôm nay Ngài đến với nhân-loại trong việc lập Tam-Kỳ Phổ-Độ là Ngài đến
để giải quyết cho nhân-loại hai vấn-đề.
1- giải khổ phần xác thịt.
2 - giải khổ phần tâm hồn. Chúng sanh chỉ có
tu là đắc Đạo để trong kiếp sanh này về được với Đức Chí-Tôn, tức là giải khổ
cho chính mình và đồng thời để giải khổ cho nhân-loại, như Thầy đã hứa:
Thầy ban Đại-Đạo nên yên dạ,
Đất dậy phong ba cứ vững lòng.
Gắng trả cho rồi căn quả ấy,
Tu mà cứu thế dễ như không .
&
QUẺ - 254:
Dĩ toại tâm đầu nguyện, thuỷ tri chí khí thân
Tam sơn tu bã ác, tần tần định thái bình.
已 遂 心 頭 願 。始 知 志 氣 伸。
三 山 須 把 握。頻 頻 定 太 平。
Dịch nghĩa:
Toại thành tâm ý mong chờ,
Mới hay chí khí đến giờ phát dương.
Núi cao ba ngọn chớ thường,
Thái bình tự đến phải đường ước mơ.
Chú giải: Trong ba điều-kiện:
Thiên-thời, Địa lợi, Nhơn hoà, là các yếu-tố quyết-định mọi công việc trong cuộc
hằng ngày, nhưng nếu được thiên thời cũng không bằng địa lợi, còn nếu được địa
lợi cũng không bằng nhơn hoà. Xem thế
thì yếu tố ở con người là yếu-tố quyết định mọi việc nên hư, đặng thất ở đời rất
nên quan trọng; ở con người chỉ duy nhất có một chữ HÒA mà thôi. Chữ hòa là gì
mà hệ-trọng dữ vậy? Trước nhất xét về mặt chữ nghĩa, Thánh-nhân khi đặt ra đều
có dụng ý: Chữ Hòa 和 gồm có hai phần: Bên trái
của chữ, có chữ Hoà 禾 là cây lúa (lúa là nguồn
sống để nuôi sống thể hài, là vật-chất; tức nhiên người cũng như vật “phải uống
ăn nuôi sống thây phàm”
Bên phải là chữ khẩu 口 là cái miệng (miệng để ăn uống, đồng thời cũng là cơ-quan phát ra tư-tưởng,
lời nói, là tượng-trưng tinh-thần. Miệng là cơ-quan để lập ngôn đó.
&
QUẺ - 255:
Phúc tinh chiếu ánh, quế tử hương văn,
Mãn thiên tinh đẩu, quang diệu bức nhân.
福 星 照 映。 桂 子 香 聞。
滿 天 星 斗 。光 耀 逼 人。
Dịch nghĩa:
Phúc
lành đã hiện trên cao
Quế
thơm hương nức theo màu hoa tươi,
Đầy trời sao hiện sáng ngời,
Muôn màu rực rỡ
người người soi chung.
Chú giải: quẻ này cho người
chiếm nhiều niềm vui, có mệnh trời. Càng cao danh vọng càng dày gian nan. Nhớ:
“Phép của Trời có một, là
thương khắp cả chúng sanh, nên định cho phẩm-vị hữu-hình và thiêng-liêng có một,
nghĩa là phải tương đắc cùng nhau, đặng định quyết phép công-bình lành thăng, dữ
đọa. Máy tạo bởi Chữ Hòa mà có, thì thế-giới
Càn khôn cũng phải Hòa mới toàn-hảo, nhơn-loại cũng phải Hòa mới trường tồn, chẳng khác nào như xác thịt
phải Hòa-thuận cùng linh-hồn mới mong đoạt Đạo. Lấy lớn mà định nhỏ, xem nhỏ mà
tìm lớn, thi hài này nhờ Hòa khí mà thành hình, thì linh-hồn cũng phải tùng
theo phép âm dương Hòa hiệp mới qui hồi cựu bổn; linh-hồn bởi chữ Hòa khí mới
có đến, thì tức nhiên phải nương theo Hòa khí mới có về. Tuy pháp bửu của các
Tôn giáo đã đoạt đặng vẫn nhiều, chớ cơ mầu-nhiệm chỉ có CHỮ HÒA là đủ”.
&
QUẺ - 256:
Đông nam địa tương lai tự cố khư, yên kế địa thương
sanh, vô tồn tế nhược yếu đại phấn hùng tâm, thuỷ nguyên bất tri hà xứ.
東 南 地 將 來 自 故 墟。 燕 薊 地 蒼 生。
無 存 濟 若 要大 奮 雄 心 。水 源 不 知 何 處
Dịch nghĩa:
Đông nam đất cũ nhuộm màu
Bãi hoang biến đổi ngày sau không ngờ
Đất cằn yên kế tiêu sơ,
Chúng sanh tan tác nhưng nhờ hùng tâm
Ý người chuyển lạc cơ thâm
Dạt dào dòng nước xa xăm cội nguồn.
Chú giải: Điềm này ứng với
câu chuyện: Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất đi
niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thoả mãn các nhu cầu vật chất vì
chết là hết. Không có Thượng đế hay một quyền năng siêu phàm gì hết. Cách đây
không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa kỳ đã tuyên bố, “Thượng đế đã chết!”.Tác giả
bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng đế còn sống!.
Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi rất sôi nổi. Một nhà thiên văn học
tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết, “Tôi đã dùng kính viễn vọng tối
tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng mà
nào có thấy Thiên đường hay Thượng Đế cư ngụ nơi nào?”.
Ý tưởng trên đã biểu lộ hết
tính chất của người vô thần. Vì họ cho rằng Thượng Đế đã chết, cho nên những
năm vừa qua cho đến bây giờ nhân loại bị thiên tai, động đất, sóng thần, lũ lụt,
sập hầm mỏ, cháy rừng, chiến tranh…không còn ai cứu chữa hết . Vì Thượng Đế đã
chết!
&
QUẺ - 257:
Tử hữu nhựt, sinh hữu thời.
Hà sự mạn trù trừ, phiêu nhiên nhứt vãng,
Tâm thượng vô nghi.
死 有 日 生 有 時。
何 事 慢 躊 躇 。飄 然一往。 心 上 無 疑
Dịch nghĩa:
Căn phần sống chết có định kỳ
Ngần ngại ích gì bận nghĩ suy
Bình thản đường dài chân nhẹ bước
Lòng không ngờ vực lý huyền vi.
Chú giải: Chân lý chỉ có một. Dầu cho văn mình khoa học
có từ chối cỡ nào thì chân lý vẫn là chân lý. Hãy suy:
Sự ngông cuồng của khoa học
thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự. Tuy
nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi
sự, thì một sự kiện xảy ra: Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh
cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm đại học Oxford, vua
Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm khoa
học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hoá học, kể cả
những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ
đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do Bác sĩ Sir
Claude Wade khám nghiệm, ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong
suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ còn biểu diễn
nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều
này gây sôi nổi dư luận lúc đó. Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một uỷ
ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên
tuổi được chỉ thị sang Ấn độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những
sự kiện huyền bí.
&
QUẺ - 258:
Vãng lai hành tích xứ, thốt
nhiên trước nhứt kinh, Sài lang nhược đương đạo, trảm diệt phương xứng tâm.
往 來 行 僻 處 。猝 然 著 一 驚 。
豺 狼 若 當 道 。斬 滅 方 稱 心。
Dịch nghĩa:
Lộ trình khúc khuỷu lại qua,
Lòng thêm
kinh sợ bóng ma chập chờn,
Chó rừng như gặp giữa đường,
Dạ toan giết bỏ khỏi thường phân vân.
Chú giải: quẻ này ứng với lời bàn sau đây: Suy lấy:
Thầy dạy: Hành tàng do nơi
Thầy mà thôi. Sự trắc trở chẳng qua là làm cho các con chịu nhọc thêm một
thí thôi. Nhưng nếu trong môn đệ đồng
tâm chí như mấy con đây, thì đường đi của các con sẽ vui vẻ tươi cười, chẳng
chi chinh lòng nhau đặng... Các con nên suy nghĩ. Cười! Thầy chẳng khi nào dụng
những kẻ ấy vào nền Ðạo bao giờ. Than ôi! Tiền lớn, bạc nhiều, món ngon, vật
quí hay xiêu lòng phàm phu. Của bất nghĩa kẻ trần còn chẳng chịu dùng thay!...
Người Hàn Tín xưa, nếu chẳng trở lòng nạp bạn, thì chẳng bị thác vô cớ.Còn người
Trương Tử Phòng, nếu chẳng Phạm Tăng cải Trời làm lếu, thì ân oán đền trả chẳng
mấy hồi. Thầy đã nói các con phải chịu nhọc hơn một thí mà lướt mấy sự ấy có lạ
chi. Các con nên hiểu.
&
QUẺ - 259:
Bát môn phân bát vị, Cửu
tinh bố cửu phương, thanh xích hoàng bạch hắc, ngũ sắc quyển cẩm trang, giao phong đối luỹ, lưỡng
lưỡng tương đương.
八 門 分 八 位。九 星 布 九 方。 青 赤 黃 白 黑 。五 色 卷 錦 裝。 交 鋒 對 壘 。兩 兩 相 當。
Dịch nghĩa:
Ngôi vi định phân tám cửa rồi
Chín sao chín hướng đã an nơi
Vàng xanh đỏ trắng đen năm sắc.
Năm sắc chuyển xoay mảnh gấm trời
Đối địch khó phân ra thắng bại
Tương đương hai thế rõ hai nơi.
Chú giải: quẻ này khiến
cho người chiếm quẻ được bình an. Hãy vững niềm tin ở lòng đạo đức cao độ, đừng
phân vân, đừng nghi ngại, không ai hiểu được mình hơn đâu.
Thầy dạy: Nơi trần nầy,
thiếu chi bực giả dối, các con có tin ai cho bằng tin cậy nơi các con? Nhiều kẻ
dụng thế để cầu Thầy, chớ kỳ thật là chúng nó muốn tìm cách dòm hành mong các
con lầm mà bại lộ cơ quan mật yếu mà thôi. Cơ mầu nhiệm đã định nơi Thiên thơ, Ðạo
mở chủ ý dìu dắt những kẻ hữu phần, đặng rán cùng nhau dắt lên khỏi con đường
trắc trở, vẹt nẻo chông gai, bước tận đến thang Trời hội hiệp cùng Thầy trong
buổi chung qui, đặng cùng không do nơi tâm chí của các con. Thầy chẳng lẽ tỏ việc
Thiên cơ cho cùng tận đặng. Tr... T... H... trách nhậm gần xong, công quả hầu mãn,
nên mới xảy ra việc buộc ràng ấy. Nếu chẳng vậy, thì chúng nó chẳng khỏi một họa
to đến bên mình. Ấy là Thầy cải cơ Trời mà cứu chúng nó đó. Sự yên tịnh và sự hòa
bình là hai điều Thầy dụng mà gieo mối Ðạo. Biết bao lần sanh linh đã đổ máu vì
Ðạo! Thế mà có thành được không? Thầy vì đó mà phải để cho các con chịu phiền
não mà hành đạo cho vẹn toàn.
&
Quẻ - 260:
Chung thân bất tập thượng,
Tại thế khước uổng nhiên, luân hồi bất năng, Vĩnh lạc thâm khanh chỉnh.
終 身 不 習 上。 在 世 卻 枉 然 。
輪 迴 不 能 。永 落 深 坑 整。
Dịch nghĩa:
Suốt đời chưa lập nên công
Kiếp sanh phí uổng đời không cậy nhờ
Luân hồi chưa rõ huyền cơ,
Một giờ ngắn ngủi, phút giờ trôi xuôi.
Chú giải: Đừng tự ty cũng đừng tự cao. Làm việc tốt
tự nghe cõi lòng an nhiên. Chắc chắn có thiêng liêng phò trợ.
Thánh ngôn: “Thầy để lời
cho các con rõ rằng: đường Ðạo ngày hôm nay, các con đã tiến nhiều. Trách nhậm
muốn cho hoàn toàn, cần phải bước qua mấy sự trắc trở mà đạt được mục đích cao
thượng. Phần nhiều trong các con đã chịu lao tâm tiêu tứ vì lòng kính mến Thầy
và vì chúng sanh mà toan độ rỗi, nhưng cũng có nhiều đứa dụng tà tâm mà làm cho
có sự thán oán trong nền Ðạo của Thầy. Thầy đã lấy lòng từ bi và đức háo sanh
mà dìu dắt các con thì Thầy chẳng dụng sự khinh trọng mà làm cho chinh lòng các
con, chẳng lấy hành tàng bất chánh mà làm cho mất điều hòa nhã. Con một nhà đãi
đồng một bực; đứa thua sút, yếu thế lại đỡ nâng dìu dắt nhiều hơn đứa thế trọng,
sức nhiều. Thầy cũng ghe phen muốn phạt
những kẻ lấy bực phẩm của phàm mà gây nên rối rấm trong Ðạo, nhưng chẳng nỡ.
Chúng nó đã bị Thánh Thần biên chép, ngày chung cuộc sẽ liệu tội phát lạc mà
thôi.”
&
QUẺ - 261;
Lưỡng cá tử nữ, Đồng đáo tề hành,
Âm dương hoà hợp, mưu tác hoan hân.
兩 個 子 女 同 到 劑 行 。陰 陽 和 合 謀 作 歡 欣
Dịch nghĩa:
Gái hiền hai kẻ sánh đôi,
Hai nghi đã rõ điềm trời âm dương,
Việc chi mưu tính liệu lường,
Thời cơ định sẵn tiện đường ước mơ.
Chú giải: Người chiếm quẻ nên suy lấy những lời
này, trong trời đất đều có sự ứng hợp. Ngẫm kỹ, xét tường. Thấy dạy: Nguồn đạo
đã gội khắp sanh linh mà nơi đây vẫn còn mơ màng trong mộng điệp. Nhân sanh
chưa dễ thoát được cảnh trụy lạc ở cõi trần mê muội nầy: Lành ít, dữ nhiều, phước
nhỏ, tội thêm, ấy chẳng qua ách nạn Thiên cơ đã sắp bày hành phạt. Con cũng đồng
thương, nhưng khí số phải mang lấy về buổi sau nầy, Thầy cũng đau lòng mà nắm cơ
huyền vi Tạo Hóa, Thầy hằng rõ chí hành tàng chơn đạo của các con, nhưng nhơn lực
khó lướt qua Thiên Cơ, các con cứ đường ngay bước tới đợi ngày sẽ lập chút công
trình để lướt khỏi lối gai chông, vẹt ngút mây xanh tìm vào cảnh thiêng liêng
mà rửa sạch bụi hồng, khách trí nhàn đời ấy là buổi chung qui của bậc chí Thánh
vậy. Xôn xao gió bụi, mờ mệt tuồng đời, mồi phú quí, bã công khanh, mấy kẻ biết
nhuộm nâu sồng, lánh cả muôn sự não phiền mà khách trần đều gọi là vinh diệu.
Thảm thay! mà cũng tiếc thay! Gió khuất thuyền đưa, nhạn về rừng cũ. Con đường
đạo hạnh đợi buổi khuất dấu mờ mệt nét rêu phong mới sửa soạn lần chơn, âu dễ
biết vô phần hay hữu phúc.”
&
QUẺ - 262:
Trung hữu huyền cơ phú,Kê
minh phương hiển lộ, Mãnh nhiên ngộ thiền quan. Đả phá quân môn lộ.
中 有 玄 機 賦 。雞 鳴 方 顯 露。
猛 然 悟 禪 關 。打 破 君 門 路 。
Dịch nghĩa:
Thi phú huyền cơ đã sẵn bày
Gà gáy năm canh hiển lộ thay
Lòng ngộ tham thiền thư thả dạ
Đánh tan danh lợi bụi hồng bay.
Chú giải:
hãy nghe một Giáo sư người Anh Spalding đã cho biết “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng
để cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây phương phải
quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần.” Đây là Quê hương tinh
thần:
Các đấng nói: lúc nầy đã đến buổi người hành khách phải trải
qua một lối chông gai. Muốn bước khỏi, cần phải có bền chí tận tâm và phải gắng xem đạo đức là trọng hơn muôn việc
vui thích ở cõi trần nầy. Ðạo tuy gần thành, nhưng còn phải chịu nhiều việc trắc
trở nữa, ấy là lúc các đạo hữu gặp một trường thi rất khó trong buổi rốt. Sự phổ độ Thiên cơ đã định, sức người cũng
khó lướt qua. Bần Ðạo chỉn để lời cho các đạo hữu rõ đặng lưu tâm mà hành sự,
chớ con đường tuy chớn chở, triền núi vẫn khó qua, song ngọn đèn Trời đã chiếu
tỏ mà dìu dắt các đạo hữu, thì nhiều ít gì rồi sau cũng đến chốn được. Hội Tam
Giáo đương chầu Ðức Từ Bi định khai Ðạo cho khắp nơi khác đặng hiệp theo lẽ Trời
cuối kỳ Hạ Nguơn nầy.”
&
QUẺ - 263;
Sổ vỹ kim ngư thôn nhĩ ty can, câu liễu hồi đầu,
gia thực phiên hiềm thái phí, ngũ hồ tứ hải du du.
數 尾 金 魚 吞 餌 絲 竿。 鉤 了 回 頭 。
家 食 翻 嫌 太 費。 五 湖 四 海 遊 遊。
Dịch nghĩa:
Cá vàng lặng lẽ nuốt dây cần,
Ngư phủ quay về thoả ước mong
Uống ăn thái quá sinh gian khổ
Bốn biển năm hồ trải chiếc thân.
Chú giải: Người chiếm quẻ
nên suy qua câu chuyện này:
Ấn độ là xứ có rất nhiều
Tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất mạnh làm
chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn thường tự hào rằng văn hoá của họ
là một thứ văn minh Tôn giáo và dân xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh
triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế Hội Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ cho
phái đoàn đến Ấn độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này. Tuy nhiên, sau
hai năm du hành khắp Ấn độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền
đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thoả
mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những
điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, Thần
Thánh-hoá huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ. Đa số tu sĩ đều khoe khoan các địa
vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả,
ai cũng xưng là hiền triết”
&
QUẺ - 264:
Mão nhật nhi xuất lâm, Ngọ thời chính phúc lâm,
Mão sinh ư Dần, phương kiến thiên tâm.
卯 日 而 出 林。午 時 正 福 臨 。
卯 生 於 寅。方見 天 心。
Dịch nghĩa:
Sáng ngày giờ Mẹo chia tay,
Đến trưa: đúng ngọ, gặp ngay giữa rừng,
Lẽ trời Dần Mẹo tương sanh,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét