Khổng Minh Thần Toán - 3 / 6 (Nữ Dịch Giả Nguyên Thủy)

Chú giải: Không một việc gì xảy ra mà không lý cớ, nếu không toại ý thì hãy tự vấn tâm mình: Vì sao? Tại sao? Do đâu? Hãy tự kiểm điểm mình trước đã: Lỗi tại tôi. Lỗi tại tôi. Bởi vì lúc nào cũng có Thượng-Đế ngự trong tâm và ai ai cũng tin chắc rằng làm lành có lành trả, làm ác có ác báo chẳng sai, bởi đó là hình ảnh của Thiên lương!
Thiên lương là gì? Ở nơi nào? -Thiên lương ấy mới thiệt là Ta, nó đã do nơi khối Chí-linh của Trời
mà sản xuất thì nó là con của Trời tức nhiên nó là Trời. Nếu do nó mà để tín-ngưỡng thì mình do Trời mà tín ngưỡng. Mình thờ nó tức là thờ Trời, ngoài nó ra chẳng ai biết Trời, ngoài Trời không ai biết nó.    Cái sự thông công giữa Thiên lương và Chí-Tôn là phép mầu đoạt Đạo. Vì cớ cho nên Đạo Cao-Đài thờ Thiên Nhãn nghĩa là thờ cái khối Thiên lương của toàn nhân loại. Ấy vậy Thiên lương mới thiệt là ta, là chủ của sự Tín ngưỡng.

&
                                   QUẺ - 126:
Ngột ngột trần ai cửu đãi thì,
U song tịch tỉnh hữu thuỳ tri,
Nhược phùng thanh tử nhân tương dẫn,
Tài lợi công danh tự khả kỳ.
。幽
。財 自可

                                   Dịch nghĩa:
Thời gian gió bụi gắng chờ,
Dù cho tri kỷ thờ ơ lạnh lùng
May ra gặp kẻ anh hùng
Lợi tài danh chức mất công phải cầu?

Chú giải: Sự kiên nhẫn là bước đầu của thành công. Từ đó bao nhiêu điều thấy biết phải do tâm linh mình nhận xét cho chính chắn thì sẽ không có điều ân hận. Thấy bằng tâm linh tức là phải dùng huệ nhãn, Thần nhãn, Thánh nhãn…Vì chưa đủ sự thấy biết ấy, nên ngày nay Đức Thượng Đế đến với nhân loại bằng Thiên nhãn để tạo nên niềm tin tuyệt đối cho mọi người cùng thấy rõ việc đời.

Ngày 6 tháng giêng Đinh Hợi (dl 27-01-1947) khi Đức Hộ-Pháp trấn thần Thiên nhãn ở mặt tiền Đền-Thánh tức là Phi-Tưởng-Đài, Đức Hộ-Pháp rải Cam-lồ-Thủy và cầm bó hương làm phép  trấn Thần với ý-nghĩa rằng:
 “Kể từ đây Đức Chí-Tôn hằng để mắt dìu dắt con cái của Ngài về chầu Ngài sau khi làm tròn nhiệm vụ Thiêng liêng của Ngài phú thác”      
&
                                   QUẺ - 127:
Hổ phục tại lộ đồ, hành nhân mạc loạn hô.
Lộ bàng tu tử tế, tai hoạ tự nhiên vô.
途。 呼。
。災 無。

                                   Dịch nghĩa:
Hùm oai ẩn nấp bên đường,
Lữ hành chớ hoảng mà thường hô to.
Thận gìn ý tứ vững cho,
Hoạ tai tiêu tán không lo sợ gì.

Chú giải: Hổ dữ là bản tính của loài thú ấy, nhưng chưa  qua trí khôn của loài người. Nó có nanh vuốt để vồ mồi. Người có sức mạnh tinh thần nên chế ra vũ khí để sát phạt. Người đạo đức dùng thần lực để hàng phục chúng, nanh vuốt là đạo đức. Lòng tin của người vô cùng mạnh mẽ:
 “Hễ có kiến thì có thức, kiến thức là căn bản của trí thức tinh thần. Muốn kiến thì nhờ NHÃN, muốn thức thì nhờ TRÍ. Ấy vậy, trong tâm (gọi là linh tâm hay chơn linh) là Thiên Nhãn của trí thức con người. Vì cớ mà Đại-Từ Phụ dạy thờ Thiên Nhãn. Thiên Nhãn là hình trạng của Lương tâm toàn thể, làm nền móng cho CAO-ĐÀI, nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức tin lớn của Đức Chí-Tôn tại thế này, y như hai câu thi của Đức chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor-Hugo):
“L`oeil mystique seul verra la Religion nouvelle.
“La  grande foi git dans la conscience universelle”.

(Có Thiên Nhãn mới tường Chánh giáo.
Tín Cao-Đài do Đạo Lương-tâm)

Thờ Thiên Nhãn là thờ tánh mạng mình và Chí Tôn. Nghĩa là thờ Lương tâm của toàn thiên hạ  (La culte de la conscience)  (ĐHP: DiỄn văn 15-8 Quí-Dậu)

&
            QUẺ - 128:
Hoà bất hoà đồng bất đồng. Phiên vân phú vũ, kỷ thành không. Tấn thoái tu phòng chung thiểu công.
。翻雲 空。
退 功。

                                   Dịch nghĩa:
Hoà đồng hai chữ vẫn hoàn không
Mây tụ gió mưa tới chập chồng
Tiến thoái đề phòng cho cẩn mật
Thành công chậm đến với niềm mong.

Chú giải: Người xưa nói “quân tử hòa nhi bất đồng, tiều nhân đồng nhi bất hòa” có nghĩa rằng là bậc quân tử thì luôn hòa hảo, hòa hiếu với mọi người cho trong êm ngoài ấm, còn kẻ có lòng dạ tiểu nhân thì làm giống (đồng) như mọi người là thái độ nịnh bợ để được lòng mọi người mà không biết hòa thuận với ai cả. Như vậy là còn kém lắm.

 Như con người, Thượng-Đế ban cho ba thể xác thân:
- Xác thân hữu hình đây là TINH cần:
“Phải uống ăn nuôi sống thây phàm,
“Từ bi Ngũ cốc đã ban.
“Dưỡng nuôi con trẻ chu toàn mảnh thân”

- Chơn thần tức nhiên thể Trí, có học mới hay, mới tài giỏi, đó là KHÍ, do Đức Phật-Mẫu ban cho.
- Chơn linh là linh hồn, tức là điểm linh quang của Đức Chí-Tôn ban cho. Món ăn của linh hồn là đạo-đức, sự cúng kiếng đến chùa chiền là buổi cho linh hồn ăn vậy, đó là THẦN. Thế nên món ăn của linh hồn cũng cần yếu lắm. Sở dĩ thế giới ngày nay đi đến cảnh tương tàn tương diệt là vì họ đang đói, đói cái món ăn tinh thần, đạo đức, là món ăn chính của linh hồn đó vậy. May cho dân tộc Việt-Nam này Đức Chí-Tôn đem ban phát cho hột giống Tình thương, Bác-ái, Công bình để sẵn-sàng cứu đói, cứu nguy cho nhân loại đang cơn đói lã của tâm hồn. Ấy vậy, trách nhiệm của Việt-Nam hay là sứ mạng của Cao-Đài-giáo nói chung là phải đem hoàn linh đơn này đưa đến tận tay các Bạn đồng sanh của chúng ta để mọi người cùng uống, cùng nhìn Đấng Thượng-Đế là Cha chung của nhân loại, cùng rao lên rằng Thượng-Đế đang “Xây cơ chuyển thế bảo tồn Vạn linh” đó vậy.  Trách nhiệm của chúng ta đó !
&
                                   QUẺ - 129:
Đông biên sự, Tây biên thành.
Phong vật nguyệt hoa minh, cao lâu lộng địch thanh.
西 。風
聲。

                                   Giải nghĩa:
Sự thành hai nẻo Đông Tây,
Trăng hoa phong vật phô bày vẻ trong
Lầu cao ngắm cảnh thong dong,
Vẳng nghe tiếng sáo cõi lòng thanh cao.

Chú giải: Sự việc khởi ở Đông mà thành ở Tây, đông tây là hai hướng đối nhau: một bên mặt trời mọc, một bên mặt trời lặn. Nếu không có mọc thì làm sao có lặn, đó là chuyện đương nhiên, nhưng ít ai để ý. Cũng như công việc nhà: người hái ra tiền là việc chính của người đàn ông mà người bảo quản của cải ấy là người vợ. Hẳn là một việc phân nhiệm rõ ràng. Vì quên đi phần hành mỗi cá nhân có vai trò đặc biệt mà xưa kia Nữ phái chịu thiệt thòi, ngày nay Đức Thượng đế đến ban cho sự công bằng ấy. Mỗi người phải làm nhiệm vụ và hưởng công bằng, bình quyền, bình đẳng như nhau, trong buổi Thượng nguơn Tứ chuyển này.Thầy có dạy:“Đường thị, Thầy giao phe Nữ cho con lập thành, chẳng phải vì đàn bà mà sớm nồi cơm chiều trả cháo hoài. Phần các con truyền Đạo kỳ Phổ-Độ này cũng lắm nặng nề, bao nhiêu Nam tức cũng bao nhiêu nữ; Nam biết thành Tiên Phật chớ Nữ lại không sao? Thầy đã nói: Bạch-Ngọc-Kinh có cả Nam và Nữ, mà phần nhiều Nữ lấn quyền thế hơn Nam nhiều!       Vậy con phải tuân lịnh Thầy mà lập Nữ phái. Nghe và tuân! Thầy hằng ở với con, con chớ ngại. H…Thầy giao Nữ phái cho con rộng quyền dạy-dỗ, làm Chủ, chờ Thầy thâu đến mà giao cho con, trách nhiệm con Thầy sẽ chia với”.
&
                                   QUẺ - 130:
Sự đoàn viên, vật châu tuyền,
nhứt lai nhứt vãng, bình bộ thanh thiên.
旋。 天。

                                   Dịch nghĩa:
Chu toàn mọi việc đến đoàn viên
Lại lại qua qua, chớ nản phiền
Lặng bước đi lần về đến đích,
Trời xanh rộng lối cảnh thần tiên.

Chú giải: Một việc thành công như vậy đó là điều ước vọng, không còn chi hơn. Nhưng được ngoài phải được cả trong, tức là lòng mình phải thanh thản, thoải mái. Thế tình chưa như vậy đâu. Hãy nghe những lời Thầy than:
 “Đạo phát trễ một ngày thì hại cho nhơn sanh nên Thầy nôn nóng mà Thiên cơ phải vậy”
Thi văn dạy Đạo:
Trên vai gánh nặng cả Càn Khôn,
Khôn khéo rủ nhau xuống một phồn
Phồn tục theo hoài quên trở gót
Gót son biết đặng mất hay còn.
&
            QUẺ - 131:
Thiển thuỷ khởi phong ba, bình địa sinh kinh cức. Ngôn ngữ lự sâm thương, do khủng vô đoan đích.
。平 棘。
。猶 的。

                                   Dịch nghĩa:
Nước cạn nổi ba đào,
Đất bằng gai gốc cao.
Lời nói e điều ngại
Đuôi, đầu chưa rõ hai.

Chú giải: Sự tình trước mắt chưa ổn mấy. Sóng gió nhiều như vậy thì những toan tính nên chậm lại mà làm bài toán đời cho kỹ hơn. Thận trọng vẫn là điều hay để có dịp nghiệm kỹ, tính đúng. Đừng vội vàng là điều phải xét lại. Thầy có dạy:“Tất cả đều để trước mắt một bài học hay, cái cảnh khổ chính là bài học tấn hóa nhanh chóng nhất. Vì vậy những chơn linh nào dám chịu khổ là những chơn linh ấy tấn hóa mau hơn hết. Nhưng thật sự cũng chẳng phải “Khổ” đâu ! Ấy cũng chỉ là những bài học tắt cho những người muốn đi tắt. Cùng một không gian, cùng một cấp bực thì trông thấy hiểu thấu nhau. Bậc cao hơn thì trông thấy được bậc thấp, chớ bậc thấp thì khó thấy bậc cao hơn là lẽ thường”.

&
            QUẺ - 132:
Thu nguyệt vân khai hậu, huân phong vũ quá thì,   Nhược phùng Sở quốc cựu tri kỷ.
Đẳng nhàn nhứt tiến bất tu nghi.
。熏 時。
己。 疑。

                        Dịch nghĩa:  
Mây nhường vẻ sáng trăng thu
Mưa theo gió tạnh hết u-ám rồi
Tri âm may gặp được người,
Công danh theo đến kịp thời ước mơ.

Chú giải: bài học đời cho ta nhiều kinh nghiệm: trăng thu sáng đẹp, gió mát trăng trong, gặp thêm tri kỷ trong đời còn gì hay bằng. Nhưng phải cần học thêm túi khôn của loài người để làm sở trường của mình hầu phụng sự tốt.

 Phép học ấy tức là đi thẳng ngang qua đường  kính của hình tròn chớ không phải đi quanh quẩn theo vòng chu-vi. Nhưng nếu chỉ đi tắt thì chỉ biết phớt qua chớ  không thật thấu hiểu. Vì vậy mà dù cho những chơn linh cao trọng cũng phải giáng thế ở các địa cầu để học hỏi từng phần vi diệu mới mong đoạt lý cao thâm. Bài học của họ nhanh chóng hơn những chơn linh thường nên cũng mắc mỏ hơn nhiều. Phải dùng tự lực mới chống đối những lực lượng có sẵn của thiên-nhiên, có thoát đi được mới tiến lên được. Nếu không thoát nỗi thì phải cuốn theo dòng của dinh, hư, tiêu, trưởng. Đó, luật luân hồi quả báo và phương tu  đoạt Đạo là vậy, chẳng phải chỉ có quả địa cầu này có người ở mà thôi, mà đã có hằng hà quả Địa cầu có người ở theo những trình độ tiến hóa khác nhau.”
&
                                   QUẺ - 133:
Tâm dĩ định, sự hà ưu, kim lân dĩ thượng câu,
Công danh nhứt võng thâu.
。金
收。

                                   Dịch nghĩa:
Yên tâm việc có lo gì
Cá vàng mắc nhợ còn chi phải ngờ
Công danh nào phải ước mơ,
Lưới quanh bao sẵn, đợi chờ người thu.

Chú giải: Công danh đến trong tay như cá mắc câu rồi. Sự thành đạt ấy cũng làm cho lòng mình thỏa dạ. Nhưng nên nhớ con cá mắc lưỡi câu thì đời nó sẽ làm mồi cho bữa ăn ngon.Con người mắc lưỡi câu danh vọng liệu có vượt qua?

Đời là biển khổ, nhưng may gặp được nguơn hội CAO ĐÀI do Đấng Thượng-Đế đến để dìu-dẫn tức là tạo Bát Nhã-Thuyền để vớt người qua khổ hải. Bởi người đến thế giới này để làm các công việc như:
- Hoặc trả quả kiếp.
- Hoặc học hỏi để tấn hóa.
- Hoặc đến cứu đời, làm Thiên mạng.

  muốn dù không phải qua năm bước khổ:
 “Cái chương trình ấy là những cơ chỉ sanh ra bởi các tư tưởng của cả Tôn giáo đã lập thành nên Đạo. Chữ Đạo là đường đặt ra bởi đó, đặng dìu-dắt nhơn sanh khỏi bước đời gay trở; cốt yếu là lập mục đích,  định chuẩn thằng cho kẻ trước hiệp người sau, kẻ kim hòa người cổ, tóm cả trí lự của nhơn loại, đặng làm ngọn Huệ-quang soi rọi khắp nhơn gian, mượn cả sự tội tình sầu thảm của thế, mà tạo Bát-nhã-thuyền  đặng vớt người nơi khổ hải.”

&
                                   QUẺ - 134:
Ý mê chí bất mê, Sự khoan tâm bất khoan
Yếu tri đoan đích tính, do cách lưỡng trùng san.
。事
。猶 山。

                                   Dịch nghĩa:
Ý dù mê mẩn chí không lầm
Việc đã thông rồi tâm chữa an
Phải khéo nghĩ suy cho rõ lý
Núi non cách trở chớ nghi nan.

Chú giải: ý là sự suy đoán, là âm vang của tư tưởng, là tiếng lòng vọng lại có thể mê. Nhưng chí là cái tâm của kẻ sĩ (gồm có chữ sĩ trên, tâm dưới hiệp lại) không mê. Nhờ vậy mới phán đoán công việc không lầm. Nhờ không lầm mới thấy rõ con người ai cũng qua 5 bước khổ:
PHẬT vì thương đời mà tìm cơ Giải KHỔ
TIÊN  vì thương đời mà bày cơ Thoát KHỔ
THÁNH  vì thương đời mà dạy cơ Thọ  KHỔ
THẦN vì thương đời mà lập cơ Thắng KHỔ
HIỀN vì thương đời mà đặt cơ Tùng KHỔ

Chữ KHỔ là đề mục của khoa học trường đời, phẩm vị Hiền Thần Thánh Tiên Phật là ngôi vị của trang đắc cử.”  Thi văn dạy Đạo:
Khổ Đời muốn  lánh gắng tìm phương,
Giành giựt đừng mong chác thế thường
Xao-xự tuồng đời lừng bợn tục.
Trau-tria nét Đạo nực mùi hương.
Rừng Thiền ngàn dặm Trời soi thấu.
Biển khổ muôn chia khách lạc đường.
Gặp được nẻo ngay Đời có mấy,
Thìn lòng khối ngọc tạo nên gương.

&
            QUẺ - 135:
Tiếu trung sinh bất túc, nội ngoại kiến sầu khốc.Vân tán nguyệt quang huy, chuyển hoạ đương thành phúc.
。內 哭。
。轉 福。

                                               Dịch nghĩa:
Nụ cười chưa vẹn niềm vui
Tâm tư, nét mặt ngậm ngùi cả hai
Mây qua, trăng nở gương đài,
Phúc lành kịp đến thế thay hoạ nàn.

Chú giải: Chuyện thế nhân: buồn vui, họa phúc là sự thường, vì con người đang sống trong thế giới nhị nguyên mà ! Nhưng nếu biết chuyển tâm tư mình đúng theo đạo đức vì đó là kim chỉ nam của cuộc đời, như người thủy thủ.

Nếu nhìn thẳng vào chữ Nhơn có hai nét do Âm Dương hòa hợp; nét trái là chân Dương, nét phải là chân Âm. Đây là chỉ phần Âm Dương của cha mẹ sanh ra cái phàm thể này. Rồi cha mẹ phàm thể lại do Âm Dương của trời đất sanh ra, cho nên  chữ nhân lại hợp với chữ Nhị   thành chữ THIÊN . Trong chữ Nhị tức là nét nhất trên chỉ Trời, nét nhất dưới chỉ đất, gọi là Tam tài: Thiên- Địa- Nhân thì người đứng giữa mới thích hợp. Như vậy chỉ có người mới được dự vào việc của trời đất mà thôi. Người là một sản phẩm hoàn chỉnh nhất của Thượng-Đế nên phải biết:
- Trên thông Thiên văn.
- Dưới đạt địa lý.
- Giữa quán nhân sự
&
                                   QUẺ - 136:
Diêm tiền thước táo chính phiên phiên,
Ưu lự toàn tiêu hỉ tự nhiên,
Nhứt nhân tấn liễu nhứt nhân thoái,
Hạ sao hoàn hữu hảo nhân duyên.
。憂
退 。下

                                   Dịch nghĩa:
Trước thềm chim đã hót vang,
Tan niềm lo lắng hân hoan thay vào.
Lại qua hai kẻ thay nhau,
Hẳn là duyên đẹp ngày sau hưởng phần.

Chú giải: cầu tài vận tốt, cầu hôn được duyên đẹp xứng đôi, nhưng phải nhớ nhân duyên do trời định trước số phần. Việc hành sử muốn được đôi phần vẹn vẻ phải biết khéo khôn hòa hợp, tức là phải biết cư xử với nhau, đừng tất cả đổ cho trời khi mình chưa biết đối nhân xử thế, chưa biết lấy chữ hòa mà ở ăn cho thuận. Phải biết rõ điều này:
 “Con người là một động vật ở nơi mặt địa cầu này. Chúng ta ngó thấy hiện hữu phải vận hành, phải xao động, bởi nó là động vật nó phải hoạt động, nếu không hoạt động là chết. Trong cơn hoạt động nó có hai phần đặc biệt:

1 - Hoạt động về thi hài xác thịt, tức nhiên như thân thể chúng ta bây giờ đây, mỗi ngày chúng ta hoạt động mới có sống, bằng không hoạt động thì chết, luật tạo đoan quả nhiên vậy.

2 - Còn hoạt động nữa, là hoạt động vô hình, chúng ta không thể thấy được mà chúng ta quả quyết có hoạt động về tinh thần, trí thức. Vì cớ hai cái hoạt động của con người chia ra hai phần:
- Hoạt động về phần Đời.
- Hoạt động về phần Đạo.
&
                                   QUẺ - 137:
Kinh cức sinh bình địa, phong ba khởi tứ phương .
Ỷ lan trù trướng vọng, vô ngữ đối tà dương.
風菠 方。
。無 陽。

                                   Giải nghĩa:
Đất bằng sinh lắm gai chông
Phong ba nổi dậy khắp trong bốn bề
Tựa hiên buồn bã nhìn xa,
Chiều hôm đối cảnh khó mà nói năng.

Chú giải: Thời cùng cuối của một nguơn hội gọi là Hạ nguơn mạt pháp, giống như nước cuối dòng, cho nên bao rác-rưởi tồn đọng lại, đủ thứ hết, nhưng nên thấy rõ: thứ trược quá nhiều mà vật thanh lại ít. Từ gia đình loáng ra ngoài thế giới đâu đâu cũng thế. Đừng trách, đừng phiền. Hãy nhìn lại chính mình xem: bản thân mình có toàn chưa? Chưa toàn hãy sống cho toàn. Mình có đủ hiếu với cha mẹ chưa? Hãy làm tròn chữ hiếu. Từ đó mới làm gương tốt cho con cái trong gia đình. Làm gương tốt cho ngoài xã hội được. Thánh-ngôn rằng:
Dạy  trẻ  con  toan  trước  dạy mình.
Cái công giáo- hóa cũng  đồng sanh.
Đạo đời  tua  biết Đời  rằng  trọng,
Một điểm quang- minh một điểm linh

Thầy dạy: “Sắp nhỏ của con daỵ, sau cũng nên người ở đời. Ấy là Đời, nếu biết trọng đời thì gắng dạy nó nên hiền.  Một điểm quang minh là một HỒN người, là vật tối linh của Thầy trân-trọng. Nếu con muốn làm lành thì gắng dạy mấy hồn âý nên Hiền” (TN I /10)

&
            QUẺ - 138:
Mưu dĩ định, sự hà ưu ? Chiếu nguyệt thượng trùng lâu, vân trung khách điểm đầu.
憂。照 。雲

                                   Dịch nghĩa:  
Mưu mô đã tính sẵn rồi,
Việc không lo ngại lần hồi rõ thông.
Lầu cao trăng giải mênh mông,
Trong mây dường có lão ông vái chào.

Chú giải:  Thường ngữ cũng nói rằng: mưu tính là việc của người mà thành sự là ở trời. Việc này đúng không? Do câu “Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”. Nếu mình làm người vẹn vẻ, ý nghĩ thanh cao thì lo gì không được toại? Chắc chắn sẽ có quới nhân giúp sức. Hãy vững niềm tin !

Nên biết: Vì cái thi hài phàm tục này nó là con vật, nó phải hoạt động theo con vật, hoạt động theo giác thể của nó, nó chưa biết hoạt động theo chơn linh. Thượng Đế vẫn còn sắp đặt một kỷ cương để cho tinh thần nó vi chủ hình hài của nó, nếu để cho thân thể vi chủ tâm hồn của nó, nó sẽ ngây cuồng ngu dại, nó sẽ đi đến chỗ tự diệt nó mà thôi. Bởi vậy chúng ta ngó thấy hai phần đặc biệt ấy, chúng ta buộc phải nhìn về phần đời của chúng ta, chúng ta phải chung sống cùng xã hội nhân quần, tức nhiên sống theo khuôn khổ quốc gia, dân tộc ấy, nên luật khuôn khổ quyết định hơn hết. Nếu trên cái sống ấy, sống theo kia chúng ta

thấy chúng ta phải nhìn có một Đấng cầm quyền trị về phần tâm hồn, trí não chúng ta. Đấng ấy giờ phút này đến ở cùng chúng ta, nhìn chúng ta là con cái của Ngài” là Đức Thượng đế, là Trong mây dường có lão ông vái chào.
&
            QUẺ - 139:
Kỳ kỳ kỳ, địa lợi dữ thiên thì, đăng hoa truyền tín hậu, động tĩnh tổng tương nghi.
。地 利與

                                   Dịch nghĩa:
Lạ lùng thay lắm nỗi sự tình!
Thiên thời, địa lợi khá nên tin
Đèn hoa, tin tức sau lần đến,
Động tĩnh hai đường sự lý minh.

Chú giải: Việc muốn thành công tất phải đủ ba yếu tố: thiên thời (tức nhiên là thuận lòng trời). Địa lợi (thế đất có hợp không, tức là có đủ điều kiện làm chủ miếng đất không). Ba là nhân hòa (những người chung quanh sống có thích hợp nhau không: nói chung là mình phải hòa với mọi người, ngược lại người có thích mình mới được).

               Xưa nay chúng ta không đạt được ba điều ấy:

 - Nhứt là không có thời Trời, tức là trong nước không có đạo, mà tổ tiên ta xin đạo, mượn đạo của người thôi.

-Thứ nhì địa không lợi là vì nước Việt Nam bị nô lệ nhiều.

-Thứ ba nhân tâm chưa hòa, vì dân tộc còn bị trị. 

               Nay, Đức Thượng Đế “Ngài đến với một danh từ là Thầy của chúng ta, mà chẳng phải làm Thầy mà thôi, còn làm Cha nữa. Chúng ta tưởng tượng lại, để tinh thần bình tĩnh suy xét từ thử đến giờ, coi các sắc dân nào trên mặt địa cầu này đặng hạnh phúc dường ấy chăng?           Hai ngàn năm về trước, Đức Khổng-Phu-Tử đến tạo Đạo, không đoạt được đức quí báu cao trọng ấy cũng do nơi duyên cớ, chúng ta tưởng Ngài đến tình cờ, không có gì là tình cờ trên mặt địa cầu này hết, không phải tình cờ mà Ngài đến. Ngài đến trong đời Chiến Quốc, tức nhiên trong buổi ly loạn (không có buổi nào trên mặt địa cầu này chịu ly loạn bằng nước Trung-Hoa buổi nọ).
&
            QUẺ - 140:
Ngộ bất ngộ, phùng bất phùng, nguyệt thâm hải để, nhân tại mộng trung.
。月 。人

                                   Dịch nghĩa: 
Gặp gỡ không dễ thường
Tương phùng khó nỗi đương
Trăng chìm sâu đáy bể
Người trong giấc hoàng lương.

Chú giải: nếu đã nói là mộng tức chưa thực, chưa thực thì không thể giải quyết được bất cứ một sự gì được như ý muốn. Trăng còn chìm trong nước, những mơ màng. Hãy nên chỉnh đốn lại tâm mình. Nhiều lo lắng nhưng tình thế chưa được thuận tiện, mọi người còn toan tính cho riêng mình bảo sao không lẩn quẩn, như  cuồn chỉ rối. Khác nào:

Đời Chiến Quốc, (Đức Khổng Tử) Ngài đến trong buổi ly loạn, thiên hạ đương chiến đấu với nhau, giành phương sống của mình, lấn quyền thế trong lục quốc phân tranh, không ai nhường ai, tranh sống với nhau một cách kịch liệt, Ngài mới đến. Ấy vậy Ngài đến không phải tình cờ, nếu chúng ta tưởng tình cờ thì Đấng cầm cân Thiêng liêng nơi cõi Hư linh Hằng sống chẳng có hay sao? Bằng cớ hiển nhiên là Chúa Jésus Christ cũng đến lập Đạo của Đức Chí-Tôn như  Ngài  vậy”.
&
                        QUẺ - 141:
Ám trung phòng tích lịch, sai lự hồn vô thực.
Chuyển nhãn hắc vân thu, ưng xuất phù tang nhựt.
。猜 實。
收。擁 日。

                                   Dịch nghĩa: 
Ảm đạm nên phòng sấm sét vang
Đoán nhầm sự thực hẳn xa đàng
Phút chốc mây đen dần tiêu tán
Trời hồng lố dạng sắc phong quang.

Chú giải: Trước xấu sau tốt ấy là điềm tiền hung hậu kiết. Người sống trong thế giới nhị nguyên này cứ lẩn quẩn, tâm không yên, nhiều nghi ngại,lắm lo toan, bối rối.Ai gỡ?

Quẻ này hẳn giống như thời mà nhân loại “Trong buổi loạn ly, buổi mà La-mã làm bá chủ, các sắc dân bị chinh phục quật cường, chiến đấu để giải ách nô lệ của mình, buổi ấy cũng là Chiến quốc vậy. Hai Người: một là Đức Phật Thích Ca; hai là Đức Chúa Jésus đến, không phải tình cờ mà đến đâu. Cũng một thuyết với nhau, đem Đạo lý cứu vãn nhân loại, mỗi phen nhân loại chịu thống khổ về tâm não dường nào thì có Đấng Từ bi độ  tận, đưa tay ra cứu vớt họ luôn luôn đặng mà cứu khổ nhân loại, mãi mãi không bao giờ sơ sót hết, chúng ta quan sát tận tường thời buổi nào các vị Giáo-chủ đến giáo Đạo đều có lý hết.”

&
            QUẺ - 142:
Lợi tại trung bang xuất chiến chinh, nhứt phiên hộ xú tại vương đình, phụng hàm đan chiếu qui dương bạn, đắc hưởng giai danh tứ hải vinh.
征。 庭。
畔。 榮。

Dịch nghĩa: 
Lợi cầu trong nước chiến chinh,
Một phen gặp lúc triều đình không may
Phượng đang qui phục ngọc đài
Tuổi tên bốn biển truyền ngay danh hiền.

Chú giải: Câu nước loạn không vào, nước nguy không đến “Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư” vẫn đúng muôn đời. Nhưng đối với bậc nhân tài mà kẻ trên đương trọng dụng, biết người biết mình  trăm trận trăm thắng.

Có khác nào câu chuyện thời Vua Quang-Vũ muốn có được bậc kỳ-tài ở bên cạnh vua để bàn việc nước, người rất nễ phục vị quan thanh liêm như Tống-Hoằng.

Hán-Quang-Vũ có người chị là Hồ-Dương Công chúa đã goá chồng và đem lòng thương-yêu Tống-Hoằng, nhưng Tống-Hoằng một mực từ-chối vì ông đã có vợ nhà rồi. Vợ của Tống-Hoằng bị mù loà, sau giờ làm việc ở cửa quan về chính tay Tống-Hoằng đút cơm cho vợ: Dù vậy  mà Tống-Hoằng vẫn một lòng chung-thủy.Truyện Nữ trung Tùng phận, Bà Đoàn rất khen ngợi  nghĩa-cử ấy:
Tống-Hoằng chí trượng-phu không đổi,
Giữ nhơn-luân sợ lỗi Đạo hằng.
Từ-Duyên công-chúa giao thân,
Đút cơm vợ quáng ân-cần dưỡng nuôi”
                                                                       (Câu 569- 572)
&
                        QUẺ - 143:
Kham thán ngoại biên ưu, cánh ta môn lý náo,
Ý tự cánh khiên tiền, tâm thần diệc điên đảo.
。更
。心 倒。

                        Dịch nghĩa:
Vẻ ngoài lộ nét u buồn,
Bên trong nhiều việc bôn chôn não lòng.
Tâm tư bối rối không thông,
Đảo điên ý chí, cõi lòng ngại lo.

Chú giải: Tâm không yên định thì khó tính chuyện gì cho thông. Hãy bình tĩnh mà suy nghĩ kỹ càng hơn, đừng vội. Dục tốc bất đạt mà ! Tất cả phải thành thật thì chuyện thật sẽ đến với mình. Đừng dối đừng gian, phải thuận lòng trời . 

Truyện tích Tống-Hoằng từ chối sự hợp duyên với Công chúa, Tống-Hoằng có nói rằng: “Tao-khang chi thê bất khả hạ đường, Bần tiện chi giao mạc khả vong”. Do vậy mà ông giữ được lòng đạo-đức “giàu không đổi bạn, sang không đổi vợ” .Trong cách dạy con trai “Vẹn Đạo nhân luân”  Bà Đoàn tiếp:
Biết tình-nghĩa, biết mùi ân-ái,
Chia đau thương cột dải đồng tâm,
Kìa ai đã gọi ân thâm
Hơn niềm chồng vợ âm-thầm giúp nhau.
Đừng đến lúc ốm đau chẳng ngó,
Hương sắc xinh lại bỏ hoa tàn
Những là anh én nhộn-nhàng,
Buôn duyên bán nợ như hàng chợ đông.
                                               (Nữ trung tùng phận. Câu 573-580)
&
            QUẺ - 144:
Nhứt trùng thuỷ nhứt trùng san, phong ba đạo thản nhiên, hồ trung biệt hữu thiên.
。風 然。
天。

                                   Dịch nghĩa:
Núi sông lắm nỗi trập trùng
Đường dài thân bước mặc lòng sóng dâng.
Trong hồ biết có thiên công,
Lòng trời soi thấu tấm lòng người chân.

Chú giải: Đường núi trập trùng như việc nhiều bề bộn, nhưng ý chí con người không nại khó. Vì mang sẵn một niềm tin trọn vẹn, chắc chắn tấm chân thành này cũng được quyền thiêng liêng trợ giúp. Nhất định thành công !

Làm người chung qui cũng một kiếp sanh  đến với thế-giới nghiệt-oan này rồi “thân cát bụi cũng trở về cát bụi” mà thôi ! Ý tứ quẻ này được diễn  trong bài thơ sau:
Đường về chớ nệ bước non sông,
Lần đến tìm nơi cảnh bá tòng.
Bụng trống thảnh-thơi con hạc nội,
Lúa đầy túng thiếu phận gà lồng.
Cô phần ngoảnh lại đà bao tuổi.
Sô diện xem qua khỏi mấy dòng.
Một điểm quanh co lên một nấc.
Lần-lừa ngày tháng ắt qua đông.
&
            QUẺ - 145:
Ngộ hiểm bất tu ưu, phong ba hà túc kỵ, nhược ngộ thảo đầu nhân, chỉ xích thanh vân lộ.
。風
人。咫 路。

                        Dịch nghĩa:  
Khó khăn dù gặp không phiền,
Gió dồn sóng bũa chẳng kiêng kỵ gì.
May ra gặp được cố tri,
Đường mây thẳng tới tức thì vang danh.

Chú giải:  Đã làm người phải có niềm tin trong cuộc sống, Tự nguyện với lòng rằng: khó khăn không nản, nguy hiểm không sờn thắng không kiêu,bại không than, nhất định vậy.

Là bậc Thiên-mạng như Đức Hộ-Pháp thật xứng làm thân con hạc nội, Ngài thường ví mình như thế; sau lần Ngài bị lưu-đày sang Hải-đảo Madagascar trở về, Ngài nói chuyện với Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài về tâm-huyết của Ngài: “Các Bạn ôi! chúng ta chỉ có hy-sinh một kiếp sống đặng làm con hạc vô tội, con hạc Hòa-bình, biết đâu Đức Chí Tôn cũng cho hạc của Ngài để thế cho con bồ câu trắng mà thiên hạ gọi là con bồ câu hòa-bình, nhưng không hòa bình gì hết. Thân làm con Hạc thiêng-liêng ấy buộc ta phải chở Đạo đi  toàn  khắp mặt địa-cầu này. Nếu một chủng-tộc nào, một sắc dân nào ở nơi mặt địa-cầu này chưa biết Đạo thì  cái lỗi do nơi ta đó vậy.”
&
            QUẺ - 146:
Thuyền trạo trung lưu cấp, hoa khai xuân nhân phùng, Sự ninh tâm bất tĩnh, nặc khởi hứa đa nghi.
。花
靜。 疑。

            Dịch nghĩa: 
Giữa dòng nước gấp thuyền qua,
Hoa xuân hé nhuỵ người đà hội ngay.
Việc yên lòng những ai hoài,
Mọi đường toan tính những hay ngại ngùng.

Chú giải: Nếu đã nói đường đời thì không bao giờ êm như nhung lụa trải, nhưng nếu đường nhung lụa thì không phải đường đời. Nên nhớ chiến thắng không gian khổ thành công không vinh quang. Đã là đời thì bước chân người chiến sĩ phải trải lên sự dối, sự dời, sự đổi của tâm lý người đời. Một đấng Giáo chủ cầm đầu chơn mạng của bao triệu sinh linh mà Người còn dõng dạc nói rằng:
 “Ấy vậy, cái phận-sự của ta tuy khổ-não cực-nhọc mà Bần-Đạo vẫn chưa thỏa-mãn về tinh-thần, sự cứu khổ an ủi thiên-hạ đương nhiên bây giờ các Bạn đã thấy: nhơn loại đau khổ một cách quá-quắt không thể tả đặng.
-   Đau khổ về xác thân,
-   Đau khổ về tinh-thần.

Các Bạn đã nhớ Đức Chí-Tôn giao cơ cứu-khổ ấy thì cần phải tìm phương giải-khổ cho nhơn-loại. Thoảng như buổi ban sơ Bần-Đạo không có lãnh trách-vụ đặc biệt của Đạo thì các Bạn chắc cũng không để tâm cho lắm.

Đến hôm nay dầu cho thân già này không còn năng-lực hoạt-động chịu cả khổ cực như trước nhưng cũng cố gắng, thì Bần-Đạo thấy hiển-nhiên rằng: Trong Cửu nhị ức nguyên-nhân họ không phải ở trong nước Việt-Nam mà thôi, ở khắp nơi trong các chủng-tộc đều có.”

&
                                   QUẺ - 147:
Khả súc khả trừ, phiến ngọc thốn châu,
Đình đình ổn ổn, tiền ngộ lương đồ.
。片
檃。 圖。

                                   Dịch nghĩa:
Khá gìn từng mảnh ngọc châu
Trữ tàng kho báu về sau còn dùng
Sắp bày mọi việc thung dung
Sự tình trước mặt ấy cùng vẻ vang.

Chú giải: Một người biết quí ngọc ngà châu báu thì phải biết quí trọng mạng sống con người mà Đức Thượng đế đã nắn đúc nên hình. Ngài tạo ra con người, Ngài còn đem một nến Đạo chơn chánh để mớm vào lòng, hầu dẫn độ tất cả về nơi cao thượng hơn  chốn trần ai khốn đốn này.

“Tội nghiệp thay! Bóng Đạo vừa đi tới đâu, mặc dầu Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn chưa có làm phận-sự  mà cả tinh-thần lẫn hình-thể của họ đều sáng-suốt chói-lọi vậy. Họ trông bóng cờ cứu khổ của Đạo lắm ! Cố-gắng thêm các Bạn ! Vì trong Đạo-binh thiêng-liêng hộ-giá Đức Chí-Tôn từ khai thiên lập Đạo đến giờ, do theo Thánh giáo Đức Chí-Tôn có nói: Bần-Đạo là Ngự-Mã Thiên Quân, phẩm-tước, quyền-hành cao-trọng ấy phải thế nào ? (để dấu hỏi). Ta có thể đền đáp, có thể thay thế hình ảnh Đức Chí-Tôn đặng làm phận sự của Ngài hay không ? Hay một ngày kia trở về thiêng-liêng phải thẹn khi ngó mặt Ngài ?”

&
                                   QUẺ - 148:
Tiểu tử tảo xu đình, thanh vân cửu vấn trình,
Quí nhân lai trợ lực, Hoa tạ tử hoàn thành
。青
。花 成。

                                   Dịch nghĩa:
Con hiền thấu hiểu lời hay
Hai thân cách vắng lâu ngày hỏi han,
Quý nhân giúp sức trợ ân,
Hoa tươi rả cánh kết thành quả ngon.

Chú giải: làm người đứng trong trời đất phải biết trách nhậm của mình đối với gia đình đã là nặng, nhưng còn xã hội, tổ quốc, Tôn giáo nữa, không dễ dàng đâu. Hãy nghe qua lời của Đức Thương Phẩm giáng: 15-7-Giáp Tuất (dl: 24-8-1934): “Trách nhậm là trách nhậm, cá nhơn là thứ chi, phải biết nguồn cội là gốc, thì mới tránh khỏi thường tình đặng. Các Ðấng thiêng liêng đã thường nói: Lợi danh thường tình là nhỏ, danh giá Ðạo là trọng. Ðãi người một bực, bất kể tên gì, chịu thiệt thòi mà làm phận sự. Trễ nải của bước Ðạo thế nầy thì Thầy có khổ tâm khai Ðạo cho chúng ta độ rỗi sanh linh đâu. Sự trễ nải là sự phàm tâm của ta, Anh cũng cần nên đoạn khổ cho người, chớ nên tạo khổ cho ai. Ðường đời là bến sông mê, thoát mê thoát khổ được, ai lại còn mang đeo thằng phược vào mình mà để cho loạn tâm mệt trí về nơi đó, chẳng uổng kiếp sanh lắm ru ?”.
&
                        QUẺ - 149:
Nhất tâm lưỡng sự, nhất sự lưỡng tâm,
Tân hoa khô thụ, chân đãi giao xuân.
。一  

                        Dịch nghĩa: 
Một lòng hai việc khó toan,
Hai lòng một việc hãy còn nghĩ suy.
Cây khô hoa nở còn nghi
Sang xuân mới phát, tiết thì đổi thay.

Chú giải: Khi một người đã thấu rõ trách nhiệm làm người: Làm người khó! Làm người khó! “Vi nhơn nan, vi nhơn nan” mà! Nhưng người là đứng phẩm tối linh thì phải thực hiện cho được chữ “tối linh” ấy chứ. Nào phải cứ ngồi mát ăn bát vàng sao? Chúng ta có biết rằng ta đang vui trên sự hy sinh gian khổ của bao người khác không? Ta phải làm cho bằng được như cây khô cũng phải mọc chồi vậy. Phải thấy rõ sau thời gian năm năm hai tháng chịu lưu đày nơi Hải-đảo Madagascar trở về, Bát Nương Diêu Trì Cung đến mừng Đức-Hộ-Pháp bằng mấy vần thơ, để tỏ niềm hoài-cảm với “thân hạc nội” rằng:
Đào-nguyên lại trổ trái hai lần.
Ai ngỡ Việt-Thường đã thấy lân.
Cung Đẩu-Vít xa gươm Xích-Quỉ,
Thiềm-cung  mở rộng cửa Hà-Ngân.
Xuân Thu định vững ngôi lương tể,
Phất-chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi khí Vĩnh-sanh lau xã-tắc
Mở đường quốc thể định phong vân
                                       (Bát-Nương Diêu-Trì-Cung)

            Đức Hộ-Pháp đáp họa thơ của Bát-Nương, như sau:
Chông gai đường Đạo mãn dò lần,
Từ bước ta-bà trở cố lân.
Biển Thái  vừa  nghe hơi súng nổ
Gành Nam kế lóng tiếng chuông ngân.
Buồm thuyền tế-độ xao mơ-mộng
Gió hạc Chiêu-Tiên giục đảnh Thần,
Cam-lộ kìa ai dành để sẵn.
Cầm đương rửa sạch nét phù-vân
(Phạm Hộ-Pháp)
&
                        QUẺ - 150:
Đại sự khủng an đồ, tàn hoa bất tái tiên.
大事 。殘 鮮。

                        Dịch nghĩa: 
Việc to khó nỗi mưu đồ,
Thuyền cao sóng cả ưu lo sự thường
Hoa tàn đâu dễ ngát hương,
Lá vàng trước gió dễ thường bền lâu.

Chú giải: Việc lớn khó mong một mình toan tính, nhưng khi trời đã tính toan cho rồi thì dù việc lớn đến đâu cũng thành, cũng như hoa khô không còn hương sắc nhưng sắc hương đã tự có trong hoa khô đó. Hãy vững tin, vì người đến thế này không ngoài ba nhiệm vụ lớn: 1-là trả quả kiếp đã vay từ thử, không chạy chối đâu được, 2- là đến nơi này để học hỏi và tiến hóa cao hơn. 3- là làm thiên mạng. Tự nghĩ xem mình ở vào hạng nào rán mà làm tròn trách nhiệm đó để không uổng một kiếp sanh làm người. Chỉ với công chín tháng cưu mang của Mẹ trả suốt đời cũng không rồi, đừng nói chi nợ của xã hội, quốc gia, trời đất…

Đứng về mặt tôn giáo, thì Đức Hộ-Pháp cho biết sự trọng-yếu của Hiệp Thiên Đài: nay “Đức Chí-Tôn mở Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ gọi là cơ-quan tận độ chúng-sanh, Đức Chí-Tôn sai Hộ Pháp giáng thế, tại sao Ngài không dùng Cơ-bút để truyền Bí-pháp cho con cái của Ngài, Ngài chỉ giáng bút truyền cho Hộ-Pháp mà thôi ? Vì cớ cho nên Bạn của Bần-Đạo nơi Hiệp-Thiên-Đài có người thắc-mắc về vụ đó, không có chi lạ; mở Cơ-quan tận-độ chúng-sanh tức nhiên là lập một khoa thi sang Tam chuyển tái-phục Thiêng-liêng-vị nơi cảnh vô hình, mỗi chuyển tức nhiên mỗi khoa-mục của các đẳng Chơn-hồn cần phải thi đặng đoạt vị:  thăng hay đoạ .  Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn gọi là trường thi công quả là vậy. Đức Chí Tôn cho Hộ-Pháp và Thập-Nhị Thời Quân đến cốt yếu mở cửa Bí-pháp ấy cho vạn-linh đoạt vị.”

&
                        QUẺ - 151:
Mạc đạo sự vô ngộ, kỳ trung tấn thối đa,
quế luân viên hựu khuyết,quang thái cánh khai ma
。其 退
缺。光 磨。

                        Dịch nghĩa:  
Việc vẫn sai lầm chớ tự an,
Trở xoay lắm nỗi khá lo toan
Trăng tròn rồi khuyết theo ngày tháng,
Gương sáng hằng lau vẻ vẹn toàn.

Chú giải:  Đường đời muôn lối, nẻo đến không hai. Người phải biết gì ? Thầy dạy: “Cơ lập Ðạo là nhiệm mầu vô giá, biết Ðạo, biết ta, biết người, biết thế, biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối. Có đâu đường đời còn lắm giành xé, hại lẫn nhau, mong chi đặng tầm Tiên noi Phật”.

Cả thảy đều hiểu rằng Đức Chí-Tôn buổi mới sơ khai  chưa tạo thiên lập địa.  Ngài muốn cho vạn-linh đặng hiệp cùng nhứt-linh của quyền-năng sở-hữu của quyền-hạn thần linh. Ngài vừa khởi trong mình quyết định thi-hành điều ấy thì Ngài nắm cái Pháp. Trước Ngài chỉ là Pháp, vì cớ cho nên ta để Phật  tức-nhiên là Ngài, kế thứ nhì là Pháp. Hễ nắm Pháp rồi Ngài phán-đoán vạn-vật thành hình; Ngài muốn vạn-vật thành hình tức nhiên Tăng, cả vạn-vật đều đứng trong Tăng, âý vậy Pháp là chủ vạn-linh.”                                                               
&
                                   QUẺ - 152:
Mạc nan sự trì lưu, hưu ngôn bất đáo đầu.
Trường can chung nhân thủ,
Nhất điếu thượng kim câu.
頭。
竿 。一 鉤。

                                   Dịch nghĩa:
Dù việc khó khăn chớ nản lòng,
Ngại gì  không nói lúc thành công
Cần dài nắm chặt trong tay đó,
Nhắp mồi được cá thoả lòng mong.

Chú giải:  Định mệnh của con cá dưới lưỡi câu trong tay người cầm, nhưng người cầm cần câu chờ đợi mồi ngon để thỏa mãn khẩu vị, vì thế mà đời vẫn lẩn quẩn “Nước trong leo lẻo cá đớp cá.” Bên cạnh đó thì “trời nắng chan chan người trói người”. Ấy là hai câu đối đáp của thần đồng Lê Quí Đôn khi đi ngang qua dinh quận, thấy quan phạt người dân đứng giữa trời nắng, ông tỏ vẻ đau đớn, xót xa. Hành động này tố cáo sự tàn ác của quan đó. Ông quan bắt nạt chú bé này tiếp: Ê! Mày là học trò hãy đối lại câu này, nếu không ta sẽ phạt, ông mới ra câu đối trên: nước trong leo lẻo..Còn câu dưới thì ông đối lại thật tài tình. Ấy là vô Đạo

Nay Đạo mở có đủ Tân Luật và Pháp-Chánh-truyền tức là truyền chánh pháp để định phẩm giá của con  người trong cửa Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ. Luật ấy xác nhận rằng: “Chịu dưới quyền thiêng-liêng của Tạo-hóa, sanh sanh tử tử, luật lệ ấy vốn nơi Trời, số số căn căn Thiên điều đã định; người chỉ đặng có một quyền tự lập, là mình làm chủ lấy mình, luân luân chuyển chuyển, giồi cho đẹp đẽ Thánh-Đức căn sinh, đặng lên tột phẩm-vị thiêng liêng mới nhập  vào cửa vô-vi đồng thể cùng Trời đất”.
&
                                   QUẺ - 153:
Sự tiền ưng hữu khủng, vị vi khủng tiên chí,
Dục vãng thả trì trì, hoàn tu tái thế lực.
。未
。還

                                   Dịch nghĩa:
Trước việc nên lo nghĩ
Trượt ngã cũng có khi
Muốn đi còn sợ muộn
Nhờ thế lực phòng nghi.

Chú giải: Sợ tức là chưa tự chủ, hễ chưa tự chủ thì nói gì đến thành công, thất bại ? Hễ nghi thì đừng dùng mà khi dùng thì đừng nghi. Đó là một sự cứng rắn. Dù khó hay dễ không là chuyện đáng nói, duy chỉ có một điều là dứt khoác. Nếu ai bảo anh rằng: Tới cũng chết, lui cũng chết, bước ngang qua cũng chết, mà bước lệch cũng chết. Anh hãy an nhiên mà đưa tư tưởng mình vượt lên cao vậy.        

Nay Đạo mở ra dạy cho ta quyền tự chủ: “Quyền tự chủ ấy, vẫn đã định trước đặng làm cho cả nhơn-sanh vui theo Cơ tấn-hóa  thì dầu cho Thầy cũng không cải qua đặng; vì hễ sửa cải thì là mất lẽ công bình Thiêng-liêng đã định, làm chinh-nghiêng cơ thưởng phạt. Hễ có công thưởng tội trừng thì phải để rộng quyền cho người tự chủ. Thiên-cơ đã lập có Điạ-Ngục với Thiên Đàng, ấy  cảnh thăng, cảnh đọa .
 “Địa-ngục dành để cho kẻ bạo tàn,   
 “Thiên đàng cho người đạo-đức, thì cân Công-bình Thiêng-liêng đã sẵn. Ấy vậy chẳng buộc ai  vào Địa-ngục mà cũng chẳng nâng đỡ ai đến Thiên-đàng. Đôi đường hiển-hiện, tự quyền người lựa chọn, siêu đọa tại nơi mình, các Đấng thiêng-liêng duy có thương mà chỉ dẫn”
 (Pháp-chánh-truyền, trang 53)
&
                                   QUẺ - 154:
Túc bất an dữ bất an, lưỡng lưỡng sự tương đắc,
Ưu lai khước hựu hoan.
足不 安。 。憂

                                   Dịch nghĩa:
Việc chưa đầy đủ thiếu bình an
Hai việc song hành được khả quan
Lo lắng vì lòng chưa vững tín
Thời trời đưa đến việc hân hoan.

Chú giải: quẻ này khởi đầu bằng chữ “thiếu bình an” thế nào là an ? Trong chữ AN thì kết hợp bởi trên là bộ miên là mái nhà, dưới là chữ Nữ. Như vậy thì người nữ đóng một vai trò quan trọng trong buổi nhiễu nhương này.     

Vậy vấn đề “Nam nữ bình quyền” trở thành định mệnh. Xem trong Trời đất từ xưa đến nay chưa từng có một người nào được ra khỏi cái vòng định mệnh ấy. Trăm năm là  mãn cuộc, dầu là kẻ ấy tài ba cái thế hay là hạng cùng đinh trong xã hội, rồi tất thảy cũng chung chịu trong luật định mà thôi. Vậy tại sao mình không noi gương của Thánh Hiền đã bao ngàn đời còn danh lưu muôn thuở ? Nhìn xem các Đấng ấy có tham danh không, mà vẫn có danh ? Còn thế sự đi tìm kiếm công-danh mà rốt cuộc cũng vẫn là mai một. Vì sao vậy ?

&
                        QUẺ 155:
Đỉnh chiết túc, xa thoát bức,
Hữu qúi nhân, trùng chỉnh tục.
。車 。有

                                   Dịch nghĩa: 
Việc đầu như đỉnh gãy chân
Xe rời khỏi trục khá ngần ngại lo
Quý nhân phụ giúp công to.
Sửa sang đỉnh vạc, xe cho an toàn.

Chú giải: Đỉnh là vật dùng để nấu thức trong gia đình gìau có, sang trọng. Sau khi nấu xong thì dùng chuông đánh vang lên làm hiệu để mời gọi đến ăn. Thế nên danh từ “Đỉnh chung” khởi từ đó. Nay đỉnh gãy chân còn dùng vào đâu ? Giờ này có người đến giúp sửa sang lại thì an toàn thôi. Nhớ lại Việt Nam thời kỳ trước khi Pháp chưa đô hộ thì Việt Nam chịu sự đô hộ của Tàu, cũng lắm điều cay đắng cả ngàn năm. Rồi khi Pháp sang đô hộ Việt Nam cũng vì tham vọng trên 80 năm. Nay, Chí Tôn an ủi cho dân tộc Việt Nam qua hai lần đau khổ, chính Ngài ký với dân tộc Việt Nam bản Đệ Tam Thiên nhơn Hòa ước. Nhìn vào Tam Thánh cũng đủ thấy rằng Đấng Thượng Đế đã trả lại một sự công bằng tuyệt đối. Ngài Nguyễn Bỉnh Khiêm đại diện cho một dân tộc bị trị, thế mà giờ này là Sư phó của Bạch Vân Động tức là Thầy của hai vị Thánh: Pháp và Tàu. Chúng ta có hài lòng không? Làm Thầy về  tinh thần cao quí lắm! Ấy là lúc Chí Tôn đến làm nhiệm vụ: “Sửa sang đỉnh vạc, xe cho an toàn”. Đây là bài Cơ của một người Pháp hầu đàn:
“Thầy dạy: Các con phần nhiều biết tiếng Lang-Sa (Francais). Thầy dùng nói cho các con dễ hiểu Đạo-lý.
- Phẩm-tước là gì ? Cuả cải danh vọng là gì ?  
Phẩm-tước là sự tổng hợp các chức-tước đã bày ra để quyến-rũ người hoặc ít hoặc nhiều. Những chức-tước âý do người đời tạo ra phong thưởng kẻ khác.
- Giá-trị của các chức tước ấy ra sao ?
- Giá-trị những chức tước ấy tùy theo mà tạo nó ra.
Việc chi do người đều phàm cả nó không bền, thường thường bị hư hỏng và tiêu tan ngay sau khi người đã được nó tặng bị cướp mất sự sống. Các con hãy tìm tước phẩm nơi cõi thiêng-liêng, tước phẩm ấy mới là vĩnh-viễn. Còn tài-sản là tổng-quát các vật qúi gía của con người đã thu nhặt trên thế-gian này.
&
                                   QUẺ - 156:
Dự mưu ngôn ngữ, ba đào dương phất,
Sự cửu vô thương, thời thời bất lợi.
phất
。時

                                   Dịch  nghĩa: 
Lời nói mưu toan chuẩn bị rồi
Sóng trào, gió dậy, nước như sôi
Việc cầu chỉ tổn thương vô ích,
Không lợi ngày lâu, kíp vãn hồi.

Chú giải: Người ta tìm đến thầy bói, hoặc cầu thần linh để giải quyết điều gì ? Không ngoài danh, lợi, tình. Nhưng người cầu luôn muốn làm sao tất cả đều đứng trên thiên hạ thì mới an lòng. Nhưng liệu có ai giải quyết cho mình được không? –Không bao giờ. Hãy nghe lời Đức Thượng Đế dạy:
“Danh-vọng thường hay chống lại với đức hạnh. Nó rất ngắn-ngủi và thường thành tựu  nhờ nơi sự gian trá. Danh quyền nơi trời là bền chắc nhứt. Và danh quyền ấy mới chịu đựng nỗi bao sự thử-thách.
 Trung bạch: Mấy con phải làm sao mà tìm đặng phẩm-tước của cải và danh-vọng của Trời?)
Thầy trả lời: “TU ” (TN/136)

                        Thi văn dạy Đạo:
Lợi danh đã đoạ biết bao người .
Nhiều kẻ nay còn ý dễ ngươi.
Hễ muốn lợi danh mang thất đức.
Thờ chung danh lợi hết thờ Trời

&
            QUẺ - 157:
Quí khách tự tương thân, công danh thoá thủ thành, hoạch kim tu tích đức, ngưỡng vọng thái dương thăng.
。功
。仰 升。

            Dịch nghĩa:  
Khách quí tự nhiên đến kết thân,
Công danh chớp mắt cũng hoàn thành
Chứa vàng lẫn đức nên ghi nhớ,
Ngửa mặt trông trời, tước lộc tăng.

Chú giải: Cái hạnh phúc của người đời là đặng phú quí vinh sang, hưởng đủ: Phúc, Lộc, Thọ.Nhưng khi đã hưởng trọn vẹn rồi nên nhớ lời dạy Đạo của Đức Chí-Tôn. Vì khi Đức Ngài đến mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ giáng cho không biết bao nhiêu thi văn dạy Đạo để nhắc-nhở rằng:
Lánh đường trần tục đến non Tiên,
Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.
Đã chẳng phải duyên không phải nợ.
Can chi con buộc tấm tình riêng
&
            QUẺ - 158:
Bình địa khởi ba lan, sở cầu sự viết nan,
Tiếu đàm chung hữu vọng, đồng tâm sự giác hoan.
。所
妄。同 歡。

                                   Dịch nghĩa:
Sóng gió khởi lên giữa đất bằng
Mưu cầu việc lớn khá gian nan
Nói cười vui vẻ như mây thoảng,
Tâm ý may ra thuận mọi đàng.

Chú giải:  Đất bằng sóng dậy là điềm vui ít khổ nhiều.       
- Hỏi tại sao nhơn-loại buổi này khổ nhiều, vui ít ?

Bởi: “Màn Trời che lấp dấu trần, đạo Thánh dắt dìu bước tục, cuối Hạ-nguơn biết bao đời thay đổi. Trái cầu sáu mươi tám (68) này bỗng nhiên có một lằn yến sáng Thiêng-liêng để thức tỉnh khách phàm, chiếu dẫn người hữu-căn hầu cứu khỏi họa Thiên-điều sẽ vì hung bạo của sanh linh mà diệt tận. Chới-với biết bao người giữa lượn sóng trầm luân, mà con đường xô đẩy khách trần vào chốn đắm-chìm hằng vẽ cảnh cùng sầu cho nhân loại. Đường tội phước chẳng biết cân, gương dữ lành không để ý. Triền cao vực thẵm, rừng trước, non xưa, cảnh vẫn đợi kẻ tìm về, nhưng giọng ai-oán của khách lạc đường chẳng thế vạch Trời xanh soi thấu. Nào nhân xưa, nào đức trước, nào sách Thánh, nào lời Hiền, trải qua chưa trăm năm mà cuộc cờ đời đã rửa phai hạnh Đạo. Thế thì nhơn-loại nếu chẳng có mối Huyền-vi để nhắc chừng tâm tánh, sẽ vì mồi danh lợi, miếng đỉnh chung mà cắn xé giựt giành, giết hại lẫn nhau cho đến buổi cùng đường, rồi vì hung bạo ấy mà cảnh dinh-hoàn này chẳng còn sót dấu chi của nhân-vật cả.
&
            QUẺ - 159:
Cuồng phong xuy khởi hắc vân phi,
Nguyệt tại thiên tâm già bất đắc,
Nhàn thời vô sự tạm tương quan,
Đáo để y nhiên vô khắc bác.
。月 不得
。到 刻剝。

                        Dịch nghĩa:
Gió cuồng thổi dạt đám mây mù
Trăng giữa trời cao há khỏi lu
Lúc nhàn suy nghĩ tìm phương giúp.
Sau rốt rồi thông chẳng khắc thù.

Chú giải: cảnh nhàn lạc đã đến rồi đó. Việc cầu hỏi ắt hân hoan. Vui đi! Vui để lo, Vui để đem hết năng lực của mình ra phụng sự. Ông Trời vì phụng sự cho nhân loại mới làm Trời. Cha mẹ vì phụng sự con cái mới làm cha mẹ. Chứ thực sự có hưởng lợi lộc gì  riêng đâu. Nhưng cái vui tinh thần khó kiếm thật. Đây lời Đức Thượng Đế dạy:    

“Chúng sanh ráng biết lấy. Thầy hằng muốn cho các con hiệp chung nhau mở đường Chánh-giáo, phải biết tương-thân, tương-ái chia vui sớt nhọc cho nhau mà dìu dắt chúng sanh, Nếu vì chút phàm tâm mà chia đường phân nẻo, ghét nghịch lẫn nhau, các con sẽ treo gương bất-chánh cho kẻ sau, lại nền Đạo cũng vì đó mà khó mau thành đặng.  Các con khá để ý đến, ấy là các con hiến cho.
Thầy một sự thành-kính trọng hậu đó”
&
                                   Quẻ - 160:
Nhàn ỷ lâu, hứa đa sầu, đạm nhiên tấn bộ,
sự thuỷ vô ưu.
樓。 。澹 。事

                                   Dịch nghĩa:
Tựa lầu lòng những xuyến xao,
Nghĩ bao nhiêu nỗi quyện bao tình sầu
Đột nhiên tiến đạt lên cao
Niềm lo tiêu tán thay vào hân hoan.

Chú giải: Quẻ này ứng điềm trước có điều lo nghĩ, nhưng sau lại được hài hòa. Nhưng cái vui của đời không lâu dài, vì dù cho gia đình hạnh phúc ấm êm, nhưng chung quanh mình vẫn còn nhiều đau khổ. Vui ấy còn nhiều nỗi riêng không gọi là ích kỷ thì gọi bằng gì? Hãy tìm cái vui chung.

Thầy vẫn hằng than:“Ôi! Thầy vì mấy chục ức nguyên-nhân, không nỡ để cho ngôi phẩm tan-tành, chớ lấy luật Thiên-Thơ thì không một ai dự vào Kim bảng.

Tu-hành vẫn trái với thế tục, mà trái với thế tục mới đặng gần ánh Thiêng-liêng. Thầy thấy nhiều, tu cũng muốn tu mà thế tục cũng không chừa bỏ. Thế tục là nét dìu-dắt cho mất tánh Thiêng-liêng, phải lấy nghị-lực can tâm mà kềm chế, thì cái lối diệt vong mới chẳng làm uổng công phu hành-đạo cho” (TNII/ 68)
&
            QUẺ - 161:
Nhứt điểm trước dương xuân, Khô chi đoá đoá tân,
Chí chuyên phương ngộ hợp, thiết kỵ nhị tam tâm.
。枯 。志 合。
心。

            Dịch nghĩa: 
Ánh xuân chiếu khắp hồng trần
Muôn hoa phô sắc nẩy mầm chồi khô
Chí chuyên hội ngộ đâu ngờ,
Nên phòng tâm ý đổi dời nhiều phen.

Chú giải: Cái vui của những tâm hồn lớn là vui cái vui của người lẫn trong niềm vui của dân tộc, của tổ quốc. Vì giang san này hôm nay chúng ta đứng nơi này mỗi tấc đất là mỗi tấc xương trắng máu đào hòa lẫn trong đó. Khi một người nhắm mắt phải bao nhiêu người mở mắt. Mở mắt để thấy tình đời lạnh nhạt, đau đớn, ê chề, khổ đau.         
-“Nay là ngày kỹ-niệm nước Việt-Nam, nòi giống Lạc-Hồng được hữu-phước nhờ Đạo Trời khai mở, gỡ ách nạn cho nhân-loại và từ từ gỉai được ách nô-lệ cho dân-tộc, dòng-dõi Tổ-phụ sẽ được phục nghiệp, dân Việt-Thường sẽ xuất hiện nhân-tài, phá tan xiềng xích, chẳng còn bị lệ thuộc nữa.. Qua một thời gian dài dân Tàu có người giỏi địa lý biết vận mạng Việt Nam rồi sẽ phát Vương phát tướng, nên chúng cho người sang ếm cho tắt nghẽn đi. Nhưng Việt Nam là một quốc gia thiên định chỉ chịu nạn thời gian rồi Thượng Đế cũng cho các Đấng đến mách bảo và gỡ xong các ếm, giải tỏa hết những vết tích oan cừu đó

Sau khi lấy ếm xong, Đức Hộ-Pháp liền ra lịnh cho đào một con kinh nhỏ, bắt đầu từ ngọn Tràm sập băng ngang qua chót mũi “Long-Tuyền-Kiếm” cho bứt, hầu trừ được sự sát hại của pháp ếm “Long-tuyền-kiếm”.Xem thế, nếu không phải là quyền-năng Thiêng liêng gỡ ách nạn cho dân-tộc Việt-Nam thì dưới con mắt phàm có ai làm được ?

&
                                   QUẺ - 162:
Đạo lộ điều diêu, môn đình bế tắc,
Vụ ủng khứ hề, vân khai kiến nhật.
。門
雲開

                                   Dịch nghĩa:
Xa xôi đường sá cách ngăn
Cửa nhà đóng kín khó toan điều gì
Sương mù che khuất lối đi,
Trời trong rõ mặt tức thì mây tan.

Chú giải: Điềm tốt, quẻ bói được sự lành. Cầu tài lợi, cầu duyên đều tốt.Nhưng trước phải cẩn ngôn, cẩn hạnh. Đừng vội, đừng khinh. Có chút việc lo cũng vượt qua được.

Quẻ này ứng hiệp với sự việc của dân-tộc Việt Nam  cũng tin tưởng rằng Trời cao có Mắt. Và thường nói rằng “Mưu sự tại nhân, thành sự tai Thiên”

Thi văn dạy Đạo:
Mực ngay khó nỗi đoán cây cong,
Biết chút công tu đặng thoát vòng
Thế sự ép oan thêm buộc nghiệt,
Đời kia với Đạo chẳng so đồng.
&
                                   QUẺ - 163:
Ngư thượng điếu, ty luân nhược,
Thu thập nan,  lực tái trước.
。絲 弱。 。力

                                   Dịch nghĩa: 
Cá đã ăn câu thoả ước ao,
Dây, cần mỏng mảnh liệu phương nào!
Thu vào càng khó, lòng thêm ngại
Cố gắng nữa đi góp sức vào!

Chú giải: Cá đã ăn câu là điều đắc chí của người đi câu, Nhưng nhìn lại thì “Dây, cần mỏng mảnh liệu phương nào!”. Chưa chắc đâu đừng vội mừng. Kiểm điểm lại xem.

Hãy nghe “Thầy thường nói với các con: Lập một nước thì dễ mà trị một nước thì khó. Về mặt tinh thần, lập một nền Đạo lại khó mà trị một nền Đạo lại khó nữa. Vì phải hàng phục nhơn tâm thành hay bại là do nơi đó.”

Hẳn nhiên nếu Đạo cao một thước thì ma quái nó mưu đồ cao hơn một trượng. Đạo đã cao hơn một trượng thì ma nó thượng lên đầu người. Do câu “Đạo cao nhứt xích ma cao nhứt trượng. Đạo cao nhứt trượng ma thượng đầu nhân” (một trượng thì tính bằng mười thước ta). Nói chung thì loài yêu ma có tính ranh mãnh lắm! Mà yêu ma là ai? Phải chăng chỉ những tâm-hồn hay tráo trở, họ không tôn-trọng lời hứa, nói qua nói lại, cố làm phản lại cái chơn-lý sống cao-thượng của con người, cốt để giành phần thắng bằng bất cứ giá nào; thế nên một người chân thật, biết tự-trọng không thể sống chung hạng người này được là vậy.

&
                                   QUẺ - 164:
Tương dẫn cánh tương khiên, ân cần hỉ tự nhiên,
Thí vi vô bất lợi,  sầu sự chuyển đoàn viên.
。殷
。愁 園。

                                   Dịch nghĩa:
Thân thiết dìu nhau đến bến bờ
Ân cần vui vẻ chớ làm ngơ
Làm ơn há dám mong điều lợi
Tiêu tán nỗi sầu thoả ước mơ.

Chú giải: Quẻ này ứng điềm lành, có thể đây là bất vụ lợi, nhưng người không vụ lợi thì mình phải cao thượng hơn thì mới bền chắc. Phải biết luật đồng thanh khí chứ!       

Tiền nhân đã biết “Chọn lọc chiên lành cho đáng giá,
 “Phòng sau nối nghiệp Đạo ngàn thu”

Cũng vì lẽ ấy mà các bậc tiền-bối chúng ta không vị nào mà không phải chịu nhiều sự lao tâm tiêu tứ. Phải kể Đức Cao-Thượng-Phẩm là một mẫu người nhân-hậu như thế mà cũng không khỏi đau lòng trước nghịch cảnh và sự phản-khắc Đạo-quyền. Chính Đức Cao-Quỳnh-Cư vâng lịnh Đức-Chí-Tôn xin nghỉ việc làm ở ngoài đời trước nhất, có nghĩa  ông là người trọn “phế đời hành Đạo” ngay sau khi Đạo Cao Đài khai mở tại Từ-Lâm-tự (Gò-kén Tây-ninh) vào ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (1926).
&
                                   QUẺ - 165:
Nghi nghi nghi, nhứt phiên tiếu bãi nhứt phiên bi,
Lạc hồng mãn địa vô nhân tảo,
độc đối tây phong trướng đại my.
。一
滿 。獨 西 眉。

                        Dịch nghĩa: 
Lắm nỗi nghi nan trước sự tình
Nụ cười vừa dứt lại buồn tênh
Hoa rơi đầy đất không người quét
Nhìn gió mày chau những bất bình.

Chú giải: Quẻ này ứng điềm lành, cao thượng. Phần tâm linh rất đáng quí. Là gương của Đức Thượng-Phẩm sau khi nhắm mắt lìa đời, Ngài có giáng ban cho bài thơ, là lúc di Liên-đài ra Bửu tháp, thơ như sau:
Xủ aó trần hoàn đã rảnh tay,
Thung-dung nhờ núp bóng Cao-Đài.
Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ.
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
Phi thị mặc đời nơi quán tục .
An-nhàn rảnh dạ khách Thiên-Thai .
Ngậm cười nêu quạt chờ sanh-chúng
Biển khổ ngày qua đếm một ngày
&
                        QUẺ - 166:
Thượng hạ bất hoà đồng, lao nhi lai hữu công,
Xuất  môn thông đại đạo, tòng thử bảo sơ chung.
。勞
道。從 終。

                                   Dịch nghĩa: 
Trên dưới chẳng hoà đồng
Lao nhọc sẽ có công
Ra ngỏ đường thông suốt
Bảo đảm được đến cùng.

Chú giải: Ra ngõ chẳng hòa đồng là chữ Nhân làm  khởi điểm, cái nguyên-tố đầu tiên sanh ra vạn-vật, một hột giống bao bọc trong lớp vỏ, ai biết nó lớn đến độ nào? Một cái  thân cây cả vòng tay ôm không xuể cũng khởi điểm từ một hột tí-ti ấy. Thế nên chữ đại nằm bên trong bộ vi (vi là bao quanh), nó bao bọc như một khung trời vô tận. Tất cả mọi vật trong vũ-trụ này không ngoài nguyên lý ấy; vậy nguyên-lý ấy do nơi Trời.

Nếu nhìn vào một con người thì ai cũng giống như ai, nhưng nếu có khác chăng là ở cái đầu óc con người, có kẻ thông-minh trí-hóa, có kẻ trí kém, khờ-khạo, hỏi do gì? Chắc hẳn là do vốn tích lũy ngàn đời cho đến bây giờ. Nếu không như vậy, sao trong nguơn hội này, có kẻ đến làm rường cột của nền Đại-Đạo? Có kẻ đến chỉ để toan phá Đạo. Hỏi do đâu?  Nếu nói về bề ngoài thì người ta ai cũng có thân-thể hình tướng như nhau, nhưng bên trong cái khí khái phi thừơng, cái tâm đạo-đức bao la nào ai biết được!

&
                                   QUẺ - 167:
Đại sự khả thành công, hữu ích hoàn vô cữu,
Vân trung chấp tiên nhân, báo tại tam thu hậu.
。有 咎。
人。報在 後。

                        Dịch nghĩa: 
Việc lớn khá thành công
Ích lợi mà không lỗi
Người hùng hiện trong mây
Sau thu tin sẽ tới.

Chú giải:  Điềm lành ứng trong quẻ này. Nếu trong ngoài ứng hiệp thì nói được là toàn. Một quẻ như thế ở vào thượng thượng. Nhưng coi chừng sự tốt lành này nếu ở cuối sự việc như người đứng trên đỉnh núi cao tất phải chuẩn bị xuống núi. Lẽ nào ở mãi trên ấy được sao? Tận cùng tắc biến, biến tắc thông là lẽ ấy. Việc lập thân phải vững mới được. Trên mặt chữ: lập là đứng (tức nhiên trái với nằm) thân là cái thân-thể hữu hình này đây. Bởi khi con người mới lọt lòng mẹ ra thì cái đầu quay xuống mới gọi là sanh thuận, còn trái lại là sanh nghịch tức là cái đầu quay lên. Phải là thuận như vậy mới hợp cái lẽ của đất trời, vì con người tiến-hóa  trong định-luật của bát hồn. .
&
            QUẺ - 168:
Tang du thôi mộ cảnh, khuyết nguyệt khủng nan viên, nhược ngộ đao chuỳ khách, phương tri hỉ tự nhiên.
景。缺 圓。
客。方 然。

                        Dịch nghĩa: 
Ánh vàng giục giã trời chiều
Trăng vơi đâu dễ tròn theo tháng tàn
Gặp người kiếm khách hiên ngang
Niềm vui tự đến an toàn tấm thân.

Chú giải: Trời chiều tức là sắp hết ngày, trăng khuyết là sắp hết tháng, tất cả đều thấy được bằng mắt. Hữu hình. Nhưng phần còn lại: kiếm khách hiên ngang, niềm vui đến là phía sau. Việc ứng hiệp rất lành, không bị hại. Có phòng xa. Người đoán quẻ này an tâm như trường hợp sau :
Đức Hộ Pháp xuống thế mở Đạo thì Đức Chí Tôn mới hỏi rằng: Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí-pháp trước hay là mở thể-pháp trước ?

Bần-Đạo mới trả lời:- Xin mở Bí-pháp trước
Chí-Tôn nói: Nếu con mở Bí-pháp trước thì phải khổ đa ! Đang lúc đời đang cạnh-tranh tàn-bạo, nếu mở Bí-pháp trước cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại, thì mối Đạo phải ra thế nào ? Vì thế  nên mở Thể-pháp trước, dù cho đời quá dữ có tranh-giành phá hoại cả cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại. Xin miễn là mặt Bí-pháp còn là Đạo còn”
&
                        QUẺ - 169:
Biến thư tiền tiền sự, nan hiểm vãng lai nan
Nhược đắc thanh phong tiện, biên chu ngộ viễn san.
事。
便。 山。

                        Dịch nghĩa: 
Thư từ ngày trước gởi trao,
Khó khăn hoàn cảnh khó vào khó ra
Gói lành thấu hiểu cho mà
Thuyền nan lướt sóng vượt qua núi đèo.

Chú giải: Điềm này ứng về một sự tranh chấp trong tư tưởng, nhưng phải quyết thắng sẽ đến thành công. Trước còn lận đận sau mới vinh quang. Quẻ này ứng với lời của Đức Hộ-Pháp thuyết rằng: “Mấy em! Bần Đạo đứng trước giảng đài nầy thừa lịnh Đức Chí Tôn, làm Anh cả mấy em để lời tâm huyết dặn rằng: Buổi mấy em bị áp bức, mấy em sợ, phải bảo vệ tức là phải tranh đấu, giờ phút nầy mấy em mạnh rồi, có đủ oai quyền, đủ năng lực nên bỏ phương pháp tranh đấu ấy đi, trải lớp từ bi ra đặng độ thế. Qua cho mấy em biết đại nghiệp của Đạo ngày nay đáng làm anh, làm chủ được thiên hạ, không cần tranh đấu nữa, lấy từ bi mà đối với Đảng Phái một lỗi hai lầm, ngày nay ăn năn trở lại.”

&
                        QUẺ - 170:
Mạc thán tàn hoa, hoa khai khô thụ,
đương đầu xuân ý, hỉ tiếu hi hi.
。花

                        Dịch nghĩa:  
Đừng buồn khi thấy hoa rơi
Có ngày hoa nở giữa chồi cây khô
Ý xuân vừa thắm xuân mơ
Cười vui thoả dạ bỏ giờ ngại lo.

Chú giải: hoa rơi là điềm không mấy vui, nhưng còn chút hy vọng “hoa nở giữa chồi cây khô”điềm vui chắc sẽ lại trong không khí mới mẻ hơn, khác nào nền đạo đang lúc chia phe phân phái, tuy cũng khó khăn cho người điều hành guồng máy đạo, nhưng có Âm ắt có Dương, cũng thường tình thôi. Hãy nghe lời Thầy dạy: Bà Rịa,19-10-

Đinh Mão (dl:13-11-1927): “Thầy vui lòng mà trông thấy các con lo nền Đạo. Buồn cho những đứa muốn chia phái đảng, chẳng hiệp chung lo, đứa nào cũng muốn giành phần hơn, trở lại mà trách bẩn lấy nhau, như chim nọ lìa nhành, thung dung muốn bay khắp cả thế giới, song tài  chi  mà đặng. Thầy đã  giao trọn quyền cho các con    xử lấy, Thiên  ý như vậy, song chẳng thấy đứa nào đứng ra giành phần. Còn nơi đây, con Tương, cũng nên đợi mãn kỳ hạn, rồi sẽ chung lo với các Môn đệ của Thầy. Thầy muốn cải Thiên cơ, song không thế nào đặng, phải chịu công quả đặng chờ thời. Phàm trong phần đời  lo cho hoàn toàn thì Đạo cũng theo kế đó, chớ đâu xa.”
&
                        QUẺ - 171:
Nhứt sự tổng thành không, nhứt sự hoàn thành hỉ, nhược ngộ khẩu biên nhân, tâm hạ kham bằng uỷ.
。一
。心 委。

                        Dịch nghĩa:  
Một việc thành vô vọng
Một việc thoả hoài mong
Nếu gặp người lắm chuyện
E khó gởi nỗi lòng.

Chú giải: Hai lý Âm Dương luôn hòa quyện nhau, cũng là định luật, như lời Đức Hộ-pháp nhận định:
“Ta thường nói Đông Tây không bao giờ gặp nhau. Câu đó không thể áp dụng được trong giới triết-học tuy có đến hàng trăm đường lối khác nhau, nhưng chung qui cũng gồm về một mối. Lấy cái thực học Âu Mỹ để so-sánh với thực-học Á đông cân nhắc nhau thì phần nhiều cái học Á-đông bị lu mờ chỉ vì cách trình bày, luận-lý không rõ ràng, còn về phần tinh-thần thì bao trùm được khắp võ-trụ như: Thiên văn, Địa-lý, Dịch-lý mà ông cha ta vẫn cho là những môn học khó-khăn, huyền-diệu. Vì những lẽ trên, ta thấy khó khăn, khúc-chiết mà xếp đặt cái học-thuyết âý vào hàng tâm-truyền hay bí-truyền. Nhưng nếu ta lấy cái học-thuyết hiện tại của Âu Mỹ hoà với DỊCH-LÝ  để giải cho rõ, ta cảm thấy cái lý học Á-đông đã đến chỗ tuyệt-đối huy-hoàng”.
&
                                   QUẺ - 172:
Dục đắc nguyệt trung thố, tu bằng đào lý phất,
Cao sơn lai tiếp dẫn, song hỉ chiếu song mi.
。須
。雙 眉。

                        Dịch nghĩa: 
Muốn vời thỏ ngọc trong trăng,
Nương theo đào lý hương nồng gió đưa.
May duyên người tốt vẫn thừa,
Niềm vui hiện đến đôi bờ mắt xanh.

Chú giải: Điềm này ứng vào việc Nhân nghĩa, là một trong phương tu của Đạo Cao-Đài theo tinh thần Nho Tông chuyển thế. Người chiếm quẻ này nên thấy mình có một tinh thần Nhơn đạo cao, thực tế nhứt mà cũng làm nền cho Thiên đạo. Có câu “Dục tu Thiên đạo tiên tu Nhơn đạo, Nhơn đạo bất tu Thiên đạo viễn hĩ”. Thật vậy, chỉ lấy chữ Nho mà giải cũng đủ thấy điều ấy: nếu lấy hai chữ Nhị và Nhân ghép lại có ba trường hợp xảy ra:
1 - NHÂN (gồm Nhị và nhân) nghĩa là: tỏ lòng thương người mến vật chẳng nỡ sát hại sanh mạng, noi theo lòng từ-bi của Ðức Chí-Tôn mới gọi là đức nhân .
2 - NGUYÊN (gồm Nhị và nhân) là đức đầu tiên của Trời trong 4 đức là: nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Với người cũng thể theo trời có 4 đức là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Như vậy thì Nguyên hay Nhân cũng là một, chứng tỏ rằng Thiên nhân tương hợp rồi vậy.
3 - THIÊN (gồm Nhị và nhân) hai gạch ngang trên và dưới của chữ Nhị thì nét trên chỉ trời (thiên thượng), nét dưới chỉ đất (thiên hạ), giữa là người (nhân). Câu này ứng với lời của Phật mới chào đời nói: “thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn” là như thế đấy. Người đứng vào Tam tài.

Nay, nền tảng Ðạo CAO-ÐÀI là Nho-Tông chuyển thế, trước cửa Tòa-Thánh có biểu-dương hai chữ NHÂN NGHĨA 仁義 thật to, thì thấy chữ NHÂN là chủ sự thương-yêu. Có câu: "Trắc ẩn chi tâm ái vật chi lý, bất sát bất hại thể háo sanh chi đại-đức vi nhơn". .Bởi sự thương yêu mà vạn-loại hòa bình, Càn-Khôn an tịnh, đặng an-tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, không thù nghịch lẫn nhau mới không tàn hại nhau; không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa" (ấy là chơn luật thương-yêu). Còn Chơn Pháp công-bình, thì Thầy có dạy rằng: "Ðạo của Thầy là công-lý, ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở thế nầy, thì Ðạo chưa thành tựu".
&
            QUẺ - 173:
Sự toại vật ưu tiên, xuân phong hỉ tự nhiên,
Cánh thuỳ tam xích điếu, đắc ý hoạch lân tiên.
。春 然。
。得   鮮。

                        Dịch nghĩa: 
Toại thành công việc chớ lo,
Gió xuân vui vẻ an hoà tự nhiên.
Buông cần xuống vực sâu hơn,
Cá to bắt được đâu sờn lòng mong.

Chú giải: Cá cũng là loài có trong vạn linh, bởi nó có sự sống (sanh hồn), nó có tánh linh biết tìm cái ăn, biết truyền giống (giác hồn), tức nhiên nó kém người về linh hồn mà thôi. Người vì thói quen nhiều đời nên hay giết các vật để ăn thịt tức nhiên phải chịu luật quả báo không sai. Vì ăn nên bị đọa, vì dâm phải bị đày, cứ gây trái oan, oan trái không bao giờ dứt. Trái oan là món nợ về thù giận. Mình làm cho người thù giận mình tức là mình đã mang một món nợ thù giận nơi lòng. Con vật cũng biết thù giận vậy.

Thầy dạy: “Có nhiễm trần, có lăn lóc mơi sương chiều gió, có kim mã ngọc đàng, có đai cân rực rỡ, có lấn lướt tranh đua, có ích kỷ hại nhân, có vui vẻ với mùi đỉnh chung lao lực, mới thấy đặng tỏ rõ bước đời gai chông khốn đốn, mới thấy cuộc nhục vinh, buồn vui không mấy chốc, chẳng qua là trả vay vay trả đồng cân, chung cuộc lại thì mối trái oan còn nắm, mà cũng vì đó mới thấy đặng đường hạnh đức trau mình, trò đời chẳng qua một giấc huỳnh lương”. Kinh Sám hối có câu:
“Trái oan nào khác mối tơ,
“Rối rồi không gỡ bao giờ cho ra?

&
                        QUẺ - 174;
Viên hựu khuyết, khuyết hựu viên.
Y y mật mật yếu châu tuyền, thời lai thuỷ kiến duyên.
圓。 旋。

                        Dịch nghĩa: 
Trăng tròn còn có lúc vơi
Vơi rồi tròn lại theo thời chuyển xoay.
Gọn gàng cẩn mật tất hay,
Thời lai mới thấy lẽ hay định phần.

Chú giải:  Quẻ này cũng cho thấy sự việc còn đổi thay, chưa an trụ. Chờ qua một vòng biến dịch mới được đoàn viên. Hãy xem thời cơ ứng với sự việc xảy ra sau đây.

Đức Quyền Giáo Tông viết trong Tờ Khai Đạo gởi Thống-Đốc Nam-kỳ Sài Gòn: “Vốn từ trước tại cõi Đông Pháp có ba nền Tôn-giáo là: Thích-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo. Tiên-nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Đạo ấy, lại nhờ do theo Tôn-chỉ quí-báu của các Chưởng giáo truyền lại  mới được an cư lạc-nghiệp.  Trong sử còn ghi câu “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di” nghĩa là con người thuở ấy an-nhàn cho đến đỗi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm. Nhưng buồn thay cho đời Thái-bình phải mất”.

&
                        QUẺ - 175:
Thừa sấu mã, thượng nguy pha,
Phòng thất điệt, kiến tha đà.
。防 跎。

                        Dịch nghĩa: 
Ngựa gầy gắng sức vượt đồi cao,
Lỡ bước sẩy chân cũng té nhào
Biết vật, biết mình tua đắc ý,
Ý tình nghi ngại khó thông nhau.

Chú giải: Quẻ này chỉ vào mực trung. Người chiếm quẻ này chưa toại ý, nhiều nghi ngại. Người trong cuộc thiếu lòng thành, ít tình thương đối với vật. Hãy xét mình để gần đạo đức hơn. Thử xem con ngựa gầy mà bắt phải vượt đường xa có bất nhân không ? Ngựa té là phải. Người làm trái ý Trời. Trước khi làm việc gì phải hỏi lòng: ông trời có làm điều ấy không? Quẻ này ứng với điềm sau đây:
Thầy dạy: “Nhiều đứa muốn trái Thánh  ý lắm. Thầy dạy từ đây, con Trung và Lịch phải có mặt nơi Tòa Thánh, trừ ra đứa nào có lịnh dạy đi đâu, hay là mắc đi việc chi về Đạo phải vắng mặt, thì có Phối Sư thế được mà thôi. Con phải chăm nom từ chút và dọ tánh chư Đạo hữu, chớ vội tin, lúc nầy nhiều đứa bị cám dỗ mà sái bước lần. Ấy là lúc Tà Chánh tranh giành với nhau. Đứa nào chẳng giữ được đường ngay thì khó mong đến cùng Thầy đặng đó. Đạo chẳng khó, duy nơi tấc lòng, mà thương hại thay! Từ xưa, công quả của mấy bực chơn tu đều trôi theo dòng bích hết, cũng vì  đó mà nay cũng khó thế tránh được. Các con yêu dấu !  Nên giữ mình cho lắm !”
&
                        QUẺ - 176:
Lưỡng sự dĩ hoà đồng, khinh châu ngộ tiện phong, Đạo mê nhân đắc ý, ca xướng cấp lưu trung.
。輕 便
。歌 中。

                        Dịch nghĩa:
Vuông tròn hai việc hoà thông,
Thuyền con gió thuận xuôi dòng lướt nhanh.
Đường lầm nhưng được ý thành,
Cười vui ca hát yên lành ngoài khơi.

Chú giải: Quẻ này tốt về phương diện hữu hình đều toại ý, tất cả hanh thông như ước muốn. Tuy nhiên nếu đường đời được ổn định phải soát lại việc đạo đức có toàn chưa? Nếu chưa tiếp tục học. Một triết gia nói về việc dạy con: Con bắt đầu học khi con rời khỏi ghế nhà trường. Lời Đông Phương  Sóc giáng Cơ nói: -Ta là Đông Phương Sóc!
 “Nghe nói nhiều tay ham học, hỏi học làm chi ? - Nói học làm Trời, mà làm người chưa đúng.! Hỏi người tu làm chi?

- Nói tu thành Phật thành Tiên, mà tánh đảo điên không bỏ. Hỏi sao không biết hổ, còn ngóng cổ cãi hoài. Quấy là ai ? Phải lại là ai ? Hỏi lại ai ai cũng quấy ! Mắt chưa thấy, tai chưa nghe, mở miệng ra khoe tôi là trí thức; đua chen rộn rực, làm in tuồng quỉ chực đàn chay; kẻ nói dở, người nói hay, dở hay không quyết đoán. Tu lâu năm chầy tháng, tu nhiều ngày kết án dẫy đầy, quấy ăn mặn, phải ăn chay, mặn chay chay mặn. Đã biết Trời trao gánh nặng, sao không lo gánh nặng cho rồi ? Xưng mình là đạo đức cao ngôi, sao lại dám bỏ trôi phận sự. Kẻ đa ưu, người đa lự chưa rành, người ganh ghét, kẻ cà nanh thêm sanh ác cảm.
&
            QUẺ - 177:
Bạch ngọc mông trần, hoàng  kim mai thổ,
Cửu cửu quang huy, dã tu nhân cử.
白玉 塵。黃 。久 輝。也修人舉

                        Dịch nghĩa:
Bụi mờ phủ kín ngọc châu
Vàng còn lẫn cát ắt sau rõ hình
Sáng loè vật báu như in,
Phải tay thợ ngọc trau gìn mới nên.

Chú giải: Ngọc là vật báu tự nhiên trong trời đất, nhưng chưa thông dụng cho người, vậy phải qua tay thợ ngọc trau tria mới nên hình nên dạng. Quẻ này người chiếm được hanh thông, thỏa lòng ước muốn nhưng phải qua một giai đoạn thử thách kế tiếp mới bền lâu. Hãy xem sự ứng hợp của quẻ với sự kiện sau đây về quyền hành của Giáo Tông:

“Giáo Tông đặng đồng quyền cùng Thầy mà dạy dỗ cả chư Môn Ðệ của Thầy trong đường Ðạo Ðức, dìu bước từ người, chăm nom săn  sóc cho khỏi phạm Thiên Ðiều, thì là buộc tuân y Tân Luật. Ấy vậy dầu cho phẩm vị nào phạm tội; thì Giáo Tông cũng chẳng vì tình riêng gọi là tha thứ khoan dung. Ðể lòng che chở, làm cho kẻ phạm phải mất Thiên Vị, lại gây điều đố kỵ của nhơn sanh, làm cho nhẹ giá trị của nền Chánh Giáo”.
&
                        QUẺ - 178:
Thượng tiếp hạ ổn, hạ tiếp bất hoà,
Tương hãi tương nhiễu, bình địa phong ba.
。下

                                   Dịch nghĩa:
Người trên tiếp dẫn tất chu toàn,
Kẻ dưới dắt dìu khó được an.
Bối rối ngại lo đều cả sợ,
Ô hay! Sóng gió giữa đồng bằng.

Chú giải:  Sóng giữa đồng bằng là điềm trời chẳng lành, sự việc chưa thuận theo ý muốn. Phải kiên nhẫn đợi chờ và biết câu thiện ác đáo đầu chung hữu báo, có kẻ phản bên mình, nên đề phòng, đừng nghi oan cho người. Quẻ này ứng với thời phản khắc đạo quyền, nên xét hiểu:

Các Đấng than: “Ôi! Ôi! Nhìn thấy chư Hiền mà thảm, thảm cho người rồi thảm cho đời, đời trở lại phá đời, rồi trở lại nói  đời  quá dữ.  Đạo thì không lo lánh dữ, rồi trở lại trách Trời, có tiền định đổi dời, người sao dám chống Trời ngăn cản. Nay kết phe, mai kết đảng, quyết lòng đánh tản Thiên điều, sớm tự  đắc, tối tự  kiêu, tưởng rằng Đạo bấy nhiêu  là hết. Một câu kinh chưa biết, dám xưng mình rằng thiệt thông minh, kẻ thì chống, người thì kình, kình chống cho  lâu  thêm hại. Kẻ khoe khôn, người nói dại, khôn dại rồi lại tự hại mình. Xuống bút Thần dặn bảo đinh ninh, phải không phải tự mình hỏi lại:
Tự  mình  hỏi  lại  tại    đâu ?
Cũng bởi Thiên cơ chẳng dễ dầu.
Dầu chẳng dễ dầu, dầu khó dễ,
Dễ  dầu,  khó  dễ, chớ    cầu.
&
                        QUẺ - 179:
Bối hậu tiếu hi hi, trung hành đạo tối nghi
Sở cầu chung hữu vọng, bất tất trứu song mi.
。中 宜。
望。不 眉。

                        Dịch nghĩa:
Sau lưng có kẻ chê cười
Thong dong lối giữa tiện thời nhanh lên
Sở cầu sau được tâm yên,
Mày tươi theo nét hồn nhiên toại lòng.

Chú giải: Quẻ này được điềm lành. Làm việc phải không cần nghi ngại. Sau cũng được hòa vui. Phải biết quay về với tâm linh để được phúc trời ban. Của cải số một mà lâu ngày đành quên lãng sao? Phúc lành nằm trong chữ Đạo!

Ðạo là gì?  Sao gọi Ðạo? - Ðạo, tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Ðạo là đường của các nhơn phẩm, do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Ðạo, thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm. Ðạo, nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng. Ðời cũng thế, Ðạo cũng thế, chẳng Ðạo chẳng nên Ðời, Ðời Ðạo chẳng trọn, lấy Ðạo trau Ðời, mượn Ðời giồi Ðạo, Ðạo nên Ðời rạng, giũ áo phồn hoa, nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc, tự thanh cao, nếm mùi tự toại, dưỡng chí thanh nhàn thì có chi hơn. Vậy là mầu, vậy là trí.”
&
                                   QUẺ - 180:
Tiều tuỵ vô nhân vấn, lâm gian thính đỗ quyên,
Nhứt thanh sơn nguyệt địch, thiên lý lệ quyên quyên.
。林
笛。千

                        Dịch nghĩa:
Buồn không người đến hỏi han
Trong rừng quyên đã hót vang gợi sầu
Vẳng lên tiếng địch trăng thâu,
Dặm ngàn lả chả giọt châu ngắn dài.

Chú giải: quẻ này hợp với tâm trạng của người đang ưu tư, nhiều nghĩ nghị. Phải phấn đấu với tuồng đời. Đừng quá lao tâm mà bất lợi. Quẻ này ứng với lời dạy sau đây:

“Ai có công thì hưởng phước, lòng đừng mơ ước uổng công. Muôn việc chi  phải trước đề phòng, hơ  hỏng  ắt  không thành việc. Giáng bút phân rành hơn thiệt, ai sớm biết liệu lo, sâu thì chống, cạn thì dò, đừng để cho đến đỗi giông tuông rồi gió thổi. Cũng trong một lúc nầy, xây chuyển lại chuyển xây cuộc đời thay đổi. Ta khuyên đừng có vội, ráng an lòng chờ đợi lịnh Trời. Tiếng nói chẳng phải chơi, nhiều lời ắt vương nên tội lỗi. Có tội thì sau sám hối, để lâu ngày thì tội không trừ, việc thiệt dám chê hư, dầu cho Đấng Đại Từ  không chế đặng. Đường ngay mực thẳng, phe đảng tan tành, lời thiệt phân rành, người tu chung hiệp. Chân thiện lo cần kíp, đừng để trễ ngày giờ, nếu biết luận Thiên cơ, đừng ngẩn ngơ chán ngán.”  
Khuyên đừng chán ngán, ráng lo tròn,
Ấy mới thật là  trọn nghĩa  con.
Thoả thuận cùng không cơn rắc rối,
Vững bền  theo Đạo mới vuông tròn.

&
                                   QUẺ - 181:
Lăng hà hương lý thụ thâm tư,
Quế phách viên thời ấn thụ tân,
Tòng thử uy danh sơn nhạc trọng,
Quang huy trực thượng vị ty luân.
思。
重。 綸。

                                   Dịch nghĩa: 
Ý tình sực nức hương sen,
Trăng tròn như ấn vua ban lần đầu,
Từ đây danh vọng cao sâu,
Chức quyền hiển đạt, sang giàu tuổi tên.

Chú giải: danh vọng đến như lời cầu ước, thành công cũng theo sau, tiếng tăm vang dội. Người cầu được quẻ này ứng hiệp, không còn gì hơn. Nhưng nên nhớ cái vui trong đời không đưa người về chốn thiên đàng mà cũng chỉ là phương tiện cho kiếp sống. Hãy luận theo đây:

Vị Tiên Thanh Tâm Tài Nữ giáng Cơ nói: “Trong cái kiếp duyên của chúng ta có cái kiếp ngộ đạo là hạnh phúc hơn hết và trọng hệ hơn hết, mà chính cái ngộ Đạo ấy, chúng ta có thể may duyên đến hội hiệp cùng Đại-Từ-Phụ, tức nhiên vào ngồi trong lòng của Đức Chí-Tôn vậy. Cái kiếp duyên cao trọng hơn hết là đấy. Bần-Đạo nói rõ. Mấy Bạn yêu ái của chúng ta đương ở trong lòng thương yêu vô tận của Đức Chí-Tôn nhập trong cái đại gia đình Thiêng Liêng của Ngài. Ngài đến nơi mặt địa cầu này là để cái dấu chơn của Ngài trên cái Cao-Đài này, đặng Ngài làm cái dấu hiệu cho toàn thể con cái của Ngài đã hữu duyên gặp đặng Ngài, đó là nơi hội hiệp của nó, nghĩa là chúng ta ngày hôm nay ngồi trong cái Đền Thánh này, tức nhiên trong một cái cơ thể tượng trưng lòng yêu ái vô tận của Đức Chí-Tôn, nó không phải tình cờ mà được vậy.
&
                        QUẺ - 182:
Hoa lạc chính phùng xuân, Hành nhân tại bán trình,
Sự thành hoàn bất tựu, tác bán lưỡng tam tuần.
春。
  。索

                        Dịch nghĩa:  
Hoa rơi  giữa độ xuân,
Người đi được nửa chừng,
Việc thành chưa trọn vẹn,
Trở ngại đôi ba tuần.

Chú giải: Lời ứng nghiệm rõ ràng, trước chưa toại ý nhưng phải kiên nhẫn đợi chờ vì thời gian còn hoãn hoạt, trong lúc chờ đợi cũng nên nghe tiếng lòng mà điều chỉnh cái tâm cho chính chắn để khi được thì cả hai. Hãy nghe đây những lời này được ứng nghiệm cho thấu tình.

Đạo thì cứ thung dung  phăng từ gốc tới ngọn mà biện bạch, thế mới có ích cho nền Đạo và chẳng có mãnh lực Tà nào lấn lướt qua nỗi. Phải ráng sức thêm nữa thì phần kết quả xứng đáng họa may mới hiển hiện đặng. Đức Chí Tôn còn phải khiêm cung để dìu sanh chúng. Những kẻ nào đem quyền hành mà nâng mình lên cao thì kỳ thật quyền hành ấy phải vô dụng. Trong Đạo, nếu còn quyền hành áp chế thì là Đạo của Tà quái đó; mà những kẻ nào hay làm quyền riêng đó cũng chẳng tránh khỏi mãnh lực của Tà quái  xung  nhập. Chơn đạo chẳng dụng quyền áp chế bao giờ. Mấy anh  cũng đủ  rõ.
&
                                   QUẺ - 183:
Dục hành hoàn chỉ, bồi hồi bất dĩ,
Động dao mạc cưỡng, đắc chỉ thả chỉ.
止。 徘徊
止。

Dịch nghĩa:
Muốn đi thoắt lại dừng,
Bối rối dạ không yên,
Gắng làm thêm tổn sức.
Ngừng lại lúc nên ngừng.

Chú giải: Tâm động báo điềm lo, chuyện lo cứ phải lo, báo dừng cũng nên dừng, nên dừng cho đúng lúc, cưỡng cầu càng phí lực, chỉ vô ích mà thôi. Đời nhiều nỗi lôi thôi, con tim chưa tự chủ, làm sao tính chuyện lâu dài ?. 

Cũng như người làm Đạo có trách nhậm lớn lao, chẳng khác chi là làm màu mè bề ngoài trong một lúc, chớ tâm trung cũng chưa chắc phế hết những tánh phàm phu trọn được. Lửa lòng ham muốn của họ chẳng qua là bị lai rai vài hột mưa tro yếu đuối mà ướm tắt đó thôi, chớ cái ngòi cũng còn chui trốn nơi trong, một mai bắt được luồng gió thuận thì bảo sao chẳng lần hồi nhen nhúm lại như xưa. Những sự kích bác của mấy anh và một vài Đạo hữu có tâm chí khác, tất là đám mưa tro đó, thế nào tắt rụi đống lửa kia đã khởi cháy từ mới khai Đạo đến giờ. Phận sự mấy  anh nên lo tới nữa, chớ vội tin mà phế công phu nơi  ấy thì  sự  rối chẳng thế chi dứt  được.
&
                                   QUẺ - 184:
Tâm hạ sự an nhiên, châu tuyền thượng vị toàn,
Phùng long hoàn hữu cát, nhân nguyệt vĩnh đoàn viên.
。舟 全。
吉。人

                                   Dịch nghĩa: 
Tâm tình chưa được an nhiên,
Lại qua khó nỗi chu toàn trước sau
Điềm rồng tất được vượng cao
Ngày sau mở mắt công hầu tuổi tên.

Chú giải: Quẻ này trước có nhiều tư lự. Tư lự để được vững vàng hơn. Thánh nhân dạy: Tam tư nhi hậu hành, tức nhiên bảo cho phải suy nghĩ kỹ đôi ba lần mới thi hành không muộn. Như vị Thanh Tâm Tài Nữ làm như vầy là:
Phải đủ căn sanh mới thấy Trời,
Ai ơi đừng tưởng dễ như chơi.
Nghe danh tuy chất chồng bên gối,
Cổ Phật không duyên khó gặp người.

Bần Đạo nói thật: Mấy bạn nam cũng thế, nữ cũng thế, đương chung hiệp cùng nhau nơi đây, cái buổi hạnh phúc của chúng ta là buổi nầy “Bá Thiên vạn kiếp nan tạo ngộ” không phải dễ mà gặp. Ta đã gặp đặng tưởng chắc nếu chúng ta hiểu rõ giá trị của nó, thì cái kiếp duyên của chúng ta đây dầu có của phú hữu tại mặt địa cầu này, cái danh giá cao trọng như thế mấy, cái hạnh phúc giá trị sang trọng thế mấy cũng xa cái giá trị của kiếp duyên như Trời với vực”.

&
                                   QUẺ - 185:
Mộng lý thuyết quan san, ba thâm hạ điếu nan,
Lợi danh chung hữu vọng, mục hạ vị khai nhan.
難。
。目

                                   Dịch nghĩa: 
Mộng mơ bàn việc nước non,
Ngư ông còn ngại sóng dồn buông câu
Lợi danh như được sở cầu,
Ngày sau mở mặt công hầu đồn vang.

Chú giải:  làm người phải biết chữ nhàn làm quí, nhàn đây là nhàn  tâm nhàn trí, nào phải ngồi chơi xơi nước mà mặc cho kẻ hầu người hạ là hiểu sai rồi. Cái nhàn đạo đức khó tìm lắm, nhưng khi được nhàn rồi nào có khác người tục mà dựa được non Tiên. Có vậy mới tránh được cõi Âm quang mà chúng ta sắp được nghe thấy đây rồi:

Bát Nương Diêu Trì Cung (Giải thích về Âm quang): “Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các Chơn hồn. Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu niệm. Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tùy Chơn thần thanh trược. Chí Tôn buộc trường trai cũng vì cái quan ải ấy. Em nói thiệt rằng, mấy anh hiểu thấu, thì kinh khủng chẳng cùng. Nếu để cho Chơn thần ô trược thì khó mong trở lại cõi thiêng liêng và về cùng Thầy đặng. Em biết đặng nhiều hồn còn ở lại nơi ấy trót ngàn năm chưa thoát qua cho đặng.Thất Nương ở đó đặng dạy dỗ, nâng đỡ các Chơn hồn, dầu sa đọa luân hồi, cũng có người giúp đỡ. Nghe lại coi có phải vậy chăng?” 

&
                        QUẺ - 186:
Tam tiễn khai vân lộ, doanh cầu chỉ nhật thành,
Hứa đa nhàn khẩu ngữ. Phiên tác tiếu ca thanh.
三箭 。營
許多 。翻 聲。

                                   Dịch nghĩa: 
Đường mây thẳng hướng tên gieo
Thành công ắt sẽ ứng theo sở cầu
Chuyện người bàn tán xôn xao,
Trò cười thiên hạ ích vào điều chi.

Chú giải: có hướng lên rồi, chỉ cần gắng thêm nữa sẽ thịnh đạt. Thành công trong tay ta. Nền tảng đã vững cố xây đắp ngày dày thêm lớp đạo đức, không gì là không đạt. Quẻ này ứng vào lời của Đức Hộ-Pháp nói:

“Trong nước hiện giờ có các Đạo giáo thanh-liêm chánh-trực đang làm cha mẹ cho dân, có tinh-thần tạo hạnh phúc cho dân, một trang anh dũng biết bảo trọng nền quốc-túy, nâng đỡ nước nhà, biết tôn sùng Nhân Nghĩa. Chúng ta đã ngó thấy Đạo-giáo của chúng ta đem cái Nhơn-nghĩa làm huờn thuốc liệng vào tâm-lý của loài người là có thể trị đặng cái tinh thần bạo-ngược của họ.”
&
                                   QUẺ - 187:
Hưu xuân luyến, ngộ tiền trình,
Chung náo loạn,  Xuất môn đình.
。誤 。終 庭。

                                   Dịch nghĩa: 
Thôi đừng lưu luyến tàn xuân,
Con đường trước mặt kẻo lầm tính toan
Sau cùng bối rối cưu mang,
Khéo gìn cẩn thận, cửa quan luỵ phiền.

Chú giải:  Cần nhứt là phải nghĩ suy cho chính chắn, chớ vội nghe người mà mắc, tin người quá mà lầm, mắc lầm những kế xảo mưu tà, có ăn năn cũng muộn. Có một nơi  ta gởi trọn con tim mà không lầm là Thượng Đế.

Đức Hộ-Pháp nói: “Muốn cho khỏi phụ lòng Chí Tôn thì ta phải đào luyện cho Đệ Nhị xác thân ấy đặng tinh khiết nhẹ nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là: phải trai giới, chỉnh tu cho cái đệ nhị xác thân được tráng kiện hoạt bác, tùng khuôn viên thiện đức. Ðệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo hộ về sanh quang tiếp với đệ tam xác thân là linh hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu hoại thì nó trực tiếp ngay với linh hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng nó nghiệc ác thì nó phải dính líu với cái xác thúi hôi nầy mà phải chịu lìa xa cái linh hồn thì thần tử sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí Tôn ban cho ta cái Bí Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh hồn tức là hằng sống vậy.”
&
                        QỦE - 188;
Vạn lý ba đào tĩnh, nhứt thiên phong nhàn, lợi danh vô trở cách, hành lộ xuất trùng quan.
。一 閒。
  。行 關。

                        Dịch nghĩa:
Muôn dặm sóng triều an.
Trời cao gió nhẹ nhàng
Lợi danh đều hiển đạt
Đường dài vững bước chân.

Chú giải: Người trong thế giới này chơi vơi như chiếc thuyền nan lướt sóng. Nhưng vững tinh thần nhờ có đức tin ở quyền năng của Đấng vô hình.Cũng như Chơn-truyền từ trước đến nay Chí-Tôn để tại mặt thế trên các Đạo: Phật, Tiên, Thánh, là phương để gội rửa linh-hồn mà thôi.
 “Nhứt là Công-giáo có phép xưng tội là một bí pháp, nhưng ta không hiểu tại sao Chí-Tôn lại không truyền chơn-pháp. Ta nghĩ, có lẽ Đức Chúa Jésus-Christ đã ban quyền cho những đại-diện của Ngài tức là người cầm quyền Hội-Thánh có đủ năng-lực xá tội, nhưng trong hai đàng là kẻ xá tội và kẻ xưng tội; cũng có lẽ có người không thực tâm xưng tội, hoặc người không xứng đáng là ngừơi  xá tội. Nếu xét ra người đến xưng tội  và người xá tội cũng đều là phàm cả, chưa biết người này có xá tội được cho người kia chăng?  Thảng không đủ quyền tha tội càng thêm mang tội hơn nữa. Hễ có tội tức là có hình, có hình tức có phạt, có phạt phải thành án, mà án tiêu mới hết tội. Nên hễ có tội thì phải trả, mà có trả rồi thì hết tội”
 (Đức-Hộ-Pháp 1-7 Mậu Tý 1948)
&
                        QUẺ - 189:
Khát vọng mai, cơ hoạ bĩnh, mạn lao tâm,
Như tróc ảnh, ngộ hổ long, phương khả tỉnh
梅。 。漫
影。遇 龍。 省。

                        Dịch nghĩa: 
Khát lòng mong thấy được mơ,
Chỉ trông bánh vẽ dạ no đỡ thèm.
Phân vân như bắt bóng đêm,
Bây giờ giác ngộ gặp điềm hổ, long.

Chú giải: Có câu “Vân tòng long, phong tòng hổ” là  rồng theo mây, cọp theo gió. Tức nhiên mỗi thứ đều có sự hòa hiệp mà nương nhau. Khi con người đã đủ đầy vật chất thì lại càng thấy thiếu thốn tinh thần nên khát khao. Vậy người phải biết tinh thần hòa hiệp như thế nào để sống một cuộc sống bình-an từ tinh-thần đến thể-chất.

 “Vả chăng, có hòa mới có hiệp, có hiệp mới có định, mà hễ có định mới có an. Bằng chẳng như vậy sẽ có phản động. Hễ động tức nhiên phải loạn. Dầu cho chúng ta quan sát về đạo-lý-học, triết-lý-học, tâm-lý-học, cách trí-học,  ta thấy qủa quyết cả cơ quan Tạo-đoan hữu hình trước mắt ta, nếu không tùng khuôn luật điều hòa dám chắc càn khôn vũ-trụ này đã tiêu diệt ! Dầu cho về đạo lý học, ta ngó thấy khởi đầu nếu cái khối nguơn-linh của Đức-Chí-Tôn không hòa-hiệp với nguơn-âm của Phật Mẫu thì Thái-cực chưa ra tướng. Hễ Thái-cực chưa ra tướng tức nhiên càn khôn vũ-trụ này không có gì hết !
Chúng ta ngó thấy hành tàng taọ đoan trứơc mắt ta là sự điều-hòa trong thân thể.”

&
                                   QUẺ - 190;
Sự mê tâm bất mê, sự khoan tâm bất khoan,
Nhứt trường hoan hỉ hội, bất cửu xuất trùng quan.
迷。事
會。不

                        Dịch nghĩa: 
Dù việc lỗi lầm tâm vẫn an,
Lòng hay xét nét, việc thư nhàn.
Một lòng vui vẻ cùng sum họp,
Lại phải ra đi suốt dặm ngàn.

Chú giải:  Trong chữ MÊ  Thánh nhân đã dạy rành, gồm bộ sước là con đường đi và chữ mễ là gạo làm thức ăn, tức nhiên là vật chất. Như vậy người mà gọi là Mê là người chỉ biết hướng  theo vật chất,  tức nhiên quên

đi tinh thần. Nhưng nếu biết quan tâm đến tinh thần là biết giữ cơ hòa hiệp đó. Nếu luận “Về triết lý đạo giáo ta biết rằng: nếu ta không đoạt đặng 7 khối sanh quang thiêng liêng kia đặng tạo thành xác ta, thì xác thịt ta không có. Ta không sanh ở đây, nói gần hơn nữa nếu nhứt điểm tinh thần của cha ta không hiệp với huyết bổn của mẹ ta,  thì tức nhiên không có sự hiệp-hòa cả khuôn luật tạo đoan được. …Đạo Cao-Đài ngày nay là một nền tôn-giáo đem hòa khí cứu vãn tình thế.  Đức Hộ-Pháp đã nhắc nhở và căn dặn lưu tâm đến những lời chí thiết của Đức Chí-Tôn “Hễ một hành tàng nào của chúng ta làm cho tâm lý của con người phải rối loạn ly tán, ngỗ-nghịch tức nhiên phạm tội thiêng liêng” vậy .

&

                        QUẺ - 191;
Dạ bán độ vô thuyền, kinh đào khủng phách thiên, Nguyệt tà vân đạm xứ, âm tín hữu nhân truyền.
船。
。音

                                   Dịch nghĩa: 
Qua sông vắng chuyến đò đêm,
Phập phòng lo sợ như điềm trời long.
Trăng tà mây nhạt bớt trong,
Tin thư truyền lại ước mong thoả tình.

Chú giải: Cuộc đời này nghĩ kỹ thấy nó khởi đầu do chữ tình  mà kết thúc cũng chữ tinh. Thế nên nhơn luân là đạo trọng. Đạo Cao Đài lấy nhơn đạo làm nền tảng phải khởi từ đạo vợ chồng.Cuộc hôn phối có ý nghĩa quan trọng lắm.

Thế nên Kinh Hôn Phối có câu:
“Giữa Đền để một tấc thành,
“Đồng sanh, đồng tịch đã đành nương nhau.”

Đây là do thành ngữ “Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách” có nghĩa rằng chỉ về vợ chồng: khi sống thì cùng chăn chiếu (tịch là chiếu) cùng giường (sàng là giường). Chết thì cùng quan cùng quách. Câu đầu thì thực tế, nhưng câu sau là chỉ về ý mà thôi, chứ chưa ai cùng chôn chung một cỗ quan tài bao giờ. Có chăng là các vì vua ngày xưa có thực hiện điều này. Cả hai câu trên là nói tình nghĩa vợ chồng như keo sơn gắn bó, thân thiết không bao giờ xa lìa nhau.
&
                                   QUẺ - 192;
Sự nhược ki lưu, nhân bất xuất đầu,
Vãng lai bế tắc, yếu kiến vô.
。人不出 。往 塞。要見 無。

                                   Dịch nghĩa:
Nếu vì ngăn trở việc dừng ngang,
Người ngại ra đi được vững vàng
Qua lại không thông đường cách biệt
Khó lòng muôn việc được khang an.

Chú giải: Nếu ở đời có việc ngăn cách thì bế tắc. Đạo pháp bị ngăn trở thì nhân sanh điêu đứng, loạn gia, loạn quốc ấy là vì trong tâm thiếu vắng đạo đức làm nền.

Từ xưa đến giờ “Ai sanh ra dưới thế này cũng phải giữ đủ Tôn-chỉ của ba Đạo: Nhơn-Đạo, Tiên-Đạo và Phật-Đạo mới làm đặng hoàn-toàn phận-sự con người. Tỷ như Nhơn-đạo thì dạy mình vẹn giữ Tam cang Ngũ thường mới biết bổn-phận mình đối với xã-hội nhơn-quần thế nào cho nhơn-loại cộng hưởng hòa-bình, chẳng nghịch lẫn nhau mà phải trái hẳn với đức háo-sanh của Thượng-đế. Muốn cho nhơn-loại đặng lòng hữu-ái mà kính mến lẫn nhau thì Tiên-Đạo lại dạy ta phải lão-luyện tinh-thần cho đặng thông-minh trí-hóa hầu kiếm phương giúp đỡ bênh vực lẫn nhau.”
&
                        QUẺ - 193;
Vạn lý phiến phàm chuyển, ba bình lãng bất kinh, Hàng hàng vô trở trệ, viễn xứ cành thông tân.
。波
。遠 津。

                        Dịch nghĩa:
Lênh đênh một cánh buồm xa,
Sóng triều yên lặng, gió hoà, dòng xuôi
Êm êm thuyền nhẹ cứ trôi
Phương xa bến phẳng làm nơi đỗ thuyền.

Chú giải:  Người đi trên sóng nước mong được thuận buồm xuôi gió. Cảnh sống thì muốn sóng lặng gió êm, không ai muốn điều trở ngại, được vậy là phước ba đời. Nhưng đừng quên rằng thế thái nhân tình nhiều người còn đố kỵ, phải thấy rõ để trở xoay, như tay  vững lái thuyền.

Đừng tưởng rẻ, bởi nó xô đẩy loài người trong trường chiến và sẽ có cơ quan tàn diệt nhau không dứt, không cứu chữa đặng thì chúng ta sẽ là tội nhơn đệ nhất của nhơn loại vậy”. Thi văn dạy Đạo:
Anh-tài chưa biết dựa quyền người.
Còn nói chi chi bổn phận ngươi ?
Tranh đấu cuộc đời là huyết chiến
Nhứt nhơn chịu khổ chịu người cười
&
                        QUẺ - 194:
Thân lịch kinh đào,   đông phong tiện hảo,
Thái bình thân thoái,   mục hạ hoàn tảo.
。東風 便
退 早。

                                   h nghĩa: 
Trải thân mấy lớp sóng cuồng
Gió đông còn chút lòng thương thấu tình
Đất bằng thẳng tiến nương mình,
Bây giờ tâm chí an nhiên vui cười..

Chú giải:  Người sống vững nhờ đức tin làm nền tảng. Trời đất làm nên luật điều hòa cho vũ trụ. Nhân loại đặt hết niềm tin tưởng, nhờ đó mà nông gia sinh hoạt theo thời tiết. Dù không nói nhưng chữ TÍN của trời to vậy. Mạnh Tử, ông quan-niệm người có bốn đức mà thôi; đó là: Nhân, nghĩa, Lễ, Trí để hợp với bốn đức cuả Trời là: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Dù nói bốn đức nhưng thật ra đức TÍN đã ẩn tàng trong mỗi đức kia rồi; vì Nhân cũng phải có tín, Nghĩa cũng phải có tín, Lễ và Trí cũng phải như vậy. Đứng vào Ngũ-hành thì Tín đứng vào trung-ương Mồ, Kỷ, Thổ. TÍN là sự tin-tưởng hợp bởi bộ nhân (2nét) và chữ ngôn (ngôn là lời nói có 7 nét, là chỉ cái miệng). Bởi trên gương mặt người cái miệng đứng vào hàng thứ 7 (2 mắt, 2 mũi, 2 tai, 1 miệng) đó là 7 khiếu dương trên mặt, cũng là thất khiếu sanh quang, ngày xưa Phật độ sanh mà không độ tử, độ nam mà không độ nữ, cho nên mới có tuần thất ( 7 x 7= 49 ngày). Còn ngày nay Chí-Tôn mở Đạo là độ cả xác lẫn hồn, độ cả nam lẫn nữ, nghĩa là dùng đến con số 9 (tức là sử dụng cả số âm và dương: 7 khiếu dương ở trên mặt và 2 khiếu âm ở hạ bộ cọng chung là 9 khiếu (9 x 9= 81) cho nên mới có tuần cửu; tượng trưng 9 khiếu ở trong người, cửu khíêu khai thông trần cảnh tuyệt  là hình ảnh của người tu đắc Đạo là vậy. Thế nên, chữ TÍN là tiếng nói phát tự trong tâm hồn, vang khắp trong càn khôn vũ-trụ có ảnh-hưởng đến sự thịnh suy bĩ thái trong thế giới lòai người; vì vậy lời nói có một tầm quan  trọng trong đời sống của con người lắm vậy
&
                                   QUẺ - 195;
Hạc tự vân trung xuất, nhân tòng nguyệt hạ qui.
Tân hoan doanh kiểm thượng, bất dụng trướu song mi.
出。
上。 眉。

                                   Dịch nghĩa: 
Trong mây cánh hạc vút ngàn,
Người theo trăng sáng quày chân về nhà.
Hây hây đôi má vui hoà,
Mày chau tan biến, nét hoa dịu dàng.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét