Khổng Minh Thần Toán - 5 / 6 (Nữ Dịch Giả Nguyên Thủy)

Chú giải: Theo lý số thì Dần Mẹo tương sanh (Dần là Mộc dương, Mẹo là mộc âm) ấy cũng là duyên số định phân cho sự hội ngộ này. Người chiếm quẻ  được phần hân hoan. Đời cũng vậy mà Đạo cũng vậy. Có sự tương ứng.  Thầy dạy: Ðạo Trời khai ba lượt, nguồn Thánh độ muôn người, thìn lòng để bước vào nẻo thẳng đường ngay, mà kiếm cho thấu đáo mối huyền vi. Tạo Hóa đã sắp bày độ dẫn, nhuần gội ân huệ cho sanh linh, đương buổi hạ nguơn
nầy. Ai là khách hữu phần, ai là người vô quả, tánh thiêng liêng đã vì công lý mà ra tay tế độ, vớt kẻ giữa bến trần, khá biết thời thế lần vào nương dựa bóng Thái Dương, để bước vào con đường minh huệ, tìm suối lặng, non Thần rửa chút bợn nhơ đã vì phong trào mê muội, mà cam chịu lấp kín gót trần.”
&
QUẺ - 265:
Nhựt trung bất quyết. Nhựt đáo phương minh.
Nhứt trường hảo sự. Lục nhĩ đồng thành.
日中
一場 事。

Dịch nghĩa:
Trong ngày công việc chưa phân
Vầng dương sáng rõ muôn phần tỏ ra
Dịp may hiện đến đâu ngờ,
Thêm nhiều tai mắt đến giờ thành công.

Chú giải: Sự thành công phải dựa trên tài năng và sức lực. Người chiếm được quẻ này nên mừng vì đạo đức đủ đầy, gia đạo bình an, phần của cháu con được thịnh vượng.

Nên biếtlời Thánh ngôn rằng: “Thầy để lời mừng các môn đệ nơi đây có dạ kính thành và lo phận sự dìu dắt sanh linh bước vào nẻo chánh. Ðạo phát trễ một ngày, thì nhân sanh tội lỗi cả muôn ngàn, vì vậy mà Thầy muốn cho mỗi đứa đều để lòng lo liệu chấn hưng nền Thánh Giáo. Ðiều Thầy vui hơn hết, là muốn cho các con thương yêu giúp lẫn nhau, như con một nhà, phải đồng tâm hiệp chí, chia vui sớt nhọc cho nhau, nương đỡ dìu dắt nhau, đem lên con đường đạo đức, tránh khỏi bến trần ai khốn đốn nầy, mà cả muôn triệu sanh linh đã chìm đắm, vì mồi phú quí, bả vinh hoa. Thầy trông mong nơi các con, chớ nên vì chuyện nhỏ mọn phàm tục, mà bứt hẳn mối tương thân, tương ái, thì chẳng phải là đức tánh của tu hành đó.”

&
QUẺ - 266:
Hồ túc thị yêu tinh.  Lang hầu cập thụ tinh.
Nhập sơn ngộ thử diệu. Mê liễu tính hoà tâm.
宿 星。
入山 。迷 心。

Dịch nghĩa:
Sao hồ vốn cũng thuộc yêu tinh,
Sói khỉ thay hồn cũng đáng kinh.
Vào rừng nếu gặp ngay điềm xấu
Mê hoặc tâm can lẫn tánh tình.

Chú giải:  Cảnh tượng này cũng như lời Thầy than rằng:
“Ôi! mà hại thay! thảm thay! đau đớn thay! "Hòn ngọc" đẹp đẽ quí báu dường nầy Thầy đến cho các con, các con lại học kiêu căng, trề nhún. Thầy đã chán mắt thấy phái nữ hành đạo thế nào, biết bao phen Thầy buồn, mà buồn rồi lại giận, muốn chẳng lập nữ phái mà làm gì. Nhưng trai gái cũng đồng con, Thầy không nỡ đành lòng từ bỏ, Thầy lại thương con (1) nên đã lắm phen lấy khảo trừ công cho con trở lại phẩm cũ, bởi một lời đã hứa với Quan Âm, Thầy mới nhứt định dành phần công quả ấy cho con. Con ôi! Thầy thấy con đau thảm bấy nhiêu, một phen lầm lỗi lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm. Con coi đó mà coi, Thầy thương con là bao nhiêu ? Thầy giữ nữ phái lại cũng vì con. Thầy kêu nó không đến, Thầy dạy nó không nghe, muốn phạt cho đáng kiếp mà bụng cũng chẳng đành. Con là chị, Thầy đến lập Tam Kỳ Phổ Ðộ, chỉ vụ một chữ "HÒA", con liệu đứa nên, dùng đẹp lòng con kêu tên cho Thầy phán đoán. Tr...! con giúp em nghe!”
(1) Thầy nói với Bà nữ Đầu sư lâm Hương Thanh , làm đầu Nữ phái lúc bấy giờ.

&
QUẺ - 267:
Trích lậu thanh, thôi nan xướng,
Toản hành nhân, Toại đội phóng.
Vãn độ quan tân, Tiền trình vô lượng.
         
         
             

Dịch nghĩa:
Nước rơi tí tách báo giờ qua,
Giục giã thanh âm khó nhận ra
Quan ải thẳng đàng tìm đến đích
Tiền đồ khôn hạn chẳng còn xa.

Chú giải: Lời Thầy dạy: “Ðời thắm thoát, thế gay go trăm năm thoát qua điều dâu bể, khách trần hỏi có bao nhiêu kẻ lấy danh phận đem vào cảnh tuyền đài, để nâng mình lên địa vị cao thượng đặng chăng ? Ngày xuân gần mòn mỏi khá sớm biết trau xuân, ấy là phương châm dẫn đàng khách phồn hoa vào nơi Cực Lạc. Thầy khen lòng thành kỉnh của con, rán độ dẫn sanh linh, ngôi cựu vị ngày sau chẳng mất”.
&
QUẺ - 268:
Nhân tại thiên  nhai ngoại, Cửu phiếm tín âm lai,
Gia nhân tần vọng nhãn, Thảo mộc sướng hung hoài.
  。久泛
 

Dịch nghĩa:
Người đi biền biệt chân trời,
Lâu ngày tin tức bao hồi chẳng thông.
Người nhà mỏi mắt ngóng trông,
Đoái nhìn cây cỏ thầm mong thấu tình.

Chú giải: Giữa  người và trời thường có sự ứng hiệp nhau
Lời Thầy dạy: “Hiếm chi bậc Thánh bị đày vào chốn trần ai khổ nhọc chìm đắm nơi bến khổ sông mê, dan díu lấy sự say vui mùi thế tục bước đến cảnh kim mã ngọc đàng mà phủi hết lòng đạo đức, khiến cho ngôi cựu vị phải chịu trôi phủi dòng sông mà vì đó thuyền Bát Nhã khó nương cứu vớt đặng. Vậy gắng khổ tâm, giữ lòng đạo đức, mà vẽ bước cho đời sau, lập công quả đặng chờ ngày chung cuộc, phủi nợ trần ai đem tấm lòng thiện niệm đến Tam Giáo Ðài mà phục hồi cảnh cũ; rừng vắng non nhàn suối chảy tòng đưa, lánh chốn đọa đày đã bấy lâu ràng buộc. Cảnh gia đình phải tiên liệu,Thầy để lời con tua gắng chí” .
&
QUẺ - 269
Giá khoả thụ hạ, nhứt huyệt sinh thành,
Nhược thiên thử thượng, phúc lộc biền trăn.
祿

Dịch nghĩa:
Lên rừng tìm gỗ quí. Ruột gỗ sinh hốc to
Nơi đây là địa lợi. Phúc lộc trời dành cho.

Chú giải: Quẻ này tương ứng với hình ảnh của đất nước, người chiếm được  thỏa lòng. Niềm vui vừa chợt đến.

Đấng Giáo chủ nói: “Vì chính nước Việt-Nam đã được Đức Chí-Tôn định là Thánh-Điạ thì tức nhiên nó phải có chút ảnh-hưởng của Đạo Cao-Đài quyết-định, không dựa vào hình-thức nào hay là chút ảnh-hưởng văn minh của một liệt cường nào cả. Vì sự tiền-định khéo-léo và cao trọng như thế mà Đạo Cao-Đài sẽ được vi-chủ về mặt tinh-thần để chấm dứt  cuộc chiến-tranh tàn khốc của hoàn-cầu.  Theo thế thường, đời càng gay mà muốn lập lại đời thái-bình thì phận-sự của Đạo lại càng thêm khó-nhọc và nặng-nề. Vậy các Thiên-mạng phải cố tâm trì-chí, đứng trọn trong khuôn-khổ Đạo thì mới được dễ-dàng để bước qua những trở ngại trên phận-sự mà thành-công một cách  mỹ mãn.  Các Em cứ đặt trọn Đức-tin nơi Đạo rồi thì mọi việc sẽ được như ý.”
&
QUẺ - 270:
Cung canh lũng mẫu hình thần tự lao,
Vô cấu vô hệ, Kỳ lạc đào đào.
       
     

Dịch nghĩa:
Thân hành công cán nội đồng
Tấm thân mỏi mệt, riêng thần không an
Không điều dính líu buộc ràng,
Niềm vui toại nguyện chẳng màng gì hơn.

Chú giải: Đức Thượng Phẩm cho biết  “Đời là một sân khấu hí-trường, mọi sự đều phải thay đổi, chớ nên lấy đó làm mục-phiêu chính để noi theo, vì đã nói rằng: một sân-khấu hí-trường thì trong đó đủ đào kép và ông bầu, dầu hay dầu dở thì bổn phận họ phải làm cho rồi để cho kẻ khác lên thay thế, đặc sắc hơn và hay-ho hơn. Hiện các Em đã thấy biết bao nhiêu màn đời  thay đổi liên tiếp mà những màn ấy cũng chẳng làm cho dân Việt-Nam được hưởng cảnh thái-bình. Càng thay đổi càng làm cho dân chúng Việt-Nam thêm hoang-mang, hồi-hộp và cảnh tương-tàn, tương-sát của Việt-Nam cũng chưa thấy giảm bớt chút nào mà lại càng tăng thêm cực độ. Các Em biết tại sao vậy không?
&
QUẺ - 271:
Hoạ lai kiến quỷ, quỷ bịnh yêm triền,
Kim dương đắc lộ, Thân thoát tai ương.

Dịch nghĩa:
Hoạ nàn xảy đến quỷ dương oai
Đày đoạ tấm thân khổ dám nài
Dê vàng thắng lối cầm phương chắc
Gian khổ qua rồi khỏi nạn tai.

Chú giải: Trong vũ trụ này toàn cả vạn linh sanh chúng đều là con của Thượng đế,dù Phật dù ma cũng là con Ngài.

Thầy dạy: “Các con đủ hiểu rằng: Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận. Cái sống của cả chúng-sanh Thầy phân-phát khắp Càn khôn thế-giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái  đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến hoá. Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa-sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều, định trước, nếu ai giết mạng sống đều chịu quả báo không sai. Biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân hồi  mà ra đến đỗi âý. Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy”

&
QUẺ - 272:
Cấp khởi hành, cấp khởi hành.
Tiền đồ khứ kết đồng minh.
Chích thủ kích thiên trụ,
Sử sách hảo tiêu danh.
。前

Dịch nghĩa:
Mau chân hãy kíp lên đường
Con đường trước mặt lo lường đến nơi
Kết giao bạn tốt đây rồi!
Một tay chống đỡ cơ Trời nước non
Uy danh rạng rỡ sử son.!

Chú giải: quẻ này tốt cho người chiếm được. Hãy mở rộng lòng từ bi đối với muôn loài vạn vật là hợp đức háo sanh của Thượng Đế. Còn gì hạnh phúc bằng, cũng như : 

Đức Hộ-Pháp nói rộng ra hơn về lý-do không sát sanh, là :
“Dầu cho một cái Bông, chúng ta chưa chắc là một vật, nếu chúng ta bẻ nó một cách vô lối, rủi phải nhằm một sanh mạng của Phật thì khó mà tu lắm! Con thú, chúng ta nói là một vật mà biết đâu trong nó là một vị Bồ-tát đương chuyển kiếp, nếu mình ăn thịt nhằm nó một ngày kia  nó về trển nó ngồi ngang mình, nó nhắc kiếp trước Phật có ăn thịt tôi, nhắc nội bao nhiêu đó cũng đủ mang bầu quảy gậy mà tái kiếp nữa. Chúng ta ngó thấy nơi thế gian này, hằng-hà sa-số con vật, mà biết đâu trong con vật lại có một vị Phật Bồ-Tát đương tái kiếp để tạo liên-đài, rủi thay ta ăn nhằm thì khó đạt vị lắm ! Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn biểu chúng ta Trường trai là phải vậy  (TLHS /166)                                                                                                                                                                                                                               
&
QUẺ - 273:
Thâm sơn cừ mãnh hổ. Hổ khiếu xuất sơn oa,
Dương uy đẩu tẩu, Hà phạ nhân đa.
。虎
。何 多。

Dịch nghĩa:
Núi sâu cọp dữ khá kinh,
Tiếng gầm vang dậy lẫy lừng trong hang.
Dương oai phô sức ngang tàng,
Đức cao thần trọng khá an tâm thành.

Chú giải: Đức trọng quỉ thần kinh. Ttrong câu chuyện của phái đoàn Hoàng gia Anh qua Ấn độ để tìm sự thần bí, ông nói “tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc Thánh kinh, “Hãy gõ cửa, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.” Đông Tây gặp nhau vậy.
&
QUẺ - 274:
Tam thiên môn tứ địa hộ,
Bố trận thành minh, tụ lộ quân,
Mã tề bôn minh cổ tấn bộ.
         
         
           

Dịch nghĩa:
Trời dành ba cửa: Địa, thiên, nhân
Nam Bắc Tây Đông: bốn cửa thông
Trận địa ba quân bày sắp sẵn
Ngựa hồng đầy đủ trống cờ vang

Chú giải: quẻ này sẽ làm hài lòng cho người chiếm, vì hội đủ Tam tài (Thiên-địa- nhân), Tứ tượng, tam ngôi. Quá đủ đầy cho một thời vận tốt. Khác nào niềm vui được mãn nguyện  phái đoàn Hoàng gia Anh sang Ấn độ để sưu khảo về các hiện tượng huyền bí. Sau cùng được một người Ấn nghiêm nghị trả lời:
- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc Thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.”
&
QUẺ - 275:
Sơn sơn sơn sơn, Thượng kiến mao am,
Bất tỷ nhân môn đống vũ,
Khước như thiên thượng vân nẵng.
。上
棟宇。卻

Dịch nghĩa:
Núi non non núi trập trùng
Lập ngôi am cỏ lánh vùng trần gian
Không màng cửa rộng nhà sang
An lòng tự toại sánh hàng cung mây.

Chú giải: Có được một tư tưởng thoát tục như vậy là tiên rồi, vì chữ tiên họp bởi sơn nhơn, tức là người ở bên núi, sống trong núi.Lại nữa có một âm tiên là trước, tức là người phóng khoáng, nghĩ trước cái nghĩ của thiên hạ, đó là trọng tâm của Nho giáo chính là CON NGƯỜI, một con người được định nghĩa như là «sức mạnh của trời đất, kết tinh của âm dương, giao điểm của quỷ thần, tú khí của ngũ hành.» Hơn nữa, ở nơi con người phần quan trọng nhất không phải là thân xác, mà chính là tâm thần. Vua Minh Mạng xưa cũng đã từng viết trong Huấn địch thập điều như sau: “Lòng là gốc con người, lòng chính đính thì muôn sự lành ở đó mà sinh ra, lòng bất chính thì trăm điều ác từ đó mà theo ra, há chẳng nên thận trọng hay sao?” (Thập điều II,I) Chính vì vậy mà điều quan thiết nhất đối với con người là giữ sao cho “tâm chính, ý thành” (lòng ngay, ý tốt) (Đại học) 
&
QUẺ - 276:
Lai khứ nguyên vô định xứ, thời lai thời khứ.
An thân bạt thiệp vô ngu. Vinh nhục bất kế.
時來 去。

Dịch nghĩa:
Lại qua chưa định hướng đi.
Thời cơ dần đến yên bề tấm thân
Nhục vinh hai lẽ thường hằng
Liệu lường mưu kế chỉ tăng ưu phiền.

Chú giải: Lời chiếm này ứng với sự kiện lịch-sử của dân tộc còn ghi lại hai câu  với một nỗi xót-xa khó tả:
              “Nhứt giang lưỡng quốc nan phân THUYẾT,
              “Tứ nguyệt Tam vương triệu bất TƯỜNG ”
                。四月三

Hai câu này đã nói lên thời kỳ gần cùng cuối của triều nhà Nguyễn thật vô cùng nguy-ngập: chính-sự đang chịu cảnh lệ-nô của Pháp, đã lợi-dụng danh-nghĩa truyền-giáo vào Việt-Nam rồi biết bao biến cố xảy đến. Để đánh dấu những biến cố đó, sĩ-phu Việt-Nam có ghi lại đôi câu đối như trên. Ý-nghĩa câu 1-nói rằng một con sông (Hương-giang) chia thành hai nước: bên kia bờ là theo chế độ của triều đình Huế (Việt-Nam) nhưng chịu sự bảo-hộ của Pháp; còn bờ bên này là dưới sự thống-trị của quan Toàn quyền Pháp. Hai chánh sách, hai chế-độ khác hẳn nhau khó nói được nên lời (THUYẾT là nói). Câu 2- Bốn tháng mà thay đổi đến ba Vua, đó là điềm chẳng lành (TƯỜNG là điềm lành, như cát tường). Ba Vua đó là:

- Một là vua KIẾN PHÚC, ông này ở ngôi được 6 tháng và mất ngày mồng 7 tháng 4 Giáp-Thân (1884) trong một trường hợp vô cùng thê-thảm.
- Sau đó em Ngài là Vua HÀM-NGHI lên thay tức là Chánh-Mông, húy là Ưng-Lịch khi đó mới 12 tuổi. Những phong-trào kháng Pháp nổi lên dữ-dội, Vua Hàm Nghi lưu vong, kế bị bắt và bị lưu đày.
- Pháp thấy khó bề dụ được Vua Hàm-Nghi trở về, nên lập Vua ĐỒNG-KHÁNH lên thay vào ngày 6 tháng 8 năm Giáp-Thân. Tính ra vừa tròn 4 tháng mà có đến 3 vị vua thay phiên nhau kế vị,  trong sự miễn-cưỡng bất bình.
&
QUẺ - 277:
Hữu tử trưởng thành, thuỷ cục thời quá,
Đại phản phát phúc, bất tất quá ưu,
Tiên nhân tâm khổ bất túc.
。水
。不 。煎 足。

Dịch nghĩa:
Con trai đến tuổi trưởng thành,
Như dòng nước mát thuận dòng chảy xuôi
Phước nhiều hoạ tự qua trôi,
Lòng người đau khổ vì  đời gian truân.

Chú giải: làm trai trong gia đình đến xã hội có một trách
nhiệm lớn. Hãy nhìn trong nhà xem phần chống đỡ ngôi nhà có phải là cây cột cái không? Trách nhiệm và bổn phận làm trai là như thế ấy. Nhà lớn sức chống đỡ lớn, nhà nhỏ sức chịu đựng nhỏ. Không khi nào gọi rằng không có. Hãy tự soát mình có xứng đáng chưa? Nhà Việt Nam cũng như tòa nhà thế giới ngày nay bị lung lay khá nhiều đó, tai nạn động đất đã làm hàng triệu con người không nhà ở. Thử soát lại xem, từ ngàn xưa đến giờ chưa bao giờ kinh khủng như vậy. Đúng là “Tai trời gieo họa chẳng riêng ai”       

Thầy có nói “Thầy lập Đại-Đạo kỳ này là lập một cái trường công quả, nếu các con  đi ngoài đường công quả ấy thì không trong mong gì về cùng Thầy đặng”.

Trường Công quả của Thầy có đôi bên:
- Một bên vô-hình là các Đấng thiêng-liêng (Thần, Thánh,Tiên, Phật) cũng lập công quả trong buổi chuyển  thế này. Các Đấng thiêng-liêng thường theo một bên chúng ta đặng ám trợ chúng ta về phần vô-vi,
-  Còn các việc hữu hình tại thế là các việc phải có thi hài như chúng ta bây giờ đây mới đặng, thì về phần chúng ta phải lo làm, rồi có các  Đấng thiêng liêng ám trợ”
&
QUẺ - 278:
Hắc dạ lý, vật tiền trụ,
Nhứt hữu trị, yếu khan hoảng,
Lao lao ký, tu kết đảng.
。勿 。一 。要
。須

Dịch nghĩa:
Đêm hôm tăm tối khá gìn,
Những điều gặp gỡ nên kinh sợ dần.
Khá ghi nhớ kỹ lòng tin.,
Đường đời kết bạn tâm tình sớm hôm.

Chú giải: Trời đêm còn bóng tối, là chỉ cái âm u trong lòng chưa thoát. Sự tình còn rối. Hãy bình tĩnh, sáng suốt mới giải bài toán khó. Nếu có người bạn tốt có thể cũng hay cho lúc này.Việc nhà quáng, việc người sáng mà ! Khởi điểm từ tu thân mà ra cả. Hãy lập lại qui củ trong nhà đi là vừa. Nho giáo xưa nay rất chú trọng đến vấn đề giáo dục gia đình, vì theo Nho giáo bất cứ ai cũng phải tu thân, tề gia, rồi mới mong trị quốc, bình thiên hạ được. Gần đây có một số người sợ Nho giáo và cho rằng Nho giáo với một nền luân lý khắt khe, đã giam hãm con người vào trong những khuôn khổ quá chật hẹp, làm cho con người mất hết tự do, hạnh phúc. Quan niệm như vậy e không khỏi sai lầm, vì Nho giáo chân chính lấy DỊCH LÝ làm nòng cốt, thì dĩ nhiên phải uyển chuyển, linh động, biến hóa chứ không thể có những thái độ cố chấp, bất dịch được. Đối với chúng ta ngày nay, điều quan trọng là phải nắm vững được tinh thần Nho giáo, quán triệt được chủ trương Nho giáo. Mà chủ trương Nho giáo thời rất giản dị: Phải tìm cho ra những định luật thiên nhiên chi phối đời sống con người về mọi phương diện, để mà theo, để mà giữ, nhiên hậu mới có thể sống một cuộc sống hạnh phúc, xứng đáng. Tinh thần Nho giáo là một tinh thần cầu tiến: cố gắng hoạt động không ngừng để đem lý tưởng vào cuộc đời, làm cho cuộc sống thực tại dần dà trở thành một cuộc sống lý tưởng.         
&
QUẺ - 279:
Trập long dĩ xuất thế, Đầu giác thủ sanh thành,
Vân hưng vũ trạch, Đắc tế thương sanh.
世。
。得 生。

Dịch nghĩa:
Rồng ẩn lâu ngày lại hiện ra
Đầu sừng đầy đủ muốn vươn xa
Mây cao mưa gội nhuần ơn trạch
Tưới mát chúng sanh hưởng thái hoà.

Chú giải: Rồng ẩn là thời kỳ tu học, rồng hiện là đã đủ nanh vuốt rồi. Như một người Đạo mới nhập môn rồi học hỏi cho hiểu biết giáo lý, giáo pháp là nền tảng của đạo,  trọng yếu là vấn  đề “Giữ Đạo” Đức Qu. Giáo Tông nói:
“Kỳ Hạ-nguơn này là buổi hiệp Tam giáo làm một, hầu đem về căn  bổn cho hiệp lẽ tuần hoàn; Đức Ngọc Hoàng Thượng-Đế lại dùng huyền-diệu Tiên-gia giáng cơ giáo Đạo, thế thì chúng ta lấy làm hữu duyên, hữu phước mới sanh nhằm đời Đạo mở; muôn năm ngàn kiếp mới có một lần như vậy, nếu chẳng thành tâm tu niệm thì rất uổng cho cơ hội này lắm đó. Nhập-môn cầu Đạo là để làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, lập công bồi đức, cứu độ nhơn  sanh; chớ không phải vào Đạo để cậy lấy phần đông, rồi kết phe lập đảng mà ỷ thế hiếp cô cùng là xui mưu làm loạn. Kẻ vào Đạo chỉ mưu việc quấy như vậy là muốn gây rối cho nền Đạo tức là kẻ nghịch Đạo đó. Muốn “Giữ Đạo” cho tròn bổn phận, người nhập-môn rồi phải do theo “Tân luật”  lại cần phải “làm lành lánh dữ” và “trau giồi hạnh đức”.

&
QUẺ - 280:
Hoả thế huân thiên, thiên biên tận xích,
Ngộ thuỷ nguyên, thứ hữu để cực.
。天
。庶

Dịch nghĩa:
Thế lửa bốc cao sáng tận trời,
Chân mây rực đỏ ánh hồng tươi.
Gặp được suối ngàn tuông nước chảy
Công thành quả mãn khắp nơi nơi.

Chú giải: Lửa là điềm tốt, may mắn,sáng rõ như mặt trời lên.Công danh lợi lộc đến gần, nhưng cái công danh không cầu mà có, lợi lộc không mong mà đến thì hưởng đời đời không hết.Ấy là hạnh người tu biết “Làm lành lánh dữ”: Có người thuở nay không làm điều chi bất nhơn thất đức, cứ một lòng ăn thật ở ngay; như vậy có đủ gọi là “làm lành lánh dữ” không ? - Không đâu ! Người ấy chỉ có biết lánh dữ  mà thôi, nghĩa là chỉ có biết giữ mực công-bình của nhân-loại vậy thôi; chớ chưa có chi gọi là làm lành. Muốn trọn hai chữ “làm lành” phải cứu nhơn độ thế. Kinh Phật dạy Cứu nhơn độ thế mà không giải rành là sao, thành ra nhiều vị tu-hành không để ý đến, chỉ biết có một phép Từ-bi thanh tịnh là gốc” Phải phụng sự vạn linh nữa.
&

QUẺ - 281;
Hướng Nam hữu đại đạo.
Thừa mã nhập Hàng thành,
Bất hoà ngô nhân xướng.
Cánh hữu nhất tri âm.
道。 乘馬
唱。 更有

Dịch nghĩa:
Phía Nam đường cái thênh thang
Hàng Châu ruổi ngựa tiến sang cổng thành
Kẻ Ngô không thuận hát vang,
Nhưng còn gặp gỡ được hàng tri âm.

Chú giải:  trong đời này nếu muốn thấy được tất cả là tri âm, phải biết  cứu nhơn độ thế . Phải làm thế nào?
Cứu nhơn độ thế là cứu-cấp những người đang hồi khốn cùng, hoạn-nạn; ai đói mình cho ăn, ai khát mình cho uống, ai đau mình giúp thuốc, ai thác mình thí hòm, ai lạc nẻo mình chỉ đường, ai buồn rầu mình an-ủi, ai kiện thưa tranh chấp mình kiếm chước giải hòa; bắc cầu bồi lộ cho hành khách tiện bề qua lại; in thí kinh-điển, thiên-thơ  cho mọi người coi theo hầu cải tà qui chánh. Vậy mới gọi là cứu nhơn độ thế, song chẳng nên bất cập mà cũng đừng cho thái-quá. Bất cập là khi nào mình giúp cho người không trọn, có trước không sau, làm cho người sau rồi cũng phải khốn-cùng, hoạn nạn như trước vậy. Thái-quá là đụng ai giúp nấy, không xét coi kẻ ấy đáng giúp hay chăng ?  Vì ở đời lắm người  giả dối, quanh năm chỉ ỷ lại người nhơn-thiện mà no cơm ấm áo; giúp-đỡ cho những kẻ ấy là giúp cho họ dễ bề làm biếng, tiện thế ở không, tức là chưởng ác cho họ vậy. Vả lại cứu nhơn độ thế, phải tùy duyên tùy sức mới đặng: giàu cứu  theo phận giàu,  nghèo cứu theo phận nghèo. Theo lời giải trước kia; cứu nhơn độ thế có nhiều cách: có của thí của, không của thí công, của công ví đặng thiệt lòng, cân lại cũng đồng âm chất”.
&
QUẺ - 282:
Hữu điền nhứt mẫu, Tẫn khả canh vân.
Vô cùng thu hoạch, khước tại Tây thành.
。儘
。卻 在西

Dịch nghĩa:
Ruộng sâu một mẫu xới trồng,
Nhà nông canh tác ra công nhọc nhằn.
Đến mùa thu hoạch gia tăng,
Phương Tây hướng lợi người năng gắng tìm.

Chú giải: Với đạo pháp ngày nay hướng Tây là Cung Đoài ấy hiệp với Cung Đạo Đền Thánh, Đền Thánh là nơi chứa đầy Bí pháp, Đoài tượng trưng cái miệng tức là thực hiện tinh thần Phổ độ.Người đã biết thì ra phổ độ, giáo hóa nhơn sanh, người mới nhập môn thì lo Trau-giồi đức hạnh .

Người giữ Đạo không những gọi  làm lành lánh dữ  là đủ, lại còn phải trau giồi đức hạnh thì nhơn cách mới hoàn toàn. Đức hạnh là điều cần nhứt của bậc tu hành. Thành Tiên, thành Phật cũng nhờ đức-hạnh, vì thuở nay chưa từng nghe có Tiên Phật nào mà không hoàn toàn đức hạnh: Thái Thượng khuyên lập Đức, Khổng Thánh dạy tu thân. Lập đức, tu thân là căn bổn của Tôn-giáo.  Muốn vẹn bề đức hạnh ngoài ra Đạo Tam cang, Ngũ thường ta lại cần phải giữ sao cho đặng khiêm-nhượng, nhẫn-nại, thuận-hòa, kiên-tâm, thanh liêm, thì mới gọi là khắc-kỷ, mới gấm ghé đặng phẩm Thần Tiên vậy”. Nghe thi:
Thường xem khí số biết Thiên-cơ,
Hết kiếp trần-ai cõi ở nhờ.
Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm.
Những là Bá-tước gánh đồ thơ.
&
QUẺ - 283:
Vật hiềm nhi vô thần, Tật túc truy bất cập,
Nạp nhập viên huyệt trung, tẩu cẩu hà xứ mịch.
疾足 及。
。走

Dịch nghĩa:
Không hiềm vì trẻ sứt môi,
Biệt tài nhanh nhẹn khó ai sánh bằng
Vượn không quen ẩn vào hang,
Sa chân gặp chó đuổi càn được đâu!

Chú giải: Những sự kiện như “chó đuổi càn” thường xảy ra trong đời cốt làm cho rối trí, tính không nên việc, gọi những thứ đó là ma chướng.Người bình tĩnh phải nhớ câu này, tư tưởng của La Mã: Chó sủa mặc chó, người bộ hành cứ đi”. Ma là một sự chướng ngại, thường làm cản trở công việc, ma còn là cây gai. Còn một thứ nữa gọi ma là những hình bóng chập chờn, khi ẩn khi hiện, loại này cũng đôi khi làm quấy rầy cho người ở cõi hữu hình không ít, có thứ nguy hiểm hơn gọi đó là quỉ, hay nói chung là ma quỉ; nói rõ ra thì phần thối trược là Ma, phần cao trọng là Phật. Thường, một công việc làm có những trở ngại gọi đó là một sự thử thách. Chính sự thử thách, người phải có đủ sức phấn-đấu mới vượt qua được; vượt qua được là thành công. Việc Đạo pháp nếu không thắng được các điều trở ngại ấy thì không thành việc lớn. Những công-án của Phật giáo có kể lại rằng; khi một người phát tâm tu hành thì quỉ khóc đến ba ngày. Vì sao? Bởi người không tu tức là bạn đồng-hành với chúng, bây giờ đi tu là tách ra khỏi bầy bọn với chúng rồi. Người Tu sẽ có ngày thành Phật, tức là ánh sáng khi bừng lên sẽ xua đi bóng tối, ma quỉ sẽ bị triệt, nên nó phải khóc là vậy. “Sự khóc thét, rống lên vang lừng không ngớt là âm thanh của Ma quỉ sắp bị triệt hết rồi đó.
&
QUẺ - 284:
Lục ngưu canh địa, khẩn khai vô cương,
Thu thành kết thực, doanh vị doanh thương.
地。
。盈

Dịch nghĩa:
Sáu trâu cày xới ruộng đồng
Đất đai canh tác không phân bến bờ
Đến ngày lúa chín vàng mơ,
Thu vào đầy vựa đầy kho thoả tình.

Chú giải: con người có lục dục thất tình như đám cỏ hoang, trâu đến cày là mục đích diệt cỏ khai hoang đất. Trâu là hiện thân Bồ Tát, tức nhiên gần được ánh sáng thiêng liêng. Cày ruộng đây tức là ruộng tâm là tâm điền. Ruộng là nơi sản xuất lúa gạo nuôi sống xác thân. Ruộng tâm là nơi phát triển tinh thần đạo đức. Người ăn để sống. Sống để làm gì ? Sống để phụng sự vạn linh, mà phụng sự vạn linh tức là phụng sự Chí linh, là Trời đó vậy.

Buổi ban đầu Đức Thượng-Đế vẫn để cho chúng sanh thử bằng mọi cách. Trước hết có một vị Yết-ma (bên Phật-giáo) không tin rằng có Thượng-Đế đến với nhân-loại  Ông viết sẵn bài thơ dấu trong tuí áo, đến hầu đàn; bài thơ:
Ấm-ức tâm tư suốt mộng tràng,
Có đâu Tiên, Phật xuống phàm gian.
Văn hay chữ giỏi bày thi phú.
Họa được thơ đây mới Ngọc-Hoàng !

           Thừa lúc âý trong đàn nội có Đức Chí-Tôn giáng, Ngài liền hoạ lại ngay:
Hãy tỉnh cho mau giấc mộng tràng.
Đời cùng  Tiên Phật xuống phàm gian.
Chẳng ai hay giỏi bày thi phú .
Chính thật TA đây ĐẤNG NGỌC-HOÀNG

&
Quẻ - 285:
Đại phấn xung thiên chí.
Vật khổ huyến gia hương.
Thất bát quân hành tảo.
Dương vũ tại sa trường.
。勿
。揚

Dịch nghĩa:
Chí khí vút cao đến tận trời,
Đừng vì gian khổ luyến quê thôi.
Hãy sớm lên đường theo số định,
Chiến trường dụng võ lẫn dương oai !

Chú giải  Con người sử dụng hai thứ oai võ: oai võ dùng trong chiến trường sát phạt, oai võ đạo đức thắng tà tâm..

Chương Thuấn điển, Kinh Thư cho chúng ta thấy các bậc Thánh Vương xưa lo lắng dạy dỗ cho mọi người biết nhân luân, tức là dạy cho mọi người biết các bổn phận giữa:
Vua tôi- Cha con- Vợ chồng- Anh em- Bạn hữu .Mạnh Tử nhận định như sau: “Làm người ai cũng phải theo đạo lý, chớ như đã được ăn no mặc ấm, ở yên mà chẳng có giáo dục, thì gần với loài thú rồi đó. Cho nên bậc Thánh nhân (tức vua Nghiêu, vua Thuấn) lấy làm lo lắng về việc ấy. Hai Ngài bèn cử ông Tiết làm quan Tư đô (tức là Tổng Trưởng Giáo-dục) giao phó cho công việc giáo hóa cho dân chúng biết ăn ở theo nhân luân:
* Giữa cha và con có tình thân ái. “Phụ tử hữu thân”
* Giữa vua và tôi có tình nghĩa. “Quân thần hữu nghĩa”
* Giữa chồng và vợ có sự phân biệt. “Phu phụ hữu biệt”
* Giữa anh và em có thứ tự. “Trưởng ấu hữu tự”
* Giữa bạn bè có niềm tin cậy. “Bằng hữu hữu tín”

Các vua chúa xưa kia của nước ta đã bắt chước gương Nghiêu Thuấn lo dạy dân theo đúng nhân luân chi Đạo.
Đức Thượng Đế cũng chủ trương Nho Tông chuyển thế:
Gương Đạo noi theo đời Thuấn Đế,
Đế dân vẹn giữ lối Văn Vương.
Vương hầu lê thứ ai là chí?
Chí quyết làm cho thế khác thường.!
&
QUẺ - 286;
Quì hoa hướng nhựt, trung diệc khuynh tâm,
Đại khai quảng hạ, Lạc hưởng thái bình.
。忠
平。

Giải nghĩa:
Hoa quì một dạ hướng dương,
Tâm thành ngưỡng mộ, trung can tấc lòng
Nhà cao cửa rộng huy hoàng,
Thái bình vui hưởng, thư nhàn chiếc thân.

Chú giải: Hoa quì còn có tên là hoa hướng dương, tức nhiên cành hoa to lớn như cái dĩa, mà nó luôn xoay theo hướng mặt trời. Nói chung loài cây cỏ, hoa lá, thì phần trên nó thuận theo hướng mặt trời, để hút lấy ánh dương, gọi là quang hướng động thuận.Còn phần rễ luôn bám theo.

đất như đứa con tìm về vú mẹ, đó là địa hướng động nghịch. Nó tìm Đạo, nó biết lẽ âm dương để sinh tồn trong cuộc sống có trật tự tức nhiên nó biết lễ, vì lễ là trật tự. Kinh Lễ qui định những luật thiên nhiên chi phối đời sống con người, qui định nhân luân, qui định thuần phong mỹ tục, cho nên tất nhiên phải chú ý đến gia đình. Lễ có mục đích đem lại sự hoà thuận cho mọi người, Lễ nghĩa qui định điều hay, điều phải cho con người, nên rất cần yếu. Lễ dạy cho người biết đức hạnh thực sự, hoà thuận với người. Lễ giúp cho xương thịt con người trở nên cứng cát, rắn chắc, dạy con người cách nuôi người sống, chôn kẻ chết, thờ thần minh. Nhờ Lễ như là một cửa lớn mà con người tìm ra được Thiên đạo, sống thuận với nhân tình. Vì thế mà Thánh nhân cho rằng cần phải biết Lễ. Quốc phá gia phong, nhân tâm ly tán, chính là vì con người đã không  biết sống theo định luật của trời đất, của nhân sinh.. Lễ Ký rằng: muốn sống cho hay mọi người phải biết cách cư xử cho đúng ngôi, đúng vị của mình: Vua minh, thần trung. Cha từ, con hiếu. Anh trưởng, em kính,;chồng nhường, vợ  thuận. Người lớn phải thi ân, người nhỏ phải vâng phục. Thế nên Thánh nhân nếu muốn trị thất tình con người, tu thập nghĩa, giảng dạy chữ Tín, tài bồi chữ Hoà, đề cao sự nhường nhịn, loại trừ sự tranh đoạt, mà không dùng Lễ thì lấy gì mà trị người?”
&
QUẺ - 287:
Nhân bất thức Tiên, na hữu chân quyết.
Nhứt nhân huyền môn, Tân tân hữu ích.
。那
。津

Dịch nghĩa:
Người đời mấy kẻ nhận ra Tiên
Chân lý phải đâu dễ kiếm tìm ?
Cửa Phật gắng công gian khổ luyện
Mới mong giải thoát độ nhân duyên.

Chú giải:  Người tu là muốn thành Phật. Vậy Phật là gì ? Phật làm gì? Phật sống ra sao ? Trước hết thấy chữ Phật gồm chữ nhơnlà người, phất là quét. Là người đã giũ sạch bụi trần, lòng trong sạch, thanh cao. Trải qua giai đoạn này không phải dễ. Kế đến nên biết Phật làm gì? Tức nhiên Phật là người phải tìm phương giải khổ cho chúng sanh phần xác thịt, giải thoát cho chúng sanh phần linh hồn. Phật sống ra sao?Triền cao núi thẵm, động vắng hang sâu; lòng bất nhiễm, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thánh-nhân nhận định rằng trong xã hội có ba hạng:
- Không dạy mà biết, nếu không Thánh thì còn gì?
- Dạy rồi mới biết nếu không Hiền  còn gọi là gì?
- Dù cho có dạy mà cũng không biết được, không phải ngu thì còn gọi là gì ?  Như thế đối với người “dạy rồi mới biết” thì những lời của Thánh-nhân như huấn-ngôn, đạo-đức ngôn, chơn chất-ngôn rất cần thiết cho vấn đề lập chí lắm vậy.Trong việc lập chí cần yếu là sự Kiên nhẫn..
&
QUẺ - 288:
Vật vị thuyết thoại thái trầm,
Nê liễu tựu bất thành chân.
Ngộ xuất thiên ban dữ diệu.
Phương thức Tiên đạo tối thần.
。泥
。方

Dịch nghĩa:
Ngại rằng lời nói quá cao sâu
Cố chấp không phân được lẽ mầu
Tự giác muôn ngàn phương diệu lý
Mới hay đạo sẵn Đấng Tiên Thần.

Chú giải: Quẻ này ứng vào Kinh Xuân Thu. Mục đích chính yếu là phục hưng nền Vương đạo.Tuy nhiên không vì thế mà xao lãng vấn đề gia đình. Mạnh Tử nói: Thế đạo suy vi, tà thuyết bạo hành nổi dậy. Những chuyện tôi giết vua, con giết cha xảy ra thời thường. Đức Khổng sợ, nên viết Xuân Thu, cốt là để “chính nhân tâm, ức tà thuyết” đánh đổ những nét bất công, hài tội những bọn loạn thần tặc tử, làm cho chúng kinh sợ.  Cốc Lương Xích viết: Thời thì bắt đầu từ Ẩn Công; sách gồm sự hóa dục của âm dương; giải thích sự biến hóa của nhân tình, thế thái; làm sáng tỏ lẽ đắc thất, thành bại và lấy đó làm phương châm cho lời khuyến dụ; cố cứu vớt sự suy vong của cương thường, để mà nối tiếp đạo của Ngũ Đế, Tam Vương thủa trước. Một lời khen quí hơn là tặng áo cổn hoa. Một lời biếm trách nhục hơn đòn đánh nơi triều thị. Ai giúp cho đạo đức thời dẫu ti tiện cũng đề cao; ai làm sai nghĩa lý, thời tôn quí cũng hạ thấp. Cho nên những kẻ ỷ quyền thế, dấu diếm những điều tà ngụy, gian manh, thời không thể trốn thoát được tội tình. Quả thật, Xuân Thu có chủ trương: Quí nhân, trọng đức, sùng đạo, ức tà, hoành dương đường lối của Tiên vương là vậy

&
QUẺ - 289:
Công danh tuy đa thực tế.
Hà như tu luyện thành chân.
Chân thân bất hủ, vạn tải trường xuân.
。何 真。
春。

Dịch nghĩa:
Thực tế công danh quá đủ đầy
Sao bằng vun đắp đức cao dày
Lý chân chỉ một không mê muội
Trẻ mãi như xuân chẳng đổi dời.

Chú giải:  câu “có thực mới giựt được Đạo” hầu hết nói rằng phải có ăn đủ đầy mới làm việc đạo được, không có cái ăn, cái sống thì chưa làm việc đạo. Chỉ đúng một phần ba mà thôi. 1-Thực nghĩa là ăn. 2- Thựccòn nghĩa phải thành thực nữa. 3-Thực nghĩa là gieo trồng.Chỉ ba chữ thực như vậy nắm vững vào tay thì chính là hiệp đủ Tinh- Khí-Thần. Có ăn để sống: Thực là Tinh, nhưng phải sống thực (thực là thành thực ấy thuộc Khí). Thực là gieo trồng ấy là chủng đức (thực này thuộc về Thần).Lòng người còn chơi vơi khiến Thầy phải than:

“Các con hiểu Thầy buồn, nhưng ấy là máy Trời đã định chạy sao cho khỏi ? Thầy biết bao lần vì các con mà chịu nhọc nhằn. Từ khai Thiên lập điạ, Thầy cũng vì yêu mến các con mà  trải bao nhiêu điều khổ-hạnh, mấy lần lao-lý, mấy lúc vang mày, nuôi-nấng các con hầu lập nền Đạo;  cũng tưởng cho các con lấy đó làm đuốc soi mình đặng cải-tà qui-chánh. Mấy lần vun đắp nền Đạo, Thầy cũng đều bị các con mà hư giềng Đạo cả. Thầy  buồn đó các con”.

&
QUẺ - 290:
Tẩu tẩu tẩu, ngộ nhứt cẩu,
Cấp tư tầm, khả trường cửu.
走。
。可 久。

Dịch nghĩa:
Nhanh chân hãy kíp nhanh chân,
Giữa đường gặp chó đuổi càng nguy hơn.
Gắng lòng thực hiện chung tầm,
Công trình thụ hưởng nhiều năm vững vàng.

Chú giải: Sự thụ hưởng nằm trong chữ LỢI. Lợi có nhiều cách, hầu như tất cả đều muốn hưởng lợi. Hãy nghe lời Đức Hộ-Pháp thuyết: “Nhắc lại Thầy Mạnh-Tử khi qua yết kiến vua nước Lương Ông Huệ-Vương hỏi Đức Mạnh Tử. Lão già chẳng nệ đường xa muôn dặm sang đến nước Quả-nhân có chỉ giáo điều chi hữu lợi chăng ?

Thầy Mạnh-Tử đáp rằng: Tôi chỉ biết nói đến Nhơn Nghĩa mà thôi, chớ không nói về lợi. Nếu trong nước mà dục vọng về sở lợi, thì đình-thần có trăm  hộc lại muốn có thêm ngàn hộc; Thượng Hạ Đại-phu có ngàn hộc lại muốn có muôn hộc, còn vì Thiên-tử đã có dư muôn hộc lại muốn có thêm triệu hộc. Nếu trong nước mà cầu lợi như thế, thì bá tánh phải chịu lao-lung, muôn dân đồ thán, trong nước thế nào bình trị được?  Còn như trong nước biết chú-trọng Đạo Nhân-Nghĩa, thì toàn thể quốc-dân đều chung hưởng mọi điều hạnh phúc, lạc nghiệp âu ca. Thầy Mạnh-Tử thuyết-minh đủ mọi điều lợi, hại rồi thì Vua Huệ-Vương mới chịu nạp dụng”

&
QUẺ - 291:
Bất tri chân tiêu tức,
Tiêu tức mộ địa lai.
Nguyệt viên nguyệt khuyết dạ.
Bất hứa bã môn khai.
消息
夜。 開。

Dịch nghĩa:
Tin thư xác thực biết đâu là
Từ  chốn xa xăm mới nhận qua
Xoay chuyển trăng tròn rồi lại khuyết
Chưa nên mở rộng lối vào nhà.

Chú giải: Thầy dạy: “Hiện nay là buổi kim tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh được yếu thua, khôn còn  dạy mất, con người trên mặt thế đều bôn- xu theo quyền lợi chẳng kể gì Nhân-nghĩa, đạo-đức, tinh-thần, nên mới có nạn chiến tranh, tương-tàn đồng chủng, giết hại lẫn nhau, hằng ngày diễn  ra nhiều tấn- tuồng thảm thương, bi kịch, xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy  thương tâm của khách ưu-thời mẫn -thế không thể nào ngưng được.           Chức Sắc trong Đạo đem hột giống Nhân-Nghĩa gieo khắp các nơi mà nhơn sanh không ưng nạp bởi họ không biết cái năng lực của họ mạnh-mẽ thế nào, không cần để ý đến, chớ chi họ trọng dụng Đạo Nhân-Nghĩa thử một thời gian coi có hiệu quả gì chăng ?.
Thánh-giáo  của Đức Chí-Tôn dạy về chữ NHƠN .
NHƠN  là đầu hết các hành tàng.
Cũng bởi vì NHƠN  dân hóa quan,
Dân trí có NHƠN  nhà nước trị,
Nước nhà NHƠN thiệt một cơ quan

Ngày nào toàn thể quốc-dân Việt-Nam mà biết thực-hành hai chữ NHÂN-NGHĨA  cho ra thiệt tướng, thì chẳng luận là xã hội nào cũng được hưởng mọi điều hạnh phúc, đời chiến-tranh sẽ trở nên đời thái-bình an-cư lạc nghiệp”

&
QUẺ - 292:
Hoả vượng xứ, yếu bất bì,
Thuỷ thâm xứ, an bất ngốc,
đáo đầu đương chước lượng, vô đắc nhạ tha tai.
。要
。安
量。毋

Dịch nghĩa:
Thế lửa càng cao gắng sức thêm,
Nước về vực thẵm phải đâu hèn
Việc đến kiên lòng lo liệu chắc
Phòng ngừa tai nạn luỵ thân riêng.

Chú giải:  Lửa nước là hai thứ tối cần trong cuộc sống, tương khắc mà lại tương hòa, tương sanh cũng là tương diệt. Trời dành cho nhân loại sự sống đủ đầy như vậy là vì Trời thể hiện bốn đức: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Người cũng nương theo Trời nên có 4 đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.

Người mà biết thi-hành việc Nghĩa đúng mức phải học:
“Giáo dục trước hết là giáo dục cá nhân, cho nên một khi công cuộc tu thân đã đào luyện cho con người có những tập quán tốt như bác học, thẩm vấn, thận tư, minh biện, độc hành (Trung Dung XX, 19) một khi cái Minh Đức đã tỏa sáng thì trật tự gia đình sẽ chỉnh tề, những hành động thân dân sẽ làm cho nền chính trị quốc gia được ôn cố. Bởi vậy cổ động tinh thần sùng chí học (điều 7 trong Huấn địch Thập điều), vua Thánh Tổ đã xác định: “Sở dĩ học là học làm người, cho nên không thể có một người vô học trong thiên hạ, cũng như không thể sống một ngày mà không học…Trẫm mong triều thứ các ngươi tôn sùng chính học, giảng minh nhân luân, đạo Nghiêu Thuấn chỉ là hiếu đễ mà thôi, giáo dục Khổng Mạnh, chủ trương nhân nghĩa trước hết.”
&
QUẺ - 293:
Tân nhạn nhiễu hồ, địa thành lục hành,
Kiến công huân, tảo hồi trình.
。地

Dịch nghĩa:
Nhạn lượn quanh hồ. Đất bằng lập trại,
Lập được công to, Sớm ngày trở lại.

Chú giải:  Cuộc sống con người có hạnh phúc hay chăng là trước tiên phải lập một đức tin cho vững vàng. Đức Hộ pháp dạy trong phương luyện kỷ: “Đức-tin và khôn ngoan là kho chí bửu, ngoài ra là của bỏ, là đồ vô giá. Thật vậy,

trong các đức tánh, chỉ có Đức tin và sự khôn ngoan mới là kho tàng quí báu. Đức-tin là một sức mạnh vô hình do tư-tưởng tập trung hướng vào một mục-đích, một chủ nghĩa, một cảnh giới vô hình để đoạt một kết-quả, một chân-lý siêu việt. Đối với Đạo-Giáo, có một đức-tin mới có cảm-ứng, có sự cảm thông giữa các Đấng Vô hình và loài người. Vì Thượng-Đế là Chí-Linh, chúng sanh là Vạn-Linh, nhờ Đức-tin hay Tín-ngưỡng mà Vạn-linh hiệp được Chí-Linh. Cho nên, có câu: “Nhơn tâm sanh nhứt niệm, Thiên Địa tất giai tri”. Đức Hộ-Pháp có định-nghĩa “Tín-ngưỡng: Tín là tin, ngưỡng là cậy. Tín ngưỡng tức là tin cậy theo nghĩa thông thường tiếng Việt từ xưa đến giờ. Ngày xưa, thời gian phong-kiến, danh-từ Tín-ngưỡng có nghĩa là tin cậy với sự thành kính một Đấng Đế-Vương, hào-kiệt nào. Đối với Đạo-Giáo, ý-nghĩa càng thêm cao trọng, người ta cho nó là cái Đức, gọi là “Đức-Tin”. Con người cần có Đức-tin, nếu không, chưa hề làm xong bổn phận con người. Đức-tin có hai hình-thức: Tha-tín và Tự tín. Tha-tín là mình tin nơi người, dầu người có định hướng nào buộc mình phải tin. Còn Tự-tín là ta biết lấy ta, hiểu sở-năng và tin cậy lấy ta. Các vị Giáo-Chủ như Đức Thích-Ca, Đức Lão-Tử, Đức Chúa Jésus Christ, Đức Khổng-Tử dùng tự-tín là đem giáo-lý của mình hiệp với tha-tín là giáo-lý và phương-pháp của các vị có trước như: Đức Brahma, Civa, Krishna, Đức Hồng-Quân Lão Tổ, Thánh Moise mà truyền giáo”

&
QUẺ - 294;
Thiên thượng phong, thiên biên nhựt nguyệt.
Bạch phong thanh, lưỡng lưỡng tương đương.
。天
。兩

Dịch nghĩa:
Trời cao lồng gió mát
Nhựt, nguyệt sáng chân mây.
Gió lành thêm mát mẻ
Song song lợi ích đầy.

Chú giải: Quẻ này ứng vào lời Đức Hộ-Pháp ban Huấn dụ.

“Hôm nay đến giai-đoạn định quốc, Thầy sẽ ban cho các con một phận sự yếu-trọng mới mẻ, phận-sự này khó khăn nguy hiểm hơn trước kia nhiều lần. Muốn cho cả tinh-thần của chiến-sĩ Cao-Đài thống hợp lại làm một khối  tinh-trung cứng rắn mạnh-mẽ để cứu-vãn tương lai của nước, tạo thành hạnh phúc chủng tộc của các con, nên Thầy làm một vị Giáo-chủ đây, tức là một vị Giáo-sư để giáo Đạo cho nòi giống Việt-Nam mà thôi; nhưng vì huyết-quản của Thầy đã xuất hiện trong nòi giống các con, nên phải làm cho xứng phận công-dân ấy, thì Thầy làm phận- sự thiêng-liêng mới xứng giá của  nó. Thầy đã ban cho lá Quốc-kỳ có bốn chữ “TẬN TRUNG BÁO QUỐC”   Có lẽ miệng đời dị-nghị cho rằng bốn chữ đó làm không đúng gì hết, chỉ có hình thể mà thôi. Những tiếng dị-nghị ấy Thầy nói cho các con nhớ,  duy có Bà Mẹ của Nhạc-Phi Bàn-Cử đề bốn chữ  “Tận Trung báo quốc” mà Nhạc-Phi cứu nước Tống khỏi thất quốc.
Người của nước ta duy có hai Tướng:
1-  Một là Võ-Tánh,
2 -  Hai là Ngô-Tùng-Châu

Hai vị ấy đã hy sinh tánh mạng khôi phục hoàng đồ cho Tổ quốc.

&
QUẺ - 295;
Diệp qui căn trường, lập thiên địa,
Thuỷ thanh nguyên. Trường lưu, hà hãi nhân,
Đắc kim đơn, trường sinh uyên nhai.
。立
丹。

Dịch nghĩa:
Lá đổ quay về cội,  Trượng phu đỡ sơn hà
Nước nguồn tuông chảy mãi. Người bốn bể riêng nhà
Kim đơn tu luyện đắc. Sống mãi tuổi không già.

Chú giải:  Chí khí của  bậc trượng phu là lo chống đỡ san hà, những tấm gương anh hùng dân tộc còn đó, họ đã thể hiện tinh thần Thế-Đạo hay Nhơn-đạo thì có Nhân luân và Nhân thân: Nhân-luân tạo nên qui-củ, phép khuôn, phương thức sống. Nhân-thân là y-học, sống khỏe, sống mạnh, sống lâu, ấy là lo về cái sống xác thân. Những qui luật này có liên-hệ nhau chặc-chẽ để TINH- KHÍ- THẦN được hiệp nhứt. Nhớ lại Tinh-thần của Lý-Thường-Kiệt đã đặt hết lòng Tận trung mà Báo quốc ghi tạc vào bốn câu thơ  quả-quyết rằng: bốn chữ “Tận Trung báo Quốc” âý nó sẽ thay đổi tinh thần nòi giống dân tộc,  nó sẽ giúp cho tuổi trẻ thanh niên đắc lực và oai-quyền hơn nữa:
Nam-quốc  san-hà Nam-Đế cư,
Tuyệt-nhiên định phận tại Thiên-thư.
Như hà nghịch-lỗ lai xâm-phạm.
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

&
QUẺ - 296:
Thừa mã khứ trường an. Khán hoa hoa chính phát
Nhứt nhựt vũ lai lâm.   Hương sắc tận điêu linh.
安。
。香

Dịch nghĩa:
Trường an thúc ngựa lên đường,
Ngắm hoa hoa nở dịu dàng xiết bao!
Một ngày mưa đỗ gió gào,
Cánh hoa tan tác rả rời sắc hương.

Chú giải: Cảnh và người hòa hợp nhau một cách hài hòa, vui vẻ. Với thiên nhiên còn vậy, tình người ắt phải đặc sắc hơn, thuận hoà hơn. Nhìn đời tự nhiên thấy mình đáng sống. Như thế là người đồng đạo phải biết thương yêu nhau, cư xử cùng nhau cho hết dạ thuận hòa: trên dạy dưới tuân lời, dưới khuyên trên vui dạ: mỗi việc chi trong đạo đều chung trí nhau tính bàn rồi mới nên cử sự, thì bề thi thố đã không sơ sót mà tình đồng Đạo càng thêm mật thiết; như vậy mới tránh khỏi “cái hại chia phe lập đảng”, mới không lỗi câu “đồng Đạo tương phân”.Đã gọi là đồng Đạo, phải bỏ hết những thù hiềm ngày trước mà liên lạc nhau, đồng tâm hiệp lực vụ một chữ HÒA mà lo điều công ích cho nhơn sanh, thì Thiên đạo mới chóng hoằng khai, sanh chúng sau này mới gội nhuần ân huệ”(Qu.Giáo Tông) Tuỳ duyên, tùy phận đãi cùng đời.
Đừng ráng tranh-giành phải mỏn hơi
Nước vốn đầy sông tùy kẻ xách.
Lộc kia đầy đất tại người dời.
&
QUẺ - 297:
Mộc trường xuân, thiên căn cán,
Lão tử thực tam thu. Chi diệp điêu bất điêu.
Bất tạ bất kiến căn lao.
。天 。老 秋。
。不 牢。

Dịch nghĩa:
Trường xuân loại mộc hưởng ân trời,
Đơm quả vào thu sắc nhuận tươi.
Cành lá sum suê đầy nhựa sống,
Trông vào phần rễ đẳng thiên thời.

Chú giải:  Giữa người và vạn vật có một mối tình thâm thiết.Khi đồng sống thì ngắm hoa, trồng cây kiểng, thưởng đẹp thừa nhàn. Nhưng khi tuổi già như trăng lặn hoa tàn thì có gì đâu là bền chắc? Thế sao không“THUẬN HÒA”?

Sách có câu “Địa lợi bất như nhơn Hòa” nghĩa là đất lợi chẳng bằng người hòa, cho nên gia đình nào mà chẳng thuận-hòa, thì gia đình âý chẳng đặng yên ổn; chồng trách vợ, vợ hờn chồng, gia đạo không thành rồi ra lắm điều cắn đắng. Thân tộc nào mà chẳng thuận hòa tức là thân tộc ấy mất niềm tương hảo, rồi đối với nhau không những là không mật thiết, mà lại còn chống trả nhau, trách thiện nhau, nghịch lẫn nhau cho tương tàn cốt nhục. Xã hội nào mà chẳng thuận hòa tức là xã hội âý phải đảo điên, rối rắm, chẳng chi là trật tự công bình, rồi mạnh đè yếu, trí hiếp ngu, lê thứ phân vân, dân tình ly loạn. Tôn giáo cũng như một gia đình, một thân tộc, một xã hội vậy. Tôn-chỉ Đạo dầu cao-thượng đến đâu đi nữa, nếu người hành Đạo không được thuận hòa, nền đạo tức phải vì đó mà nghiêng đổ. Nền Đạo tỷ như nhơn thân, mỗi người hành đạo chẳng khác nào một phần trong thân thể ấy. Giác quan, tạng phủ thảy đều ăn chịu nhau, nương cậy nhau cả, thì người cùng chung một Đạo cũng phải ăn chịu nhau, nương cậy nhau mới được.” (Đức Quyền Giáo Tông)
&
QUẺ - 298;
Khiếu đạo khiếu đạo,
Thiên tương minh liễu,
Hà bất thân thủ thư my,
phản tố bồng cao đáo lão.
。天

Dịch nghĩa:
Vang vang tiếng gọi!  Trời sắp sáng trong.
Ai ơi tỉnh giấc xuân nồng,.
Đừng làm ra vẻ lão ông quê mùa..

Chú giải: Có lời kêu gọi “Tỉnh giấc xuân nồng” hẳn người đang say vì giấc mộng. Đã là mộng thì không thực. Bởi kiếp người ngắn ngủi như hoa phù dung sớm nở tối tàn. Nhưng hoa phù dung nó còn được khoe sắc màu rực rỡ vào buổi sáng, cũng làm cho say đắm lòng người. Còn kiếp nhân sinh chưa một lần vui trọn.

Thơ của Bạch Cư-Dị có câu này để ca tụng nét đẹp của người con gái; vẻ mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu. “phù dung như diện, liễu như my” Xưa nay vẻ đẹp của người con gái thường ví như Hoa phù dung, nhưng đặc biệt thì “Hoa phù-dung sớm nở tối tàn”, tức là nói đến một hương sắc chóng phai tàn. Phù-dung là tên một thứ cây loại thảo,có hoa đẹp, cao chừng một thước rưỡi đến hai thước, lá to, hoa đỏ hồng hoặc trắng vàng. Sớm mai nở tươi thắm, chiều tối lại tàn đi. Kiếp hoa phù dung là nói đến sự bạc-mệnh của người con gái, quá mỏng manh và nhiều gian-truân. Nhưng hỏi tại sao Trời sinh người con gái ra làm chi để chịu bạc-mệnh như vậy ?
&
QUẺ - 299:
Dược nhĩ chân phục liễu.
Dục tam tề hậu túc phân minh.
Thần trung thần, thanh trung thanh.
Cố đắc khẩn khả trường sinh.
。欲三
。清 清。固 生。

Dịch nghĩa:
Thuốc thang sắc cạn uống ngay,
Ba thang đủ rõ thuốc hay dường nào!
Thần linh phù trợ giúp vào,
Dược linh trong sạch sống cao tuổi trời.

Chú giải: Bịnh đau một phần là cũng do nghiệp gây nên Nghiệp là con đường đi từ Nhân tới Quả. Nghiệp được tạo ra bởi các việc làm lành hay dữ trong kiếp trước, tuy nó vô hình nhưng nó ảnh hưởng lên kiếp sống hiện tại, bằng sự may và sự rủi, để làm cho kiếp sống hiện tại được hạnh phúc hay đau khổ. Việc làm lành sẽ tạo nên Nghiệp lành (Thiện nghiệp), cái Nghiệp lành nầy nó theo ủng hộ mình, nâng đỡ mình (mà mình gọi đó là dịp may). Còn việc làm ác sẽ tạo ra Nghiệp ác (Bất thiện nghiệp), cái Nghiệp ác nầy nó theo báo hại mình (mà mình gọi đó là xui xẻo, rủi ro) khiến mình bị hoạn nạn tai ương và phiền não. Vậy, Nghiệp chướng là những ngăn trở khó khăn trong kiếp sống hiện tại do Nghiệp ác tạo ra. Hai từ ngữ: Nghiệt chướng và Nghiệp chướng, xem như đồng nghĩa, nhưng Nghiệt chướng có ý nghĩa rõ rệt hơn.kinh Cao Đài có câu:
“Dầu nghiệt chướng số căn quả báo,
“Đừng hãi kinh cầu đảo Chí-Tôn”

&
QUẺ - 300:
Tam thiên tằng kết xã. Tứ hải tận tri danh,
Trường kỵ kiêu mã. Trực nhập thiên đình.
社。
。直

Dịch nghĩa:
Ba ngày lễ tạ Thần linh,
Đồn vang bốn biển uy danh lẫy lừng.
Dương roi nhanh giục ngựa tinh,
Thẳng đàng tiến đến triều đình lập công.

Chú giải:  điềm lành của quẻ này ứng với lời Các Đấng Nữ Tiên có bảo rằng phải “coi sự trường sanh của mình là trọng”.Vậy sự “trường sanh” là gì? Phải chăng là những nơi khác hơn cõi thế gian này, vì đây là cảnh tạm. Theo như Đức Hộ-Pháp có cho biết về cuộc đời tạm này rằng: Sao không nhìn sự thật “Kiếp sanh tại thế mang xác thịt, hỏi sống được mấy lát ? Nội một giấc thức, giấc ngủ là thấy sự sống chết của kiếp con người, mang thi-hài bóng dáng này là giả, Cảnh thiệt không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chỗ khác kia, sao không tìm cảnh thiệt, cảnh tồn tại, lại chạy theo bóng dáng ?”
&
QUẺ - 301:
Nhàn lai phu tử xứ. Ngẫu nhiên ngộ nhứt nhân,
Đồng nhan hạc phát. Tiếu lý sinh xuân.
。偶
。笑

Dịch nghĩa:
Đến thầy học hỏi  lúc nhàn,
Tình cờ lại gặp một chàng trẻ trung.
Mặt hồng tươi thắm, tóc sương,
Nụ cười như điểm nét xuân mặn mà.

Chú giải: Trong nhà có người quân tử, thì ngoài cửa có khách quân tử đến.Thử vấn tâm mình ai là quân tử, ai là tiểu nhân? Tự xét mình là tự vấn lương-tâm, tự mình nhìn mình mà kiểm-điểm lỗi lầm. Không một Tòa-Án nào phán quyết mình chánh lý bằng Tòa-Án lương-tâm.Người ngoại cuộc có thể khen ta những điều không đáng khen, chê ta những điều không đáng chê, nhận định sai lầm. Nhưng Toà-Án lương-tâm không sai lầm nếu chúng ta thành tâm, thật ý, vô tư, xét lại điều mình đã nghĩ, đã nói, đã làm thì thấy rõ lỗi lầm của chúng ta như thấy hạt bụi trong ly nước trong ngần. Khi biết tự xét mình là đã chứng tỏ cái lòng ngay thật, cái thiện chí muốn tu thân để hiểu rõ chân tướng của bản-ngã mà sống thật với lòng mình. Nếu thiếu tinh thần tự xét thì đời sống con người phóng-túng, ngang tàng, phạm tội mà không biết tội, nhận tội; nên thường tự mãn, tự cao, tội-lỗi càng ngày càng chồng-chất. Các bậc Thánh Nhân hằng ngày tự kiểm-soát lấy mình, tự xét lấy mình như Thầy Trình-Tử xưa kia: “Mỗi khi làm được một việc Thiện, Thầy bỏ một hột đậu trắng vào trong bình. Mỗi khi lầm-lỗi, Thầy lại bỏ một hột đậu đen vào trong bình. Cứ mỗi ngày Thầy lại đổ đậu trong bình ra đếm để kiểm-điểm xem đã làm bao nhiêu điều xấu, bao nhiêu điều tốt trong ngày. Lúc ban đầu đậu đen nhiều, đậu trắng ít, Thầy cố gắng tập sửa thêm nữa cho đến khi không còn bỏ đậu đen vào bình nữa mới thôi”. Nhờ chú trọng đến việc tu thân mà Thầy Trình-Tử đã trở thành một bậc hiền-triết  xưa.
&
QUẺ - 302:
Nhàn vân dã, Hạc vọng đông hành.
Duy hữu hương nhân, Tiện thị tri âm,
Kinh doanh bố trí lưỡng tam xuân,
Liên nhai đăng đại hậu, cẩm tú tiền trình.
便

Dịch nghĩa:
Cánh hạc nương mây giữa nội đồng,
Hướng Đông thẳng tới vượt ngàn không
Thân tình làng nước thoả lòng,
Kinh doanh sắp đặt mấy Xuân mới thành.
Đèn hoa gặp hội rạng danh,
Gấm cờ gặp gỡ tiền trình may duyên..

Chú giải: Người chiếm quẻ này đứng vào thượng thượng ứng với niềm vui trong đạo pháp.Nay là buổi Thượng nguơn lập đời Thánh-Đức, Thầy đã chọn giống dân Việt Nam này, hẳn đã được một sự “chọn mặt gởi vàng” để gieo truyền mối Đạo.Nay được Đức Chí-Tôn mở Đạo, là một nền Chánh giáo, tất nhiên Người cũng ung-đúc những bậc tài nhân, nghĩa là “Thầy dùng  lương-sanh  mà cứu vớt quần-sanh”.Đức Hộ-Pháp có thuyết giảng rằng:
 “Hội-Thánh tức là đám lương-sanh của Thầy tom góp lại làm một .Cả  lương sanh ấy, Thầy đã dùng quyền thiêng-liêng dạy-dỗ,  trước ung-đúc nơi lòng một khiếu từ bi cho tâm địa có tình “aí vật ưu sanh” theo Thánh-đức háo-sanh của Thầy, dùng làm lợi khí  phàm tục để độ rỗi người phàm tục. Những lương-sanh ấy phải thế nào hội hiệp lại nhau làm một, mà làm ra xác thân phàm của Thầy, thì Thầy mới có hình thể trong lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ này, hầu tránh cho khỏi hạ trần như mấy kỳ trước vậy. Thầy mới dùng Huyền-diệu cơ bút dạy-dỗ mỗi người, đặng tỏ ra rõ-ràng có quả nhiên Thầy trước mắt; để Đức-tin vào lòng mỗi lương-sanh ấy rằng Thầy thật là Chí-Tôn, Chúa cả càn khôn thế giới, cầm cân công bình thiêng liêng thưởng phạt, quyết-đoán rằng Thầy đủ quyền bảo-hộ cho con cái của Thầy, dầu đương sanh tiền hay buổi chung qui cũng có Thầy trước mắt, công thưởng tội trừng, tu thì thành, dữ thì đoạ; chỉ có Niết-bàn, Địa-ngục đôi đàng, đặng dẫn bước đường đời không lầm lạc. Hứa rằng lập ngôi nơi Bạch-Ngọc-Kinh, khai đường vào Cực-Lạc Thế giới và đóng chặt cửa Phong-đô đặng tận độ chúng”
&
QUẺ - 303;
Hán thuỷ vô tình. Thục thuỷ trừng thanh.
Hoàng hà cổn cổn. Tứ hải yên trần.
。蜀 清。
。四

Dịch nghĩa:
Sông Hán vô tình lặng lẽ trôi,
Nước dòng Tây-Thục lắng trong rồi.
Hoàng-Hà say sóng cuồng tuôn chảy,
Khói tỏa bốn phương bụi ngút trời.

Chú giải: cảnh sắc khoe tươi của một đất nước ngàn năm văn vật như nước Trung hoa, được Đấng Thượng đế ban cho đủ giang san gấm vóc, anh linh tú khí, đáng lẽ họ sẽ được mãi là mẫu nghi thiên hạ, nhưng vì ác tâm xua quân đi đánh xứ người,nên họ cũng mất phần thưởng cao quí ấy.

Nay, đến một chu kỳ mới, Việt Nam sẽ được làm chủ tinh thần của nhân loại như Đức Chí-Tôn đã hứa: “Hứa  rằng lập ngôi nơi Bạch-Ngọc-Kinh, khai đường vào Cực-Lạc Thế giới và đóng chặt cửa Phong-đô đặng tận độ chúng sanh, vớt chín mưới hai ức nguyên-nhân trở về cựu vị. Các lời hứa ấy, nếu chẳng phải của Thầy thì chưa một vị Phật nào dám gọi mình đủ quyền mà làm đặng! Cả lương sanh Thầy lựa chọn so-sánh quyền Chí-Tôn của Thầy và cân lời hứa ấy mà nhìn quả thật là Thầy, để Đức-tin mạnh-mẽ mà trông cậy nơi Thầy. Cái Đức-tin ấy nó tràn khắp trong nhơn-sanh mà gây ra một khối lớn tủa khắp cả hoàn-cầu sửa đời cải dữ. Cải dữ đặng thì phải tu, tu thì phải thành; mà nếu cơ thành chánh-qủa chẳng để trước mắt người thì khó mà làm cho nhơn-sanh mến yêu mùi Đạo; nên buộc Thầy phải lập Chánh-thể, xây nền Đạo tại đời cho cả chúng-sanh đều nhìn-nhận vì cớ hiển-nhiên giục lòng lo tu niệm”  (Diễn văn ĐHP 14-2-Mậu-Thìn)
&
QUẺ - 304:
Tiềm long dĩ thụ khổn.
Thượng bất kiến vân hưng,
Trữ khan vân tứ hợp,
Phi khứ đáo thiên đình.
。尚
合。

Dịch nghĩa:
Rồng ẩn nguy nan dưới vực sâu,
Dễ đâu nhìn thấy đám mây cao.
Ngóng trông bốn phía mây dồn lại,
Vút thẳng chiếc thân đến cổng trời.

Chú giải: Điềm này ứng với cơ mầu nhiệm của Diêu Trì Cung không ngừng việc Phổ-độ, Bà Thất-Nương với nhiệm vụ “Khơi đuốc Đạo đầu”, đã để lời cùng các bậc tiền khai Đại-Đạo rằng:  “Em phụng lịnh Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu đến ban phước lành cho tất cả quí Anh cùng tất cả các Bạn Hiệp Thiên-Đài và để đôi lời cùng các Bạn, cứ vững tâm lo tròn nhiệm-vụ của mình là phải Bác-aí, từ tâm, công-bình, Chánh-trực, hằng ngày gieo mối cảm tình với đồng-chủng. Các Bạn chớ tưởng nền Đại-Đạo ở hoài trong khuôn-khổ chật hẹp này đâu, nó phải lướt qua bốn biển năm châu, chừng ấy nơi nào cũng có các Bạn, nếu vắng mặt các Bạn thì nơi ấy không thành Đạo được. Vậy thì chẳng nơi nào mà chẳng có chơn của Chức-Sắc Hiệp-Thiên-đài ! Còn nói về quyền-hành, tuy không mà có, tưởng nhỏ mà to, cả luật lệ nắm trong tay, cân Công-bình nằm trên vai, đố ai chạy đường nào cho khỏi. Nhưng thương thì hay gần-gũi khuyên-răn, có lời chi nặng-nề xin các Bạn miễn nghị và vui lòng đàm-luận thì mấy em lấy làm may-mắn lắm !Cuộc Hội-Yến đến đây long-trọng, Các Chị nơi Diêu-Trì-Cung đều sửa-soạn trang-hoàng, hô-hào nô-nức đặng đến phó Hội. Các Chị đồng để lời cảm ơn đức của các Anh và các Bạn”…
&
QUẺ - 305:
Thử xứ dật vị nùng nùng diễm, Bất nại cửu.
Hà như đàm tiếu sinh phong.
Đảo hảo Đông bôn Tây tẩu.
。不
。倒 西

Dịch nghĩa:
Đây sẵn hương nồng lẫn vẻ xinh,
Đợi lâu thêm những xuyến xao tình.
Chi bằng cười nói đùa theo gió,
Hơn vẫn tây đông vất vả tìm..

Chú giải:  Quẻ này ứng với việc Đức Khổng-Tử đi chơi núi Thái-Sơn, gặp ông Vinh-Khải-Kỳ ngao du ở ngoài đồng, mặc áo cừu, thắc lưng dây, tay khải đàn Cầm, vừa đi vừa hát. Đức Khổng-Tử hỏi:“Tiên-sinh làm thế nào mà thường vui-vẻ thế? Ông Vinh-Khải-Kỳ nói:Trời sinh muôn vật, loài người quí nhất, mà ta được làm người, đó là một điều đáng vui. Trong loài người, đàn ông quí mà ta được làm đàn ông, đó là hai điều đáng vui. Người ta sanh ra, có người đui què, có người non yểu, mà ta khỏe mạnh nay đã chín mươi tuổi, là ba điều đáng vui..Cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự hết của đời người. Ta nay an phận thủ thường đợi lúc chết thì có gì là lo buồn ?. Đức Khổng-Tử nói: Phải lắm, thế là Tiên-sinh biết cách tự làm cho khoan-khoái mà hưởng sự vui thú ở đời. Cái vui sướng không ở đâu xa, mà ở ngay trong mình tự biết. Nay người Cao Đài có thể trả lời rằng: hạnh phúc thứ nhứt tôi là người Việt Nam; hạnh phúc thứ nhì tôi là người biết Đạo; hạnh phúc thứ ba tôi đang ở trong lòng Đại Từ Phụ.
Nhà Hiền-Triết Hy-Lạp Epicure có câu: “Se suffire à soi même c'est posséder le plus précieux des biens: la Liberté” Nghĩa Tự-túc là có được một thứ của quí nhứt trên đời: Sự tự-do,vậy thanh nhàn là “Tự-do của tâm hồn”.
&
QUẺ - 306:
Giá lý hữu tiểu nhân. Thiết mạc sảo lưu đình,
Mang đả điểm, Hảo khởi hành.
Nhựt nguyệt du. Vật cữu tồn.
。切
。好 。日 。勿

Dịch nghĩa:
Tiểu nhân lẫn khuất đâu đây,
Đừng nên nấn ná giây lâu ích gì.
Hãy ngay thu xếp ra đi,
Trôi qua ngày tháng, trù trừ hại thân.

Chú giải: người sống mong được thấy huyền diệu, nhưng huyền diệu trước mắt mà ít ai để ý tới. Đời có thường vậy.
“Ta hãy thử nghĩ; cả toàn cơ-quan huyền-diệu vô biên Đức Chí-Tôn đào tạo trong càn-khôn vũ-trụ và vạn vật hữu hình, chúng ta có thể quan sát trước mắt chúng ta đây, chúng ta ngó thấy đều do khuôn luật thiên-nhiên tương-đối mà ra. Ấy vậy: hễ có khuôn luật tương-đối tức nhiên nó phải có đối cảnh. Bởi khuôn luật tạo ra hình, hễ có hình thì có cảnh; tức nhiên có hình thì có bóng, vô bóng tức nhiên vô hình. Chúng ta thử nghĩ luật tương đối, chúng ta lấy điều đơn-sơ quan-sát, chúng ta ngó thấy sống trong giấc ngủ và chúng ta sống trong giấc thức: Ngủ là sống với vạn-linh. Thức là sống với vạn-vật Chúng ta quan-sát được hai đối cảnh, sánh với khuôn luật càn khôn kia cũng vậy không có gì khác; có cảnh sống cũng có cảnh chết, sống chúng ta thế nào, chết chúng ta thế ấy: Sống, chúng ta là khách của quán tục này. Chết, là trở về nguồn cội; tức nhiên nhập trong cảnh thiêng liêng hằng sống chớ không có chi lạ .Ấy vậy, thức ngủ là trong khuôn luật sống chết, có cái sống phải có cái chết. Hành-tàng sống chúng ta thể nào thì buổi chết chúng ta cũng hiện tướng ra nguyên vẹn, không điều gì lạ hết”. 

&

QUẺ - 307;
Long sinh đầu giác, tương bái cam lâm,
Lục thất bát tảo, Hảo tề thương sanh.
。將
  生。

Dịch nghĩa:
Rồng linh mọc sẵn đầu sừng
Dòng sương ngon ngọt thắm tình rồng mây.
Sớm nhanh  theo gió an bày
May ra cứu khổ nạn tai dân lành.

Chú giải: Rồng có đầu là hiện tượng được coi là lạ. Sự sống chết của con người có lạ không? Tại sao phải bày ra cuộc trần sinh có sống, chết để làm gì ? Có vô-ích không? Có  nên  bỏ đi không ?

Khi con người còn hơi thở, gọi đó là sống; vì có ngũ-quan biết cảm-giác xúc-động, đi đứng, làm cho con người có cái sống thực-tế, theo con mắt thấy của người hằng ngày. Khi con người không còn cử-động được nữa gọi là Chết, ấy là nó phải chịu luật tiến-hóa của tạo đoan, phải thay cũ đổi mới để cho xác thân này trở nên đẹp-đẽ đặng phù hợp với linh quang sáng suốt của Đức Chí-Tôn ban cho nơi mặt  thế này, để thay thế cho Ngài đặng bảo vệ cơ sanh hóa của Ngài cho được tồn-tại. Nhưng mỗi lần thay đổi hoặc luân-chuyển là làm cho trình độ nó cao hơn, tốt đẹp hơn. Như vậy, luật thay đổi hay luật luân-hồi rất có ích cho cơ sanh-hóa  của Tạo-đoan, vì mỗi lần thay đổi hoặc luân-chuyển là mỗi lần  tiến-hóa cao hơn. Nên luận về Bí-pháp thì không có gì là mất hay chết cả. Bởi trong cái chết có ảnh hưởng cho cái sống và trong cái mất nó có ảnh hưởng cho caí còn” .
&
QUẺ - 308;
Thái Bạch hiện Tây-Nam.
Long xà tương cạnh trục.
Long tự phi thượng thiên.
Xà khước bị tình lục.
西 南。
。蛇 

Dịch nghĩa:
Vì sao Thái Bạch hiện Tây-Nam
Rồng rắn tranh nhau lẽ thiệt hơn
Rồng hướng mây cao bay liệng khắp
Rắn tà bị diệt, nát tan thân.

Chú giải: Người Á-Đông  ta quan-niệm rằng Trời là thiên thượng, người là thiên hạ; tức nhiên Ông trời trên là cha, ông trời dưới là con. Thế nên người tu cốt để đạt được ngôi Phật, ngôi Trời. Đức Hộ-Pháp dạy:Phương luyện-kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại-Đạo. Là nghĩa làm sao?
Luyện-kỷ là sửa mình, hay là phương-pháp tu thân của con người. Trên phương-diện “Nhân-sinh-quan” con người là một thực thể linh-hoạt, tối linh hơn tất cả muôn loài. Con người có tâm hồn, có tư-tưởng, có tình cảm, có trí khôn, có khả năng sáng tạo và tiến-bộ không ngừng. Vì nhu cầu vật-chất, loài người đã cố-gắng phát minh cơ năng hữu tướng đến mức tận mỹ, quên lãng sự trau tâm sửa mình để trở nên tận thiện. Vì nặng vật-chất hơn tinh-thần nên nhơn-loại đã bôn xu trên nẻo lợi đường danh gây nhiều tội ác, nghịch thù, xô-xát chém giết lẫn nhau, tạo cảnh chiến tranh thảm khốc là tai họa đương nhiên dẫn-dắt đến cơ tận diệt. Thế nên lấy sự tận thiện của tinh-thần kềm chế đà tiến-triển của sự tận mỹ vật-chất tức là giục tấn theo Đạo Trung Dung, tạo cơ chuyển thế, lập đời Minh Đức Tân Dân để trở nên tận thiện, tận mỹ đó vậy.
&
Quẻ - 309:
Tằng bả thụ tài. Dã yếu đãi xuân lai.
Đông phong niệu niệu, Khai biến hoa nhai.
。也
。開

Dịch nghĩa:
Ra công trồng tưới vườn cây,
Lòng hằng mong mỏi đến ngày xuân tươi.
Gió đông nhè nhẹ qua trôi,
Đầy cành hoa nở ngát mùi hương trinh.

Chú giải:  Hoa ngát hương, người thắm nhuần đạo đức ứng hiệp nhau. Đức Hộ-Pháp cũng cho biết rằng:
 “Cái trường Càn khôn tạo hóa vốn của Đức Chí Tôn lập, đặng dạy các đẳng linh-hồn thêm học thức, học đặng biết; đặng biết mình trước đã, sau mới mong tìm-tỏi biết người,  tấn-hóa cùng cơ thể luân hồi,  rộng học thức nhờ bởi chịu nhọc nhằn đau thảm. Ngày nào đặng linh thiêng tột bực, thì hiểu cùng cặn-kẻ mối huyền vi . Cả tinh thần đúng bậc trí tri, thì mới đoạt đặng phương hằng sống.  Nếu chẳng phải là điều viễn-vọng, nay trời là chi, sau ta cũng là chi ? Tu cho nên Bác-aí, Từ bi, tạo thế khác có khi ta chủ-tể. Cái không trung vô ngằn kia biết bao nhiêu cho cùng tận.  Hễ Trời ngày nay đã làm đặng điều gì thì sau ta cũng có khi làm đặng vậy, gia nghiệp của mỗi con người nơi thiêng-liêng có sẵn gọi là cảnh-giới cá nhân, nếu mình biết lo sự nghiệp nhỏ là phương khai thế giới .”
&
QUẺ - 310:
Tứ thập dư niên khổ dĩ thâm.
Nhi kim an lạc độ quang âm.
Mạc trù luận. Tư ái thượng đa hoan hỉ sự.
Tích thậm thanh xuân, bất giảm thanh xuân.
。而

Dịch nghĩa:
Bốn mươi năm lẽ khổ đau nhiều
Nay được thư nhàn rạng vẻ tươi.
Suy tính ích gì điều hơn thiệt
Tình duyên sáng đẹp lẫn vui cười.

Chú giải:Tuồng đời xưa nay vẫn chung một vòng lẩn quẩn.

Mặt luật thiêng-liêng vẫn vậy, coi tuồng đời nào có thấy sửa bao nhiêu, sanh tử tử sanh, hư hư hoại hoại, cái cơ tạo vẫn xây vần .Người này tạo rồi chết qua, kẻ khác hóa thêm rồi cũng chết, chỉ học nghì tạo-hóa mà các đẳng linh-hồn dễ biết bao căn kiếp tại thế này, tạo hữu hình đặng thông hoá phép vô-vi, lấy gia-nghiệp đặng tri cơ thế giới. Hỏi ai đã tránh khỏi cái quyền năng vô tận của luật pháp ấy chăng ? Không phải tạo cho mình dùng, thì cũng hóa dùm cho kẻ khác. Theo mà học hoài lấy kiểu vở của Hoá công; dầu cho đến tận thế phép không dời đổi.         Đã biết hữu-hình thì hữu-hoại, mà con người lầm lũi cứ làm hoài, làm cho đến đỗi liệt gối mòn tay, mà làm hoài chẳng mỏi. Làm chưa hết của mình mà còn lo toan tính giựt-giành của kẻ khác, chất chứa đồ làm ấy cho nhiều, nào tiền bạc, nào cửa nhà, nào ruộng sâu trâu cả; làm cho đã thèm các vật”…
&
QUẺ - 311:
Tam đông túc, văn ngệ tinh.
Đáo đầu xứ, diệc thành thuỷ,
Cấp cấp hồi đầu, vật ngộ tiền trình.
。文
處。
。勿

Dịch nghĩa:
Ba lần đông lạnh qua rồi,
Văn chương, nghệ thuật đến hồi tinh thông.
Công thành hãy kíp quay chân,
Như dòng nước mát về nguồn thảnh thơi.
Mau mau ngoảnh lại xem trời,
Con đường trước mắt kẻo rồi lầm to.

Chú giải: điềm này ứng với lời Đức Hộ-Pháp nói:
“Con người cũng một phần trong vạn-vật. Đức Chí Tôn định cho loài người làm Chúa của vạn-vật là tại sao? Bởi con người có tánh linh hơn vạn-vật là biết thương yêu bảo tồn chúng nó, ví như mình thương yêu con gà, con chó mình mới nuôi để cho nó sanh hóa ra nhiều. Hoặc mình thương cái cây, cái trái mới gieo trồng nó, vô phân tưới nước cho được sung mãn nảy nở thêm ra, mới xứng đáng làm Chúa của vạn-vật”.

Tóm lại, tất cả muôn loài, cầm-thú, côn-trùng, thảo mộc.. cũng như loài người, vốn là bạn đồng-sanh cùng một nguồn-gốc nơi Đấng Chí-Linh. Chúng ta phải biết thân thích, tức là gần-gũi thương yêu hơn là bạc-đãi sát hại một cách vô tâm mà trái với đức háo-sanh của Thượng-Đế.
&
QUẺ - 312:
Kỳ quái kỳ quái. Tiền hương lai liễu.
Kim phiên hựu lai cẩn. Thận đề phòng.
Vật bị lộng nhưỡng.
怪。 了。
今番 。慎 。勿

Dịch nghĩa:
Lạ lùng thay chuyện thế nhân,
Việc chưa mong mỏi lần lần hiện ngay.
Giờ nay dịp tốt vào tay,
Gắng lòng giữ lấy kẻo hoài công thôi.

Chú giải:  Phải ân hậu và khoan hồng. Ân là ơn, Hậu là dày-dặn. Ân-hậu là thi ân nhiều, làm ơn không biết chán. Người ân-hậu là người có ân đức rộng lớn, ăn ở có thỉ có chung, trước cũng như sau không thay dạ đổi lòng. Dầu gặp cảnh giàu hay nghèo, đối xử với người vẫn giữ một mực, biết trọng nghĩa khinh tài, thi ân bất cầu báo, lưu nhơn tình cùng tất cả mọi người không bao giờ phai lợt. Khoan-hồng là rộng lượng, quảng đại, không cố chấp. Lấy tánh khoáng đạt rộng-rãi đối xử với người, không nhỏ nhen, hẹp hòi. Ân-hậu và khoan-hồng là hai đức tánh liên quan với nhau nên đã được ghép chung thành một danh-từ khoan hậu, là tấm lòng rộng-rãi, đức-độ dày-dặn.
&
QUẺ - 313:
Canh ngưu phục hàng. Tịch thổ khai cương.
Toạ khan thu hoạch: Thử tắc đạo lương.
降。闢
。黍

Dịch nghĩa:
Trâu cày ngã chúi trước càng,
Mở đầu ra sức khai hoang ruộng đồng.
Ngồi xem lúa trổ đầy bông,
Hoa màu ngũ cốc thoả công nhọc nhằn.

Chú giải: Chuyện bảo Thúc Nha và Quản Trọng. Bảo Thúc-Nha chết, Quản-Trọng thương tiếc, khóc rất thảm thiết, nước mắt ướt dầm cả vạt áo. Có người hỏi: Ông với Bảo-Thúc không phải là họ hàng thân-thích gì, mà sao ông khóc quá như vậy? Quản-Trọng nói: Ta lúc nhỏ khốn-khổ, thường buôn bán chung với Bảo-Thúc. Lúc chia lời bao giờ ta cũng lấy phần hơn mà Bảo-Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh quẩn bách, bất đắc dĩ phải lấy như thế. Ta ở chợ thường bị lắm kẻ dọa nạt, Bảo-Thúc không cho ta là nhác, biết ta có bụng bao dung. Ta bàn việc với Bảo-Thúc nhiều khi việc hư hỏng, Bảo-Thúc không cho ta khờ, biết lúc may lúc rủi cho nên công việc có thành có bại. Ta ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi, Bảo-Thúc không cho là bất lực, biết ta chưa gặp thời. Ta ra trận ba lần đánh thua cả ba, Bảo-Thúc không cho ta là bất tài, biết ta còn mẹ già để phụng-dưỡng.Ta nhẫn-nhục thờ vua Hoàn Công, Bảo Thúc không cho ta là vô sĩ, biết ta có chí làm ích-lợi cho cả thiên-hạ.Sanh ra ta là cha mẹ, biết ta là Bảo-Thúc, ta thương khóc thế nầy đã thấm vào đâu! (Trích Cổ-Học Tinh-Hoa) Trên đời, Bá-Nha và Tử-Kỳ được người ta gọi là bạn tri-âm. Còn Bảo-Thúc-Nha và Quản-Trọng người ta gọi là bạn tri-kỷ. Bảo-Thúc-Nha nghe những là bạn tri-kỷ, còn có thể gọi là người khoan-hậu đối với Quản-Trọng.
&
QUẺ - 314:
Yêu hạ bội thanh bình. Bộ nhập kim loan điện,
Phú hộ tam sơn. Thiên chung bách luyện.
。步 殿。
。千

Dịch nghĩa:
Bên lưng mang kiếm thanh bình
Ung dung thẳng tiến trước đền kim loan
Ra tài bảo vệ núi non
Muôn nghìn sắc thép luyện rèn kiếm hay.

Chú giải:  Phải thanh nhàn, đừng vị-kỷ. Phải để tâm hồn được thảnh-thơi, không nên quá ràng buộc mình vào vòng danh lợi mà phải lao tâm nhọc trí. Chúng ta sống trong cảnh phồn hoa vật-chất, thường chịu ảnh-hưởng của ngoại cảnh thế tình, tâm trí không bao giờ được yên tĩnh do lục dục thất tình khuấy động, cho nên muốn được thanh-nhàn cần gột bỏ Tham- Sân- Si là nguồn-gốc đưa con người đến chỗ ham, mê, thù, giận. Một khi trói buộc vào các tánh ấy thì tâm hồn lúc nào cũng bận rộn, không thảnh-thơi. Vì thế, cần phải quyết lòng cởi mở, thơ-thới ung-dung. Người thanh-nhàn lúc nào cũng biết an phận thủ thường, không đứng núi nầy trông núi nọ. Biết “thích kỷ tự an” hoặc “Tùng ngộ nhi an” là biết an vui mà “lạc tại kỳ trung”.

&
QUẺ - 315:
Ly điểu hội phi cao.  Xuất cốc thiên kiêu.
Xà long thần nha trảo. Biến hoá hãi đảo.
高。

Dịch nghĩa:
Chim rời tổ mẹ đã bay cao,
Lướt dặm mây ngàn đến chốn hay.
Rồng rắn vật linh răng móng đủ.
Biển cồn biến hoá luyện chân tài.

Chú giải:  Đừng vị-kỷ: Kỷ là Ta, là Bản-ngã (le Moi).
Vị-kỷ là chỉ biết có Ta, vì Ta, người như thế hoàn toàn ích-kỷ (Égoiste). Phản nghĩa với “vị-kỷ” là “vị-tha” hay là “vô ngã” (la négation de soi) nghĩa là không có Ta. Người ích kỷ là chỉ biết ích-lợi riêng cho mình nên không kể đến người khác.Vì quá bảo-thủ cho bản thân mà quên mất sự sống còn của người khác. Do đó, tấm lòng từ thiện không nảy nở được để tế khổn phò nguy, giúp kẻ yếu cô hoạn nạn. Dầu ai dèm pha chê trách mình điều gì cũng đừng nên vội giận. Nghe thấy ai khen điều gì cũng chưa nên vội mừng. Không quá vui vì được phước, mà cũng đừng quá buồn khi gặp tai họa. Nên “vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thấm vào chơn tánh”, .
&
QUẺ - 316:
Hỉ hỉ hỉ, tầm thường nhứt dạng song tiền nguyệt,
Hung hung hung, hữu liễu mai hoa tiện bất đồng,
Hàm tiếu hướng đông phong.
Nhân tình bất tỷ cựu thời nùng.
月。
便
。人 時濃

Dịch nghĩa:
Dịp may chợt đến không lường,
Trăng treo song cửa chuyện thường thế nhân
Sau lưng theo việc chẳng lành,
Hoa mai chẳng tiện  phô cành gió đông.
Tình đời khó nỗi cảm thông,
Trước ra nồng thắm, nay trông phũ-phàng.!

Chú giải:  Cửa Đạo có cơ quan Phước Thiện là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, hoặc giúp tay cho bên Hành Chánh thi hành luật pháp cho đặng dễ dàng trọn vẹn. Cầm đầu Chưởng Quản Phước Thiện là hai vị Chưởng quản Phước Thiện Nam và Nữ phái. Chơn truyền của Phước Thiện là thay thế cho Chí Tôn và Phật Mẫu thực hành cơ cứu khổ bằng phương pháp là: Làm cha những kẻ không cha, làm mẹ những kẻ không mẹ, làm anh những kẻ không anh, làm bạn những kẻ thiếu bạn, làm chồng làm vợ những kẻ không vợ không chồng, trong sự thương yêu cao quí và trong sự giúp đỡ chơn thành. Có vậy mới có thể thực hành cơ quan cứu khổ của Đức Chí Tôn để nơi mặt thế nầy.” (Đức Cao Thượng Phẩm)
&
QUẺ - 317:
Hoả thiên viêm tai. Nghi thuỷ tương tế,
Bảo đỉnh đơn thành. Hiên thiên yết địa.
。宜
。掀

Dịch nghĩa:
Trời nắng như nung xảy hoạ tai
Hãy nên tìm nước tưới vào ngay,
Đỉnh quý báu nhà nên sở đắc,
Ngày sau giúp sức lập huân tài.

Chú giải: Tích Vua nước Vệ: buổi trước rất yêu Di-Tử Hà. Luật pháp nước Vệ, ai đi trộm xe của vua thì phải tội chặt chân. Mẹ của Di-Tử-Hà đau nặng, đêm khuya có người đến gọi, Di Tử-Hà vội-vàng lấy xe vua ra đi, vua nghe thấy khen rằng: Có hiếu thật! Vì hết lòng với mẹ mà quên cả tội chặt chân. Lại một hôm, Di-Tử-Hà theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt, còn một nửa cho vua ăn. Vua nói “Yêu ta thật, của đang ngon miệng mà biết để nhường ta”. Về sau, vua không có lòng yêu Di-Tử Hà như trước nữa. Một hôm, Di-Tử-Hà phạm lỗi, vua giận nói rằng: “Di-Tử-Hà trước dám tự tiện lấy xe của ta đi. Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa, thật đáng tội với ta đã lâu ngày". Nói xong bắt đem ra trị tội. Ôi! Di-Tử-Hà ăn ở với vua trước sau cũng vậy, thế mà trước vua khen, sau vua bắt tội là chỉ tại khi yêu, khi ghét khác nhau mà thôi. Cho nên Ca dao có câu:
“Thương nhau cau bảy bổ ba,
“Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười.”

Có độ lượng thì không xử sự như vua nước Vệ bao giờ. Khoan-dung và tha-thứ là rộng lượng bao dung, tha thứ những điều sai sót lỗi lầm của người khác đối với mình.
&
QUẺ - 318:
Thiết tố nhứt điều, vị bả cô  châu hệ,
Kim đao nhứt hạ, tảo bả đầu lạc địa.
。未 繫。
。早

Dịch nghĩa:
Một dây xích sắt sẵn trong tay,
Thuyền lẻ ngoài khơi chửa buộc ngay.
Nắm sẵn con dao loang loáng sáng,
Chờ thêm dịp tốt mới ra tài.

Chú giải: Thuở xưa có ông Lưu-Khoan là một vị quan có tấm lòng khoan-dung độ-lượng. Buổi sáng, khi mặc áo đi chầu vua, người thị-tỳ bưng bát cháo lên hầu, chẳng may làm đổ cháo dính áo, thị-tỳ run sợ quá, lấy tay vuốt áo, nhưng Ông Lưu-Khoan thản nhiên không đổi sắc mặt, còn ôn-tồn hỏi rằng:  Cháo nóng có phỏng tay con không? Đó là một tấm lòng khoan-dung đại-lượng, chẳng những không quở phạt mà còn thương xót kẻ hầu hạ, phát xuất nơi lòng “Nhân” mà ra vậy.
&
QUẺ - 319:
Thập nhị thời trung, khẩn cấp luyện trước,
Nhứt khắc thiểu diên, vô xứ hạ cước.
。緊
。無

Dịch nghĩa:
Mười hai giờ ấy có là bao,
Hãy gấp dự phòng mưu chước cao.
Một phút dần dà e hiểm hoạ
Rồi đây không lối đặt chân vào.

Chú giải:- Đạo Cao Đài còn có con đường tu thứ ba nữa là Luyện đạo trong Tịnh Thất, dành cho bực thượng thừa đã lập được đầy đủ công quả nơi Cửu Trùng Đài hay trong Cơ quan Phước Thiện. Ba Tịnh Thất dùng trong việc Luyện đạo là:  - Trí Huệ Cung dành cho Nữ phái.
- Vạn Pháp Cung dành cho Nam phái
- Trí Giác Cung.

Điểm đặc biệt của Đạo Cao Đài khác hẳn với Phật giáo là: các tu sĩ Phật giáo sống nhờ vào sự cúng dường của nhơn sanh và sự khất thực của các khất sĩ. Các tu sĩ của Đạo Cao Đài chủ trương tự làm ra lương thực và của cải để tự nuôi sống mình mà lo tu hành, đồng thời có dư ra để làm các công việc từ thiện, cứu khổ nhơn sanh. Cơ Quan Phước Thiện đảm nhận nhiệm vụ quan trọng nầy, nên được gọi là cơ quan bảo tồn. Thế nên, những cơ sở Phước-thiện như: Cô Nhi Viện, Dưỡng Lão Viện, Bảo Sanh Viện, Y Viện, Nghĩa thục... là thuộc phần trách  nhiệm của Cơ Quan Phước Thiện.
&
QUẺ - 320:
Phong khởi Tây Nam, hồng nhựt đương thiên,
Kỳ môn diệu quyết. Nhứt chưởng năng khan.
西 。紅
。一

Dịch nghĩa:
Ngọn gió Tây Nam đã thổi mau,
Lưng trời bóng  nắng đã lên cao,
Lắm điều lạ mắt thêm huyền diệu,
Trong tay, nhanh trí thấy ra vào!

Chú giải: Phải vui-vẻ, điều-hòa, tự-chủ và quyết đoán.Có vui-vẻ thì tâm hồn mới được thơ-thới, có vui-vẻ mới cởi mở được cõi lòng vốn hay bực dọc do sự phiền não hằng

ngày, tạo ra bầu không khí khoan khoái dễ chịu cho riêng mình và cho tất cả mọi người xung quanh. Sự vui-vẻ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, nảy nở nhiều tánh-đức tốt để thâu phục được cảm-tình của người khác.

Điều-hòa là êm-ái, hòa-thuận. Điều-hòa là tượng trưng trật-tự chung trong trời đất (loi d'harmonie) và đạo Trung-dung của loài người.
- Vũ-trụ có điều-hòa thì càn-khôn mới an tịnh.
- Âm-dương có điều-hòa thì vạn-vật mới được sanh hóa.
- Xã-hội có điều-hòa thì dân chúng mới hưởng thanh bình.  -Gia-đình có điều-hòa thì người mới an vui hạnh-phúc.
- Lễ Nhạc có điều-hòa thì mới có tiết-tấu âm thanh.
- Thân-thể con người có điều-hòa thì máu huyết mới lưu thông, khỏe mạnh. Tâm-trí có điều-hòa thì con người mới sáng-suốt. Trái với sự điều-hòa là hỗn loạn, không trật-tự. Người luyện-kỷ cần giữ tâm tánh điều-hòa, tức giữ được cái đạo Trung-dung thì linh-tâm mới thuần nhất mà soi sáng lòng mình hầu dìu độ đến chỗ tận thiện tận mỹ.

&
QUẺ - 321:
Vạn lại vô thanh tế. Nhứt nguyệt chính đương không. Vật bị vân già yểm. Hạo phách phản mông lung.
。皓

Dịch nghĩa:
Muôn loài vắng tiếng im hơi,
Bóng trăng ẩn khuất che mờ vì mây.
Việc làm nhiều rủi ít may,
Anh hùng nên phải bó tay đợi thời.

Chú giải: Muốn giữ được cái tâm cho còn bổn nguyên chí linh, chí Thánh, thì đừng để lục-dục thất-tình lấn áp, làm mờ tối cái ánh sáng thiêng-liêng đó, tức là dọn mình cho trong sạch mới thấy được cái Tâm là nơi cảm ứng với các Đấng Trọn-Lành và cũng là Tòa ngự của Đức Chí-Tôn nơi lòng mình đó vậy. Đức Chí-Tôn có cho bài thi:
Bạch-Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng cần hạ giới vọng cao ngôi.
Sang hèn trối kệ Tâm là quí,
Tâm ấy Tòa Sen của Lão ngồi.

&
QUẺ - 322:
Nhứt cá tri âm, khước tại thiên biên đẳng,
Thiết vật nhân tuần, Tĩnh dạ đương tư tỉnh.

Dịch nghĩa:
Một người tri kỷ. Đợi tận phương trời
Xin đừng sai hẹn ai ơi!
Canh khuya thanh tịnh mấy lời tính toan.

Chú giải: Hiếu hạnh với Chí-Tôn và Phật Mẫu. Với Cha Mẹ hữu-hình ban cho chúng ta một mảnh thân phàm xác thịt, thì hai Đấng Phụ-Mẫu Thiêng-Liêng ban cho chúng ta nhứt điểm linh và một khối Chơn-Thần để làm chủ xác thân ta. Muốn đền đáp công ơn đó, chúng ta phải hiếu hạnh. Hiếu-hạnh với Phụ Mẫu hữu-hình là sớm thăm tối viếng, vâng lời chìu lụy, ân cần dưỡng nuôi, tạo danh thơm tiếng tốt, làm đẹp mặt nở mày Tông-môn Tổ-đường thì đối với Phụ-Mẫu Thiêng-Liêng chúng ta cũng phải: thường xuyên cúng kính, lễ bái thường hành hôm sớm “Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang” cho hằng bữa tâm hồn được gần-gũi ân điển Thiêng-Liêng, gột rửa chất phàm, giải tiêu oan-nghiệt, tinh-thần trí não được sáng suốt để thể Thiên hành Đạo cho đúng với Luật-Pháp Chơn-Truyền.

&
QUẺ - 323:
Chúng khuyển tương tụ, lộ xỉ giảo nha,
Dao đầu bãi vĩ. Chỉ cố khán gia.
。礪
尾。只

Dịch nghĩa:
Đàn chó tụ họp. Múa mỏ nghiến răng
Lắc đầu vẫy đuôi. Giữ nhà mà thôi.

Chú giải:  đàn chó là những con vật được tiếng là trung thành. Dù chủ nuôi có đối xử tê bạc cỡ nào nó vẫn một lòng trung tín mà thôi. Nghĩ tiếc cho lòng sinh phản bội ?

Đức Hộ-Pháp nói: “Mấy em Nam, Nữ nghĩ coi; một lời tiên tri trước kia nó hiện tượng hôm nay ra thể nào, mấy Em biết cái huyền linh vô biên của Đấng cầm quyền thưởng phạt vô hình nó mạnh mẽ và chơn thật thế nào? Bởi cớ cho nên khi Đạo mới phôi thai thì các quỷ quyền toan diệt Đạo. Buổi sơ sanh Đạo yếu ớt, bạc nhược, ngu dại, dốt nát thế nào, nên bị nó giục cho thiên hạ dùng cả năng lực quyền hành của mình toan tiêu diệt Đạo cho kỳ đặng. Họ đồ mưu chia rẻ làm cho trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn phải ly tán, Anh nghịch Em, Em bất hòa với Anh, cả nền Đạo chinh nghiêng đảo ngược.Gánh một chức vụ Hộ-Pháp cầm cả Luật Pháp của  Đạo, không lẽ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí Tôn. Qua phải tìm phương giải quyết đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn muốn ấy đặng làm căn bản. Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra Phạm-Môn và Qui-thiện.”
&
QUẺ - 324:
Thê tiền phu hậu nhứt đồng hành.
Hảo tỷ tiên cơ phi dĩ minh.
Quân nhược hữu tình tu thiết ký.
Thập niên ân nghĩa mạc vong tâm.

Dịch nghĩa:
Chồng sau vợ trước cùng đi
Thiên cơ đã định thị phi cũng rành
Ai kia ghi nhớ chữ tình
Mười năm ân nghĩa đã đành chớ quên.

Chú giải: Nho-Giáo đã giải-thích: Tâm sanh Tánh, Tánh sanh Tình, cho nên mới có câu: “Tánh tự Tâm sanh”性自心生 và triết-học của Nho-Giáo là “Tồn Tâm dưỡng Tánh" 存心養性 Ngày nay, Đức Chí-Tôn đến khai Đạo, chữ Tâm được giải rõ hơn:“Nhà Nho nói Tánh tự Tâm sanh, đó là lý-thuyết của Đạo Nho. Chỉ biết có một điều là ta quan-sát cơ thể thấy hiện tượng mà tỏa trạng hình được, vì Đạo Nho chưa phải là một Tôn-Giáo huyền-bí. Còn Đức Chí Tôn đến dạy ta biết rằng Tánh là chơn tướng của Chơn Thần, còn Tâm là chơn tướng của Chơn-Linh. Chí Tôn dạy: Tánh của mỗi chúng ta là hình thể thứ nhì của ta, hình thể thứ nhứt là Tâm tức là Chơn-Linh, thứ nhì là Tánh tức là Chơn-Thần, thứ ba là xác-phàm thú chất nầy.

&
QUẺ - 325:
Thử phu huyệt. Bổn tự ninh,
Nhứt lộ thủ, miêu tức căn.
Thân uy dương trảo, thử táng tàn sinh.

Dịch nghĩa:
Chuột trong lỗ. Tự kiên cố.
Đầu ló ra. Mèo rình ngó.
Dương móng làm oai. Chuột nguy tại chỗ.

Chú giải: Chuột, trời sanh ra để sợ mèo. Mèo ăn chuột là bản tính sinh tồn của nó. Tuy mèo nhỏ con, hay nũng nịu nhưng bản chất nó cũng oai phong lẫm liệt nên chuột ngán là phải. Cái tướng tinh nó giống như cọp, mà còn là “Dì của cọp” nữa chứ. Người ta nuôi mèo là để bắt chuột (mèo sát chuột). Thế mà khi các vị đồ nho thử đố câu “Sát nhứt miêu cứu vạn thử” thì có câu trả lời ngay: Giết một con mèo để cứu lấy hàng ngàn con chuột! Có trớ trêu không ? Sai rồi. Miêu đây là loại sâu miêu, vốn phá lúa như sâu rầy vậy. Thử đây là lúa nếp. Nếu giết trừ đi một con sâu miêu thì cứu lấy hàng ngàn cây lúa.(Chữ nho nhứt tự lục nghì là vậy).Bây giờ nói chuyện tiên tri: Đức Chơn Cực Lão sư giáng cơ nói chuyện với ông Thủ Tướng Hoạch năm 1937. Đang lúc có con mèo chạy qua. Ông nói: Ê ! Hoạch, nhà “Toa”có nuôi con mèo mun phải không. Cho thi:      
Mèo mun ngồi tựa góc mùn meo,
Trèo đái trên cây bẻ trái đèo.
Lách trật khỏi nhào vỡ lật trách,
Leo ra chủ rượt chạy la reo.
Thú vị lắm, các Bạn thử đoán xem.!
&
QUẺ - 326:
Thư trung hữu nữ nhan như ngọc.
Thư trung tự hữu hoàng kim ốc,
Độc tận ngũ xa thư, chí nguyện tự năng túc,
Hà tất tiêu lao, tâm trung mang lục.
中忙

Dịch nghĩa:
Sách hay sẵn có hồng nhan,
Kinh thơ đầy đủ nhà vàng bên trong.
Năm xe sử sách đọc xong,
Tự nhiên chí thoả trong lòng thảnh thơi.

Chú giải: theo Tân-Pháp của Đại-Đạo thì Tâm là chơn tướng của Chơn-Linh, là khối Nguơn Linh của Đức Chí Tôn vốn trọn lành và hoàn-toàn sáng suốt. Chơn-Linh đến loài người để chế-ngự Chơn-Thần là nơi phát sanh ra Tánh. Nếu Chơn-Thần được định tĩnh, trong sạch, sẽ tiếp được điển của Chơn-Linh nơi Nê-huờn-cung mà khai Huyền-quang-khiếu, tức là đoạt huệ hay đắc Đạo. Vậy Chơn-Linh là linh-thể bất nhiễm và chí thiện. Tánh là chơn-tướng của Chơn-Thần, thuộc thể thứ nhì của con người do Đức Phật-Mẫu ban cho. Chơn-Thần cũng sáng suốt như Chơn-Linh, nhưng vì gần-gũi với thể xác và lấy y khuôn rập của xác thân nên Chơn-Thần, thay vì làm chủ lục-dục thất-tình, lại hay nuông chìu và nhiểm theo phàm tánh của xác thân mà sanh ra những tánh ác, bỏ mất tánh thiện. Phương-pháp trị tâm là dứt bỏ được cái phàm tánh  triêm nhiểm trong Chơn-Thần, trở lại bổn nguyên chí Thánh của Thiên-Lương, tức thị Chơn-Thần hòa-hiệp với Chơn-Linh mà đoạt cơ siêu-thoát.

&

QUẺ - 327:
Báo biến thành văn thái, thừa long phúc tự trăn,   Xích thân thành phú quí. Sự sự khả hề tân.
。乘
。事

Dịch nghĩa:
Beo đã thành chấm vằn.
Cỡi rồng phước lộc tăng.
Tay không nên phú quý,
Muôn sự được canh tân..
Chú giải: Lời này ứng với quẻ. Cuộc đời là sự biến dịch không ngừng.Biến là thay đổi theo thời gian, chứ không phải từ trạng thái này sang trạng thái khác.  Câu chuyện:
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét