Ông Đa đậu Cử nhân nên người đời gọi là Cử Đa quê ở Mỹ Tho.
Ông kháng chiến chống Pháp tại quê nhà. Vì thất bại bị Pháp truy bắt, mới bôn tẩu
về trụ ngụ trên núi Thất Sơn, nơi đây rừng cây bao phủ, núi hang hiểm hóc xa
thành thị, nên dễ ẩn thân. Thời gian trôi qua; ông Cử thấy cảnh trí hữu tình,
tâm hồn ông chán tình đời dâu bể, nổi đam mê về Đạo lại đến lúc này; ông thọ
giáo tu Tiên.
Trên núi có một cái chùa bỏ hoang, ông tu chỉnh quét dọn sửa
sang trang hoàng rồi làm nơi tu học. Ông thường cầu hay cầu thỉnh Tiên học Đạo,
vẽ bùa, cho thuốc để trị bệnh cho bá tánh, tiếng đồn về tài trị bệnh của ông
ngày một vang xa, nên người đến mỗi lúc một đông hơn.
Rồi ông Cử Đa qua đời, người đệ tử của ông là “Bảy Do”
tiếp tục thay thế ông ở chùa làm việc từ thiện như ông và thờ phượng ông tại
chùa luôn.
Ông Ca: Lúc bấy giờ làm tới chức Đốc Phủ, lãnh lịnh dẫn
lính lùng bắt bọn cướp ở quận Sà Tán, đầu đảng bọn cướp ấy tên là Do. Bữa nọ
ông Ca dẫn lính lên chùa, vì người dân trị bệnh, đông người kêu tên ông Do nên
Đốc Phủ Ca sinh nghi nên đến để điều tra xét hỏi – Sau khi điều tra xét hỏi
xong, Đốc Phủ Ca cho là: Ông Do chính là tên chúa Đảng đội lốt nhà tu để qua mặt
chính quyền sau khi làm nhiều điều phạm pháp mà chính quyền có lệnh truy bắt, Đốc
Phủ Ca quả quyết:
“Tên Do cướp và tên Do tu là một”, nên ra lịnh bắt
giam ông Bảy Do. Ông Bảy Do cố giải thích, kêu nài và minh bạch mình và ông Do
cướp là hai người khác biệt chớ không phải một nhưng không lay chuyển được ý
quyết của ông Ca. Ông Bảy Do tủi thẹn, và để bảo vệ khí tiết của một người tu
chân chính, ông cắn lưỡi chết tại nhà tù. Còn chùa của ông, ông Đốc Phủ Ca cho
lính đập phá tiêu tan. Cảnh đổ nát hoang tàn đã xóa đi một thời ngôi chùa linh
hiển này đón bao khách thập phương lễ bái và đã cứu chữa bao người bệnh tật.
Trước sự việc ấy, ông Cử Đa mới đến kiện ông Ca nơi Ngọc Hư Cung. Ngọc Hư Cung
phán: “Cho phép ông Cử Đa khảo ông Đốc Phủ Ca với điều kiện: Hình thức xưng
danh hiệu gì cũng được, nhưng không được phong chức sắc.”
“Lúc này ông Ca đã nhập vào Đạo Cao Đài và được phong phẩm
Phối Sư” nên ông Cử Đa mới kiện nơi Ngọc Hư Cung và Ngọc Hư Cung đã phán
không cho phong chức sắc là vậy. Ông Cử Đa báo thù vượt quá qui định là: Ông phong chức cho ba ông trong
đó có ông Ca.
Đầu Sư: Thái Ca Nhựt, Thượng Thới Tinh, Ngọc Thiệu Nguyệt
và một số đông người nữa. Vì sau khi Ngọc
Hư Cung phán: Ông Cử Đa nhận thấy – Giả danh thì được mà phong chức thì không
được làm sao khảo ông Ca. Nên vì vậy để thỏa ý mình ông Cử Đa liều vượt quá qui
định. Từ đó ông Đốc Phủ Ca tách mình ra làm một chi phái thuộc nhóm Cầu Vĩ Mỹ
Tho. Rõ ràng ông Cử Đa đã dùng huyền diệu giáng cơ mà làm cho ông Ca tin và tôn
là Thầy rồi lập phái riêng. (Ông Cử Đa lúc còn sống tu Tiên).
Một hôm nọ, Đức Hộ Pháp ra Phạm Nghiệp. Một đàn cơ do Đức
Ngài lập, Phối Thánh Màng về báo với Đức Hộ Pháp rằng: “Có Đức Quyền Giáo
Tông đến nhưng chưa đến liền được vì bận công việc riêng, hẹn 2 giờ sau sẽ đến”.
Đức Hộ Pháp hỏi: Đi đây vậy?
Phối Thánh: “Bạch sư phụ! Vì sự có mặt bất ngờ của người
nên hại ông Cử Đa lớn quá! Người vì vi phạm luật Thiên điều nên thất ngôi vị
Tam phẩm lại còn bị đày qua Nam Hải đảo Phi Châu để giáo đạo dân xứ ấy. Việc Cử
Đa đang toan phương phục quốc một mình e khó sức làm nổi, nên cậy nhờ Đức Quyền
Giáo Tông đến giúp, Đức Quyền Giáo Tông đến bình giặc nơi đó chỉ 2 giờ là xong,
rồi sẽ đến”.
Chính vì sự việc của Cử Đa, nên Đức Hộ Pháp được lệnh xuất
vía đến Thất Sơn ăn kết vụ ông Ca khi xưa. Khi xong Đức Ngài có làm một bài
thi:
"
Bồ Tát, chưa nghe tiếng phá chùa,
Bảy Do” sau ví kiện hơn thua.
Diêu
Trì tượng Phật kia làm chứng,
Núi
Cấm Chư Tiên bởi vẽ bùa,
Khói
lạnh đau lòng người phạm Tích.
Hương
tàn xót dạ Cử Đa xưa.
Cửa
quyền sấm nổ tiêu vôi cát,
Mà
chất thiêng liêng gẫm đặng chưa."
Một đàn cơ tiếp theo ông Cử Đa đã tiết trình với Đức Hộ
Pháp như vầy:
“Kỳ đó ý của Bần Tăng là đem chúng ra khỏi đặng trong
này lập luật, lập luật xong, Đạo Nghị Đinh thứ 8 Đức Lý lại không cho nguyên
nhân tái thệ, mà Hộ Pháp có quyền ân xá lại ký tên vào đó, thì chúng nó nương
nơi đâu mà được rỗi. Nếu Ngài không tin tôi, bảo chúng nó chết, thì nó chết cho
Ngài coi.
Bởi vì làm Thầy dạy nên thì học trò nên, dạy hư thì học
trò hư. Bây giờ làm Thầy chẳng lẽ đem học trò ra pháp trường xử tử, hay là đem
trấn nước...”
62
- Nguyên Căn Ông Đốc Phủ Ca
Một đàn cơ Bà Bát Nương trêu Đức Quyền Giáo Tông “Kim
Ngưu lằn sứt mũi hãy còn, làm sao mà anh móc dây dẫn về Bạch Ngọc Kinh cho được”.
Nguyên lý như sau: Khi xưa nơi cõi Thiêng Liêng, bữa nọ Đức
Lý Thiết Quả (Nguyên căn Đức Quyền Giáo Tông) sang viếng thăm Đức Lão Tử, chẳng
may Đức Lão Tử đi vắng. Còn Từ Giáp (Người chăn trâu cho Đức Lão Tử) đang ngủ.
Thấy Thanh Ngưu đang đứng, Đức Lý Thiết Quả đến gần mở dây để cỡi. Thanh Ngưu
thấy người lạ hoảng sợ giựt đứt dây, sứt mũi chạy mất.
Kỳ này:
Trong buổi khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, ông Đốc phủ Ca là gốc Thanh Ngưu đầu kiếp,
nên môi của ông có lằn vá do bị nứt rách nơi ấy nên vá một lằn sọc đến mũi. Chính
vì thế Bà Bát Nương trêu Đức Quyền Giáo Tông, nhắc lại sự tích đó để biết giữa
Đức Quyền Giáo Tông và ông Đốc Phủ Ca có sự tương quan thuở trước nơi cảnh
Thiêng liêng.
63
- Nguyên Căn Bà An, Vợ Của Ông Lê Bá Trang.
Ông Lê Bá Trang là chiếc Chơn Linh của Đức Quan Thánh, còn
bà An vợ của ông tiền kiếp của bà là người đưa đò.
– Có lần Đức Quan Công qua sông, một người con gái đưa đò,
nhìn sắc mặt, tướng diện phương phi đạo mạo anh hùng tiết tháo, bà lấy làm đem
lòng và ao ước làm sao làm vợ người trai đó.
Vì điều ước thời ấy, mà ngày hôm nay bà được đầu kiếp và gặp
được người mà bà muốn làm vợ. Duyên nợ đã hàn gắn cho ông và bà làm vợ chồng
nhau.
Bà An có đặc tính là lúc nào cũng theo sát ông, ở cận kể
ông – Điều này khiến cho ông Trang, không vừa ý, bởi đôi lúc vì quá tự nhiên,
không gìn ý tứ của người phái nữ, làm cho ông phải thẹn với người xung quanh.
Để tránh tình trạng đó, ông bàn bạc cùng anh em cho bà An dự
xem cơ, nhưng mà là giả cơ. Đàn cơ do ông Trang và một số anh em lập cũng có Đức
Chí Tôn giáng y như thật: Phong cho bà An phẩm Giáo sư; nhưng không hành Đạo, ý
là ông Trang muốn cho bà bớt đi việc lui tới phòng làm việc của ông và giữ gìn
phong cách của một Chức sắc mang phẩm Giáo sư.
Thế nhưng ngược lại, bà lấy thế để làm kiêu hơn nữa. Về
sau, biết là giả và hiểu nguyên nhân bà mới tự sửa mình. Sau đó bà cũng được Đức
Chí Tôn phong phẩm Giáo Sư.
64
- Nguyên Căn Ông Truyền Trạng Ngọ
Ông Ngọ thọ phẩm Truyền Trạng... Vợ ông là bà Vàng cũng Chức
sắc, thọ phong phẩm Giáo Hữu, sống với nhau có một người con tên là Châu. Cuộc
sống của hai vợ chồng là cả một đời gian khổ vì nghèo. Có thời phải ngưng hành
Đạo, đi xa Tòa Thánh một thời gian.
Cho đến khi Đức Hộ Pháp từ hải đảo trở về, hai ngưới mới tiếp
tục và cuộc sống heo hút vẫn kéo dài, đến khi người con trai khôn lớn thì bà
Vàng qua đời; ông Ngọ vừa hành Đạo vừa nuôi con và ở vậy cho đến khi từ trần.
Một đàn cơ đề cập đến 2 vợ chồng ông Ngọ, Bà Bát Nương có
cho một bài thi:
THI
Đố
chạy đi đâu thoát khỏi vòng,
Muốn
toan trốn nợ trốn sao xong.
Kẻ
trông gặp mặt vui vừa dạ,
Người
muốn cầu thân cũng phỉ lòng.
Gió
nguyệt gật đầu quân tử trước,
Tuyết
sương sôi dạ trượng phu lòng.
Cát
đằng ví muốn đem thân dựa,
Đố chạy đi đâu thoát khỏi vòng. Bà Vàng thuở con gái, sống
độc thân, bán nước trước cửa Hòa Viện. Còn ông Ngọ làm việc Đạo ra vào nhà ông
Bảo Văn Pháp Quân ở gốc chợ Từ Bi hay ghé quán của bà Vàng uống nước giải khát.
Từ đó họ quen nhau, và cả hai đồng ý tiến đến hôn nhân. Bài thi của Bà Bát
Nương được Đức Hộ Pháp giải thích: Xưa kia, lúc Lão Tử dẫn Từ Giáp đi theo để
coi Thanh Ngưu, Ngài muốn cho Từ Giáp học Đạo. Từ Giáp thọ ơn cứu tử của Ngài
nên chịu theo. Gần đến một thành trì, Lão Tử muốn thử lòng Từ Giáp nên bẻ một
cái hoa, thổi phép biến thành người phái nữ đẹp bán quán nước bên đường. Người
nữ ấy hứa hẹn nợ duyên kết nghĩa trăm năm. Từ Giáp nghe lời người con gái, về
đòi tiền công theo Lão Tử bấy lâu nay để lấy tiền làm sính lễ. Đức Lão Tử phân
lẽ thiệt hơn, Từ Giáp một mực không chịu nghe, Đức Lão Tử cười, rồi tính tiền
đưa đủ cho Từ Giáp.
Trở lại chỗ hẹn hò, người đẹp đâu chẳng thấy, mà quán cũng
không còn. Từ Giáp biết và hối hận, trở lại tạ tội với Thầy. Và xin theo hầu Thầy
lại.
Kiếp này: Ông Ngọ là Từ Giáp đầu kiếp, còn bà Vàng là cái hoa
của Đức Lão Tử biến thành người con gái. Vì lời hẹn hò hứa với nhau kết nghĩa
trăm năm mà nay phải trả, cũng gặp nhau tại một quán nước bên đường
65
- Đức Hộ Pháp Hoàn Tất Nhiệm Vụ, 5 Gánh Pháp Bởi Đức Chí Tôn Ủy Nhiệm.
Một hôm, trong lúc anh em Phạm Môn họp mặt, Đức Hộ Pháp
nói:
- Kỳ này, Đức Chí Tôn giao cho Hộ Pháp gánh 5 cái gánh Pháp
quan trọng là:
1 - Đạo Pháp:
Ngài đã làm được là: Thuyết Đạo, giảng pháp, viết Phương
Luyện Kỷ, Thập điều giới răn, Tân Luật, Chú Giải Pháp Chánh Truyền và lập Thế Đạo
nghi lễ, Thiên Đạo nghi lễ. v.v...
2 - Gia Pháp:
Ngài viết ra: Phương Tu Đại Đạo để cho mọi gia đình theo đó
mà xử sự.
3 - Tôn Pháp:
Lập thành nhà Họ, Phủ từ.
4 - Quốc Pháp:
Ngài đề ra CƯƠNG LĨNH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG và gởi toàn thế
giới để làm phương châm cho mọi quốc gia.
5 - Thiên Hạ Pháp:
Tam Kỳ Ngũ Đức Phương Châm Đại Đồng Thế Giới.
Đức Ngài nói: Chỉ có Gia Pháp và Quốc Pháp là nhỏ hơn hết.
Qua già rồi cố gắng làm cho xong, chớ để chết đi trách nhiệm chưa tròn. Vừa nói
tay vừa cầm trái bưởi, Ngài thảy thảy trên tay. Đoan Ngài nói: Qua nâng quả địa
cầu 68 nầy nó nhẹ xìu, nhẹ như trái bưởi này vậy.
66
- Nguyên Căn, Ngài Trần Khai Pháp.
Ông Trần Duy Nghĩa được Đức Chí Tôn định làm chức Khai Pháp
Chơn Quân từ buổi đầu khai Đạo. Ông cùng quí Chức sắc cầu cơ để Đức Chí Tôn
giáng cơ dạy Đạo từ buổi ban sơ, ông hành Đạo một mực sốt sắng không mệt mỏi.
Lúc bị Pháp bắt, ông và Đức Hộ Pháp cùng một số Chức sắc Thiên phong bị đày
sang đảo Madagascar. Tuy sống chung với Đức Hộ Pháp, nhưng Ngài không trọn niềm
tin nơi Đức Hộ Pháp, thậm chí Ngài có ý xem thường.
Một bữa nọ, Đức Hộ Pháp bảo Ngài: Anh hãy thu xếp đồ đạt
đi, mình sắp về rồi đó. Bấy giờ chính quyền Pháp rất nghiêm khắc, hơn nữa tù ở
đảo là tù có hồ sơ mà Pháp cho là quan trọng, đang ở đảo mà cai tù, cai ngục
lúc nào cũng xử trị nghiêm nhặt, mà Ngài Hộ Pháp nói thế là một điều không tưởng,
làm sao có dịp giảm án mà về. Ngài Khai Pháp mai mỉa: – Nữa, tiên tri nữa rồi,
trong lòng không lấy gì làm tin.
Ba hôm sau, Pháp ra lệnh trả tự do, cho hồi hương, chuẩn bị
tàu đưa về đất liền Việt Nam. Bấy giờ Ngài Khai Pháp mới giựt mình sợ hãi, đến
tạ lỗi với Đức Hộ Pháp với nỗi lòng hối hận ăn năn.
Về Tòa Thánh, một hôm nọ Đức Hộ Pháp nhân dịp cúng Tiểu
Đàn, có Chức Sắc Thiên Phong dự chứng, Đức Hộ Pháp cầm cây Giáng Ma Xử đưa ra
bên trên trước mặt Ngài Khai Pháp đang quì đối mặt với Ngài, Đức Ngài nói:
- Này Pièrre, ngày trước ngươi đã chối ta ba lần, lần này
Ta tha cho đó. Ngài hiểu được Thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng. Lúc đó Ngài xin
hiến thân vào Phước Thiện, Đức Hộ Pháp chấp thuận cho vào phẩm Minh Đức, và ông
cũng lập thệ Đào Viên Pháp nơi cửa Phạm Môn.
Buổi lập thệ hiến thân vào Phước Thiện của Ngài Khai Pháp
có sự chứng kiến của nhiều vị Chức sắc phẩm Giáo Thiện.
Sau đó, Ngài thọ phẩm Tân Dân. Lúc ban sơ Cơ quan Phước Thiện
còn kém cỏi, nên Đức Hộ Pháp cử Ngài Khai Pháp thay thế cho Ngài trông coi Phước
Thiện, lãnh nhiệm vụ Chưởng Quản Phước Thiện Nam phái.
Lúc nắm kiêm nhiệm Chưởng Quản Phước Thiện, Ngài có giải
quyết một vài việc vi phạm của quy vị phẩm Giáo Thiện, Ngài nói rằng: - Qua rầy
mấy em là qua lấy tư cách một Khai Pháp Thời Quân, kiêm nhiệm Chưởng Quản Phước
Thiện; chớ không phải là một vị Tân Dân, mấy em thông cảm vì mấy em là Giáo Thiện
mà qua chỉ mới Tân Dân thôi.
Lúc Ngài qui vị, từ trần, Đức Hộ Pháp đã biết, nên ngay đêm
đó, Đức Hộ Pháp sai mấy vị Bảo Thể gác, nhớ coi chừng Đức Ngài. Nhưng mấy vị Bảo
Thể không để tâm. Đêm đó Ngài Khai Pháp té và chết đầu ngược xuống đất, chân ở
trên bậc thềm của văn phòng Hiệp Thiên Đài, kiểu té chúi nhủi. Mấy vị Bảo Thể
báo cáo với Đức Hộ Pháp. Ngài rầy Bảo Thể. Đức Hộ Pháp nói: - Piérre tới ngày liễu Đạo cũng như tiền kiếp
vậy
67
- Phước Thiện Không Đóng Góp .
Hội Thánh Phước Thiện lúc do ông Đạo Nhơn Nguyễn văn Phú
làm Chưởng Quản.
Đức Thượng Sanh mời hết Chức sắc Cửu Viện Phước Thiện và Cửu
Trùng Đài họp. Cuộc họp do Đức Thượng Sanh làm chủ tọa.
Đề mục: Trước tình cảnh chiến tranh khốc liệt, đồng bào các
nơi tản cư chiến cuộc, và nông viện bị thất mùa không đủ lương thực để nuôi công
quả, nên Ngài đề nghị:
Mỗi vị Chức sắc đều phải đóng góp một số tiền nhỏ (2 đồng)
để làm quỹ chung giúp đỡ nạn nhân tản cư, và đồng thời giúp góp phần cho Lương
viện mua lương thực về nuôi công quả. Chức sắc phải làm gương đi trước, bên
phía Chức sắc Cửu Trùng Đài ai cũng tán thành đồng ý đưa tay một lượt chấp nhận
lời của Ngài chủ tọa.
Bên phía Chức sắc Phước Thiện ai nấy ngồi lặng thinh. Đức
Thượng sanh hỏi: Sao? Chưởng Quản nghĩ sao? Chức sắc Phước Thiện nghĩ sao? Tất
cả ngồi yên. Ngài Chưởng Quản thấy vậy, bạch: Thưa Ngài, việc này để về họp
riêng rồi sẽ trả lời sau. Đức Thượng Sanh đồng ý; cuộc họp bế mạc.
Ngài Bảo Thế, nhận thấy có một cái gì đó trong nội tình Chức
sắc Phước Thiện, nên Ngài không cho về, lại mời tất cả về phòng riêng. Tất cả
vào xong. Ngài Bảo Thế đóng cửa lại rồi bảo: Ở đây, mấy em có uẩn khúc gì khó
nói, hãy mạnh dạn trình bày, ta đóng cửa dạy nhau. Khi nãy Đức Thượng Sanh đề
nghị vậy bên Phước Thiện tính thế nào, sao không ai cho biết ý kiến gì hết vậy.
Bấy giờ ông Đạo Nhơn Phạm Duy Hoai đứng dậy xin phép được
phát biểu, Ngài Bảo Thế chấp thuận.
– Thưa Sư Thúc, sở dĩ mà ông Chưởng Quản và anh em chúng
tôi không phát biểu lúc nãy là vì như vầy: Tôi xin kể một câu chuyện, rồi sư
thúc tùy định liệu.
– Lúc Ngài Khai Pháp kiêm nhiệm Chưởng Quản Phước Thiện,
hôm đó có một vị Chức sắc Phước Thiện đóng tiền 5 đồng để lấy Ban Khen. Khi tờ
Ban Khen được chuyển lên Ngài Khai Pháp phê ký, Ngài hỏi:
– Người này là người Phước Thiện. Người Phước Thiện là người
hiến thân trọn đời cho Hội Thánh, không còn gì là của tư riêng, thế sao vị này
lại có 5 đồng để đóng lấy Ban Khen. Vậy 5 đồng này có phải là ăn cắp của Phước
Thiện không?
Hôm nay chúng tôi đã hiến thân trọn đời cho Hội Thánh thì
tiền đâu mà lấy ra, nếu có 2 đồng phải chăng cũng là ăn cắp của Phước Thiện để
đưa cho Hội Thánh. Cho nên anh em chúng tôi làm thinh là vậy. Ngài Bảo Thế lặng
thinh. Cuộc họp giải tán, mọi người nhìn nhau như vừa trút được một gánh nặng.
Sau đó, Chức sắc bên Cửu Trùng Đài mỗi Chức sắc phải đóng
theo sự đồng ý. Còn Phước Thiện thì Đức Thượng Sanh cho miễn.
68
- Nuôi Vợ Sanh Đẻ, Quan Trọng Hơn Việc Công Quà.
Khu vực từ chợ Thương Binh trở ra Trãng Dài thuở ấy là rừng
già san sát. Đức Quyền Giáo Tông vận động tiền của của nhiều nhà hảo tâm để mua
và khai khẩn để Đạo có việc dùng.
Luật lệ kiểm lâm qui định, nếu khu nào đã mua thì phải khai
khẩn. Nếu trong vòng một tháng, không có hạ cây thì nhân viên kiểm lâm đóng bảng
cấm; coi như lấy lại mà không bồi thường.
Đức Quyền Giáo Tông mua xong mà không có công để hạ cây, thế
cho nên quá hạn một tháng, tiền cũng mất mà đất cũng mất, Ngài bị số người đưa
tiền bạc cho Ngài kiện Ngài.
Trước tình hình đó, Đức Quyền Giáo Tông tỏ bày cùng Đức Hộ
Pháp. Đức Hộ Pháp nói: – Được để tôi lo cho.
Thế rồi Ngài can thiệp với kiểm lâm và cho lịnh anh em Phạm
Môn tụ họp gấp rút hạ cây theo qui định. Trong lúc lịnh khẩn bất ngờ, có một số
anh em Phạm Môn đi không được vì lý do là: Vợ sắp sanh cận ngày.
Được báo trình như vậy. Đức Hộ Pháp để lời:
" Đứa nào cực khổ về việc này là đại công trước mặt
Đức Chí Tôn đó bây. Bởi vì lúc này người đạo đức họ tìm nhà đạo đức họ đến đầu
kiếp, nếu nhà đạo đức đóng thì họ về họ sẽ kiện; hãy giúp họ, hãy giúp cho họ
được chào đời một cách an toàn là nhận được phước lớn.
Qua cho phép mấy em có vợ sắp sanh, ở nhà lo cho tròn
trách nhiệm, rồi hãy làm công quả."
69
- Đức Hộ Pháp Không Cho Cầu Cơ .
Ở Phú Mỹ, lúc Đạo mới ban sơ, Đức Chí Tôn và các Đấng
Thiêng Liêng dùng huyền diệu cơ bút để giáng cơ dạy Đạo, độ dẫn con cái của
Ngài.
Lúc đó nhóm ông Trứ, ông Trung, ông Phú, ông Mậu cũng hay lập
đàn cầu cơ.
( Ông Trứ trước cơ người vợ sanh được cô con gái tên là
Phương. Sau ông theo Đạo nên vội vàng cắt ái ly gia, vợ ông buồn chán nên ở lại
quê nhà không theo ông. Tết năm đó ông về thăm một lần. Ông cha vợ gặp lên trước:
“Chào ông Tiên”.
Ông Trứ lặng yên không nói. Kể từ đó, ông giao vợ cùng
con. Về sau ông có thêm một người vợ khác và có một đứa con trai hiện đang ở
Đinh Phủ Từ, Trí Giác Cung ).
Những đàn cơ ở Phú Mỹ do ông và một số anh em cầu cũng có Đức
Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, Đức Lý và nhiều Đấng khác nữa giáng cơ dạy Đạo. Quý ông
lập ra nhóm “Minh Thiện Đàn” kết tập các bài Thánh Giáo cho xuất bản gọi
là “Minh Đạo” viết bằng tay, rồi cũng lập ban kiểm duyệt gồm 12 người để
duyệt.
Cho đến khi ông Trứ bị bệnh hai chân. Nghe tin Đức Hộ Pháp ở
Thủ Đức Sài Gòn, ông Trung chở ông Trứ lên cầu xin Đức Ngài giải bệnh.
Đức Hộ Pháp hỏi: Bộ ở dưới tụi bây có cầu cơ hả?
Ông Trung đáp:
- Dạ có.
Đức Ngài nói: Hèn chi!
Vừa nói vừa chỉ vào chân ông Trứ. Bị Ngũ lôi hành nè.
Đức Ngài giải bệnh xong, ông Trung đưa ông Trứ về.
Lần về Phú Mỹ ở, ông Giáo hữu Minh mới đem hết các bài
Thánh Giáo, Thánh Ngôn trình cho Đức Hộ Pháp và đọc cho Đức Ngài nghe. Nghe
xong, Đức Ngài bảo bài nào để bài nào bỏ.
Đức Ngài dặn dò thêm. Đừng có cầu cơ nhiều, ham cầu cơ
không tốt, vì không phải lúc nào cơ cũng thật. Hoặc có thật nhưng bài giáng cơ
nói xa các con không hiểu, hoặc hiểu lầm, không hữu ích mà còn tai hại nữa. Nhất
là các con hay hỏi về gia đạo và bản thân mình hoặc những chuyện thường tình
trong cuộc thế làm cho giá trị các bài Thánh Giáo không thể phổ thông, để lưu,
e dễ sanh điều hại sau không hiểu biết nội tình hiện hữu.
Đức Ngài gút lại: “Nè, mấy em đừng bao giờ để Đức Chí Tôn
quở nghe hôn, Đức Chí Tôn quở là tổn đức lắm dó!”.
70 - Đức Hộ Pháp Chỉ Địa Linh Đức Chí Tôn Chọn Làm Thánh
Địa Cho Anh Em Phạm Môn [1]
Một hôm tại Báo Ân Từ, có đông đảo anh em Phạm Môn, Đức Hộ
Pháp vẽ hình cây Long Tuyền Kiếm mà Tàu trấn ếm nơi Phú Mỹ, mà Ngài đã gỡ đem
lên và chỉ cho anh em Phạm Môn như vầy:
Đức Hộ Pháp nói: Cán nó là núi Bà, Nội ô Tòa Thánh là cái Ấn
Đường. Vừa nói vừa chỉ (Chỗ cốt Ấn soái khi vua ban cho vị tướng) còn lưỡi của
nó là mạch đi sâu 300 mét dưới lòng đất, mũi nhọn nhô lên ngay láng cát ở Phú Mỹ,
Tàu nó ếm tại mũi, vì mũi ấy là chỗ địa huyệt linh, ếm ngay làng Phú Mỹ, nó có
tác dụng làng ấy nếu có xuất tướng đều chết yểu. Nơi mũi ấy, sau nầy là một ngọn
núi, núi ấy được cấu trúc bởi loại đá quý.
[1] Ông Phạm Duy Hoai kể, vì lúc Đức
Hộ Pháp vẽ hình Long Tuyền Kiếm có mặt ông dự kiến.
Cho nên, lúc ở Phú Mỹ Quyền Thiêng liêng bảo Đức Hộ Pháp
đúng ngày giờ phải tháo gỡ đạo bùa và mọi vật được chôn dấu dưới đất lên, trong
đó có Long Tuyền Kiếm. Sau khi đào lên xong, Đức Ngài dạy ông Trung kêu anh em
đào một con kênh nhỏ chạy ngay huyệt ếm là mũi kiếm Long Tuyền là đầu mạch nước,
có ý là chặt đứt đoạn mũi kiếm ấy đi.
Ông Trung
vâng lịnh làm.
Khi nghe
tin ông Tòng là con thứ hai (con cả) của ông Trung chết. Đức Hộ Pháp hỏi
ông Trung (Hỏi lớn tiếng).
– Tao bảo mày chặt mũi, bộ mày chặt không đứt sao mà còn
như vậy.
Ông Trung tái mặt, bước đến sát bàn Đức Hộ Pháp nói nhỏ chỉ
một mình nghe.
Nghe xong. Đức Ngài lắc đầu nói tiếp:
– Nhạc Vân bao giờ cũng chết yểu.
71
- Hai Lần Rước Linh Vị Phật Mẫu
Từ năm 1926 đến năm 1946, Nội ô Tòa Thánh không có thờ Phật
Mẫu. Trong khoảng thời gian 1941 đến 1946, ông Trứ lập Trí Giác Cung, xây dựng
Đền thờ ở đó. Nơi ấy được mệnh danh là Qui Thiện. Được biết nơi Trí Giác Cung Địa
Linh Động là nơi ông Trứ thờ Đức Phật Mẫu đầu tiên.
Đến khi Đức Hộ Pháp từ Madagascar trở về, Đức Hộ Pháp tổ chức
trọng thể một cuộc lễ lớn, có sự tham dự của Hội Thánh Lưỡng Đài, Chức sắc và
tín đồ. “Lễ rước Linh Vị Phật Mẫu về Tòa Thánh”.
Từ Trí Giác Cung Địa Linh Động, đi đường Bàu Sen qua Sân cu
về Tòa Thánh. Linh vị rước về thờ tại một căn nhà bằng cây vách ván lợp tranh,
Đức Ngài gọi là “Khách Thiện Từ”.
Cho đến khi di Quả Càn Khôn tại Báo Ân Từ về Đền Thánh để
thờ (Năm 1947). Linh vị Đức Phật Mẫu lại được làm lễ long trọng rước từ “Khách
Thiện Từ” về Báo Ân Từ thờ cho đến nay, cũng có Hội Thánh lưỡng đài và Chức sắc,
tín đồ tham dự.
72
- Quả Càn Khôn.
Vào khoảng năm 1935, Đức Hộ Pháp bảo anh em Phạm Môn tháo 3
căn nhà mà Ngài đã ra lệnh làm là: Dưỡng Lão, Sở Nữ công nghệ và Sở Phạm Môn
Trường Hòa, ba căn nhà ấy kích thước như nhau, đem về ráp lại 3 căn ấy lại
thành một dãy để thờ Chức sắc là Báo Ân Từ bây giờ.
Trước khi khởi công xây cất Đền Thánh, phải dời Quả Càn
Khôn về tạm tại Báo Ân Từ, rồi mới phá dỡ cây lá tranh của Đền Thánh cũ. (Quả
Càn Khôn do ông Bính làm).
Vì sơ ý không tính trước, hay đã tính trước rồi mà quên phần
nầy. Ấy là do Thiên ý. Khi đem Quả Càn Khôn vào cửa Báo Ân Từ vô không lọt, vì
bề ngang cửa nhỏ hơn Quả Càn Khôn (Nếu biết là đã tháo cửa rồi). Túng thế đành
ép dẹp lại méo như quả trứng mới vào được cửa.
Đứng trước cảnh này Đức Hộ Pháp khóc và nói:
Rồi đây Phước Thiện sẽ khổ.
Kế đến Đức Hộ Pháp bị bắt đày sang Madagascar. Pháp chiếm lấy
Tòa Thánh, lấy Báo Ân Từ làm nhà ăn tập thể, chúng đập xé quả Càn Khôn rồi vụt
ra ngoài. Sau khi Quả Càn Khôn thành từng mảnh vụn người ta thấy Thiên Nhãn vẫn
còn nguyên; còn cốt tượng Tam Giáo, Tam Trấn, Ngũ Chi chúng đập phá ném ra sân;
ông Thơ mới đem về Cực Lạc Cảnh sửa đắp lại thờ cho tới bây giờ vẫn còn. Còn
Thiên Nhãn, ông Thơ mướn người làm lại bằng thiếc.
Khi Đức Hộ Pháp hồi loan, Quả Càn Khôn do ông Thơ tạo được
đi vào Đền Thánh.
Đến năm 1959 – 1960: Thời kỳ của Đức Thượng Sanh và Bảo Thế.
Lúc này cũng lần thay đổi lịch sử.
Ông Hoài được Ngô Đình Diệm mua chuộc với một giá tiền đắc
để hạ Quả Càn Khôn của ông Thơ xuống và dựng Quả Càn Khôn của ông Hoài lên (Bên
trong quả Càn Khôn của ông Hoài làm là Cây Thánh Giá). Dựng Quả Càn Khôn của
ông Hoài có nghĩa là dựng Cây Thánh Giá; thay đổi quả Càn Khôn là cái cớ để che
mắt tín đồ, Chức sắc cho khỏi sinh loạn.
Ông Bảo Thế và ông Hoài cho mời ông thợ hàn ở cửa số 2 là
ông Giáo Hữu Thượng Tửu Thanh đến Đền Thánh đụt khoang hàn lại chân trụ để thượng
cây Thánh Giá bên trong. Ấy là sắp xếp của Ngô Đình Diệm, nhưng việc ấy không
thành.
Khi hay tin đụt khoan chân trụ, bà Chánh Phối Sư Hương Nhiều
(Bà Tám, bạn đời của Đức Ngài) lên Đền Thánh để quan sát. Lúc đó thợ đã khoan gần
tới nơi mà Đức Hộ Pháp đã trấn ếm khi xưa. Bà biết nơi mà Đức Hộ Pháp đã hành
pháp trấn; Bà nói: Thiêng Liêng mầu nhiệm, khiến như vậy, nó khoang không tới,
chỉ còn một chút xíu nữa là tới rồi.
Bà e sợ khi khoan phải chạm đến nơi mà Hộ Pháp đã trấn thì
không biết nguy hại dường nào, mà điều gì xảy ra cho Đạo bà không lường trước
được.
Vì lúc Đức Hộ Pháp trấn; Ngài có bảo ông thợ bạc người Phước
Thiện quê ở Phú Mỹ làm một cây gươm bằng vàng.
Ngài trấn đó: Đức Hộ Pháp kêu Chức sắc từ phẩm Giáo hữu đổ
lên đến dự chứng cuộc hành pháp trấn ếm chân trụ Quả Càn Khôn, cũng nơi đây sau
khi trấn ếm xong, Ngài tuyên bố: “Sau này, nơi đây, nếu có hư hoại và mất
đi, thì những người có mặt hôm nay phải chịu tội trước Thiêng liêng”.
Lòng người đâu qua được Thiêng liêng; Trời đâu để cho thực
hiện được.
Ngày 1-11-1963: Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và bi chết
thảm trước họng súng, y như lời đã tuyên thệ hứa với Đức Hộ Pháp, khi Đức Hộ
Pháp đứng ngay tại bàn thờ có thượng cờ Tổ Quốc. (Ngô Đình Diệm làm lễ tuyên thệ
trước Bàn Thờ Tổ Quốc có Đức Ngài chứng).
Ông Hoài cũng chết trước, khi mưu đồ chưa làm được. Cây
Thánh Giá không được để trong Quả Càn Khôn, vì ông Hoài chết, mọi sự không theo
đúng kế hoạch.
Quả Càn Khôn không có cây Thánh Giá được dựng lên là Quả
Càn Khôn thờ hiện nay đó vậy.
73
- Đức Hộ Pháp Giải Thích Vì Sao Ngài Không Cho Thờ Bằng Cốt Tượng .
Khi hồi loan trở về Tòa Thánh sau 5 năm bị đày lưu nơi hải
đảo, Đức Hộ Pháp thấy sao có nhiều cốt tượng Phật nơi Tòa Thánh, nhân lúc Ngài
vắng mặt, quý vị Chức sắc đã làm chăng?
Ngài bảo phải đem tất cả cốt tượng Phật nhỏ, lớn đều phải
đem ra Cực Lạc cảnh an vị nơi ấy.
Đức Ngài nói: – Phật đâu có hình như thế này, mấy em tưởng
tượng mà làm ra, từ nét mặt, mũi, môi, nhất là đôi mắt không có giống, dám chắc
Phật không có dám nhập vào những cốt tượng như vậy.
Qua nói cho mấy em biết: Qua đi tuần, gặp loại yêu tinh
chuyên phá người, qua rượt đuổi thôi, chớ không nỡ đập chết vì nó đẹp xinh và lịch
sự lắm.
Còn Nữ Thần, Nữ Thánh còn đẹp gấp đôi nữa. Nếu mấy em thấy
họ cũng đủ mê chết chớ đừng nói là thấy đến Tiên. Bậc Tiên họ đẹp cỡ nào nữa;
còn nói đến Phật thì thôi, Phật đẹp hơn Tiên một bậc nữa.
Bởi vậy Đức Chí Tôn bảo lập vị là làm bài vị để thờ, chớ
không nên thờ cốt.
Qua không cho mấy em làm cốt tượng để thờ là theo ý chỉ của
Đức Chí Tôn.
74
- Đầu Sư Thái Thơ Thanh Tạc Chân Dung Bằng Thạch Cao.
Ngài Đầu sư Thái Thơ Thanh có đặc điểm là thích hình ảnh được
tạo bằng cốt tượng. Ông rất ham, nên có mướn thợ dùng thạch cao loại quí tạc
chân dung của ông.
Để việc làm đạt được kết quả như ý muốn, ông mướn thợ giỏi
để làm và trả giá cao. Cốt tượng làm xong, giống ông không biết tả thế nào và đẹp
lắm. Ngài trầm trồ ngắm nghía mỗi ngày say mê.
Một thời gian sau, ông Thơ bị bệnh như điên, lúc tĩnh lúc
ngơ. Đức Hộ Pháp hay tin, Ngài nói:
Vì một hồn mà hai xác, nên lúc hồn qua xác thạch thì thạch
linh, xác thịt trống nên đâu còn trí não nữa, còn lúc hồn qua xác bằng thịt thì
tỉnh táo, có vậy thôi.
Lúc ông Thơ được đi Sài Gòn trị bệnh (Thiêng liêng khiến vậy),
Đức Hộ Pháp để cho đi. Ở nhà, Ngài đem cốt tượng bằng thạch cao chôn sau Giáo
Tông Đường. (Nếu ông Thơ ở nhà, ông đâu có cho).
Vài hôm sau ông Thơ hết bệnh. Từ Sài Gòn trở về Tòa Thánh,
chạy ôm Đức Ngài mừng rỡ nói: Tôi hết bệnh rồi.
75
- Đức Hộ Pháp Kể Về Tiền Kiếp.
Một hôm nọ, Đức Hộ Pháp kể cho anh em Phạm Môn nghe về một
tiền kiếp của mình.
Kiếp trước xa xưa kia, Qua là một vị vua xứ Ấn Độ. (Nói đến
đó Ngài ngưng một chút rồi tiếp). Qua nói tên ra ai cũng biết. Thuở ấy có tất cả
là 72 bà vợ.
Kế đến một kiếp nữa là một vị phang vương (Vua một phương)
bên Trung Quốc. Lúc này có 36 bà vợ.
Đến kiếp này với xác thân Phạm Công Tắc có một bà vợ. Nhưng
trước khi đi tu Qua từ giã tất cả 7 bà.
Hồi lúc bà nội ở Tây Ninh, gọi Qua từ Sài Gòn về để cưới vợ,
lúc đó Qua nói với bà là không thích có vợ ở xứ Tây Ninh để từ chối khéo, vì
Qua đã quen một bà ở Sài Gòn và đã quyết định tiến tới hôn nhân với bà ấy. Bà
Tám bây giờ đó.
Đức Ngài tiếp: Những kiếp trước Bà Tám cũng có làm vợ,
nhưng là người vợ nhỏ nhất, nên ít khi được gần gủi. Kiếp này bà là vợ duy nhất,
là bà lớn nên rất khó khăn và rất ghen tuông. Bà tỏ quyền hành và chỉ muốn một
mình bà gần Qua mà thôi.
Đức Hộ Pháp nhắn nhủ với anh em Phạm Môn: Kiếp này tu là vừa
lắm, thấy đi xuống bậc nhanh ghê chưa. Từ một vị vua quyền hành, xuống thành một
thư ký quèn, nếu không tu kiếp này ắt phải xuống nữa. May mắn quá chừng gặp được
Đức Chí Tôn mở Đạo Kỳ này, bằng chẳng vậy xuống hoài chắc thành ăn mày hay thằng
cùi quá!
Mấy em cũng vậy, rán mà lo tu để được hưởng hồng ân của Đại
Từ Phụ, chớ đừng bơ thờ thì ưổng lắm đó.
76
- Đức Hộ Pháp Kể Chuyện Chi Tiêu Lúc Còn Làm Việc Ngoài Đời.
Đức Hộ Pháp kể: - Lúc còn làm việc ngoài đời, Ngài tiêu xài
rất là cơ bản, chẳng hạn như Tết đến, Ngài chừa ra 20 để chơi trong Tết, đánh
bài, đi chơi, v.v... cũng trong vòng 20 đồng qui định đó thôi; ăn thua, thiếu đủ
gì cũng bao nhiêu đó. Vậy mà có khi đánh bài cả tới tháng 5 mà vẫn còn 20 đồng;
tiền còn hoài ngộ lắm, còn cũng bao nhiêu đó.
Thường ngày, Đức Ngài đến uống cà phê và ăn một cái bánh tại
quán quen, nổi tiếng đông người; dầu bữa đó có người khác bao ăn, hay bao cà
phê cho uống thì số tiền định đem ra xài cũng cho người nghèo.
Hoặc khi gặp người quen, Ngài phải chi tiêu hơn số quy định,
thì mấy bữa sau phải bớt tiền bánh để bù. Rất chừng mực, nên ít khi thiếu nợ.
Nói cho công bằng là Ngài chưa có thiếu nợ ai bao giờ.
77
- Đức Hộ Pháp Dùng Tiền Chuộc Gái Lầu Xanh.
Đức Hộ Pháp kể: – Có lần đó Đức Ngài và Đức Thượng Phẩm có
bao nhiêu tiền dành dụm đều trút sạch hết một lần.
Lý do: Là hai người thấy gái lầu xanh, thương hại cho số kiếp
một đời người làm thân nhơ nhớp, nên đem tiền để chuộc các cô gái ấy. Một số để
cho họ về quê, một số tác hợp với mấy người trai làm nghề khuân vác nghèo mà
chưa vợ, rồi giúp vốn cho họ làm ăn.
Đức Ngài nói: Thượng Phẩm coi vậy mà nhác. Nghe vô lầu xanh
là sợ tái mặt; mình vô đó làm việc nghĩa, chớ có trác táng, ăn chơi đâu mà ngại.
Thời gian đó, bà tào kê vì mất nhân viên nên lầu xanh cũng ngừng hoạt động, nguồn
lợi vì đó mà không có.
Đức Ngài nói tiếp: Nhưng rồi sau đó mấy mụ ấy cũng không bỏ
nghề, họ đi kiếm tìm đâu hỏng biết đem về số mới, lại xinh đẹp hơn.
Đức Ngài cười rồi nói: Tưởng đâu mà mình làm vậy là hết, họ
biết là xấu, có số vốn rồi thì tìm phương tiện mà sinh kế; nào dè bổn cũ soạn lại
mà soạn còn qui mô hơn nữa chớ.
Ngài lắc đầu!
78
- Đức Hộ Pháp Kể, Bà Hương Hiếu Vì Có Kinh Nguyệt Nên Không Hầu Đàn .
Có một đàn cơ, Đức Chí Tôn giáng cơ, nhưng không có mặt Bà
Tư Hương Hiếu hầu đàn. Thầy hỏi: Hương Hiếu đâu? (Bà Hương Hiếu dơ mình, nên
không dám hầu đàn). Kế đó Đức Chí Tôn thăng. Đàn cơ không có Bà Tư Hương Hiếu,
nên không ai đứng đầu sắp xếp bên Nữ phái.
Hôm sau, cầu cơ tiếp: Bà mới quỳ bạch và xin lỗi Đức Chí
Tôn. Đức Chí Tôn nói: – Lỗi ấy không do con. Thăng.
Bà Bát Nương tiếp giáng và cho một bài thi về việc của Bà bị
kinh nguyệt không dự đàn cơ được:
THI
Thể
chất phàm thân trược đã đành,
Chẳng
vì nguyệt huyết kỵ anh linh.
Tương
thân nam nữ hoa trêu bướm,
Hòa
ái Âm Dương thủy nhập bình.
Tạo
hóa là tay xây đảnh túy,
Chúng
sanh nhờ đó tạo nên hình.
Thợ
Trời đâu nỡ chê đồ tạo,
Đẹp
xấu sạch dơ tại miệng mình.
79
- Ông Lễ Sanh Nhượng.
Ông Lễ sanh Nhượng khi bỏ xác trần về Thiêng liêng được đắc
vị Thiên Thần.
Ngọc Hư Cung sắp xếp bổ Ngài Thiên Thần làm việc trợ giúp với
Địa Tạng Vương Bồ Tát. Vì làm thư ký cho Địa Tạng Vương Bồ Tát nên Ngài cảm thấy
ái náy cho công việc của Ngài, Ngài giáng cơ than phiền và xin Đức Hộ Pháp giúp
Ngài tâu với Ngọc Hư Cung cho Ngài làm việc nơi khác, vì nguyên nhân sau đây:
– Một chơn linh mà siêu thăng, chơn linh ấy Ngài chép biên
vào sổ thì mừng vui lắm. Ngặt nỗi một chơn linh bị đọa trần tái kiếp mà lãnh khổ
nạn do nghiệp chướng thì Ngài đau khổ lắm, ghi không được, không nỡ nào, vì
Ngài thấy mình thương yêu chơn linh ấy lắm, nhất là đứng trước những chơn linh
mà đã là người thân trong tiền kiếp, tông tộc dòng họ, hay bạn đồng môn thì còn
thắm thiết hơn nữa, Ngài không thể nào được.
Đức Hộ Pháp khuyên và nói rằng: Ngọc Hư Cung đã phán thì Bần
Đạo cũng phải tuân mạng, thì em hãy cố gắng giữ mực công bình vậy.
Một Đàn Cơ Khác: Cô Hai Chiếu có một bài thơ nhờ Ngài gởi
cho Đức Hộ Pháp. Ông giáng cơ trình với Đức Hộ Pháp.
Người bạn gửi cho Đức Hộ Pháp một bài thơ, mà chỉ đọc miệng
vì ít học nên nhớ không kỹ sợ trật, nhờ Đức Hộ Pháp thấy sai sửa giùm.
THI
Ven
trời ngàn lạy đáp ân thâm,
Nhớ
đến Tôn sư lụy nhỏ dầm.
Mặt
chiếu dệt sầu vương thấp thoáng,
Bước
trần để thảm tưởng lăm dăm.
Tuy
cơ giải thoát đành vui nắm,
Mà
phép phục sanh vốn dỡ cầm.
Nhàn lạc Thanh Thiên an phận tớ,
Thuyền từ tưởng bạn giữa trời Nam .
Cơ viết
xong.
Đức Hộ
Pháp nói: - Qua có biết gì đâu mà sửa.
Đức Ngài hỏi: - Em có gặp em Tư không?
Ông đáp: - Bạch Sư phụ, vì người ở cung Tiên Thanh Thiên
Cung. Còn con là Thần vị cõi dưới. Cõi trên xuống cõi dưới được, cõi dưới không
lên cõi trên được, nếu có lịnh lên phải có người dẫn dắt, Chư Thần Thánh dìu độ
mới được. Vì thế nên không gặp.
Đức Ngài nói: - Qua cám ơn em Tư.
(Ông Nhượng và bà Hai Chiếu là vợ chồng lúc ở thế; thứ tư
là thứ của ông Nhượng)
80
- Trao Cờ Tổ Quốc.
Một buổi họp tại Trí Giác Cung. Ông Phạm Duy Hoai có mặt và
ngồi gần Đức Hộ Pháp. Bên cạnh Đức Hộ Pháp có Tướng Trình Minh Thế, Nguyễn
Thành Phương... và các sĩ quan khác.
Hôm đó ông Thế có ý bực tức về việc Đức Hộ Pháp đem cây cờ
Tổ Quốc trao cho Bảy Viễn, tướng của Bình Xuyên. Ông ganh tị về sự việc đó nên
nói: “Con trong nhà lại không giao mà đem giao cho người khác”.
Đức Ngài nói: " - Giờ đây giữa Thầy và trò không đi
chung đường, nếu con đường trò đi đúng thì Thầy đây cũng nhờ còn Thầy đi đúng
thì trò cũng nhờ vậy. Có gì đâu!
81
- Ông Lê Bá Trang Nhập Xác.
Một hôm nọ, có một cậu em trai nhỏ độ 12-13 tuổi, chạy một
mạch từ Cực Lạc xông thẳng đến Hộ Pháp Đường. Trong lúc chạy, miệng vừa la vừa
chửi: Gặp Đức Hộ Pháp, Đức Ngài liền xán một tát tay vào mặt và đuổi ra ngoài.
Tát tay mạnh quá bất ngờ nên xác đau quá chạy trở ra hướng về Cực Lạc, lúc này
vừa chạy vừa khóc, vừa kêu la thảm thiết.
Một đàn cơ, Đức Quyền Giáo Tông giáng cơ về cho Đức Hộ Pháp
hay rằng: Ngọc Trang Thanh giờ đây ở Lạc Hồn Trì mê man sảng sốt, trông thấy mà
đau thảm. Có lúc hơi tĩnh, tĩnh thì nhớ cái tát tay hôm nọ nên giận lắm.
(Ông Trang nhập vào cậu bé trai chạy vô Hộ Pháp Đường, bị Đức
Hộ Pháp tát tay).
– Vậy em viết một bức thư an ủi, trong đó nhờ Qua chuyển đến,
đặng Qua có cớ, nhân dịp gần gũi mà tìm phương cứu rỗi.
Đức Hộ Pháp nói: " – Thôi, kệ ảnh! Anh bỏ đi!
"
Đức Quyền Giáo Tông nói: " – Ý! Bỏ sao được em! Giờ
này nếu em thấy được nỗi đau thảm của va, chắc là em cũng không nỡ. Vậy từ đây
mỗi khi cầu cơ, Qua thường đem tin của Trang cho các bạn, để xem đó mà làm
gương học hỏi."
82
- Đức Chí Tôn Khuyện Đức Hộ Pháp Nắm Quyền Nhị Hữu Hình Đài.
Khi Đức Quyền Giáo Tông đăng Tiên, Đức Ngài giao chức Quyền
Giáo Tông lại cho Hộ Pháp. Quyền Vạn Linh công nhận Đức Hộ Pháp làm Chưởng Quản
Nhị Hữu Hình Đài.
Một đàn cơ Đức Chí Tôn giáng, nói với Đức Hộ Pháp như vầy: “Con
là đứa con yêu dấu của Thầy. Cầm Phướn chiêu hồn đi đầu Thánh Thể của Thầy. Thì
con nên nhớ rằng: Đường trường diệu viễn, sơn hải khó khăn của bước Thiêng
liêng là dường nào, rồi con chậm chậm dừng chân đợi bầy con dại của Thầy nghe!
Con có dạ thương yêu che chở đứa bịnh. Ấy là con làm ơn riêng cho Thầy đó, nhứt
là Tương và Trang.”
83
- Đức Hộ Pháp Lập 12 Vị Bảo Thể.
Khi Đức Quyền Giáo Tông còn tại thế, Ngài vì quá hiền từ
nên việc tranh chấp phẩm vị của ông Tương đối với Đức Ngài, Ngài không mảy may
để tâm đối phó, nghĩa là Ngài phớt lờ không hề quan tâm để ý tới.
Còn ông Tương, thì tìm đủ mọi cách cố tình làm mất uy tín của
Ngài, hình thức nói sai lệch mọi sở hành của Ngài, bêu xấu nói hành, nói tỏi,
làm đủ mưu đủ kế nhằm cho Ngài mất hết lòng tin của chức sắc, giục loạn để tiếm
vị chức Giáo Tông.
Ông Tương xúi giục ông Biện Lịch, tức Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt,
lúc đó ở tại nội ô Tòa Thánh, chửi bới, bêu xấu, đặt điều định án tội tình cho
Đức Quyền Giáo Tông, rêu rao khắp mọi người nhằm làm cho Đức Quyền Giáo Tông tự
ái, buồn chán, nản lòng, ngày này qua ngày khác chồng chất thêm cao, cố ý để
cho Đức Quyền Giáo Tông thoái vị. Đứng trước tình hình vậy, Đức Hộ Pháp bất
bình về mỗi việc làm ti tiện của ông Tương, lại thương cho cái nhịn nhục của Đức
Quyền Giáo Tông. Hôm đó, Đức Hộ Pháp cho gọi ông Châu, đạo hiệu Hiệp Phố đến để
Ngài dạy việc.
Đức Ngài dạy: Ông Châu chọn 11 người và ông nữa là 12, rồi
thành lập nhóm gọi là toán Bảo thể, Đức Ngài bảo đủ rồi trình diện.
Ông Châu về âm thầm chọn 11 người, ngày hôm sau đến trình
diện liền không dám chậm trễ. Đức Hộ Pháp dạy: " - Làm nhân viên toán Bảo
Thể thì phải biết võ nghệ cho khá mới được; Qua kỳ hẹn một tháng phải rèn luyện
võ thêm cho thuần thật là thuần". Đúng một tháng rèn luyện âm thầm,
không để cho người ta để ý, ông Châu dẫn 11 người đến nhận việc.
Đức Hộ Pháp nói: " - Qua giao Biện Lịch cho Bảo Thể,
làm sao phải đuổi Lịch đi cho được càng sớm càng tốt ". Nhận lệnh rồi,
ông Châu cùng 11 người anh em về bàn kế hoạch, kế sách. Khoảng 8 giờ đêm mùng
8, cả 12 người vào nơi nghỉ của ông Lịch. Mọi người mặt tha lọ quằn quèo, bịt
kín mặt, đổi giọng nói, tay cầm gậy, ăn bận đủ kiểu oái oăm, có người còn mang
râu xồm sàm.
Đến nơi. Kêu cửa. Ông Lịch ra mở cửa. Các ông bước vào nhà
xưng là người của Thập Điện Diêm Cung đến để bắt phạm nhân về chầu.
Ông Lịch thường ngày hay xưng Phật Tổ, nên các ông lớn tiếng
hỏi: "– Có Phật Tổ ở đây không?" Ông Lịch chưa kịp nói, đoàn
người bao quanh ông Lịch, bất ngờ một trận đòn giáng xuống, không kịp xây trở,
ông Lịch cứ một lời là xin đừng, xin đừng, xin tha thứ.
Lúc đó ông Châu làm trưởng nói: " - Ông không muốn
bị đòn nữa, muốn tha thứ thì hãy cung khai hết tội tình chính miệng mình nói
đi; ai xúi biểu, mọi âm mưu, kế độc của ông Tương sắp đặt phải nói rõ
ràng".
Ông Lịch vừa run sợ vừa kể hết mọi chi tiết không bỏ xót một
việc dầu là chuyện nhỏ nhặt nhất.
Ông Châu nói: " - Vậy thì chứng cứ rõ ràng, để giảm
cho vì lời chân thật, tôi không bắt hồn về, nhưng ông dọn đi để tôi trả lời là
không gặp ông. Nếu ông ở đây thì buộc tôi phải dẫn hồn về ".
Ông Lịch: Dạ, dạ, dạ đi. Dạ đi liền.
Bấy giờ mấy ông thấy ông Lịch vừa run sợ vừa mệt lã vì một
trận đòn thì bắt tức cười; nhưng cố kềm lại. Cũng ngay trong lúc này, người con
của ông Lịch có ở nhà mà mấy anh em không biết. Nghe um xùm ở nhà trên, từ nhà
dưới chạy lên (Lúc mấy anh em đến nó đang ngủ nên không hay) đến chừng giựt
mình là um sùm rồi, nghe cha mình van xin cầu khẩn.
Thấy nó lên quý anh em tính dong, nhưng nó kéo tay ông Châu
lại nói:
" - Thôi bác ba ơi! Cho con xin! Cho con xin! "
(Vì nó nhận ra tiếng nói của ông Châu).
Ông Châu giật tay khỏi tay nó, rồi rút đi êm; anh em không
ai nói gì, cũng không để ý tới nó. Sáng hôm sau nghe tin, ông Tương đến thăm
ông Lịch. Chuyện xảy ra được ông Lịch kể rõ đầu đuôi. Ông Tương giận lắm, mới
tính kế để dàn xếp trả oán.
Một mặt: Ông Tương đưa ông Lịch về Long Khánh, Xuân Lộc,
nơi ông làm Huyện thuở trước.
Một mặt: Lấy bộ y phục của ông Lịch mặc hồi hôm, dùng máu
làm lấm lem, thắm chỗ này, chỗ kia, để giữa nhà.
Rồi tự mình ra trình với chính quyền Pháp và dùng lời lẽ
gán tội cho rằng đây là việc ân oán thù hằn nên giết người.
Ông tố rằng ông Lịch bị hành hung và mất tích để lại bộ đồ
thấm máu ở nhà.
Chính quyền Pháp cho người vào ăn kết điều tra sự vụ kết quả
hiện trường.
– Nhiều dấu chân bao quanh một người quỳ.
– Có dấu gậy cây.
– Nhiều sự di chuyển qua lại trong nhà.
– Một bộ đồ dính máu nằm giữa chỗ bị bao quanh.
– Chủ nhà bị mất tích.
– Đồ đạc
trong nhà không mất.
Việc làm của Pháp tại nhà ông Lịch được ông Châu trình cho
Đức Hộ Pháp biết. Đức Hộ Pháp dẫn 12 người Bảo Thể ra trình diện với Pháp và
trình rõ việc làm của ông Tương và ông Lịch mới dẫn đến việc xảy ra lúc ban hôm
qua và việc hôm qua cũng được khai rõ từng chi tiết, còn ông Lịch mấy ông không
có giết, chắc là trốn đâu đó thôi.
Thời gian một tháng trôi qua, ông Lịch được đưa về Tây Ninh
vì có người biết chỗ của ông ở Long Khánh. Trắng án cho quý anh em Bảo Thể. Ông
Lịch lại bị một trận đòn nữa về tội vu oan.
Sau khi được trả tự do vì trắng án, 12 vị Bảo Thể vào Hộ
Pháp Đường trình diện Đức Hộ Pháp, Đức Ngài khen mấy anh em và cho về.
Có một đàn cơ tại Nội ô: Ông Thần Hoàng giáng: " - Hôm
mấy anh chị bị nạn, Đức Trần văn Xương cầm trong tay tờ Thánh Chỉ âm lớn Thần
hãy quỳ tiếp Thánh Chỉ."
Nội dung: " - Các Trấn Tôn Thần đến ngục đường gìn
giữ quý anh không được để cho bọn lính làm hại. Em tưởng Thánh Chỉ của ai,
không dè Thánh Chỉ của Phối Thánh Phạm văn Màng, em thẹn thùa quá đổi, vì các
trấn biết em là bạn của người, mà ngày nay tớ, Thầy cách biệt, vì hay dỡ một kiếp
tu mà muôn năm không thể đổi là vậy."
Thầy thường nhắc mà cười rằng: " - Em thiệt thòi
hơn hết, phải chi bằng được anh ba, đâu có ngồi dưới thấp mà ngó cao xa Thánh vị
của người mà bắt thẹn hơn ".
Đức Hộ Pháp dẫn 12 người Bảo Thể đến trình diện với Đức Quyền
Giáo Tông và tường thuật mọi chuyện xảy ra.
Kể từ đó, Bảo Thể được Đức Quyền Giáo Tông công nhận với
nhiệm vụ bảo vệ Thánh Thể của Đức Chí Tôn.
Đức Quyền Giáo Tông nói: " - Khi trước Qua nghe em
lập Phạm Môn, họ bảo là em lập riêng, giờ đây Qua mới hiểu việc em làm là để bảo
vệ cơ Đạo, bảo vệ Thánh Thể, vậy sau này Qua có chết, em cũng cho mấy em nó xem
Qua như em vậy."
(Vì 12 người Bảo Thể là 12 người Phạm Môn)
Sau đó, năm 1934, Đức Quyền Giáo Tông qui Tiên, Đức Hộ Pháp
cho tất cả Phạm Môn thọ tang, khi đó Đức Ngài nói: " - Đám tang của Anh
cả long trọng, để tang trắng trời, chớ tới chừng Qua chết, chẳng có mấy người để
tang đâu!"
Quả vậy, năm 1959, Ngài đăng Tiên ở Cao Miên. Ở đó đâu có mấy
người theo Ngài, và có Đạo ở đó để tang Ngài .
84
- Nợ Duyên Của Âu Dương Tu.
Ông Thái Chành Phối Sư Thái Tu Thanh, thế danh Âu Dương Tu,
thuở ấy độc thân. Từ nhỏ đã đi tu rheo Đạo Phật đến bậc Yết Ma. Đến khi nhập
môn vào Đạo Cao Đài được Đức Chí Tôn phong phẩm Phối sư phái Thái. Đến năm 1936
lãnh Quyền Thái Chánh Phối sư.
Lúc Đạo bị chính quyền Pháp khủng bố, Đức Hộ Pháp bị bắt
đày sang đảo Madagascar, Tòa Thánh bị Pháp chiếm đóng, đuổi Chức sắc ra khỏi Nội
ô, ông về Sài Gòn.
Nơi đây, ông Âu Dương Tu tá túc tại nhà một người đàn bà quen
với ông; người đàn bà này nhỏ hơn ông khoảng trên dưới 20 tuổi; đáng con ông, nếu
tính một khi ông lập gia đình sớm.
Người đàn bà ấy có một đứa con gái cũng đã lớn. Người đàn
bà một hôm nằm chiêm bao, thấy Thần linh kêu gọi bà hãy gả con gái của mình cho
ông ấy.
Ông Âu Dương Tu một hôm cũng nằm chiêm bao thấy Thần linh bảo
rằng hãy cưới cô gái đó. Ông Tu là người tu hành lòng không nghĩ đến chuyện vợ
con, tâm trí không bao giờ nghĩ đến điều ấy.
Sự kiện trùng hợp, nhưng không một ai dám nói với ai vì rất
sợ hiểu lầm. Nhất là ông Tu, ông dè dặt lắm.
– Cô gái cũng nằm chiêm bao thấy Thần linh kêu bảo phải ưng
ông ấy làm chồng. Thần linh báo mộng như vậy, nó thơ ngây không biết làm sao.
Nó đem chuyện ấy kể cho mẹ nghe. Sự kiện trùng hợp quá; hai mẹ con âm thầm giấu
kín không dám nói ra vì rất kính nể ông Tu.
Thời gian trôi qua, việc kín ấy lần hồi cũng lộ, vì tư cách
của mỗi người đã thay đổi trong khi gặp nhau, cố dè dặt lại là điểm dẫn đến sự
không tự nhiên.
Cuối cùng hai mẹ con thảo luận: Nên đem chuyện ấy nói với
ông Tu một cách thận trọng và dò ý tứ của ông.
Về phần cô gái, cô cũng nghe lời mẹ, và ưng thuận làm vợ
ông Tu, nếu ông Tu chấp thuận.
Một bữa giỗ nọ, sau khi mọi người ra về; hai mẹ con đến bên
ông Tu thận trọng để nói điều mà cả hai muốn nói. Ông Tu nghe qua, nói:
- Xin để
cho thời gian suy nghĩ.
Ông Tu thấy
người con gái từ khi ấy mất hết tự nhiên, cái tự thẹn của cô ấy làm ông sợ. Ông
sợ cô ấy vì xấu hổ mà chết. Ông chấp nhận tiến đến hôn nhân và gọi người đàn bà
nhỏ hơn mình gần 20 tuổi là nhạc mẫu.
Kết quả cuộc sống giữa một già và một trẻ là sanh được 2 đứa
con gái.
Đến năm 1951 ông trở về hành Đạo nắm lại Quyền Thái Chánh
Phối sư.
Rõ ràng phẩm vị của ông cao, tuổi đời lại lớn, tu hành từ
nhỏ, cắt ái ly gia, không màng gì đến phần tạo lập gia đình. Thế mà khiến xuôi
sao ông từng tuổi đời ấy, tuổi đạo ấy, lại phải trả phần nợ duyên nhơn đạo, tạo
ra 2 đứa con, rồi sau đó mới tiếp tục phần hành đạo cuối cùng; rồi bỏ xác trần
tại Tòa Thánh.
85
- Căn Bệnh Đeo theo Đức Cao Thượng Phẩm.
Đức Cao Thượng Phẩm thuở còn sống, Ngài bị một căn bệnh kiết
rất khó trị. Đã đủ thầy đủ thuốc, Tây, Đông mà vẫn không hết. Đến khi Ngài qui
Tiên cũng bị hành bởi căn bệnh ấy.
Nhưng lạ một điều, khi bắt đầu đi cầu cơ, nghĩa là bất cứ
ngày nào, nơi nào, có khi liên tục thì Ngài khỏe khoắn tự nhiên không có dấu hiệu
gì của bệnh cả.
Nhưng việc cầu cơ xong, khi trở về nhà có khi Ngài đi không
kịp vì bịnh kiết ấy
86
- Đức Hộ Pháp Không Cho Bắt Chước Ngài Hành Pháp.
Lúc ông Giáo sư Cậu rước Đức Hộ Pháp về Phú Mỹ ở, có lần Đức
Hộ Pháp hành pháp giải bịnh điên cho một người, và hành pháp đoạn căn cho một
người, sợ ông Giáo sư Cậu (*) bắt chước, nên Đức Ngài nói:
– Nè! Anh đừng có thấy tôi làm mà bắt chước nghe. Chỉ có
tôi mới hành pháp này mà thôi. Tôi tắm đây là tắm cho cái Chơn hồn đó, chớ
không phải tắm cho cái xác. Tôi có lịnh của Đức Chí Tôn truyền pháp. Chừng nào
có được dịp, tôi truyền cho anh thì anh mới làm được.
(*) Ông Giáo sư Cậu hay có tánh bắt chước làm phép vì ông rất
thích việc ấy
87
- Đại Hội Long Hoa Còn Thiếu Một Ức Nguyên Nhân.
Đức Hộ Pháp thuyết Đạo nói:
" - Khi Ngài về Thiêng liêng, nhập vào Bạch Ngọc Kinh,
thấy Đại Hội Long Hoa trên Thiêng liêng, Đức Ngài cầm Giáng Ma Xử kiểm lại số
nguyên nhân đã trở về được. Kiểm xong, Ngài mới giật mình, vì 92 ức mà chỉ về
có 91 ức. Ngài quay lại định xuống thế tiếp tục độ dẫn nữa.
Khi ý định vừa dứt, Ngài nghe Đức Chí Tôn nói:
" – Thôi kệ nó con! Còn một ức nữa nó nằm bên Đạo
Phật chớ chẳng đâu; rồi lần lượt nó cũng về sau không thiếu. Nó chê Đạo Thầy
không bằng Đạo Phật. Đức Ngài nói: May quá! Nếu không có Đức Chí Tôn cản kịp
lúc, là Qua tái kiếp nữa rồi.
Đức Ngài nói tiếp: " – Một ức này còn kiêu lắm. Họ
cho là Đạo của họ cao, còn Đạo Cao Đài thì thấp thỏi y như lời Thầy nói. Họ
không chịu vào, bởi vậy Hội Long Hoa còn thiếu một ức là vậy."
88
- Bà Lục Nương Than Cho Vận Mệnh Pháp Triều.
Một đàn cơ bà Lục Nương giáng nói về nước Pháp như sau: "Em
vì chút tình riêng với Pháp Triều thổ võ, nên không lẽ ngồi yên xem nạn ác đức
dẫy đầy. Em và Chưởng Đạo Nguyệt Tâm quỳ tại Bạch Ngọc Kinh 10 ngày để cầu xin
giáo hườn mảnh đất sông Rhine (Ranh) đặng giáng khí Đức Triều e nỗi khó mong
thành đặng, vì Ngọc Hư Cung nhứt định để cái hoàn độc dược mấy ngày sau thiêu
tàn nước Pháp, mất hết cả thuộc địa, mà còn làm nô lệ 300 trăm năm nữa là
khác."
THI
Pháp
Triều! Hỡi Pháp Triều.
Chuyển
luân cơ Đạo vốn cân đồng.
Hóa
chủ tớ hèn gẫm cũng công,
Mặt Bắc Ý còn mong thủ thắng.
Miền Đông Đức khởi giữ oai phong,
Chinh nghiêng xã tắc Trời chia đảng.
Tan tác non sông đất chẳng đồng,
Khuôn mặt địa dư e đổi dạ,
Nâng hèn Trời phải dẹp dòng sang
89
- Ông Võ Văn Đợi, Đạo Hiệu Linh Đoàn.
Vào một kỳ họp đại hội: Đức Hộ Pháp chủ tọa bên Hiệp Thiên
Đài, còn ông Khai Pháp chủ tọa bên Cơ Quan Phước Thiện.
Giữa cuộc họp bên Phước Thiện; đột nhiên ông Giáo Thiện Võ
Văn Đợi đứng dậy, đem áo mão Lễ Sanh, Giáo Thiện đã sắp xếp sẵn lên đặt ngay
bàn chủ tọa, rồi xá Ngài Khai Pháp, quì xuống lạy 3 lạy xin được trả áo mão.
Ngài Khai Pháp và mọi người trong cuộc họp đều ngạc nhiên.
Trước việc bất thình lình này, mọi anh em chưng hửng. Ngài
Khai Pháp nói: "Anh Đợi! Anh làm gì vậy?
Việc này tôi phải mời Đức Hộ Pháp qua giải quyết – Vì chỉ
có Ngài mới có quyền thôi".
Đức Hộ Pháp được mời đến. Đức Ngài hỏi vì sao ông Đợi làm vậy?
Ông Đợi thưa rằng: " – Bạch Thầy! Vì lúc trước Thầy
có nói: Mượn áo mão đi hành Đạo 3 năm rồi sẽ về tu chơn. Hôm nay con xét lại thấy
đã đủ ba năm nên xin trả lại để tu chơn. Đức Hộ Pháp nói: Phải điều này hồi trước
Qua có nói với Đức Quyền Giáo Tông. "
Nhưng hôm nay Qua còn đầy công việc chưa thành, thì làm sao
Thầy trò ta trở về tu chơn cho đặng, Qua còn làm, sao em lại bỏ qua. Công việc
của mấy em giống như là đưa người ta đã đến một cù lao, mình còn phải rán giúp
thêm tiếp tục đưa đến bờ đến bến, có đâu lại bỏ họ giữa chừng, như vậy còn là
gì ân nghĩa với họ đây.
Đức Ngài nói vậy mà thấy ông Đợi vẫn nhất quyết một lòng
như thế, Đức Ngài nói: " Nếu em không nghe lời Qua, mà em chỉ muốn làm
theo ý muốn, vậy em cứ đi. Vào núi đó, nếu độ được mấy ông Thầy chùa trên núi
thì Qua tính công nghiệp cho."
Ông Đợi nghe vậy mừng lắm, nhận lời. Sau đó ông Đợi cùng với
một số anh em cùng ý với nhau hợp thành một nhóm vào chân núi Bà, lập sở nơi mà
Đức Ngài đã chọn để lập Vạn Pháp Cung. Họ bàn kế hoạch độ người: Mấy anh em ông
Đợi nghĩ rằng muốn độ được họ thì phải làm cho giống họ, mới gần gũi họ mà độ,
tất cả đồng ý cạo đầu, mặc áo nâu.
Ngoài Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp nghe tin: Đức Ngài nói: Qua bảo
nó vô đó để độ mấy ông Thầy chùa, chớ có bảo nó cạo đầu, mặc áo nâu đâu; nó làm
vậy là làm trò của người ta rồi còn mong gì mà độ họ được.
Được biết: Thời gian chọn phong Lễ Sanh, Giáo Thiện để đi
hành Đạo, do Phối Thánh Phạm Văn Màng chọn. Trong số người được chọn có ông Đợi.
Số chưa được chọn do còn thiếu điều kiện gì cần phải rèn luyện thêm và phải chờ
lần khác. Họ sanh lòng tự ái, thay vì tu học thêm họ lại bất mãn, ghen ghét,
ganh tị.
Họ nói với những người được thọ phong những câu biếm nhẽ. "Mấy
anh có mão cao áo rộng rồi đâu còn ngó ai nữa". Nghe vậy: Ông Đợi áy
náy, mặc cảm, ông nói với mấy anh em đó rằng: Ông sẽ trả áo mão lại và cùng làm
công quả với anh em, cho đến khi nào anh em đây hết thảy có phẩm thì ông mới
xin áo mão lại và nhận phẩm của mình.
Từ những việc trên: Một đàn cơ riêng Phối Thánh giáng trình
bày với Đức Hộ Pháp như sau: "
Thưa Sư Phụ: Con không dám để một lời gì về việc cầu phong cho các bạn kỳ này.
Vì không đủ công Hành Thiện nên không được lên Giáo Thiện.
Bây giờ muốn cho công danh họ rỡ ràng, phải lập một hội nhơn sanh như bên Cửu
Trùng Đài vậy " .
Đức Hộ Pháp đồng ý và cho thành lập Đại Hội Phước Thiện tổ
chức nghị viên, phái viên y như Hội Nhơn Sanh.
Sau khi ông Đợi ở trên núi làm không đúng chơn truyền, trước
khi qua đời ông có làm tờ thú tội với Đức Hộ Pháp và xin tha thứ.
Lúc dứt hơi, ông Đợi được Đức Hộ Pháp phê cho phục chức
Giáo Thiện và cho đem vào Báo Ân Từ hành lễ theo hàng Thánh vị.
Một đàn cơ, sau khi ông Đợi qua đời; Phối Thánh Màng giáng
cơ cầu xin Đức Hộ Pháp:
- Thưa Sư phụ và Sư thúc: Một đàn chim bay nơi xứ lạ, cảnh
sầu, tình khắn khít thương yêu nên đáo để. Nếu duỗi cánh mỏi mê, lạc bầy chích
bạn thì tiếng nĩ non kêu thảm vốn tẻ buồn. Xin Sư phụ và Sư thúc rộng thương mà
tha tội cho anh Giáo Thiện Đợi kẻo tội nghiệp.
90
- Bà Thất Nương Đến Phong Đô Cứu Độ Song Thân.
Có một đàn cơ: Bà Thất Nương đến tâm sự cùng Đức Hộ Pháp.
Bà cho hai bài thi sau:
1.
Đố
ai rõ thấu hiểu ra sao,
Chín
chữ Cù Lao giá thế nào.
Hình
vóc cảnh Tiên còn vinh bấy,
Chơn
Thần nước Phật rửa thai bào.
Nỗi
riêng Từ phụ chưa xong phận,
Nghĩa
nặng đeo đai phận má đào.
Thà xuống âm cung chia khổ tội,
Cha
vầy ai nỡ ngự Đài cao.
2.
Hai
kiếp đeo đai lắm nợ trần,
Có
thân vì khổ bận cho thân.
Niềm
duyên đổ ngọc loan phòng nguyệt,
Nỗi
hiếu rơi châu tưới mộ phần.
Giữ
Đạo những mong ngồi độc tịch,
Bán
mình quyết cứu độ song thân.
Nước
non càng ngắm càng thêm chạnh,
Chạnh
thảm khi mang mảnh xác trần.
Bà khẩn cầu Đức Hộ Pháp cứu độ giùm song thân của bà. Cũng
vì nỗi hiếu mà bà không nỡ ngồi nhìn song thân đang khổ khắc, nên mới lén đến
phong đô để cứu rỗi. Sự việc không trình qua Thiêng liêng, nên Ngọc Hư Cung bắt
tội, bà mới đến tỏ bày sự thật nhờ Hộ Pháp che chở.
Nghe qua tự sự Đức Hộ Pháp nói: Người có lòng hiếu thảo như
vậy mà có tội nữa sao?
Bà Thất Nương nói: Em nói nhỏ cho Đại ca nghe một mình, mà
Đại ca nói lớn coi bộ giận dữ nữa. Tiếng nói của Ngài kèm theo sự bất bình; làm
vang động đến Bạch Ngọc Kinh, Đức Chí Tôn hay gọi Đức Lý đến nói: – Hộ Pháp
trách Thầy – Con đến để khuyên lơn. Đức Lý giáng cơ cho một bài thi:
"
Phải giữ chơn linh đặng trọn lành,
Ngọc
Hư toàn ngự Đấng anh linh.
Luật
điều Cổ Phật không chừa tội,
Hình
phạt Chí Tôn chẳng vị tình.
Chánh
trực kinh oai loài giả dối,
Công
bình vừa sức kẻ chơn thành.
Mũi
kim chẳng lọt xưa nay hẳn,
Biết
sợ xin khuyên cẩn thận mình. "
Đức Lý nói: Em còn nhỏ, chưa rõ Thiên Điều luật pháp nghiêm
minh, chính vì vậy mà Đức Chí Tôn sai lão đặng chỉ thêm.
Vì lời ước của Địa Tạng Vương Bồ Tát trong Đại hội Thiêng
liêng, Bà Thất Nương tình nguyện đến Phong Đô để đoái công chuộc lỗi. Bà đến
Phong Đô để dễ gần gũi với những chơn hồn tội lỗi hầu giáo hóa, an ủi, dìu dẫn
mà thuộc về phái nữ. Việc bà đến Phong Đô để trợ giúp Địa Tạng Vương âu cũng là
quyền Thiêng liêng khiến xuôi sắp đặt.
91
- Long Tuyền Kiếm.
Ông Chưởng Quản Phước Thiện Lê văn Trung kể về việc Long Tuyền
Kiếm.
Hồi còn đi học, ông thấy có một cái đám xác đi chôn nơi
láng cát làng Phú Mỹ. Ông vô tình ngồi trong một quán nước và nghe một ông lão
chuyên môn đào huyệt mướn nói chuyện với mọi người. Lão ấy cằn nhằn rằng: Phải
đào đi rồi bỏ, đào lại rồi bỏ, bốn lần đào mới được cái huyệt mà người nhà ưng
ý để chôn bà già đó.
Có một người Trung Hoa ngồi gần bên nghe nói, đến bên ông
đào huyệt hỏi: Sao mà tới 4 lần, chôn ở đâu? Chôn ở xa hay gần? Ông đào huyệt
nói: Chôn ở Láng Cát, đào cứ trúng đá hoài, lần chót ra bìa gần kinh mới đào được.
Chôn cũng không sâu lắm, vì cũng có đá mà hơi mềm hơn.
Ông Trung Hoa này đến đây đã 2 tháng rồi, nói là đi tìm bà
con nhưng không gặp. Ông Tàu nói chuyện với lão đào huyệt. Sau đó 2 ông này
chèo xuồng vào Láng Cát. Ông lão đào huyệt nói là ông Tàu bảo ông ngồi chơi, rồi
không biết ông Tàu làm gì chỉ thấy ổng cầm một bọc gói kín, một cái hộp cải bắp
thảo, đi quanh đi quất tìm kiếm cái gì không biết. Một lúc lâu sau ông Tàu trở
ra và cùng ông đào huyệt đi về.
Thời gian trôi qua 14–15 năm, ông Tàu thì đi đâu mất, ông
lão đào huyệt chết đi.
Cho đến khi lúc Đức Hộ Pháp lãnh lịnh khai quật Long Tuyền
Kiếm, ông Trung mới giật mình, bao nhiêu điều mắt thấy tai nghe buổi nọ lần lượt
quay lại trong đầu. Ông đem kể hết lại cho Đức Hộ Pháp nghe từng chi tiết một.
Buổi sáng đi khai quật Long Tuyền Kiếm: Xuồng đến Láng Cát,
dừng lại cặm sào. Đức Hộ Pháp bảo đặt một cái bàn nhỏ nơi láng cát chỗ gò đất
cao nhất. Đoạn Ngài ngồi định Thần chấp bút: Lỗ Ban Tôn Sư giáng tường thuật lại
gốc tích, giai đoạn, và chỉ cách giải quyết, tháo gỡ. Đức Hộ Pháp hỏi: Họ ếm
nơi nào? Nhờ Lỗ Ban Tôn Sư điểm chỉ. Lỗ Ban Tôn Sư nói: Lấy bàn làm trung tâm,
đi về hướng mặt trời lặn 30 bước, đào xuống sẽ gặp.
Đức Hộ Pháp chọn một người cao nhất và một người thấp nhất
trong đoàn, bước một lượt 30 bước rồi dừng lại. Đức Ngài lấy trung bình rồi sắp
xếp người đào nơi Ngài chỉ. Ngài ra lịnh cho anh em đứng theo hàng ngang san
sát, mỗi người một cái cuốc và cuốc một lượt.
Cả một hàng, cuốc mỗi lúc một xuống sâu mà không thấy gì cả.
Đường cuốc đã thành một đường rãnh dài, sâu mà chưa thấy có dấu hiệu gì, mọi
người mệt nhoài. Đức Ngài cho dừng tay ngồi nghỉ mệt.
Trong lúc ngồi nghỉ, có một người phát hiện nói:
– Còn cái bụi cỏ chát trước mặt, sao không tém cho sạch
luôn, để làm gì? Vừa nói vừa lấy cuốc đào tém bụi cỏ lật ngang. Liền thấy có một
chỗ trũng. Thấy hiện tượng lạ, liền trình với Đức Hộ Pháp. Đức Ngài bảo theo đó
đào xuống tiếp, vừa đào ba cuốc thì thấy đất chỗ ấy không cứng mà hình như có vật
gì trong đất, vì đất có màu sét. Đức Ngài bảo không đào nữa, lấy tay moi. Vị ấy
moi lên lấy một cái dao lớn dài, gẫy cán, gỉ đầy sét; một cái hũ bịt kín, trút
hũ ra, bên trong hũ có một cái hột gà đen thui, sáu con cờ tướng bằng ngà, mấy
đồng tiền kẽm đời Minh Mạng, mọi người mừng rỡ đến xem.
Đức Hộ Pháp nhận hết tất cả, kêu ông Trung đem ly rửa rồi
đem dâng lên cho Đức Hộ Pháp. Ông quên xem sáu con cờ tướng ấy là quân gì, lại
nữa không dám hỏi.
92
- Ông Thần Chiếm.
Ông Thần
Chiếm quê quán ở Bến Lức Long An.
Lúc còn ở
Bến Lức Long An chưa về Tây Ninh, ông bị chính quyền Pháp truy bắt, vì làm nghề
phi pháp.
Anh ba Đường
người Phạm Môn làm công quả ở Tòa Thánh, có dịp về thăm nhà ở Bến Lức, biết được
người bạn cùng xứ sở khốn đốn, âu lo vì đang trốn lánh. Ông bàn với với
ông Chiếm bỏ Bến Lức trốn về Tây Ninh ở với ông, ông hứa bảo lãnh.
Thế là ông Chiếm túng thế nghe lời theo anh ba Đường về
Giang Tân, Tây Ninh nhập sở Bến Kéo làm công quả. Ở đây, ông Chiếm cảm thấy yên
thân, và thấy mọi người hăng say làm công quả với một tinh thần đạo đức. Tâm hồn
ông bắt đầu lay chuyển, một tấm lòng phục thiện dâng cao, ông ra sức đem hết
tinh thần phục vụ ngày đêm không mệt mỏi, ông tự hứa với lòng là để chuộc lấy lỗi
lầm.
Thường lệ mỗi tháng ngày 10, 20, 30, Đức Hộ Pháp hay đi
thăm các Đạo sở, và có khi nghỉ trưa tại sở đó. Nhân lúc này, anh ba Đường vào
trình vơi Đức Hộ Pháp mọi sự và cầu xin cho ông Chiếm được nhập sở. Đức Hộ Pháp
đồng ý.
Lần lượt anh ba Đường cũng sắp xếp cho vợ và con của ông
Chiếm về luôn ở Tây Ninh và cũng vào làm chung sở với ông.
Vài tháng sau đó, ông Chiếm lâm bệnh qua đời. Thật là bất
ngờ trước cái chết của ông, vội vàng không thể tưởng tượng khi ông chưa có nhập
môn. Đám táng được cử hành và chôn cất tử tế.
Được ít lâu, một đàn cơ, ông Phối Thánh Màng giáng cơ về
cho Đức Hộ Pháp hay:
– Bạch Sư phụ, anh Chiếm được vào phẩm Địa Thần được Đức
Quyền Giáo Tông làm chứng.
Một đàn cơ khác, ông Phối Thánh giáng cơ về trình với Đức Hộ
Pháp:
– Thưa Sư Phụ, anh Chiếm có về, còn đứng ngoài cửa vì chưa
có lịnh của Sư Phụ, ảnh không dám vô.
Đức Hộ Pháp gọi: Chiếm.
Cơ viết: Dạ! Chiếm đây nè!
Đức Hộ Pháp nói: Sao em không vào.
- Thưa! Vì con sợ Sư phụ quá! Con viết không được, nhờ anh
ba viết giùm.
Hôm con chết,
ôi thôi! Khổ biết dường nào, một nỗi là mẹ thằng Đường (Đường là tên con của
ông, trùng tên với anh ba Đường) kêu tới kêu lui, chịu đời không nổi, khi hồn
ra khỏi xác, lại có lệnh của Ngọc Hư Cung sai Như Ý Lão Quân bắt con đem ra nơi
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, ở đây bọn quỷ lồi, cô hồn đủ thứ, mắng nhiếc tối
ngày. Nhứt là nó nói con là đồ làm biếng, chớ tu gì, tu gì. Lại có mấy
tay phản Đạo đứng làm đầu giục bọn kia chưởi bới con, con chịu hoài như vậy, muốn
chết đi mà chết không được. May đâu có một bà thật tử tế. Nghe nói bà ấy là Thất
Nương Diêu Trì Cung đến thăm. Rồi bà biểu con theo bà chơi, vì bà có oai quyền
lớn lắm, nơi Thanh Tịnh Đại Hải Chúng ai cũng đều kiêng, bà đem con đến Đức Quyền
Giáo Tông ở. Ở đây chẳng đặng bao lâu thì ông nói với con rằng Ngọc Hư Cung cho
con đi phó lị tỉnh Ninh Bình, làm ông Thần tại đó. May quá, cũng còn gần nên chạy
đi, chạy về thăm được.
Xin Sư phụ nói lại với mẹ thằng Đường. Thằng Đường chết
không phải con bắt, đừng có đổ thừa mang tội đa. Vì nó là con của quỷ, quỷ dẫn
đi đâu, con đây còn không biết, mà mẹ nó biết cái gì. Khi cấn chửa nó, hỏi mẹ
nó và con làm cái gì thì biết.
Để anh ba nói chuyện con cái của mình cho các bạn nghe hay
lắm.
Phối Thánh Màng: "
– Khi nãy anh Hai Chiếm có hứa để tôi nói chuyện con cái của mình.
Các bạn khi giao thân với bạn mình phải thật hiền. Buổi ấy,
sẵn tâm hung ác thì con sẽ nên hung ác, chẳng khác nào mở cửa nhà kêu ai thì
người đó đến.
Đức Hộ Pháp: – Đó. Thánh Màng dạy bây rõ ràng hổng còn gì nữa.
Được biết thêm: Thuở sanh tiền; vợ chồng ông Chiếm làm nghề
phi pháp, rồi bị Pháp truy nã, phải trốn về Tây Ninh làm công quả để lánh nạn.
Vợ con ông Chiếm cũng ở sở. Nhưng từ khi ông mất, con của ông là thằng Đường
nghe lời phe của ông Tương hay nhiếc mẹ:
– Bà làm công quả cái gì, đi riết rồi coi chừng mang chửa.
Bà tự ái, giận con nói hỗn, nên nói:
– Đó! Con ông, nó ăn nói với tôi như vậy đó. Ông có linh
thì bắt nó đi cho rồi.
Oan nghiệt thay! Lời nói ấy lại dẫn đến cái chết của thằng
Đường con ông. Thằng Đường bị bệnh đột ngột rồi chết liền. Không còn nghi ngờ
gì nữa, bà đổ trút tất cả cho ông Chiếm, vì bà cho rằng tại ông bắt. Bà giận,
nói lẩy mà ông làm thiệt; nên ông Chiếm mới nhờ Đức Hộ Pháp nói lại cho bà biết
mà đừng nói bậy mang tội.
93
- Đàn Cơ Ông Chiếm Xin Cho Ông Hiệp Phố Ra Ở Với Ông.
Ông ba Châu, Đạo hiệu Hiệp Phố, phẩm Chí Thiện, lúc đi trấn
một tỉnh miền Bắc, ông Thần Chiếm về báo với Đức Hộ Pháp như sau:
– Thưa Sư phụ, anh Hiệp Phố bị anh Phong Chí Chơn Nhơn hiếp
đáp (Phong Chí là Đạo hiệu của ông Giáo sư Bảy người gốc Hoa).
Ai đời tu gì mà phải ở truồng, ăn đất thì mới ra lẽ Phước
Thiện.
Mà anh Hiệp Phố nhịn, ông Bảy lại làm cho ăn tạm ở nhờ, thấy
càng thảm thiết.
Thưa Sư phụ, cho anh Hiệp Phố vô Ninh Bình, con bao hết.
94
- Ông Giáo Hữu Đặng Trung Chữ (Thượng Chữ Thanh)
Trước khi ông Giáo hữu Đặng Trung Chữ (Thượng Chữ Thanh)
lãnh lịnh đi mở Đạo nơi Ai Lao (Lào), Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ cho ông
một bài thi:
Vưng
Thiên mạng đến nơi đất lạ,
Nơi
Ai Lao trổi gót Quan hà.
Làm
trai bốn biển là nhà,
Nên
dân ích nước mới là trượng phu.
Chí
Tôn mở đường tu thêm mới,
Vẹt
non sông mới tới bồng lai.
Trương
ngươi Thánh Nhãn Cao Đài.
Xem
toàn thế giới các loài chúng sanh.
Nơi
Ngọc Hư Chí Linh sẵn định,
Cả
nguyên nhân phải tính qui nguyên.
Thiên
cơ trước đã để tên,
Cái
công cứu thế ơn trên sẵn dành.
Con
đã đứng vào tranh Tiên Phẩm,
Khá
trau thân đừng lắm bụi hồng.
Xưa
quan với vẽ đai cân,
Nay
quan với mảnh Tô Tần vinh thân.
Thuyền
Bác Nhã dòng ngân vịnh bái,
Dựa
bến mê chớ mãi tội tình.
Con
nên trọng lấy quần sanh,
Đem
thân Thánh đức che lòng AI LAO.
Con
đã có chí cao bao lớn,
Buông
lợi danh nắm Phướn tiêu diêu.
Kìa
khổ cảnh, nọ phàm phiêu,
Trai
duyên vì vợ con nhiều tội căn.
Con
nên biết gánh oằn nhơn Đạo,
Con
thảo thân ai tảo ai tần.
Chưa
an lấy phận nhơn luân,
Thầy
khuyên lời dặn ân cần đôi câu.
Khá
khuyên lấp mạch sầu đôi lúc,
Lập
nên thân đặng phục lòng người.
Nay
đi còn chút hổ ngươi,
Sao
về con đặng vào ngồi đài mây.
Phải
nhớ lấy ơn Thầy nghĩa bạn,
Để
trông gương cho sáng Đạo nhà.
Nước
non chẳng quản đường xa,
Thầy
theo từng bước gọi là vẽ con.
Con
phải chịu thon von khổ hạnh,
Nỗi
cúc côi khó lánh cường quyền.
Tập
mình nhịn nhục cho quen,
Trải
gan sắt đá cho bền nên công.
Nước
LÀO vốn là nơi du khách,
Màu
Trung Huê chưa sạch nơi tâm.
Vì
mê tín, thích thần phong,
Thờ
ma, kính quỷ khó mong cải tà.
Con
nên để đạo tà chiêm ngưỡng,
Vì cung trung tư tưởng nhà Nam,
Con
đem Thánh Đức thử phàm...”.
Ông Chữ là một người con chí hiếu, sống ở Nam Vang. Tuy
hành Đạo mặc dầu, nhưng việc dưỡng nuôi mẹ không hề xao lãng. Nên khi có lệnh
phải đi hành Đạo Ai Lao, Hội Thánh phải cắt người chăm sóc cha mẹ ông, ông mới
an lòng ra đi mở Đạo.
Lúc ấy hoàn cảnh gia đình nghèo, lệnh trên xuống phải tuân.
Không có gì trang bị lên đường, chỉ một chiếc xe đạp và một gói hành trang đơn
giản; ông gói gọn rồi cột vào xe; đạp đi, một thân, một bóng, đi trong gió
sương, dầm trong mưa nắng, ông cố gắng lấy hết sức để vượt qua chặng đường mà
ông vẫn biết còn bao nỗi gian truân chờ ông phía trước. Trên đường sang Ai Lao,
một đức tin vững mạnh nơi Đức Chí Tôn, và các Đấng Thiêng Liêng, một hy vọng
tràn trề là làm tròn sứ mạng để một ngày kia dâng thành quả về cho Hội Thánh.
Đó là tâm huyết của ông.
Đến biên giới, ông xuống tàu. Tàu cặp bến sang nước Ai Lao.
Mọi người lần lượt lên bờ. Đội kiểm soát đã chực sẵn để kiểm soát. Ông Chữ liền
biết mình chẳng có miếng giấy lộn lưng, nên ẩn núp lại. Tàu có 2 tầng, ông cố gắng
lắm mới đẩy được xe đạp qua một xó của tầng dưới rồi núp theo xe đạp. Bọn lính
kiểm soát người xong, đến kiểm soát tàu. Quyền Thiêng Liêng khiến sao mà lính
nó chỉ coi sơ sơ rồi bỏ đi. Chờ cho bọn lính và người ta đi hết, nghe không còn
ồn ào nữa, ông thong thả dẫn xe lên rồi ra khỏi tàu, đi bình thường như mọi
công dân Lào khác.
Giờ đây, xứ lạ quê người, ngôn ngữ bất đồng. Ông ngơ ngác
không biết đi đâu, ở đâu. Vừa dẫn xe đi vừa nghĩ đủ thứ trong đầu (Không chạy
xe, vì có biết đường đâu mà chạy). Ông chợt nhớ lại một đàn cơ biểu ông: Trước
khi mở Đạo, ông phải trị bệnh cho một người đàn bà điên. Vừa đi vừa mong mỏi cơ
hội ấy. Nếu gặp bà đàn bà điên là cơ hội đến vậy, tư tưởng nghĩ như thế.
Rồi chẳng thấy gì, mà trời về đêm, ông tấp vô một mái hiên
nhà của một quán cà phê co mình ngủ vì mệt, ngủ say đi như kẻ ăn xin.
Cả tháng nơi đất Lào, ông ăn cơm tiệm rồi ngủ bên mái hiên
quán cà phê. Người chủ quán để ý, thấy ông nầy không tệ lắm sao lại ngủ như vầy.
Một là vì thương người, hai là để dò xét, nên không đuổi
(Người chủ quán là một người Tàu) biết tiếng Việt.
Một hôm, người chủ quán hỏi ông: (Bằng tiếng Việt)
– Ông ở Việt Nam qua
đây phải không?
Ông đáp: - Phải.
Người chủ quán hỏi: - Qua đây để làm gì?
Ông đáp: - Để truyền Đạo.
Ông chủ quán nghe nói ngẩn người, nhìn ông, hồi lâu nói:–
Nghe nói người tu hành thường hay có giải được bệnh căn, vậy chớ ông có trị bệnh
được không?
Ông đáp nhanh: - Được chứ.
Ông chủ quán nói: - Vậy ông theo tôi.
Thế rồi ông chủ quán đóng cửa quán, dẫn ông về nhà. Trong
nhà có một cái củi, nhốt một người điên.
Ông chủ quán chỉ ngay nói: - Người này. Rồi nhờ ông giúp trị
bệnh, còn ông thì trở lại quán để buôn bán. Ở nhà lúc này vắng vẻ, không người,
mà ông cũng nghĩ là lạ, sao ông chủ quán không ở lại xem coi mình trị bệnh ra
làm sao, mà lại tin rồi giao không ngần ngại.
Thôi kệ! Ông mon men tới gần để hỏi chuyện người trong cũi,
rõ là một bà điên. Chưa được một phút, thì một người đàn bà khác từ đâu về xưng
là mẹ của người trong củi, rồi sinh ngờ vực chửi bới, mắng nhiếc, lấy chổi rượt
đánh ông. Ông thấy không thể minh oan được trong cơn phẫn nộ của người ta. Ông
chạy nhanh ra cửa thoát thân đem theo nỗi oan tình. Ông nghĩ sao kỳ vậy, rồi bỏ
chỗ ấy đi nơi khác ngụ.
Qua cơn khủng hoảng, ông bình tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn và
các Đấng Thiêng Liêng hộ trì cho ông sớm gặp được cơ duyên để hoàn thành sở
nguyện.
Một hôm, gặp một người bạn quen làm thông phán. Hai người gặp
nhau mừng rỡ hỏi thăm nhau.
Ông thật tình kể rõ chuyện của ông cho người bạn biết.
Người bạn nói:
– Thôi được, anh về nhà tôi nghỉ ngơi trước đã, còn việc
làm thì muốn làm gì thì tính sau.
Về đến nhà, ông Chữ không ngờ được trước việc xãy ra, vì
ông chỉ mong làm sao có được chỗ ăn tạm ở nhờ là quỷ lắm rồi.
May thay! Nhà ông bạn có một người bệnh! Vừa thấy là ông Chức
đã sinh nghi. Người bệnh là một người đàn bà.
Ông chữ hỏi: – Ai bệnh vậy?
Ông thông phán nói: – Vợ tôi. Bà ấy bệnh điên, đã trị nhiều
rồi mà không hết.
Ông Chữ nói: – Quả thật bệnh điên thì tôi trị giúp cho.
Ông thông phán ngạc nhiên hỏi lại: – Anh trị được hả?
Ông Chữ nói: – Thật mà.
Ông thông phán mừng rỡ: – Vậy thì anh giúp giùm tôi; chớ
tôi thì đã hết đường rồi.
Ông Chữ bảo: – Sắm bông hoa, đèn nhang, trà rượu.
Ông mở gói hành trang, trong gói hành trang chỉ có một tấm
tượng Thiên Nhãn và một đồ Thiên phục. Bấy lâu nay ông chỉ mặc một bộ đồ không
thay đổi, giặt ở mé sông, rồi phơi ráo mặc lại.
Thánh Tượng Thiên Nhãn được đặt ở trên bàn cao giữa nhà.
Ông đem bông hoa trà rượi nhang đèn sắp đặt đủ theo nghi thức
Đạo. Ông mặc Thiên phục, bái lễ Đức Chí Tôn, cầu nguyện, trình bày việc làm.
Xin giải bệnh cho vị: (Ông đọc tên người bệnh). Ông hành pháp xong, lấy rượu
cho bệnh nhân uống, lấy bông nhúng nước Âm Dương rải trên đầu người bệnh. Bệnh
nhân hết bệnh lạ thường, tỉnh táo như không hề mất sức hao lực gì cả, mạnh khỏe
y như hồi còn bình tỉnh.
Ông thông phán không thể nói gì khác hơn là chân thành cám
ơn rối rít, nỗi vui mừng đến không cầm được nước mắt.
Ông trọng đãi ông Chữ như một khách quí.
Rồi một hôm ông thông phán dẫn một người bạn Lào tới nhà
chơi, trong lúc chuyện trò, ông uyên thuyên ca ngợi việc làm của ông Chữ. Người
bạn Lào nhìn vào vẫn còn thấy Thánh Tượng Thiên Nhãn trên bàn vừa mừng vừa sợ,
ông nói với ông thông phán là hồi hôm ông nằm mơ thấy Thần mách bảo phải thở Trời
và nhập môn theo Đạo có thờ hình nầy; y như vầy.
Ông hỏi: – Tôi theo Đạo được hôn?
Sau khi ông thông phán dịch lời cho ông Chữ nghe. Ông Chữ mừng
quá nói liền "Được! Được chư!"
Ngay ngày đó nơi nhà ông thông phán làm lễ thượng Tượng. Cả
nhà ông thông phán đồng thuận nhập môn một lượt cùng với ông bạn Lào; tùng luật
pháp chơn truyền Đại Đạo.
Ông Lào là quan chức địa phương, nên việc ông nhập môn theo
Đạo làm cho dân trong vùng rất hoan nghênh và kiếm đất để tạo dựng.
Đất có, ông liền cất ngôi Thánh Thất lợp bằng cây lá.
Xong xuôi, ông có chụp một bức ảnh kỷ niệm trước Thánh Thất
cùng với một số đông đạo hữu, đem về trình lên Đức Quyền Giáo Tông tất cả chuyến
đi Lào cùng với sổ bộ Thánh Thất, danh sách Bàn Trị Sự và tín đồ.
Sau khi về nước ông có chân trong phái đoàn đi chỉnh Đạo,
lúc ấy bộ Thiên phục của ông đã bạc màu, rách vá nhiều nơi. Đoàn chỉnh Đạo gồm:
Tiếp Thế, Phối sư Thượng Thành Thanh, Giáo sư Latapi, Giáo hữu Thượng Chữ
Thanh.
Riêng ông Latapi được Đức Quyền Giáo Tông cho mượn mão Tiểu
phục của mình để đội, trông rất giống Giáo Hoàng Thiên Chúa Giáo, để dễ dàng
trong việc quan hệ với chính phủ. Được biết lúc đó người Pháp ở Việt Nam rất
coi trọng ông Latapi và dành nhiều ưu tiên đối với ông.
Sau đó, có 3 vị chức sắc Phước Thiện phạm pháp nên Hội
Thánh bổ đi hành Đạo Ai Lao, nơi mà ông Chữ đầu tiên đến mở Đạo (ông Tư Nữ, ông
Cang...).
95
- Ông Giáo Thiện Bờ.
Anh năm Bờ là em của anh tư Bụi.
Anh năm Bờ lúc làm chủ sở bên kia sông Bến Kéo. Thuở ấy, sở
còn nghèo nên anh em trong sở chỉ dùng hai bữa cháo mỗi ngày. Đến giờ dùng bữa,
anh năm Bờ thường kiếm chuyện này chuyện nọ, đi đó đi đây, và bảo anh em dùng
trước. Đợi cho mọi người xong bữa anh mới về, mọi người nghỉ ngơi, anh nấu nồi
cơm, nồi nhỏ đủ một mình ăn, vì anh ăn cháo không nổi.
Vợ của anh, với thời gian dài ăn chay và hai bữa cháo chịu
không nổi, nản lòng nên bỏ sở trở về quê nhà. Trong thời gian cách ly, chồng
nơi này, vợ nơi quê, không biết bà vợ quan hệ với ai mà có bầu, và cận ngày sinh
đẻ thì anh Bờ được tin. Anh buồn, lòng không muốn nhìn vợ nữa, định không về vì
đứa con ấy không phải của anh.
Đức Hộ Pháp biết tin ấy, gọi anh lên bảo: " – Con về
rước nó lên đây, lo nuôi nó trong lúc nó sanh đẻ. "
Anh năm Bờ vâng lịnh Thầy, về rước vợ lên.
Anh em ở chung sở mỗi người tiếp một tay trong lúc vợ sanh.
Anh năm Bờ lúc làm bổn phận không dám tỏ ý, hoặc thái độ gì giận hờn hay oán
trách, vì sợ vợ trong lúc ở cử không an, sẽ có điều không tốt, anh chỉ vui vẻ,
âm thầm lo tròn chu đáo mà thôi.
Một ngày kia vợ anh qua đời. Anh năm Bờ vẫn tiếp tục bước
đường công quả của mình. Đến kỳ cầu phong, anh được thăng phẩm Giáo Thiện.
Thuở ấy, Phạm Môn chưa có Chưởng quản, nên việc bổ Chức sắc
đi hành Đạo địa phương Đức Hộ Pháp giao cho Phối Thánh Màng đảm trách, khi đến
tên anh năm Bờ, cơ viết:
“Anh Bụi thì được, còn anh Bờ thì được cái Tâm mà mất
cái Đức. Vợ anh còn đang kiện anh nơi Ngọc Hư Cung, Vợ anh nói rằng: “Tôi là vợ
nương nơi chồng, mà chồng tôi biết Đạo lại không dạy đạo cho tôi biết, nên tôi
phải vướng vào vòng tội lỗi như thế này” vì vợ anh kiện như vậy mà anh phải mất
ngôi vị.
Sau đó một thời gian, anh Bờ cũng qua đời.
96 - Đàn Cơ: Đức Quan Thánh Giáng Dạy Ông Ngọc Chánh Phối
Sư Ngọc Trang Thanh.
Một đàn cơ Đức Quan Thánh giáng dạy ông Chánh Phối sư Ngọc
Trang Thanh như sau: “Chào Linh tử,
Tiên phụ vẫn biết cầm quyền luật trị đời vốn không phải
dễ. Tiện phụ đã cho Linh tử vào trường hoạn lộ đã trót một đời, gian thấy, tà
thấy, mị thấy, nịnh thấy. Cuốn sách thế tình, Linh tử đà thông suốt, chẳng khác
nào Tiện phụ đọc Xuân Thu buổi nọ.
Tại sao Linh tử cầm huệ kiếm chẳng đủ hay, để đến đổi
gây tội tình vậy hử?”
Ông Ngọc
Trang Thanh bạch:
– Vả chăng
hồi nào tới giờ đệ tử không được gần Ngài để học hỏi... ......
Đức Quan
Thánh dạy:
– Tiện phụ
cấm Linh tử 3 điều:
1 – Nghiêm
quyền lịnh (Hay nạt nộ đàn em cấp dưới)
2 – Xa kẻ
nịnh (Gần gũi ông Thượng Tương Thanh)
3 – Lánh phụ nhơn (Gần gũi bà An, vợ của ông)
Ông Trang làm quan đến lúc về hưu mới thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét