Thời
kỳ từ năm 1945 đến năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp và Việt Cộng diễn ra
quyết liệt. Khi ấy chính phủ Đế quốc Việt Nam của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, thả
các tù chính trị bị Pháp bắt giam trước đây, những nhân sĩ trí thức này đã về nương
bóng dưới Đạo kỳ Cao Đài để được sự đùm bọc, chở che của Tòa Thánh Tây Ninh, như
quý nhà Ái Quốc: Huệ Lương Trần Văn Quế, Huỳnh Đức Phan Khắc Sửu, Thiện Pháp
Nguyễn Bửu Tài, Hồ Tấn Khoa, Lê Minh Tòng, Vũ Tam Anh, Hồ Hữu Tường, Hồ Hán
Sơn, Nhị Lang. Riêng quý ông Trần Văn Ân, Nguyễn Văn Sâm, La Anh thường lên xuống
Tòa Thánh Tây Ninh, Sài Gòn,... Đức Hộ Pháp cho lập ra toà nhà này bảo trợ tinh
thần những nhà Ái Quốc có dịp thi thố tài năng.
Đức Hộ Pháp đang nói chuyện ở Việt Đoàn do Người thành lập
năm 1949. Đặc biệt di ảnh của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc được treo ở một nơi
trang trọng, cùng với hình Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, tại văn phòng Tổng Trưởng Trần
Văn Ân, và sau này Ông cũng treo tại tư gia ở Pháp Quốc.
Những nhân sĩ Ái Quốc bị nhà Pháp Thuộc bắc ở tù tại đảo Côn
Sơn, được chính phủ Thủ Tướng Trần Trọng Kim trả tự do.
Trong hình một có: Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghi, Trịnh Khánh
Vàng, Hồ Hữu Tường (sau lưng cụ Ân),
Nguyễn Thành Phương, Phó Tỉnh Trưởng Tăng Tư, và Nguyễn Văn Hớn ...
Từ phải: Hồ Hữu
Tường, tướng Cao Đài Nguyễn Văn Thành, và Tỉnh Trưởng Côn Sơn.
Đọc thêm : KỶ NIỆM CỤ TRẦN
VĂN ÂN .
Thời kỳ này, các
lực lượng quần chúng miền Nam Việt Nam đã từng tranh đấu chống thực dân Pháp và
Cộng Sản tụ tập lại trong một tổ chức lấy tên "Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực
Quốc Gia", do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc lãnh đạo.
Quý vị Ái Quốc
trên tham gia làm cố vấn cho Mặt Trận, được mời tham dự cuộc hội kiến với Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm tại Dinh Độc Lập. Phái đoàn đại diện có các ông Sĩ Thanh,
Lai Hữu Tài, Nguyễn Long Thành Nam, Trần Văn Ân, Ngài Bảo Đạo Lê Thiện Phước,
v.v…Tuy nhiên, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm có cái nhìn khác, cho rằng: Thành phần
trí thức nội địa và Giáo Phái nghèo nàn, thất học.
Cho thấy, Thủ Tướng
xem thường nhân dân! chỉ trọng vọng những trí thức, khoa bảng hải ngoại, bởi họ
khôn ngoan, và xuất thân, họ có thừa nhiều phương tiện hợp tác với nhà Ngô, đến
ngày 2 tháng 11 năm 1963, nhà Ngô cáo chung cũng vì khinh miệt đồng bào ít học.
Ý Chí.
Đức Ngài chịu đựng
những bất công trong xã hội như thời Pháp thuộc, và chế độ Ngô Đình Diệm, tuy
nhiên sẵn sàng tha thứ cho mọi sự bất công đến với mình và Đại Đạo, bởi Đức
Ngài bao dung không để lại một lời nào oán trách hai chế độ trên. Mỗi thời điểm
Đức Ngài gặp nạn Tín đồ ghi chép vào trang tân sử Đại Đạo. Đức Ngài không chỉ
vì tài năng của một thành viên khai mở Đại Đạo, mà còn có thiên phú văn hóa tổ
chức, văn hóa kiến trúc, sáng tạo xã hội công dân, đề cao tri thức, khí phách, kiên
cường, bản lĩnh được hun đúc chí khí anh hùng của những con cái Đức Chí Tôn và
Phật Mẫu. Chân dung của Đức Ngài đượm hương bản sắc Đại Đạo. Ngoài ra còn có văn
hóa ứng xử truyền thống dân tộc Việt Nam. Văn hóa nhân sinh, chính trị, quân sự,
kinh tế, xã hội nhân văn, tất cà vì mục đích phụng sự cứu đời, phát triển Đạo,
một nhân cách phi thường của thế kỷ Hai Mươi (20).
Đức Hộ Pháp với vai
trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển, bảo vệ và xây dựng Đại Đạo. Suốt
quãng đời gian nan không ngừng phát triển mở rộng Đại Đạo. Đức Ngài xây dựng
Tòa Thánh, Thánh Địa và Hội Thánh Ngoại Giáo cho hôm nay, và mai sau của Đại Đạo,
thử hỏi có bao nhiêu Tín đồ thực hiện được lời hứa với Đức Chí Tôn ?
Tình trạng chung
của cuộc đời này, đã chứng minh qua sự sống còn nào cũng có những khôn khéo, cốt
sao cho đạt được mục đích cá nhân, vô sân si tồn tại sẵn có bên trong con người
biến độc hại vô lường, thường sử dụng kèm theo sự tham lam và thủ đoạn.
Dù muôn loài vạn
vật hay con người thường trang đấy quá đáng, bởi muốn thụ hưởng trên nhu cầu, sẵn
sàng hành động hạ đối diện. Ngô Đình Diệm cũng không ngoại lệ, vì độc tài đương
sự buông lời dè bỉu, biếm nhẽ Đức Hộ Pháp, về câu chuyện luyện "Thánh
thai".
Đức Hộ Pháp
nguyên Cố vấn Tối cao, cũng là người anh mà Ngô Đình Diệm xin kết nghĩa vào năm
1954 tại Paris Pháp quốc, khi Diệm về Việt Nam làm Thủ Tướng, trở mặt vu khống,
sử dụng mọi thủ đoạn để triệt tiêu người ân nghĩa. NĐDiệm muốn tiêu diệt Đức Hộ
Pháp xoay qua dùng báo chí làm vũ khí, bịa đặt chuyện, vu khống Đức Ngài ngõ hầu
làm mất danh dự, uy tín, ố danh vì mục đích độc trị.
Ngô Đình Diệm có
tầm vóc kiến thực lùn, cho rằng tu luyện "Thánh thai" là gieo
tinh trùng vào noãn bào của người
phụ Nữ, Ngô Đình Diệm quá nông cạnh. Trên thực tế Đức Hộ Pháp tu luyện Tinh,
Khí, Thần là đổi thể xác hiện có để trở thành "Hài nhi", đồng
nghĩa trở về "Cái không" của ban đầu khi hài nhi chào đời, gọi
là "Thánh thai". Khi tu luyện vận chuyển động-tĩnh, và khí lực
mà người tu thường nói Tinh, Khí, Thần hòa một (Thể xác, Trí tuệ, Linh hồn). Cho
thấy kiến thức của Diệm quá lùn không đủ tầm nhìn, không thể phê phán phiến diện
bất cứ ai, nếu không có kiến thức tịnh luyện, vô tình tạo ra hậu quả bất nhất!
Nhưng Ngô Đình
Diệm nào có biết cuộc đời của Đức Hộ Pháp, một vầng Nhật nguyệt luôn trong
sáng, mới có khả năng làm Cố Vấn Tối Cao cho Ngô Đình Diệm và Hoàng Đế Bảo Đại.
Đức Ngài chưa hề nao núng trước những sự kiện gieo rắc lưu đày Madagascar hay cố
tình vẽ bóng, tạc hình bóp méo sự thật. Đức Ngài đều vị tha, bao dung, không hề
oán hờn hay ghét bỏ. Người sống cho nhân loại lấy tinh thần bác ái phục vụ,
chăm lo đến lợi ích của dân tộc Việt Nam, với nhân cách vô tư, sẵn sàng vì lợi
ích của người khác mà hy sinh lợi ích của cá nhân mình, do đó Đức Ngài lưu vong
tại Campuchia hầu mở điểm đứng Đại Đạo trường tồn.
Những ai tham
quyền hành độc trị đưa đến bất
hòa xã hội, nhất định sẽ có kết cuộc không may. Khi ấy Đức Ngài truyền bá Đại Đạo,
như lộng gió, thuyền ra khơi, tất nhiên không phải lúc nào cũng trời yên biển lặng.
Dẫu sao Đại Đạo cũng phát triển nhanh mẽ về phẩm lẫn lượng. Dĩ nhiên kéo theo
nhiều vấn đề phức tạp, trước nhất chế độ cai trị khó chịu, bởi họ không am tường
"Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền", đơn giảng
" Đạo Đời tương đắc ". Trong khi ấy Đời lập ra khuôn luật vướng nhiều sự "thất
đức" bất nhân, tàn ác, họ dùng cường lực trị dân trên quyền hành cai
trị.
Trái lại Đại Đạo
làm bất cứ việc lớn hay nhỏ đều phải cần đến Đạo đức, khả năng, ý chí tự xác định
mục đích cho hành động, và đức hạnh để điều hòa hành quyền Đạo với mục đích phục
vụ nhơn sanh vô điều kiện. Nếu không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng vô dụng
không lãnh đạo được nhơn sanh. Một cách khác nếu người Đạo đức nhưng thiếu khả
năng, quyết tâm hành động cũng như cây cung thiếu mũi tên !
Đức Ngài thường đối
diện với những thử thách, có thể gọi là chấn động nhân tâm như thời Pháp thuộc
lưu đày đến Quốc đảo Madagascar. Sau khi được tự do về nước, hành Đạo chưa ổn định
như ý, gặp phải Ngô Đình Diệm buộc lòng Đức Ngài lấy quyết định lưu vong tại
Campuchia. Người quân tử không mang lòng oán hận, do sự kiên nhẫn và bình tĩnh,
thể hiện bao dung. Cho thấy Đức Ngài phong thái vĩ đại. Trong khi ấy Ngô Đình
Diệm bóp méo, bôi nhọ, còn ra lệnh nhân viên tình báo buôn lời xuyên tạc vô căn
cứ. Đức Ngài không hề đính chính hay thanh minh, bởi nguồn chảy của con sông
trong vắt không hề sợ vẩn đục dòng nước.
Ngày 20-10-1956. Đức Ngài tiên tri: " Không bao lâu nhà Ngô Đình Diệm bị
thua cuộc. Nếu Thầy, triều thiên trước, đúng ba năm (3) sau, nhà Ngô cũng cáo
chung thê thảm ".
Đức Ngài chú tâm
vào việc tích góp đức, thi thố Đạo hạnh và
phát triển Đại Đạo. Đức Ngài cũng đã có nhiều
lần thẳng thắn với Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh. Cho nên người xưa có câu: "Quân tử bất vọng động, động tất
hữu đạo", hàm ý rằng: "Người quân tử không hành động mù quáng,
hành sự đều chiếu theo đạo lý ".
Khổng
Tử cũng từng nói: "Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã", hàm ý thấy
việc nghĩa không làm thì không phải kẻ dũng. Người quân tử có dũng khí lớn, bởi
họ luôn làm việc nghĩa, luôn "giữa đường thấy chuyện bất bình can gián".
Nếu sống như Ngô
Đình Diệm vì chút khẩu khí nhỏ mọn ắt hẳn không tránh khỏi lụy phiền hay bất
mãn sẽ hỏng đại sự như năm 1963. Muốn thành việc lớn hay việc nhỏ cũng cần đến
đại khí, và nhiệt huyết mà người đại khí ắt phải có tâm đại nhẫn, phi thường.
Quý Ngài Chức sắc
đại Thiên phong Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện mô tả Đức Hộ Pháp là
mẫu chuẩn điềm đạm, bình tĩnh, nhiệt huyết và thực tế của một đức hạnh phi thường
Đại Đạo. Dù cuộc đời Đức Ngài gặp lắm thảm kịch nối tiếp nhau vẫn ung dung, thư
thái, tất cả đều trải nghiệm trên đường phụng sự Đại Đạo.
Thời nay, nếu thấy
một người chịu nhẫn sẽ bị coi là đớn hèn, nhu nhược, nhưng đó lại là cảnh giới
cao nhất của ý chí kiên cường. Dùng tâm hòa ái để đối đãi với sự bất công, chứ
không phải là trốn tránh hay đè nén tâm can khi đối diện. Lòng tâm đại nhẫn của
Đức Ngài đã thể hiện rất rõ trên đường phụng sự Đức Chí Tôn & Phật Mẫu. Đức
Ngài đã ngót Ba Mươi Ba (33) năm, từ cái không đến cái có sự nghiệp Đại Đạo huy
hoàng như ngày nay, điều này không ai phủ nhận.
Đức Ngài luôn
khuyên nhủ Tín đồ để tâm huyết vào "Bất kể thế nào cũng cần để tâm hòa
hợp những yếu tố không hòa hợp với nhau?". Nếu là một người đố kỵ, đa
nghi, ganh ghét, tự phụ hẳn là Đức Ngài không thể duy trì được sự đoàn kết, hòa
hợp Tín đồ trong cửa Đạo Cao Đài. Nhưng sự khiêm nhường của Đức Ngài có nhiều
lý do cần thiết để bảo vệ Đại Đạo và Dân tộc, chính nguyên nhân thể hiện một phần
của chữ Nhẫn, biết thể hiện nhân sinh khoáng đạt nhân phẩm đáng kính của đồng Đạo,
và bỏ xuống cái thường để nghĩ cho đại sự.
Sự khác biệt lớn
của Đức Ngài so với chính trị Đời, thậm chí chân thành và trung thực không có
lòng hai, khi lấy quyết định, tìm giá trị cho Dân tộc được quyền sống làm người,
và điểm đứng của đất nước Việt Nam trên trường Quốc tế, như Đức Ngài đã từng
xem Cựu Hoàng Đế Bảo Đại thay cho hồn Dân tộc, bởi không còn chọn lựa nào khác ở
thời buổi ấy. Nếu những vị có uy tín như Hàm Nghi, Duy Tân mà còn sống thì Đức
Ngài đề nghị quý Ngài ấy, bởi Đức Hộ Pháp không còn cách nào khác, thường tuyên
bố rõ ràng: " - Bảo Đại như một cái áo vá quàng". Cho thấy sự
kiên định của Đức Ngài bỏ thể xác nhỏ nhen của trần tục, đổi lấy mục tiêu chung
vì cứu lấy Đạo-Đời.
Thể Xác Sống
Động và Tâm Hồng Phong Phú
Tinh khiết.
Có một thực tế
rõ ràng rằng, người Tín đồ Cao Đài nếu không trở thành một người Đạo đức, thì
ít nhất sẽ trở thành một người tốt hơn, vì câu kính mở đầu của Đạo Cao Đài
" Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp ", dù có kém cỏi đến mức nào cũng
thực hiện được ít nhiều phong cách sống liên đới, hòa ái, biết dâng hiến cộng
hưởng với Đồng sinh.
Đức Ngài và đồng
Đạo đã chứng thực khả năng tinh khiết vượt trên đời sống bình thường, như đã được
biểu lộ quyết tâm trong sạch, minh bạch, chân thành một bí quyết hành Đạo, Nhờ tinh
thần tinh khiết mạnh mẽ ấy, giúp người Tín đồ thành công trong vai trò hành quyền
Đạo tinh khiết, di sản quý giá của toàn thể Tín đồ Cao Đài là tấm gương sáng của
Đức Ngài tỏa ánh hào quang tuyệt mỹ. Đức Ngài một tấm gương hoàn thiện, kiên định
và chín chắn về tâm lý cho người Tín đồ Cao Đài và toàn thể nhân loại noi theo.
Bởi cả cuộc đời
Đức Ngài đầu tư hết vào con cái của Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, mọi kiên định với
lý tưởng và những giá trị đạo đức cao quý vĩnh hằng, nên Đức Ngài luôn sẵn sàng
đứng trước Đấng Tối Cao của mình mà không phải hổ thẹn, hơn nữa còn đem lại những
thành tựu vĩ đại bồi đức, xây dựng Đại Đạo có được một di sản về nhân phẩm đầy
giá trị cho hậu thế. Sinh thời của Đức Ngài là một cõi đời chông gai, nguy hiểm
gặp phải trong quá trình thực hiện đầy thử thách, đến giờ phút Triều thiên cuối cùng, Đức Ngài vẫn cầu nguyện xin Đấng
Tối Cao chịu mọi hình phạt thay cho Dân tộc Việt Nam "Bây giờ Đức Ngài
đã trở thành bất tử".
Từ chế độ Pháp
Thuộc, đến Nhà Ngô đều khắc bạc Đạo Cao Đài. Mọi truyền bá Đức tin Cao Đài bị
khe khắt và ác nghiệt, có lúc nào Đao Cao Đài được ưu đãi dể dàng đâu
? Đó là trong vòng kiểm soát công
khai của những chế độ. Ngài ra trong bóng tối còn bị áp lực của những
Chi phái luôn cản trở bước tiến của Đại Đạo.
Vì sống còn đã biết
bao Chiến Sĩ con dân Cao Đài hy sinh vì đại nghĩa mở rộng tinh thần phụng sự
Đức Chí Tôn, biết bao Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu chết oan vì nạn
nồi da xáo thịt, bởi thế nên tội tình dân Việt Nam chồng chất theo lịch
sử. Muốn giải kiết cùng nhau công nhận và vun đắp mối quan hệ tình nghĩa
thân thiết, gắn bó giữa Đạo-Đời. Đức Ngài tìm phương kêu gọi Hòa Bình.
Không ngừng suy
tư, sáng tạo thành lập " Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, Mặt Trận
Quốc Gia Toàn Quốc, Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia "
mở ra cách cửa Hòa Bình Chung Sống, tìm đủ mọi giải pháp ôn hòa để lau
sạch vết thương Chiến Tranh cho dòng giống Lạc Hồng.
Nhưng những
giải pháp của Đức Ngài đều bị chính ngay đồng bào của Ngài phá vở,
nên phút cuối cùng trước khi Triều Thiên, Đức Ngài cầu nguyện Thượng Đế cho
Ngài xin gánh lấy những tội lỗi của đồng chủng, Đức Ngài xin nhận thay mọi
sự trừng phạt mà Dân tộc Việt Nam đang chìm đắm trong bể khổ. Đức Ngài suy tư thầm
kín tâm bình khí hòa, trí tuệ quan minh, chính đại, tâm thái lỗi lạc, không
hận thù trái lại còn trải tình thương gánh tội cho đồng Đạo dù họ vô minh
phá Đạo, Đức Ngài luôn ngẫn đầu làm người chia sẻ thống khổ cùng muôn dân đất nước
Việt Nam.
Đức Tin Mạnh
Mẽ.
Đức Hộ Pháp sinh
vào thời đại cực kỳ loạn ly trăm năm (100). Đôi khi muốn tìm đường phục vụ đất
nước, bằng cách mạo hiểm có thể dẫn tới đột phá, nhưng mạo hiểm không có nghĩa
là thiếu quyết định, thiếu suy nghĩ trong hành động. Hầu hết những người thành
công đều có một thói quen là nghĩ kỹ rồi mới làm. Vì đã hiểu rõ rất nhiều trường
hợp, trải nghiệm nhiều thất bại, khi đối mặt với khó khăn, họ lại càng thể hiện
được bản lĩnh và phong thái của sự trưởng thành. Những gì Đức Ngài lấy quyết định
đều có lý lẽ minh bạch, chân thành và tương kính dù đối thủ như Ngô Đình Diệm.
Đứng trước những
chế độ Pháp Thuộc và Nhà Ngô, Đức Ngài vẫn điềm nhiên, nếu người khác sẽ hoang
mang lo sợ. Tâm bình thản dựa trên những cân nhắc thận trọng, lấy phần trăm cho
sự đắn đo lợi và hại, có thể lấy quyết định kỹ lưỡng trong hành động để tránh
sai sót, căn cứ trên những phán đoán của mình, luôn cẩn thận suy nghĩ, tìm được
lối thoát để giải quyết vấn đề. Do đó, Đức Ngài thành công trước những quyết định,
quyết đoán dứt khoát trong từng hành động một cách hiệu quả.
Ý chí mạnh mẽ của
Đức Ngài một trong những đặc điểm rõ ràng nhất để phụng sự Đức tin, như ngọn lửa
hun đúc bản lĩnh và tài năng hành quyền Đạo. Chính những
điều này đã giúp Đức Ngài lớn mạnh động lực hầu hoàn thành nhiệm vụ xây dựng
Tòa Thánh và Thánh Địa được Đức Chí Tôn giao phó.
Đức Ngài cho biết
sử dụng sức mạnh thiên nhiên của chính mình, mới vượt lên trên mệt mỏi và mọi cản
trở nhường bước cho khả năng của Người. Đức Ngài sẵn sàng học hỏi, những đặc điểm
quan trọng nhất của người vì mục đích thành công là niềm khao khát chân chính,
tinh thần mở rộng tình thương. Đặc biệt Đức Ngài chưa bao giờ tự cho mình biết
tất cả, luôn giữ suy tư cởi mở, hầu hết mang lại mọi cơ hội cho Đạo được phát
triển ra Hải ngiại.
Đức Ngài muốn truyền
động lực để toàn thể Tín đồ mở rộng kiến thức, khi mỗi Tín đồ nhận ra có khoảng
trống để được lấp đầy bằng việc Đạo học có những điều mới mẻ. Cũng như Trung
Tâm Hạnh Đường nơi đào tạo Chức Sắc, Chưc Việc có khả năng kiến thức hành Đạo.
Đức Ngài tự đặt
ra những điều quan trọng, cần thiết luôn khuyến học tập đến suốt đời người nghĩa
là liên tục nêu ra những ý tưởng, suy tư và cảm hứng sáng tạo mới. Một khi người
Tín đồ đắm chìm vào tri thức, tất nhiên sự nghiệp của Tín đồ có thể tiến tới thông
thái không ngờ.
Văn Hóa Sống Của
Người Đạo Cao Đài.
Trong khi người
đời thường tin rằng cuộc sống sẽ tốt hơn, nếu có khả năng sẽ kiếm được nhiều tiền,
họ tận dụng toàn bộ thời gian của mình cho mục tiêu sống hơn người, nhưng hô
quên một điều cần có nhân bản.
Trong khi đó chân
tu thể hiện nhân bản, chân thành, minh bạch, giới tâm hạnh, tôn kính đồng sinh,
và bao dung, những yếu tố này xác định cụ thể Đạo Đức.
Những chân tu có
cuộc sống đi ngược lại với người chỉ biết kiếm tiền, bởi sự nghiệp của chân tu
chỉ quan tâm đến trải nghiệm, chất lượng Đức hạnh, lý tưởng phụng sự tha nhân,
Đức tin.
Cho thấy những đặc
điểm của Đức Ngài đủ chứng tỏ bản lĩnh chân tư chỉ tìm thấy ở người có văn hóa
tổ chức cộng đồng, xã hội, mà người khác nếu muốn bắt chước cũng khó lòng thực
hiện.
Người Tín đồ Cao
Đài hãy học theo phong cách của Đức Hộ Pháp, như ăn mặt những sản phẩm đơn giản,
may đo vừa vặn với cơ thể để đem tới sự thoải mái và tự nhiên của thể.
Áp dụng bản lĩnh
gắn liền kiến thức và đức hạnh, ngay cả khi đối mặt với khó khăn và thất bại tiềm
tàng trên con đường đi tới thành công của Đạo Đức. Nổi bật nhất Đức Ngài điềm tĩnh
đứng vững trước mọi hoàn cảnh, bở Đức Ngài rèn luyện những đặc điểm sống thực với
thiên nhiên, biến chúng thành một phần trong thói quen hàng ngày hành Đạo của Đức
Ngài.
Đức Ngài lạc
quan, và khát vọng với mục tiêu rõ ràng phụng sự con cái của Đức Chí Tôn và Phật
Mẫu. Thay vì những mục tiêu mơ hồ như "trở nên giàu có", mục
tiêu của Đức Ngài rất cụ thể hướng về phía trước có Đấng Toàn Năng.
Chẳng hạn mở rộng
Thánh Địa từ một cơ sở thành nhiều cơ sở, bằng cách đặt ra các mục tiêu rõ
ràng, làm tăng khả năng truyền Đạo đến đồng sinh Phổ Độ khắp cùng. Những yếu tố
ở trên tạo ra động lực cụ thể, liên kết với mục tiêu luôn được duy trì dù có
khó khăn. Tất nhiên Đức Ngài làm dự án cho mỗi mục đích, và kế hoạch là phương
tiện biến hóa chi tiết cho sự nghiệp của Đại Đạo.
Với ý tưởng của
Đức Ngài luôn muốn làm đẹp mặt Đạo cho con cái Đức Chí Tôn, và truyền mọi cảm
xúc Đức tin vào lòng của nhân loại, Đức Ngài xem mệnh lệnh đạo đức như kim chỉ
nam với tầm nhìn mới mong thực hiện nền Đạo tập trung vào tương lai trở thành
Quốc Đạo. Đức Ngài đã truyền nhiều điều mà người Tín đồ cần phải tu tập, có như
vậy Đức Chí Tôn mới ngự trị trong trái tim của đồng Đạo, và nâng cao nhận thức
phục vụ đồng sinh. Tài nguyên để phát triển Đạo không đâu xa, nếu tất cả Tín đồ
Cao Đài cùng tín nhiệm tự nhiên phát triển một cách hài hòa.
Thế giới ngày
nay chuyển động quá nhanh, người Tín đồ Cao Đài cần phải ý thức thương yêu,
cùng dìu dắt nhau trên hành trình tìm về nguồn hạnh phục của Đức Chí Tôn. Môi
trường đời thường chỉ là nơi thử thách, đồng Đạo tự xác định giá trị muôn kiếp
sau, cần thực hiện gắn liền với tình thương yêu nhân loại, hướng về tương lai Đại
Đạo, đó mới là đất sống thiệt của quê hương.
Tâm lý đời thường
đều muốn mọi thứ kết quả nhanh chóng tức thì, nhưng muốn thành công cần có thời
gian, bất cứ điều gì muốn có cũng cần đến sự kiên trì, kiên nhẫn, ngay cả khi đối
mặt với nghịch cảnh, người muốn thành công cũng cần có tầm nhìn học hỏi từ những
sai lầm, nhờ vậy mới được đền đáp trong tương lai. Tuy nhiên khi đứng trước mọi
nghịch cảnh phải có tính kỷ luật tự giác và kiên định, như Đức Ngài hành Đạo chăm
chỉ không hề lơi hầu tạo ra một thói quen hành Đạo.
Thói quen thường
ngày mà Đức Ngài có được, bởi ý chí đứng trên cảm tính bao gồm việc thức dậy sớm,
giải quyết những công việc hành Đạo, chọn lọc văn thư trước khi một ngày làm việc
mới bắt đầu, dành 30 phút mỗi buổi sáng tập thể dục, lời kinh tiếng kệ thay cho
sự giao tiếp với quý đấng Thiêng Liêng, đọc báo chí nhằm mở mang kiến thức, và
kỹ năng trong lĩnh vực yêu thích.
Mỗi đồng sinh có
ước mơ phù hợp sẽ có cơ hội càng nhiều. Nhưng nắm bắt được những thời khắc đó
hay không mới là điều quan trọng. Mình phải hiểu rõ ràng chính mình đang làm gì,
và có những khả năng nào để thực hiện hay không, bằng không mình sẽ nhường chỗ
cho đồng sinh và xem việc làm của họ như mình, cần khuyến khích, bởi họ cùng ước
mơ.
Kiếp sống nào
cũng có đam mê học hỏi, tất cả những gì thành tựu của loài người và khám phá
không gian, thời gian, vì mục đích phục vụ đồng sinh, phụng sự Đại Đạo. Trên
lĩnh vực người hành Đạo tập hợp hành giải cùng cộng lực hành thiện, hành đức,
thực hành giáo lý của Đại Đạo. Tất nhiên trong đam mê đồng sinh cũng nên chấp
nhận mọi thử thách, nếu có.
Lấy quyết định,
và tích cực đi đến cuối hành trình, tuy nhiên trên đường đi chưa bao giờ bằng
phẳng hay tương đối, bởi thường tình có những đoạn cong vòng, khúc khuỷu gồ ghề,
đôi khi gãy góc không rõ ràng, tạo ra chuyển hướng rẽ mới. Lúc này cần đến trí
tuệ và đức năng lấy quyết định thực hiện sinh tồn chân lý của Đại Đạo, v.v...
Đam mê chân lý Đại
Đạo cũng cần văn hóa đàm phán, thảo luận, tương tác, tổ chức và duy trì phương
châm hành Đạo, cho nên cần có kỹ năng, kiến thức để đạt được sự hài lòng cả nhiều
bên khác nhau, gọi là giá trị hợp nhất.
Đó là phương tiện
mở rộng mạng lưới quan hệ đồng sinh, chúng ta không quên tham gia vào các sự kiện
cộng đồng, kết nối với các chuyên gia trong và ngoài lĩnh vực Đạo-Đời, vì mục
đích phục vụ đồng sinh.
Khí Khái.
Đức Ngài luôn
gìn giữ nhân cách mạnh mẽ của khí khái, há chịu khuất phục chế độ Pháp thuộc,
và Ngô Đình Diệm.
Từ xưa đến nay,
trách nhiệm của Đức Ngài trong Đại Đạo và ngoài Xã hội vô cùng to lớn. Để có thể
đảm đương được trách nhiệm ấy, Đức Ngài chú ý nhân cách Tín đồ hành Đạo không
nhất thiết phải có bằng cấp cao. Nhưng Tín đồ ấy nhất định phải có cốt khí, khí
khái, không dễ dàng chịu khuất phục. Vì lẽ đó Đức Ngài thường mượn lời người
xưa đẻ truyền giảng, bốn (4) căn bản "khí khái" cần phải có để
gánh vác việc lớn của Đại Đạo và việc Đời nếu có dịp:
Hòa khí.
Xử sự khiêm tốn,
không tranh giành sinh ra hòa khí. Học giả Hồng Ứng Minh triều nhà Minh từng
nói: " Người tâm bình khí hòa thì trăm phúc tự đến ". Người có
thể xử sự bình hòa, làm người có hòa khí, không vì những tranh luận vô nghĩa mà
đánh mất thời gian, ít nóng giận vô cớ sẽ có nhiều nhân duyên và mối quan hệ tốt,
mọi chuyện tự nhiên cũng thuận lợi và thường dễ thành công.
Mạnh Tử từng
nói: "Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa ".
Có thể thấy người xưa vô cùng coi trọng hòa khí.
Hòa khí là một
loại bao dung, là một loại tinh thần hợp tác, là ý thức tập thể, càng là một loại
không khí hài hòa. Hòa khí vừa là một loại hình thái bên ngoài, càng là một loại
tu dưỡng bên trong. Một người có hòa khí mới có thể chung sống hài hòa với người
khác, hợp tác tốt với cộng sự, từ đó mà sự nghiệp thành công.
Người có hòa khí
là người độ lượng rộng rãi, hậu đức tải vật, co được dãn được. Người hòa khí
nhiệt tình mà không giả bộ, trung thành mà không giả tạo. Họ thi ân xuất phát từ
lòng chân thành, không phải lợi dụng người khác để mua danh chuộc tiếng. Nhìn
thấu người khác mà không vạch trần, luôn để cho người một đường lui. Người như
vậy vừa được lòng người, lại sống không tranh với đời, ung dung tự tại mà bình
an.
Chí khí.
Gặp khó khăn ra
sức gánh vác, nhẫn nhục, chịu khổ có thể nuôi dưỡng chí khí. Cổ nhân nói: "Nhân
vô chí bất lập", ý nói người mà không có ý chí, chí hướng thì không thể
đứng được ở đời. Một người có ý chí thì sự tất sẽ thành. Khổng Tử giảng: “Ba
quân có thể bị mất đi chủ soái, nhưng ngay kẻ thất phu cũng không thể làm mất
đi ý chí của mình.”
Mỗi người có một
mục tiêu nhưng để đạt được mục tiêu ấy thì cần phải có ý chí. Người mà chí
không mạnh thì trí tuệ sẽ không đạt. Hết thảy sự thành hay bại của sự nghiệp đều
được quyết định bởi điều này.
Cổ ngữ có câu: "
Nhân cùng chí không cùng", ở thời điểm khó khăn hay thời điểm gặp phải
bị bức ép, người có chí khí sẽ thủ vững được chí hướng, tiếp tục kiên trì với mục
tiêu của mình. Người có thể nhẫn nhục gánh trọng trách của mình thì cuối cùng
cũng sẽ có thành tựu.
Tư Mã Thiên xưa
kia vì bênh vực cho một võ tướng mà bị thiến, bị cầm tù. Sau khi ra tù ông luôn
cảm thấy nhục nhã vì hình phạt bất công, nhưng vẫn nhẫn nhục để hoàn thành trọn
bộ Sử ký. Sử ký sau này trở thành một trước tác lịch sử đồ sộ nổi tiếng trên thế
giới.
Đại khí.
"Đại
khí" là phong thái,
khí chất, khí độ của một người, là một dạng biểu hiện bên ngoài của thế giới nội
tâm, là sức mạnh vô hình toát ra từ các tố chất của một con người.
Một người Tín đồ
có "đại khí" phải có tầm nhìn xa trông rộng, hạo nhiên khí
khái, cương trực ngay thẳng. Nếu một người Tín đồ Cao Đài nào đó có thể không
thông minh, không giỏi giao tế nhưng nhất định phải có "đại khí".
Nếu gặp phải một chút suy sụp liền không thể đứng dậy được, nếu nghe được một
vài câu nói bất lợi liền không buông được, nếu động một chút liền oán trời
trách đất, oán hận người khác thì đó là người khuyết thiếu "đại
khí". Cổ nhân cho rằng, làm người có bao nhiêu "đại khí"
thì có bấy nhiêu thành công.
Lâm Tắc Từ, đã từng
nói: " Biển lớn dung nạp trăm nghìn sông, bởi tấm lòng bao dung mới có
thể trở nên vĩ đại, vách núi nghìn trượng sừng sững, vì không mang dục vọng mới
có thể giữ mình cương trực ". "Đại khí" không phải sinh ra
đã có mà trải nghiệm quá trình tu dưỡng trong cuộc sống hàng ngày mà có được,
nó là một loại hạo nhiên chính khí vô cùng mạnh mẽ.
Nhà văn Phùng Mộng
Long viết: " Có thể bao dung được tiểu nhân mới thành người quân tử
". "Đại khí" sẽ khiến cho một người có thể vững vàng
chín chắn, thoải mái tự nhiên ở phương diện đối nhân xử thế. Một người "đại
khí" đã hiểu rõ thế sự, hiểu thấu nhân tình, biết tiến thoái hợp thời,
hiểu lòng người. Cho dù gặp nỗi buồn vô hạn, họ cũng vẫn nở một nụ cười, không
gì có thể dễ dàng làm cản trở hay ảnh hưởng đến "khí" trong
lòng họ.
Dũng khí.
"Dũng
khí" quyết định sự
kiên quyết và phong cách làm việc của một người. Người có "dũng
khí" đủ thì làm việc mạnh mẽ vang dội, quyết đoán, có sức mạnh, làm
người dũng cảm hướng về phía trước. Trái lại, người thiếu "dũng
khí" sẽ luôn sợ hãi rụt rè, do dự thiếu quyết đoán, lâu dần khiến người
khác khó tin tưởng. Vì vậy, làm người hay làm việc đều cần phải có dũng khí.
"Dũng
khí" của một người Tín
đồ Cao Đài xuất phát ra từ việc kiềm chế được bản thân. Bởi vì ngay cả bản thân
mình không quản được thì không thể nói đến việc quản người khác. "Dũng
khí" không phải ngạo khí ngông cuồng, tự đại mà là "chính
khí" của tấm lòng vô tư thản đãng.
"Dũng
khí" cũng không phải
là không biết người, không biết sợ mà là trong lòng đã có định liệu trước rồi.
Một người có lý luận thâm sâu được rèn luyện hàng ngày, có tri thức phong phú,
có khả năng suy nghĩ thành thục, "phú quý mà không phóng túng, nghèo
hèn mà không thay đổi, uy vũ mà không chịu khuất phục" thì là có dũng
khí. Dũng khí này đến từ học thức thực sự, bản lĩnh thực sự, thể hiện ra ở hành
động không phải chỉ ở lời nói.
Bỏ Xuống Phù
Du.
Giá trị con người
một tín đồ Cao Đài luôn luôn chia sẻ trải nghiệm hành Đạo mà không nói đến sự
nghiệp Đạo, không cần thiết phải tô vẽ bằng những lời trót lưỡi đầu môi hay
khoe khoang vật chất.
Thay vào đó, họ
thích chia sẻ về các sở thích cá nhân như phong thái hành Đạo, thông tin Đạo sự
và Xã hội thú vị… Những cuộc trò chuyện mang xu hướng, thu vọng, lạc quan và
tích cực, ẩn sâu trong đó là tri thức và kinh nghiệm quý giá họ từng trải nghiệm.
Đức Hộ Pháp Thuyết
Đạo Tại Báo Ân Từ. Ðêm 10 tháng 11 năm Bính Tuất (1946).
Về nội dung Tự
tín -Tha tín - Thiên tín, như sau:
Ðức tin chi ra
làm ba phương diện:
Một (1) Tự tín.
Hai (2) Tha tín. Ba (3) Thiên tín.
1. / Tự Tin nơi
sở sinh của mình, có thể bảo đảm được sinh mạng cho mình. Con người từ buổi ấu
thơ đã biết ăn, biết nói thì biết thương cha mẹ, anh em. Ðến lúc trưởng thành
cha mẹ dạy bảo công việc làm ăn, cho đến sự ở đời, giao thiệp cùng xã hội nhơn
quầng, việc nào lợi, điều nào hại, cha mẹ đã chỉ vẽ phân minh cũng như có một
quyển sách lập thành để làm căn bản. Ngoài ra hằng ngày ta đã nghe và thấy các
tấn tuồng của đời diễn ra từ lớp, hay dỡ tốt xấu, lành dữ, hư nên ta mới lấy đó
mà kinh nghiệm kỹ càng rồi mới lọc được cái hay, cái khéo ở trong đó mới lập lại
làm với một quyển sách của cha mẹ dạy ta từ thử, rồi ta mới đem lên trên Linh
Ðài, ta sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự hành vi của ta và ta đủ đức tin
nơi đó, là cơ bảo tồn lấy thân ấy gọi là tự túc nơi đó, tự tín nghĩ là tu thân.
2. / Còn Tha tín
nghĩa là gì ?
Ta tin nơi ông
thầy dạy ta học các bài vở để lập thân cho nên người cao quý, lại có nhiều người
trong xã hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học, nhưng cái sở hành của họ, mọi điều phải trái lành dữ
tội phước thì nó thường hiện
ra trước mặt ta, đó là một bài học nên chú ý, rồi ta mới gồm tất cả mọi
sự hành vi của người đời, ta sẽ lập
lại làm quyển sách thứ nhì nữa, ta mới cân phân lừa lọc, tuyển chọn điều
hay lẽ phải, ta đem để lên Linh Ðài ( tức là khối óc của ta ) đặng làm phương pháp bảo vệ trường tồn tánh mạng của
ta, ấy là Tha Tín.
3. / Thiên Tín:
Tự tín và Tha Tín chưa đủ hoàn toàn, phải có Thiên Tín là trọn đức tin nơi Chí
Tôn có đủ quyền bảo hộ sanh mạng của ta và toàn thể chúng sanh nơi mặt thế. Nếu
để trọn đức tin nơi Chí Tôn và tuân theo bài học của Ðức Chí Tôn dạy từ bi bác
ái, nhơn nghĩa thuận hòa và tất cả đem vào hai quyển sách nói trên hiệp lại
thành một khối đức tin đặc sắc, ta mới dựng lên để tên Cao Ðài rồi ta do đó mà
thi hành cho chu đáo, ấy là cơ bảo tồn trường cửu của ta và tất cả nhân loại.
Nếu có cái Tự
Tín, và Tha Tín là cái năng lực hữu hình, mà không có Thiên Tín là Huyền Pháp
vô vi thì cái năng lực ấy nó sẽ cuốn lôi theo cơ tự diệt, vì vậy nên ta phải có
đủ đức tin nơi Chí Tôn, phải trọng mạng sống của con người, bởi Ðức Chí Tôn hóa
sanh một người là một vật báu của Ngài. Nếu ai tàn sát cho tiêu loài vật báu ấy
thì phạm Thiên Ðiều tức là đại tội. Ngày nào toàn thể nhân loại trên mặt thế giới
này mà có đủ đức tin nơi Chí Tôn và thực hành y theo chủ nghĩa "Từ bi,
bác ái, nhơn nghĩa" cho được hoàn toàn thì mới mong chung hưởng đời
thái bình hạnh phúc, ấy là gầy lại đời Minh Ðức, Tân Dân tái lập tân thế giới. (Thuyết
Ðạo QI / tr17)
Tự Tin Thẳng Thắn.
Đức Ngài đi trên
con đường mà Đức Chí Tôn đã định, bởi Ngự Mã Thiên Quân luôn hướng về Cõi Hằng
Sống. Giá trị của điểm đứng mà Đức Ngài đã lấy quyết định từ lúc tiếp nhận lời
gửi thác thành lập Đạo của Đức Chí Tôn, cho nên chỉ có một ý chí phụng sự Chí
Tôn trên hết. Đức Ngài tuyệt đối một lòng tin không như những đồng Đạo khác, vì
lòng yếu đức tin, cho nên có sự tò mò thiếu quyết định, bởi không tin tưởng trực
giác của chính mình, một cản trở suy tư và giết chết sáng tạo. Đức Ngài thực dụng
thường chứng minh thông qua lý luận và văn hóa thực tiễn của Đức tin.
Đức Ngài xây dựng
những mối quan hệ bền vững từ đồng Đạo đến mọi tầng giai cấp xã hội, tất cả xem
nhau như thân thuộc, mọi mối quan hệ chân thành đem đến thân thiện, dù ở bất cứ
nơi nào hay trong cửa Đạo. Đức Ngài luôn giữ trạng thái giao tiếp trung thực,
thường xuyên thăm hỏi và khuyến khích thành Đạo.
Đức Ngài luôn
luôn tìm mọi giải pháp hòa giải mà không đổ lỗi hay bao biện cho bất cứ vấn đề
nào sai lầm. Đúng hơn sự nghiệp vì Đại Đạo không thể làm nên sau một (1) đêm
hay một (1) ngày.
Đức Ngài
rất linh động nắm bắt mọi cơ hội có lợi ích cho Đạo và xã hội.
Ví dụ Đức Ngài đến Pháp Quốc thực hiện quá nhiều kết quả tốt đẹp mà Đức Ngài có
được như thay mặt Đại Đạo cùng Tổng Thống Pháp René Coty, đặt vòng hoa danh dự
trước Khải Hoàn Môn (Ac de Triomphe Paris) với tư cách Giáo Chủ Đạo Cao Đài và
Nguyên thủ Quốc Gia Việt Nam. (Đạo và Dân tộc). Cho thấy điều hệ trọng đối với
Pháp Quốc, lần đầu tiên phá lệ truyền thống, tiếp Giáo Chủ của một Tôn giáo
theo tinh thần Nguyên thủ Quốc gia. Đây cũng là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam được
đón chào ở Arc de Triomphe. Bạn đọc cũng cần biết Đức Ngài đã từng là tù nhân của
Pháp Quốc, bị lưu đày đến Quốc đảo Madagascar, hơn 5 năm (1941-1946). Đức Ngài,
Tổng Thống René Coty, và Quốc Trưởng Bảo Đại Ký hiệp Ức Thánh Địa Cao Đài vô phòng
thủ. Thay mặt Quốc Trưởng Bảo Đại cố vấn phái đoàn Việt Nam tham dự Hội Nghị
Genève 1945. Đức Ngài làm Cố vấn tối cao của Quốc Trưởng Bảo Đại và Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm. Thành lập Thư Viện Cao Đài Paris. Khai trường hai Tộc Đạo, thu
nhận người Pháp nhập môn cầu Đạo trên 94 người. Đức Ngài đi thăm gia đình Ngài
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron. Đi thăm những Địa Học, và giảng Đạo tại Đại Học
nổi tiếng thế giới Sorbonne (Université
De Paris Iv-Sorbonne). Thăm viếng những Trung tâm mồ côi gia đình Thương binh
Liệt sĩ Đông Dương, thắp hương đền Tử sĩ Đông Dương Nogent sur Marne, Paris, Pháp
quốc. Thăm viếng Cộng đồng kiều bào Việt Nam, Paris. Và thăm viếng Đồng Đạo tại
Paris, Pháp Quốc. Tiếp những giới chính khách Pháp Quốc gồm nghị sĩ Thượng Viện,
Hạ Viện và những đảng phái người Pháp. Tiếp báo chí, những thông tấn xã.
Trước năm 1975. Chúng
tôi được duyên may, có nhiều năm miệt mài khảo cứu, tìm hiểu, đối chiếu kinh
sách trong dân gian tại Thánh Địa và một số tài liệu còn sót lại của Tòa Thánh,
Tây Ninh. Rất tiếc tài liệu Lịch sử Đại Đạo từ năm 1926-1957, lưu trữ tại Bộ
Pháp Chánh và Hộ Pháp Đường, chính Ngài Thượng Sanh Cao Hoài Sang đốt sạch nhẵn.
7 - Đức Chí
Tôn Ban Truyền Quốc Đạo, Đức Hộ Pháp Thực Hiện.
Năm 1926. Đức Chí Tôn mở Đạo, NGƯỜI trao cái gánh Đạo nặng
oằn vai Đức Hộ Pháp phải Qui nguyên Tam giáo Phục nhứt Ngũ chi, lập thành Quốc
Đạo đó là nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Trong bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp vào ngày 30-9 Đinh Hợi
(Tháng đủ). Thứ Ba, Dương lịch Ngày 2/11/1937.
Ngài giảng rằng:
" - Hai chữ Quốc Đạo lần đầu Đức Chí Tôn viết ra
làm cho Bần Đạo mờ mịt, cũng vì hai chữ Quốc Đạo ấy mà Phạm Công Tắc chết năm
35 tuổi. Lấy thân theo đuổi làm cho ra thiệt tướng.
" Ôi !
hai chữ Quốc Đạo là một vật của Bần đạo tiềm tàng rồi mới biết khôn, khởi điểm
biết thương nòi giống, biết thương Tổ quốc, đeo đuổi mất còn với cái muốn khát
khao từ buổi thanh xuân đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Đạo năm 35 tuổi, Bần Đạo
thấy sao mà phải thèm lạt, tại làm sao Chí Tôn biết thiếu thốn nơi tinh thần điều
ấy mà cho Bần Đạo?
Bần Đạo ban
sơ nghi hoặc, có lẽ Đấng có quyền năng thiêng liêng biết tâm lý đang nồng nàn
ao ước, đương thèm lạt khao khát, đương tiềm tàng mà đem ra cám dỗ.
" Hại
thay ! Yếu ớt đức tin, ngày nay Bần Đạo ăn năn quá lẽ, 15 năm đã đặng thấy gì?
Cả thiên hạ nói rằng nòi giống Việt Nam không có Đạo. Lạ lùng thay! Chúng ta tự
hỏi có thật vậy chăng?
"Thật quả
có chứ ! có nhiều Đạo quá mà thành ra không có Đạo: mượn Đạo, xin Đạo của
thiên-hạ mà thôi".
(ĐHP: 30-9 Đinh-Hợi)
8 - Quân Chủ Lập Hiến.
Đức Hộ Pháp Vận
động thành lập chế độ Quân Chủ
Lập Hiến.
Đức Hộ Pháp Cố Vấn
Tối Cao của hai vị Quốc Trưởng Bảo Đại, và Ngô Đình Diệm. Cùng thảo luận tại
Paris, Pháp vào năm 1954.
Đức Hộ Pháp
trình bày:
- Những Quốc gia
Quân Chủ tiến bộ (lập hiến) đồng ký kết tại hội nghị Magna Carta. Thành hình chế
độ Quân Chủ Lập Hiến vào năm 1512. Giải tán chế độ Quân Chủ tuyệt đối. Từ đó bắt
đầu thay thế chế độ quân chủ tuyệt đối, những năm 1945-1957, ở Việt Nam chưa am
tường khái niệm Quân Chủ Lập Hiến, cuối cùng đưa đến thất bại, bởi thập niên
1940 về giao lưu văn hóa Đông-Tây còn giới hạng, thiếu nguồn cung cấp vốn kiến
thức cho nhu cầu lãnh đạo điều hướng chế độ đúng đắn nhất cho đất nước Việt Nam.
Chế độ chính trị
và quyền lực của nhà vua, do quyền lập pháp của nghị viện hạn chế bằng hiến
pháp. Những nước theo chế độ quân chủ lập hiến. Nhà vua đứng đầu quyền lực biểu
tượng tinh thần Quốc gia.
Về quyền Lập Pháp
được giao cho Nghị Viện, quyền Hành Pháp giao cho Chính Phủ, quyền Tư Pháp giao
cho Tòa Án.
Hiện nay, trên
thế giới có khá nhiều nước duy trì chế độ quân chủ lập hiến, gồm Anh quốc, Hà
Lan, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Thái Lan, Canada, Thụy Điển, Belgique, v.v...
Những quốc gia
chế độ Quân chủ Lập hiến đã trải nghiệm từ quốc vương chuyển qua chế độ Quân chủ
Lập hiến là, "Một chủ quyền người ngự trị nhưng không loại trừ."
Quân chủ Lập hiến
có ba quyền chính trị: "quyền được tư vấn, quyền khuyến khích, và quyền
để cảnh báo."
Quân chủ Lập hiến
là một hình thức pha trộn của chính phủ, trong đó một vị vua hoặc nữ hoàng với
các quy tắc quyền lực chính trị giới hạn trong sự kết hợp với một cơ quan quản
lý pháp lý như một quốc hội đại diện cho những khát vọng và ý kiến của nhân
dân.
Bên cạnh đó phục
vụ như là một biểu tượng sống động đoàn kết dân tộc.
Hiện tại trên thế
giới có 43 quốc gia theo chế độ Quân chủ Lập hiến và thành viên của Khối thịnh
vượng chung các Quốc gia, một tổ chức liên chính phủ hỗ trợ 53 Quốc gia đứng đầu
là Vương quốc Anh.
Tất cả quyền lực
lập pháp được trao cho Thủ Tướng, một cơ quan lập pháp duy nhất bao gồm đại diện
dân cử.
Điều hành Quốc
gia được giám sát bởi một Thủ Tướng, bổ nhiệm người điều khiển chính phủ. Các
ngành lập pháp, được gọi là Quốc hội, là một cơ thể lưỡng viện phổ biến đắc cử
bao gồm Thượng viện, Hạ viện và Tư pháp, chức năng độc lập với hành pháp, và lập
pháp.
Kết quả cả ba
cùng đồng thuận thành lập chế độ Quân chủ Lập hiến. Tuy nhiên, sau khi Ngô Đình Diệm về nước, tự ý
bẻ gãy chế độ Quân chủ Lập hiến, bởi Quốc Trưởng Bảo Đại đưa ra quyết định, trong
thỏa thuận có câu: " Thủ Tướng toàn quyền "; khi ấy Đức Hộ
Pháp không đồng ý hai từ "toàn quyền". Ngô Đình Diệm liền thề thốt
trung thành với Bảo Đại. Từ đó Ngô Đình Diệm để lòng thù oán Đức Hộ Pháp.
9 - Đức Hộ Pháp Hành Pháp Giải Bệnh
Một ngày kia
trên đường đi Nam Vang, xe đang chạy trên đường thì tự nhiên tắt máy, xe phải dừng
lại để sửa. Ngay chỗ xe dừng, lại gần một ngôi nhà khá sang trọng.
Vị chủ nhà là một người đàn bà. Thấy trời trưa nắng nên mời
mọi người vào nhà nghỉ. Đức Ngài cùng quý Chức sắc theo vào nhà, còn vài người ở
lại sửa xe. Sau khi hỏi thăm đôi điều, Đức Ngài nhìn sắc mặt bà chủ nhà xanh
xao, Đức Ngài biết ngay là một bệnh có quan hệ với cõi âm.
Đức Hộ Pháp liền ngỏ ý hỏi:
- Thưa bà! Dường như bà bệnh, nhà thì khá giả, chắc cũng đã
đủ thuốc thang, chạy chữa mọi điều mà lại không được hết là vì sao vậy? Bà đừng
ngại, cứ nói thật đi, nếu giúp được bà, tôi sẽ cố gắng giúp cho.
Bà chủ hết ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác, thầm nghĩ
sao mà Ngài đoán được. Nhìn Đức Hộ Pháp thật lâu, rồi như có một niềm tin mãnh
liệt, bà nói thật rằng:
" Tôi có người chồng là người Pháp đã chết, nhưng
đêm hôm lại về ăn ở với tôi, cho nên thuốc thang gì cũng không hết bịnh, mà
cũng không thầy nào trị được".
Nghe vậy, Đức Ngài nói: "Được nếu thật là vậy, tôi
có thể giúp cho bà. Bà hãy sắm cho một bình bông và một tô nước lạnh dọn lên
bàn, ngoài ra không còn gì nữa."
Bà chủ làm y lời dặn.
Lúc bấy giờ Đức Ngài hành Pháp kêu tên người chồng và lệnh
cho ông chồng về nói chuyện cùng Ngài, đàm thoại bằng tiếng Pháp.
Đức Ngài nói: " Mình là một người dân một nước đại
Pháp là một nước có tiếng văn minh. Việc chồng vợ ở đời ai cũng vậy, chỉ có bao
nhiêu đó mà thôi. Có đâu bạn đã bỏ xác rồi sao không lo cho con đường siêu rỗi
phần hồn của mình mà lại nuối tiếc, vấn vương với người còn sống, chẳng lấy gì
làm hay ho mà phải khiến cho họ phải đau bệnh khổ sở vì mình. Mình chết đã yên
phận mình, còn đeo đuổi làm chi cho lụy người còn sống vậy. Từ đây bạn nghe lời
tôi, đừng gần gũi với người vợ ấy nữa, hãy để cho người ta được tự do mà định
phận mình, còn bạn thì định phận cho bạn nơi Tam Kỳ Phổ Độ có hơn không?"
Nói xong, Đức Hộ Pháp lấy nhánh bông, chấm vào tô nước, vun
nước trên đầu bà chủ nhà. Xong việc thì xe cũng vừa sửa xong. Đức Hộ Pháp từ
giã ra đi.
Một thời gian sau. Trên đường về Việt Nam, Ngài muốn ghé lại
thăm người đàn bà ấy. Bà chủ nhà đã hết bệnh, gặp lại Ngài mừng lắm, đón tiếp
thật là chu đáo.
Bà hớn hở nói với Đức Ngài: " Kể từ lúc Thầy đi, chồng
tôi không về nữa. Bệnh đã khỏi hẳn, tôi đã phục sức, khỏe khoắn, nhẹ nhàng như
bình thường. Tôi xin lạy tạ Thầy để đáp ơn."
Bà nói tiếp:
" Tôi biết Thầy là nhà tu nên mới có quyền năng với
người chết. Tôi không biết lấy gì để đền đáp công ơn, nếu phải là tiền, của chắc
chắn là Thầy không nhận. Tôi xét thấy không có gì hơn là: Biếu tặng Ngài quyển
sách, đối với tôi thì không hữu ích nhưng đối với chồng tôi thì rất là quý trọng.
Chồng tôi thường xem sách ấy và nói rằng chỉ giới quý tộc mới có mà thôi. Chồng
tôi cũng thuộc dòng quý tộc. Vậy chồng tôi đã chết quyển sách để đây không có
giá trị gì, tôi xin tặng Ngài làm vật kỉ niệm, biết đâu hữu ích cho Ngài ".
Sau này Đức Hộ Pháp có tiết lộ. Có lẻ Đức Chí Tôn sắp đặt
trước mọi chuyện, nên tạo duyên gặp làm ơn, rồi nhờ ơn mà có quyển sách. Quyển
sách ấy đã giúp Ngài hiểu rõ về xã hội Pháp, hiểu rõ mọi sinh hoạt của giới quý
tộc, và người dân bình thường. Do đó, mà cuộc "Âu Du" của Ngài
sau này đến Pháp, Đức Ngài rất được người Pháp kính nể. Vì trước mắt họ một người
Việt gốc Á mà lịch lãm đến mức lạ thường, thông hiểu mọi sự hầu như tất cả về
nước Pháp. Chính vì thế Đức Hộ Pháp đã để lại một ấn tượng đẹp, có một cái đặc
biệt đối với người Pháp.
10 - Đơn Hùng Tín Cầu
Xin Được Siêu Rỗi.
Một đàn
cơ, bà Thất Nương Diêu Trì Cung nói với Đức Hộ Pháp rằng: Có một người nhờ bà
siêu độ, bà cho hay rằng không phải nhiệm vụ của bà, nên bà dẫn về cho gặp Đức
Hộ Pháp nhờ Ngài siêu độ.
Chơn linh
đó, có lệnh cho nhập cơ và viết:
" Tôi bị trong vòng lửa đốt
thiêu,
Vì chưng sát mạng rất nên nhiều.
Biển hồ tướng cướp danh lừng lẫy,
Mỏ thỉ máu loang chảy đỏ điều.
Của bất nghĩa nuôi quân bất nghĩa,
Lương vô yêu dưỡng kẻ ma yêu.
Dương gian tội ác đầy nhân thế,
Thác xuống âm cung tội nặng
trìu."
Ký
tên: Đơn Hùng Tín
Chơn linh ấy
thưa cùng Đức Hộ Pháp: Thật ra tôi không phải Đơn Hùng Tín, vì có nước da đen lại
tên là Tín mồ côi, sống đời dọc ngang phiêu bạt nên mọi người đặt cho ccai tên
Đơn Hùng Tín.
Đơn là mồi
côi, Hùng là ngang dọc, Tín là tên thường gọi (tên tục). Hiểu được việc làm của
vị tướng cướp này và do số kiếp nên Đức Hộ Pháp bảo ông đi tìm độ cho 12 người
Ngài ban cho phẩm Hành Thiện.
Ông vâng lịnh
ra đi. Chỉ một lúc ngắn ngủi sau đó ông dẫn về 12 người trình diện Đức Hộ Pháp
và Đức Hộ Pháp phong cho ông phẩm Hành Thiện y như lời Ngài đã hứa, 12 vị ấy là
đàn em của Đơn Hùng Tín khi xưa.
Về Đơn Hùng
Tín.
Là một tướng
cướp lừng lẫy, có võ nghệ cao, người nhanh, biến lẹ, có tài:
1 - Hay có
linh tính báo trước việc đến để liệu phương đối phó.
2 - Khiến
cây cỏ ngã rạp ngược lại lối đi mà ông không đi. Lối ông đi thì cây cỏ đứng, đứng
lại như cũ. Đó cũng là một thuật của bùa Tiên thiên tịnh – cái mà ông đã luyện
thành đã giúp ông trên đường giang hồ hành nghề.
Có lần Đơn
Hùng Tín đi qua một đám cưới, lúc hai họ đang vui mừng, ăn uống chúc tụng, thì
bất ngờ ghe của ông và tốp đàn em cùng ập tới, cặp bờ. Mọi người hết hồn lo âu
hồi hộp. Tất cả được báo động, nhưng không một ai dám động đậy, mọi người đứng
im, vị trí nào ngay vị trí đó, ai cũng nghĩ chuyện xảy ra là điều không may: Cưỡng
hiếp, cướp bóc, trấn lột, giết người, cô dâu, chú rể bị dẫn đi, v.v... mọi điều
xấu diễn ra trong tư tưởng của bà con hai họ.
Đơn Hùng
Tín và đàn em bước lên bờ, đến ngay đám cưới, vào nhà, hiên ngang ngồi xuống ghế.
Mọi người hơi bớt sợ, vội vã chào đón và mời dùng tiệc. Đơn Hùng Tín cùng đàn
em bảo mọi người cứ tự nhiên vui vẻ, chén tạc chén thù, chúc nhau đừng sợ sệt.
Mặc dầu vậy, mọi người vẫn còn hoang mang khép nép.
Tiệc xong.
Đơn Hùng Tín mời cô dâu chú rể ra diện kiến, 2 người đi mà vẫn run. Cô dâu chú
rể ra thi lễ. Đơn Hùng Tín như đã chuẩn bị sẵn, lấy vàng và tặng vật trao cho
hai người và không quên chúc hôn những câu tốt lành. Rồi từ giã ra đi.
Cử chỉ của
một tướng cướp khét tiếng, một Đơn Hùng Tín hành động hiền lành như thế đã làm
cho cả mọi người trong đám cưới, vừa kinh ngạc vừa khâm phục, rồi tiếng đồn cứ
mãi vang.
Cái Chết Của
Đơn Hùng Tín.
Một hôm đi
hành nghề, ghe của Tín ghé cồn Rồng, neo giữa sông, để rồi từ đó đi xuồng nhỏ
khi nào muốn qua Mỹ Tho. Vì cồn Rồng nằm cách bờ tỉnh Mỹ Tho chỉ độ 500 mét. Bên
bờ là chợ tỉnh, nhộn nhịp đông người.
Ông sai một
đàn em đi chợ mua đồ dùng. Tên đàn em mà ông ra lịnh đi lại là một kẻ sanh tâm
phản trắc mà ông không biết. Được dịp đi chợ, tên này sẵn đó qua báo ngay với cảnh
sát Pháp để lập công, vì tên tuổi của ông đã được Pháp quy vào hạng đệ nhất tội
phạm và ra giá thưởng với người nào cho tin chính xác để bắt ông. Việc làm của
ông là việc làm coi như ngoài vòng pháp luật, chánh phủ Pháp đã nhiều lần truy
bắt nhưng không kết quả vừa sợ vừa hạ quyết tâm có cơ hội là triệt hạ, thanh
toán.
Vì thế, vừa
hay tin, chính quyền sở tại cả mừng, tập trung cả cảnh sát, tàu ghe, bố trí kế
hoạch bao vây cồn Rồng và ra lệnh bất cứ giá nào cũng phải bắt được, hoặc giết
chết chớ không được để thoát.
Vòng vây
đã siết chặt mà ông chẳng hay biết. (Vì người thân đã chỉ hết mọi điều,
mọi hướng, mọi tiến thủ của ông, Pháp đã nắm được hết rồi). Khi tình huống xấu đã
đến, ông hay thì đã muộn. Nhưng với tính khí anh hùng, ông quyết chống trả, những
tên phản bội đã chỉ điểm xuồng nào của ông (có điểm riêng mà người trong bọn mới
biết), nên lính Pháp cứ nhắm ngay đó mà nhả đạn như mưa. Nhận thấy ông chống trả
có phần liều lĩnh, và thấy rằng kéo dài thêm ông có thể nhảy xuống sông tìm
cách trốn thoát. Pháp ra lệnh dùng hỏa lực đốt cháy và vây chặt không xuồng nào
ra được, dưới nước thì đạn bắn liên tục. Ông và tủy tùng đã chết trong vòng lửa
đốt. Nên ông về gặp Đức Hộ Pháp, mở đầu bằng một câu “Tôi bị trong vòng lửa
đốt thiêu”.
11 - Xe Của Đức Hộ Pháp Bị Hư
Láp Giữa Đường.
Có một lần Đức Hộ Pháp đi từ Nam Vang về Biển Hồ, khi xe đến
gò Sặc gần cầu thì tự nhiên xe bị tuột dên hư láp. Vì xa chợ, lại ở giữa đường,
mà xe thì phải ngừng lại để chờ người đi chợ mua đồ về sửa. Do đó, phải ngủ ở
ngoài trời một đêm, Đức Ngài cùng mọi người lấy cơm ăn xong thì trời tối.
Đức Ngài cầu cơ. Có Bà Bát Nương về, bà chế giễu: "Nếu
em làm Đạo hữu vi như mấy anh thì em sẽ đắp một tấm bia để là: "Đây là chỗ
của ông Phật Tắc nằm lại một đêm để cầu nguyện cho Tần Quốc được an cư lạc nghiệp".
Đức Ngài hỏi:
Xe bị hư là tại xe hay có gì không?
Bà Bát Nương tiết lộ rằng: Nếu chư Thần không chặn xe lại,
níu lại cho nó tuột dên hư láp đi thì chiếc xe và cả đoàn người đã nhào xuống
ruộng rồi còn gì?
Bà nói: "Ông Thừa Sử Lợi đang đi chung xe với Đức Hộ
Pháp, kiếp trước là em của bà Hoàng Hậu Miên tên là Pha-Sey. Bà vì thương em,
còn ông thì hay say sưa không chừa bỏ, vừa thương vừa giận nên muốn xô cho lật
xe để ông bỏ xác đặng bà bắt đem về dạy dỗ. Bà lại không biết trong xe kia cùng
đi với em mình là một vị Phật Thiên mệnh. Chư Thần bảo hộ vì thế mà không cho
bà như ý định".
12 - Ba Vị Chánh Phối Sư Nhận Tân Kinh.
Ngày ban Tân kinh, ba vị Chánh Phối Sư đến Hiệp Thiên Đài để
thỉnh, ba vị gặp Đức Hộ Pháp.
Đức Ngài đặt cây "Giáng Ma Xử" trên quyển
kinh nói rằng: "Đây là Kinh của Đại Đạo-không ai được bớt ra hay thêm
vào". Nếu vi phạm thì
sẽ bị cây "Giáng Ma Xử nầy". Liền đó ba vị Chánh Phối
Sư lạy ba lạy. Lạy xong đồng đưa sáu bàn tay nhận quyển kinh đem về Cửu Trùng
Đài phổ biến cho đến ngày nay.
13 - Đức Hộ Pháp Giải Nghĩa Con Suối
Tại Trí Huệ Cung .
Đức Hộ Pháp: Một hôm các anh em Phạm Môn đang làm công quả ở
Trí Huệ Cung, Ngài nói với anh em về con suối ở Trí Huệ Cung rằng:
"Con suối ở Trí Huệ Cung ngày xưa là một con sông lớn
cách nay hơn 800 trăm năm giờ đã cạn. Kể từ khi núi Bà nổi lên chặn ngang ở
phía trên nên không còn chảy được. Di tích còn lại gọi là bến ông Bạc ở trên
núi, vì xưa ở đó nó là một cái bến ghe để đậu, người đời gọi là bến ghe ấy là bến
ông Bạc. Lúc ấy dân Việt Nam chưa vào trong này."
Núi Bà cao hơn 800 mét, núi cao nhất miền Nam Việt Nam. Vậy
núi nổi sông cạn là đều cùng thời điểm trùng nhau. Đức Ngài cho biết thêm ngày
sau người ta sẽ làm cho lưu thông nguồn nước này bằng cách cho xáng múc, đào lại
từ mé Rạch Rễ ngang qua Trí Huệ vào tới núi y theo đường sông cũ, nếu xê dịch sẽ
bị đá không làm được.
14
- Đức Chí Tôn Ban Huyền Diệu Cho Đức Hộ Pháp Từ Thuở Thiếu Thời.
Một hôm vui vẻ, Đức Hộ Pháp nói cùng anh em Phạm Môn Phước
Thiện. Những lúc ngồi Phò loan cho Đức Chí Tôn dạy Đạo, vì ngồi lâu nên có khi
Ngài mắc tiểu quá sức không thể rán được nữa, nên Ngài mới nói lầm thầm với Đức
Chí Tôn (không dám nói lớn). Thưa Thầy! Cho con đi tiểu. Đức Chí Tôn không trả
lời cứ cầm cơ viết liên tục. Đức Ngài thấy vậy cũng rán bậm gan ngồi làm thinh.
Lạ thay! Tự nhiên Ngài nghe trong mình nhẹ nhõm, không mắc tiểu nữa, Ngài ngồi
suốt luôn rất bình thường.
Trong bụng Ngài nghĩ khôi hài cười rằng: " Chè niệu
nghe tới Đức Chí Tôn nó cũng sợ nữa!".
15
- Đức Hộ Pháp Từ Thuở Thiếu Thời Được Đức Chí Tôn Ban Ân Huyền Diệu.
Thuở mới ban sơ khai Đạo, ban ngày các vị phải đi làm việc
cho chính phủ Pháp, ban đêm thì đi cầu cơ mở Đạo. Đêm nào cũng thức suốt, nên
ban ngày mệt mỏi dã dượi, thậm chí ngủ gật trong khi làm việc. Bữa ấy vì quá mệt
Đức Hộ Pháp than cùng Đức Chí Tôn là "Chúng con mệt quá! Con buồn ngủ
quá !". Đức Chí Tôn nói: " Được! Thầy cho con huyền diệu
". Đức Ngài mắt đã mở hết lên mà vừa nghe Đức Chí Tôn nói vậy thì cảm
thấy mê man rồi giật mình một cái thật mạnh. Ngài thấy khỏe khoắn lạ thường và
rất tỉnh táo sau một giấc ngủ trải qua vài phút.
16 - Ngài Phối Thánh Giáng Cơ: Dặn Dò Quý Vị Trong Phạm
Môn Phước Thiện
"Phải
Thận Trọng Trong Khi Hành Pháp Độ Thăng"
Đàn cơ của Đức Ngài Phối Thánh dặn dò các vị Phạm môn Phước
Thiện: "Khi hành Pháp độ thăng, nên thận trọng. Nhứt là lúc độ thăng,
nghĩa là khi cầm 9 cây nhang phải định thần, chậm rãi đưa chơn hồn ấy lên ba bậc.
Mỗi bậc phải dưng lại một chút, chờ cho Tam Bửu nhập định rồi hãy đưa lên. Vì
chơn hồn ấy chưa định được TAM BỬU mà người hành pháp đưa lên vội, chơn hồn hụt
hẫng. Ấy là thất pháp. Thật không tốt cho chơn hồn người qui vị."
17
- Đức Hộ Pháp Được Dịp Quen Một Phụ Nữ Có Chí Lớn.
Hồi lúc còn làm việc ở Sài Gòn. Đức Hộ Pháp thường hay đến
nhà một người bạn để chơi. Một hôm đang ngồi cắt móng tay, Đức Ngài thấy một cô
gái đi ngang qua cửa nhà bạn, mọi khi không thấy. Lấy làm lạ, vì đã đến đây nhiều
lần mà không hề thấy cô ấy.
Đức Ngài hỏi bạn: "Cô ấy là ai? Hình như là ở đây,
chớ không phải người ở xa tới."
Người bạn cho Ngài biết:
- Cô gái ấy nhà ở gần bên, nhưng lạnh lùng, khó tính, ở đây
hầu như tất cả không ai có thể làm quen. Đức Ngài nghĩ thầm trong bụng có lẽ cô
ấy có nỗi tâm sự uẩn khúc gì mà lánh mặt mọi người chăng? Rồi Ngài nó với bạn: "Để
coi! Tôi làm quen thử coi".
Một lần như thường lệ, Đức Ngài đến nhà bạn, nhưng không
vào nhà mà đến thẳng nhà cô gái ấy. Đức Ngài gặp cô gái ấy, Ngài giới thiệu
tên, nơi làm việc cùng hiện đang là bạn thân của một người nhà kế gần đây. Có lẽ,
qua vài câu đối thoại hỏi han, thăm dò, Ngài hiểu được tâm lý người con gái ấy,
nên cuộc nói chuyện kéo dài hơn và Ngài làm quen được cô gái ấy và biết cô ấy
là một giáo viên. Cô mời Ngài cứ đến nhà chơi.
Từ đó Ngài thường tới nhà bạn, và đôi lúc trọ nghỉ trưa nơi
nhà cô gái để chuyện vãn, trao đổi ý nhau. Có khi dùng cơm và càng lâu dài,
Ngài có khi tắm rửa ở đó luôn.
Một nguyên nhân khiến cho Ngài tự nhiên như vậy vì Ngài thấy
cô là một nữ anh thư, chuyện như sau:
Một hôm nọ, cô gái cầm trên tay một tờ báo, cô đọc báo say
sưa, rồi đột nhiên to tiếng: "Yểu điệu giận thay mảnh má hồng, Không
phương trả nợ với non sông”. Đức Ngài hiểu ngay: Một tâm hồn cách mạng, một
tâm hồn vượt xa những người phụ nữ bình thường khác, một tinh thần bất khuất, u
uẩn cho vận mệnh đất nước trong vòng nô lệ. Hèn chi, cô lại khó khăn với người
ngoài. Đức Hộ Pháp khi ấy xin nhận cô làm em, và từ đó cô xem Đức Ngài như một
người anh tinh thần thật sự. Cô nói: Tôi đã từ lâu cũng mong có một người đồng
cảm. Trong tâm tôi quý mến anh; và cũng từ đó Ngài xem cô gái ấy như là em ruột
của mình.
Lý do mà cô độc to lời thơ ấy trước mặt Đức Ngài là vì cô
thấy được tư tưởng của Ngài qua những bài viết được đăng trên báo với hai bút
hiệu Ái Dân và Tây Sơn Đạo. Cô cảm kích tinh thần yêu nước của Ngài và do đó mới
nhận Ngài là một người anh đồng chung một cảm tình với non sông đất nước. Ngài
cũng mến cô vì thời buổi ấy khó kiếm một tâm hồn, một chí lớn ấy đối với một
trang phụ nữ.
Có một buổi trưa, trời nóng nực Ngài đi tắm tự nhiên như
nhà mình. Rủi thay Ngài trượt chân, nhưng không té vì nền gạch nhà tắm đóng
rong, Ngài bám lấy được vào vách ngay sau khi chúi dài bất ngờ. Cũng thật là
may mắn. Ngài không nói gì. Hôm sau Đức Ngài đến chơi, cũng đi tắm nhưng sợ trượt
chân nên cẩn thận. Nhưng thấy nền gạch đã được chà rong sạch sẽ, Ngài cười thầm.
Có lẽ cô gái đã thấy dấu trượt ngã, và khen cô chủ nhà có ý.
Thời gian dần trôi, cảnh đời thay đổi, rồi mỗi người mỗi ngả,
mỗi người một hoàn cảnh; một công chuyện. Đức Ngài không biết cô đi đâu, ra
sao? Rồi một hôm Ngài biết tin cô về Cái Bè Mỹ Tho. Lúc bấy giờ Đức Ngài đã là
đệ tử Đức Chí Tôn, Ngài ước ao gặp lại đặng độ cô vào cửa Đạo, với tài năng và
tánh đức ấy cũng giúp ích cho nền Đạo, nhứt là về bên phái nữ.
18 - Đức Hộ Pháp Dạy Rằng: Khi Vào Lạy Cúng Ông Bà Chung,
Tại Hậu Điện Báo Ân Từ.
Hằng năm có 2 ngày:
1 . Lễ đưa Chư Thánh: Ngày 24 tháng Chạp.
2 . Lễ rước Chư Thánh: Ngày 30 hoặc 29 tháng Chạp.
Lễ đưa ông bà là cuối năm.
Lễ rước ông bà là đầu năm.
Mỗi lần đưa và rước ông bà chung, thì nơi Hậu Điện Báo Ân Từ,
Hội Thánh có cúng.
- Đưa thì nấu chè xôi cúng.
- Rước thì nấu cơm canh cổ bàn cúng. Lễ cúng rất trang
nghiêm; Đức Ngài và quý Chức Sắc cũng bái lễ sau khi làm lễ Đức Phật Mẫu. Có lần
thấy một số người không vào lạy, Đức Hộ Pháp nói: " Các con phải vào lại,
thỉnh ông bà của mình về để chung vui và phù hộ cho con cháu. Nếu đứa nào không
lạy thỉnh mời thì ông bà đứng ở ngoài mà thôi không dám vào, vì con cháu không
có mời, không có nói tới".
19 - Đức Hộ Pháp: Gặp Cơ Hội Học Võ Thuở Còn Làm Việc Đời.
Hồi còn thiếu thời, Đức Ngài được đổi ra làm việc ở Bình Định.
Vì tánh tình hào phóng rộng rãi cho nên hay trả tiền cho một ông lão hay uống
cà phê cùng quán cùng giờ với mình. Vì chút cảm tình ấy, ông lão mến Ngài rồi
làm quen. Ông lão hỏi Ngài có thích học võ không? Cơ hội đến Đức Ngài mừng thầm,
vì nghe võ Bình Định lẫy lừng muốn thử qua cho biết, Ngài nhận lời ngay.
Theo lời ông Khâm Trấn Bình Định: Ông già ấy là ông già giỏi
võ nhất của làng đó.
Còn bà Tám thì kể rằng: Có lần thấy Đức Ngài phi ngựa tay cầm
đao vớt mấy cây chuối bên đường đứt tiện ngang.
Có lần Ngài đứng trên lưng ngựa.
Bà Tám chỉ cùng mấy người ở gần bên: "Coi kìa! Ông
bây cỡi ngựa tài ghê chưa!".
20 - Đức Chì Tôn Dùng Huyền Diệu Sắp Xếp Việc Sai Đức Hộ
Pháp Đi Nam Vang.
Có một đàn cơ: Đêm hôm đó Đức Chí Tôn lệnh cho Đức Hộ Pháp
đi Nam Vang Cao Miên mở Đạo. Đức Hộ Pháp tuân lịnh lòng vấn suy nghĩ là làm sao
đi đây? Nào là xin phép nghỉ việc, xin phép chính quyền rời địa phương ít nữa
cũng phải ba tháng, rồi tài chánh lấy đâu tiêu xài.
Sáng hôm sau, đi vào sở làm, mới vào tới nơi thì gặp một
người bạn Pháp cùng làm việc ở sở bảo rằng:
- Ê! Ông đi Nam Vang nghe! Đức Hộ Pháp nghĩ ngay "Vậy
là có dịp đi mà khỏi xin phép",
Ngài mừng thầm chưa kịp phản ứng thì ông bạn Pháp hỏi tiếp:
- Sao? Chịu đi không? Đức Ngài vội trả lời ngay vì sợ bỏ
qua cơ hội. Ngài đáp nhanh:
- Ờ! Đi! Đi!
Sau đó sở đánh công văn và xuất tiền quỹ cấp cho Đức Ngài
đi công tác ở Nam Vang, sẵn dịp một công hai việc; vừa việc đời, vừa việc Đạo.
Đức Hộ Pháp nghĩ Đức Chí Tôn đã sắp xếp sẵn cho Đức Ngài. Đức
Chí Tôn là Đấng cao cả đủ quyền năng dùng huyền diệu làm cho Đức Ngài càng tin
tưởng Đức Chí Tôn thêm hơn nữa.
Có công lịnh cho nên Đức Hộ Pháp lại dễ dàng trong công việc
mở Đạo tại Nam Vang.
21 - Đức Chí Tôn Cho Đức Hộ Pháp Và Quý Chức Sắc Biết Người
Tu Đã Có Mặt Khắp Nơi Và Có Người Đạt Pháp.
Lúc ở Cao Miên, Đức Hộ Pháp cùng quí ông Chức Sắc đi chơi ở
một vùng quê Nam Vang.
Trời chiều.
Ông Công viện Phước Thiện - ông Út tài xế - ông Giáo Tiếp Lễ
Nhạc Quân - ông Thừa Sử Lợi cùng Đức Hộ Pháp trên chiếc xe hơi đi vào một quãng
đường. Xe đang chạy Đức Hộ Pháp trên chiếc xe hơi nói với quý ông:
" - Thôi! dừng xe! Coi nhà nào gần, vô đó ăn chút
gì rồi sẽ đi."
Ông Út tài xế dừng xe trước một ngôi nhà.
Các ông vào nhà mới thấy có một ông già ra tiếp. Sau khi
chuyện vãn với Đức Hộ Pháp mấy ông mới biết ông già thật đạo đức. Đức Hộ Pháp bảo
quý ông lấy bánh mì ra dùng.
Ông già vội bảo:
- Thưa không! Tôi đã biết quí ông đến nhà tôi, tôi biết
là nhà tôi có khách nên đã chuẩn bị sẵn. Mời quÝ ông dùng bữa với tôi. Rồi
ông chỉ cái bàn đã dọn sẵn - lạ một điều, đoàn bao nhiêu là có bao nhiêu chén đũa,
bao nhiêu ly nước, bao nhiêu ghế ngồi không dư không thiếu.
Tiệc xong, ra về. Đức Hộ Pháp nói với quý vị Chức sắc "Đức
Chí Tôn khai Đạo, người tu cũng nhiều, ở khắp mọi nơi. Chứng tỏ đây cho thấy rằng
có người đã đạt Pháp đặng".
22
- Đức Hộ Pháp Gặp Đức Nhàn Âm.
Khi được Đức Chí Tôn dạy đến Nam Vang mở Đạo. Đức Hộ Pháp đến
Nam Vang rồi cầu cơ, Đức Chí Tôn dạy chờ một tháng mới mở Đạo. Nửa tháng trôi
qua, Đức Ngài nôn nóng không chịu nổi, nên giục muốn đi chơi cho khuây khỏa.
Đang trên đường đi tình cờ có một tốp lính bám theo làm cho Ngài sợ bị chúng nó
bắt, nên đi thật nhanh nhắm rạp ciné chun vào mua vé. Tốp lính thấy Ngài vào
mua vé nên không theo nữa. Ở bên trong rạp Đức Ngài bực bội vì vốn không thích
ciné. Chờ một lát, tránh tốp lính, Ngài ra ngoài và cho vé lại cho người khác
đi xem mà chưa mua vé.
Đoạn Ngài thả bộ đến chợ. Khi đi ngang qua gian hàng bán
tôm nướng; mùi thơm làm cho Ngài bắt thèm, muốn dừng lại mua ăn. Suy đi, nghĩ lại
nấn ná cuối cùng đành thôi, mà lại muốn trở về nhà Ngài Cao Tiếp Đạo.
Lúc bấy giờ, Ngài Cao Tiếp Đạo đang phò loan, một tay cầm
cơ, một tay viết. Đức Hộ Pháp vào tới, Ngài Tiếp Đạo mừng quá nói với Đức Ngài
rằng: "Có Đức Nhàn Âm đến".
- Đức Hộ Pháp không tin: "Làm gì có!".
Ngài Tiếp Đạo nói: Đây này. Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng viết:
" Cởi ngọn gươm linh xuống cõi trần,
Không cần bạch hạc với thanh vân.
Nghe Tây Sơn Đạo nương Tần Quốc,
Mới đến thăm nhau, mới một lần."
Đến đây Đức Ngài cười và nói:
Hèn chi tôi đi có đủ điều cản giục: Muốn ăn tôm nướng, Ngài
không cho. Lại khiến tôi quay về đây. Ngài kéo tôi về đây gặp Ngài đó mà!
23
- Người Hoa Cúng Miếu Bà Linh "Cửu Thiên Huyền Nư".
Lúc ở Sài Gòn, có lần Đức Hộ Pháp đi ngang qua một ngôi đền
nhỏ để bảng thờ "Cửu Thiên Huyền Nữ" Đức Ngài đứng xem. Đức
Ngài lấy làm thắc mắc vì sao ở đây lại có Cửu Thiên Huyền Nữ. Cửu Thiên Huyền Nữ
sao ngự ở đây? Lại có một số người nữ (người Hoa) đầu đội mâm gà, vịt quay đem
vào đền hiến lễ.
Đức Ngài nghĩ: "Sao biểu mình ăn chay, còn nơi đây
sao cúng mặn. Được rồi, phen này cầu hỏi cho biết vì sao bà lại lén xuống đây
dùng mặn".
Một hôm nọ, Bà Bát Nương giáng, Đức Hộ Pháp mừng quá hỏi: "Ý!
Em!". Cơ vụt gõ bảo Ngài “Im”. Đức Ngài nghĩ "Im thì im
chớ". Sau đàn cơ Ngài được hiểu, Ngài mới nói. Linh thiệt mình chưa kịp
hỏi, mới dượm hỏi là bà đã biết rồi. Đức Ngài cho biết.
"Thật vậy cơ phổ độ của Đức Chí Tôn cũng tùy phận,
tùy duyên, tùy căn, tùy người, tủy trình độ tiến hóa, tùy hoàn cảnh, tùy ý thức
tập quán phong tục mà dẫn lần hồi cho biết Đạo, xong rồi, có Đức tin mới nhập
vào nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn".
24
- Đức Hộ Pháp Giải Bệnh Cho Vua Sãi Campuchia.
Đúng ngày giờ Đức Chí Tôn cho lịnh Đức Hộ Pháp đi giải bệnh
cho vua Sãi Miên. Đức Chí Tôn vẽ đường đi và cách thức khi vào Điện từng nơi một
thật rành rẽ.
Con phải đi ngay giữa, và các Sãi vào chầu vua đầu quay vào
vách tường, hai bên chân đối nhau chỉ còn lối đi giữa, đến khúc rẽ có một ông Lục
được Thầy khiến để tiếp đón con và thông dịch tiếng Việt-Miên.
Đức Hộ Pháp vào Điện: Y theo lời Đức Chí Tôn chỉ dạy, gặp
ông Lục hỏi: Đi đâu? Ngài nói đi giải bệnh cho vua. Ông Lục tiến dẫn ngài đến
chỗ vua Sãi ngự. Ông lục tâu việc. Vua Sãi đang nằm, nghe nói liền bật ngồi dậy
thủ lễ chào.
Đức Hộ Pháp cho vua Sãi biết: Ngài vâng lệnh Đức Chí Tôn đến
giải bệnh cho vua. Nhà vua đồng ý. Xong, Đức Hộ Pháp giải bệnh. Hành pháp giải
bệnh xong, vua Sãi mời Ngài một ly nước và tặng Ngài một sợi dây "niệc"
vua đã tom bùa sẵn. Đức Ngài vừa uống nước vừa nhìn đồng hồ là chỉ còn 10-15
phút là 8 giờ. Đức Ngài vội từ giã đi ngay không chậm trễ vì Đức Chí Tôn dặn phải
rời khỏi Điện lúc 8 giờ.
Vừa ra khỏi Điện khoảng độ 8 mét thì có một tốp sen đầm từ
sau lưng Ngài đi tới. Ngài rùng mình hết hồn, nếu chậm một chút nữa là bị khó dễ
rồi. Huyền diệu đã làm cho Đức Ngài vững tin nơi Đức Chí Tôn mà hành Đạo.
Nhớ lời vua Sãi Miên dặn Ngài lúc nào cũng mang dây "niệc"
theo mình để hộ thân. Đức Ngài nghĩ cũng nên thử xem coi nó linh hiển cỡ nào
cho biết.
Vài hôm sau, Ngài cùng một người bạn đi chơi. Trên đường đi
gặp bọn lính xét giấy. Ở Miên lúc ấy một tuần lễ là xét một lần. Lạ thay, họ đến
ngay người bạn của Ngài hỏi giấy, còn phần Ngài, thấy vậy Ngài giả bộ không biết,
không để ý tới, xề qua gốc cây bên lề đi tiểu.
Ngài nghĩ là thử "niệc" coi linh hôn. Người
bạn của Ngài chỉ Ngài cho bọn lính, còn nói thêm: "Sao mấy ông không hỏi
giấy ông kia mà hỏi tôi kỹ vậy?" Bọn lính làm thinh rồi bỏ đi.
Ngộ thiệt, kể ra cũng linh. Ngài cười thầm, còn bạn Ngài
thì không biết.
25
- Đức Hộ Pháp Vận Dụng Huyền Linh Phá Mê Tín.
Ở Miên, Đức Hộ Pháp có lần nghe đồn về một Ông Cờ linh lắm.
Thiên hạ đua nhau đến để xem về quá khứ vị lai, chuyện gia đạo, v.v...
Khi Đức Hộ Pháp đến nhà, thấy không gì lạ, chỉ là một cây cờ
nhỏ, cắm trên bàn, khi ai cần hỏi điều gì thì đốt nhang rồi khấn vái; người ngồi
đồng nhập, cờ phất, và người ngồi đồng bắt đầu nói.
Tới phiên Đức Ngài, Ngài cũng đốt nhang, người chủ nhà vái
ông cờ lên nhập. Cầu mãi ông cờ không lên, chủ nhà đành chịu và hẹn khi khác đến.
Trước khi ra về, Đức Ngài nói cùng mọi người khấn rằng: “Cấm anh cờ lên”
tư tưởng tôi lịnh như vậy nên anh cờ đâu có dám lên.
Mọi người có vẻ không tin lời Ngài nói.
Mấy hôm sau Đức Ngài cùng vài người bạn bữa trước đến nhà
anh cờ. Mấy người bạn có ý muốn thử xem lời nói của Ngài bữa trước, nên cùng
nhau nói bây giờ ông kêu ông cờ về đi. Lần này Ngài muốn minh chứng quyền năng
của Ngài, hơn nữa để tránh sự ngờ vực của chủ nhà cho là người ếm đối. Ngài nói
thành tiếng "Anh cờ lên đi anh cờ" Đột nhiên lá cờ lay động,
và phất thẳng y như lúc trước.
Khi ông cờ lên rồi, chủ nhà mừng quá, chưa kịp hỏi gì, Đức
Ngài nói tiếp: "Anh đốt cở đi anh cờ!" cây cờ tự nhiên nghiêng
về phía một cây đèn cầy cắm trên bàn, rồi bốc cháy. Chủ nhà kinh ngạc nhìn
Ngài, mọi người ngơ ngác đồng nhìn Ngài như cảm nhận một điều gì. Và từ đó ông
cờ không còn nữa.
26
- Lữ Bất Vi Cần Xin Đức Hộ Pháp Dẫn Độ.
Có một đàn cơ, Đức Quyền Giáo Tông dẫn một chơn linh đến
minh oan cùng Hộ Pháp và cầu xin Ngài dẫn độ.
Chơn linh ấy
cho thi:
"Lữ
đình khuynh kiến Thánh linh quang,
Bất
xá trần duyên tại Thủy Hoàng.
Vi
thế dị nhân thê tráo tử,
Ngôn
truyền vạn đại thị hàm oan."
Lữ Bất Vi kể hết oan tình đau khổ từ xưa đến giờ chưa siêu
thoát được. Nay gặp Tam Kỳ Phổ Độ nên đến xin được minh oan cùng Hộ Pháp để được
hồng ân mà siêu rỗi.
27
- Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron Tham Dự Hội Nghị Tôn Giáo Quốc Tế.
Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron người Pháp sau khi làm
nhiệm vụ của Hội Thánh giao phó là:
Hội Thánh ủy nhiệm cho ông đại diện Hội Thánh CAO ĐÀI TÂY
NINH đi dự Hội nghị Tôn Giáo quốc tế.
Ông phúc sự và gửi cho Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông một
bức thư kể lại việc Hội nghị, nội dung: Tóm tắt đại ý như sau: Khi ông đến nơi
tổ chức hội, đã trễ giờ quy định, nên không được tham dự, song nhờ khéo nói nên
chỉ được cho vào dự khán và chỉ được 15 phút phát biểu sau cùng với tư cách đại
diện cho Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh.
Từ lúc khai mạc, các đại biểu lần lượt lên diễn đàn phát biểu,
ông Gobron lúc bấy giờ ngồi chăm chú nghe (dự khán, dự thính) một cách say sưa,
ông tiếp thu nhanh mọi tinh hoa của các giáo phái. Đến cuối cùng, họ giới thiệu
Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh và quy định phát biểu trong thời gian 15 phút. Ông kể:
Ông bước ngập ngừng, và không được bình tỉnh lắm. Nhưng rồi
tự nhiên làm như có ai đẩy ông lên diễn đàn. Ngay lúc cảm thấy như thế, ông
nghĩ ngay đến Đức Chí Tôn và niệm danh Ngài. Việc sau đó là: Ông thấy hết sức
an tâm, bước lên tới diễn đàn chỗ đứng nói hồi nào không biết. Ông nói một cách
lôi cuốn khán thính giả, thời gian đã 30 phút tức là quá gấp đôi giờ quy định
mà dưới khán đài mọi người lặng thinh chăm chú theo dõi lạ thường.
Sau khi dứt lời, cả diễn đàn vỗ tay hoan nghinh lập trường,
giáo lý, triết lý, tôn chỉ của Đạo Cao Đài Tây Ninh, những điều diễn ra ấy làm
cho ông cảm thấy một sự sung sướng, phấn khởi mà chưa khi nào ông có được.
Và ông cũng tự biết rằng: Huyền diệu của Đức Chí Tôn dành
cho ông. Đức tin nơi Đức Chí Tôn càng mạnh mẽ, và càng mãnh liệt trong tâm hồn
ông
28
- Nhà Từ Thiện Suốt Đời Làm Thiện Mà Không Siêu Thoát .
Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, Gobron người Pháp, mỗi tối ngồi chấp
bút tịnh thần 5 phút (các Đấng buộc vậy, đã giáng dạy; hễ có ai giáng dạy thì
ghi chép) rồi mới được nghỉ.
Một hôm, có một chơn linh giáng xưng tên họ và nhờ ông tiến
dẫn về Hội Thánh Cao Đài để cầu siêu cho ông, vì ông chưa được siêu thoát.
Ông Gobron nghe qua tên tuổi của vị này thì biết ngay, vì
sanh tiền vị này là một nhà từ thiện nổi tiếng trong nước ai cũng biết. Cả một
đời người chuyên làm một việc là đi bán đồ chơi cho trẻ em và đem số tiền lời về
giúp các trại cô nhi. Ông lại thường lượm những đứa bé bị bỏ rơi đem về cô nhi
để nuôi dưỡng. Những đứa trẻ do ông lượm đem về thì ông lãnh phần trợ cấp cho
trại cô nhi. Chính việc làm cao cả ấy, công nghiệp dường ấy mà lại không được
siêu thoát làm cho ông Gobron thêm thắc mắc mới hỏi.
" Xin mạn phép hỏi ông: Cả một đời làm việc thiện
như ông, thế sao không được siêu rỗi vậy?"
Chơn linh ấy bùi ngùi trả lời rằng:
" Kiếp trước, tôi vốn là một quan đại thần, có quyền
lực lớn, luôn luôn kề cận bên vua. Vì một thành kiến đối với phụ nữ là: Kẻ ngoại
tình, người làm điếm hoặc không chồng mà có con, gái lang chạ. Tôi không muốn
những đứa trẻ vốn sanh ra do những bà mẹ như vậy, nên quyết định diệt cho tuyệt;
tôi cũng nghĩ những đứa trẻ ấy có sống cũng không làm lợi ích gì.
Tôi tâu cùng đức vua và dâng bản luật ban hành khắp nơi
bài trừ cho sạch sẽ cái nạn tồi bại nói trên để giữ nền đạo đức cho đất nước.
Sau khi vua ký và đóng ấn ban hành; vì bản luật quá khắt khe, nghiêm nhặt, gắt
gao nên có nhiều phụ nữ có thai sợ quá nên phá bỏ thai nhi. Chính vì thế mà cả
một kiếp sanh của tôi phải đi lượm trẻ, tìm trẻ côi mà nuôi. Tất cả việc làm của
một kiếp ấy một ngày không nghỉ, vậy mà cũng chưa đủ đền bù cái số trẻ bị diệt
chết mà kiếp trước tôi đã gây ra, vì còn thiếu nên chưa siêu rỗi được; lại
không còn dịp để tái sanh làm nữa. Nay tôi nhờ Ngài cầu xin với Hội Thánh mà
siêu độ giúp cho tôi".
Khi hiểu được sự việc như thế, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn mới
biên thư kể rõ nội dung và bởi tư cách là Tiếp Dẫn Đạo Nhơn cầu xin Hộ Pháp và
Đức Quyền Giáo Tông từ bi độ dẫn cho chơn linh ấy được sớm siêu rỗi.
29
- Lễ Khai Bình Cơ .
Lúc khởi công tạo tác Đền Thánh, vào một buổi trưa cúng thời
Ngọ xong.
Đức Quyền Giáo Tông bứng đất khoảng ba tấc vuông sâu khoảng
vài centimet đựng vào một tấm vải đỏ bọc kín lại đem để vào nội điện.
- Bà nữ Đầu sư Lâm Hương Thanh thì gánh đất đổ vào rừng
thiên nhiên, gióng gánh được bao quấn vải đỏ: Đổ vài ba gánh gọi là lễ KHAI CƠ,
đất xúc gánh là do Đức Quyền Giáo Tông xúc.
Ba hôm sau (đem khối đất đã để trong nội điện) đặt lại vị
trí cũ gọi là lễ BÌNH CƠ.
( Được biết nơi đào khối đất ấy là khu sân gạch trước Đền
Thánh )
30
- Ông Giáo Thiện Linh.
Ông Giáo Thiện Lịnh trước năm
1941 ngồi Châu Đạo Bến Tre. Lúc đó ông có gửi về cho cha Ông đang ở làm công quả
tại Hộ Pháp Đường một bức thư, vì không biết chữ nên ông đem bức thư ấy trình Đức
Hộ Pháp, nhờ người đọc giùm. Đức Hộ Pháp xem xong, không đọc, ông mới hỏi.
Thưa Thầy! Thằng Lịnh nó nói gì trong thơ vậy?
Đức Hộ Pháp trả lời:
- Nó gởi lời về thăm anh với tôi chớ có gì đâu?
Đến sau, năm 1946 Đức Hộ Pháp từ Madagascar trở về thì nghe tin
ông Lịnh lâm bệnh đang điều dưỡng tại nội ô Tòa Thánh.
Đức Ngài đến thăm và hỏi ông Lịnh:
- Đâu; em nhớ lại xem, em có lỗi gì với Qua không?
Ông Lịnh trả lời: "Dạ không!". Nghe vậy Đức Ngài về. Ba
hôm sau, một lần nữa Đức Ngài đến thăm và cũng hỏi y như lần trước. Ông Lịnh một
mực trả lời không. Đến thăm ông Lịnh lần thứ ba, Đức Hộ Pháp hỏi lại một cách cố
ý, tiếng nói có vẻ cân nhắc và nặng hơn hai lần trước.
" Lịnh! Đâu em rán nhớ lại, xem em có lỗi gì với Qua không?". Ông Lịnh bình thản
trả lời: " Dạ không có "; ông Lịnh rõ ràng không ngờ bức thư
mình gửi đã được Thầy xem nên việc sai trái mà mình cố giấu mật Thầy lại biết rồi.
Ông Lịnh không hề nghĩ bức thơ ấy cha mình đem trình Đức Hộ Pháp.
Đức Hộ Pháp nhìn ông hồi lâu như hối tiếc, rồi lặng thinh ra về; từ dạo ấy
không lên thăm nữa.
Sau thời gian ngắn ngủi, bệnh không thuyên giảm mà lại nặng. thêm phần
nguy kịch, không phương cứu chữa, nên ông bỏ xác. Đám tang ông được cử hành tại
Khách Đình.
Một thời gian hơn một tháng sau; một đàn cơ ông Phối Thánh Ba (Phối
Thánh Màng) cho Đức Hộ Pháp hay rằng:
"Anh Nhượng đang che chở cho chú Lịnh ở dưới quyền của Đông Nhạc Đế
Quân coi sổ bộ chờ đi đầu kiếp. Ông Phối Thánh còn cho Đức Ngài biết thêm
".
" Anh Lịnh phải tái kiếp làm thân một người phụ nữ ở trong một gia
đình đảng cướp côn đồ, không biết có còn nhớ thân mà tầm Đạo. Lụy!".
Cần biết phần này, không được nói:
" Ông Lịnh là chồng của bà Lê Thị Dĩ, sau là chơn nhơn Lê Thị Dĩ:
Thượng Thống Lương Viện Phước Thiện. Bức thư mà ông Lịnh viết được Đức Ngài
giãi bày với anh em Phạm Môn: Tóm tắt nội dung là ông đã lầm mà theo Hộ Pháp và
khuyên cha ông không nên làm ở Hộ Pháp Đường".
31
- Đức Thượng Phẩm Dặn Dò Đức Hộ Pháp Nên Xá Bốn Hương Khi Cầu Cơ.
(Lúc ban sơ còn ở Campuchia)
Khi ở Đế Thiên Đế Thích, Đức Ngài Thượng Phẩm giáng cơ cho
Đức Hộ Pháp biết. Nơi nầy họ thấy cầu cơ lạ lắm, nên họ xúm nhau cười và cố ý
xem cho biết, vì lòng cảm mến nên mỗi lần có cầu cơ là họ làm lễ để đón rước.
Nên Đức Ngài dặn Đức Hộ Pháp:
" Em phải đốt nhang và xá bốn hướng để chào cảm tạ
họ mỗi khi cầu cơ."
Họ mà Đức Thượng Phẩm nói, không phải là người hữu hình mà là những vong vô hình.
Home [ l ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét