Pháp-Chánh-Truyền có dạy:
“Phép của Trời có một là
thương khắp cả chúng-sanh, nên định phẩm-vị hữu-hình và thiêng-liêng có một,
nghĩa là phải tương-đắc cùng nhau, đặng định quyết phép công-bình lành thăng dữ
đọa.
Máy tạo bởi chữ hòa mà có,
thì thế-giới càn-khôn cũng phải hòa mới vĩnh-cữu. Địa-cầu này cũng phải Hòa mới
toàn hảo, nhơn-lọai cũng phải Hòa mới trường tồn,
chẳng khác nào xác thịt phải
hòa-thụân cùng linh-hồn mới mong đọat Đạo.
Lấy lớn mà định nhỏ, xem
nhỏ mà tìm lớn; thi-hài này nhờ hòa-khí mà thành hình, thì linh-hồn cũng phải
tùng theo phép âm dương hòa hiệp mới qui hồi cựu bổn, linh-hồn bởi chữ hòa khí
mới có đến thì tức nhiên phải nương theo hòa-khí mới có về.
Tuy pháp-bửu của các
Tôn-giáo đã đọat đặng vẫn nhiều, chớ cơ mầu-nhiệm chỉ có chữ hòa là đủ.
- Thân thể cho mạnh-mẽ
tinh-vi, đừng để sa-đà vào lục dục thì là thuận cùng trí-lự khôn ngoan.
- Khí-lực cho cường-thạnh
thanh-bai đừng để đến đỗi mê-muội bởi thất tình, thì trí lự khôn ngoan thuận
theo linh-tâm mà nẩy-nở.
- Linh-tâm phải định-tĩnh
từ-hòa, đừng để đến đỗi mờ ám bởi tội-tình thì thuận với lòng trời, hiển linh tại
thế đặng đọat phép huyền-vi.
Thân là Tinh, lực là Khí, trí là Thần.
Nói rõ ra thì Tinh là thân thể, Khí là điển lực
nghĩa là trí lự, Thần là linh-hồn; ba cái báu của mình ngày nào tương đắc nghĩa là hòa-hiệp cùng nhau, thì người mới mong đắc Đạo.
Cơ Đạo của Chí-Tôn đến lập
buổi Hạ nguơn Tam-Kỳ Phổ-Độ này duy lấy chữ Hòa làm tôn-chỉ.
Có hòa mới có hiệp, có hiệp
mới có thương, mà sự thương-yêu là chìa khóa mở cửa Tam-Thập-Lục-Thiên, Cực-Lạc
Thế-Giới và Bạch-Ngọc-Kinh, y như lời Đức Chí-Tôn đã dạy, chỉ nghĩa là Từ-bi
Bác-ái mới đắc Đạo vô-vi, phải hòa-hiệp mới có cơ qui nhứt”
3 - Tính chất âm dương của quẻ
Điều đáng chú-ý là quẻ có
quẻ âm, có quẻ dương.
Gọi là quẻ khi có đủ ba
hào ấy là một quẻ đơn.
Quẻ Càn ☰ có ba vạch liền (quẻ
dương).
Quẻ Khôn ☷ có ba vạch đứt (quẻ âm)
Hai quẻ Càn Khôn là quẻ chủ
trong 8 quẻ (gọi là Bát-quái) tượng trưng cha, mẹ. Còn lại là 6 con, 3 nam (dương),
3 nữ (âm).
* Quẻ âm là quẻ trong đó
chỉ có 1 hào âm, như:
Tốn ☴ có một âm dưới cùng gọi là Trưởng-nữ.
Ly ☲ có một âm ở giữa gọi là trung-nữ.
Đoài ☱ có một âm trên cùng gọi là thiếu-nữ.
* Quẻ dương là quẻ chỉ có
một hào dương, như:
Chấn ☳ có 1dương dưới cùng, gọi trưởng-nam.
Khảm ☵ có một dương ở giữa gọi trung-nam.
Cấn ☶ có 1dương mới sinh ở trên, là thiếu nam.
Sở dĩ gọi là trưởng là vì
hào dưới cùng là gốc, biến-hóa sau hết trong ba hào (trưởng nữ, trưởng nam)
Gọi là trung vì hào này biến-hóa
ở giai-đọan thứ nhì (trung nữ, trung nam)
Gọi là thiếu vì hào này biến-hóa
trước nhất, nên còn trẻ nhất (thiếu nữ, thiếu nam).
Nhận định:
Gọi là hào dương vì chỉ có một vạch liền.
Gọi là hào âm vì hào này có hai vạch đứt.
Nhìn vào 3 quẻ âm (mỗi quẻ
đều có 3 hào, 4 vạch) Đó là: Tốn, Ly, Đoài ☴ ☲ ☱.
Ba quẻ dương (mỗi quẻ có 3
hào, 5 vạch) là: Chấn, Khảm, Cấn ☳ ☵ ☶.
Đây là lý-do vì sao
Thánh-nhân dạy trai Tam-cang Ngũ-thường, Gái Tam-tùng Tứ-đức là khởi điểm từ
nguyên-nhân lý Dịch này đây.
4 - Tam-cang Ngũ-thường khởi từ lý Dịch
- Bởi những quẻ tượng
dương thì mỗi quẻ có 3 hào và 5 vạch; tức nhiên dương tượng cho Nam-phái, mỗi
quẻ có ba hào không bao giờ thay đổi, lấy tính-chất vững bền đó làm qui-luật,
giềng mối gọi là Tam-cang. Các quẻ dương dù ở hình thức nào cũng vẫn có 5 vạch.
Sự cố định ấy lấy làm thường-đạo cho Nam làm Ngũ-thường là vậy. Nam thì lấy
Tam-cang Ngũ-thường làm giềng mối.
- Những quẻ tượng âm thì mỗi
quẻ có 3 hào và 4 vạch.
Cũng tương-tự như trên: quẻ
âm tượng cho Nữ-giới, mỗi quẻ đơn âm cũng chỉ có ba hào không đổi, lấy làm
tính-chất căn-bản cho phái-nữ là đạo Tam-tùng, quẻ âm vẫn luôn luôn có 4 vạch,
với tính cách vững-chắc như vậy dùng làm Tứ-đức cho giới nữ-lưu. Thế nên lấy đạo
nhơn-luân làm trọng thì Nữ giữ lấy Tam-tùng Tứ-đức.
Đây là tất cả giềng mối
nhân-luân đạo trọng của dân-tộc Á-đông luôn có nền-nếp văn minh tinh-thần bất-khuất,
dù ngày nay lượn sóng văn-minh vật-chất có lôi cuốn nhân-lọai vào cơn xáo-trộn
kinh-hoàng! Chắc-chắn những cái gì hay đẹp truyền thống không bao giờ mất đi được.
Chính Đức Chí-Tôn đến để lập
lại cán cân công-bình ấy để được sống lại thuần-phong mỹ tục cho Việt-Nam làm
khởi điểm mà cũng làm gương cho cả nhân-loại; tức là làm người thật xứng đáng với
đạo làm người!
Đức Chí-Tôn đã quyết-định
cho:
Quốc Đạo kim triêu thành Đại-Đạo,
Nam-phong thử nhựt biến Nhơn-phong.
Vì lẽ đó nên Đức Hộ-Pháp quả-quyết:
“Tân-Luật Đức Chí-Tôn cốt-yếu muốn cho ta làm, đặng ta bảo-vệ Tam-cang
Ngũ-thường của nhân-lọai. Nói về phương Đông này dầu cho luận tới các quốc-gia,
xã-hội đến đâu đi nữa, họ tự trọng, họ văn-minh thế nào họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm-luật ấy bao giờ. Nếu họ ra khỏi là muốn tự bỏ
cả xã-hội của họ, thì họ sẽ thành cái gì chớ không thành xã-hội”.
“Trong Tân-Luật ấy Đức
Chí-Tôn định cho Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại-điều-qui và trong ấy cốt-yếu bảo-vệ
Tam-cang Ngũ-thường cho toàn thể con cái của Ngài. Thật ra cái Thiên-luật của
Ngài mà Ngài đã để trong tâm-não con cái của Ngài”.
Thánh-ngôn đàn tại An-hóa, ngày 19-12 Bính-Dần (dl
22-1-1927)
Thầy dạy:
“Chư Ái-Nữ. Thầy vì Tam-Kỳ
Phổ-Độ chẳng phân cao thấp, sang hèn, Thầy chỉ khuyên một điều là Đạo-hạnh các
con phải giữ hàng ngày cho nhầm phương-pháp Nhơn-đạo, tức là Tứ-đức đó vậy, các
con hiểu à!
Nền nhơn-luân của con nhà
Nam-Việt chẳng lầm, mà tại các con hay nhiễm thường tình mà hư hoại, nên chi Thầy
phải nhắc lại cho các con đừng lầm nữa, nghe các con!
Nam-phái vào. Các con nghe
cho rõ, thường ngày các con trông thấy những điều trái tai gai mắt, các con có
biết vì tại sao chăng?
Như kẻ làm quan ỷ quyền ức
hiếp dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết
vì tại sao chăng?... Tại vô Đạo...”
Đàn cơ tại Phước-Long-Tự, 1 Mars 1927
Thầy có dạy như vầy:
… “Chúng nó lại tưởng rằng
kiếp người là kiếp sống chỉ có giây giờ rồi tiêu mất, nên tìm những chước sâu kế
độc cho đặng của nhiều, no lòng sướng dạ, trối kệ luân-hồi.
Thầy hỏi: Vậy chớ cái trí
khôn của con người biết thương ghét, vui buồn mà toàn nhơn-loại đều có, khi rốt
cuộc thì trí khôn ấy đi đâu? Không lẽ cái trí khôn ngoan dường ấy mà cũng mất
đi đặng sao các con? Thầy hỏi như vậy đặng cho các con mỗi đứa về suy nghĩ mà
trả lời cho mình.
Hễ trả lời phù hạp thì dễ
biết Đạo, còn ngu xuẩn thì cũng hườn ngu xuẩn...
Thầy dạy Nữ-phái biết trọng
Tam-tùng, Tứ-đức, Nam-phái Tam-cang Ngũ-thường. Hễ Nhơn-đạo thành thì phù hạp
Thiên-đạo, nghe à!”
BÀI II: 12 MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC CHÍ-TÔN
A - Duyên khởi
Ngày 9 tháng giêng năm Ất-Sửu
(dl 21-2-1926) nhằm ngày vía Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Quan phủ Vương-Quan-Kỳ
có thiết đàn riêng tại nhà ông số 80 đường Lagrandière (bây giờ là đường
Gia-Long).
Khi ấy quan phủ
Ngô-Văn-Chiêu xin Thượng-Đế lấy tên mấy người đệ-tử mà cho một bài thi kỹ-niệm:
THI
CHIÊU, KỲ, TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
Quờn, Minh, Mân đáo thủ đài danh.
12 chữ lớn ấy là tên 12
Môn-đệ đầu tiên của Thượng-Đế. Còn lại ba chữ nghiêng ở câu cuối là tên của ba
vị hầu đàn.
Trong số 12 tên thì lại có
13 người, nhưng sau đó thì chỉ còn lại 12 người mà thôi. Bởi ông Chiêu đã tự ý
lập Đạo vô-vi tách khỏi Tòa-Thánh. Trong câu nhì chữ Sang có hai vị:
Cao-Hoài-Sang và Võ-Văn-Sang Thầy điểm chung một tên.
Cách ít ngày sau, Thượng-Đế
giáng cơ dạy mấy ông: Trung, Cư, Tắc, Sang, Hậu, Đức phải hiệp với ông Phủ
Ngô-Văn-Chiêu mà lo mở Đạo. Ngài lại dạy rằng mỗi mỗi phải do nơi ông Chiêu là
Anh Cả. Gồm:
1 - Ngô-Văn-Chiêu 2 - Vương-Quan-Kỳ
3 - Lê-Văn-Trung 4 - Nguyễn-Văn-Hoài
5 - Đoàn-Văn-Bản 6 - Cao-Hoài-Sang
7 - Võ-Văn-Sang 8 - Lý Trọng Quí
9 - Lê-Văn Giảng 10 - Nguyễn-Trung-Hậu
11 - Trương-Hữu-Đức 12 - Phạm-Công-Tắc
13 - Cao-Quỳnh-Cư
Trong số người có tên kể
chung là 13 người.
Giải-nghĩa bài thơ trên:
Câu 1: có chữ “Thầy” là
ngôi Thái-cực là Thượng-Đế.
Câu 2: Thầy có nói “Chiêu
kỳ trung độ dẫn hoài sanh” là dầu trẻ con trong bụng cũng phải độ.
Câu 3: Nguồn gốc của nền Đạo
rất nên quí báu được truyến-bá cho nhơn-loại ắt thành quả.
Câu 4: Đức độ lớn sẽ được
thiêng-liêng ban thưởng và đạt vị nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Câu 5: Người có trí huệ được
nêu tên trên đài danh-dự của cõi trời.
Trước đó là đêm 30 tháng
chạp năm Ất Sửu (12 Février 1926) Thượng-Đế giáng cho mỗi người một bài thi,
nhưng hôm ấy ông Ngô-Văn-Chiêu vắng mặt nên không có cho thi. Thử tìm về nguồn
để biết tiểu-sử các bậc tiền khai Đại-Đạo:
1 - Ông Ngô-Văn-Chiêu
Ông Ngô-Văn-Chiêu chỉ lo bề tự giác, ý của ông
không muốn truyền-bá mối Đạo ra cho nhiều người. Ông vẫn lấy câu “Ngô thân bất
độ hà thân độ” (tức là thân tôi chưa độ được hà tất độ được ai) làm tôn-chỉ. Vì
vậy mà ông tách riêng ra từ ngày 14-3 năm Bính-Dần (dl 24-4-1926). Cùng một ý-kiến
ấy có các ông Nguyễn-Văn-Hoài, Võ-Văn-Sang, Lý-Trọng-Quí.
Từ đây tuy đôi bên chủ-nghĩa
khác nhau vì nhóm của ông Lê-Văn-Trung thì lo phổ-độ, còn nhóm của ông Chiêu
thì lo bề tự-giác; nhưng về phương-diện tín-ngưỡng thì cũng đồng kỉnh thờ Đức
Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.
Theo Đạo-Sử của bà
Hương-Hiếu (ngày 21-10 Bính-Dần dl 26-11-1926) Thầy nói:
“Thầy cũng thương đó chút.
Thầy đã nói cái lòng thương của Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm-trách
các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật biết sao cứu rỗi cho đặng.
“Thầy lại phải làm thinh
cho kẻ thì mất lẽ công-bình. Thơ nó tưởng Thầy giận mà nài xin tha-thứ. Thầy thì
đặng còn chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao? Nhất là Thái-Bạch Kim Tinh rất
khó. Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi.
Các con chớ dễ ngươi mà phạm
thượng nghe à!”
Trước đó thì chư Môn-đệ đồng
quì lạy Thầy xin thứ tội cho ông Chiêu.
Ngày 24-4-1926 dương lịch,
trích Đạo-Sử của bà Hương-Hiếu (trang 109):
“Chiêu đã có công tu, lại
là Môn-đệ yêu dấu của Thầy nên Thầy muốn ban chức Giáo-Tông cho nó, song vì
lòng ám-muội phạm đến oai-linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà
dìu-dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà
đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy mà dạy-dỗ các con”.
Tái cầu:
“Các con coi thử đó thì đã
hiểu rằng Thầy thương-yêu nhơn-loại là dường nào. Cái vui của Thầy là đặng thấy
các con hội-hiệp cùng nhau, thương-yêu nhau trong đạo-đức của Thầy, ai còn dám
làm cho chia-lìa các con là đứa thù-nghịch của Thầy.
“Chiêu đã hữu căn, hữu kiếp:
Thầy đã dùng huyền-diệu mà thâu phục, độ rỗi nó trước các con. Biết bao phen Thầy
gom các Môn-đệ lại. Thầy sở cậy nó ấp-yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con.
Song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì
làm sao cho xứng đáng cái trách-nhiệm rất lớn của Thầy toan phú-thác cho nó.
Các con đừng trông mong rỗi cho nó. Nghe và tuân mạng lịnh Thầy”.
Thầy dạy (đêm 14 rạng 15 tháng 3 năm Bính-Dần (25
và 26-4-1926):
“Chiêu, thiếu đức, thiếu
tài.
“Trung, con sợ ai?
“Ta không sợ ai! Ta biết hơn
ngươi. Ta há không biết thương sao?
“Ấy cũng vì thiếu đức. Nó
đã biết Ta. Cứ tuân lời Thầy đã truyền mà thi-hành!
Ngày 26 Avril 1926: Cao-Đài,
“Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh
Ta, Ai kiên? Ta chờ ngươi.
“Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh
Ta, ai thừa lịnh?
“Ta đã nói ngươi làm đầu
Tam-giáo, đã bao phen Ta lập Đạo sẵn cho, ngươi chê há? Ta đã sở định, ngươi
dám cải:
“Chuyên quyền từ đó bỏ tuồng xưa,
“Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
“Sám-hối
Ta cho tu ít tháng.
“Tài
hay, tài múa chớ đua lừa.”
Ông
Bảo-Pháp viết quyển Đại-Đạo Truy Nguyên cũng có nói:
“Khi quan phủ Ngô-Văn-Chiêu trấn-nhậm tại
Hà-Tiên (nhằm năm 1919) ông thường thiết đàn thỉnh Tiên để cầu thuốc cứu chữa bịnh-nhân
cùng học hỏi về đường đạo-đức. Có một vị giáng cơ xưng là Cao-Đài Tiên-Ông thường kêu đích danh Phủ Chiêu mà dạy Đạo. Chư nhu hầu đàn thảy đều lấy làm lạ,
vì thuở nay không hề thấy trong kinh sách nào nói đến Cao-Đài Tiên-Ông bao giờ,
duy có một mình Quan Phủ Chiêu thông minh huệ-trí. Xem ý-tứ trong mấy bài thi Đức
Cao-Đài giáng cơ, thì nhận chắc rằng Ngài là Cao-Đài Thượng-Đế giáng lâm. Từ đó
ông Chiêu lại càng kính trọng Đức Cao-Đài hơn nữa và xin phép lập vị phượng thờ.
Đức Cao-Đài bèn dạy vẽ Thiên-Nhãn mà thờ.
Kịp khi ông Chiêu thiên-nhậm
về Sài-gòn, ông lựa trong bạn đồng-chí những vị nào có ít nhiều đạo-đức mà
khuyên thờ Đức Cao-Đài và chuyên việc tu tâm dưỡng tánh. Chư vị ấy là Quan phủ
Vương-Quan-Kỳ, ông phán Nguyễn-Văn-Hoài, ông Phán Võ-Văn-Sang, ông Đốc-học
Đoàn-Văn-Bản.
Đó là mối Đạo mới bắt đầu
phăn ra, song ông Chiêu vốn là người rất dè-dặt, nếu không phải là người đồng
tâm mật-thiết thì không bao giờ ông khuyên việc tu-hành, vì vậy mà mối Đạo ít
người biết rõ. (Đại-Đạo Căn Nguyên, trang 24-25)
Đức Hộ-Pháp cũng nói:
“Đi thâu Thập-Nhị Thời-Quân
rồi Đức Chí-Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một
người thờ Ngài rồi là ông Ngô-Văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông
làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức
Chí-Tôn biểu bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu may sắc phục Giáo-Tông cho Người, kỳ
hẹn trong mười ngày Người sẽ được tôn làm Giáo-Tông, trong thời-gian mười ngày,
chỉ có mười ngày mà thôi, chúng tôi không hiểu nguyên-cớ nào mà ông
Ngô-Văn-Chiêu không hưởng được địa-vị ấy”. (ĐHP 13-10 Giáp-Ngọ 1954)
2 - Bài thi cho ông Vương-Quan-Kỳ
Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề Đạo dữ tân.
Vô lao công-quả tu đương tác,
Niên quá niên hề Đạo tối-tân.
(AĂÂ)
Ông Vương-Quan-Kỳ
(1880-1940) là người ở Chợ-lớn, cháu ngoại của nhà Nho yêu nước Huỳnh-Mẫn-Đạt,
đậu Cử-nhân làm quan hai triều Minh-Mạng và Tự-Đức, rồi từ quan khi nhà Nguyễn
ký Hòa-ước 1862 với Pháp.
Ông Kỳ học ở trường
Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành-chung, cùng làm quan với ông Chiêu ở Dinh Thống-đốc
Nam-kỳ, ngạch Tri-phủ.
Ngày 15-3 Bính-Dần ông được
phong chức Tiên đắc lang quân nhậm thuyết đạo Giáo-Sư. Rồi ông được Thiên-phong
Giáo-Sư phái Thượng, tức là Thượng-Kỳ-Thanh ngày 14-5 Bính-Dần.
Nhưng đến ngày 14-11
Bính-Dần (18-12-1926) thì Đức Lý giáng dạy:
“Thượng-Kỳ-Thanh bị sụt chức
làm Giáo-Hữu. Như không tuân lịnh xuất ngoại”
Đến ngày 18-11 Bính-Dần
(22-12-1926) Đức Lý dạy:
“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu
viết thơ cho mấy Thánh-Thất lục tỉnh nói Thượng-Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi
hàng Môn-đệ chẳng quyền-hành truyền Đạo nữa. Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt
Tả đạo bàng môn thì chịu, nghe à! Đã lập pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi
trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên-điều tránh sao cho khỏi tội. Hộ-Pháp Hiền-hữu
khá an lòng.
Qua ngày 28-11 Bính-Dần
(1-1-1927) thì Đức Lý giáng dạy:
“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu
từ đây coi Thượng-Kỳ-Thanh như một Môn-đệ vậy thôi, chứ chức Giáo-Hữu cũng cất
luôn nữa. Thầy để lời xin tha mà pháp-luật đã phạm tha sao cho được”
3 . Bài thi cho ông Lê-Văn-Trung
Đã thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng nhau xúm-xít dẫn lên đường.
Đạo Cao phó có tay cao độ,
Gần-gũi sau ra vạn dặm đường.
(AĂÂ)
Ông Lê-Văn-Trung
(1876-1934) là người thuộc gia-đình tiểu nông, làng Phước-Lâm (tỉnh Chợ-Lớn).
Ông rất thông-minh, giỏi tiếng Pháp, sau khi tốt nghiệp trường Chasseloup
Laubat, ông vào làm thơ-ký ở Dinh Thống-đốc Nam-kỳ từ ngày 14-7-1893. Qua năm
1911 ông vào Thượng-Nghị-Viện Đông-Dương. Năm này ông lập Nữ học đường, đó là
Trường Áo Tím, sau đổi là trường Gia-Long.
Ngày 5-12 Ất-Sửu (18-1-1926)
Đức Chí-Tôn giáng đàn dạy hai ông Cư, Tắc đem cơ đến nhà ông để Đức Chí-Tôn độ
ông. Cuộc đời hành đạo của Ngài 8 năm tròn, từ ngày 19-11-1926 đến ngày
19-11-1934 là ngày qui thiên của ông.
Ông Lê-Văn-Trung là quyền
Giáo-Tông của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ thật là một bậc đầu công của Đạo rất gương
mẫu.
4 - Bài thi cho ông Nguyễn-Văn-Hoài
Vô-vi tối yếu Đạo đương cầu,
Đệ-tử tâm thành bất viễn ưu.
Thế sự vô duyên vô thế-sự,
Tiêu tư bất xuất ngoại gian đầu.
(AĂÂ)
Phần đời ông làm
Thông-phán. Phần đạo thì tu chơn. Ông Nguyễn-Văn-Hoài là bạn tu của ông
Ngô-Văn-Chiêu, hoạt-động hăng-hái lúc đầu, nhưng đường Đạo thì dài, bước Đạo gập-ghềnh
khó tới, ông không có giữ một vai-trò nào trong cơ phổ-độ của Đức Chí-Tôn, ông
cũng được Đức Chí-Tôn ban cho thi đêm 30 tháng chạp năm Ất Sửu như trên.
5 - Bài thi cho ông Đoàn-Văn-Bản
Thương thay trung-tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt-thòi bấy phận không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.
Phần đời ông là Đốc-học trường Cầu Kho. Phần Đạo ông là Giáo-Sư. Nhà ở Cầu-Kho, sau làm nơi qui tụ tín-đồ nên đặt là Thánh-Thất tạm Cầu-Kho.
Đây cũng là nơi khởi khai mối Đạo Trời. Buổi họp mặt của 28 vị tiền khai Đại-Đạo,
cũng chính nơi đây lập TỜ KHAI ĐẠO.
Hiện giờ đã dời sang đường
Nguyễn-Cư Trinh (Thánh-Thất Nam-Thành) nhưng cũng còn những dấu tích của
Thánh-Thất Cầu-Kho cũ.
Ông Đoàn-Văn-Bản tự là
Văn-Long, người làng Tân-Uyên, tỉnh Biên-Hòa. Học trường Tiểu học Biên-Hòa rồi
nội-trú trường Sư-phạm tại Gia-Định. Đi dạy nhiều nơi, sau cùng về trường Tiểu
học Cầu-Kho (nay là trường Trần-Hưng-Đạo). Đốc-học cũng như Hiệu-trưởng bây giờ.
Khi vào Đạo Cao-Đài rồi,
ngày 1 tháng 12 Ất-Sửu, ông Bản muốn xin lập đàn cơ, Đức Cao-Đài có cho một bài
thi trả lời, ý nói Trời ban cho ai thì nấy hưởng chớ không phải muốn mà được, rằng:
THI
Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
Gắng công ắt đặng công mà chớ,
Buồn-bực rồi sau mới có mừng.
6 - Ông Cao-Hoài-Sang
(1900-1971)
Chính ngày mà Đức Thượng-Đế
giáng ban cho thi ông không có mặt. Về phần đời ông là Tham tá thương chánh. Phần
Đạo là Thượng-Sanh của Hiệp-Thiên-Đài.
Ngài Cao-Hoài Sang sanh tại
xã Thái-Bình tỉnh Tây-Ninh.
Thân sinh là ông
Cao-Hoài-Ân (mất sớm)
Thân-mẫu là Hồ Hương-Lự (Nữ
Đầu-Sư đứng đầu Nữ-phái)
Ngài là con út trong gia đình
(thứ tư) phẩm Thượng-Sanh.
Anh Cả là Cao-Đức Trọng,
là Tiếp-Đạo Chơn-Quân của Hiệp-Thiên-Đài
Người chị thứ ba là
Giáo-Sư Cao Hương-Cường (Cửu-Trùng-Đài)
Thật là một gia đình danh
gia vọng tộc, mà trong cửa Đạo này từ trước đến giờ chưa thấy.
Sau khi Ngài đỗ Thành-chung
thì làm việc tại sở Thương chánh (tức là sở quan thuế Sài-Gòn) đến chức Tham-tá
Thương-chánh thì hồi hưu.
Ngài còn là Tổ của Âm-nhạc
Việt-Nam, hiện nay trường Quốc-gia Âm-nhạc thờ vị Tổ đó là Đức Thượng-Sanh
Cao-Hoài-Sang của Tòa-Thánh Tây-Ninh.
Cuộc đời hành-đạo của các
Ngài đều nổi bật trong quyển DỊCH-LÝ CAO-ĐÀI này, đã làm sáng danh Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ.
7 - Bài thi cho ông Võ-Văn-Sang
Tân-dân hỉ kiến đắc tân niên,
Phổ-Độ Tam-kỳ bá thế hiền.
Nhứt tịnh chủ tâm chơn Đạo-lý,
Thăng thiên huợt địa chỉ như nhiên.
(AĂÂ)
Phần đời của ông
Võ-Văn-Sang là Tham phán. Phần Đạo thì ông tu chơn.
Trong cửa Đạo Cao-Đài ông
Võ-Văn-Sang không có nhận lãnh một nhiệm-vụ nào cả. Chỉ vì cùng đi theo các vị
trên, nên được Đức Thượng-Đế ban cho thi vậy thôi.
8 - Bài thi cho ông Lý-Trọng-Quí
Lỡ một bước lướt một ngày,
Một lòng thành-thật chớ đơn sai.
Lôi-thôi buổi trước nhiều ân-xá,
Lấp-lửng đừng làm tội bữa nay.
(AĂÂ)
Ông Lý-Trọng-quí chỉ là người
tu chơn, giống như trường-hợp ông Sang vậy.
9 - Bài thi cho ông Lê-Văn-Giảng
Trần tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe nơi Đại-Đạo ráng nghe luôn.
Ở trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Ách nạn chi chi cũng chảy luôn.
(AĂÂ)
Phần đời của ông Giảng là
Thư-ký hãng Hippolito. Phần Đạo ông được đắc phong Lễ-Sanh phái Thượng, tức là
Thượng-Giảng-Thanh ngày 14-6 Bính-Dần.
Ngày 25-12 Bính-Dần thăng
phẩm Giáo-Hữu rồi được thăng Giáo-Sư. Ông có nhiều công trong việc xướng lễ buổi
đầu.
10 - Bài thi cho ông Nguyễn-Trung-Hậu tự Thuần-Đức:
THUẦN phong mỹ tực giáo nhơn-sanh,
ĐỨC hóa thường lao mặc vị danh.
HẬU thế lưu-truyền gia-pháp quí,
GIÁO dân bất lậu tán thời manh.
Ông Nguyễn-Trung-Hậu
(1892-1961) là Đốc-học Tư-thục. Phần Đạo là Bảo-Pháp của Hiệp-Thiên-Đài.
Ông người tỉnh Gia-Định,
con của ông Nguyễn-Phục-Lễ tức Nguyễn-Văn-Nhiêu, bút hiệu Tiết-Văn Đông-Y-Sĩ,
làm bốn khoá hội-đồng An thiên tỉnh Gia-Định và Bà Lê-Thị Cơ là người gốc Gia-Định.
Ông Hậu tốt nghiệp trường
Sư-phạm Gia-Định (École Normale de Gia-định) tháng 2 năm 1911.
Ngày 11-5- 1911 được bổ
làm giáo-viên trường ở đường Taberd, sau về dạy ở trường tiểu học đường Richaud
(nay là trường Nguyễn-Đình-Chiểu).
Năm 1926 làm ăn sa sút, có
dịp được gặp đàn cơ Đức Chí-Tôn giáng, xin cầu hỏi có nên tiếp tục không.
Thầy giáng cho thi:
Con muốn làm sao tự ý con,
Nhà nghèo Nhơn-Nghĩa miễn vuông tròn.
Thầy đâu nỡ để Môn-Đồ cực,
Mối Đạo giữ cho ngàn thuở còn.
Ngày 4-8-1926, việc tư vẫn
còn chưa an, nên thỉnh-giáo Thầy một lần nữa, Thầy giáng:
Cái khiếu thông-minh con ở đâu?
Kêu Thầy mà hỏi việc cơ cầu.
Hễ là quân-tử chi màng việc,
Hễ biết điều cao bớt việc sầu.
Ông Nguyễn-Trung-Hậu có lần
đi cùng với ba ông Cư, Tắc, Sang đến dự đàn cơ, được Đức AĂÂ giáng cho thi;
THUẦN văn chất ĐỨC tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn-kiệt,
Đến hồi búa Việt giục cờ Mao.
Thuần-Đức là bút hiệu của
ông Hậu, nhưng duy chỉ Đức Chí-Tôn điểm đúng tên, ông quá tin tưởng quyền-năng
của Đức AĂÂ bấy giờ nên ông vào Đạo ngày 12-tháng 1 Đinh-Mão (dl 13-2-1927) ông
thọ Thiên-phong Bảo-Pháp Hiệp-Thiên-Đài. Ông được biết tiền thân là Xích-Tinh-Tử,
may-mắn được Quỉ-Cốc Đại-Tiên giáng đàn cho thi cũng khế hợp với tiền kiếp của
ông:
Đỏ đỏ một vừng ấy hỏa-tinh,
Nhà Châu tên tuổi đã đành-rành.
Tam-kỳ tái thế an thiên-hạ,
Hậu nhựt thành-công hậu hứng tình.
Ngày 15-11 Mậu-Tuất (dl 24-12-1958) ông trở về Gia-Định dưỡng bịnh. Trong
cuộc biến ngày 11-11-1960 vì tên tuổi ông bị nhóm tổ chức gán vào bản
tuyên-ngôn nên ông bị câu-lưu từ 18-11-1960 đến
22-12-1960. Trở về ông an-nhàn với gia-đình.
Ông qui thiên lúc 16giờ 50
ngày 7-9 Tân Sửu (dl 16-10-1961). Tang lễ cử hành 5 ngày và an-táng tại quê nhà
tại Gia-Định.
Thời-gian sau: ngày 4 đến
7 tháng 9 năm Giáp-Dần (18 đến 21-10-1974) Hội-Thánh di liên-đài về Tòa-Thánh
Tây-Ninh nhập Bửu-tháp.
Đặc biệt là thi-hài của
Ngài Bảo-Pháp Chơn-Quân khi chôn ở quê nhà là đặt trong hàng nằm hơn 13 năm, mà
khi khai quật lên vẫn còn xác thể bình thường như mới chết, không hư, không dữa,
nên khi đặt vào bửu-tháp (tức hàng ngồi) vẫn đặt ngồi thế kiết-dà và để vào
liên-đài một cách dễ-dàng. Kẻ viết bài này đã được đọc báo Đạo và được trưởng
ban nhà thuyền xác nhận điều ấy là một việc hi-hữu xưa nay.
Tháp của Ngài ở khu đất
dành cho Thập-Nhị Thời-Quân tại Ao-Hồ, nhập bửu tháp lúc 7 giờ ngày 7 tháng 9
Giáp-Dần (1974).
11 - Ông Trương-Hữu-Đức
(1890-1976)
Ngày hôm ấy vắng mặt trong
kỳ đàn nên không có thi. Phần đời ông là Thư-ký sở Hỏa-xa.
Phần Đạo là Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài.
Ông người làng Hiệp-Hòa tỉnh
Chợ-Lớn. Sanh năm Canh-Dần (1890) Ông vốn không tin vào việc xây bàn thỉnh Tiên
của ba ông Cư, Tắc, Sang, nên về nhà tự xây bàn cầu hỏi riêng, được cơ giáng
cho thuốc trị được chứng bịnh của ông đã hơn 10 năm. Ông cũng tự chấp-bút một lần
được Đức Minh-Nghĩa Tiên-Ông giáng cho thi:
Minh-Đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn ao-ước cái không hay.
Mừng cầu Âu Á càng thêm mặt,
Mừng nậu côn-đồ đã chịu chay.
Sau ông được thiên-phong
là Tiên Đồng tá cơ đạo-sĩ phò-loan tại Thánh-Thất Cầu-Kho. Ông thường đi phổ-độ
cho chúng-sanh nhập môn cầu Đạo vào ban đêm, ngày thì làm việc. Ông cũng được
Chí-Tôn ban cho huyền-pháp chữa trị nhiều bịnh nan y. Sau một thời gian thì dừng.
Trước đây có nói “Đức cứu Đạo” chính là Người!.
Năm 1962 ngài về Tòa-Thánh
cầm bộ Pháp-chánh và làm trưởng Ban Đạo-Sử. Ngày 25 tháng 5 Tân-Hợi (dl
13-5-1971) Ngài đắc phong Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài. Sau cùng Ngài qui thiên
năm 1976, hưởng thọ được 85 tuổi
12 - Bài thi cho ông Phạm-Công-Tắc
Ngao-ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.
(AĂÂ)
Phần đời ông là thư-ký Sở
Thương chánh. Phần Đạo là Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài tức là Giáo-chủ
Đạo Cao-Đài.
Ngài được sanh ra đời ngày
5 tháng 5 năm Canh-Dần, làng Bình-Lập tỉnh Long-An. Thân sinh là Phạm-Công-Thiện,
thân-mẫu là La-Thị-Đường.
Lúc thiếu thời rất khó
nuôi, dễ bị chết giả. Dù gia đình theo Đạo Nho nhưng vì ông khó nuôi nên thường
đến nhà thờ để rửa tội cho ông và theo Đạo Công-giáo.
Để rồi sau cùng ông đắc lịnh
qui-nguyên Tam-giáo hiệp nhứt Ngũ-chi là vậy.
Vốn tư chất thông-minh ông
đã thông Nho, rồi khi học ở trường giỏi Pháp-ngữ, ông học trường Chasseloup
Laubat (nay là Jean-Jacques Roussau). Gia đình gặp phải khó khăn ông ra làm thư-ký
sở Thương chánh.
Năm Ất-Sửu (1925) mang
hoài-bão yêu nước nên quí ông thường bày cách xây bàn để cầu hỏi các vong linh
quá vãng về hỏi vận-mạng đất nước. Đây cũng là cớ để mở đường xuất Thánh mà ba
ông Cư, Tắc, Sang cùng làm một sở, là bạn thâm-giao nên là cơ-hội Chí-Tôn khiến
cho tất cả đều qui tụ lại đây lấy “lương sanh mà cứu vớt quần sanh”.
Khi Ngài đã chính thức là
Hộ-Pháp rồi thì công việc Đạo lúc nào cũng nặng-nề. Đến lúc phải chịu tù đày
sang đảo Madagascar (Phi-châu) chịu nạn cho dân-tộc 5 năm 2 tháng, mà Ngài cũng
vui nhận để cứu lấy đồng bào, nòi giống và cả nhân-loại nữa. Sau cùng Ngài phải
tự lưu đày sang Miên-quốc để tránh cảnh nồi da xáo thịt và phải gởi thây nơi đất
khách quê người. Cuối cùng người ta vẫn lợi dụng xác Ngài để dựng nên Thần, nên
Thánh, nhưng chính đó Ngài đã dạy cho nhân-loại bài học Thương-yêu và
Công-chánh mà Đức Chí-Tôn đích thân đến thế này cũng vì hai lẽ ấy mà thôi.
Năm 35 tuổi là năm ông phế
đời hành đạo đến buổi qui thiên là 70 tuổi. Một cuộc đời đã trọn hy-sinh cho đạo-pháp.
Những lời trích-dẫn trong tập sách nhỏ này là lời giảng dạy của Ngài.
13 - Bài thi cho ông Cao-Quỳnh-Cư
Sắp út thương hơn cũng thế thường,
Cái yêu, cái dạy, ấy là thương.
Thương không nghiêm trị là thương dối,
Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.
(AĂÂ)
Ông Cao-Quỳnh-Cư
(1888-1929). Phần đời là thơ-ký sở Thương-chánh. Phần Đạo là Thượng-Phẩm của Hiệp-Thiên-Đài.
Ông sinh năm Mậu-Tý (1888) tại Tây-Ninh. Đây là những tay rường cột của Đạo, nhờ
tấm lòng trung kiên nên chỉ có mấy người mà đã làm nên hình, nắn nên tướng, đủ
sức chống đỡ Đạo-quyền giữa buổi truân chuyên, khổ sở.
Đức Cao-Quỳnh-Cư đắc phong
cùng một lượt với Hộ-Pháp và Thượng-Sanh.
Chính đây là tượng trưng
cho “Đạo thành do ba người”.
Sau buổi ba Ngài quì cầu
xin Đạo thì Thượng-Đế giáng cho thi:
Thiên-đàng nhứt thế biến Lôi-âm,
Tận-độ nhơn-sanh thoát tục phàm.
Chánh-giáo phát khai thiên thế mỹ.
Thâu hồi hiệp nhứt Đạo kỳ tam.
Cao-Đài Thượng-Đế
Thế rồi, ngày 1-1 Đinh-Mão
(dl. 1-2-1927)
Thầy giáng cơ có để lời
than:
“Trung, Cư, Tắc, mấy con
nhớ đêm nay năm rồi thế nào không, còn nay ra thế nào chăng?
… Thầy lập Đạo năm rồi
ngày này, thì Môn-đệ của Thầy chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào tay Chúa Quỉ, chỉ
còn lại 8. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo.
Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền-hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế
đi nữa cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có 6 đứa
Môn-đệ trong một năm cho đặng bao giờ.
Thầy vui mừng, Thầy khen tặng
hết cả bốn muôn Môn-đệ của Thầy...”
Khi tôi có dịp làm việc ở
Nam-Thành Thánh-Thất, chuẩn-bị viết tập “Kỷ-yếu 28 vị tiền khai Đại-Đạo” thì có
một bạn của Thánh-Thất này nói với tôi rằng: Viết Tiểu-sử của các Ngài, có người
thì không đủ giấy để viết, nhưng rồi cũng có người không có được tài-liệu để viết
vào giấy.
Thật vậy, điều ấy đã đến với
chúng tôi ngay trong hiện tại này.!
B - Luận về 12 Môn-đệ đầu tiên của Chí-Tôn
Nguyên-lý
Trước hết vẽ một vòng tròn
tượng-trưng càn-khôn vũ-trụ, tâm 0 là ngôi Chúa tể tức là Đấng Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.
Trong vòng tròn là hai hình tam-giác AEC và DBF gát chồng lên nhau, tức là tam
âm, tam dương, tạo thành hình ngôi sao sáu cánh. Lại vẽ thêm sáu cánh sao phụ
thêm nữa, như vậy đã có 6 âm, 6 dương rồi.
Bắt đầu từ A đếm
chung-quanh có cả thảy 12 hình tam-giác đều nhau xoay quanh một vòng tròn 0 lớn.
Đó là cơ thống nhất vạn loại mà Thầy là vi chủ nên nói số 12 là số riêng của Thầy
vậy.
Thầy ở giữa nắm pháp qui
cơ, vòng tròn tượng trưng cho càn-khôn vũ-trụ, cả vạn-linh đều chung chịu trong
khuôn luật đó.
Như vậy là có 6 âm, 6
dương, vì vậy mà ta không lấy làm lạ vì lúc khởi thủy nền Đạo có được 12 Môn-đệ
đầu tiên.
Như chúng ta đã điểm lại
công-nghiệp của các bậc tiền khai Đại-Đạo để thấy được bước diễn biến của Đạo-sự
trong thời-gian qua và cũng không ngỡ-ngàng vì sao Đức Chí-Tôn phải để lời than
như trên.
Thầy cũng đã nói không một
việc gì qua định-luật của vũ-trụ hết. Dịch luôn luôn có âm dương đi liền nhau.
Ban đầu 12 người là Môn-đệ của Thầy, nhưng trong số 12 ấy lại có hai người
trùng tên Sang thành ra 13. Tại sao phải là con số 13?
Bởi nhìn vào đồ hình trên
thì từ ngôi sao sáu cánh là có đến 12 tam-giác đều xoay quanh vòng tròn lớn mà
Thầy vi chủ, nên biểu-tượng bằng tâm 0 cộng chung là 13 điểm. Thì ở đây người đứng
số 13 là ông Cao-Quỳnh-Cư tức Thượng-Phẩm nắm chi Đạo, cũng thuộc tâm O, tức là
hòa-nhập cùng Thượng-Đế để có sự Thiên nhơn tương-hợp. Nhưng đến ngày Khai Đạo
rằm tháng 10 thì ông Ngô-Văn-Chiêu đã tách ra thì cũng còn lại đủ số 12.
Trong số 12 Môn-đệ đầu
tiên thì có ba vị là
- Ông Cao-Quỳnh-Cư (tuổi Mậu-Tý
1888)
- Ông Cao-Hoài-Sang (tuổi
Tân-Sửu 1901)
- Ông Phạm-Công-Tắc (tuổi
Canh-Dần 1890)
Tức nhiên có 3 vị đứng đầu
12 chi là Tý, Sửu, Dần.
Như thế thì Số 12 là số đặc-biệt
của Thầy, tức là 9+3=12; 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào
cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy
là chủ-tể càn-khôn vũ-trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.
Số 12 nếu tính theo hàng
ngang thì số 1 đứng trước số 2, tức là lý Thái-cực đứng trước luật âm dương thì
thấy rõ quyền-năng Chưởng-quản trong đó. Thế nên Thầy nói chi chi cũng có luật-định
hết thảy, không chi ngoài quyền sở định của tạo-hóa hết. Nhưng luật công bình
có hai phần: một âm, một dương biến động, dù ngay trong luật định cũng có, hễ
có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh.
Hết vòng biến đổi mới trở
lại trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 lại trở lại trạng-thái Hư-vô, nên người
tu đắc nhứt qui cơ là thành Đạo, nghĩa là hiệp cùng lý Thái-cực để trở lại trạng-thái
tĩnh lặng nhiệm-mầu trong lý Hư-vô.
Trong lý Hư-vô phát sanh một
Thái-cực. Thái-cực biến-hóa ba ngôi. Mỗi ba ngôi lại biến hóa thành ra Cửu chuyển.
Ba ngôi ấy biến sanh là Đạo,
Pháp và Thế đó (tức là ba ông Cư, Tắc, Sang)
Thầy còn cho biết 4 người
đã vào tay Chúa quỉ, tức là Tứ âm; độ được bốn muôn, 4 là tứ dương, hiệp chung
là Bát-quái. Còn lại 8 tức là hoàn thành một Bát-quái thứ nhì.
Nhưng sau cùng còn lại 6
người làm nên cơ Đạo. Số 6 là do 3+3 tức là lý tam âm tam dương mà đã nhiều lần
đề cập đến.
Nếu kể luôn tên 3 vị hầu
đàn là tổng cộng 13+3=16 tức là hai lần con số 8, ấy là dựng nên hai Bát-quái
Cao-Đài như Đức Chí-Tôn muốn, mà số 16 đây chỉ là một sự xác nhận một lần nữa
mà thôi.
Nếu chỉ cộng 12+3=15 là trở
về con số Ma-phương của Bát-quái. Đây là Bát-quái Cao-Đài của Đức Chí-Tôn đã dựng
nên trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này.
Khi viết về Tiểu-sử của 12
vị tiền khai Đại-Đạo, tôi thấy có một lỗi lớn với các Ngài, vì có Đấng thì ngại
không có giấy để ghi cho hết công-trạng của Ngài, có vị thì không có được một
tài-liệu trong tay để viết, vì sự làm việc trong đơn phương giữa một hoàn cảnh
như thế này, thôi đành vậy. Xin các Ngài cũng lượng thứ!
Giải thích tương-tự như vậy
thì Tòa-Thánh có 12 cửa, nhưng rốt lại thì không có cửa số 5, vì sao? Vì theo
Bát-quái thì số 5 đã nhập vào “ngũ trung” thì không thể có cửa bên ngoài. Tuy
nhiên có cổng Chánh-môn đặt vào cũng đủ cho số 12 tròn đầy. Đây đã thể hiện trọn
vẹn hình ảnh của Bát-quái Đồ-thiên vậy.
Do đó, nên thấy rằng dù Đức
Chí-Tôn có nói về Bát-quái hay không mà lý Đạo vẫn hiển nhiên trong mọi hình thức.
Trong bài thi dạy Đạo, trong luật-pháp chơn-truyền, trong nghi-thức cúng
kính…đâu đâu cũng có hình ảnh của Bát-quái thành hình một cách rõ-rệt.
Lý Đạo nhiệm-mầu là thế!
Và tiếp-tục tìm đến thi văn dạy Đạo.
BÀI III: Thánh-ngôn Thầy dạy (TNII/107)
Thầy.
Thành tâm niệm Phật.
Tịnh, Tịnh, Tịnh, Tịnh, Tịnh,
Tịnh là vô nhất vật.
Thành tâm hành Đạo.
Một bài cơ Thầy giáng dạy chỉ có
năm câu thật đơn-giản. Một bài cơ ngắn nhứt trong các bài.
1 - Giải-nghĩa
Câu 1: là Thầy tức là Đức
Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế hay là Đại-Từ-Phụ.
Câu 2: Người tu thường phải niệm
Phật một cách chân-thành, để không bị phân tâm, ngoài cách niệm ra còn lần chuỗi
Bồ-đề, cũng là cách tập chuyên-chú vào một vấn-đề cho khỏi vọng tâm. Tức là tạo
một sự cảm-ứng với Đấng Huyền-Linh.
Câu 3: Năm chữ “tịnh” cho thấy
phương tu cần phải “bế ngũ-quan” tức là quên đi những việc phồn-tạp, mà năm
giác-quan trong người lúc thanh-tịnh nó hay phóng túng, phải có cách giữ nó lại.
Muốn tu sửa thì nên nhớ, người đạo-đức phải biết:
- Mắt (là cơ-quan thị-giác) người
tu không nên thấy những gì không cần phải thấy (chánh kiến).
- Lưỡi (là cơ-quan vị-giác)
không ham món ngon vật lạ, nói điều lành để tránh khẩu-nghiệp (chánh ngữ).
- Tai (cơ-quan thính-giác)
không nghe những gì người đạo-đức không muốn nghe (chánh định).
- Mũi (cơ-quan khứu-giác) không
đòi hỏi những mùi hương lạ (chánh tinh-tấn).
- Tay (cơ-quan xúc-giác)
làm việc chân chính (chánh nghiệp).
Trong Bát-chánh-Đạo người
tu-hành nên gát bỏ những gì có thể làm cho mất thì-giờ, đồng thời tập thói quen
tốt, mục-đích hướng tới điều chân, thiện, mỹ.
Câu 4: giữ sự thanh-tịnh đến mức
độ cao, giống như mặt nước phẳng không có sóng gợn, thì cõi lòng không xao-xuyến,
bấy giờ trí-huệ mới sáng suốt và thông-công được các cõi vô-hình, đó là sự cảm-ứng
với huyền-vi thiêng-liêng vậy. Dầu một Tôn-giáo nào hay một bậc chân tu nào, vẫn
lấy tâm thanh-tịnh làm đầu mối cho việc tu-hành
Câu 5: khi đã thấu-hiểu được
chơn-truyền của đạo-pháp phải đem ra để truyền-bá cho mọi người cùng thực-hành
hầu đốt giai-đoạn thời-gian, thâu ngắn con đường đến Tây-phương hơn. Có làm được
như vậy là đã thực-hiện được ngũ-nguyện rồi:
2 - Nghiệm về lý: đây là con đường tu của Đạo
Cao-Đài
Xét câu Ngũ nguyện
- “Nam-mô Nhứt nguyện Đại-Đạo hoằng-khai” tức nhiên người Tín-hữu Cao-Đài phải làm sao cho mối Đạo ngày càng
phát-triển, bành trướng mạnh-mẽ thêm. Có câu “Nhơn năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng
nhân”. Sự hoằng dương chánh-pháp là làm cho mọi người biết tu-hành là để cùng
hướng thiện và hướng thượng. Làm cho nhơn-sanh bớt đau khổ cùng sống vui trong
cõi đời tạm này.
- “Nhì nguyện Phổ-độ chúng-sanh” Lời tâm nguyện của người tu là muốn cho chúng-sanh bớt điều nghiệt chướng,
cầu mong cho nhân-loại giảm bớt đau thương vì chiến-tranh tàn-khốc, máu chảy ruột
mềm. Sự đau thương chất cao như núi, nước mắt chúng-sanh nếu góp lại nhiều hơn
bốn biển. Lời Phật Thích-Ca than như vậy. Ngày nay nhân-loại quá đau thương,
xin cùng nhau nối tình thương lớn.
- “Tam nguyện xá tội Đệ-tử” lời cầu xin Thiêng-Liêng xoá bỏ tội-tình kiếp trước hoặc do vô minh mà đã
gây ra, hiện tại không gieo thêm nữa để khỏi gặt hái đau thương; đồng thời
chính mình cũng bỏ lỗi của người khác, tức là quên đi những thù hận, ích-kỷ, nhỏ-nhen,
cuộc đời ngắn ngủi này có nghĩa gì đâu:
Nhà thơ Việt-Nam đã viết
lên lời thơ này:
“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
“Cảnh phù-du xem thấy cũng nực cười.
“Thôi công đâu chuốc lấy sự đời,”
- “Tứ nguyện thiên-hạ Thái-bình”. Nếu thiên-hạ được thái-bình là toàn cầu được thái bình, nhà nhà đều hạnh-phúc,
thay súng đồng, gươm máy bằng phi đạn tình thương để không còn thấy cảnh nhà
tan, cửa nát, chết-chóc hằng ngày nữa.
- “Ngũ nguyện Thánh-thất an-ninh” Thánh-thất đây chính là cõi lòng của mỗi người được bình-an, vui-vẻ trong
cảnh sum-họp, hạnh-phúc gia-đình trong cuộc đời giả tạm này đây.
Có giữ được cõi lòng thanh
tịnh như thế ấy tức là giữ được Ngũ-giới cấm vậy. Thế nên sự tu hành bất cứ hình-thức
nào hay tùng theo một Tôn-giáo nào, bậc nào cũng phải có sự xét mình nghiêm túc
như vậy. Chắc chắn không còn mật pháp nào hay hơn, vì đó là căn-bản của người
tu. Quan-trọng nhứt là câu nguyện thứ năm, vì nó đã đi vào cõi lòng của người rồi.
Một khi khí tịnh, thần an thì không còn nghĩ đến sự xung-đột nào cả, người người
đều nắm chữ “nhàn” trong tay thì lo chi thế-giới không hòa-bình, nhân sanh
không an-lạc? Kinh đã dạy:
“Làm người rõ thấu lý sâu,
“Sửa lòng trong sạch tụng
cầu Thánh-kinh.”
Sự tu-hành có giá-trị ở sự
"xét mình" vậy. Thầy dạy:
“Phải thường hỏi lấy mình
khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phân-sự ngày ấy đã xong chưa, mà
lương-tâm có điều chi cắn rứt chăng? Nếu phận còn nét chưa rồi, lương-tâm chưa
đặng yên-tịnh, thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con
có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh. Thầy mong rằng mỗi đứa đều lưu-ý đến sự sửa
mình ấy, thì lấy làm may-mắn cho nền Đạo; rồi các con sẽ đặng thong-dong mà
treo gương cho kẻ khác. Các con thương mến nhau, dìu-dắt nhau, chia vui sớt nhọc
nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui-vẻ đó”. (TNI/97)
Xem ra con người có 5
giác-quan như trên đã nói là: nhãn (mắt), nhĩ (tai), tỉ (mũi), thiệt (lưỡi),
thân (mình). Đó là ngũ quan hữu tướng. Tuy nhiên còn có tư-tưởng tức là ý-tưởng
mới có thể dùng nó mà "xét mình" được; chính đây là lục quan vô-hình,
còn gọi là giác-quan thứ sáu.
Đức Hộ-Pháp cũng dạy rồi:
“Hôm nay là ngày mở cửa
thiêng-liêng và đưa nơi tay các Đấng nguyên-nhân ấy một quyền-năng đặng tự giải-thoát
lấy mình, hai món bí-pháp ấy là:
1/ - Long-Tu-Phiến của Đức
Cao Thượng-Phẩm
2/ - Kim-Tiên của Bần-Đạo,
hiệp với ba vòng vô vi tức nhiên Diệu-Quang Tam-giáo hay là hình trạng của
càn-khôn vũ-trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ-Quang-Khiếu của chúng ta đó vậy”
“Con người có ngũ-quan hữu
tướng và lục quan vô-hình, mà phải nhờ cây Kim-Tiên ấy mới có đủ quyền-hành mở
lục-quan của mình đặng”
Mà Kim-Tiên là gì? Là tượng hình ảnh của điển lực điều-khiển càn-khôn vũ-trụ, mà chính đó là điển-lực, tức
nhiên là sanh-lực của vạn-vật đó vậy. Với nó mới có thể mở đệ bát khiếu- Trong
thân con người có thất khiếu và còn có một khiếu vô-hình là Huệ-Quang-Khiếu -
Vì nó là điển lực nên nó mở khiếu ấy mới được”
Nói rõ ra cây Kim-Tiên tức là cây roi Tiên có
chín khúc (Cửu-Khúc Kim-Tiên). Số 9 đây là nói đến Bát-quái Tiên-thiên có 4 lần
con số 9. Mà 4x9=36 tượng-trưng 36 cõi Thiên-tào.
Thêm cây quạt của Đức Cao Thượng-Phẩm tức là
Long-Tu-Phiến, nghĩa là cây quạt được kết bằng 36 lông cò trắng. Con số 36 này
là kết-quả của thành số vừa nêu trên, cũng là ý-nghĩa của hai quẻ Càn Khôn vậy.
Đây là hai quẻ Càn ☰ Khôn ☷ Nhìn vào số nét
trong mỗi quẻ ta thấy quẻ càn có 3 vạch, quẻ Khôn có 6 vạch. Như thế thì số 36 là nói đến hai quẻ Càn Khôn nằm trong Bát-quái Tiên-thiên chính
Bát-quái này là cánh cửa để đi vào Đạo-pháp.
Tóm lại muốn “rõ thấu lý sâu” phải thấu hiểu
Bát-quái một cách tinh-tường.
3 - Phân-tích chữ Tịnh qua 4 chiều không-gian
Tịnh 靖 là đối với động, là sự yên-lặng hoàn toàn, không nhiễm, không luyến bất cứ
vật gì của đời, đại-khái như danh, lợi, tình, những thứ mà làm cho người đời
say-đắm: Vì ăn nên phải bị đọa, vì dâm nên phải bị đày, người đời cũng vì những
thứ vật dục ấy khiến cho cõi lòng dấy động, nếu không biết giữ mình thì nó
buông lung như ngựa không cương.
Thử phân-tích qua bốn chiều
không-gian để thấy sự mầu-nhiệm.
* Khởi đầu là TINH 精 về mặt văn-pháp, tinh có nghĩa là sự sống, khi sự sống có thì nó cùng đến,
nói khác đi nó có mặt ngay khi sự sống bắt đầu; đó là TINH KHÍ.
Gốc chữ tinh vốn là trạch
mễ 擇 米 tức là lựa gạo (chữ tinh
thuộc bộ mễ 米 mễ là gạo).Tinh còn có nghĩa là lựa gạo để lấy những
phần thuần khiết, cho nên mới có bộ mễ, nói rõ hơn tinh là phần gạo ngon nhất,
sạch nhất, sau khi đã chọn lựa kỹ. Ngoài ra còn đọc là thanh 青 tức là màu xanh, đó là màu bất biến. Sách nội-kinh nói Tinh là phần khí-chất
được sạch nhất, ròng nhất, trong thủy-cốc nó đóng vai trò quan-trọng trong quá
trình tạo thành chân-khí, nguyên-khí và huyết-khí.
Riêng ở con người, chữ
Tinh mang một nội-dung cao hơn nữa, đó là Tinh của thiên địa. Bởi Tinh là cái
“thiên chi nhứt, địa chi lục” 天 之 一 地 之 六
Thiên lấy nhứt sinh ra thủy,
địa lấy lục thành thủy “Thiên nhứt sanh thủy, địa lục thành chi” 天 一 生 水 地 六 成 之. Đây là quá-trình sinh thành của ngũ-hành sớm nhất, vì vậy vạn-vật lúc mới
sanh đều đến từ thủy. Ví như hạt của một trái cây lúc chưa chín đều có tính thủy
(nước).
Một cái thai, một cái trứng,
lúc chưa thành đều là thủy. Phàm con người có sự sống, cho đến côn-trùng, thảo-mộc,
không loài nào không như thế.
Kinh Dịch nói: Nam nữ cấu
tinh thì vạn vật mới hóa-sinh. Y-học cũng xác định: thường sinh ra trước thân
(hữu-hình) gọi là Tinh “Thường tiên thân sinh thị vị Tinh” 嘗 先 身 生 是 胃 精.
Tinh còn mang một ý-nghĩa
rất quan-trọng trong việc giao-hợp giữa âm dương, giữa huyết khí, giữa trai
gái, mà kinh Dịch đã đề cập đến.
Phàm con đường sinh thành
của vạn-vật không có con đường nào không do sự giao nhau của âm dương để rồi thần
được minh vậy. Cho nên cuộc sống của con người ắt phải do sự hợp khí của âm
dương. Tinh của cha mẹ đã cấu hợp nhau tức là dịch đã nói “Lưỡng tinh tương
bác” 兩 精 相 剝. Sau đó thì hình-thể và thần khí mới thành. Nơi hợp khí của thiên địa gọi
là nhân.
Hai tinh khí 精 氣 của thiên địa, của trai gái, của Tiên-thiên, Hậu-thiên
luôn giao nhau, đánh nhau đúng theo nhịp biến-hóa của khí Thái-cực thì cuộc sống
của con người sẽ có Thần 神. Vậy Thần là kết-quả hiển-nhiên
của quá-trình khí hóa liên tục, tuần-huờn giữa lưỡng tinh trong thân-thể con
người. Vậy Tinh và Thần là kết-quả kỳ-diệu của sự vận-hành khí-hóa trong thân
thể người. Sự vận-hành này phải theo những chiều vãng lai, nghịch thuận tạo
thành vòng âm dương. Tinh là âm, Thần là dương vậy.
Đó là hiện thân của người
mang đầy bản tính của trời đất.
“Con người đứng phẩm tối linh,
“Nửa người, nửa Phật nơi mình anh-nhi.”
Nhìn qua hình vẽ trên, thấy
sự biến đổi của chữ Tinh, nó ở vào Thái-cực, là tâm, là nguồn khởi đoan của con
người và vạn-vật.
Sự cấu-tạo tế-bào
tinh-trùng của người cũng như vạn-vật có phần giống nhau: nghĩa là tế bào họp bởi
1 nguyên-tử dương và 9 nguyên-tử âm. Thế nên cái sống hữu-vi này các nhu-cầu cần-yếu
giữa người và vật đều giống nhau, từ cái đói ăn khát uống, cho đến sự truyền giống
nữa. Nhưng người khác hơn vật và được gọi là người là nhờ có đạo-đức điều-khiển
cho mọi hành-động. Có được vậy mới xứng đáng làm: Con người đứng phẩm tối linh,
vậy.
* Là người đạo-đức phải biết
tập sửa Tính 性 tốt, nó phải hướng thượng và hướng thiện, bởi dấu
sắc là biểu hiệu sự đi lên: Tinh sắc Tính.
Sự kết cấu chữ Nho gọi là
“Tính tự tâm sanh” 性 自 心 生 (đây là lối chiết tự: tức nhiên chữ Tính 性 do bộ tâm 忄họp với chữ sinh 生 Cũng là ý-nghĩa rằng bổn nguyên: Tính của người do tâm mà sinh ra.
* Chữ Tình 情 thì nằm ngang; ai cũng có tình-cảm, tuy nhiên người có đến thất tình, người
tu phải biết chuyển-hóa cho thất tình trở thành thất khiếu sanh quang (chữ tình
情 cũng do lối chiết tự, tức nhiên do bộ tâm 忄họp với chữ tinh 青, còn đọc là thanh, nghĩa
là phải có một thứ tình cao-thượng).
Chữ Tình cốt ở chữ Tính mà
ra. Nhưng Tính thời tịch-nhiên bất động thuộc về phần thể. Tính là nguyên-lý sở-dĩ
sinh ra người, cái bản nguyên về tinh-thần của người, bản chất của người hoặc vật.
Tình thời cảm nhi toại thông thuộc về phần dụng, nên Tính thời khó thấy mà Tình
thì có thể thấy được.
Tình thiên địa cốt ở nơi vạn-vật
sinh ra, mà tình vạn-vật cốt ở nơi ứng với thiên địa. Tỷ như gặp Xuân Hạ thì vật
gì cũng sinh trưởng, gặp Thu Đông thì vật gì cũng ẩn tàng: Đó chính là tình cảm-ứng
của thiên địa vạn-vật.
Thấy được tình thiên địa
thời thấy được tình của Thánh-nhân, nên không cần nói Thánh nhân chi tình 聖 人 之 情. Vì Thánh-nhân với thiên-hạ cũng như thiên địa với vạn-vật. Duy người có
thấm nhuần triết-học thì mới nhận ra được Tình có đến 7 mối ràng buộc lấy người
từ khi mới lọt lòng mẹ nên gọi là thất tình.
Nhưng thật ra Tình cũng xuất
hiện cùng lúc với “Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi” nữa kìa. Vì khi một
chơn-hồn đến thế này dù được tự-do lựa chọn trong cái nhân duyên hay cưỡng bức
vì oan-nghiệt đi nữa, cũng được cấu-hợp bởi thất tình do chơn-thần sản-xuất.
Phật-Mẫu tạo chơn-thần này
cũng như cho mặc vào 7 lớp áo để đến thế-gian. Sự cấu-tạo con người quan-trọng
là bởi chơn-thần. “Chơn-thần là đệ nhị xác thân tạo hình bằng nguơn-khí của 7 từng
thiên:
Bỏ Tạo-Hóa-Thiên là từng
thứ 9, linh-hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết-định đến thế-gian này làm việc gì,
kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách. Đạo-giáo nói là
7 cái thi-hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí-chất, cái thứ 7 là xác thú này đây.
Bảy từng thiên có
liên-quan với thất tình.
* Bắt đầu từng thứ 7 thì kết
vào tình HỈ (mừng)
* Qua từng 6 thì kết vào
tình ÁI (yêu thương).
* Từng thứ 5 kết vào tình
LẠC (vui).
Đó là ba thứ tình-cảm tốt
HỈ, ÁI, LẠC được duy trì cho thêm cao-thượng hợp đức của người tu.
* Qua từng 4 kết thêm tình
DỤC (muốn). Chính tình này nguy-hiểm nhứt, nó xây chuyển và quyết định sự đọa
thăng của cuộc đời, bởi nó có thể dục lên hoặc dục xuống. Nếu hướng thượng thì
gấm ghé ngôi Tiên phẩm Phật, hướng hạ thì con đường đọa đày, thoái-chuyển đang
chờ.
* Còn lại ba tình AI, Ố, NỘ
thì lần-lượt xuất hiện ở từng thứ 3, 2 và 1.
Chính từng nộ-giác là xác
hài này đây, cho nên người đời rất dễ giận-hờn. Còn ba tình-cảm cao-thượng lại
lẫn khuất vào trong, vậy người tu là phải biết bỏ giả tầm chơn, khổ công luyện
tập sửa đổi tánh tình hằng ngày là vậy.
Ở nơi người, đạo nhân-luân
là trọng, nếu không biết tự-trọng thì nhân-quả buộc ràng khó tránh khỏi. Chính
7 dây oan-nghiệt buộc ràng mà nhiều chơn-linh bị đọa chưa bao giờ thoát qua được
cửa luân-hồi sanh tử.
Chữ Tình lắm trái-ngang và
nhiều rắc-rối, một chơn-hồn muốn được nhẹ-nhàng siêu-thoát thì phải biết Tĩnh
tâm, tịnh thần mới mong nhập vào đại ngã.
* Tuy nhiên Tĩnh 靖 cũng là Tịnh 靖 vậy. Tịnh là sự yên-lặng
hoàn-toàn.
Qua bốn chiều không-gian
thì chữ Tịnh 靖 ở dưới cùng như nước lắng đọng trong lòng
giếng. Nhưng nếu được “giếng Nhân-Nghĩa” thì hạnh-phúc cho cuộc đời, bằng trái
lại gặp giếng cạn hoặc đục cũng không ơn ích gì!
Bà Đoàn-Thị-Điểm có dạy
phương tu trong Nữ Trung Tùng Phận rằng:
“Bế ngũ-quan không kiên tục tánh,
“Diệt lục trần xa lánh phàm tâm.
“Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
“Đọat phương tự diệt giải phần hữu sinh”
(Câu 1249-1252)
4 - Chữ Phi tượng Thất tình
Chữ 非 có nghĩa là không (0). Nếu chia làm hai phần bằng nhau, thì mỗi bên có 3
điểm: xem như âm dương, cao hạ, tức nhiên 3 tình: Hỉ, Ái, Lạc là ba thứ tình hướng
thượng được đề cao, ba tình Ai, Ố, Nộ là ba tình hướng hạ cần phải sửa đổi. Duy
tình Dục này đứng ở giữa, nghĩa là nếu biết đạo-đức thì nó dục lên, thiếu đạo-đức
nó dục làm điều quấy. Vậy người tu là biết xét mình để “sửa lòng trong sạch”. Nếu
dưới chữ Phi có chữ tâm thành ra chữ Bi 悲 là buồn, gọi là phi tâm. Tất nhiên người được gọi là phi tâm là một Đấng
cao cả như Phật Quan-Âm gọi là Đấng Đại-từ, Đại-bi, tức nhiên Bà là vị Phật có
lòng quảng-đại, Bà buồn trước nỗi buồn của chúng-sanh, Bà cứu khổ cứu nạn trước
khi chúng-sanh kêu cứu, còn chúng-sanh Bi là chỉ biết riêng đau khổ mà thôi.
Ngày nay Bà là một Đấng được
Đức Chí-Tôn chọn làm Nhứt trấn trong Tam Trấn Oai Nghiêm để nêu cao đức: BI,
TRÍ, DŨNG hầu đem lại thái-bình cho nhân-loại hưởng nhờ.
5 - Nghiệm về số
Các câu trên có các số chữ
ứng vào các con số thật là huyền-diệu. Thử giải lý một vài con số tượng-trưng:
Cả thảy có 5 câu ứng với Ngũ-hành.
Câu 1: có 1 chữ “Thầy” ứng
với ngôi Thái-cực
* 4 câu sau ứng vào Tứ-tượng.
* Câu hai có 4 chữ, câu ba
có 5 chữ, ấy cũng là phương tu của Đạo Cao-Đài, mà Tân-Luật đã qui định về đạo
nhơn-luân:
- Nữ thì Tứ-đức, Tam-tùng
là tùng phu, tùng phụ, tùng tử và Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
- Nam phải giữ Tam-cang
Ngũ-thường là nguồn cội Đạo ấy là Hiếu, Đễ, Trung-Tín, Lễ-Nghĩa, Liêm-Sĩ.
* Câu bốn có 5 chữ, câu
năm có 4 chữ ấy là về Đạo-pháp là: Hễ nhập môn rồi phải trau-giồi tánh hạnh, cần
giữ Ngũ-giới-cấm và Tứ-đại-điều-qui.
Tóm lại:
Nếu so-sánh với các lời dạy
trên thì:
Câu 1: có 1 chữ, ứng ngôi
Thái-cực.
Câu 2: (4chữ) là gái gìn Tứ-đức
(tứ âm)
Câu 3: (5chữ) là Nam giữ
Ngũ-thường (ngũ-hành âm)
Câu 4: (5chữ) là tu-hành
thì giữ Ngũ-giới-cấm. (ngũ-hành dương)
Câu 5 (4chữ) phải biết
tôn-trọng Tứ-đại-điều-qui (Tứ dương)
Những con số ứng hiệp trên
tạo thành một Bát-quái Đồ-thiên, đồng thời còn ngụ cả một nguồn Giáo-lý cao
siêu của nền Đại-Đạo.
Tại sao có lời dạy
nghiêm-mật ấy?
Bởi “Đạo Thầy là nền Đại-Đạo
do chính Thầy đến lập là Đấng Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, tá danh Cao-Đài
Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma-Ha-Tát. Ngài đến giáo Đạo tại Nam-phương, xưng mình là
Thầy, kêu cả toàn Môn-đệ là con cái của Ngài”.
Thầy dạy: “Phải chung lo
cho danh Đạo Thầy. Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho
nhau đặng thế lực, đừng ganh-gỗ nghe!. Các con phải giữ phận làm vừa ý Thầy muốn.
Ngày sau sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy”.
6 - Lý Dịch trong lời dạy
Trước nhất thấy rằng đây
là một bài cơ của Đức Chí-Tôn giáng dạy ngắn nhứt. Giản-dị nhứt và cũng sâu-sắc
nhứt. Câu “giản-dị nhi đắc thiên lý” đúng vào trường-hợp này vậy.
Nếu đếm vào số chữ thì chỉ
có 5 câu ứng với Ngũ-hành.
Câu đầu chỉ có một chữ “Thầy”,
số 1 đó là ngôi Thái-cực, vi-chủ là Thầy, là Thượng-Đế. Vì:
“Thầy là Chúa cả Càn-Khôn
Thế-Giới, tức là chúa tể sự vô-vi, nghĩa là chủ-quyền của Đạo, mà hễ chủ-quyền
của Đạo nơi nào thì là Đạo ở nơi ấy.”
Câu 2 và 3 hiệp lại thì bằng
số chữ câu 4 và 5 hiệp lại và bằng (4chữ +5 chữ)=9 chữ, tức là hai con số 9
(99) gọi là “cửu cửu”.
Điều này Đức Trạng-Trình
cũng có nói trong Sấm-ký rằng “Cửu cửu càn-khôn dĩ định. Thanh-minh thời tiết
hoa tàn”.
Tất nhiên con số 9 có một
giá-trị nhiệm mầu trong lý Dịch, phi thời-gian.
Nay là buổi cuối Hạ-nguơn
Tam chuyển sắp bước vào Thượng-nguơn Tứ chuyển, nó ứng với chữ “thanh minh thời
tiết hoa tàn” Đức Chí-Tôn mới mở Đạo đồng thời “bày tất cả bửu-pháp” để chuẩn bị
cho mùa hoa Đạo nở. Đó là định-luật.
Lại nữa, về lý Dịch thì
khi các quẻ kép đặt theo chiều xuyên tâm đối có tổng-số là 99.
Ví dụ Bát-Thuần-Kiền sẽ là
11 hiệp với Bát-Thuần-Khôn 88 sẽ có tổng số là 99. Tương-tự như vậy có đến 32 cặp
âm dương đều có tổng-số là 99 như thế (sẽ bàn sau). Về đất nước thì Đảo Phú-Quốc
có 99 hòn tất cả, có phải là sự ngẫu nhiên chăng?
4 câu sau gọi là Tứ-tượng,
nhưng hiệp lại chỉ còn hai vế ứng với lưỡng-nghi, từ đó mới trở về Thái-cực là
1 chữ (Thầy).
Ngoài ra cũng nói rằng
chính trong bài Thánh-giáo này gồm đủ 4 Bát-quái mà Thầy nắm quyền vi chủ.
1/ - Thứ nhứt là Bát-quái Tiên-thiên
Căn-cứ vào bài Kinh
Thích-Giáo:
Hỗn-độn Tôn-Sư.
Càn-Khôn chủ-tể.
Qui thế giái ư nhứt khí
chi trung.
Chính những số trong bài
Cơ khi phân-tích ra có đủ yếu-tố cho một Bát-quái Tiên-thiên, vì đây là “Nhứt bổn
tán vạn thù” cho nên hai quẻ Càn Khôn nằm trên trục đứng của Bát-quái, phân ra
âm dương rõ-rệt đó là Thái-cực sanh Lưỡng-nghi… Như lời Thầy đã dạy trong
Thánh-ngôn:
“Thầy đã nói với các con rằng:
Khi chưa có chi trong Càn-Khôn Thế-Giới thì Khí-Hư-Vô sanh có một Thầy và ngôi
của Thầy là Thái-cực. Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi phân ra Tứ-tượng,
Tứ-tượng biến Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn-Khôn Thế-Giới”.
2/ - Bát-quái Hậu-thiên
Là giai đoạn thứ nhì. Qua
bài Kinh Tiên-Giáo Tâm Kinh, bởi câu:
Nhị ngoạt thập ngũ,
Phân tánh giáng sanh.
Nhứt thân ức vạn.
Diệu-huyền thần biến.
Đây là nói đến Đức Lý Lão-Quân
là người đã có lần vào thư viện nhà Châu khám phá được Bát-quái, tức là
Bát-quái Hậu-thiên của Văn-Vương. Sách nói rằng Ngài không cha, chỉ có Mẹ, Mẹ
Nàng tên là Ngọc-Nữ, khi ăn phải quả Lý chín đỏ liền mang thai lúc Nàng mới lên
8 tám tuổi. 72 năm sau mới sanh bằng cách nứt nách ra thì tóc đã bạc nên đặt
tên là Lão-Tử. Không ai biết Ông mất năm nào và thân thế ra sao. Sau cùng thì
ngày Vía của Ngài là 15 tháng 2 âm-lịch.
Các con số đã trình bày
trong bài Cơ cũng đủ cho một Bát-quái Hậu-thiên, tức nhiên qua bảng ma-phương-số
thì tất cả các số cộng lại là 15
Và các quẻ trong Bát-quái
này chia làm hai phần Âm dương rõ-rệt, là con số 2 ứng với Bát-quái này
3/ - Bát-quái Đồ-thiên
Đây là giai-đoạn thứ ba là
hình ảnh của Bát-quái Đồ-thiên, ứng với lời Kinh Nho-Giáo qua câu:
Quế hương nội điện.
Văn Thỉ thượng cung.
Cửu thập Ngũ hồi,
Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố.
Lời Kinh rằng: Trên cõi
thiêng-liêng có một Toà nhà lớn gọi là Điện Quế Hương, trong đó có một Cung ở
bên trên hết gọi là Cung Văn-Thỉ. Đó là nơi thường ngự của Đức Khổng-Tử,
Giáo-chủ Nho-giáo. Ngài đã 95 lần đến với thế-giới này để truyền dạy bằng những
kinh sách báu.
Thật ra con số 95 này chỉ
là con số biểu tượng để nói lên lý Dịch nhiệm-mầu của Bát-quái Đồ-thiên mà Đạo
Cao-Đài đang xử dụng.
Nhìn vào Bát-quái Hậu-thiên
thấy trước nhứt là trục đứng Nam Bắc. Chính Nam là quẻ Ly số 9 (Cửu). Hai trục
Nam Bắc, Đông Tây tạo thành hình chữ thập 十 Giữa Bát-quái này có số 5 là số ngũ gọi là ngũ trung. Những yếu-tố này làm
nên Bát-quái Hậu-thiên của thời Văn-Vương, nhưng ngày nay Đức Khổng-Thánh đến
trong ngươn hội Cao-Đài Ngài tượng trưng cho Thánh giáo. Cơ chuyển thế và Cứu
thế trong buổi Thượng-ngươn này Đức Chí-Tôn đã chuyển Bát-quái Hậu-thiên thành
Bát-quái Đồ-thiên quay theo chiều nghịch với chiều kim đồng-hồ; đó là con đường
trở về, gọi là Phản bổn hoàn nguyên, Kinh gọi là hồi. Trong câu Cửu thập Ngũ hồi
là ý-nghĩa ấy.
4/ - Bát-quái Hư-vô
Đấy là con đường vận-hành
của lý Đạo “Vạn thù qui nhứt bổn” tức là con đường trở về. Trở về đâu? Trở về với
Đại ngã.
Như thế thì tất cả đều có
định-luật và phải đi vào đinh-luật của nó mới còn tồn-tại.
Đây là ứng với lời Kinh
trong bài Ngọc-Hoàng-Kinh, qua câu:
Tiên-thiên, Hậu-thiên.
Tịnh dục Đại-Từ-Phụ.
Kim ngưỡng, cổ ngưỡng.
Phổ tế tổng pháp tông.
Lời Kinh dạy rằng: Trước
khi tạo dựng trời đất hay sau khi tạo dựng trời đất, Đức Chí-Tôn là Đại-Từ-Phụ
của toàn cả chúng-sanh, nuôi dưỡng chúng-sanh đồng đều như nhau. Xưa cũng như
nay, tất cả chúng-sanh đều hết lòng ngưỡng vọng. Ngày nay Đức Ngài đến để thống
nhất cả nhơn-loại thành một mối dưới sự dạy-dỗ, nuôi-nấng của Ngài, tức là đưa
chúng-sanh về qui-nguyên-vị.
Thầy có dạy:
“Thần là khiếm khuyết của
cơ mầu-nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập "Tam-kỳ Phổ-độ" nầy duy Thầy cho
Thần hiệp Tinh-khí đặng đủ "Tam-Bửu" là cơ mầu-nhiệm siêu phàm nhập
Thánh.
Các con nhớ nói vì cớ nào
thờ con mắt THẦY cho chư Đạo Hữu nghe.
Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên
Phật từ ngày bị bế Đạo, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song
Thiên-Đình mỗi phen đánh tản "Thần" không cho hiệp cùng
"Tinh-Khí".
Thầy đến đặng hườn nguyên
Chơn-thần cho các con đặng đắc Đạo. Các con hiểu "Thần cư tại Nhãn".
Bố trí cho chư Đạo-Hữu con hiểu rõ. Nguồn-cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.
Thầy khuyên con mỗi phen nói Đạo hằng nhớ đến danh Thầy”.
Xem thế thì qua bốn
Bát-quái là gồm đủ các lý Đạo trong một bài Cơ tuy ngắn-ngủi nhưng đã nói lên
tinh-thần của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chơn lý chánh truyền.
Kết-luận:
Qua ba đề bài trên xác-nhận
rằng tất cả các bài thơ, bài văn, cho đến lời dạy thân thương nhất, đâu đâu
cũng thể hiện một lý DỊCH siêu mầu. Dịch như vải áo còn Đạo Cao-Đài như cái áo.
II - ĐỊNH-LUẬT CỦA CÀN-KHÔN VŨ-TRỤ
Thầy dạy:
“Thầy lập càn-khôn vũ-trụ
không ngoài những định-luật bất di bất dịch, dù một hột cát hay một hột nhỏ nhất
của nguyên-tử (nguyên-tử cũng không phải là nhỏ nhất đâu, sau này sẽ thấy) cho
chí đến vũ-trụ mênh-mông bao la cũng đều cùng chung qui tắc luật định hết.
Phép định vũ-trụ bao-la ra
sao thì phép định cấu-hợp hạt cát hay nguyên-tử cũng y như vậy. Vì thế mà Đạo-gia
thường gọi nhân thân là tiểu thiên địa là vậy. Như thế thì bất cứ vật gì ở trên
trời đất này đều có định-luật của nó. Không vật gì là không có, dầu cho vật hữu-hình
hay vô-hình cũng thế. Nhưng vô-hình với hữu-hình là chi
Cũng chỉ là một, là duy nhất,
là lý tuyệt đối.
Đời chỉ thấy những gì trước
mắt thì gọi hữu-hình, cái gì không thấy thì gọi vô-hình, như vậy là còn mê-muội
lắm. Trước mắt Thầy không chi gọi có cũng chẳng chi gọi không, là vì hai danh-từ
ấy vốn không có thật. Luật vốn thường tồn bất biến, cái bản thể của sự vật là
nhiên nhiên bất dịch, bất hoại nhiệm-mầu, năng minh năng ẩn tấn hóa mầu-nhiệm.
Sinh vật phải đi trải từ
muôn triệu kiếp sanh, từ muôn triệu chỗ phát sanh để mỗi nơi thấu đáo một phần,
rồi đến ngày giờ mới chuyển lại huờn nguyên mà phục hồi nguyên tánh, để rồi
luân luân chuyển chuyển nữa cho thấu-đáo huyền-vi của càn-khôn vô tận. Sự
luân-chuyển ấy vốn vô cùng ngàn đời kiếp kiếp không biết sao mà lường thấu được,
vì vậy mà chưa một chơn-linh nào dù cao siêu đến đâu thấu-đáo thật tận cùng.
Chính Thầy là Chúa-tể
càn-khôn Thầy còn chẳng tự-hào rõ biết hết thay. Cũng vậy, chư Phật dù cao-trọng
thế mấy cũng chưa thế hiểu rõ được Thầy. Cười!.. Cái hiểu biết của các Đấng ấy
như gáo múc đại-dương, chưa hề thấm-thía chi. Vũ-trụ có vạn vạn muôn muôn đường,
đi hoài vẫn không sao hết. Con nói Thầy là Cha cả mà chẳng tu sao? Cười… Thầy vẫn chung chịu trong định-luật ấy. Nhưng là kẻ có trước hết tất cả
nên biết trước tất cả các con. Muôn triệu kiếp sau các con cũng tiến-hóa như địa-vị
Thầy, nhưng con nào biết tu tức là đi đường tắc, rồi về thiêng-liêng ngồi ở
liên-đài vận hành chơn-pháp học hỏi thêm, cũng như kẻ biết khôn đi đến giữa đài
đứng trên ngó xuống thì thấy vạn-vật dưới đất nhiều hơn là kẻ chỉ đi
loanh-quanh làng này đến xóm kia mà tìm học từng cái nhà, từng hột cát thì con
thử nghĩ lâu hơn kẻ khác là dường nào!
Vũ-trụ mênh-mông vô hạn định
chưa biết đâu là bờ bến. Ngoài vũ-trụ này lại còn có cả muôn vũ-trụ khác chứa đựng
trong khối mênh mông vô cùng, nghĩa là một vòng tròn chứa đựng trong một vòng
tròn, một ánh sáng chứa đựng trong một ánh sáng vô biên.
Nhưng làm thế nào để Thầy
điều-khiển được hết? Cũng không có chi lạ, ấy là nhờ những định-luật
thiên-nhiên bất di bất dịch, cũng như cái lưới vãi chài, dầu có bao nhiêu đường
tơ đi nữa, khi vãi ra thấy rườm-rà mà biết nắm mối thì phăng lên cái một. Kẻ biết
nắm mối là kẻ nắm huyền-pháp đó. Huyền-pháp là cái phép nhiệm-mầu sâu kín chớ
có chi khác lạ đâu. Huyền-pháp vốn cũng nhiều bậc, nhiều từng, cái này phải chịu
hệ-thống của cái kia, cho nên thấy nói có pháp cao, pháp thấp là như vậy đó. Kẻ
nắm được pháp tối linh là làm Thầy thiên-hạ và cả càn-khôn. Còn ấn, pháp, bùa,
chú chẳng khác nào những công tắc điện để mở những nút dây điện khắp nơi. Phải
có bình chứa điện cho đầy thì khi mở ra điện kia mới chạy, nếu không dầu mở
cũng chẳng ích chi, nên Đạo-gia nói tu đắc Đạo là đoạt hết cơ mầu-nhiệm
thiêng-liêng đó. Chỉ nói như vậy thôi chớ chưa phải đoạt hết đâu. Chưa ai đoạt
hết nỗi đâu, chỉ thầu-đáo một phần là quí lắm; nhưng cũng đủ quyền-lực sửa trị
một khu vực, một tiểu càn-khôn, một nhóm hành-tinh hay một trái địa-cầu có người
ở, nhỏ hơn nữa là cai-trị một nước, một tổng, một làng. Bởi vậy tu thân là gốc
tức là tập nắm cơ mầu-nhiệm gần nhất chính là ở thân mình. Kẻ có căn Đạo mới tu
thành là vì sao? Là vì phải đi trước lo làm ruộng có lúa cho nhiều đời này qua
kiếp khác, lựa giống nào tốt đem để trong kho cho sẵn. Chứa chất thật nhiều
ngày cho đầy cả nguyên kho rồi khóa lại đó. Đến chừng gặp việc thì mở cả nguyên
kho ra dùng như vậy nó mới có. Chớ kẻ không tạo thì dầu có mở kho ra sớm cũng rỗng
không nào có ích chi.
Vì thế luật luân-hồi quả
báo là bài học hay cho các đẳng chơn-linh. Chơn-linh nào khôn ngoan không xài
phí hết lương tiền thì có của dư chất ở trong kho tất kho mau đầy. Đó là những
chơn-linh mau tấn-hóa. Chơn-linh nào ngu muội thì làm hoài vẫn thiếu nợ hoài
làm sao có của dự-trữ.
Bởi vậy Đạo khai là cốt để
dạy-dỗ cho các chơn-linh học hỏi phương tu tiến ấy.
Con coi không một vật gì ở
vũ-trụ này mà không có Đạo. Nó là cái định-luật hiển-nhiên sẵn có, duy có kẻ biết
đến cùng chưa biết đến mà thôi. Như không-khí các con thở dù kẻ không biết rằng
có nó thì họ vẫn thở. Nhưng việc nào mình không thấu-đáo thì chậm tiến vậy
thôi.
Pháp Đạo thật rất nhiệm-mầu
không sao mà giải cho hết lý được, duy chỉ đến trình-độ cao sâu đến đâu thì thấu-đáo
được đến đó vậy thôi.
Kẻ không biết Đạo sa mê vật-chất
chẳng khác nào như khách lữ-hành kia đi du-lịch mà cứ mảng lo hái trái ngắt
bông ở một góc rừng thì đời nào cho biết được nhiều điều cao xa? Đó là đại khái
của cơ mầu-nhiệm thiêng-liêng.
Riêng về BÁT MÔN ĐỘN GIÁP
cũng có nhiều cấp bực khác nhau, bực thấp và bực cao. Bực thấp thì làm thầy bói
toán, biết những việc trần-gian, bậc cao thì rõ thấu càn-khôn.
Thầy dạy cho con biết rằng
vạn-vật hữu sanh hữu hoại đều có số định của nó.
Tỷ như mình thấy cây bông
trồng ở đất xấu thì có thể đoán là bông của nó xấu và biết là người trồng thiếu
kỹ-lưỡng chăm-nom, ít phân kém nước.
Phép học thì do
nguyên-nhân mà suy ra kết-quả rồi lại từ kết-quả suy nguyên-nhân khác, cũng lại
do kết-quả đã có mà luận lại nguyên-nhân trước. Nó như một sợi dây xích nối
chuyền hoài không ngưng không dứt.
Trời, đất, người, vạn-linh,
sanh-chúng cũng đồng nguyên-lý ấy, duy mỗi loài có thêm những định-luật riêng
khác nữa.
Tỷ như thấy mưa thì biết độ
bão-hòa nơi đó đã có, có mưa tất có nước, có nước tất có sông biển, có sông biển
tất sẽ có mây, do mây sẽ kết tụ thành mưa nữa.
Vạn-vật nếu gặp duyên thì
kết, không gặp thì tan, luân-lưu khắp cùng các cõi tùy theo tính chất của chúng.
Bởi vậy không vật chi là không có định-luật sẵn, nhưng luật như một cái khuôn,
còn sự vật như bột, đường. Tuy là khuôn như vậy nhưng cũng còn tùy tay thợ hay
khéo mà nắn thành hình. Như trái đất xoay quanh hệ-thống thái-dương-hệ, mà nó
xoay quanh tự nó. Nó cũng có định-luật riêng, làm thế nào cho chẳng tương-tàn,
tương-diệt lẫn nhau.
III - CÁC CON SỐ LẬP THÀNH ĐỂ
LÀM TƯỢNG-TRƯNG
Đặc tính:
“Số 0 là cơ-quan hư-vô bổn
thể. Số 0 là con số vô thủy, tức là không có chi trước nó hết. nó là số chúa của
chúa cả vạn-vật. Chính trong không mà sinh ra vạn hữu, nên nó hợp với số nào thì
làm cho số đó tăng tiến thêm lên. Nó là cái vòng bao bọc tượng-trưng chủ cả cái
hữu-vi vạn vật này.
Số 0 là số vô-vi, nó có
tính-chất trung-tính, nhiệm-yếu, hiền-hòa, sáng-suốt.
Vật mang số 0 là vật
trung-dung, nhậm lẹ, không khuynh-đảo nhưng chưa tiến-hóa. Người mang số 0 là
người lưỡng tính, phần tấn-hóa chưa nhiều.
Số 0 chỉ năng-lực tiềm-ẩn
nhưng chưa phát triển đúng mức.Nhưng khi một vật chi được thử về 0, ấy về lẽ Đạo;
nhưng qui cơ tịnh-lặng hoàn toàn, được gặp nhiều chân phúc quí báu. “Không
không ấy thiệt lý trường sanh” biến dịch vòng quanh thành nhiều bản thể.
Số 0 sẽ là cơ khởi đầu
cũng như là cơ chót hết, nó tiếp nối giữa hai đường tấn-hóa và qui-nguyên. Hai
đầu tấn-hóa và qui-nguyên nó ở giữa làm mấu chốt.
Số 0 vốn gồm nhiều cơ bí-mật
cần phải tìm phương giải đáp.
Số 0 chỉ vật cực đại như
vũ-trụ bao la vô cùng tận mà không chi ở ngoài nó, đồng thời chỉ vào một vật cực
tiểu cũng không vật chi chứa đựng bên trong nó được.
Số 1 là số đầu tiên sau số
0, tức là cái nguồn sanh-hoạt trước nhất để biến vi hữu tướng.
Số 1 là số động, nó vốn là
lý Thái-cực suy ra nên nó huyền-diệu, nhiệm-mầu, hiện biến, nên Đạo-gia nói
“Thiên đắc nhứt linh, địa đắc nhứt minh, nhơn đắc nhứt thành”.
Ngôi số 1 thuộc về ngôi Phật,
chủ quyền cai-trị và giáo-hóa vạn-linh.
Số 1 thuộc bản thể hư-linh
sản-xuất nên có quyền thống-trị cả càn-khôn. Ta thấy là bất cứ ở đâu có 1 vi-chủ
là quyền ấy toàn vẹn, còn nhiều chủ thì sanh phân tán, nên số 1 chỉ một uy-quyền
tuyệt-đối. Người mang số 1 là người có đầy-đủ đặc-tính can-đảm, ý-chí siêu-việt
nên ảnh-hưởng của ngôi Thái-cực hóa sanh”.
Số 2 là số biến-hóa do số
1 mà ra. Một biến thêm 1 nữa thành 2.
Số 2 là số tịnh, ấy là cơ
âm dương thuộc về Pháp. Pháp là tương liên nên phải nhỏ-nhẹ, mềm-mỏng. Ta thấy
một bà Mẹ hiền-từ, ưu-ái, dịu-dàng. Số 2 chỉ vào lẽ ấy. Tóm lại số 2 chỉ cơ hòa-hợp
âm dương.
Số 3 là do số 1 và 2 hỗn-hợp
lại mà biến ra 3. Ba tức là cơ-quan hữu tướng cùng vô tướng hiện có ở càn-khôn
vũ-trụ này.
Số 3 là số nửa tịnh, nửa động.
Nhưng phần động nhiều hơn. Số 3 chỉ cơ biến tướng và vi-chủ vật loại thuộc quyền
Tăng. Số ấy có đặc-tính năng động, biến đổi. Vạn hữu mang số 3 thì chất nóng nảy
nhưng vì có phần tịnh nên cũng biết dung hòa.
Số 3 là cơ-sở của Tam thể:
Phật, Pháp, Tăng, nên nó vừa có năng-lực huy-động mà cũng vừa có năng-lực
dung-hòa. Vật nào có số 3 là vật ấy thuộc bản thể cứng rắn, nhiều hoạt-động, ít
may-mắn; dễ thành nhưng mau bại.
Tuy nhiên con số 3 có tính
cách phổ-thông lại mầu-nhiệm, huyền-diệu vô cùng.
Sau hết nên bàn về lý “Tam
ngôi nhứt thể” tức là sự vận-chuyển của càn-khôn thế-giới.
Số 4 là cơ-quan hữu tướng
biến hình, tức là âm dương biến sanh. Nho-gia gọi là Lưỡng-nghi sanh Tứ-tượng
là vậy. Số 4 cũng có nghĩa là 1+3, tức là do lý Thái-cực điều-hành với ba ngôi
vạn hữu, nên hễ đến 4 là biến-hóa ra rồi.
Số 5 là do 1 và 4 kết
thành hay là 2 và 3 hiệp lại. Hai ấy là âm dương, 3 ấy là ba ngôi chủ tể đầu
tiên của vạn hữu. Số 5 tức là càn-khôn đã an-vị rồi, xong xuôi hết, đã sắp đặt
đâu đó có thứ tự an-bày.
Số 5 là số ở giữa 10 con số,
tức là số tiêu biểu sự thăng-bằng, trung chánh, không nghiêng lệch, dương không
thái-quá, âm không bất cập. Vừa-vặn dung-hòa nhau mới có thể cấu-tạo thành bào
thai được.
Các Thánh bên Á-đông dùng
con số 5 để tóm thâu tất cả các lý lẽ cao sâu, huyền-bí của tạo-hóa và sự cấu-hợp
của muôn vật lại, có cả sự dung-hòa để duy-trì sự cần-thiết tức là con số
thiêng-liêng bao gồm cả một lý-thuyết tinh-vi của thiên-lý.
Số 6 do lý Thái-cực hợp với
cơ-quan an-vị này (1+5=6); cũng có nghĩa là Lưỡng-nghi hợp cùng Tứ-tượng (2+4)
nghĩa là hai lý âm dương đun đẩy nhau để biến sanh những cái đã sanh ra. Nó
cũng có nghĩa là 3+3 tức là ngôi đầu tiên hỗn-hợp nhau để hóa thành ba ngôi nhỏ
nữa; cũng có nghĩa là 3x2 tức là tam ngôi ở cấp bực thứ nhì do luật âm dương biến
tướng với ba ngôi đầu tiên.
Số 7 là số ngưng kết do
1+2+4 tức là Thái-cực cộng Lưõng-nghi và Tứ-tượng. Thái-cực là dương, Lưỡng-nghi
là cơ biến tướng, Tứ-tượng là cơ sanh-hóa. Nhưng cơ biến tướng và cơ sanh-hóa
chạm nhau lại khắc nên số 7 trở thành số riêng biệt không có biến động; có
nghĩa là trong trạng thái yên-tĩnh ngừng nghỉ. Nên nó cũng ám chỉ vào thể âm. Số
7 cũng chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình; trong thân người là thất khiếu ở trên
đầu. Số 7 ấy tức là 3 ngôi cọng 4 biến; hay là 1+2+1+2+1 nên vô cực là vi-chủ.
Số 8 là do 1+7 mà thành tức
là lý Thái-cực đã phát động để biến sanh cũng như âm dương đã phối-hợp vào nhau
để biến sanh thêm nữa.
Số 8 ấy là Bát-quái có nghĩa là 4x2. 4 là cơ chuyển biến, 2 là cơ âm dương. Cơ chuyển biến phát động trên cơ âm dương
nên nó huyền-diệu nhiệm-mầu thay thay đổi đổi. Tuy vậy nó cũng chưa thật toàn
năng, cũng như lý Thái-cực chưa soi thấu vào âm-quang hữu tướng hữu vi.
Nó cũng có nghĩa là 3+5 là
tam ngôi cọng ngũ khí, cơ mộc dục vận-hành trong trạng-thái tĩnh.
Số 9. Phải đợi đến 9 là cơ
huyền-diệu nhiệm-mầu, huyền-diệu hơn hết là số đó. Nó là cơ chuyển biến đến mực
độ tận thiện tận mỹ, toàn năng, toàn tri.
Nó là 1+8 tức là cơ vận-hành
trong trạng thái tĩnh được lý Thái-cực thúc đẩy thêm cho nên năng-tri sáng-suốt.
Nó cũng là 3+6. 3 và 6 là
hai lý nhiệm-mầu và đều ở trong trạng-thái động
Nó cũng có nghĩa là 3x3
hay 3 bình phương là cấp bực tam ngôi biến-hóa, vận-hành suốt thông trời đất. Đến
số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến
9 rồi trở về 0 là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.
Số 10 là 9+1 tức là số hiền-hòa,
lặng-lẽ, an-bình, đầm-ấm.
Số 12 là số đặc-biệt tức là 9+3. 9 là cơ vận chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận huyển tức là cơ qui
nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là chủ-tể càn-khôn vũ-trụ,
nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.
Nếu cộng lại là 1+2= 3 tức
là ba ngôi đầu tiên.
Nếu tính theo hàng là 1 và
2 tức là lý Thái-cực đứng trước luật âm dương thì thấy rõ quyền-năng chưởng-quản
trong đó. Vì thế Thầy nói chi chi cũng có luật định, không vật chi ngoài quyền
sở định của tạo-hóa hết”.
IV - TAM NGÔI NHỨT THỂ
Tam ngôi tức là ba ngôi:
PHẬT, PHÁP, TĂNG.
Hay là Thái-cực, Lưỡng-nghi,
Tứ-tượng (Nho-giáo).
Hoặc nguơn: Thánh-đức, Tấn-hóa,
Bảo-tồn.
Đó cũng là lý Tam ngôi: Đức
Chúa, Thánh Cha, Đức Chúa con và Chúa, Thánh, Thần bên Công-giáo.
Đó là Tam ngôi nhứt thể mà
các triết-gia của Tôn-giáo nào cũng có thể hiện ba ngôi ấy cả. Còn nhứt thể tức
là cùng chung một bản thể gồm về duy nhứt, là một.
Trong thân người ấy là
TINH, KHÍ, THẦN.
Ở vạn-vật ấy là vật-chất,
khí thể và năng lực.
Mỗi mỗi vật thể đều có ba
ngôi ấy cả. Thầy nói cơ tạo-đoan càn-khôn vũ-trụ ra sao thì trong vạn-vật cũng
tương-liên như vậy, cũng một khuôn-khổ, một luật-định như nhau hết.
Trên hết cả là Phật, ấy
ngôi đầu tiên cao thượng hơn hết nắm pháp huyền-vi.
Phật mới chiêt tánh ra
Pháp ấy là ngôi thứ nhì.
Pháp mới sanh Tăng. Tăng ấy
là ngôi thứ ba. Ba cơ-quan ấy chừng qui nhứt lại thì duy chỉ có một nguyên-căn,
một bổn thể cho nên gọi là Tam ngôi nhứt thể là vậy.
Trong vũ-trụ Chúa cả tạo-đoan
là Thầy nắm cả huyền-vi bí-mật trong tay. Thầy mới phân tánh Thầy ấy là Pháp.
Pháp tức là quyền-năng của Thầy thể hiện ra, cũng như lý Thái-cực ở trong cõi tịnh,
rồi từ trong cõi tịnh lý Thái-cực phát động mới sinh ra Pháp. Pháp tức là những
định luật chi-phối cả càn-khôn, mà người nắm luật chi phối ấy là Phật-Mẫu.
Sao gọi là Phật-Mẫu?
Phật-Mẫu là Mẹ, là gốc
sanh ra vạn-vật. Phật-Mẫu nắm cơ hữu tướng, Phật-Mẫu là âm, còn Thầy là dương.
Âm dương tương hiệp mới biến càn-khôn, cả càn-khôn ấy là Tăng, mà người nắm quyền
vi-chủ của Tăng ấy là một vị Phật cầm quyền thế-giới.
Phật và Pháp không biến đổi,
còn vị cầm quyền thế-giới là Tăng ấy thay đổi tùy theo thời kỳ:
- Tỷ như hồi Nhứt-Kỳ Phổ-Độ
cầm quyền vi chủ là Nhiên-Đăng Cổ-Phật.
- Đến Nhị-Kỳ Phổ-Độ là
Thích-Ca Như-Lai.
- Qua Tam-Kỳ Phổ-Độ ấy là
Di-Lạc-Vương Phật. Hết Tam-Kỳ Phổ-Độ thì nguyên-căn qui nhứt trở lại mở Nhứt-Kỳ
Phổ-Độ nữa, sẽ có vị Phật nữa ra đời cầm quyền vi chủ, định-luật càn-khôn. Đó
là cơ-quan quản-trị càn-khôn vũ-trụ.
* Còn ở vạn-vật là cơ-quan
vô-hình, bán hữu-hình và hữu-hình hay là linh-tâm, khí thể và xác thân.
* Ở nơi người thì gọi là
Thần, Khí và Tinh là cơ-quan vô-hình hay linh-tâm hoặc Thần tương-liên với Phật.
Cơ-quan bán hữu-hình hay khí thể tương-liên với Pháp. Cơ-quan hữu tướng hay
Tinh tương-liên với Tăng.
* Ở trong vật-chất Thần vốn
là năng-lực thúc đẩy cho tiến-hóa tức cái sống của vạn-vật do nơi Phật, đó là
linh-tâm còn tàng-ẩn ở vạn-linh nên Thầy nói cái sống tức là Thầy.
Cái năng-lực hóa-hợp và
tan biến, đổi chất thay màu ấy thuộc về Pháp.
Hình thù vật-chất thuộc về
Tăng. Nên Thầy nói vạn-vật các con tưởng là vô tri mà kỳ thật có tánh linh
trong đó. Tỷ như một hột giống tuy chưa đem ra trồng mà nó có chứa cả nguồn gốc
sự sống trong đó…
Từ vật tế-vi của tế-vi
nguyên-tử đến cả càn-khôn vũ-trụ đều có sự kết-hợp mật-thiết liên quan nhau,
không một vật gì ngoài luật-định cả.
Do lý Tam-ngôi nhất-thể mới
định phân Tam-giáo, mới có Tam-nguơn. Do lý ấy mới có Tam-bửu của càn-khôn.
V -
TAM-BỬU là gì?
Theo nguyên-căn sản-xuất của vạn-vật có ba món
báu ấy là: lửa, nước, gió. Ánh Thái-cực là Hỏa (lửa)
Tam-giáo ấy là Phật, Tiên,
Thánh. Phật là Tôn-giáo nguyên-thủy. Khi khai trời đất Phật là Tôn-giáo có trước.
Như thế: Cơ-quan quản-trị
gồm có ba ngôi là: Phật, Pháp, Tăng.
Phật cầm quyền-năng của
chơn-linh, Pháp cầm quyền-năng của khí thể, tức là cơ sản-xuất hữu-hình, cầm
quyền sự sống của vạn-loại vì khí thể là chất sanh vạn-vật và Tăng là cầm quyền
nuôi sống thể hài.
- Ngôi thứ nhất lo về sự tấn-triển
của chơn-linh, dạy-dỗ các chơn-linh cho cao-thượng để hiệp về cơ qui nhứt.
- Ngôi thứ nhì lo về sự
giáo-hóa chơn-thần, lo về cơ sản-xuất và nuôi sống vạn-linh.
- Ngôi thứ ba lo về cơ
cai-trị vật loại cùng là đùm bọc sự sống để đem trở lại cơ qui nhứt làm thế nào
cho điểm linh-quang đừng phải bị mờ ám trong cái xác hình.
Ngôi thứ nhứt ấy là giáo-hóa,
Ngôi thứ hai ấy là dưỡng-dục.
Ngôi thứ ba ấy là cai-trị.
Mỗi một sanh vật ở
càn-khôn vũ-trụ này đều chịu trong định-luật ấy, không một vật chi qua khỏi hết.
Luật tăng tiến thuộc Phật.
Luật sanh sống thuộc Pháp.
Luật quản-trị thuộc Tăng.
Một vũ-trụ hay một
chơn-linh dù cao trọng, dù hèn thấp cũng có nơi mình ba định-luật ấy để
dung-hòa lẫn nhau mới tạo ra cái sống của vũ-trụ càn-khôn.
Tỷ như một hột cát có sức
kết hợp, nó biết tìm lẽ hợp nhứt ấy là thuộc quyền-năng của Phật, nó có tan có
hiệp và biến chất ấy là thuộc quyền-năng của Pháp. Nó có xác hài của nó để phân
biệt vật nọ với vật kia để luân-chuyển nơi này, nơi khác; quyền-năng ấy thuộc
Tăng.
Về nguyên-lý hữu-hình và
vô-vi thì Phật thuộc vô-hình, Pháp thuộc bán hữu-hình, Tăng thuộc hữu-hình.
Phật và Tăng liên-kết nhau
nhờ Pháp làm trung-gian. Tăng nếu không nhờ Pháp thì khó đoạt Đạo mà trở về vị
cũ. Phật không nhờ Pháp thì khó truyền đạt những lời huấn-giáo xuống được cho
Tăng.
Trong vạn-vật vốn có ba phần:
năng-lực, khí thể và vật hình. Năng-lực thuộc Phật, khí thể thuộc Pháp, vật
hình thuộc Tăng.
Như trong một cây bông có
năng-lực hướng về ánh thái-dương, năng-lực ấy tương-liên với ngôi thứ nhất tức
Phật, nó có khí chất thơm tho ấy thuộc Pháp, nó có hình-thể đẹp-đẽ ấy thuộc
Tăng.
Trong một dòng nước, nó có
năng-lực mạnh-mẽ, uyển-chuyển luân-lưu ấy thuộc Phật, nó có tính bay hơi, ngưng
tụ ấy thuộc Pháp, nó có hình dáng ấy thuộc Tăng.
Trong thân một con thú: một
con nai hay con bò chẳng hạn, nó có sức hiểu biết khôn-ngoan ấy thuộc Phật, nó
có tính cảm-xúc hợp đoàn ấy thuộc Pháp, nó biết lẽ sống tự-nhiên tìm cái ăn uống
ấy thuộc Tăng.
Trong thân người cũng vậy. Kẻ biết tìm hiểu, tôn-sùng ấy thuộc Phật, biết
tìm-tòi hiểu biết lẽ khôn-ngoan, có tình-cảm thương ghét ấy thuộc Pháp, có khuynh-hướng thỏa-thích giác-quan ấy thuộc Tăng.
Vạn-vật cả thảy đều có cái
sống riêng của nó nên Thầy mới nói “Trước mắt Thầy không có vật chi khinh cũng
không có vật chi trọng và thật sự không vật chi gọi là gọi là vô tri vô giác.
Chẳng qua điểm chơn-linh ở trong vật thể này còn tiềm-ẩn, còn ở trong vật thể
kia đã được phát-triển vậy thôi”.
Cái lý Tam ngôi nhất thể ấy
chi phối, điều khiển cả vạn-linh.
Bởi vậy Đạo lập ra cốt yếu
cho cả chúng-sanh TU tức là làm sao cho đừng đi sai lạc chơn lý điều-hành vạn-vật.
Chơn-linh nào đi sai lạc chơn-lý ấy thì phải bị ĐỌA là vì vậy. Bởi vậy trong
Thánh-ngôn thầy trước kia có dạy: “Thánh-ngôn trong miệng con nói ra tức là của
Thầy, các con nói Đạo dù cho sắt đá, cây cỏ nghe cũng cảm động huống là người”.
Lời nói ấy không phải là Thầy nói ngoa. Ấy là vì vạn-vật vốn có tánh linh cũng
đều hiểu biết hấp-thụ lẽ Đạo, nên hễ nơi nào có Đạo thì nơi ấy vạn-vật được tận
thiện tận mỹ và tăng tiến một cách nhanh chóng. Con nghe đời thường nói sấu tu
thành cù, cá tu hóa rồng, lời ấy thật chưa phải là lời bịa đặt hay nói ngoa
đâu. Vạn-linh phải đi từ phẩm vật-chất lên đến người rồi mới đoạt vị thành
Tiên, Phật.
Cơ tấn-hóa buộc vạn-linh
phải đi xuống các tinh-cầu học hỏi, mang vạn mảnh thi hài từ vật-chất, thảo-mộc,
thú cầm cho đến loài người. Mỗi một kiếp sanh học một bài học mới-mẻ khác nhau.
Sanh linh đi hàng vạn kiếp như vậy, luân luân chuyển chuyển. Các con đã đặng
làm người là hệ-trọng. Tuy vậy mà đừng tưởng đã hơn vạn vật đâu. Không phải vậy
đâu. Ở tại thế gian này chưa biết một phẩm chúng-sanh nào trọng hơn phẩm nào.
Có khi trong thân hình con vật là một vị Bồ-Tát đang tái kiếp đặng tạo linh-đài
đó không chừng. Bởi vậy kẻ biết Đạo không dám sát sanh và không dám khinh rẻ một
vật nào cả...
Lý Tam ngôi nhất thể là lý
điều-hành vạn-linh. Do nơi ấy mới biến ra Tam-giáo, Tam-tài, Tam-nguơn, Tam-bửu,
Tam-kỳ…
Tam-giáo ấy là Phật, Tiên,
Thánh.
Tam tài ấy là Thiên, Địa,
Nhân.
Tam nguơn ấy là Thượng-nguơn,
Trung nguơn, Hạ-nguơn hay là nguơn Thánh-đức, Tấn hóa, Bảo-tồn.
Tam-kỳ ấy là: Nhứt kỳ, Nhị-kỳ,
Tam-kỳ.
Tam-bửu ấy là:
Nhựt Nguyệt Tinh (ở trời).
Thủy Hỏa phong (ở đất).
Tinh Khí Thần (ở người).
Năng-lực, khí thể, vật hình
(ở vật-chất).
- Phật thuộc về phần
giáo-hóa.
- Tiên thuộc về phần
nuôi-nấng, an-ủi.
- Thánh thuộc về phần
nuôi-nấng, cai trị.
Mỗi một phần trong các số
Tam ấy tương liên với nhau như:
Phật tương liên với thiên,
với thượng nguơn, với Nhứt-kỳ, với Phật, với Thần, với năng-lực… Pháp và Tăng
cũng tương-tự như vậy.
Ở trong mỗi sanh vật ba phần
ấy liên-hệ mật-thiết lẫn nhau. Đến như lập Đạo Thầy cũng chia ra: Bát-Quái, Hiệp-Thiên
và Cửu-Trùng-Đài cũng là lý Phật, Pháp, Tăng đó. Tóm lại trong vạn-vật đâu đâu
cũng thể hiện cái lý TAM NGÔI NHẤT THỂ ấy cả. Đấy là tượng TAM THẾ PHẬT trên
nóc Bát-Quái-Đài Toà-Thánh Tây-Ninh
TAM THẾ PHẬT
trên nóc Bát-Quái-Đài Tòa-Thánh Tây-Ninh
CHƯƠNG 7
TÂN PHÁP CAO-ĐÀI
I - Ý-niệm khái-quát
“Luật-pháp của Đại-Đạo là TÂN-LUẬT và PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN do Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng
huyền-diệu Cơ-bút giáng dạy để làm qui-củ chuẩn-thằng cho Hội-Thánh truyền
giáo.
“Diệt trừ mê-tín dị-đoan, bất nạp bóng chàng, phù
thủy, bởi Đạo dung-hòa mọi tín ngưỡng và tùy khả-năng tiến-hóa của mỗi hạng
người và phong-tục của mỗi địa-phương mà phổ-độ.”
Tân Pháp tức là Tân-Luật và Pháp-Chánh-Truyền đó
vậy.
Nếu hỏi Đạo mà còn phải có Pháp có Luật để làm gì?
“Thầy vì sợ phàm tâm tục tánh lập Luật pháp rất
nghiêm đặng đủ quyền-hành buộc cả Hội-Thánh, nghĩa là thân thể thiêng-liêng
hiệp hòa làm một”
“Về phần Đạo, thì trí thức tinh-thần nhơn lọai nhìn
nơi vô biên biết càn-khôn vũ-trụ tức là cơ tạo-đoan nó định luật cho khối người
thành ra Pháp chủ Luật, tức là Pháp có trước, Luật có sau, nên gọi là
Pháp-luật.
“Về cơ-quan đời, tức là cơ-quan xu hướng theo cái
sống, định luật được rồi mới tìm-tàng giải-pháp đặng thi-hành luật, định
pháp-hình để bảo-vệ luật; thành ra luật trước pháp sau, gọi là Luật-pháp.
Do đo mà Chí-Tôn vừa khai Đại-Đạo là đã lập ngay
Pháp-Chánh-Truyền, đồng thời dạy các Chức-sắc nhóm họp Hội-Thánh để lập
Tân-Luật. Gọi chung là Pháp-Luật Đại-Đạo.
1 -
Giá-trị của Tân-pháp Cao-Đài
Được minh-định trong bài Kinh Di-Lạc, kinh này được
xem như bản vi-bằng giao lãnh từ Phật Thích-Ca trao đến tay của Đức
Di-Lạc-Vương-Phật trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Nơi Cung Hỗn-Nguơn-Thiên có đoạn “nhược hữu
chúng-sanh văn ngã ưng đương thoát nghiệt: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng tùng
thị Pháp-điều Tam-Kỳ Phổ-Độ tất đắc giải-thoát luân-hồi đắc lộ đa-la tam diệu
tam bồ đề thị chi chứng quả Cực-Lạc Niết-Bàn” (Tức nhiên lời Phật dạy: nếu như
người nào biết nghe theo lời TA, sẽ tránh khỏi các nghiệt chướng, nghĩa là niệm
Phật (niệm danh Đức Chí-Tôn), niệm Pháp (niệm danh Phật-Mẫu) niệm Tăng (tùng
theo Hội-Thánh). Sự tùng theo nghĩa là làm đúng với “Pháp-điều Tam-Kỳ Phổ-Độ”
tức là pháp-luật của Đại-Đạo, thì giải-thoát được kiếp luân-hồi sanh tử, được
đắc vào vị tối thượng chánh đẳng chánh giác, ấy là chứng được quả vị Phật nơi
cõi Niết-bàn, Cực-Lạc Thế-Giới đó vậy)
2 -
Pháp-điều Tam-Kỳ Phổ-Độ là gì?
“Ấy là Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật tức là
Thiên-điều tại thế.
Đức Hộ-Pháp giải rõ:
“Muốn cho xã-hội loài người trong thế-giới này đạt
được mức quân-bình tuyệt-đối thì phải có sự công-bình được lập lại bởi cán cân
công-lý, mà xã-hội loài người từ xưa đến giờ chưa có công bình thật sự.
Ngày nay Thiên-thơ đã định cho nước Việt-Nam này có
được cán cân công-lý do bởi tay Thượng-Đế đến cầm đòn cân định vận-mạng cho
Việt-Nam và cả nhân-loại.
Cho nên khi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn
đã lập ngay Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật tức là Thiên-điều tại thế để
điều-hành guồng máy hành-chánh-đạo hầu bảo thủ chơn truyền và công-bình
Thiên-đạo vì nếu thiếu pháp luật thì còn gì là Đạo nữa.
Ấy vậy, Đức Chí-Tôn lập Tân Pháp là lập chủ-quyền
cho Đạo. Nếu chúng ta biết Đạo và ý thức rằng pháp-luật là do Thiên-ý và
công-lý mà lập ra thì tự nhiên phải tuyệt-đối tôn-trọng chủ quyền đó là
tuân-hành qui-điều pháp-luật Đại-Đạo.
Phạm luật Đạo tức là phạm Thiên-điều, mà phạm
Thiên-điều thì tội-tình kia có chi giải nỗi.
Hội-Thánh hiệp nhau lập luật cũng như cả Thập-Nhị
Khai-Thiên lập luật.
Thập-Nhị Khai-Thiên lập luật giao lại cho Thầy, còn
Hội-Thánh lập luật cũng giao lại cho Thầy. Vậy thì Tân-Luật với Thiên-điều cũng
đồng giá-trị.
Dẫu cho Hộ-Pháp phạm luật cũng bị đòi đến Tòa
Tam-giáo bên Cửu-Trùng-Đài, thì Thiên phẩm mình dường như không có, kể như một
người đạo-hữu kia vậy.
Còn Giáo-Tông nếu phạm tội cũng phải bị đòi đến Tòa
Hiệp-Thiên-Đài thì cũng chẳng khác một người tín-đồ kia vậy.
Luật Đạo thành ra Thiên-Điều thì Hội-Thánh là
Ngọc-Hư-Cung tại thế. Hội-Thánh hiệp nhau lập luật Đạo thì cũng như chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật lập Thiên-điều.
Vậy thì Hội-Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật
cũng đồng một thể.”
(ĐHP diễn-văn14-2 Mậu-Thìn 1928)
Như
thế:
“Pháp-Chánh và Tân-Luật cốt để bình tâm thiên-hạ
đặng để gỡ tội cho kẻ có tội-lỗi; phạm mà không biết thú tội trước mặt người và
trước phép thiêng-liêng. Định pháp-luật ấy cũng là sợi dây thiết tỏa liệng
xuống Âm-quang cho kẻ tội-nhơn nắm nó mà phăng về thiêng-liêng cựu cảnh chớ
chưa phải là chơn-luật và chơn-pháp…
Toàn Thánh-thể Đức Chí-Tôn nếu biết thì nắm quyền
luật thiên-nhiên ấy, ngày giờ nào thiên-hạ được yêu thương nhau nồng-nàn, thì
giờ ấy quyền Đạo là quyền tối thượng nơi mặt thế đó.” (Thuyết-đạo II/98)
Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-nhơn dạy rằng:
“Phàm Pháp-luật lập thành đều tùng sở dụng, buộc kẻ
chung công hiệp trí tác thành một cơ-sở vĩ-đại, Đông Tây tương-thân tương-ái.
Bởi cớ mà pháp-luật vẫn nhiều mặt đặc biệt cùng
nhau, tùy theo phương dụng, chẳng thế dùng một mặt pháp-luật nào mà thay thế
vào một cơ-sở khác hành-vi cho đặng, cần thì mới lập, còn vô ích thì bỏ.
Vậy các Pháp-Luật của Chí-Tôn đã đào-tạo đều
hữu-ích cho cơ-quan hành-động cho Chánh giáo của Người, một cái dấu bỏ ra cũng
chẳng đặng. Hễ tùng thì Đạo thành, còn nghịch thì Đạo diệt. Cả thảy Hội-Thánh
chưa ai đặng quyền ra khỏi ngoại luật. Chúng ta vâng theo mới đắc thành quyền-hành
Hội-Thánh, thảng có một người nghịch thì làm rối loạn chơn-truyền.
Kẻ nghịch cùng Thế-đạo thì trục ngoại xã hội hay là
diệt tàn cho khỏi lưu hại, còn kẻ nghịch cùng Đạo-pháp thì tội trục ngoại
Thánh-thể Chí-Tôn hay là có ngày quyền thiêng-liêng diệt thác.
Chúng ta từ đây coi kẻ phạm Pháp-luật như thù địch
của Đạo, dùng phương trừ khử. Bần-Đạo đã thọ sắc lịnh Ngọc-Hư lo chuyển Pháp,
thì không phương tha thứ điều phạm bao giờ. Từ đây Hội-Thánh Ngoại-giáo giữ
nghiêm Pháp-luật.
Bần-Đạo xin để lời cầu-khẩn cùng Giáo-Tông và
Hộ-Pháp cũng để lòng lo phương trừ hại, đừng vì Bác-ái, Từ-bi vị nễ.”
(3-3 Quí-Dậu dl 26-5-1933)
Thầy cũng có nhắc-nhở:
“Trường đời có ấm lạnh, cũng như lẽ Đạo có thạnh
suy, mà cùng cực cái thạnh ắt lại suy, cùng cực cái suy ắt lại thạnh. Mà cái
thạnh của Đạo thì vô cùng người thường không phương thấu-đáo. Chơn-truyền
luật-pháp là bất di bất dịch, ai sửa cải chơn-truyền luật-pháp ắt bị tội chẳng
sai, dầu là địa-vị gì đi nữa. Thầy phong thưởng chúng nó đặng ắt thầy hình phạt
chúng nó cũng đặng vậy”.
Luật quyền này nay trở thành Bản Đệ Tam Thiên-Nhơn
Hòa-Ước rồi vậy.
“Luận về cái quyền. Cái quyền đôi bên bao giờ cũng
phải quyết-định với một cái pháp-luật của Hội-Thánh. Luật của Hội-Thánh để định
quyền cho Đạo, cho đại-gia-đình của tinh-thần nhơn-loại, ngó thấy Tân-Luật,
Pháp-Chánh-Truyền là một chơn tướng lập Thánh-thể của Ngài không cần luận đến,
chỉ luận Tân-Luật mà Đức Chí-Tôn và Đức Lý-Giáo-Tông đã dạy Hội-Thánh khi mới
khai Đạo, lập trong ba tháng phải thành-tựu, trong Tân-Luật con cái Đức Chí-Tôn
đều ngó thấy, Bần-Đạo không cần lập đi lập lại vô ích, chỉ lấy cái tinh-túy của
nó là trong Tân-Luật ấy Chí-Tôn định cho Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại-điều-qui và trong
ấy cốt-yếu bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của toàn thể con cái của Ngài. Thật ra
cái Thiên-luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm não con cái của Ngài:
LUẬT chỉ có một là THƯƠNG-YÊU.
QUYỀN chỉ có một là CÔNG-CHÁNH.
Thiên-hạ đã lập Luật nhiều quá, mà cái Luật của
thiên-hạ lập ấy tưởng khi cả thảy đều ngó thấy, dầu cho họ có thay đổi cho tới
tận-thế họ chưa có phương nào làm cho nó phù-hợp với cả nhơn-tâm bao giờ.
Còn Đức Chí-Tôn lập Luật có một điều mà thôi là
THƯƠNG-YÊU. Cả thảy đều hiểu cái luật ấy, nghĩ coi có ai tránh khỏi đặng không?
Người nào không có dính-dáng trong cái Luật THƯƠNG-YÊU ấy thì chẳng hề sống
được bao giờ, nhứt là sự sống chung của đồng-loại, hoặc họ phải tự họ ly-dị cả
nhơn-loại hay là cả nhơn-loại buộc phải đào-thãi họ, nếu họ không tuân cái Luật
ấy; còn cái quyền CÔNG-CHÁNH, công-bình, chánh-trực dầu một kẻ không học kia
dốt nát thế nào mà học được hai cái đặc tính quí-báu ấy tôi tưởng cả thảy
thiên-hạ đều cúi đầu tôn trọng, kính-nhường và nhất là họ thương-yêu.
THIÊN-LUẬT của CHÍ-TÔN là vậy đó!
Tân-Luật, Đức Chí-Tôn cốt-yếu muốn cho ta làm, đặng
ta bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của nhân-loại. Nói về phương Đông này dầu cho
luận tới các quốc-gia xã-hội đến đâu đi nữa, họ tự trọng họ, văn-minh thế nào
họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm-luật ấy bao giờ; nếu họ ra khỏi là muốn tự
bỏ cả xã-hội của họ thì họ sẽ thành cái gì chớ không thành xã-hội.
Giờ đây luận tới Hội-Thánh: Hội-Thánh lập luật chỉ
lập ra trong buổi con cái Đức Chí-Tôn bị óc ngoại hình ngoài đời kia xâm-phạm
tinh-thần và hình chất của nó. Hội-Thánh buộc phải lập Luật chẳng khác nào như
thể một phương che chở, như ta đã ngó thấy một người kia đi tới miệng giếng họ
muốn sa vào đó ta kêu trở lộn lại.
Luật của Hội-Thánh chuyển-luân theo thời thế của
xã-hội, nhứt là trong con cái của Ngài, chớ thật ra không có giá-trị gì hết.
Bởi hình không có.
Bây giờ nói tới Hình của Luật Đạo:
Cái quyền của Đạo: quì hương, tụng Kinh Sám-Hối,
đáo-để trục xuất nội thành Thánh-địa, rồi còn dữ hơn nữa trục-xuất ra khỏi Đạo
chớ chưa giết ai, chưa có tù tội ngục hình, cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết
bao giờ, ấy là Luật của Đạo. Vậy cốt-yếu của khuôn-khổ đại-gia-đình tinh-thần
này để tạo con cái của Đức Chí-Tôn thành Thánh, nong-nã dạy-dỗ, dìu-dắt thế nào
cho họ thành Thánh, đặng họ mới cầm cái cơ cứu khổ của Đức Chí-Tôn vững-vàng và
mạnh-mẽ, họ mới thay thế hình ảnh của Đức Chí-Tôn đặng.
Vì cớ cho nên cả khuôn khổ quyền-lực của Đạo
cốt-yếu để tạo Thánh”.
(ĐHP 30-3 nhuần, năm Ất-mùi 1955)
“Chí-Tôn muốn con cái của Ngài nên Thánh thì phải làm sao?
Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch-sẽ làm cho thiên-hạ muốn gần, vì
đáng tôn-sùng yêu-ái mà gần. Hình-luật Tam-giáo là nước Cam-lồ để tắm rửa
linh-hồn vậy. Chơn-truyền từ trước đến nay Đức Chí-Tôn để tại mặt thế trên các
Đạo: Phật, Tiên, Thánh là phương để gội rửa linh-hồn mà thôi”. Thế nên phương
tu phải có LUẬT và PHÁP. Nó là nhu-cầu tối yếu, tối trọng là vậy. Pháp-luật
Đại-Đạo cần-yếu cho người tu cũng như chiếc cầu bắc sang sông cho người người
về đến nơi đến chốn mà mình mong đợi.
II - TÂN-LUẬT
Càn-khôn vũ-trụ cũng có Luật-định.
Chúng-sanh tu nếu biết đi đúng theo luật-định ấy mới mong hiệp một cùng Thầy.
Do vậy mà phương tu phải có Luật có Pháp là phương định-vị là vậy. Thế nên nền
Đại-Đạo này có Luật là Tân-Luật và Pháp là Pháp-Chánh-Truyền
A - Tại sao Đạo Cao-Đài
để cho Quyền Vạn-Linh lập Luật?
“Nếu nói lương-tâm nhiều hạng
tức nói Đạo Đời nhiều hạng. Chẳng có một giáo-lý nào buộc Đời tùng theo một mực
thì chưa có một Đạo nào cầm đặng chủ quyền của đời trường cữu. Phải để cho đời
trị đời, tức nhiên phải để cho lương tâm người trị người. Cá-nhân duy tùng
lương-tâm mà hành-đạo thì mới thiệt Đạo.
Pháp-luật nào không tùng lương-tâm
lập thành thì không phải Đạo, vì cớ mà ĐẠO CAO-ĐÀI để cho QUYỀN VẠN-LINH lập LUẬT.
Nhơn-sanh lập Luật mà tu
thì tức nhiên do tâm-lý mà hành-đạo, ngoài ra khuôn viên luật pháp thì cá-nhân
đặng trọn tự-do tư-tưởng của mình.
Lương-tâm là giềng mối để
cột chặt tánh đức của người đời qui nhứt, vậy phải lấy Lương-tâm lập thành Đại-Đạo.
Thế nên Cao-Đài là ĐẠI-ĐẠO!
B - Tân-Luật đã gồm trọn
Tam-giáo
Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Pháp-luật Tam-giáo tuy
phân-biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một”
Chú-giải: Vì coi như một,
nên Thầy mới đến cho nhân-loại lập Tân-Luật thế nào cho phù-hợp với nhơn-trí hợp
tánh với nhơn-tâm, chung chịu một Đạo-luật, có phương hành Đạo, chẳng nghịch với
Thiên-điều, đặng lập vị mình dễ-dàng mới toàn câu phổ-độ.
Buổi trước thì Thiên-điều
buộc nhơn-loại phải nâng cao phẩm-hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật
đặng đoạt đức tánh mà lập vị mình, còn nay thì các Đấng ấy lại hạ mình, đến
cùng nhơn-loại đặng dìu cả chơn-hồn lên tột phẩm-vị thiêng-liêng đến ngang bực
cùng Thầy. Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn-trí
ngày nay đã qua khỏi nguơn “tấn-hóa” thì đã tăng tiến lên địa-vị tối cao; chủ-nghĩa
cựu-luật của các Tôn-giáo không đủ sức kềm chế đức-tin, mà hễ nhơn-loại đã mất
đức-tin về đạo-đức rồi, thì cơ tự-diệt vốn còn, mà cơ tự-diệt còn thì nhơn-loại
khó tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng. Đời phải tùy Đạo mới còn, mà Đạo
cũng phải tùy đời mới vững, biết đâu TÂN-LUẬT ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta
lập thành, trong thời-gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù-hợp với nhơn-trí
Đạo đời tương đắc mà dìu-dắt cả nhơn-sanh đời đời kiếp kiếp.
Thí dụ như có kẻ hỏi “Sao
Thầy không dùng Cựu-luật trong Tam-giáo đã có sẵn rồi, lại lập chi Tân-Luật nữa,
mà buộc nhơn-sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?"
TA lại đáp: Chính thầy đã
giáng cơ nói Ngọc-Hư-Cung bác luật, Lôi-Âm-Tự phá cổ; ấy vậy Cựu-luật thì Ngọc-Hư-Cung
đã biếm-bác, còn cổ-pháp thì Lôi-Âm-Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu-luật
và Cổ-pháp chẳng còn ý-vị chi hết. Những bực tu-hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu
luật hay Cổ-pháp thì trái hẳn với Thiên-điều của ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ thể
thiên hành chánh.
Bởi cớ ấy nên Chí-Tôn đã cấm
Ngũ-chi phái ngọc dùng Cổ-luật mà mê-hoặc nhơn-sanh nữa.
Hễ tùng Cựu-luật tức phải
tùng Thiên-điều, hễ tùng Thiên-điều thì khó mà lập vị cho mình đặng.
Xin xem tiếp đây thì thấy
rõ Thầy đã quyết-định điều ấy nên Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Vậy một mà thành ba, mà
ba cũng như một”
Ấy vậy, TÂN-LUẬT ĐÃ GỒM TRỌN
TAM-GIÁO” tức là một thành ba, mà ba Cựu-luật của Tam-giáo hiệp nhau thì cũng
như một, nghĩa là TÂN-LUẬT". (PCT)
C- Tân-Luật là gì?
Giải-nghĩa: Tân là mới. Luật
là cái đồ ngày xưa dùng để thẩm xét thanh-âm, nói rộng ra là những phép khuôn đã
đặt định để làm chuẩn, cứ do theo đó mà thực-hiện, không làm sai trái, ví như
pháp-luật là những qui-tắc, hành-vi để cho nhơn-sanh tùy theo tập-quán của
dân-tộc mà thi hành, mục-đích để giữ vững trật-tự an-ninh cho cuộc sống.
Gọi là TÂN-LUẬT để phân biệt
với Cựu luật. Chữ tân là mới, ý-nghĩa ở đây rất linh-động, thể hiện tinh-thần của
Tiên-Nho “Nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân” (ngày mới, ngày ngày mới, mỗi
ngày mỗi mới). Có như vậy mới phù hợp với trào-lưu tiến-hóa của nhơn-sanh. Có
nghĩa là Tân-Luật của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay sẽ được thay đổi theo từng
thời-gian cho hợp theo dân-trí chớ không phải cứng ngắt, bất di bất dịch.
Sự thành hình bộ TÂN-LUẬT
được dẫn giải qua các giai-đoạn sau đây, diễn tiến theo từng thời-gian mà các Đấng
giáng cơ chỉ dẫn buổi đầu, nghĩa là lúc mới khai Đại-Đạo:
- Một là ý-nghĩa Tân-Luật.
- Hai là sự diễn-tiến của việc lập thành Tân-Luật
1 -
Ý-NGHĨA TÂN-LUẬT
Đã nói rằng Ngọc-Hư-Cung bác luật, Lôi Âm-Tự phá cổ” tức là không tùng Cựu-luật, mà hễ không
tùng Cựu-luật tất nhiên phải tùng Tân-Luật.
Buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức
Chí-Tôn dùng huyền-diệu Cơ-bút giáng trần dạy Đạo xưng mình là Thầy, kêu
chúng-sanh là Môn-đệ, chính mình Thầy đến để độ rỗi con cái của Thầy. Thầy
không giao Chánh-giáo cho tay phàm, vì phàm-gian hữu-hình hữu hoại, lần lần
canh-cải chánh-giáo ra phàm-giáo.
Giáo-điều của các Tôn-giáo
xưa phát-xuất nhằm nguơn hội Nhị-Kỳ Phổ-Độ tuy tương-đối cao siêu đặc-sắc,
nhưng cũng phải do ảnh-hưởng dân tâm, dân trí địa-phương khai Đạo, do các Đấng
Giáo-chủ cũng phải mang hình-thể con người của địa-phương để dễ bề truyền Đạo.
Nay là buổi Hạ-nguơn,
càn-khôn dĩ tận thức, tức nhiên nhân-loại đã thực sự hiểu biết nhau, thông-cảm
nhau qua phong-tục, tập-quán, phương-tiện giao-thông, hệ-thống truyền thanh,
truyền hình các thứ, xem năm Châu chung chợ, bốn biển chung nhà, ấy là nhân-loại
đã hiệp đồng. Do vậy mà Đức Chí-Tôn đến lập Tam-Kỳ Phổ-Độ, không lâm phàm với
xác thân hình-hài sắc tộc; mà chính Đại-Từ-Phụ giáng cơ lập nên mối Đạo Đại-đồng,
vì vậy luật Đạo cũng lập trên căn bản Đại-đồng, nghĩa là phải do toàn cả
chúng-sanh, phát xuất từ các Tôn-giáo cổ-truyền tổng hợp thành TÂN-LUẬT. Chí đến
việc thờ-phượng Đức Chí-Tôn phải dùng THIÊN-NHÃN làm tiêu biểu lương-tâm (La
conscience) của cả nhơn-loại để tránh nạn hình cốt (Idolâtrie).
Bí-quyết của Đạo Cao-Đài
là luôn luôn có quyền Thiên-Thượng và Thiên-hạ (Dieu et Humanité) tức là quyền
Chí-linh và Vạn-linh hiệp một. Thánh-ý Đức Chí-Tôn muốn để con cái của Ngài tự
lập Luật, tùy theo sức khép mình vào con đường tu-luyện để khỏi than rằng Luật
quá mắc mỏ rồi không đoạt thành phẩm-vị sanh ra chán nản, hoặc viện lẽ rằng quá
rẻ mà sanh dạ dễ-duôi.
Bởi cớ nên bộ Luật của Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ gọi là TÂN-LUẬT do chư Môn-đệ của Thầy hợp nhau lập thành rồi
dâng lên cho Đức Lý Giáo-Tông phê-chuẩn.
Tân-Luật sau này có thể
tu-chỉnh tùy trình độ tiến-hóa của nhân-sanh từng thế-hệ nhưng dù được sửa đổi
hay bổ-túc cũng phải cầu xin phê chuẩn như trước.
Cũng bởi lẽ tùy sự tiến-hóa
của loài người, sửa đổi Luật cho phù-hợp trình-độ dân trí nên dù trải bao thế-kỷ
hậu lai Luật vẫn mang tính cách mới mãi mãi nên gọi là TÂN LUẬT.
2 - SỰ DIỄN-TIẾN của việc LẬP TÂN-LUẬT
TÂN-LUẬT của Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ được diễn-tiến qua các giai-đoạn:
* Soạn thảo Tân-Luật.
* Bàn thảo Tân-Luật.
* Dâng Tân-Luật.
* Thành Tân-Luật.
Với thời-gian 3 tháng kể từ
ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (19-11-1926) các vị Hoà thượng họp bàn thảo đến
ngày 8 tháng 1 năm Đinh-Mão (dl 9-2-1927).
a/ - Soạn thảo Tân-Luật:
Việc soạn thảo Tân-Luật Đức
Chí-Tôn giao cho Hòa-Thượng Như-Nhãn hội các Hòa-thượng, từ ngày rằm tháng mười
năm Bính-Dần, phải nạp bản dự thảo Luật để họp chư Thánh bàn thảo do chứng tích
và ý-nghĩa còn ghi trong Đạo-Sử của Bà Hương-Hiếu.
Đức Chí-Tôn dạy:
“Thời-kỳ dấu-diếm Thiên-cơ
đã qua rồi, Thầy phong cho con (Hòa-Thượng Như-Nhãn) là Quản-Pháp Thiền-sư
Thích-Đạo chuyển Luật-lịnh Diêu-đạo-sĩ, con vừa lòng chăng?
Con đã giúp Thầy gìn-giữ
Thích-Đạo nguyên luật từ thử nay mới còn đặng như vậy, không thì đã ra Bàn-môn
Tả đạo rồi, con phải biết Thầy ngày nay trông công con mà lập thành Tân-Luật
Thích-giáo. Con phải đại tịnh kể từ tháng 9 cho tới rằm tháng 10. Thầy không muốn
cho con lo-lắng điều gì khác hơn là xét xem kinh điển lại. Con biết Ngũ-chi:
Minh-Đường, Minh-Sư, Minh-Nghĩa, Minh-Lý, Minh-Thiện, cũng đều do nơi Phật-giáo
mà ra, duy có giáo-lý của các chi ấy thì có Tiểu-học, Đại-học, Trung-dung và Tứ
thư là kinh-điển mà thôi. Còn phái Lão duy có Đạo Đức-Kinh và Huỳnh-Đình-Kinh
làm căn-bản, con phải xem-xét hết lại mà lập Tân-Luật.
Thầy nhứt định giao
Thánh-Thất này lại cho Thơ lo-lắng thế cho con, song sự thờ-phượng phải có thay
đổi chút ít. Sau Thầy sẽ dạy chư Đạo-hữu con định-liệu. Rằm tháng mười này Thầy
xin con hội cả chư Hòa-Thượng tại Thánh Thất đây chung lo lập Tân-Luật, ngày ấy
Thầy sẽ dạy cho hai vị Hòa-Thượng phò-loan, đặng có điều chi bợ-ngợ thì cầu Thầy
mà hỏi.
Thầy phú-thác một
trách-nhiệm nặng-nề cho con, nhưng mà con đừng ái-ngại, danh giá con, Thánh-đạo
Thầy trong ấy con khá hết lòng, con phải hiểu rằng hội chư Hòa-thượng trong đôi
ba tháng thì là hao tổn. Song chẳng hề chi, để Thầy định-liệu.
Tuy vân, Thầy biết sức một
mình con cũng đủ lập Tân-Luật, nhưng mà Thầy muốn có Hòa thượng đặng cho khỏi
trành-tròn lại còn làm tay chơn Thầy để thâu phục Thích-đạo”.
Đức Chí-Tôn còn dạy thêm rằng:
- “Các con! Thầy đã lập
Thánh-Thất, nơi ấy là nhà chung của các con, biết à?
- Thầy lại qui Tam-giáo lập
Tân-Luật trong rằm tháng mười, có Đại-hội cả Tam-giáo nơi Thánh-Thất, các con
hay à?
- Sự tế lễ sửa theo “Tam-Kỳ
Phổ-Độ” cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à?
- Thầy nhập ba chi lại làm
một, Thầy là Cha Chưởng-quản, hiểu à?
- Từ đây trong nước Nam
duy có một Đạo chơn-thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là “Quốc-Đạo”
hiểu à?
- Thầy phải buộc các con
hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à!” (TNI/46)
b/ - Bàn thảo Tân-Luật:
* 2-11 Bính-Dần Lundi 6
Décembre 1926
(Lẽ ra phải nạp bản Tân-Luật
vào ngày 2-11 Bính-Dần. Vì lý-do trễ nãi Ngài Thượng-Đầu-Sư cầu xin dừng lại một
tuần và nhân dịp này Đức Chí-Tôn giải-thích thêm). Trung bạch Thầy xin cho đình
lại qua ngày thứ bảy tới sẽ nạp luật cho Thầy phê-chuẩn.
Phải ở luôn luôn nơi
Thánh-Thất đặng lập Luật sẵn. Nghe Thầy dạy, khởi đầu lập:
- Luật TU gọi là “Tịnh-thất-luật”
- Kế nữa, lập Luật trị gọi
là “Đạo-pháp-luật”
- Ba là lập Luật đời gọi
là “Thế-luật” các con hiểu à?
Sau khi soạn thảo Tân-Luật
xong ngày 14 tháng 11 Bính-Dần (Samedi, 18 Décembre 1926)
Đức Lý Giáo-Tông dạy:
Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu
nghe dạy:
Phải viết thơ cho các
Thánh nói rằng “buổi lập Luật phải ngưng sự phổ-độ lại đôi chút” lo cho xong
“Tân-Luật” thì mới truyền-bá chơn-đạo rõ lý hơn.
Vậy ngày Đại-lễ Thánh-giáo
giáng-sanh phải có mặt tại đây cho đủ và nạp Luật cho kịp ngày ấy. Làm lễ xong
qua ngày kế thì chư Thánh mặc Đại-phục vào Điện bái rồi Hiền-hữu biểu sắp ghế vòng
theo Đại-điện. Hiền-hữu và Ngọc-Lịch-Nguyệt lên tọa Bửu-vị, rồi theo chức-phận
chư “Thánh” ngồi vòng hai bên như lúc Hiền-hữu còn tại “Thượng-Nghị-viện” đặng
cải Luật đó vậy.
Hiền-hữu Chưởng-quản làm
chủ Hội, mỗi vị “Thánh” đều đặng quyền cải lẽ, nghe à!
Phải giữ phép kẻ trước người
sau, tùy phiên nhau cho có lễ: Phái Thái trước, phái Ngọc giữa, phái Thượng
chót.
Phải viết thơ cho Tương và
Trang nạp Luật cho kịp một lượt với Thơ, nghe à!
* Qua ngày 16-11 Bính-Dần
(dl 20-12-1926)
Đức Chí-Tôn giáng dạy:
Chư Môn-đệ nghe!
Thầy đã nói muốn cho
hoàn-toàn phải có Luật, mà hễ có Luật thì cần phải do theo đó mà hành Đạo mới
khỏi điều sơ thất đặng. Nhiều đứa nhờ công-quả chút ít mà được Thầy trọng-dụng
là có ý để cho chúng nó đặng vui lòng mà bước tới, dè đâu chẳng trọng sợ lịnh
Thầy, lại lấy ý riêng mà làm cho có lời kích-bác trong Đạo. Nếu Thầy chẳng lấy
Đức từ-bi mà dìu-dắt các con thì chư Thần, Thánh đã phạt mấy đứa ấy một cách nặng
nề hơn, các con khá liệu mà hành Đạo”.
* Ngày 20-11 Bính-Dần
(Vendredi 24-12-1926)
Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy
thêm:
Trung, Hiền-hữu nhớ mời hội:
- Từ 6 giờ mơi chí 11 giờ,
nghỉ.
- Từ 2 giờ tới 6 giờ, nghỉ.
- Tối từ 8 giờ tới 11 giờ,
nghỉ.
Như chưa hoàn-toàn, ngày
mai cũng phải vậy. Thầy dặn phải tuân y lời. Luật-lệ truyền lâu dài chư Đạo-hữu
phải ráng cẩn-thận, nghe à!
Cũng trong ngày, có Đức
Chí-Tôn giáng cơ giải thích:
“Các con ôi!
Nếu nói rằng Thầy đã nhiều
cực nhọc từ ngày khai Đạo đến chừ, Đạo đặng phổ-thông mau chóng dường này thì
đáng lẽ Thầy mừng cho các con lắm mới phải, sao Thầy lại buồn?
Các con ôi! Các con đã chịu
lắm khổ-não nơi biển trần này từ mười ngàn năm rồi, đã ở dưới quyền Tà-quái áp
chế, vì vậy mà Thầy phải phế hết Bạch-Ngọc-Kinh, Huỳnh-Kim-Khuyết giáng trần độ-rỗi
các con, chớ chi Thầy đến mà làm giảm bớt sự khổ-não các con chẳng đặng nữa thì
thôi, lẽ nào còn lập Tân-Luật ràng buộc các con thêm nữa, vì cớ mà Thầy buồn!
Thầy tỏ thật, các luật-lệ
Thầy khiến các con hiệp chung trí mà lập thành đây, nó có ảnh hưởng về
Thiên-phong Phật-sắc của các con nên Thầy buộc mình cam chịu vậy. Chẳng luật-lệ
thì là trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch-Ngọc-Kinh cho đặng.
Vậy các con gắng làm phận-sự
cho hoàn toàn rồi có Thái-Bạch giáng cơ sửa Luật.
* Ngày 21-11 Bính-Dần
(Samedi, 25-12-1926)
Nay, ngày chính thức bàn
thảo Tân-Luật, nhưng buổi hội chư Thánh suốt ngày hôm đó không đem lại kết-quả
nên Đức Lý giáng cơ chỉ vẽ dặn-dò:
“Thượng-Trung-Nhựt. Hiền-hữu
hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết. Việc tán thành Tân-Luật nếu Chí-Tôn
để cho Lão nội trong 2 giờ hoàn thành tất cả, ngặt một điều là nếu Lão lập Luật
chẳng một ai trong hàng Đạo-hữu hành Đạo đặng. Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho
chư Đạo hữu lập thành là chủ ý để phần nhơn-lực vào đó chút ít, rồi lấy huyền-diệu
làm ra Thiên-lực, ấy là một hạnh Công-bình đó.
- Vậy Lão giao ba bộ Luật
hiệp một cho Thái-Thơ-Thanh trước, nội trong một tuần-lễ phải hiệp thế nào cho
ba bộ ba phái chung vô làm một.
- Qua tuần nữa tới Thượng-Tương-Thanh.
- Kế một tuần nữa tới Ngọc-Trang
Thanh.
Nghĩa là trong ba tuần nữa
phải lập thế nào cho rồi luật-lệ đem về Thánh-Thất đặng cải lại nữa.
* Ngày 22-11 Bính-Dần
(Dimanche 26-12- 1926)
Đức Lý nhắc:
Trung, Hiền-hữu nhớ viết
thơ cho chư Thánh, ngày cải Luật phải đủ mặt, bằng ai chẳng tuân mạng Lão trục
xuất, nghe à!
* Ngày 12-12 Bính-Dần
(Samedi 15-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy:
Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu
cũng nên để tịnh tâm đặng lo cải Luật, chẳng nên ham vui quá nghe!
Thầy sẽ ngự trong lúc cải
Luật. Lão giáng cơ trước khi mở hội. Vậy khi chư Thánh đủ mặt phải cầu cho Lão
dạy việc, chừng Lão ngự Đại Điện thì tức cấp khai hội liền.
Hết thảy đều mặc đại-phục
trong khi cải Luật chẳng nên thay Tiểu phục, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ngự
xem, coi ra khiếm lễ vậy… nghe à! Tuân!
Ngày nay chẳng dạy văn. Lão
để cho chư Đạo-hữu tịnh trí.
Tái cầu: Đức Chí-Tôn nhắc-nhở:
“Trước mắt chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật phải cải Luật cho nghiêm-chỉnh, Thầy khuyên Thái-Bạch cho kẻ
hầu săn-sóc các con”… đến đây là ngày cuối cùng về việc cải Luật (bàn thảo đã
xong)
c/- Dâng Tân-Luật
* Ngày hôm sau 13-12
Bính-Dần (16-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông dạy cách
dâng Tân-Luật như sau:
Lão khen chư Hiền-hữu. Đại
hỉ! Đại hỉ!
Thượng-Tương-thanh! Coi Lão
hành-sự mà bắt chước.
Mời Chưởng-Pháp phái Nho,
chư Hiền hữu bình thân.
Đứng bài ban. Chưởng-Pháp,
Đầu-Sư toạ vị Phối-Sư Tam-giáo tới trước.
Thái-Thơ-Thanh phải ôm bộ
chú giải các Luật: Tân-Luật của chư Hiền-hữu cải đó nữa.
Thơ-Thanh ôm chí mày dâng
cho Tương Thanh, rồi Tương-Thanh cũng phải làm như vậy mà trao cho Trang-Thanh
phò.
Bái nhau.
Trang Thanh ôm Luật hiệp với
nhị vị Hiền hữu đến dâng cho ba vị Đầu-Sư đồng đứng dậy bái nhau mà tiếp Luật một
lượt, thế nào sáu bàn tay đều có trong mấy bộ Luật
Ngay giữa.
Cả ba tiếp dâng lên Chưởng-Pháp.
Hai vị Chưởng-Pháp cũng phải
bái mà tiếp một lượt, đội dâng lên Đại-điện
Day vô.
Đưa lên chí trán nghe dạy:
Lão giao Luật này cho nhị
vị Chưởng-Pháp xem-xét lại nữa trong một tháng phải rồi, mà giao lại cho Hộ-Pháp
cầu Lão sửa Luật, phải làm một phòng thanh-tịnh mà giả Hiệp-Thiên-Đài, Thập-Nhị
Thời-Quân phải có mặt; Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm phải có mặt khi cầu Lão.
Phải tái cầu nghe dạy:
Nhị vị Chưởng-Pháp đem Luật
để ngay tượng Lão một đêm nay. Dương! Phải đội Hiệp Chưởng như Luật và đắp khậu
như Luật (Yết-Ma)
Nương! Phải sắm Thiên-phục
như Thơ Thanh vậy nghe!
Đem Luật để lên rồi xuống
tọa vị.
Lên đầu…để xuống.
Chư Thiên-phong đồng lạy
Thầy”.
Về điểm này sau Đức Hộ-Pháp
có giải thích:
“Buổi ba vị Chánh-Phối-Sư
dâng Luật, Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm phò-loan cho Đức Giáo-Tông sửa (13 tháng chạp
năm Bính-Dần). Ngài có truyền dạy ba vị Đầu-Sư và Chưởng-Pháp phải ngự trên
ngai; đoạn đòi ba vị Chánh-Phối-Sư vào hành lễ, rồi kêu Chánh-Phối-Sư Thượng
Tương-Thanh mà dạy rằng “Hiền-Hữu coi Lão hành-sự đây mà bắt chước”.
- Ngài lại dạy ba vị
Chánh-Phối-Sư mỗi người phải dâng Luật thế nào cho đủ sáu bàn tay dâng Luật ấy,
chẳng nên cho hở, đặng dâng lại cho Đầu-Sư.
- Đầu-Sư cũng phải cho đủ
sáu bàn tay mà dâng lên cho Chưởng-Pháp;
- Rồi Chưởng-Pháp cũng đủ
sáu bàn tay mà dâng lên cho Ngài.
Khi ấy Ngài dạy phải đi
ngay lên Đại-điện đưa qua khỏi đầu Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm. Ngài hạ Ngọc-Cơ xuống
dưới, đặng đi ngang qua cho khỏi Ngài nữa (1) (Hay!) Chưởng-Pháp tiếp Luật rồi,
lại đưa ngay qua khỏi đầu Khương-Thái-Công và Thánh Chúa Jésus nữa. Sau Hộ-Pháp
có để lời than cùng Thầy về điều ấy, thì Thầy cười mà phán dạy rằng “Mắc Tiên-vị
của Thái-Bạch còn ở dưới Thích-Ca, Khổng-Tử và Lão-Tử, bằng chẳng vậy thì bộ Luật
cũng đi ngang qua đầu các Đấng ấy nữa, vì nó là Thiên-luật đó con! (2)
Bộ Tân-Luật để trước
Tiên-vị của Đức Giáo-Tông một ngày một đêm cho Ngài xét đoán; bữa sau Ngài
giáng cơ than rằng: “Thiên-điều mầu-nhiệm của Đạo còn thiếu sót lắm” Ngài cười
rồi nói tiếp “những điều ấy chư Hiền-hữu biết đâu mà lập cho đặng”.
Hại thay! Nếu chẳng có cơ
mầu-nhiệm bí mật ấy, thì chẳng thành Luật; nếu chẳng thành Luật, thế nào thành
Đạo. Ngài cười rồi tiếp “Lão tâu cùng Đại-Từ-Phụ xin thêm vào Luật những điều
bí-mật yếu-trọng.
Chú thích:
(1) Hay! ấy là lời khen của
Đức Lý.
(2) cái giá-trị của Tân-Luật
dường đó, mà cả Hội-Thánh coi rẻ-rúng chẳng kể, làm cho Lão phải từ ngôi
Giáo-Tông, đặng lấy Thiên-điều khảo tội. Ôi thôi! Biết bao kẻ đoạ lạc Phong-đô,
vì đó.
Ấy vậy chư Hiền-hữu cũng
phải cầu-khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng này thì khởi nguyện, dặn các Thánh-Thất,
các Đạo-hữu phải để lòng thành-khẩn; hiệp sức làm một với Lão mà nài xin
Thánh-Luật, nghe à! (Cười!).
Hễ Đạo trọng thì tức nhiên
chư Hiền-hữu trọng, vậy thì chư Hiền-hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời
… Từ đây Lão hằng gìn-giữ cho chư Hiền-hữu hơn nữa, nếu thảng Lão ép lòng cầm
quyền thưởng phạt phân-minh, là cố ý muốn giá-trị chư Hiền-hữu thêm cao trọng nữa.
Vậy Lão xin đừng để dạ phiền-hà
nghe!
Ngài liền kêu hai vị Chưởng-Pháp
lên lấy bộ Luật xuống đặng dâng qua cho Hiệp-Thiên Đài, lại dạy Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm
xuống Cửu-Trùng-Đài đứng nơi vị mình. Hộ-Pháp thì bắt ấn Hộ-Pháp trấn trên bộ
Luật, còn Thượng-Phẩm thì cầm Long-Tu-phiến che trên ấn ấy, rồi dạy hai vị Chưởng-Pháp
như vầy “Ta kỳ cho một tháng phải nạp Luật”.
Hai vị Chưởng-Pháp lãnh kiểm-duợt
Luật trong một tháng đem nạp hồi cho Lý Giáo-Tông; rồi Ngài mới cậy hai vị Đầu-Sư
thay mặt cho Ngài, đệ lên Hiệp-Thiên-Đài dâng cho Hộ-Pháp cầu Thầy giáng xuống
sửa lại. Nhờ Ngài và Hội-Thánh cầu-khẩn, Thầy đã giáng bút truyền các bí-pháp ấy
cho Hộ-Pháp. (3)
Coi theo đây thì thấy rõ:
Đức Giáo-Tông kêu Chánh-Phối-Sư Thượng-Tương-Thanh xem người hành-sự đây mà bắt
chước, thì đủ chỉ rõ rằng: Ngài ban quyền-hành-sự trọn vẹn cho Chánh-Phối-Sư lại
buộc cả ba đều để sáu bàn tay vào cho đủ, tức là buộc cả ba hiệp một mới đặng.
Đầu-Sư cũng vậy, mà Chưởng-Pháp
cũng vậy, phải hiệp một mới phù-hạp câu Thánh-ngôn “Một thành ba mà ba cũng như
một”.
Chú-thích:
(3) Mừng thay cho nhân-loại
chút ít rồi. Hội-Thánh chơn truyền Tân-Pháp đã đạt đặng như phép “Giải-Oan”,
phép “Khai Sanh-Môn, Ban Kim-Quan”…lại còn nhiều bí-pháp nữa mà Hộ-Pháp chưa có
lịnh truyền và lại bị chúng-sanh và Hội-Thánh còn mờ-hồ không nạp dụng. Ngày
nay chẳng biết các Đấng Thiêng-Liêng là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại
Bát-Quái-Đài đã thọ lịnh của Thầy mà hành-pháp vì thuộc về quyền-hành của các Đấng
ấy, ngày nay mới tính sao? Trong các bí-pháp có cơ mầu-nhiệm đắc Đạo, bây giờ
các Đấng ấy có cho hay là không? Thảm! (cười!) nếu Lão có phương chỉnh-đốn nền
Đạo lại thì đặng, bằng chẳng vậy, thì không có một người đắc Pháp, Cửu-Trùng-Đài
cũng đã yểm quyền Bát-Quái-Đài mà chớ!. Thật vậy đó chút” Ấy là cơ vô-vi: TINH
KHÍ THẦN hiệp nhứt, chư Hiền-hữu có biết à! Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Thái
là Thần, nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ
Sao lại giao cho Chánh-Phối-Sư
chỉnh-đốn Tân-Luật, ngày sau có phải giao cho Chánh-Phối-Sư như vậy nữa chăng?
Trên kia đã nói: Chánh-Phối-Sư
là người thay mặt cho cả nhơn-sanh giữa Hội-Thánh, ấy là người làm chủ
nhơn-sanh trong nền Đạo (4), hễ gọi là chủ nhơn-sanh ấy là nhơn-sanh vậy.
Đức Lý dạy tiếp “Đạo đã
thành, Đạo đã mạnh, cho đến đỗi trái càn-khôn này dở hổng lên khỏi ngất mấy từng,
làm cho các Tôn-giáo đã lập thành trên mặt địa-cầu này phải kinh-khủng, sợ sệt.
Cười!
Chư Hiền-hữu cầm trọn
nhơn-loại vào tay, Lão hỏi có chi quí trọng mạnh-mẽ bằng chăng?
Chú thích:
(4) Đây cũng nên giải vì cớ
nào kể từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở xuống thuộc về Thế, nghĩa là Đời và từ phẩm Đầu-Sư
đổ lên thuộc về Thánh, nghĩa là Đạo, bên Hiệp-Thiên-Đài cũng có Đời và Đạo, mà
Bát-Quái-Đài cũng phải có vậy, mới nhằm cơ hiệp một Đời cùng Đạo. Tức là trong
Đạo có Đời, mà trong Đời cũng có Đạo.
* Ngày 14-12 Bính-Dần (17-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông giáng cơ
dạy tiếp:
“Lão đương quyền là
Giáo-Tông, ngặt nỗi lễ-chức chưa có đặng giao Luật lại. Vậy Lão cậy Nhị vị Hiền-hữu:
Thượng-Trung-Nhựt và Ngọc Lịch-Nguyệt thế giùm chức ấy lên Đại-điện phò Luật đặng
giao Hiệp-Thiên-Đài cho Hộ-Pháp (Thượng-Sanh vắng mặt) một ngày bỏ làm việc chẳng
đặng sao há!”
Trong khi Đức Lý Giáo-Tông
giao cho hai vị Chưởng-Pháp kiểm-duợt thì Bạch-Ngọc-Kinh cũng họp Đại-hội để cải
Luật Tam-Kỳ Phổ-Độ mà Đức Lý Giáo-Tông có trách-nhiệm vấn đáp với các Đấng
Thiêng-Liêng. Được biết sự mầu-nhiệm đó nhờ đàn cơ của Đức Quan-Âm như sau:
“Hà sự cầu cơ? (5) Bạch-Ngọc-Kinh
đại-hội cải Luật Tam-Kỳ Phổ-Độ. Lý Đại-Tiên hữu trọng trách, trọng nhậm, vấn
đáp chơn-lý Tam-kỳ cứu tận chúng-sanh, nhựt nhựt thường tại bất đắc hạ trần
giáng cơ chỉ giáo. Chư Đạo-hữu vật khi mạng-lịnh chí tự nhựt tân niên Đại-Tiên
tái hiệp. Kính lễ.
Giải thích:
(5) Có việc chi phải cầu cơ?
Bạch-Ngọc-Kinh có Đại-hội cải Luật cho buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ. Đức Lý Đại-Tiên có
trọng-trách lớn, nhiệm-vụ lớn, bận vấn đáp chơn-lý Tam-Kỳ lo cứu độ chúng-sanh,
ngày ngày phải có mặt nên không thể giáng cơ để tiếp xúc với trần thế mà chỉ dạy
được. Chư Đạo-hữu chớ khá khi lịnh mà xem thường. Đợi đến ngày đầu năm mới sẽ gặp
lại.
d/ - Thành Tân-Luật:
* Ngày 8-1 Tân-Mão Đức Lý
giáng cơ cho biết:
Đại hỉ! Đại hỉ!
Lão đã nói Đạo đã lập
thành, vậy cây cờ chơn-chánh đã vững gốc đặng làm biểu-hiệu cho cả chúng-sanh dòm
lấy đó mà đến nơi Bạch-Ngọc-Kinh, nghĩ mà mừng, mà hễ mừng thì lại càng thêm giận
lẫn vào trong.
Thượng-Trung-Nhựt! Lão đã
nói, mà Thầy cũng đã nói trước rằng: Khi thành Đạo, nghĩa là khi “Tân-Luật”
phát hành thì trong hàng Môn-đệ may lắm còn lại nửa phần, trong đám Thiên-phong
nhiều kẻ e còn bị trục-xuất thay! Thầy vì lòng Từ-bi can-gián Lão, bằng chẳng
Lão đã dụng hình-phạt mà răn những kẻ giả dối ấy và nay là ngày Vía của
Chí-Tôn, nhiều kẻ cầu Đạo không đáng dung-nạp, nhưng mà Từ-Bi biểu Lão ân-xá, nên
toàn thâu không đuổi ai hết.
Ban phước cho cả chư Đạo-hữu,
chư Đạo muội.
Chư Đạo-muội khá hội đủ mặt
ngày nạp Luật đặng Lão ban “Thiên-phục”
D - Luận Đạo: Luận về Tân-Luật
1 - Đạo quí ở chữ “Hòa” tức là Âm Dương
Hòa-hợp:
Thể-pháp của Đại-Đạo đâu
đâu cũng thấy sự hoà-hiệp một cách khít-khao, do vậy mà thể-pháp đã hiện hình
bí-pháp làm chơn-truyền để phổ-thông nền chơn-đạo của Chí-Tôn trong buổi Tam-Kỳ
Phổ-Độ. Hòa là sự hỗn-hợp của âm dương, đến mức độ quân-bình nhau, gọi là âm dương
tương-hiệp.
“Theo bí-pháp chơn-truyền
của cơ sanh hoá phải có đủ âm-dương. Trong sanh-quang chúng ta có điện-quang
(Positif và Négatif) cũng như vạn-vật có trống mái. Nền Tôn-giáo nào có đủ
âm-dương thì mới vĩnh-cữu”.
Riêng về Pháp-Luật Đại-Đạo
thì có:
* Tân-Luật thì do Đức
Chí-Tôn dạy nhóm Hội-Thánh lập Luật. Tân-Luật được thành hình, tuy nhiên theo
thời-gian cũng phải thay đổi cho phù-hạp với trình-độ tiến-hóa của nhơn-sanh,
nên đó là cơ âm.
* Pháp-Chánh-Truyền thì do
chính Đức Chí-Tôn truyền Chánh-pháp đời đời không thay đổi, nó sẽ bất di bất dịch
với thời-gian, đó là cơ dương.
Âm dương đã hòa-hiệp để được
lưu-truyền đến thất ức niên như Thầy đã dạy:
2 - Tân-Luật đã gồm trọn Tam-giáo Tinh, Khí, Thần
hiệp nhứt
Người tu theo Đạo Cao-Đài
nếu tùng theo Cựu-luật thì trái hẳn với Thiên-điều của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Vì tùng Cựu-luật tức tùng Thiên điều, hễ tùng Thiên-điều thì khó mà lập-vị cho
mình đặng.
Nay thầy đã quyết-định điều
ấy nên Pháp-Chánh-Truyền dạy “Tân-Luật đã gồm trọn Tam-giáo mà ba Cựu-luật của
Tam-giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là Tân-Luật”. Vậy một mà thành ba,
mà ba cũng như một. Chẳng luật-lệ thì là trái phép, mà trái phép thì thế nào
vào Bạch-Ngọc-Kinh cho đặng.
Tân-Luật có ảnh-hưởng đến
Tiên phong Phật-sắc của người tu.
Bởi Tân-Luật đã thể hiện được
Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt:
Cửu-Trùng-Đài thể hiện cơ
vô-vi Tinh, Khí, Thần ấy. Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Thái là Thần. Nếu cả ba
không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ.
Từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở
xuống thuộc về Thế là Đời, từ Đầu-Sư trở lên thuộc về Thánh nghĩa là Đạo.
Bên Hiệp-Thiên-Đài cũng có
Đời và Đạo.
Mà Bát-Quái-Đài cũng phải
vậy, tức là trong Đạo có Đời mà trong Đời cũng có Đạo. Nghĩa là trong âm có
dương, trong dương có âm.
Con số 3 đã đứng vào vị-thế
tối ư quan trọng trong Tân-Luật này.
3 - Các con số của Bát-quái
Trong “cái tinh-túy của
Tân-Luật là Chí-Tôn định cho Ngũ-Giới-Cấm, Tứ-Đại Điều-Qui và trong ấy cốt-yếu
bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của toàn thể con cái của Ngài. Đó là Thiên-luật của
Đại-Đạo”. Như vậy đã gồm đủ các con số Tam (tam âm tam dương), con số tứ (tứ âm
tứ dương), số ngũ, là ngũ trung để hoàn thành Bát-quái Cao-Đài, tức là Bát-quái
Đồ-thiên đó vậy.
4 - Luật phản-phục
Khi lập Luật, Thầy dạy khởi
đầu:
- Lập tu gọi là “Tịnh-thất-luật”.
- Kế nữa lập luật trị gọi là “Đạo-pháp-luật”.
- Ba là lập luật đời gọi là “Thế-luật”. Các con
hiểu à? (18-12-1926)
Nhưng thực tế khi thành Luật:
* Thì “Đạo-pháp-luật” được
lập trước, cả thảy có 8 chương, tổng cộng 32 điều.
* Kế đến là “Thế-luật” 24
điều.
* Sau cùng là “Tịnh-thất-luật”
8 điều. Cọng chung là 64 điều ứng với 64 quẻ Bát-quái biến-hóa (8x8=64).
Đó là Tân-Luật đã thể hiện
theo hai chiều của chữ “vạn” tức là theo “cơ tấn-hóa” trước, để rồi trở về theo
“cơ phục-nguyên” đều theo chu-kỳ của Bát-quái biến-hóa, mà Đức Chí-Tôn gọi là
“phản tiền vi hậu”.
5 - Dâng Tân-Luật là “cơ định-vị” tức là con đường
trở về với Đại-ngã
- 3 vị Chánh-Phối-Sư dâng
luật thế nào cho đủ 6 bàn tay trên bộ luật ấy chẳng cho hở đặng dâng lại cho Đầu-Sư
(số 6)
- 3 vị Đầu-Sư phải đủ 6
bàn tay trên bộ luật đặng dâng lại cho Chưởng-Pháp (số 6)
- 3 vị Chưởng-Pháp phải đủ
6 bàn tay trên bộ luật đặng dâng lên cho Đức Lý Giáo-Tông (số 6)
Xem thế thì mỗi phẩm cấp
có 3 vị, mà 3 phẩm-cấp là 3x3=9 vị (con số 9)
Kế đến mỗi phẩm phải đủ 6
bàn tay, mà mỗi phẩm-cấp thì 3 vị cho nên bằng (6x3=18). Nếu lấy 1+8=9 ta sẽ có
đến 3 con số 9 nữa, cọng chung là 4 con số 9.
4 lần 9 tức là 36 (4x9=36)
ấy là thành số của Bát-quái Hư-vô, ứng hiệp với câu:
“Ba mươi sáu cõi Thiên-tào,
“Nhập trong Bát-quái mới vào Ngọc-Hư”
“Quê xưa trở, cõi đọa từ,
“Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.”
Tức là sau khi đã đến con
số 9, là con số huyền-diệu nhiệm-mầu, chuyển biến đến mức độ tận thiện, tận mỹ,
toàn tri, toàn năng ở trạng-thái tĩnh vận-hành suốt thông trời đất, rồi từ đó mới
biến-hóa ở chu-kỳ kế tiếp.
“Bộ luật được đặt tại “nơi
Tiên-vị của Đức Lý Giáo-Tông một ngày một đêm”. Số 1 mở ra cho chu-kỳ mới, cho
nên sau cùng thì hai vị Chưởng-Pháp lên lấy bộ Luật xuống giao cho Hiệp-Thiên-Đài,
có nghĩa là cái sự vận-hành không bao giờ ngừng dứt.
Tóm lại Tân-Luật đã thể hiện
rõ nét của hai Bát-quái:
* Bát-quái Đồ-thiên.
* Bát-quái Hư-vô.
6 - Nội-dung bộ Tân-Luật
Toàn bộ Tân-Luật chỉ có ba
vấn-đề:
- Đạo-pháp có 8 chương:
Chương I: Chức-sắc cai-trị
trong Đạo có 8 điều.
Chương II: Về người giữ Đạo
có 7 điều.
Chương III: Về việc lập họ
có 5 điều.
Chương IV: Về Ngũ-giới-cấm
có 1 điều.
Chương V: Về Tứ-đại-điều-qui
có 1điều.
Chương VI ; Về giáo-huấn
có 3 điều.
Chương VII: Về hình-phạt
có 6 điều.
Chương VIII: Việc ban hành
luật-pháp có 1 điều.
Tổng-cộng 32 điều.
- Thế-luật có 24 điều .
- Tịnh thất có 8 điều.
Như thế toàn bộ Tân-Luật
có cả thảy 64 điều.
Việc này cho ta một kết-luận
về con số Bát-quái đã thành hình:
* 3 vấn-đề lớn tượng-trưng
lý tam-tài thật rõ nét.
* Về Đạo-pháp có 8 chương,
đó là con số chỉ Bát-quái quẻ đơn. Nhưng khi biến thành quẻ kép thì bằng
(8x8=64 quẻ kép); thế nên tổng cộng có 64 đề mục.
Đây là sự biến-hóa của
Bát-quái đó vậy.(Xem chương VIII)
Trọng-yếu của Tân-Luật là
người giữ Đạo phải biết “giữ Ngũ-Giới-Cấm và Tứ-Đại Điều-Qui”.
Nhất là về Thế-luật ở điều
thứ ba là:
“Phải giữ Tam-cang Ngũ-thường
là nguồn cội của Nhơn-đạo: Nam thì hiếu-đễ, trung-tín, lễ-nghĩa, liêm-sĩ. Nữ
thì tùng phu, tùng phụ, tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh”.
“Trong Tân-Luật ấy Chí-Tôn
định cho Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại điều-qui và trong ấy cốt yếu bảo-vệ Tam-cang
Ngũ-thường của toàn thể con cái của Ngài. Thật ra cái Thiên-luật của Ngài mà
Ngài đã để trong tâm-não con cái của Ngài:
Đây là vấn-đề căn-bản của
Nhơn-đạo nên trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển: Thầy dạy Nữ-phái biết trọng Tam-tùng
Tứ-đức, Nam-phái Tam-cang Ngũ-thường. Hễ Nhơn-đạo thành thì là phù-hạp Thiên-đạo,
nghe à! (TNI/ 101)
III - PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN
1 - Giai-đoạn thành hình Pháp-Chánh-Truyền
Ngày 15 tháng 10 năm
Bính-Dần (dl 19-11-1926) Đức Chí-Tôn dạy thiết Đại-lễ Khai-Đạo chính thức tại Từ-Lâm-Tự
(Gò-Kén Tây-Ninh) đồng-thời Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền, phong vị cho Chức-sắc
Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng-Đài. Đức Chí-Tôn dạy nhóm Hội-Thánh lập Luật.
Vậy sau ba tháng Đại-hội,
Đạo đã có Pháp, có Luật thì nghiễm-nhiên Đạo đã thành một nền Tôn-giáo danh gọi
là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Lần Khai Đại-Đạo này “Đức
Chí-Tôn chẳng giáng bằng xác thân mà lại dùng tánh đức lương-sanh lập quyền Hội-Thánh
làm hình-thể hữu-vi cho Đức Chí-Tôn, thay thế và lập Vạn-linh đối phó cùng quyền
Chí-linh, ấy là cơ-quan mầu-nhiệm để cứu vớt quần-sanh giải-thoát khỏi chốn
sông mê bể khổ; kỳ Hạ-nguơn này dầu chúng-sanh có tàn bạo hung-ác thế nào cũng
không tàn hại xác thân của Đức Chí-Tôn như các vì Giáo chủ buổi trước vậy.
Bởi quyền Vạn-linh có đủ
nghị-lực tinh-thần lập khuôn viên Pháp-luật xây chuyển cơ Đạo và cơ Đời thuận
theo lẽ tuần-huờn của Tạo-hóa”. (ĐHP 1-7 Mậu-Dần 1938)
“Lập Pháp-Chánh-Truyền Thầy
có hội cùng Đức Lý Giáo-Tông được trọn quyền thay thế Đức Chí-Tôn, hễ cái gì Hộ-Pháp
và Giáo-Tông hiệp lại lập ra trong cửa Đạo tức là lời dạy bảo của Đức Chí-Tôn,
không có việc gì từ nhỏ chí lớn mà không có mạng lịnh của Chí-Tôn trong đó”.
2 - Pháp-Chánh-Truyền chú giải
“Quyền-hành và trách-nhiệm
trọng-đại nên Đức Lý Giáo-Tông nôn-nóng lập thành Pháp-Chánh-Truyền chú-giải
cho kịp Thiên-Thơ của Đức Chí-Tôn đã định.
Pháp-Chánh-Truyền chú-giải
đó là phân quyền cho Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài cho khỏi giành
quyền nhau mà thôi và đồng thời trao trọn quyền ấy cho Hộ-Pháp có đủ phương kềm
chế nền Đạo của Đức Chí-Tôn.
Pháp-Chánh-Truyền là ở
trong cuốn Thiên thơ mà ra. Còn chú-giải là phân quyền-hành. Ngài giao cho con
cái Ngài gìn-giữ mà làm của báu không gì bằng, tức là Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển.
Trong quyển Thiên-Thơ này ngày kia có sản-xuất nhiều cơ-quan khác trọng-yếu nữa,
chớ chẳng phải một cơ-quan Phước-Thiện mà thôi.
Thầy đã dạy: Các con phải
nhớ rằng toàn thế-giới càn-khôn chỉnh có hai quyền:
“Trên là quyền-hành
Chí-Tôn của Thầy,
“Dưới là quyền-hành của
sanh-chúng.
“Thầy đã lập hình-thể hữu-vi
của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi, thì Thầy cũng phải ban
quyền-hành trọn vẹn của Thầy cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh,
còn các con cả thảy đứng vào hàng sanh-chúng, dưới quyền-hành chuyển-thế của đời
nghĩa là toàn nhơn-loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo-hóa vạn-linh vốn là con
cái của Thầy, vậy thì vạn-linh cũng có thể đoạt vị vào vào hàng Thần, Thánh,
Tiên, Phật đặng”…
Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
“Các Bạn Hiệp-Thiên-Đài!
Các người cầm cân công-bình thiêng-liêng của Đạo mà Đức Chí-Tôn đã để lại nơi mặt
thế này, hạnh-phúc hay đau khổ của toàn thể nhân-loại một ngày kia đều mơ vọng
trên mặt cân của chư Hiền-hữu. Bần-Đạo xin nhắc lại lời yếu-thiết của Đức
Chí-Tôn đã ký Hòa-ước với chúng ta là “Công-bình”, mà công-bình ấy Bần-Đạo đã gởi
nơi Hiệp-Thiên Đài đó vậy”.
Hội-Thánh của Thầy lập ra
đối-hàm cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Hội-Thánh chia ra làm ba
phần hiệp cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Người cho hiệp cơ mầu-nhiệm
chánh-trị của càn-khôn thế-giới thì mới ra lẽ Đạo đặng:
- Bát-Quái-Đài là Tòa ngự
của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mà Thầy làm chủ.
- Cửu-Trùng-Đài là tòa ngự
của chư Chức-sắc Thiên-phong đối hàm với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế mà
Giáo-Tông chưởng-quản.
- Hiệp-Thiên-Đài là nơi
chuyên về đạo-pháp, bảo-hộ luật đời và luật Đạo, như Ngọc-Hư-Cung nắm Thiên-điều
tức là Ngọc-Hư-Cung tại thế mà Hộ-Pháp chưởng-quản.
Hiệp-Thiên-Đài là cửa Trời
đó vậy. Hiệp là chung với, thiên là trời, tức là cửa vào đường Trời; cái thang
bắc cho phàm đến cùng Trời.
Trong Hiệp-Thiên-Đài có Hộ-Pháp,
Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh và Thập-Nhị Thời-Quân”. (ĐHP 14-2 Nhâm-Thìn 1928)
3 - Về quyền-hành của ba Đài
- Bát-Quái-Đài dưới quyền
Đức Chí-Tôn, Ngài là Chúa của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng vạn-linh, chính
ông chủ Bát-Quái-Đài là Đức Chí-Tôn.
- Cửu-Trùng-Đài là
Giáo-Tông làm chủ Hội-Thánh.
- Hiệp-Thiên-Đài là quyền
Hộ-Pháp làm chủ.
Ba ông chủ ấy, có hai ông
này: Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài nếu riêng ra thì không có thế gì dâng sớ
cho Bát-Quái-Đài, tức nhiên quyền Chí-Tôn ở nơi Bát-Quái-Đài. Hai đài Cửu-Trùng
và Hiệp-Thiên hiệp nhứt là quyền Chí-Tôn tại thế này, không có một quyền cai-quản
nào cải qua quyền Bát-quái được”. (ĐHP18-8-Kỷ-Sửu)
- “Bát-Quái-Đài là linh-hồn.
- “Cửu-Trùng-Đài là xác thịt.
- “Hiệp-Thiên-Đài là
chơn-thần.
Hồn đặng tương-hiệp cùng
xác phải nhờ chơn-thần. Chơn-thần lại là bán hữu-hình tiếp vô-vi mà hiệp cùng
hình-thể, cũng như Đạo tiếp Thánh-Đức của các Đấng Thiêng-Liêng mà rưới chan
cho nhơn-loại”.
Đức Hộ-Pháp nói:
“Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài
là phổ-thông nền chơn-giáo, lo về mặt giáo-hóa, bảo-tồn nền văn-hiến tồn-tại.
Phước-Thiện là thay cho Hiệp-Thiên-Đài
gánh vác nhiệm-vụ cứu khổ nên Hội-Thánh Phước-Thiện do nơi Qua cùng Đức Lý-Giáo-Tông
đã đồng-ý tạo nên hình tướng. Ngài rất vui lòng. Tại sao vậy?
Nhiệm-vụ của Hộ-Pháp phải
có Giáo-Tông, bởi Giáo-Tông Chí-Tôn định có quyền cai trị đường Đạo và đường Đời,
mà hễ Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế”
Hiện tại:
“Đức Lý Giáo-Tông là Anh cả
vô-vi, quyền Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm.
Ngài nói “Hễ Đạo trọng thì
tức nhiên chư Hiền-hữu trọng, vậy thì chư Hiền-hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn
người đời… Từ đây Lão hằng giữ-gìn cho chư Hiền-hữu hơn nữa, nếu thảng Lão ép
lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh, là cố ý muốn giá trị chư Hiền-hữu thêm
cao trọng nữa, vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà, nghe!”
“Lão đã nói: Đạo đã lập
thành, vậy cây cờ chơn-chánh đã vững gốc đặng làm biểu-hiệu cho cả chúng-sanh
dòm lấy đó mà đến nơi Bạch-Ngọc-Kinh. Nghĩ mà mừng, mà hễ mừng thì thêm giận lẫn
vào trong.
“Thượng-Trung-Nhựt! Lão đã
nói mà Thầy cũng đã nói trước rằng: Khi thành Đạo, nghĩa là khi Tân-Luật
phát-hành thì trong hàng Môn-đệ may lắm còn lại nửa phần, trong đám Thiên phong
nhiều kẻ e còn bị trục-xuất thay!”
4 - Trước tiên gọi là Tòa Đạo Hiệp-Thiên-Đài
“Y theo luật Hội-Thánh
ngày 16 tháng giêng năm Mậu-Dần (dl 15-2-1935).
Chiếu y Pháp-Chánh-Truyền
phân định và quyền-hành của Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài từ Hộ-Pháp, Thượng-Sanh,
Thượng-Phẩm tới Thập-Nhị Thời-Quân.
Chiếu y Thánh-giáo của Đức
Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn ngày 16 tháng 2 năm Ất-Hợi (dl 20-3-1935) phân
định phẩm cấp và quyền-hành từ phẩm Tiếp-Dẫn Đạo-Nhơn và trở xuống đến Luật-Sự.
Chiếu y Đạo-luật Hội-Thánh
năm Mậu Dần (dl 15-2-1935) về cơ-quan Tòa Đạo, phân định hình phạt và án tiết
cho những người phạm luật-pháp của Đạo.
Nghĩ vì:
TÒA ĐẠO là một cơ-quan để
bảo-thủ chơn-truyền y theo khuôn viên Đạo-pháp, không ai qua luật Đạo mà Hiệp-Thiên-Đài
chẳng biết.
Lập Tòa Đạo để trị kẻ
phàm, tức là dụng hình phạt phàm-trần đặng giảm bớt hình phạt thiêng-liêng. Vậy
Tòa Đạo là một cơ-quan trọng yếu nắm cân công-bình gìn-giữ trật-tự trong hàng đồng
Đạo.
Nghĩ vì hiện thời cần phải
dẫn-giải cho rõ thêm về quyền-hành và phận-sự của Chức-sắc Tòa Đạo tại
Tòa-Thánh và các địa-phương nên tổ chức và lập: NỘI LUẬT TÒA ĐẠO”.
Vậy Tòa Đạo là gì?
Đức Hộ-Pháp giảng:
“Từ thử đến giờ chúng ta thường quen gọi là Tòa
Hiệp-Thiên-Đài hay là Tòa Tam-giáo, nên đã 23 năm Đạo mà chúng ta vẫn chưa biết chỗ dốt của mình.
Đức Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn buổi nọ giáng bút hỏi
Bần-Đạo một câu bằng Pháp-văn “Expliquez Étymologiquement le mot Tòa?” (Vậy chớ
theo ngữ-nguyên tiếng “Tòa” nghĩa là gì?).
Bần-Đạo trả lời:
- Thưa Ngài, kêu Tòa là nơi để định án, xử tội kẻ phạm luật-pháp; Ngài cười và nói:
- Trật! gọi là Tòa là khi
nào nói tòa nhà hay tòa lâu-đài gì đó, chứ tiếng tòa không có định-nghĩa gì về
phương-diện Pháp-chánh cả. Bần-Đạo thừa dịp nhờ Ngài dạy nữa, Ngài nói:
- Cái tiếng của Chí-Tôn đã
đem đến đặt để nó khéo-léo hay-ho biết bao nhiêu, nghĩa-lý rất thâm diệu mà tại
sao không dùng?
Đức Chí-Tôn đến lập
Pháp-Chánh-Truyền giao cho Hiệp-Thiên-Đài gìn-giữ, trong đó có diệu-pháp của
Chí-Tôn đến lập vị cho con cái của Người tại thế-gian này. Ngài mượn xác thịt của
con cái Ngài tổng-hợp lại cho có trật-tự, có đẳng cấp, tức nhiên là lập
Thánh-thể của Ngài, các phẩm-trật có liên-quan với các phần-tử tức nhiên Hội-Thánh
tổng hợp lại là Thánh-thể của Ngài. Ngài lập Pháp-Chánh-Truyền cốt-yếu ban quyền-hành
cho Thánh-thể của Ngài, mà hễ đạt quyền được tức nhiên về với Ngài được.
Ấy vậy Pháp-chánh Hiệp-Thiên-Đài
là phương định vị, lập quyền đặng hiệp một con cái của Chí-Tôn cùng Chí-Tôn vậy.
Tới Hình Luật Tam-giáo
Từ thử Tam-giáo: Nho,
Thích, Đạo. Luật Tam-giáo có hữu-hình, có luật hình, vì cứ nói án, nên nói là
phạm luật-điều mà thôi. Luật hình ấy gồm cả Tôn-chỉ của Tam-giáo đem đặt tại thế
này cho thiên-hạ thực-hành, nhưng lần lần càng xa khuôn luật. Ấy vậy có hai phần:
- Pháp-chánh Hiệp-Thiên-Đài.
- Luật hình Tam-giáo.
Tuy hai phần khác thể, nhưng
cũng đều giao cho Hiệp-Thiên-Đài chưởng-quản hết. Nếu muốn gọi cho trúng thì gọi
Pháp-chánh Hiệp-Thiên-Đài là đủ nghĩa.
Bần-Đạo giảng-nghĩa:
PHÁP-CHÁNH HIỆP-THIÊN-ĐÀI là gì?
“Cốt-yếu của Đức Chí-Tôn đến
thế ban quyền-hành cho Chánh-thể của Ngài, Ngài buộc quyền thiêng-liêng kia hễ
con cái của Ngài đắc phẩm hữu-vi ở dưới thế này được toàn vẹn thì cũng phải
nhìn-nhận phẩm ấy ở cõi hư-linh kia. Bần-Đạo tưởng nếu không phải tay của Đức
Chí-Tôn thì không ai có quyền buộc các Đấng cầm quyền chánh-trị của càn-khôn thế-giái
là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật phải nghe theo như vậy bao giờ.
Ta cứ suy-nghĩ: một ông
Cha thương con nói: Tao đến với con tao, tao định cho nó làm Tể tướng ở thế-gian
này thì cả triều-chánh phải nhìn nó là Tể-tướng, chớ không phép cải, chỉ vâng mạng
lịnh Tể-tướng của nó mà thôi. Thiết tưởng nếu không phải nhà Vua thì không ai
biểu như vậy mà dân phục lịnh. Nếu không phải Chí-Tôn đến lập giáo thì không ai
đến đây mà có quyền buộc Cửu-Thiên Khai-
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét