Dịch Lý Cao Đài . Q 1 - 6 / 8 (Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy)


Pháp-Chánh-Truyền có dạy:
“Phép của Trời có một là thương khắp cả chúng-sanh, nên định phẩm-vị hữu-hình và thiêng-liêng có một, nghĩa là phải tương-đắc cùng nhau, đặng định quyết phép công-bình lành thăng dữ đọa.

Máy tạo bởi chữ hòa mà có, thì thế-giới càn-khôn cũng phải hòa mới vĩnh-cữu. Địa-cầu này cũng phải Hòa mới toàn hảo, nhơn-lọai cũng phải Hòa mới trường tồn,
chẳng khác nào xác thịt phải hòa-thụân cùng linh-hồn mới mong đọat Đạo.

Lấy lớn mà định nhỏ, xem nhỏ mà tìm lớn; thi-hài này nhờ hòa-khí mà thành hình, thì linh-hồn cũng phải tùng theo phép âm dương hòa hiệp mới qui hồi cựu bổn, linh-hồn bởi chữ hòa khí mới có đến thì tức nhiên phải nương theo hòa-khí mới có về.

Tuy pháp-bửu của các Tôn-giáo đã đọat đặng vẫn nhiều, chớ cơ mầu-nhiệm chỉ có chữ hòa là đủ.
- Thân thể cho mạnh-mẽ tinh-vi, đừng để sa-đà vào lục dục thì là thuận cùng trí-lự khôn ngoan.
- Khí-lực cho cường-thạnh thanh-bai đừng để đến đỗi mê-muội bởi thất tình, thì trí lự khôn ngoan thuận theo linh-tâm mà nẩy-nở.

- Linh-tâm phải định-tĩnh từ-hòa, đừng để đến đỗi mờ ám bởi tội-tình thì thuận với lòng trời, hiển linh tại thế đặng đọat phép huyền-vi.

Thân là Tinh, lực là Khí, trí là Thần.
Nói rõ ra thì Tinh là thân thể, Khí là điển lực nghĩa là trí lự, Thần là linh-hồn; ba cái báu của mình ngày nào tương đắc nghĩa là hòa-hiệp cùng nhau, thì người mới mong đắc Đạo.

Cơ Đạo của Chí-Tôn đến lập buổi Hạ nguơn Tam-Kỳ Phổ-Độ này duy lấy chữ Hòa làm tôn-chỉ.

Có hòa mới có hiệp, có hiệp mới có thương, mà sự thương-yêu là chìa khóa mở cửa Tam-Thập-Lục-Thiên, Cực-Lạc Thế-Giới và Bạch-Ngọc-Kinh, y như lời Đức Chí-Tôn đã dạy, chỉ nghĩa là Từ-bi Bác-ái mới đắc Đạo vô-vi, phải hòa-hiệp mới có cơ qui nhứt”

3 - Tính chất âm dương của quẻ
Điều đáng chú-ý là quẻ có quẻ âm, có quẻ dương.
Gọi là quẻ khi có đủ ba hào ấy là một quẻ đơn.
Quẻ Càn có ba vạch liền (quẻ dương).
Quẻ Khôn có ba vạch đứt (quẻ âm)

Hai quẻ Càn Khôn là quẻ chủ trong 8 quẻ (gọi là Bát-quái) tượng trưng cha, mẹ. Còn lại là 6 con, 3 nam (dương), 3 nữ (âm).

* Quẻ âm là quẻ trong đó chỉ có 1 hào âm, như:
Tốn có một âm dưới cùng gọi là Trưởng-nữ.
Ly có một âm ở giữa gọi là trung-nữ.
Đoài có một âm trên cùng gọi là thiếu-nữ.
* Quẻ dương là quẻ chỉ có một hào dương, như:
Chấn có 1dương dưới cùng, gọi trưởng-nam.
Khảm có một dương ở giữa gọi trung-nam.
Cấn có 1dương mới sinh ở trên, là thiếu nam.

Sở dĩ gọi là trưởng là vì hào dưới cùng là gốc, biến-hóa sau hết trong ba hào (trưởng nữ, trưởng nam)
Gọi là trung vì hào này biến-hóa ở giai-đọan thứ nhì (trung nữ, trung nam)
Gọi là thiếu vì hào này biến-hóa trước nhất, nên còn trẻ nhất (thiếu nữ, thiếu nam).

Nhận định:
Gọi là hào dương  vì chỉ có một vạch liền.
Gọi là hào âm  vì hào này có hai vạch đứt.
Nhìn vào 3 quẻ âm (mỗi quẻ đều có 3 hào, 4 vạch) Đó là: Tốn, Ly, Đoài .
Ba quẻ dương (mỗi quẻ có 3 hào, 5 vạch) là: Chấn, Khảm, Cấn .

Đây là lý-do vì sao Thánh-nhân dạy trai Tam-cang Ngũ-thường, Gái Tam-tùng Tứ-đức là khởi điểm từ nguyên-nhân lý Dịch này đây.

4 - Tam-cang Ngũ-thường khởi từ lý Dịch
- Bởi những quẻ tượng dương thì mỗi quẻ có 3 hào và 5 vạch; tức nhiên dương tượng cho Nam-phái, mỗi quẻ có ba hào không bao giờ thay đổi, lấy tính-chất vững bền đó làm qui-luật, giềng mối gọi là Tam-cang. Các quẻ dương dù ở hình thức nào cũng vẫn có 5 vạch. Sự cố định ấy lấy làm thường-đạo cho Nam làm Ngũ-thường là vậy. Nam thì lấy Tam-cang Ngũ-thường làm giềng mối.
- Những quẻ tượng âm thì mỗi quẻ có 3 hào và 4 vạch.

Cũng tương-tự như trên: quẻ âm tượng cho Nữ-giới, mỗi quẻ đơn âm cũng chỉ có ba hào không đổi, lấy làm tính-chất căn-bản cho phái-nữ là đạo Tam-tùng, quẻ âm vẫn luôn luôn có 4 vạch, với tính cách vững-chắc như vậy dùng làm Tứ-đức cho giới nữ-lưu. Thế nên lấy đạo nhơn-luân làm trọng thì Nữ giữ lấy Tam-tùng Tứ-đức.

Đây là tất cả giềng mối nhân-luân đạo trọng của dân-tộc Á-đông luôn có nền-nếp văn minh tinh-thần bất-khuất, dù ngày nay lượn sóng văn-minh vật-chất có lôi cuốn nhân-lọai vào cơn xáo-trộn kinh-hoàng! Chắc-chắn những cái gì hay đẹp truyền thống không bao giờ mất đi được.

Chính Đức Chí-Tôn đến để lập lại cán cân công-bình ấy để được sống lại thuần-phong mỹ tục cho Việt-Nam làm khởi điểm mà cũng làm gương cho cả nhân-loại; tức là làm người thật xứng đáng với đạo làm người!

Đức Chí-Tôn đã quyết-định cho:
Quốc Đạo kim triêu thành Đại-Đạo,
Nam-phong thử nhựt biến Nhơn-phong.

Vì lẽ đó nên Đức Hộ-Pháp quả-quyết:
“Tân-Luật Đức Chí-Tôn cốt-yếu muốn cho ta làm, đặng ta bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của nhân-lọai. Nói về phương Đông này dầu cho luận tới các quốc-gia, xã-hội đến đâu đi nữa, họ tự trọng, họ văn-minh thế nào họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm-luật ấy bao giờ. Nếu họ ra khỏi là muốn tự bỏ cả xã-hội của họ, thì họ sẽ thành cái gì chớ không thành xã-hội”.

“Trong Tân-Luật ấy Đức Chí-Tôn định cho Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại-điều-qui và trong ấy cốt-yếu bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường cho toàn thể con cái của Ngài. Thật ra cái Thiên-luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm-não con cái của Ngài”.

Thánh-ngôn đàn tại An-hóa, ngày 19-12 Bính-Dần (dl 22-1-1927)
Thầy dạy:
“Chư Ái-Nữ. Thầy vì Tam-Kỳ Phổ-Độ chẳng phân cao thấp, sang hèn, Thầy chỉ khuyên một điều là Đạo-hạnh các con phải giữ hàng ngày cho nhầm phương-pháp Nhơn-đạo, tức là Tứ-đức đó vậy, các con hiểu à!

Nền nhơn-luân của con nhà Nam-Việt chẳng lầm, mà tại các con hay nhiễm thường tình mà hư hoại, nên chi Thầy phải nhắc lại cho các con đừng lầm nữa, nghe các con!

Nam-phái vào. Các con nghe cho rõ, thường ngày các con trông thấy những điều trái tai gai mắt, các con có biết vì tại sao chăng?

Như kẻ làm quan ỷ quyền ức hiếp dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết vì tại sao chăng?... Tại vô Đạo...”

Đàn cơ tại Phước-Long-Tự, 1 Mars 1927
Thầy có dạy như vầy:
… “Chúng nó lại tưởng rằng kiếp người là kiếp sống chỉ có giây giờ rồi tiêu mất, nên tìm những chước sâu kế độc cho đặng của nhiều, no lòng sướng dạ, trối kệ luân-hồi.

Thầy hỏi: Vậy chớ cái trí khôn của con người biết thương ghét, vui buồn mà toàn nhơn-loại đều có, khi rốt cuộc thì trí khôn ấy đi đâu? Không lẽ cái trí khôn ngoan dường ấy mà cũng mất đi đặng sao các con? Thầy hỏi như vậy đặng cho các con mỗi đứa về suy nghĩ mà trả lời cho mình.

Hễ trả lời phù hạp thì dễ biết Đạo, còn ngu xuẩn thì cũng hườn ngu xuẩn...

Thầy dạy Nữ-phái biết trọng Tam-tùng, Tứ-đức, Nam-phái Tam-cang Ngũ-thường. Hễ Nhơn-đạo thành thì phù hạp Thiên-đạo, nghe à!”

BÀI II: 12 MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC CHÍ-TÔN

A - Duyên khởi
Ngày 9 tháng giêng năm Ất-Sửu (dl 21-2-1926) nhằm ngày vía Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Quan phủ Vương-Quan-Kỳ có thiết đàn riêng tại nhà ông số 80 đường Lagrandière (bây giờ là đường Gia-Long).

Khi ấy quan phủ Ngô-Văn-Chiêu xin Thượng-Đế lấy tên mấy người đệ-tử mà cho một bài thi kỹ-niệm:
THI
CHIÊU, KỲ, TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
Quờn, Minh, Mân đáo thủ đài danh.

12 chữ lớn ấy là tên 12 Môn-đệ đầu tiên của Thượng-Đế. Còn lại ba chữ nghiêng ở câu cuối là tên của ba vị hầu đàn.
Trong số 12 tên thì lại có 13 người, nhưng sau đó thì chỉ còn lại 12 người mà thôi. Bởi ông Chiêu đã tự ý lập Đạo vô-vi tách khỏi Tòa-Thánh. Trong câu nhì chữ Sang có hai vị: Cao-Hoài-Sang và Võ-Văn-Sang Thầy điểm chung một tên.

Cách ít ngày sau, Thượng-Đế giáng cơ dạy mấy ông: Trung, Cư, Tắc, Sang, Hậu, Đức phải hiệp với ông Phủ Ngô-Văn-Chiêu mà lo mở Đạo. Ngài lại dạy rằng mỗi mỗi phải do nơi ông Chiêu là Anh Cả. Gồm:
1 - Ngô-Văn-Chiêu                 2 - Vương-Quan-Kỳ
3 - Lê-Văn-Trung                    4 - Nguyễn-Văn-Hoài
5 - Đoàn-Văn-Bản                  6 - Cao-Hoài-Sang
7 - Võ-Văn-Sang                    8 - Lý Trọng Quí
9 - Lê-Văn Giảng                    10 - Nguyễn-Trung-Hậu
11 - Trương-Hữu-Đức            12 - Phạm-Công-Tắc
13 - Cao-Quỳnh-Cư               
Trong số người có tên kể chung là 13 người.

Giải-nghĩa bài thơ trên:
Câu 1: có chữ “Thầy” là ngôi Thái-cực là Thượng-Đế.
Câu 2: Thầy có nói “Chiêu kỳ trung độ dẫn hoài sanh” là dầu trẻ con trong bụng cũng phải độ.
Câu 3: Nguồn gốc của nền Đạo rất nên quí báu được truyến-bá cho nhơn-loại ắt thành quả.
Câu 4: Đức độ lớn sẽ được thiêng-liêng ban thưởng và đạt vị nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Câu 5: Người có trí huệ được nêu tên trên đài danh-dự của cõi trời.

Trước đó là đêm 30 tháng chạp năm Ất Sửu (12 Février 1926) Thượng-Đế giáng cho mỗi người một bài thi, nhưng hôm ấy ông Ngô-Văn-Chiêu vắng mặt nên không có cho thi. Thử tìm về nguồn để biết tiểu-sử các bậc tiền khai Đại-Đạo:

1 - Ông Ngô-Văn-Chiêu
 Ông Ngô-Văn-Chiêu chỉ lo bề tự giác, ý của ông không muốn truyền-bá mối Đạo ra cho nhiều người. Ông vẫn lấy câu “Ngô thân bất độ hà thân độ” (tức là thân tôi chưa độ được hà tất độ được ai) làm tôn-chỉ. Vì vậy mà ông tách riêng ra từ ngày 14-3 năm Bính-Dần (dl 24-4-1926). Cùng một ý-kiến ấy có các ông Nguyễn-Văn-Hoài, Võ-Văn-Sang, Lý-Trọng-Quí.

Từ đây tuy đôi bên chủ-nghĩa khác nhau vì nhóm của ông Lê-Văn-Trung thì lo phổ-độ, còn nhóm của ông Chiêu thì lo bề tự-giác; nhưng về phương-diện tín-ngưỡng thì cũng đồng kỉnh thờ Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.

Theo Đạo-Sử của bà Hương-Hiếu (ngày 21-10 Bính-Dần dl 26-11-1926) Thầy nói:
“Thầy cũng thương đó chút. Thầy đã nói cái lòng thương của Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm-trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật biết sao cứu rỗi cho đặng.

“Thầy lại phải làm thinh cho kẻ thì mất lẽ công-bình. Thơ nó tưởng Thầy giận mà nài xin tha-thứ. Thầy thì đặng còn chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao? Nhất là Thái-Bạch Kim Tinh rất khó. Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi.
Các con chớ dễ ngươi mà phạm thượng nghe à!”
Trước đó thì chư Môn-đệ đồng quì lạy Thầy xin thứ tội cho ông Chiêu.
Ngày 24-4-1926 dương lịch, trích Đạo-Sử của bà Hương-Hiếu (trang 109):

“Chiêu đã có công tu, lại là Môn-đệ yêu dấu của Thầy nên Thầy muốn ban chức Giáo-Tông cho nó, song vì lòng ám-muội phạm đến oai-linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà dìu-dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy mà dạy-dỗ các con”.

Tái cầu:
“Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương-yêu nhơn-loại là dường nào. Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội-hiệp cùng nhau, thương-yêu nhau trong đạo-đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia-lìa các con là đứa thù-nghịch của Thầy.

“Chiêu đã hữu căn, hữu kiếp: Thầy đã dùng huyền-diệu mà thâu phục, độ rỗi nó trước các con. Biết bao phen Thầy gom các Môn-đệ lại. Thầy sở cậy nó ấp-yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con. Song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách-nhiệm rất lớn của Thầy toan phú-thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó. Nghe và tuân mạng lịnh Thầy”.

Thầy dạy (đêm 14 rạng 15 tháng 3 năm Bính-Dần (25 và 26-4-1926):
“Chiêu, thiếu đức, thiếu tài.
“Trung, con sợ ai?
“Ta không sợ ai! Ta biết hơn ngươi. Ta há không biết thương sao?
“Ấy cũng vì thiếu đức. Nó đã biết Ta. Cứ tuân lời Thầy đã truyền mà thi-hành!

Ngày 26 Avril 1926: Cao-Đài,
“Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh Ta, Ai kiên? Ta chờ ngươi.
“Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh Ta, ai thừa lịnh?
“Ta đã nói ngươi làm đầu Tam-giáo, đã bao phen Ta lập Đạo sẵn cho, ngươi chê há? Ta đã sở định, ngươi dám cải:
“Chuyên quyền từ đó bỏ tuồng xưa,
“Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
“Sám-hối Ta cho tu ít tháng.
“Tài hay, tài múa chớ đua lừa.”

Ông Bảo-Pháp viết quyển Đại-Đạo Truy Nguyên cũng có nói:
“Khi quan phủ Ngô-Văn-Chiêu trấn-nhậm tại Hà-Tiên (nhằm năm 1919) ông thường thiết đàn thỉnh Tiên để cầu thuốc cứu chữa bịnh-nhân cùng học hỏi về đường đạo-đức. Có một vị giáng cơ xưng là Cao-Đài Tiên-Ông thường kêu đích danh Phủ Chiêu mà dạy Đạo. Chư nhu hầu đàn thảy đều lấy làm lạ, vì thuở nay không hề thấy trong kinh sách nào nói đến Cao-Đài Tiên-Ông bao giờ, duy có một mình Quan Phủ Chiêu thông minh huệ-trí. Xem ý-tứ trong mấy bài thi Đức Cao-Đài giáng cơ, thì nhận chắc rằng Ngài là Cao-Đài Thượng-Đế giáng lâm. Từ đó ông Chiêu lại càng kính trọng Đức Cao-Đài hơn nữa và xin phép lập vị phượng thờ. Đức Cao-Đài bèn dạy vẽ Thiên-Nhãn mà thờ.

Kịp khi ông Chiêu thiên-nhậm về Sài-gòn, ông lựa trong bạn đồng-chí những vị nào có ít nhiều đạo-đức mà khuyên thờ Đức Cao-Đài và chuyên việc tu tâm dưỡng tánh. Chư vị ấy là Quan phủ Vương-Quan-Kỳ, ông phán Nguyễn-Văn-Hoài, ông Phán Võ-Văn-Sang, ông Đốc-học Đoàn-Văn-Bản.

Đó là mối Đạo mới bắt đầu phăn ra, song ông Chiêu vốn là người rất dè-dặt, nếu không phải là người đồng tâm mật-thiết thì không bao giờ ông khuyên việc tu-hành, vì vậy mà mối Đạo ít người biết rõ. (Đại-Đạo Căn Nguyên, trang 24-25)

Đức Hộ-Pháp cũng nói:
“Đi thâu Thập-Nhị Thời-Quân rồi Đức Chí-Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một người thờ Ngài rồi là ông Ngô-Văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức Chí-Tôn biểu bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu may sắc phục Giáo-Tông cho Người, kỳ hẹn trong mười ngày Người sẽ được tôn làm Giáo-Tông, trong thời-gian mười ngày, chỉ có mười ngày mà thôi, chúng tôi không hiểu nguyên-cớ nào mà ông Ngô-Văn-Chiêu không hưởng được địa-vị ấy”. (ĐHP 13-10 Giáp-Ngọ 1954)

2 - Bài thi cho ông Vương-Quan-Kỳ
Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề Đạo dữ tân.
Vô lao công-quả tu đương tác,
Niên quá niên hề Đạo tối-tân.
                                               (AĂÂ)

Ông Vương-Quan-Kỳ (1880-1940) là người ở Chợ-lớn, cháu ngoại của nhà Nho yêu nước Huỳnh-Mẫn-Đạt, đậu Cử-nhân làm quan hai triều Minh-Mạng và Tự-Đức, rồi từ quan khi nhà Nguyễn ký Hòa-ước 1862 với Pháp.

Ông Kỳ học ở trường Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành-chung, cùng làm quan với ông Chiêu ở Dinh Thống-đốc Nam-kỳ, ngạch Tri-phủ.

Ngày 15-3 Bính-Dần ông được phong chức Tiên đắc lang quân nhậm thuyết đạo Giáo-Sư. Rồi ông được Thiên-phong Giáo-Sư phái Thượng, tức là Thượng-Kỳ-Thanh ngày 14-5 Bính-Dần.

Nhưng đến ngày 14-11 Bính-Dần (18-12-1926) thì Đức Lý giáng dạy:
“Thượng-Kỳ-Thanh bị sụt chức làm Giáo-Hữu. Như không tuân lịnh xuất ngoại”

Đến ngày 18-11 Bính-Dần (22-12-1926) Đức Lý dạy:
“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu viết thơ cho mấy Thánh-Thất lục tỉnh nói Thượng-Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn-đệ chẳng quyền-hành truyền Đạo nữa. Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt Tả đạo bàng môn thì chịu, nghe à! Đã lập pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên-điều tránh sao cho khỏi tội. Hộ-Pháp Hiền-hữu khá an lòng.

Qua ngày 28-11 Bính-Dần (1-1-1927) thì Đức Lý giáng dạy:
“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu từ đây coi Thượng-Kỳ-Thanh như một Môn-đệ vậy thôi, chứ chức Giáo-Hữu cũng cất luôn nữa. Thầy để lời xin tha mà pháp-luật đã phạm tha sao cho được”

3 . Bài thi cho ông Lê-Văn-Trung
Đã thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng nhau xúm-xít dẫn lên đường.
Đạo Cao phó có tay cao độ,
Gần-gũi sau ra vạn dặm đường.
(AĂÂ)

Ông Lê-Văn-Trung (1876-1934) là người thuộc gia-đình tiểu nông, làng Phước-Lâm (tỉnh Chợ-Lớn). Ông rất thông-minh, giỏi tiếng Pháp, sau khi tốt nghiệp trường Chasseloup Laubat, ông vào làm thơ-ký ở Dinh Thống-đốc Nam-kỳ từ ngày 14-7-1893. Qua năm 1911 ông vào Thượng-Nghị-Viện Đông-Dương. Năm này ông lập Nữ học đường, đó là Trường Áo Tím, sau đổi là trường Gia-Long.

Ngày 5-12 Ất-Sửu (18-1-1926) Đức Chí-Tôn giáng đàn dạy hai ông Cư, Tắc đem cơ đến nhà ông để Đức Chí-Tôn độ ông. Cuộc đời hành đạo của Ngài 8 năm tròn, từ ngày 19-11-1926 đến ngày 19-11-1934 là ngày qui thiên của ông.

Ông Lê-Văn-Trung là quyền Giáo-Tông của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ thật là một bậc đầu công của Đạo rất gương mẫu.

4 - Bài thi cho ông Nguyễn-Văn-Hoài
Vô-vi tối yếu Đạo đương cầu,
Đệ-tử tâm thành bất viễn ưu.
Thế sự vô duyên vô thế-sự,
Tiêu tư bất xuất ngoại gian đầu.
                                                           (AĂÂ)

Phần đời ông làm Thông-phán. Phần đạo thì tu chơn. Ông Nguyễn-Văn-Hoài là bạn tu của ông Ngô-Văn-Chiêu, hoạt-động hăng-hái lúc đầu, nhưng đường Đạo thì dài, bước Đạo gập-ghềnh khó tới, ông không có giữ một vai-trò nào trong cơ phổ-độ của Đức Chí-Tôn, ông cũng được Đức Chí-Tôn ban cho thi đêm 30 tháng chạp năm Ất Sửu như trên.

5 - Bài thi cho ông Đoàn-Văn-Bản
Thương thay trung-tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt-thòi bấy phận không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.

Phần đời ông là Đốc-học trường Cầu Kho. Phần Đạo ông là Giáo-Sư. Nhà ở Cầu-Kho, sau làm nơi qui tụ tín-đồ nên đặt là Thánh-Thất tạm Cầu-Kho. Đây cũng là nơi khởi khai mối Đạo Trời. Buổi họp mặt của 28 vị tiền khai Đại-Đạo, cũng chính nơi đây lập TỜ KHAI ĐẠO.

Hiện giờ đã dời sang đường Nguyễn-Cư Trinh (Thánh-Thất Nam-Thành) nhưng cũng còn những dấu tích của Thánh-Thất Cầu-Kho cũ.

Ông Đoàn-Văn-Bản tự là Văn-Long, người làng Tân-Uyên, tỉnh Biên-Hòa. Học trường Tiểu học Biên-Hòa rồi nội-trú trường Sư-phạm tại Gia-Định. Đi dạy nhiều nơi, sau cùng về trường Tiểu học Cầu-Kho (nay là trường Trần-Hưng-Đạo). Đốc-học cũng như Hiệu-trưởng bây giờ.

Khi vào Đạo Cao-Đài rồi, ngày 1 tháng 12 Ất-Sửu, ông Bản muốn xin lập đàn cơ, Đức Cao-Đài có cho một bài thi trả lời, ý nói Trời ban cho ai thì nấy hưởng chớ không phải muốn mà được, rằng:
THI
Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
Gắng công ắt đặng công mà chớ,
Buồn-bực rồi sau mới có mừng.

6 - Ông Cao-Hoài-Sang (1900-1971)
Chính ngày mà Đức Thượng-Đế giáng ban cho thi ông không có mặt. Về phần đời ông là Tham tá thương chánh. Phần Đạo là Thượng-Sanh của Hiệp-Thiên-Đài.
Ngài Cao-Hoài Sang sanh tại xã Thái-Bình tỉnh Tây-Ninh.
Thân sinh là ông Cao-Hoài-Ân (mất sớm)
Thân-mẫu là Hồ Hương-Lự (Nữ Đầu-Sư đứng đầu Nữ-phái)
Ngài là con út trong gia đình (thứ tư) phẩm Thượng-Sanh.
Anh Cả là Cao-Đức Trọng, là Tiếp-Đạo Chơn-Quân của Hiệp-Thiên-Đài
Người chị thứ ba là Giáo-Sư Cao Hương-Cường (Cửu-Trùng-Đài)

Thật là một gia đình danh gia vọng tộc, mà trong cửa Đạo này từ trước đến giờ chưa thấy.
Sau khi Ngài đỗ Thành-chung thì làm việc tại sở Thương chánh (tức là sở quan thuế Sài-Gòn) đến chức Tham-tá Thương-chánh thì hồi hưu.

Ngài còn là Tổ của Âm-nhạc Việt-Nam, hiện nay trường Quốc-gia Âm-nhạc thờ vị Tổ đó là Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang của Tòa-Thánh Tây-Ninh.

Cuộc đời hành-đạo của các Ngài đều nổi bật trong quyển DỊCH-LÝ CAO-ĐÀI này, đã làm sáng danh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

7 - Bài thi cho ông Võ-Văn-Sang
Tân-dân hỉ kiến đắc tân niên,
Phổ-Độ Tam-kỳ bá thế hiền.
Nhứt tịnh chủ tâm chơn Đạo-lý,
Thăng thiên huợt địa chỉ như nhiên.
                                                                       (AĂÂ)

Phần đời của ông Võ-Văn-Sang là Tham phán. Phần Đạo thì ông tu chơn.

Trong cửa Đạo Cao-Đài ông Võ-Văn-Sang không có nhận lãnh một nhiệm-vụ nào cả. Chỉ vì cùng đi theo các vị trên, nên được Đức Thượng-Đế ban cho thi vậy thôi.

8 - Bài thi cho ông Lý-Trọng-Quí
Lỡ một bước lướt một ngày,
Một lòng thành-thật chớ đơn sai.
Lôi-thôi buổi trước nhiều ân-xá,
Lấp-lửng đừng làm tội bữa nay.
                                                           (AĂÂ)

Ông Lý-Trọng-quí chỉ là người tu chơn, giống như trường-hợp ông Sang vậy.

9 - Bài thi cho ông Lê-Văn-Giảng
Trần tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe nơi Đại-Đạo ráng nghe luôn.
Ở trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Ách nạn chi chi cũng chảy luôn.
                                                           (AĂÂ)

Phần đời của ông Giảng là Thư-ký hãng Hippolito. Phần Đạo ông được đắc phong Lễ-Sanh phái Thượng, tức là Thượng-Giảng-Thanh ngày 14-6 Bính-Dần.

Ngày 25-12 Bính-Dần thăng phẩm Giáo-Hữu rồi được thăng Giáo-Sư. Ông có nhiều công trong việc xướng lễ buổi đầu.

10 - Bài thi cho ông Nguyễn-Trung-Hậu tự Thuần-Đức:
THUẦN phong mỹ tực giáo nhơn-sanh,
ĐỨC hóa thường lao mặc vị danh.
HẬU thế lưu-truyền gia-pháp quí,
GIÁO dân bất lậu tán thời manh.

Ông Nguyễn-Trung-Hậu (1892-1961) là Đốc-học Tư-thục. Phần Đạo là Bảo-Pháp của Hiệp-Thiên-Đài.

Ông người tỉnh Gia-Định, con của ông Nguyễn-Phục-Lễ tức Nguyễn-Văn-Nhiêu, bút hiệu Tiết-Văn Đông-Y-Sĩ, làm bốn khoá hội-đồng An thiên tỉnh Gia-Định và Bà Lê-Thị Cơ là người gốc Gia-Định.

Ông Hậu tốt nghiệp trường Sư-phạm Gia-Định (École Normale de Gia-định) tháng 2 năm 1911.

Ngày 11-5- 1911 được bổ làm giáo-viên trường ở đường Taberd, sau về dạy ở trường tiểu học đường Richaud (nay là trường Nguyễn-Đình-Chiểu).

Năm 1926 làm ăn sa sút, có dịp được gặp đàn cơ Đức Chí-Tôn giáng, xin cầu hỏi có nên tiếp tục không.
Thầy giáng cho thi:
Con muốn làm sao tự ý con,
Nhà nghèo Nhơn-Nghĩa miễn vuông tròn.
Thầy đâu nỡ để Môn-Đồ cực,
Mối Đạo giữ cho ngàn thuở còn.

Ngày 4-8-1926, việc tư vẫn còn chưa an, nên thỉnh-giáo Thầy một lần nữa, Thầy giáng:
Cái khiếu thông-minh con ở đâu?
Kêu Thầy mà hỏi việc cơ cầu.
Hễ là quân-tử chi màng việc,
Hễ biết điều cao bớt việc sầu.

Ông Nguyễn-Trung-Hậu có lần đi cùng với ba ông Cư, Tắc, Sang đến dự đàn cơ, được Đức AĂÂ giáng cho thi;
THUẦN văn chất ĐỨC tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn-kiệt,
Đến hồi búa Việt giục cờ Mao.

Thuần-Đức là bút hiệu của ông Hậu, nhưng duy chỉ Đức Chí-Tôn điểm đúng tên, ông quá tin tưởng quyền-năng của Đức AĂÂ bấy giờ nên ông vào Đạo ngày 12-tháng 1 Đinh-Mão (dl 13-2-1927) ông thọ Thiên-phong Bảo-Pháp Hiệp-Thiên-Đài. Ông được biết tiền thân là Xích-Tinh-Tử, may-mắn được Quỉ-Cốc Đại-Tiên giáng đàn cho thi cũng khế hợp với tiền kiếp của ông:
Đỏ đỏ một vừng ấy hỏa-tinh,
Nhà Châu tên tuổi đã đành-rành.
Tam-kỳ tái thế an thiên-hạ,
Hậu nhựt thành-công hậu hứng tình.

Ngày 15-11 Mậu-Tuất (dl 24-12-1958) ông trở về Gia-Định dưỡng bịnh. Trong cuộc biến ngày 11-11-1960 vì tên tuổi ông bị nhóm tổ chức gán vào bản tuyên-ngôn nên ông bị câu-lưu từ 18-11-1960 đến 22-12-1960. Trở về ông an-nhàn với gia-đình.

Ông qui thiên lúc 16giờ 50 ngày 7-9 Tân Sửu (dl 16-10-1961). Tang lễ cử hành 5 ngày và an-táng tại quê nhà tại Gia-Định.

Thời-gian sau: ngày 4 đến 7 tháng 9 năm Giáp-Dần (18 đến 21-10-1974) Hội-Thánh di liên-đài về Tòa-Thánh Tây-Ninh nhập Bửu-tháp.

Đặc biệt là thi-hài của Ngài Bảo-Pháp Chơn-Quân khi chôn ở quê nhà là đặt trong hàng nằm hơn 13 năm, mà khi khai quật lên vẫn còn xác thể bình thường như mới chết, không hư, không dữa, nên khi đặt vào bửu-tháp (tức hàng ngồi) vẫn đặt ngồi thế kiết-dà và để vào liên-đài một cách dễ-dàng. Kẻ viết bài này đã được đọc báo Đạo và được trưởng ban nhà thuyền xác nhận điều ấy là một việc hi-hữu xưa nay.

Tháp của Ngài ở khu đất dành cho Thập-Nhị Thời-Quân tại Ao-Hồ, nhập bửu tháp lúc 7 giờ ngày 7 tháng 9 Giáp-Dần (1974).

11 - Ông Trương-Hữu-Đức (1890-1976)
Ngày hôm ấy vắng mặt trong kỳ đàn nên không có thi. Phần đời ông là Thư-ký sở Hỏa-xa.

Phần Đạo là Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài.
Ông người làng Hiệp-Hòa tỉnh Chợ-Lớn. Sanh năm Canh-Dần (1890) Ông vốn không tin vào việc xây bàn thỉnh Tiên của ba ông Cư, Tắc, Sang, nên về nhà tự xây bàn cầu hỏi riêng, được cơ giáng cho thuốc trị được chứng bịnh của ông đã hơn 10 năm. Ông cũng tự chấp-bút một lần được Đức Minh-Nghĩa Tiên-Ông giáng cho thi:
Minh-Đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn ao-ước cái không hay.
Mừng cầu Âu Á càng thêm mặt,
Mừng nậu côn-đồ đã chịu chay.

Sau ông được thiên-phong là Tiên Đồng tá cơ đạo-sĩ phò-loan tại Thánh-Thất Cầu-Kho. Ông thường đi phổ-độ cho chúng-sanh nhập môn cầu Đạo vào ban đêm, ngày thì làm việc. Ông cũng được Chí-Tôn ban cho huyền-pháp chữa trị nhiều bịnh nan y. Sau một thời gian thì dừng. Trước đây có nói “Đức cứu Đạo” chính là Người!.

Năm 1962 ngài về Tòa-Thánh cầm bộ Pháp-chánh và làm trưởng Ban Đạo-Sử. Ngày 25 tháng 5 Tân-Hợi (dl 13-5-1971) Ngài đắc phong Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài. Sau cùng Ngài qui thiên năm 1976, hưởng thọ được 85 tuổi

12 - Bài thi cho ông Phạm-Công-Tắc
Ngao-ngán không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn giàu thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.
                                               (AĂÂ)

Phần đời ông là thư-ký Sở Thương chánh. Phần Đạo là Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài tức là Giáo-chủ Đạo Cao-Đài.

Ngài được sanh ra đời ngày 5 tháng 5 năm Canh-Dần, làng Bình-Lập tỉnh Long-An. Thân sinh là Phạm-Công-Thiện, thân-mẫu là La-Thị-Đường.

Lúc thiếu thời rất khó nuôi, dễ bị chết giả. Dù gia đình theo Đạo Nho nhưng vì ông khó nuôi nên thường đến nhà thờ để rửa tội cho ông và theo Đạo Công-giáo.

Để rồi sau cùng ông đắc lịnh qui-nguyên Tam-giáo hiệp nhứt Ngũ-chi là vậy.
Vốn tư chất thông-minh ông đã thông Nho, rồi khi học ở trường giỏi Pháp-ngữ, ông học trường Chasseloup Laubat (nay là Jean-Jacques Roussau). Gia đình gặp phải khó khăn ông ra làm thư-ký sở Thương chánh.

Năm Ất-Sửu (1925) mang hoài-bão yêu nước nên quí ông thường bày cách xây bàn để cầu hỏi các vong linh quá vãng về hỏi vận-mạng đất nước. Đây cũng là cớ để mở đường xuất Thánh mà ba ông Cư, Tắc, Sang cùng làm một sở, là bạn thâm-giao nên là cơ-hội Chí-Tôn khiến cho tất cả đều qui tụ lại đây lấy “lương sanh mà cứu vớt quần sanh”.

Khi Ngài đã chính thức là Hộ-Pháp rồi thì công việc Đạo lúc nào cũng nặng-nề. Đến lúc phải chịu tù đày sang đảo Madagascar (Phi-châu) chịu nạn cho dân-tộc 5 năm 2 tháng, mà Ngài cũng vui nhận để cứu lấy đồng bào, nòi giống và cả nhân-loại nữa. Sau cùng Ngài phải tự lưu đày sang Miên-quốc để tránh cảnh nồi da xáo thịt và phải gởi thây nơi đất khách quê người. Cuối cùng người ta vẫn lợi dụng xác Ngài để dựng nên Thần, nên Thánh, nhưng chính đó Ngài đã dạy cho nhân-loại bài học Thương-yêu và Công-chánh mà Đức Chí-Tôn đích thân đến thế này cũng vì hai lẽ ấy mà thôi.

Năm 35 tuổi là năm ông phế đời hành đạo đến buổi qui thiên là 70 tuổi. Một cuộc đời đã trọn hy-sinh cho đạo-pháp. Những lời trích-dẫn trong tập sách nhỏ này là lời giảng dạy của Ngài.

13 - Bài thi cho ông Cao-Quỳnh-Cư
Sắp út thương hơn cũng thế thường,
Cái yêu, cái dạy, ấy là thương.
Thương không nghiêm trị là thương dối,
Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.
                                                           (AĂÂ)

Ông Cao-Quỳnh-Cư (1888-1929). Phần đời là thơ-ký sở Thương-chánh. Phần Đạo là Thượng-Phẩm của Hiệp-Thiên-Đài. Ông sinh năm Mậu-Tý (1888) tại Tây-Ninh. Đây là những tay rường cột của Đạo, nhờ tấm lòng trung kiên nên chỉ có mấy người mà đã làm nên hình, nắn nên tướng, đủ sức chống đỡ Đạo-quyền giữa buổi truân chuyên, khổ sở.

Đức Cao-Quỳnh-Cư đắc phong cùng một lượt với Hộ-Pháp và Thượng-Sanh.
Chính đây là tượng trưng cho “Đạo thành do ba người”.
Sau buổi ba Ngài quì cầu xin Đạo thì Thượng-Đế giáng cho thi:
Thiên-đàng nhứt thế biến Lôi-âm,
Tận-độ nhơn-sanh thoát tục phàm.
Chánh-giáo phát khai thiên thế mỹ.
Thâu hồi hiệp nhứt Đạo kỳ tam.
                                                           Cao-Đài Thượng-Đế

Thế rồi, ngày 1-1 Đinh-Mão (dl. 1-2-1927)
Thầy giáng cơ có để lời than:
“Trung, Cư, Tắc, mấy con nhớ đêm nay năm rồi thế nào không, còn nay ra thế nào chăng?

… Thầy lập Đạo năm rồi ngày này, thì Môn-đệ của Thầy chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại 8. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo. Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền-hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có 6 đứa Môn-đệ trong một năm cho đặng bao giờ.
Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết cả bốn muôn Môn-đệ của Thầy...”

Khi tôi có dịp làm việc ở Nam-Thành Thánh-Thất, chuẩn-bị viết tập “Kỷ-yếu 28 vị tiền khai Đại-Đạo” thì có một bạn của Thánh-Thất này nói với tôi rằng: Viết Tiểu-sử của các Ngài, có người thì không đủ giấy để viết, nhưng rồi cũng có người không có được tài-liệu để viết vào giấy.

Thật vậy, điều ấy đã đến với chúng tôi ngay trong hiện tại này.!

B - Luận về 12 Môn-đệ đầu tiên của Chí-Tôn
Nguyên-lý
Trước hết vẽ một vòng tròn tượng-trưng càn-khôn vũ-trụ, tâm 0 là ngôi Chúa tể tức là Đấng Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Trong vòng tròn là hai hình tam-giác AEC và DBF gát chồng lên nhau, tức là tam âm, tam dương, tạo thành hình ngôi sao sáu cánh. Lại vẽ thêm sáu cánh sao phụ thêm nữa, như vậy đã có 6 âm, 6 dương rồi.

Bắt đầu từ A đếm chung-quanh có cả thảy 12 hình tam-giác đều nhau xoay quanh một vòng tròn 0 lớn. Đó là cơ thống nhất vạn loại mà Thầy là vi chủ nên nói số 12 là số riêng của Thầy vậy.
Thầy ở giữa nắm pháp qui cơ, vòng tròn tượng trưng cho càn-khôn vũ-trụ, cả vạn-linh đều chung chịu trong khuôn luật đó.
Như vậy là có 6 âm, 6 dương, vì vậy mà ta không lấy làm lạ vì lúc khởi thủy nền Đạo có được 12 Môn-đệ đầu tiên.
Như chúng ta đã điểm lại công-nghiệp của các bậc tiền khai Đại-Đạo để thấy được bước diễn biến của Đạo-sự trong thời-gian qua và cũng không ngỡ-ngàng vì sao Đức Chí-Tôn phải để lời than như trên.

Thầy cũng đã nói không một việc gì qua định-luật của vũ-trụ hết. Dịch luôn luôn có âm dương đi liền nhau. Ban đầu 12 người là Môn-đệ của Thầy, nhưng trong số 12 ấy lại có hai người trùng tên Sang thành ra 13. Tại sao phải là con số 13?

Bởi nhìn vào đồ hình trên thì từ ngôi sao sáu cánh là có đến 12 tam-giác đều xoay quanh vòng tròn lớn mà Thầy vi chủ, nên biểu-tượng bằng tâm 0 cộng chung là 13 điểm. Thì ở đây người đứng số 13 là ông Cao-Quỳnh-Cư tức Thượng-Phẩm nắm chi Đạo, cũng thuộc tâm O, tức là hòa-nhập cùng Thượng-Đế để có sự Thiên nhơn tương-hợp. Nhưng đến ngày Khai Đạo rằm tháng 10 thì ông Ngô-Văn-Chiêu đã tách ra thì cũng còn lại đủ số 12.

Trong số 12 Môn-đệ đầu tiên thì có ba vị là
- Ông Cao-Quỳnh-Cư (tuổi Mậu-Tý 1888)
- Ông Cao-Hoài-Sang (tuổi Tân-Sửu 1901)
- Ông Phạm-Công-Tắc (tuổi Canh-Dần 1890)

Tức nhiên có 3 vị đứng đầu 12 chi là Tý, Sửu, Dần.
Như thế thì Số 12 là số đặc-biệt của Thầy, tức là 9+3=12; 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là chủ-tể càn-khôn vũ-trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.

Số 12 nếu tính theo hàng ngang thì số 1 đứng trước số 2, tức là lý Thái-cực đứng trước luật âm dương thì thấy rõ quyền-năng Chưởng-quản trong đó. Thế nên Thầy nói chi chi cũng có luật-định hết thảy, không chi ngoài quyền sở định của tạo-hóa hết. Nhưng luật công bình có hai phần: một âm, một dương biến động, dù ngay trong luật định cũng có, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh.

Hết vòng biến đổi mới trở lại trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 lại trở lại trạng-thái Hư-vô, nên người tu đắc nhứt qui cơ là thành Đạo, nghĩa là hiệp cùng lý Thái-cực để trở lại trạng-thái tĩnh lặng nhiệm-mầu trong lý Hư-vô.

Trong lý Hư-vô phát sanh một Thái-cực. Thái-cực biến-hóa ba ngôi. Mỗi ba ngôi lại biến hóa thành ra Cửu chuyển.
Ba ngôi ấy biến sanh là Đạo, Pháp và Thế đó (tức là ba ông Cư, Tắc, Sang)

Thầy còn cho biết 4 người đã vào tay Chúa quỉ, tức là Tứ âm; độ được bốn muôn, 4 là tứ dương, hiệp chung là Bát-quái. Còn lại 8 tức là hoàn thành một Bát-quái thứ nhì.

Nhưng sau cùng còn lại 6 người làm nên cơ Đạo. Số 6 là do 3+3 tức là lý tam âm tam dương mà đã nhiều lần đề cập đến.

Nếu kể luôn tên 3 vị hầu đàn là tổng cộng 13+3=16 tức là hai lần con số 8, ấy là dựng nên hai Bát-quái Cao-Đài như Đức Chí-Tôn muốn, mà số 16 đây chỉ là một sự xác nhận một lần nữa mà thôi.

Nếu chỉ cộng 12+3=15 là trở về con số Ma-phương của Bát-quái. Đây là Bát-quái Cao-Đài của Đức Chí-Tôn đã dựng nên trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này.

Khi viết về Tiểu-sử của 12 vị tiền khai Đại-Đạo, tôi thấy có một lỗi lớn với các Ngài, vì có Đấng thì ngại không có giấy để ghi cho hết công-trạng của Ngài, có vị thì không có được một tài-liệu trong tay để viết, vì sự làm việc trong đơn phương giữa một hoàn cảnh như thế này, thôi đành vậy. Xin các Ngài cũng lượng thứ!

Giải thích tương-tự như vậy thì Tòa-Thánh có 12 cửa, nhưng rốt lại thì không có cửa số 5, vì sao? Vì theo Bát-quái thì số 5 đã nhập vào “ngũ trung” thì không thể có cửa bên ngoài. Tuy nhiên có cổng Chánh-môn đặt vào cũng đủ cho số 12 tròn đầy. Đây đã thể hiện trọn vẹn hình ảnh của Bát-quái Đồ-thiên vậy.

Do đó, nên thấy rằng dù Đức Chí-Tôn có nói về Bát-quái hay không mà lý Đạo vẫn hiển nhiên trong mọi hình thức. Trong bài thi dạy Đạo, trong luật-pháp chơn-truyền, trong nghi-thức cúng kính…đâu đâu cũng có hình ảnh của Bát-quái thành hình một cách rõ-rệt.

Lý Đạo nhiệm-mầu là thế! Và tiếp-tục tìm đến thi văn dạy Đạo.

BÀI III: Thánh-ngôn Thầy dạy (TNII/107)

Thầy.
Thành tâm niệm Phật.
Tịnh, Tịnh, Tịnh, Tịnh, Tịnh,
Tịnh là vô nhất vật.
Thành tâm hành Đạo.

Một bài cơ Thầy giáng dạy chỉ có năm câu thật đơn-giản. Một bài cơ ngắn nhứt trong các bài.

1 - Giải-nghĩa
Câu 1: là Thầy tức là Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế hay là Đại-Từ-Phụ.
Câu 2: Người tu thường phải niệm Phật một cách chân-thành, để không bị phân tâm, ngoài cách niệm ra còn lần chuỗi Bồ-đề, cũng là cách tập chuyên-chú vào một vấn-đề cho khỏi vọng tâm. Tức là tạo một sự cảm-ứng với Đấng Huyền-Linh.
Câu 3: Năm chữ “tịnh” cho thấy phương tu cần phải “bế ngũ-quan” tức là quên đi những việc phồn-tạp, mà năm giác-quan trong người lúc thanh-tịnh nó hay phóng túng, phải có cách giữ nó lại. Muốn tu sửa thì nên nhớ, người đạo-đức phải biết:
- Mắt (là cơ-quan thị-giác) người tu không nên thấy những gì không cần phải thấy (chánh kiến).
- Lưỡi (là cơ-quan vị-giác) không ham món ngon vật lạ, nói điều lành để tránh khẩu-nghiệp (chánh ngữ).
- Tai (cơ-quan thính-giác) không nghe những gì người đạo-đức không muốn nghe (chánh định).
- Mũi (cơ-quan khứu-giác) không đòi hỏi những mùi hương lạ (chánh tinh-tấn).
- Tay (cơ-quan xúc-giác) làm việc chân chính (chánh nghiệp).

Trong Bát-chánh-Đạo người tu-hành nên gát bỏ những gì có thể làm cho mất thì-giờ, đồng thời tập thói quen tốt, mục-đích hướng tới điều chân, thiện, mỹ.

Câu 4: giữ sự thanh-tịnh đến mức độ cao, giống như mặt nước phẳng không có sóng gợn, thì cõi lòng không xao-xuyến, bấy giờ trí-huệ mới sáng suốt và thông-công được các cõi vô-hình, đó là sự cảm-ứng với huyền-vi thiêng-liêng vậy. Dầu một Tôn-giáo nào hay một bậc chân tu nào, vẫn lấy tâm thanh-tịnh làm đầu mối cho việc tu-hành

Câu 5: khi đã thấu-hiểu được chơn-truyền của đạo-pháp phải đem ra để truyền-bá cho mọi người cùng thực-hành hầu đốt giai-đoạn thời-gian, thâu ngắn con đường đến Tây-phương hơn. Có làm được như vậy là đã thực-hiện được ngũ-nguyện rồi:

2 - Nghiệm về lý: đây là con đường tu của Đạo Cao-Đài
Xét câu Ngũ nguyện
- “Nam-mô Nhứt nguyện Đại-Đạo hoằng-khai” tức nhiên người Tín-hữu Cao-Đài phải làm sao cho mối Đạo ngày càng phát-triển, bành trướng mạnh-mẽ thêm. Có câu “Nhơn năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng nhân”. Sự hoằng dương chánh-pháp là làm cho mọi người biết tu-hành là để cùng hướng thiện và hướng thượng. Làm cho nhơn-sanh bớt đau khổ cùng sống vui trong cõi đời tạm này.
- “Nhì nguyện Phổ-độ chúng-sanh” Lời tâm nguyện của người tu là muốn cho chúng-sanh bớt điều nghiệt chướng, cầu mong cho nhân-loại giảm bớt đau thương vì chiến-tranh tàn-khốc, máu chảy ruột mềm. Sự đau thương chất cao như núi, nước mắt chúng-sanh nếu góp lại nhiều hơn bốn biển. Lời Phật Thích-Ca than như vậy. Ngày nay nhân-loại quá đau thương, xin cùng nhau nối tình thương lớn.
- “Tam nguyện xá tội Đệ-tử” lời cầu xin Thiêng-Liêng xoá bỏ tội-tình kiếp trước hoặc do vô minh mà đã gây ra, hiện tại không gieo thêm nữa để khỏi gặt hái đau thương; đồng thời chính mình cũng bỏ lỗi của người khác, tức là quên đi những thù hận, ích-kỷ, nhỏ-nhen, cuộc đời ngắn ngủi này có nghĩa gì đâu:

Nhà thơ Việt-Nam đã viết lên lời thơ này:
“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
“Cảnh phù-du xem thấy cũng nực cười.
“Thôi công đâu chuốc lấy sự đời,”

- “Tứ nguyện thiên-hạ Thái-bình”. Nếu thiên-hạ được thái-bình là toàn cầu được thái bình, nhà nhà đều hạnh-phúc, thay súng đồng, gươm máy bằng phi đạn tình thương để không còn thấy cảnh nhà tan, cửa nát, chết-chóc hằng ngày nữa.
- “Ngũ nguyện Thánh-thất an-ninh” Thánh-thất đây chính là cõi lòng của mỗi người được bình-an, vui-vẻ trong cảnh sum-họp, hạnh-phúc gia-đình trong cuộc đời giả tạm này đây.

Có giữ được cõi lòng thanh tịnh như thế ấy tức là giữ được Ngũ-giới cấm vậy. Thế nên sự tu hành bất cứ hình-thức nào hay tùng theo một Tôn-giáo nào, bậc nào cũng phải có sự xét mình nghiêm túc như vậy. Chắc chắn không còn mật pháp nào hay hơn, vì đó là căn-bản của người tu. Quan-trọng nhứt là câu nguyện thứ năm, vì nó đã đi vào cõi lòng của người rồi. Một khi khí tịnh, thần an thì không còn nghĩ đến sự xung-đột nào cả, người người đều nắm chữ “nhàn” trong tay thì lo chi thế-giới không hòa-bình, nhân sanh không an-lạc? Kinh đã dạy:
“Làm người rõ thấu lý sâu,
“Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh-kinh.”

Sự tu-hành có giá-trị ở sự "xét mình" vậy. Thầy dạy:
“Phải thường hỏi lấy mình khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phân-sự ngày ấy đã xong chưa, mà lương-tâm có điều chi cắn rứt chăng? Nếu phận còn nét chưa rồi, lương-tâm chưa đặng yên-tịnh, thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh. Thầy mong rằng mỗi đứa đều lưu-ý đến sự sửa mình ấy, thì lấy làm may-mắn cho nền Đạo; rồi các con sẽ đặng thong-dong mà treo gương cho kẻ khác. Các con thương mến nhau, dìu-dắt nhau, chia vui sớt nhọc nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui-vẻ đó”. (TNI/97)

Xem ra con người có 5 giác-quan như trên đã nói là: nhãn (mắt), nhĩ (tai), tỉ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (mình). Đó là ngũ quan hữu tướng. Tuy nhiên còn có tư-tưởng tức là ý-tưởng mới có thể dùng nó mà "xét mình" được; chính đây là lục quan vô-hình, còn gọi là giác-quan thứ sáu.

Đức Hộ-Pháp cũng dạy rồi:
“Hôm nay là ngày mở cửa thiêng-liêng và đưa nơi tay các Đấng nguyên-nhân ấy một quyền-năng đặng tự giải-thoát lấy mình, hai món bí-pháp ấy là:

1/ - Long-Tu-Phiến của Đức Cao Thượng-Phẩm
2/ - Kim-Tiên của Bần-Đạo, hiệp với ba vòng vô vi tức nhiên Diệu-Quang Tam-giáo hay là hình trạng của càn-khôn vũ-trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ-Quang-Khiếu của chúng ta đó vậy”

“Con người có ngũ-quan hữu tướng và lục quan vô-hình, mà phải nhờ cây Kim-Tiên ấy mới có đủ quyền-hành mở lục-quan của mình đặng”

Mà Kim-Tiên là gì? Là tượng hình ảnh của điển lực điều-khiển càn-khôn vũ-trụ, mà chính đó là điển-lực, tức nhiên là sanh-lực của vạn-vật đó vậy. Với nó mới có thể mở đệ bát khiếu- Trong thân con người có thất khiếu và còn có một khiếu vô-hình là Huệ-Quang-Khiếu - Vì nó là điển lực nên nó mở khiếu ấy mới được”

Nói rõ ra cây Kim-Tiên tức là cây roi Tiên có chín khúc (Cửu-Khúc Kim-Tiên). Số 9 đây là nói đến Bát-quái Tiên-thiên có 4 lần con số 9. Mà 4x9=36 tượng-trưng 36 cõi Thiên-tào.

Thêm cây quạt của Đức Cao Thượng-Phẩm tức là Long-Tu-Phiến, nghĩa là cây quạt được kết bằng 36 lông cò trắng. Con số 36 này là kết-quả của thành số vừa nêu trên, cũng là ý-nghĩa của hai quẻ Càn Khôn vậy.

Đây là hai quẻ Càn Khôn Nhìn vào số nét trong mỗi quẻ ta thấy quẻ càn có 3 vạch, quẻ Khôn có 6 vạch. Như thế thì số 36 là nói đến hai quẻ Càn Khôn nằm trong Bát-quái Tiên-thiên chính Bát-quái này là cánh cửa để đi vào Đạo-pháp.
Tóm lại muốn “rõ thấu lý sâu” phải thấu hiểu Bát-quái một cách tinh-tường.

3 - Phân-tích chữ Tịnh qua 4 chiều không-gian

Tịnh là đối với động, là sự yên-lặng hoàn toàn, không nhiễm, không luyến bất cứ vật gì của đời, đại-khái như danh, lợi, tình, những thứ mà làm cho người đời say-đắm: Vì ăn nên phải bị đọa, vì dâm nên phải bị đày, người đời cũng vì những thứ vật dục ấy khiến cho cõi lòng dấy động, nếu không biết giữ mình thì nó buông lung như ngựa không cương.

Thử phân-tích qua bốn chiều không-gian để thấy sự mầu-nhiệm.
* Khởi đầu là TINH về mặt văn-pháp, tinh có nghĩa là sự sống, khi sự sống có thì nó cùng đến, nói khác đi nó có mặt ngay khi sự sống bắt đầu; đó là TINH KHÍ.

Gốc chữ tinh vốn là trạch mễ tức là lựa gạo (chữ tinh thuộc bộ mễ mễ là gạo).Tinh còn có nghĩa là lựa gạo để lấy những phần thuần khiết, cho nên mới có bộ mễ, nói rõ hơn tinh là phần gạo ngon nhất, sạch nhất, sau khi đã chọn lựa kỹ. Ngoài ra còn đọc là thanh tức là màu xanh, đó là màu bất biến. Sách nội-kinh nói Tinh là phần khí-chất được sạch nhất, ròng nhất, trong thủy-cốc nó đóng vai trò quan-trọng trong quá trình tạo thành chân-khí, nguyên-khí và huyết-khí.

Riêng ở con người, chữ Tinh mang một nội-dung cao hơn nữa, đó là Tinh của thiên địa. Bởi Tinh là cái “thiên chi nhứt, địa chi lục”

Thiên lấy nhứt sinh ra thủy, địa lấy lục thành thủy “Thiên nhứt sanh thủy, địa lục thành chi” . Đây là quá-trình sinh thành của ngũ-hành sớm nhất, vì vậy vạn-vật lúc mới sanh đều đến từ thủy. Ví như hạt của một trái cây lúc chưa chín đều có tính thủy (nước).

Một cái thai, một cái trứng, lúc chưa thành đều là thủy. Phàm con người có sự sống, cho đến côn-trùng, thảo-mộc, không loài nào không như thế.

Kinh Dịch nói: Nam nữ cấu tinh thì vạn vật mới hóa-sinh. Y-học cũng xác định: thường sinh ra trước thân (hữu-hình) gọi là Tinh “Thường tiên thân sinh thị vị Tinh” .

Tinh còn mang một ý-nghĩa rất quan-trọng trong việc giao-hợp giữa âm dương, giữa huyết khí, giữa trai gái, mà kinh Dịch đã đề cập đến.

Phàm con đường sinh thành của vạn-vật không có con đường nào không do sự giao nhau của âm dương để rồi thần được minh vậy. Cho nên cuộc sống của con người ắt phải do sự hợp khí của âm dương. Tinh của cha mẹ đã cấu hợp nhau tức là dịch đã nói “Lưỡng tinh tương bác” . Sau đó thì hình-thể và thần khí mới thành. Nơi hợp khí của thiên địa gọi là nhân.

Hai tinh khí của thiên địa, của trai gái, của Tiên-thiên, Hậu-thiên luôn giao nhau, đánh nhau đúng theo nhịp biến-hóa của khí Thái-cực thì cuộc sống của con người sẽ có Thần . Vậy Thần là kết-quả hiển-nhiên của quá-trình khí hóa liên tục, tuần-huờn giữa lưỡng tinh trong thân-thể con người. Vậy Tinh và Thần là kết-quả kỳ-diệu của sự vận-hành khí-hóa trong thân thể người. Sự vận-hành này phải theo những chiều vãng lai, nghịch thuận tạo thành vòng âm dương. Tinh là âm, Thần là dương vậy.

Đó là hiện thân của người mang đầy bản tính của trời đất.
“Con người đứng phẩm tối linh,
“Nửa người, nửa Phật nơi mình anh-nhi.”

Nhìn qua hình vẽ trên, thấy sự biến đổi của chữ Tinh, nó ở vào Thái-cực, là tâm, là nguồn khởi đoan của con người và vạn-vật.
Sự cấu-tạo tế-bào tinh-trùng của người cũng như vạn-vật có phần giống nhau: nghĩa là tế bào họp bởi 1 nguyên-tử dương và 9 nguyên-tử âm. Thế nên cái sống hữu-vi này các nhu-cầu cần-yếu giữa người và vật đều giống nhau, từ cái đói ăn khát uống, cho đến sự truyền giống nữa. Nhưng người khác hơn vật và được gọi là người là nhờ có đạo-đức điều-khiển cho mọi hành-động. Có được vậy mới xứng đáng làm: Con người đứng phẩm tối linh, vậy.

* Là người đạo-đức phải biết tập sửa Tính tốt, nó phải hướng thượng và hướng thiện, bởi dấu sắc là biểu hiệu sự đi lên: Tinh sắc Tính.

Sự kết cấu chữ Nho gọi là “Tính tự tâm sanh” (đây là lối chiết tự: tức nhiên chữ Tính do bộ tâm họp với chữ sinh Cũng là ý-nghĩa rằng bổn nguyên: Tính của người do tâm mà sinh ra.

* Chữ Tình thì nằm ngang; ai cũng có tình-cảm, tuy nhiên người có đến thất tình, người tu phải biết chuyển-hóa cho thất tình trở thành thất khiếu sanh quang (chữ tình cũng do lối chiết tự, tức nhiên do bộ tâm họp với chữ tinh , còn đọc là thanh, nghĩa là phải có một thứ tình cao-thượng).

Chữ Tình cốt ở chữ Tính mà ra. Nhưng Tính thời tịch-nhiên bất động thuộc về phần thể. Tính là nguyên-lý sở-dĩ sinh ra người, cái bản nguyên về tinh-thần của người, bản chất của người hoặc vật. Tình thời cảm nhi toại thông thuộc về phần dụng, nên Tính thời khó thấy mà Tình thì có thể thấy được.

Tình thiên địa cốt ở nơi vạn-vật sinh ra, mà tình vạn-vật cốt ở nơi ứng với thiên địa. Tỷ như gặp Xuân Hạ thì vật gì cũng sinh trưởng, gặp Thu Đông thì vật gì cũng ẩn tàng: Đó chính là tình cảm-ứng của thiên địa vạn-vật.

Thấy được tình thiên địa thời thấy được tình của Thánh-nhân, nên không cần nói Thánh nhân chi tình . Vì Thánh-nhân với thiên-hạ cũng như thiên địa với vạn-vật. Duy người có thấm nhuần triết-học thì mới nhận ra được Tình có đến 7 mối ràng buộc lấy người từ khi mới lọt lòng mẹ nên gọi là thất tình.

Nhưng thật ra Tình cũng xuất hiện cùng lúc với “Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi” nữa kìa. Vì khi một chơn-hồn đến thế này dù được tự-do lựa chọn trong cái nhân duyên hay cưỡng bức vì oan-nghiệt đi nữa, cũng được cấu-hợp bởi thất tình do chơn-thần sản-xuất.

Phật-Mẫu tạo chơn-thần này cũng như cho mặc vào 7 lớp áo để đến thế-gian. Sự cấu-tạo con người quan-trọng là bởi chơn-thần. “Chơn-thần là đệ nhị xác thân tạo hình bằng nguơn-khí của 7 từng thiên:

Bỏ Tạo-Hóa-Thiên là từng thứ 9, linh-hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết-định đến thế-gian này làm việc gì, kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách. Đạo-giáo nói là 7 cái thi-hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí-chất, cái thứ 7 là xác thú này đây.


Bảy từng thiên có liên-quan với thất tình.
* Bắt đầu từng thứ 7 thì kết vào tình HỈ (mừng)
* Qua từng 6 thì kết vào tình ÁI (yêu thương).
* Từng thứ 5 kết vào tình LẠC (vui).

Đó là ba thứ tình-cảm tốt HỈ, ÁI, LẠC được duy trì cho thêm cao-thượng hợp đức của người tu.
* Qua từng 4 kết thêm tình DỤC (muốn). Chính tình này nguy-hiểm nhứt, nó xây chuyển và quyết định sự đọa thăng của cuộc đời, bởi nó có thể dục lên hoặc dục xuống. Nếu hướng thượng thì gấm ghé ngôi Tiên phẩm Phật, hướng hạ thì con đường đọa đày, thoái-chuyển đang chờ.
* Còn lại ba tình AI, Ố, NỘ thì lần-lượt xuất hiện ở từng thứ 3, 2 và 1.

Chính từng nộ-giác là xác hài này đây, cho nên người đời rất dễ giận-hờn. Còn ba tình-cảm cao-thượng lại lẫn khuất vào trong, vậy người tu là phải biết bỏ giả tầm chơn, khổ công luyện tập sửa đổi tánh tình hằng ngày là vậy.

Ở nơi người, đạo nhân-luân là trọng, nếu không biết tự-trọng thì nhân-quả buộc ràng khó tránh khỏi. Chính 7 dây oan-nghiệt buộc ràng mà nhiều chơn-linh bị đọa chưa bao giờ thoát qua được cửa luân-hồi sanh tử.

Chữ Tình lắm trái-ngang và nhiều rắc-rối, một chơn-hồn muốn được nhẹ-nhàng siêu-thoát thì phải biết Tĩnh tâm, tịnh thần mới mong nhập vào đại ngã.

* Tuy nhiên Tĩnh cũng là Tịnh vậy. Tịnh là sự yên-lặng hoàn-toàn.
Qua bốn chiều không-gian thì chữ Tịnh ở dưới cùng như nước lắng đọng trong lòng giếng. Nhưng nếu được “giếng Nhân-Nghĩa” thì hạnh-phúc cho cuộc đời, bằng trái lại gặp giếng cạn hoặc đục cũng không ơn ích gì!

Bà Đoàn-Thị-Điểm có dạy phương tu trong Nữ Trung Tùng Phận rằng:
“Bế ngũ-quan không kiên tục tánh,
“Diệt lục trần xa lánh phàm tâm.
“Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
“Đọat phương tự diệt giải phần hữu sinh”
                                                                       (Câu 1249-1252)

4 - Chữ Phi tượng Thất tình

Chữ có nghĩa là không (0). Nếu chia làm hai phần bằng nhau, thì mỗi bên có 3 điểm: xem như âm dương, cao hạ, tức nhiên 3 tình: Hỉ, Ái, Lạc là ba thứ tình hướng thượng được đề cao, ba tình Ai, Ố, Nộ là ba tình hướng hạ cần phải sửa đổi. Duy tình Dục này đứng ở giữa, nghĩa là nếu biết đạo-đức thì nó dục lên, thiếu đạo-đức nó dục làm điều quấy. Vậy người tu là biết xét mình để “sửa lòng trong sạch”. Nếu dưới chữ Phi có chữ tâm thành ra chữ Bi là buồn, gọi là phi tâm. Tất nhiên người được gọi là phi tâm là một Đấng cao cả như Phật Quan-Âm gọi là Đấng Đại-từ, Đại-bi, tức nhiên Bà là vị Phật có lòng quảng-đại, Bà buồn trước nỗi buồn của chúng-sanh, Bà cứu khổ cứu nạn trước khi chúng-sanh kêu cứu, còn chúng-sanh Bi là chỉ biết riêng đau khổ mà thôi.

Ngày nay Bà là một Đấng được Đức Chí-Tôn chọn làm Nhứt trấn trong Tam Trấn Oai Nghiêm để nêu cao đức: BI, TRÍ, DŨNG hầu đem lại thái-bình cho nhân-loại hưởng nhờ.

5 - Nghiệm về số
Các câu trên có các số chữ ứng vào các con số thật là huyền-diệu. Thử giải lý một vài con số tượng-trưng: Cả thảy có 5 câu ứng với Ngũ-hành.

Câu 1: có 1 chữ “Thầy” ứng với ngôi Thái-cực
* 4 câu sau ứng vào Tứ-tượng.
* Câu hai có 4 chữ, câu ba có 5 chữ, ấy cũng là phương tu của Đạo Cao-Đài, mà Tân-Luật đã qui định về đạo nhơn-luân:
- Nữ thì Tứ-đức, Tam-tùng là tùng phu, tùng phụ, tùng tử và Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
- Nam phải giữ Tam-cang Ngũ-thường là nguồn cội Đạo ấy là Hiếu, Đễ, Trung-Tín, Lễ-Nghĩa, Liêm-Sĩ.

* Câu bốn có 5 chữ, câu năm có 4 chữ ấy là về Đạo-pháp là: Hễ nhập môn rồi phải trau-giồi tánh hạnh, cần giữ Ngũ-giới-cấm và Tứ-đại-điều-qui.

Tóm lại:
Nếu so-sánh với các lời dạy trên thì:

Câu 1: có 1 chữ, ứng ngôi Thái-cực.
Câu 2: (4chữ) là gái gìn Tứ-đức (tứ âm)
Câu 3: (5chữ) là Nam giữ Ngũ-thường (ngũ-hành âm)
Câu 4: (5chữ) là tu-hành thì giữ Ngũ-giới-cấm. (ngũ-hành dương)
Câu 5 (4chữ) phải biết tôn-trọng Tứ-đại-điều-qui (Tứ dương)

Những con số ứng hiệp trên tạo thành một Bát-quái Đồ-thiên, đồng thời còn ngụ cả một nguồn Giáo-lý cao siêu của nền Đại-Đạo.

Tại sao có lời dạy nghiêm-mật ấy?
Bởi “Đạo Thầy là nền Đại-Đạo do chính Thầy đến lập là Đấng Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, tá danh Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma-Ha-Tát. Ngài đến giáo Đạo tại Nam-phương, xưng mình là Thầy, kêu cả toàn Môn-đệ là con cái của Ngài”.

Thầy dạy: “Phải chung lo cho danh Đạo Thầy. Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh-gỗ nghe!. Các con phải giữ phận làm vừa ý Thầy muốn. Ngày sau sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy”.

6 - Lý Dịch trong lời dạy
Trước nhất thấy rằng đây là một bài cơ của Đức Chí-Tôn giáng dạy ngắn nhứt. Giản-dị nhứt và cũng sâu-sắc nhứt. Câu “giản-dị nhi đắc thiên lý” đúng vào trường-hợp này vậy.
Nếu đếm vào số chữ thì chỉ có 5 câu ứng với Ngũ-hành.
Câu đầu chỉ có một chữ “Thầy”, số 1 đó là ngôi Thái-cực, vi-chủ là Thầy, là Thượng-Đế. Vì:
“Thầy là Chúa cả Càn-Khôn Thế-Giới, tức là chúa tể sự vô-vi, nghĩa là chủ-quyền của Đạo, mà hễ chủ-quyền của Đạo nơi nào thì là Đạo ở nơi ấy.”

Câu 2 và 3 hiệp lại thì bằng số chữ câu 4 và 5 hiệp lại và bằng (4chữ +5 chữ)=9 chữ, tức là hai con số 9 (99) gọi là “cửu cửu”.
Điều này Đức Trạng-Trình cũng có nói trong Sấm-ký rằng “Cửu cửu càn-khôn dĩ định. Thanh-minh thời tiết hoa tàn”.

Tất nhiên con số 9 có một giá-trị nhiệm mầu trong lý Dịch, phi thời-gian.

Nay là buổi cuối Hạ-nguơn Tam chuyển sắp bước vào Thượng-nguơn Tứ chuyển, nó ứng với chữ “thanh minh thời tiết hoa tàn” Đức Chí-Tôn mới mở Đạo đồng thời “bày tất cả bửu-pháp” để chuẩn bị cho mùa hoa Đạo nở. Đó là định-luật.

Lại nữa, về lý Dịch thì khi các quẻ kép đặt theo chiều xuyên tâm đối có tổng-số là 99.

Ví dụ Bát-Thuần-Kiền sẽ là 11 hiệp với Bát-Thuần-Khôn 88 sẽ có tổng số là 99. Tương-tự như vậy có đến 32 cặp âm dương đều có tổng-số là 99 như thế (sẽ bàn sau). Về đất nước thì Đảo Phú-Quốc có 99 hòn tất cả, có phải là sự ngẫu nhiên chăng?

4 câu sau gọi là Tứ-tượng, nhưng hiệp lại chỉ còn hai vế ứng với lưỡng-nghi, từ đó mới trở về Thái-cực là 1 chữ (Thầy).

Ngoài ra cũng nói rằng chính trong bài Thánh-giáo này gồm đủ 4 Bát-quái mà Thầy nắm quyền vi chủ.

1/ - Thứ nhứt là Bát-quái Tiên-thiên
Căn-cứ vào bài Kinh Thích-Giáo:
Hỗn-độn Tôn-Sư.
Càn-Khôn chủ-tể.
Qui thế giái ư nhứt khí chi trung.

Chính những số trong bài Cơ khi phân-tích ra có đủ yếu-tố cho một Bát-quái Tiên-thiên, vì đây là “Nhứt bổn tán vạn thù” cho nên hai quẻ Càn Khôn nằm trên trục đứng của Bát-quái, phân ra âm dương rõ-rệt đó là Thái-cực sanh Lưỡng-nghi… Như lời Thầy đã dạy trong Thánh-ngôn:

“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn-Khôn Thế-Giới thì Khí-Hư-Vô sanh có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-cực. Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi phân ra Tứ-tượng, Tứ-tượng biến Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn-Khôn Thế-Giới”.

2/ - Bát-quái Hậu-thiên

Là giai đoạn thứ nhì. Qua bài Kinh Tiên-Giáo Tâm Kinh, bởi câu:
Nhị ngoạt thập ngũ,
Phân tánh giáng sanh.
Nhứt thân ức vạn.
Diệu-huyền thần biến.

Đây là nói đến Đức Lý Lão-Quân là người đã có lần vào thư viện nhà Châu khám phá được Bát-quái, tức là Bát-quái Hậu-thiên của Văn-Vương. Sách nói rằng Ngài không cha, chỉ có Mẹ, Mẹ Nàng tên là Ngọc-Nữ, khi ăn phải quả Lý chín đỏ liền mang thai lúc Nàng mới lên 8 tám tuổi. 72 năm sau mới sanh bằng cách nứt nách ra thì tóc đã bạc nên đặt tên là Lão-Tử. Không ai biết Ông mất năm nào và thân thế ra sao. Sau cùng thì ngày Vía của Ngài là 15 tháng 2 âm-lịch.

Các con số đã trình bày trong bài Cơ cũng đủ cho một Bát-quái Hậu-thiên, tức nhiên qua bảng ma-phương-số thì tất cả các số cộng lại là 15

Và các quẻ trong Bát-quái này chia làm hai phần Âm dương rõ-rệt, là con số 2 ứng với Bát-quái này

3/ - Bát-quái Đồ-thiên

Đây là giai-đoạn thứ ba là hình ảnh của Bát-quái Đồ-thiên, ứng với lời Kinh Nho-Giáo qua câu:
Quế hương nội điện.
Văn Thỉ thượng cung.
Cửu thập Ngũ hồi,
Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố.

Lời Kinh rằng: Trên cõi thiêng-liêng có một Toà nhà lớn gọi là Điện Quế Hương, trong đó có một Cung ở bên trên hết gọi là Cung Văn-Thỉ. Đó là nơi thường ngự của Đức Khổng-Tử, Giáo-chủ Nho-giáo. Ngài đã 95 lần đến với thế-giới này để truyền dạy bằng những kinh sách báu.

Thật ra con số 95 này chỉ là con số biểu tượng để nói lên lý Dịch nhiệm-mầu của Bát-quái Đồ-thiên mà Đạo Cao-Đài đang xử dụng.

Nhìn vào Bát-quái Hậu-thiên thấy trước nhứt là trục đứng Nam Bắc. Chính Nam là quẻ Ly số 9 (Cửu). Hai trục Nam Bắc, Đông Tây tạo thành hình chữ thập Giữa Bát-quái này có số 5 là số ngũ gọi là ngũ trung. Những yếu-tố này làm nên Bát-quái Hậu-thiên của thời Văn-Vương, nhưng ngày nay Đức Khổng-Thánh đến trong ngươn hội Cao-Đài Ngài tượng trưng cho Thánh giáo. Cơ chuyển thế và Cứu thế trong buổi Thượng-ngươn này Đức Chí-Tôn đã chuyển Bát-quái Hậu-thiên thành Bát-quái Đồ-thiên quay theo chiều nghịch với chiều kim đồng-hồ; đó là con đường trở về, gọi là Phản bổn hoàn nguyên, Kinh gọi là hồi. Trong câu Cửu thập Ngũ hồi là ý-nghĩa ấy.

4/ - Bát-quái Hư-vô

Đấy là con đường vận-hành của lý Đạo “Vạn thù qui nhứt bổn” tức là con đường trở về. Trở về đâu? Trở về với Đại ngã.
Như thế thì tất cả đều có định-luật và phải đi vào đinh-luật của nó mới còn tồn-tại.
Đây là ứng với lời Kinh trong bài Ngọc-Hoàng-Kinh, qua câu:
Tiên-thiên, Hậu-thiên.
Tịnh dục Đại-Từ-Phụ.
Kim ngưỡng, cổ ngưỡng.
Phổ tế tổng pháp tông.

Lời Kinh dạy rằng: Trước khi tạo dựng trời đất hay sau khi tạo dựng trời đất, Đức Chí-Tôn là Đại-Từ-Phụ của toàn cả chúng-sanh, nuôi dưỡng chúng-sanh đồng đều như nhau. Xưa cũng như nay, tất cả chúng-sanh đều hết lòng ngưỡng vọng. Ngày nay Đức Ngài đến để thống nhất cả nhơn-loại thành một mối dưới sự dạy-dỗ, nuôi-nấng của Ngài, tức là đưa chúng-sanh về qui-nguyên-vị.

Thầy có dạy:
“Thần là khiếm khuyết của cơ mầu-nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập "Tam-kỳ Phổ-độ" nầy duy Thầy cho Thần hiệp Tinh-khí đặng đủ "Tam-Bửu" là cơ mầu-nhiệm siêu phàm nhập Thánh.

Các con nhớ nói vì cớ nào thờ con mắt THẦY cho chư Đạo Hữu nghe.

Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên Phật từ ngày bị bế Đạo, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên-Đình mỗi phen đánh tản "Thần" không cho hiệp cùng "Tinh-Khí".

Thầy đến đặng hườn nguyên Chơn-thần cho các con đặng đắc Đạo. Các con hiểu "Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho chư Đạo-Hữu con hiểu rõ. Nguồn-cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Đạo hằng nhớ đến danh Thầy”.

Xem thế thì qua bốn Bát-quái là gồm đủ các lý Đạo trong một bài Cơ tuy ngắn-ngủi nhưng đã nói lên tinh-thần của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chơn lý chánh truyền.

Kết-luận:
Qua ba đề bài trên xác-nhận rằng tất cả các bài thơ, bài văn, cho đến lời dạy thân thương nhất, đâu đâu cũng thể hiện một lý DỊCH siêu mầu. Dịch như vải áo còn Đạo Cao-Đài như cái áo.

II - ĐỊNH-LUẬT CỦA CÀN-KHÔN VŨ-TRỤ
Thầy dạy:
“Thầy lập càn-khôn vũ-trụ không ngoài những định-luật bất di bất dịch, dù một hột cát hay một hột nhỏ nhất của nguyên-tử (nguyên-tử cũng không phải là nhỏ nhất đâu, sau này sẽ thấy) cho chí đến vũ-trụ mênh-mông bao la cũng đều cùng chung qui tắc luật định hết.

Phép định vũ-trụ bao-la ra sao thì phép định cấu-hợp hạt cát hay nguyên-tử cũng y như vậy. Vì thế mà Đạo-gia thường gọi nhân thân là tiểu thiên địa là vậy. Như thế thì bất cứ vật gì ở trên trời đất này đều có định-luật của nó. Không vật gì là không có, dầu cho vật hữu-hình hay vô-hình cũng thế. Nhưng vô-hình với hữu-hình là chi

Cũng chỉ là một, là duy nhất, là lý tuyệt đối.
Đời chỉ thấy những gì trước mắt thì gọi hữu-hình, cái gì không thấy thì gọi vô-hình, như vậy là còn mê-muội lắm. Trước mắt Thầy không chi gọi có cũng chẳng chi gọi không, là vì hai danh-từ ấy vốn không có thật. Luật vốn thường tồn bất biến, cái bản thể của sự vật là nhiên nhiên bất dịch, bất hoại nhiệm-mầu, năng minh năng ẩn tấn hóa mầu-nhiệm.

Sinh vật phải đi trải từ muôn triệu kiếp sanh, từ muôn triệu chỗ phát sanh để mỗi nơi thấu đáo một phần, rồi đến ngày giờ mới chuyển lại huờn nguyên mà phục hồi nguyên tánh, để rồi luân luân chuyển chuyển nữa cho thấu-đáo huyền-vi của càn-khôn vô tận. Sự luân-chuyển ấy vốn vô cùng ngàn đời kiếp kiếp không biết sao mà lường thấu được, vì vậy mà chưa một chơn-linh nào dù cao siêu đến đâu thấu-đáo thật tận cùng.

Chính Thầy là Chúa-tể càn-khôn Thầy còn chẳng tự-hào rõ biết hết thay. Cũng vậy, chư Phật dù cao-trọng thế mấy cũng chưa thế hiểu rõ được Thầy. Cười!.. Cái hiểu biết của các Đấng ấy như gáo múc đại-dương, chưa hề thấm-thía chi. Vũ-trụ có vạn vạn muôn muôn đường, đi hoài vẫn không sao hết. Con nói Thầy là Cha cả mà chẳng tu sao? Cười… Thầy vẫn chung chịu trong định-luật ấy. Nhưng là kẻ có trước hết tất cả nên biết trước tất cả các con. Muôn triệu kiếp sau các con cũng tiến-hóa như địa-vị Thầy, nhưng con nào biết tu tức là đi đường tắc, rồi về thiêng-liêng ngồi ở liên-đài vận hành chơn-pháp học hỏi thêm, cũng như kẻ biết khôn đi đến giữa đài đứng trên ngó xuống thì thấy vạn-vật dưới đất nhiều hơn là kẻ chỉ đi loanh-quanh làng này đến xóm kia mà tìm học từng cái nhà, từng hột cát thì con thử nghĩ lâu hơn kẻ khác là dường nào!

Vũ-trụ mênh-mông vô hạn định chưa biết đâu là bờ bến. Ngoài vũ-trụ này lại còn có cả muôn vũ-trụ khác chứa đựng trong khối mênh mông vô cùng, nghĩa là một vòng tròn chứa đựng trong một vòng tròn, một ánh sáng chứa đựng trong một ánh sáng vô biên.

Nhưng làm thế nào để Thầy điều-khiển được hết? Cũng không có chi lạ, ấy là nhờ những định-luật thiên-nhiên bất di bất dịch, cũng như cái lưới vãi chài, dầu có bao nhiêu đường tơ đi nữa, khi vãi ra thấy rườm-rà mà biết nắm mối thì phăng lên cái một. Kẻ biết nắm mối là kẻ nắm huyền-pháp đó. Huyền-pháp là cái phép nhiệm-mầu sâu kín chớ có chi khác lạ đâu. Huyền-pháp vốn cũng nhiều bậc, nhiều từng, cái này phải chịu hệ-thống của cái kia, cho nên thấy nói có pháp cao, pháp thấp là như vậy đó. Kẻ nắm được pháp tối linh là làm Thầy thiên-hạ và cả càn-khôn. Còn ấn, pháp, bùa, chú chẳng khác nào những công tắc điện để mở những nút dây điện khắp nơi. Phải có bình chứa điện cho đầy thì khi mở ra điện kia mới chạy, nếu không dầu mở cũng chẳng ích chi, nên Đạo-gia nói tu đắc Đạo là đoạt hết cơ mầu-nhiệm thiêng-liêng đó. Chỉ nói như vậy thôi chớ chưa phải đoạt hết đâu. Chưa ai đoạt hết nỗi đâu, chỉ thầu-đáo một phần là quí lắm; nhưng cũng đủ quyền-lực sửa trị một khu vực, một tiểu càn-khôn, một nhóm hành-tinh hay một trái địa-cầu có người ở, nhỏ hơn nữa là cai-trị một nước, một tổng, một làng. Bởi vậy tu thân là gốc tức là tập nắm cơ mầu-nhiệm gần nhất chính là ở thân mình. Kẻ có căn Đạo mới tu thành là vì sao? Là vì phải đi trước lo làm ruộng có lúa cho nhiều đời này qua kiếp khác, lựa giống nào tốt đem để trong kho cho sẵn. Chứa chất thật nhiều ngày cho đầy cả nguyên kho rồi khóa lại đó. Đến chừng gặp việc thì mở cả nguyên kho ra dùng như vậy nó mới có. Chớ kẻ không tạo thì dầu có mở kho ra sớm cũng rỗng không nào có ích chi.

Vì thế luật luân-hồi quả báo là bài học hay cho các đẳng chơn-linh. Chơn-linh nào khôn ngoan không xài phí hết lương tiền thì có của dư chất ở trong kho tất kho mau đầy. Đó là những chơn-linh mau tấn-hóa. Chơn-linh nào ngu muội thì làm hoài vẫn thiếu nợ hoài làm sao có của dự-trữ.

Bởi vậy Đạo khai là cốt để dạy-dỗ cho các chơn-linh học hỏi phương tu tiến ấy.
Con coi không một vật gì ở vũ-trụ này mà không có Đạo. Nó là cái định-luật hiển-nhiên sẵn có, duy có kẻ biết đến cùng chưa biết đến mà thôi. Như không-khí các con thở dù kẻ không biết rằng có nó thì họ vẫn thở. Nhưng việc nào mình không thấu-đáo thì chậm tiến vậy thôi.

Pháp Đạo thật rất nhiệm-mầu không sao mà giải cho hết lý được, duy chỉ đến trình-độ cao sâu đến đâu thì thấu-đáo được đến đó vậy thôi.

Kẻ không biết Đạo sa mê vật-chất chẳng khác nào như khách lữ-hành kia đi du-lịch mà cứ mảng lo hái trái ngắt bông ở một góc rừng thì đời nào cho biết được nhiều điều cao xa? Đó là đại khái của cơ mầu-nhiệm thiêng-liêng.

Riêng về BÁT MÔN ĐỘN GIÁP cũng có nhiều cấp bực khác nhau, bực thấp và bực cao. Bực thấp thì làm thầy bói toán, biết những việc trần-gian, bậc cao thì rõ thấu càn-khôn.

Thầy dạy cho con biết rằng vạn-vật hữu sanh hữu hoại đều có số định của nó.
Tỷ như mình thấy cây bông trồng ở đất xấu thì có thể đoán là bông của nó xấu và biết là người trồng thiếu kỹ-lưỡng chăm-nom, ít phân kém nước.

Phép học thì do nguyên-nhân mà suy ra kết-quả rồi lại từ kết-quả suy nguyên-nhân khác, cũng lại do kết-quả đã có mà luận lại nguyên-nhân trước. Nó như một sợi dây xích nối chuyền hoài không ngưng không dứt.

Trời, đất, người, vạn-linh, sanh-chúng cũng đồng nguyên-lý ấy, duy mỗi loài có thêm những định-luật riêng khác nữa.

Tỷ như thấy mưa thì biết độ bão-hòa nơi đó đã có, có mưa tất có nước, có nước tất có sông biển, có sông biển tất sẽ có mây, do mây sẽ kết tụ thành mưa nữa.

Vạn-vật nếu gặp duyên thì kết, không gặp thì tan, luân-lưu khắp cùng các cõi tùy theo tính chất của chúng. Bởi vậy không vật chi là không có định-luật sẵn, nhưng luật như một cái khuôn, còn sự vật như bột, đường. Tuy là khuôn như vậy nhưng cũng còn tùy tay thợ hay khéo mà nắn thành hình. Như trái đất xoay quanh hệ-thống thái-dương-hệ, mà nó xoay quanh tự nó. Nó cũng có định-luật riêng, làm thế nào cho chẳng tương-tàn, tương-diệt lẫn nhau.


III - CÁC CON SỐ LẬP THÀNH ĐỂ LÀM TƯỢNG-TRƯNG
Đặc tính:
“Số 0 là cơ-quan hư-vô bổn thể. Số 0 là con số vô thủy, tức là không có chi trước nó hết. nó là số chúa của chúa cả vạn-vật. Chính trong không mà sinh ra vạn hữu, nên nó hợp với số nào thì làm cho số đó tăng tiến thêm lên. Nó là cái vòng bao bọc tượng-trưng chủ cả cái hữu-vi vạn vật này.

Số 0 là số vô-vi, nó có tính-chất trung-tính, nhiệm-yếu, hiền-hòa, sáng-suốt.
Vật mang số 0 là vật trung-dung, nhậm lẹ, không khuynh-đảo nhưng chưa tiến-hóa. Người mang số 0 là người lưỡng tính, phần tấn-hóa chưa nhiều.

Số 0 chỉ năng-lực tiềm-ẩn nhưng chưa phát triển đúng mức.Nhưng khi một vật chi được thử về 0, ấy về lẽ Đạo; nhưng qui cơ tịnh-lặng hoàn toàn, được gặp nhiều chân phúc quí báu. “Không không ấy thiệt lý trường sanh” biến dịch vòng quanh thành nhiều bản thể.

Số 0 sẽ là cơ khởi đầu cũng như là cơ chót hết, nó tiếp nối giữa hai đường tấn-hóa và qui-nguyên. Hai đầu tấn-hóa và qui-nguyên nó ở giữa làm mấu chốt.

Số 0 vốn gồm nhiều cơ bí-mật cần phải tìm phương giải đáp.
Số 0 chỉ vật cực đại như vũ-trụ bao la vô cùng tận mà không chi ở ngoài nó, đồng thời chỉ vào một vật cực tiểu cũng không vật chi chứa đựng bên trong nó được.

Số 1 là số đầu tiên sau số 0, tức là cái nguồn sanh-hoạt trước nhất để biến vi hữu tướng.

Số 1 là số động, nó vốn là lý Thái-cực suy ra nên nó huyền-diệu, nhiệm-mầu, hiện biến, nên Đạo-gia nói “Thiên đắc nhứt linh, địa đắc nhứt minh, nhơn đắc nhứt thành”.

Ngôi số 1 thuộc về ngôi Phật, chủ quyền cai-trị và giáo-hóa vạn-linh.
Số 1 thuộc bản thể hư-linh sản-xuất nên có quyền thống-trị cả càn-khôn. Ta thấy là bất cứ ở đâu có 1 vi-chủ là quyền ấy toàn vẹn, còn nhiều chủ thì sanh phân tán, nên số 1 chỉ một uy-quyền tuyệt-đối. Người mang số 1 là người có đầy-đủ đặc-tính can-đảm, ý-chí siêu-việt nên ảnh-hưởng của ngôi Thái-cực hóa sanh”.

Số 2 là số biến-hóa do số 1 mà ra. Một biến thêm 1 nữa thành 2.
Số 2 là số tịnh, ấy là cơ âm dương thuộc về Pháp. Pháp là tương liên nên phải nhỏ-nhẹ, mềm-mỏng. Ta thấy một bà Mẹ hiền-từ, ưu-ái, dịu-dàng. Số 2 chỉ vào lẽ ấy. Tóm lại số 2 chỉ cơ hòa-hợp âm dương.

Số 3 là do số 1 và 2 hỗn-hợp lại mà biến ra 3. Ba tức là cơ-quan hữu tướng cùng vô tướng hiện có ở càn-khôn vũ-trụ này.

Số 3 là số nửa tịnh, nửa động. Nhưng phần động nhiều hơn. Số 3 chỉ cơ biến tướng và vi-chủ vật loại thuộc quyền Tăng. Số ấy có đặc-tính năng động, biến đổi. Vạn hữu mang số 3 thì chất nóng nảy nhưng vì có phần tịnh nên cũng biết dung hòa.

Số 3 là cơ-sở của Tam thể: Phật, Pháp, Tăng, nên nó vừa có năng-lực huy-động mà cũng vừa có năng-lực dung-hòa. Vật nào có số 3 là vật ấy thuộc bản thể cứng rắn, nhiều hoạt-động, ít may-mắn; dễ thành nhưng mau bại.

Tuy nhiên con số 3 có tính cách phổ-thông lại mầu-nhiệm, huyền-diệu vô cùng.
Sau hết nên bàn về lý “Tam ngôi nhứt thể” tức là sự vận-chuyển của càn-khôn thế-giới.

Số 4 là cơ-quan hữu tướng biến hình, tức là âm dương biến sanh. Nho-gia gọi là Lưỡng-nghi sanh Tứ-tượng là vậy. Số 4 cũng có nghĩa là 1+3, tức là do lý Thái-cực điều-hành với ba ngôi vạn hữu, nên hễ đến 4 là biến-hóa ra rồi.

Số 5 là do 1 và 4 kết thành hay là 2 và 3 hiệp lại. Hai ấy là âm dương, 3 ấy là ba ngôi chủ tể đầu tiên của vạn hữu. Số 5 tức là càn-khôn đã an-vị rồi, xong xuôi hết, đã sắp đặt đâu đó có thứ tự an-bày.

Số 5 là số ở giữa 10 con số, tức là số tiêu biểu sự thăng-bằng, trung chánh, không nghiêng lệch, dương không thái-quá, âm không bất cập. Vừa-vặn dung-hòa nhau mới có thể cấu-tạo thành bào thai được.

Các Thánh bên Á-đông dùng con số 5 để tóm thâu tất cả các lý lẽ cao sâu, huyền-bí của tạo-hóa và sự cấu-hợp của muôn vật lại, có cả sự dung-hòa để duy-trì sự cần-thiết tức là con số thiêng-liêng bao gồm cả một lý-thuyết tinh-vi của thiên-lý.

Số 6 do lý Thái-cực hợp với cơ-quan an-vị này (1+5=6); cũng có nghĩa là Lưỡng-nghi hợp cùng Tứ-tượng (2+4) nghĩa là hai lý âm dương đun đẩy nhau để biến sanh những cái đã sanh ra. Nó cũng có nghĩa là 3+3 tức là ngôi đầu tiên hỗn-hợp nhau để hóa thành ba ngôi nhỏ nữa; cũng có nghĩa là 3x2 tức là tam ngôi ở cấp bực thứ nhì do luật âm dương biến tướng với ba ngôi đầu tiên.

Số 7 là số ngưng kết do 1+2+4 tức là Thái-cực cộng Lưõng-nghi và Tứ-tượng. Thái-cực là dương, Lưỡng-nghi là cơ biến tướng, Tứ-tượng là cơ sanh-hóa. Nhưng cơ biến tướng và cơ sanh-hóa chạm nhau lại khắc nên số 7 trở thành số riêng biệt không có biến động; có nghĩa là trong trạng thái yên-tĩnh ngừng nghỉ. Nên nó cũng ám chỉ vào thể âm. Số 7 cũng chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình; trong thân người là thất khiếu ở trên đầu. Số 7 ấy tức là 3 ngôi cọng 4 biến; hay là 1+2+1+2+1 nên vô cực là vi-chủ.

Số 8 là do 1+7 mà thành tức là lý Thái-cực đã phát động để biến sanh cũng như âm dương đã phối-hợp vào nhau để biến sanh thêm nữa.

Số 8 ấy là Bát-quái có nghĩa là 4x2. 4 là cơ chuyển biến, 2 là cơ âm dương. Cơ chuyển biến phát động trên cơ âm dương nên nó huyền-diệu nhiệm-mầu thay thay đổi đổi. Tuy vậy nó cũng chưa thật toàn năng, cũng như lý Thái-cực chưa soi thấu vào âm-quang hữu tướng hữu vi.
Nó cũng có nghĩa là 3+5 là tam ngôi cọng ngũ khí, cơ mộc dục vận-hành trong trạng-thái tĩnh.

Số 9. Phải đợi đến 9 là cơ huyền-diệu nhiệm-mầu, huyền-diệu hơn hết là số đó. Nó là cơ chuyển biến đến mực độ tận thiện tận mỹ, toàn năng, toàn tri.

Nó là 1+8 tức là cơ vận-hành trong trạng thái tĩnh được lý Thái-cực thúc đẩy thêm cho nên năng-tri sáng-suốt.

Nó cũng là 3+6. 3 và 6 là hai lý nhiệm-mầu và đều ở trong trạng-thái động

Nó cũng có nghĩa là 3x3 hay 3 bình phương là cấp bực tam ngôi biến-hóa, vận-hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến 9 rồi trở về 0 là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.

Số 10 là 9+1 tức là số hiền-hòa, lặng-lẽ, an-bình, đầm-ấm.

Số 12 là số đặc-biệt tức là 9+3. 9 là cơ vận chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận huyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là chủ-tể càn-khôn vũ-trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.

Nếu cộng lại là 1+2= 3 tức là ba ngôi đầu tiên.

Nếu tính theo hàng là 1 và 2 tức là lý Thái-cực đứng trước luật âm dương thì thấy rõ quyền-năng chưởng-quản trong đó. Vì thế Thầy nói chi chi cũng có luật định, không vật chi ngoài quyền sở định của tạo-hóa hết”.

IV - TAM NGÔI NHỨT THỂ

Tam ngôi tức là ba ngôi: PHẬT, PHÁP, TĂNG.
Hay là Thái-cực, Lưỡng-nghi, Tứ-tượng (Nho-giáo).
Hoặc nguơn: Thánh-đức, Tấn-hóa, Bảo-tồn.

Đó cũng là lý Tam ngôi: Đức Chúa, Thánh Cha, Đức Chúa con và Chúa, Thánh, Thần bên Công-giáo.
Đó là Tam ngôi nhứt thể mà các triết-gia của Tôn-giáo nào cũng có thể hiện ba ngôi ấy cả. Còn nhứt thể tức là cùng chung một bản thể gồm về duy nhứt, là một.

Trong thân người ấy là TINH, KHÍ, THẦN.
Ở vạn-vật ấy là vật-chất, khí thể và năng lực.

Mỗi mỗi vật thể đều có ba ngôi ấy cả. Thầy nói cơ tạo-đoan càn-khôn vũ-trụ ra sao thì trong vạn-vật cũng tương-liên như vậy, cũng một khuôn-khổ, một luật-định như nhau hết.

Trên hết cả là Phật, ấy ngôi đầu tiên cao thượng hơn hết nắm pháp huyền-vi.

Phật mới chiêt tánh ra Pháp ấy là ngôi thứ nhì.

Pháp mới sanh Tăng. Tăng ấy là ngôi thứ ba. Ba cơ-quan ấy chừng qui nhứt lại thì duy chỉ có một nguyên-căn, một bổn thể cho nên gọi là Tam ngôi nhứt thể là vậy.

Trong vũ-trụ Chúa cả tạo-đoan là Thầy nắm cả huyền-vi bí-mật trong tay. Thầy mới phân tánh Thầy ấy là Pháp. Pháp tức là quyền-năng của Thầy thể hiện ra, cũng như lý Thái-cực ở trong cõi tịnh, rồi từ trong cõi tịnh lý Thái-cực phát động mới sinh ra Pháp. Pháp tức là những định luật chi-phối cả càn-khôn, mà người nắm luật chi phối ấy là Phật-Mẫu.

Sao gọi là Phật-Mẫu?
Phật-Mẫu là Mẹ, là gốc sanh ra vạn-vật. Phật-Mẫu nắm cơ hữu tướng, Phật-Mẫu là âm, còn Thầy là dương. Âm dương tương hiệp mới biến càn-khôn, cả càn-khôn ấy là Tăng, mà người nắm quyền vi-chủ của Tăng ấy là một vị Phật cầm quyền thế-giới.

Phật và Pháp không biến đổi, còn vị cầm quyền thế-giới là Tăng ấy thay đổi tùy theo thời kỳ:
- Tỷ như hồi Nhứt-Kỳ Phổ-Độ cầm quyền vi chủ là Nhiên-Đăng Cổ-Phật.
- Đến Nhị-Kỳ Phổ-Độ là Thích-Ca Như-Lai.
- Qua Tam-Kỳ Phổ-Độ ấy là Di-Lạc-Vương Phật. Hết Tam-Kỳ Phổ-Độ thì nguyên-căn qui nhứt trở lại mở Nhứt-Kỳ Phổ-Độ nữa, sẽ có vị Phật nữa ra đời cầm quyền vi chủ, định-luật càn-khôn. Đó là cơ-quan quản-trị càn-khôn vũ-trụ.

* Còn ở vạn-vật là cơ-quan vô-hình, bán hữu-hình và hữu-hình hay là linh-tâm, khí thể và xác thân.
* Ở nơi người thì gọi là Thần, Khí và Tinh là cơ-quan vô-hình hay linh-tâm hoặc Thần tương-liên với Phật. Cơ-quan bán hữu-hình hay khí thể tương-liên với Pháp. Cơ-quan hữu tướng hay Tinh tương-liên với Tăng.
* Ở trong vật-chất Thần vốn là năng-lực thúc đẩy cho tiến-hóa tức cái sống của vạn-vật do nơi Phật, đó là linh-tâm còn tàng-ẩn ở vạn-linh nên Thầy nói cái sống tức là Thầy.

Cái năng-lực hóa-hợp và tan biến, đổi chất thay màu ấy thuộc về Pháp.

Hình thù vật-chất thuộc về Tăng. Nên Thầy nói vạn-vật các con tưởng là vô tri mà kỳ thật có tánh linh trong đó. Tỷ như một hột giống tuy chưa đem ra trồng mà nó có chứa cả nguồn gốc sự sống trong đó…

Từ vật tế-vi của tế-vi nguyên-tử đến cả càn-khôn vũ-trụ đều có sự kết-hợp mật-thiết liên quan nhau, không một vật gì ngoài luật-định cả.

Do lý Tam-ngôi nhất-thể mới định phân Tam-giáo, mới có Tam-nguơn. Do lý ấy mới có Tam-bửu của càn-khôn.

V - TAM-BỬU là gì?

Theo nguyên-căn sản-xuất của vạn-vật có ba món báu ấy là: lửa, nước, gió. Ánh Thái-cực là Hỏa (lửa)
Tam-giáo ấy là Phật, Tiên, Thánh. Phật là Tôn-giáo nguyên-thủy. Khi khai trời đất Phật là Tôn-giáo có trước.
Như thế: Cơ-quan quản-trị gồm có ba ngôi là: Phật, Pháp, Tăng.
Phật cầm quyền-năng của chơn-linh, Pháp cầm quyền-năng của khí thể, tức là cơ sản-xuất hữu-hình, cầm quyền sự sống của vạn-loại vì khí thể là chất sanh vạn-vật và Tăng là cầm quyền nuôi sống thể hài.

- Ngôi thứ nhất lo về sự tấn-triển của chơn-linh, dạy-dỗ các chơn-linh cho cao-thượng để hiệp về cơ qui nhứt.
- Ngôi thứ nhì lo về sự giáo-hóa chơn-thần, lo về cơ sản-xuất và nuôi sống vạn-linh.
- Ngôi thứ ba lo về cơ cai-trị vật loại cùng là đùm bọc sự sống để đem trở lại cơ qui nhứt làm thế nào cho điểm linh-quang đừng phải bị mờ ám trong cái xác hình.
Ngôi thứ nhứt ấy là giáo-hóa,
Ngôi thứ hai ấy là dưỡng-dục.
Ngôi thứ ba ấy là cai-trị.

Mỗi một sanh vật ở càn-khôn vũ-trụ này đều chịu trong định-luật ấy, không một vật chi qua khỏi hết.
Luật tăng tiến thuộc Phật.
Luật sanh sống thuộc Pháp.
Luật quản-trị thuộc Tăng.

Một vũ-trụ hay một chơn-linh dù cao trọng, dù hèn thấp cũng có nơi mình ba định-luật ấy để dung-hòa lẫn nhau mới tạo ra cái sống của vũ-trụ càn-khôn.

Tỷ như một hột cát có sức kết hợp, nó biết tìm lẽ hợp nhứt ấy là thuộc quyền-năng của Phật, nó có tan có hiệp và biến chất ấy là thuộc quyền-năng của Pháp. Nó có xác hài của nó để phân biệt vật nọ với vật kia để luân-chuyển nơi này, nơi khác; quyền-năng ấy thuộc Tăng.

Về nguyên-lý hữu-hình và vô-vi thì Phật thuộc vô-hình, Pháp thuộc bán hữu-hình, Tăng thuộc hữu-hình.

Phật và Tăng liên-kết nhau nhờ Pháp làm trung-gian. Tăng nếu không nhờ Pháp thì khó đoạt Đạo mà trở về vị cũ. Phật không nhờ Pháp thì khó truyền đạt những lời huấn-giáo xuống được cho Tăng.

Trong vạn-vật vốn có ba phần: năng-lực, khí thể và vật hình. Năng-lực thuộc Phật, khí thể thuộc Pháp, vật hình thuộc Tăng.

Như trong một cây bông có năng-lực hướng về ánh thái-dương, năng-lực ấy tương-liên với ngôi thứ nhất tức Phật, nó có khí chất thơm tho ấy thuộc Pháp, nó có hình-thể đẹp-đẽ ấy thuộc Tăng.

Trong một dòng nước, nó có năng-lực mạnh-mẽ, uyển-chuyển luân-lưu ấy thuộc Phật, nó có tính bay hơi, ngưng tụ ấy thuộc Pháp, nó có hình dáng ấy thuộc Tăng.

Trong thân một con thú: một con nai hay con bò chẳng hạn, nó có sức hiểu biết khôn-ngoan ấy thuộc Phật, nó có tính cảm-xúc hợp đoàn ấy thuộc Pháp, nó biết lẽ sống tự-nhiên tìm cái ăn uống ấy thuộc Tăng.

Trong thân người cũng vậy. Kẻ biết tìm hiểu, tôn-sùng ấy thuộc Phật, biết tìm-tòi hiểu biết lẽ khôn-ngoan, có tình-cảm thương ghét ấy thuộc Pháp, có khuynh-hướng thỏa-thích giác-quan ấy thuộc Tăng.

Vạn-vật cả thảy đều có cái sống riêng của nó nên Thầy mới nói “Trước mắt Thầy không có vật chi khinh cũng không có vật chi trọng và thật sự không vật chi gọi là gọi là vô tri vô giác. Chẳng qua điểm chơn-linh ở trong vật thể này còn tiềm-ẩn, còn ở trong vật thể kia đã được phát-triển vậy thôi”.

Cái lý Tam ngôi nhất thể ấy chi phối, điều khiển cả vạn-linh.
Bởi vậy Đạo lập ra cốt yếu cho cả chúng-sanh TU tức là làm sao cho đừng đi sai lạc chơn lý điều-hành vạn-vật. Chơn-linh nào đi sai lạc chơn-lý ấy thì phải bị ĐỌA là vì vậy. Bởi vậy trong Thánh-ngôn thầy trước kia có dạy: “Thánh-ngôn trong miệng con nói ra tức là của Thầy, các con nói Đạo dù cho sắt đá, cây cỏ nghe cũng cảm động huống là người”. Lời nói ấy không phải là Thầy nói ngoa. Ấy là vì vạn-vật vốn có tánh linh cũng đều hiểu biết hấp-thụ lẽ Đạo, nên hễ nơi nào có Đạo thì nơi ấy vạn-vật được tận thiện tận mỹ và tăng tiến một cách nhanh chóng. Con nghe đời thường nói sấu tu thành cù, cá tu hóa rồng, lời ấy thật chưa phải là lời bịa đặt hay nói ngoa đâu. Vạn-linh phải đi từ phẩm vật-chất lên đến người rồi mới đoạt vị thành Tiên, Phật.

Cơ tấn-hóa buộc vạn-linh phải đi xuống các tinh-cầu học hỏi, mang vạn mảnh thi hài từ vật-chất, thảo-mộc, thú cầm cho đến loài người. Mỗi một kiếp sanh học một bài học mới-mẻ khác nhau. Sanh linh đi hàng vạn kiếp như vậy, luân luân chuyển chuyển. Các con đã đặng làm người là hệ-trọng. Tuy vậy mà đừng tưởng đã hơn vạn vật đâu. Không phải vậy đâu. Ở tại thế gian này chưa biết một phẩm chúng-sanh nào trọng hơn phẩm nào. Có khi trong thân hình con vật là một vị Bồ-Tát đang tái kiếp đặng tạo linh-đài đó không chừng. Bởi vậy kẻ biết Đạo không dám sát sanh và không dám khinh rẻ một vật nào cả...

Lý Tam ngôi nhất thể là lý điều-hành vạn-linh. Do nơi ấy mới biến ra Tam-giáo, Tam-tài, Tam-nguơn, Tam-bửu, Tam-kỳ…
Tam-giáo ấy là Phật, Tiên, Thánh.
Tam tài ấy là Thiên, Địa, Nhân.

Tam nguơn ấy là Thượng-nguơn, Trung nguơn, Hạ-nguơn hay là nguơn Thánh-đức, Tấn hóa, Bảo-tồn.
Tam-kỳ ấy là: Nhứt kỳ, Nhị-kỳ, Tam-kỳ.

Tam-bửu ấy là:
Nhựt Nguyệt Tinh (ở trời).
Thủy Hỏa phong (ở đất).
Tinh Khí Thần (ở người).

Năng-lực, khí thể, vật hình (ở vật-chất).
- Phật thuộc về phần giáo-hóa.
- Tiên thuộc về phần nuôi-nấng, an-ủi.
- Thánh thuộc về phần nuôi-nấng, cai trị.

Mỗi một phần trong các số Tam ấy tương liên với nhau như:

Phật tương liên với thiên, với thượng nguơn, với Nhứt-kỳ, với Phật, với Thần, với năng-lực… Pháp và Tăng cũng tương-tự như vậy.

Ở trong mỗi sanh vật ba phần ấy liên-hệ mật-thiết lẫn nhau. Đến như lập Đạo Thầy cũng chia ra: Bát-Quái, Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng-Đài cũng là lý Phật, Pháp, Tăng đó. Tóm lại trong vạn-vật đâu đâu cũng thể hiện cái lý TAM NGÔI NHẤT THỂ ấy cả. Đấy là tượng TAM THẾ PHẬT trên nóc Bát-Quái-Đài Toà-Thánh Tây-Ninh
TAM THẾ PHẬT
trên nóc Bát-Quái-Đài Tòa-Thánh Tây-Ninh

CHƯƠNG 7

TÂN PHÁP CAO-ĐÀI

I - Ý-niệm khái-quát
“Luật-pháp của Đại-Đạo là TÂN-LUẬT và PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN do Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng huyền-diệu Cơ-bút giáng dạy để làm qui-củ chuẩn-thằng cho Hội-Thánh truyền giáo.

“Diệt trừ mê-tín dị-đoan, bất nạp bóng chàng, phù thủy, bởi Đạo dung-hòa mọi tín ngưỡng và tùy khả-năng tiến-hóa của mỗi hạng người và phong-tục của mỗi địa-phương mà phổ-độ.”

Tân Pháp tức là Tân-Luật và Pháp-Chánh-Truyền đó vậy.
Nếu hỏi Đạo mà còn phải có Pháp có Luật để làm gì?

“Thầy vì sợ phàm tâm tục tánh lập Luật pháp rất nghiêm đặng đủ quyền-hành buộc cả Hội-Thánh, nghĩa là thân thể thiêng-liêng hiệp hòa làm một”

“Về phần Đạo, thì trí thức tinh-thần nhơn lọai nhìn nơi vô biên biết càn-khôn vũ-trụ tức là cơ tạo-đoan nó định luật cho khối người thành ra Pháp chủ Luật, tức là Pháp có trước, Luật có sau, nên gọi là Pháp-luật.

“Về cơ-quan đời, tức là cơ-quan xu hướng theo cái sống, định luật được rồi mới tìm-tàng giải-pháp đặng thi-hành luật, định pháp-hình để bảo-vệ luật; thành ra luật trước pháp sau, gọi là Luật-pháp.

Do đo mà Chí-Tôn vừa khai Đại-Đạo là đã lập ngay Pháp-Chánh-Truyền, đồng thời dạy các Chức-sắc nhóm họp Hội-Thánh để lập Tân-Luật. Gọi chung là Pháp-Luật Đại-Đạo.

1 - Giá-trị của Tân-pháp Cao-Đài
Được minh-định trong bài Kinh Di-Lạc, kinh này được xem như bản vi-bằng giao lãnh từ Phật Thích-Ca trao đến tay của Đức Di-Lạc-Vương-Phật trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Nơi Cung Hỗn-Nguơn-Thiên có đoạn “nhược hữu chúng-sanh văn ngã ưng đương thoát nghiệt: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng tùng thị Pháp-điều Tam-Kỳ Phổ-Độ tất đắc giải-thoát luân-hồi đắc lộ đa-la tam diệu tam bồ đề thị chi chứng quả Cực-Lạc Niết-Bàn” (Tức nhiên lời Phật dạy: nếu như người nào biết nghe theo lời TA, sẽ tránh khỏi các nghiệt chướng, nghĩa là niệm Phật (niệm danh Đức Chí-Tôn), niệm Pháp (niệm danh Phật-Mẫu) niệm Tăng (tùng theo Hội-Thánh). Sự tùng theo nghĩa là làm đúng với “Pháp-điều Tam-Kỳ Phổ-Độ” tức là pháp-luật của Đại-Đạo, thì giải-thoát được kiếp luân-hồi sanh tử, được đắc vào vị tối thượng chánh đẳng chánh giác, ấy là chứng được quả vị Phật nơi cõi Niết-bàn, Cực-Lạc Thế-Giới đó vậy)

2 - Pháp-điều Tam-Kỳ Phổ-Độ là gì?
“Ấy là Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật tức là Thiên-điều tại thế.

Đức Hộ-Pháp giải rõ:
“Muốn cho xã-hội loài người trong thế-giới này đạt được mức quân-bình tuyệt-đối thì phải có sự công-bình được lập lại bởi cán cân công-lý, mà xã-hội loài người từ xưa đến giờ chưa có công bình thật sự.

Ngày nay Thiên-thơ đã định cho nước Việt-Nam này có được cán cân công-lý do bởi tay Thượng-Đế đến cầm đòn cân định vận-mạng cho Việt-Nam và cả nhân-loại.

Cho nên khi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn đã lập ngay Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật tức là Thiên-điều tại thế để điều-hành guồng máy hành-chánh-đạo hầu bảo thủ chơn truyền và công-bình Thiên-đạo vì nếu thiếu pháp luật thì còn gì là Đạo nữa.

Ấy vậy, Đức Chí-Tôn lập Tân Pháp là lập chủ-quyền cho Đạo. Nếu chúng ta biết Đạo và ý thức rằng pháp-luật là do Thiên-ý và công-lý mà lập ra thì tự nhiên phải tuyệt-đối tôn-trọng chủ quyền đó là tuân-hành qui-điều pháp-luật Đại-Đạo.

Phạm luật Đạo tức là phạm Thiên-điều, mà phạm Thiên-điều thì tội-tình kia có chi giải nỗi.

Hội-Thánh hiệp nhau lập luật cũng như cả Thập-Nhị Khai-Thiên lập luật.

Thập-Nhị Khai-Thiên lập luật giao lại cho Thầy, còn Hội-Thánh lập luật cũng giao lại cho Thầy. Vậy thì Tân-Luật với Thiên-điều cũng đồng giá-trị.

Dẫu cho Hộ-Pháp phạm luật cũng bị đòi đến Tòa Tam-giáo bên Cửu-Trùng-Đài, thì Thiên phẩm mình dường như không có, kể như một người đạo-hữu kia vậy.

Còn Giáo-Tông nếu phạm tội cũng phải bị đòi đến Tòa Hiệp-Thiên-Đài thì cũng chẳng khác một người tín-đồ kia vậy.

Luật Đạo thành ra Thiên-Điều thì Hội-Thánh là Ngọc-Hư-Cung tại thế. Hội-Thánh hiệp nhau lập luật Đạo thì cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật lập Thiên-điều.

Vậy thì Hội-Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đồng một thể.”
(ĐHP diễn-văn14-2 Mậu-Thìn 1928)

Như thế:
“Pháp-Chánh và Tân-Luật cốt để bình tâm thiên-hạ đặng để gỡ tội cho kẻ có tội-lỗi; phạm mà không biết thú tội trước mặt người và trước phép thiêng-liêng. Định pháp-luật ấy cũng là sợi dây thiết tỏa liệng xuống Âm-quang cho kẻ tội-nhơn nắm nó mà phăng về thiêng-liêng cựu cảnh chớ chưa phải là chơn-luật và chơn-pháp…

Toàn Thánh-thể Đức Chí-Tôn nếu biết thì nắm quyền luật thiên-nhiên ấy, ngày giờ nào thiên-hạ được yêu thương nhau nồng-nàn, thì giờ ấy quyền Đạo là quyền tối thượng nơi mặt thế đó.” (Thuyết-đạo II/98)

Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-nhơn dạy rằng:
“Phàm Pháp-luật lập thành đều tùng sở dụng, buộc kẻ chung công hiệp trí tác thành một cơ-sở vĩ-đại, Đông Tây tương-thân tương-ái.

Bởi cớ mà pháp-luật vẫn nhiều mặt đặc biệt cùng nhau, tùy theo phương dụng, chẳng thế dùng một mặt pháp-luật nào mà thay thế vào một cơ-sở khác hành-vi cho đặng, cần thì mới lập, còn vô ích thì bỏ.

Vậy các Pháp-Luật của Chí-Tôn đã đào-tạo đều hữu-ích cho cơ-quan hành-động cho Chánh giáo của Người, một cái dấu bỏ ra cũng chẳng đặng. Hễ tùng thì Đạo thành, còn nghịch thì Đạo diệt. Cả thảy Hội-Thánh chưa ai đặng quyền ra khỏi ngoại luật. Chúng ta vâng theo mới đắc thành quyền-hành Hội-Thánh, thảng có một người nghịch thì làm rối loạn chơn-truyền.

Kẻ nghịch cùng Thế-đạo thì trục ngoại xã hội hay là diệt tàn cho khỏi lưu hại, còn kẻ nghịch cùng Đạo-pháp thì tội trục ngoại Thánh-thể Chí-Tôn hay là có ngày quyền thiêng-liêng diệt thác.

Chúng ta từ đây coi kẻ phạm Pháp-luật như thù địch của Đạo, dùng phương trừ khử. Bần-Đạo đã thọ sắc lịnh Ngọc-Hư lo chuyển Pháp, thì không phương tha thứ điều phạm bao giờ. Từ đây Hội-Thánh Ngoại-giáo giữ nghiêm Pháp-luật.

Bần-Đạo xin để lời cầu-khẩn cùng Giáo-Tông và Hộ-Pháp cũng để lòng lo phương trừ hại, đừng vì Bác-ái, Từ-bi vị nễ.”
(3-3 Quí-Dậu dl 26-5-1933)

Thầy cũng có nhắc-nhở:
“Trường đời có ấm lạnh, cũng như lẽ Đạo có thạnh suy, mà cùng cực cái thạnh ắt lại suy, cùng cực cái suy ắt lại thạnh. Mà cái thạnh của Đạo thì vô cùng người thường không phương thấu-đáo. Chơn-truyền luật-pháp là bất di bất dịch, ai sửa cải chơn-truyền luật-pháp ắt bị tội chẳng sai, dầu là địa-vị gì đi nữa. Thầy phong thưởng chúng nó đặng ắt thầy hình phạt chúng nó cũng đặng vậy”.

3 - Trọng-tâm là LUẬT Thương-yêu, QUYỀN Công-chánh

Luật quyền này nay trở thành Bản Đệ Tam Thiên-Nhơn Hòa-Ước rồi vậy.

“Luận về cái quyền. Cái quyền đôi bên bao giờ cũng phải quyết-định với một cái pháp-luật của Hội-Thánh. Luật của Hội-Thánh để định quyền cho Đạo, cho đại-gia-đình của tinh-thần nhơn-loại, ngó thấy Tân-Luật, Pháp-Chánh-Truyền là một chơn tướng lập Thánh-thể của Ngài không cần luận đến, chỉ luận Tân-Luật mà Đức Chí-Tôn và Đức Lý-Giáo-Tông đã dạy Hội-Thánh khi mới khai Đạo, lập trong ba tháng phải thành-tựu, trong Tân-Luật con cái Đức Chí-Tôn đều ngó thấy, Bần-Đạo không cần lập đi lập lại vô ích, chỉ lấy cái tinh-túy của nó là trong Tân-Luật ấy Chí-Tôn định cho Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại-điều-qui và trong ấy cốt-yếu bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của toàn thể con cái của Ngài. Thật ra cái Thiên-luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm não con cái của Ngài:

LUẬT chỉ có một là THƯƠNG-YÊU.
QUYỀN chỉ có một là CÔNG-CHÁNH.

Thiên-hạ đã lập Luật nhiều quá, mà cái Luật của thiên-hạ lập ấy tưởng khi cả thảy đều ngó thấy, dầu cho họ có thay đổi cho tới tận-thế họ chưa có phương nào làm cho nó phù-hợp với cả nhơn-tâm bao giờ.

Còn Đức Chí-Tôn lập Luật có một điều mà thôi là THƯƠNG-YÊU. Cả thảy đều hiểu cái luật ấy, nghĩ coi có ai tránh khỏi đặng không? Người nào không có dính-dáng trong cái Luật THƯƠNG-YÊU ấy thì chẳng hề sống được bao giờ, nhứt là sự sống chung của đồng-loại, hoặc họ phải tự họ ly-dị cả nhơn-loại hay là cả nhơn-loại buộc phải đào-thãi họ, nếu họ không tuân cái Luật ấy; còn cái quyền CÔNG-CHÁNH, công-bình, chánh-trực dầu một kẻ không học kia dốt nát thế nào mà học được hai cái đặc tính quí-báu ấy tôi tưởng cả thảy thiên-hạ đều cúi đầu tôn trọng, kính-nhường và nhất là họ thương-yêu.

THIÊN-LUẬT của CHÍ-TÔN là vậy đó!

Tân-Luật, Đức Chí-Tôn cốt-yếu muốn cho ta làm, đặng ta bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của nhân-loại. Nói về phương Đông này dầu cho luận tới các quốc-gia xã-hội đến đâu đi nữa, họ tự trọng họ, văn-minh thế nào họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm-luật ấy bao giờ; nếu họ ra khỏi là muốn tự bỏ cả xã-hội của họ thì họ sẽ thành cái gì chớ không thành xã-hội.

Giờ đây luận tới Hội-Thánh: Hội-Thánh lập luật chỉ lập ra trong buổi con cái Đức Chí-Tôn bị óc ngoại hình ngoài đời kia xâm-phạm tinh-thần và hình chất của nó. Hội-Thánh buộc phải lập Luật chẳng khác nào như thể một phương che chở, như ta đã ngó thấy một người kia đi tới miệng giếng họ muốn sa vào đó ta kêu trở lộn lại.

Luật của Hội-Thánh chuyển-luân theo thời thế của xã-hội, nhứt là trong con cái của Ngài, chớ thật ra không có giá-trị gì hết. Bởi hình không có.

Bây giờ nói tới Hình của Luật Đạo:
Cái quyền của Đạo: quì hương, tụng Kinh Sám-Hối, đáo-để trục xuất nội thành Thánh-địa, rồi còn dữ hơn nữa trục-xuất ra khỏi Đạo chớ chưa giết ai, chưa có tù tội ngục hình, cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết bao giờ, ấy là Luật của Đạo. Vậy cốt-yếu của khuôn-khổ đại-gia-đình tinh-thần này để tạo con cái của Đức Chí-Tôn thành Thánh, nong-nã dạy-dỗ, dìu-dắt thế nào cho họ thành Thánh, đặng họ mới cầm cái cơ cứu khổ của Đức Chí-Tôn vững-vàng và mạnh-mẽ, họ mới thay thế hình ảnh của Đức Chí-Tôn đặng.
Vì cớ cho nên cả khuôn khổ quyền-lực của Đạo cốt-yếu để tạo Thánh”.
(ĐHP 30-3 nhuần, năm Ất-mùi 1955)

“Chí-Tôn muốn con cái của Ngài nên Thánh thì phải làm sao?
Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch-sẽ làm cho thiên-hạ muốn gần, vì đáng tôn-sùng yêu-ái mà gần. Hình-luật Tam-giáo là nước Cam-lồ để tắm rửa linh-hồn vậy. Chơn-truyền từ trước đến nay Đức Chí-Tôn để tại mặt thế trên các Đạo: Phật, Tiên, Thánh là phương để gội rửa linh-hồn mà thôi”. Thế nên phương tu phải có LUẬT và PHÁP. Nó là nhu-cầu tối yếu, tối trọng là vậy. Pháp-luật Đại-Đạo cần-yếu cho người tu cũng như chiếc cầu bắc sang sông cho người người về đến nơi đến chốn mà mình mong đợi.

II - TÂN-LUẬT

Càn-khôn vũ-trụ cũng có Luật-định. Chúng-sanh tu nếu biết đi đúng theo luật-định ấy mới mong hiệp một cùng Thầy. Do vậy mà phương tu phải có Luật có Pháp là phương định-vị là vậy. Thế nên nền Đại-Đạo này có Luật là Tân-Luật và Pháp là Pháp-Chánh-Truyền

A - Tại sao Đạo Cao-Đài
để cho Quyền Vạn-Linh lập Luật?

“Nếu nói lương-tâm nhiều hạng tức nói Đạo Đời nhiều hạng. Chẳng có một giáo-lý nào buộc Đời tùng theo một mực thì chưa có một Đạo nào cầm đặng chủ quyền của đời trường cữu. Phải để cho đời trị đời, tức nhiên phải để cho lương tâm người trị người. Cá-nhân duy tùng lương-tâm mà hành-đạo thì mới thiệt Đạo.

Pháp-luật nào không tùng lương-tâm lập thành thì không phải Đạo, vì cớ mà ĐẠO CAO-ĐÀI để cho QUYỀN VẠN-LINH lập LUẬT.

Nhơn-sanh lập Luật mà tu thì tức nhiên do tâm-lý mà hành-đạo, ngoài ra khuôn viên luật pháp thì cá-nhân đặng trọn tự-do tư-tưởng của mình.

Lương-tâm là giềng mối để cột chặt tánh đức của người đời qui nhứt, vậy phải lấy Lương-tâm lập thành Đại-Đạo. Thế nên Cao-Đài là ĐẠI-ĐẠO!

B - Tân-Luật đã gồm trọn Tam-giáo
Pháp-Chánh-Truyền dạy:

“Pháp-luật Tam-giáo tuy phân-biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một”
Chú-giải: Vì coi như một, nên Thầy mới đến cho nhân-loại lập Tân-Luật thế nào cho phù-hợp với nhơn-trí hợp tánh với nhơn-tâm, chung chịu một Đạo-luật, có phương hành Đạo, chẳng nghịch với Thiên-điều, đặng lập vị mình dễ-dàng mới toàn câu phổ-độ.

Buổi trước thì Thiên-điều buộc nhơn-loại phải nâng cao phẩm-hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng đoạt đức tánh mà lập vị mình, còn nay thì các Đấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn-loại đặng dìu cả chơn-hồn lên tột phẩm-vị thiêng-liêng đến ngang bực cùng Thầy. Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn-trí ngày nay đã qua khỏi nguơn “tấn-hóa” thì đã tăng tiến lên địa-vị tối cao; chủ-nghĩa cựu-luật của các Tôn-giáo không đủ sức kềm chế đức-tin, mà hễ nhơn-loại đã mất đức-tin về đạo-đức rồi, thì cơ tự-diệt vốn còn, mà cơ tự-diệt còn thì nhơn-loại khó tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng. Đời phải tùy Đạo mới còn, mà Đạo cũng phải tùy đời mới vững, biết đâu TÂN-LUẬT ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành, trong thời-gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù-hợp với nhơn-trí Đạo đời tương đắc mà dìu-dắt cả nhơn-sanh đời đời kiếp kiếp.

Thí dụ như có kẻ hỏi “Sao Thầy không dùng Cựu-luật trong Tam-giáo đã có sẵn rồi, lại lập chi Tân-Luật nữa, mà buộc nhơn-sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?"

TA lại đáp: Chính thầy đã giáng cơ nói Ngọc-Hư-Cung bác luật, Lôi-Âm-Tự phá cổ; ấy vậy Cựu-luật thì Ngọc-Hư-Cung đã biếm-bác, còn cổ-pháp thì Lôi-Âm-Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu-luật và Cổ-pháp chẳng còn ý-vị chi hết. Những bực tu-hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu luật hay Cổ-pháp thì trái hẳn với Thiên-điều của ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ thể thiên hành chánh.

Bởi cớ ấy nên Chí-Tôn đã cấm Ngũ-chi phái ngọc dùng Cổ-luật mà mê-hoặc nhơn-sanh nữa.
Hễ tùng Cựu-luật tức phải tùng Thiên-điều, hễ tùng Thiên-điều thì khó mà lập vị cho mình đặng.
Xin xem tiếp đây thì thấy rõ Thầy đã quyết-định điều ấy nên Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Vậy một mà thành ba, mà ba cũng như một”
Ấy vậy, TÂN-LUẬT ĐÃ GỒM TRỌN TAM-GIÁO” tức là một thành ba, mà ba Cựu-luật của Tam-giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là TÂN-LUẬT". (PCT)

C- Tân-Luật là gì?

Giải-nghĩa: Tân là mới. Luật là cái đồ ngày xưa dùng để thẩm xét thanh-âm, nói rộng ra là những phép khuôn đã đặt định để làm chuẩn, cứ do theo đó mà thực-hiện, không làm sai trái, ví như pháp-luật là những qui-tắc, hành-vi để cho nhơn-sanh tùy theo tập-quán của dân-tộc mà thi hành, mục-đích để giữ vững trật-tự an-ninh cho cuộc sống.

Gọi là TÂN-LUẬT để phân biệt với Cựu luật. Chữ tân là mới, ý-nghĩa ở đây rất linh-động, thể hiện tinh-thần của Tiên-Nho “Nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân” (ngày mới, ngày ngày mới, mỗi ngày mỗi mới). Có như vậy mới phù hợp với trào-lưu tiến-hóa của nhơn-sanh. Có nghĩa là Tân-Luật của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay sẽ được thay đổi theo từng thời-gian cho hợp theo dân-trí chớ không phải cứng ngắt, bất di bất dịch.

Sự thành hình bộ TÂN-LUẬT được dẫn giải qua các giai-đoạn sau đây, diễn tiến theo từng thời-gian mà các Đấng giáng cơ chỉ dẫn buổi đầu, nghĩa là lúc mới khai Đại-Đạo:
- Một là ý-nghĩa Tân-Luật.
- Hai là sự diễn-tiến của việc lập thành Tân-Luật

1 - Ý-NGHĨA TÂN-LUẬT
Đã nói rằng Ngọc-Hư-Cung bác luật, Lôi Âm-Tự phá cổ” tức là không tùng Cựu-luật, mà hễ không tùng Cựu-luật tất nhiên phải tùng Tân-Luật.

Buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức Chí-Tôn dùng huyền-diệu Cơ-bút giáng trần dạy Đạo xưng mình là Thầy, kêu chúng-sanh là Môn-đệ, chính mình Thầy đến để độ rỗi con cái của Thầy. Thầy không giao Chánh-giáo cho tay phàm, vì phàm-gian hữu-hình hữu hoại, lần lần canh-cải chánh-giáo ra phàm-giáo.

Giáo-điều của các Tôn-giáo xưa phát-xuất nhằm nguơn hội Nhị-Kỳ Phổ-Độ tuy tương-đối cao siêu đặc-sắc, nhưng cũng phải do ảnh-hưởng dân tâm, dân trí địa-phương khai Đạo, do các Đấng Giáo-chủ cũng phải mang hình-thể con người của địa-phương để dễ bề truyền Đạo.

Nay là buổi Hạ-nguơn, càn-khôn dĩ tận thức, tức nhiên nhân-loại đã thực sự hiểu biết nhau, thông-cảm nhau qua phong-tục, tập-quán, phương-tiện giao-thông, hệ-thống truyền thanh, truyền hình các thứ, xem năm Châu chung chợ, bốn biển chung nhà, ấy là nhân-loại đã hiệp đồng. Do vậy mà Đức Chí-Tôn đến lập Tam-Kỳ Phổ-Độ, không lâm phàm với xác thân hình-hài sắc tộc; mà chính Đại-Từ-Phụ giáng cơ lập nên mối Đạo Đại-đồng, vì vậy luật Đạo cũng lập trên căn bản Đại-đồng, nghĩa là phải do toàn cả chúng-sanh, phát xuất từ các Tôn-giáo cổ-truyền tổng hợp thành TÂN-LUẬT. Chí đến việc thờ-phượng Đức Chí-Tôn phải dùng THIÊN-NHÃN làm tiêu biểu lương-tâm (La conscience) của cả nhơn-loại để tránh nạn hình cốt (Idolâtrie).

Bí-quyết của Đạo Cao-Đài là luôn luôn có quyền Thiên-Thượng và Thiên-hạ (Dieu et Humanité) tức là quyền Chí-linh và Vạn-linh hiệp một. Thánh-ý Đức Chí-Tôn muốn để con cái của Ngài tự lập Luật, tùy theo sức khép mình vào con đường tu-luyện để khỏi than rằng Luật quá mắc mỏ rồi không đoạt thành phẩm-vị sanh ra chán nản, hoặc viện lẽ rằng quá rẻ mà sanh dạ dễ-duôi.

Bởi cớ nên bộ Luật của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ gọi là TÂN-LUẬT do chư Môn-đệ của Thầy hợp nhau lập thành rồi dâng lên cho Đức Lý Giáo-Tông phê-chuẩn.

Tân-Luật sau này có thể tu-chỉnh tùy trình độ tiến-hóa của nhân-sanh từng thế-hệ nhưng dù được sửa đổi hay bổ-túc cũng phải cầu xin phê chuẩn như trước.

Cũng bởi lẽ tùy sự tiến-hóa của loài người, sửa đổi Luật cho phù-hợp trình-độ dân trí nên dù trải bao thế-kỷ hậu lai Luật vẫn mang tính cách mới mãi mãi nên gọi là TÂN LUẬT.

2 - SỰ DIỄN-TIẾN của việc LẬP TÂN-LUẬT
TÂN-LUẬT của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ được diễn-tiến qua các giai-đoạn:
* Soạn thảo Tân-Luật.
* Bàn thảo Tân-Luật.
* Dâng Tân-Luật.
* Thành Tân-Luật.

Với thời-gian 3 tháng kể từ ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (19-11-1926) các vị Hoà thượng họp bàn thảo đến ngày 8 tháng 1 năm Đinh-Mão (dl 9-2-1927).

a/ - Soạn thảo Tân-Luật:
Việc soạn thảo Tân-Luật Đức Chí-Tôn giao cho Hòa-Thượng Như-Nhãn hội các Hòa-thượng, từ ngày rằm tháng mười năm Bính-Dần, phải nạp bản dự thảo Luật để họp chư Thánh bàn thảo do chứng tích và ý-nghĩa còn ghi trong Đạo-Sử của Bà Hương-Hiếu.

Đức Chí-Tôn dạy:
“Thời-kỳ dấu-diếm Thiên-cơ đã qua rồi, Thầy phong cho con (Hòa-Thượng Như-Nhãn) là Quản-Pháp Thiền-sư Thích-Đạo chuyển Luật-lịnh Diêu-đạo-sĩ, con vừa lòng chăng?

Con đã giúp Thầy gìn-giữ Thích-Đạo nguyên luật từ thử nay mới còn đặng như vậy, không thì đã ra Bàn-môn Tả đạo rồi, con phải biết Thầy ngày nay trông công con mà lập thành Tân-Luật Thích-giáo. Con phải đại tịnh kể từ tháng 9 cho tới rằm tháng 10. Thầy không muốn cho con lo-lắng điều gì khác hơn là xét xem kinh điển lại. Con biết Ngũ-chi: Minh-Đường, Minh-Sư, Minh-Nghĩa, Minh-Lý, Minh-Thiện, cũng đều do nơi Phật-giáo mà ra, duy có giáo-lý của các chi ấy thì có Tiểu-học, Đại-học, Trung-dung và Tứ thư là kinh-điển mà thôi. Còn phái Lão duy có Đạo Đức-Kinh và Huỳnh-Đình-Kinh làm căn-bản, con phải xem-xét hết lại mà lập Tân-Luật.

Thầy nhứt định giao Thánh-Thất này lại cho Thơ lo-lắng thế cho con, song sự thờ-phượng phải có thay đổi chút ít. Sau Thầy sẽ dạy chư Đạo-hữu con định-liệu. Rằm tháng mười này Thầy xin con hội cả chư Hòa-Thượng tại Thánh Thất đây chung lo lập Tân-Luật, ngày ấy Thầy sẽ dạy cho hai vị Hòa-Thượng phò-loan, đặng có điều chi bợ-ngợ thì cầu Thầy mà hỏi.

Thầy phú-thác một trách-nhiệm nặng-nề cho con, nhưng mà con đừng ái-ngại, danh giá con, Thánh-đạo Thầy trong ấy con khá hết lòng, con phải hiểu rằng hội chư Hòa-thượng trong đôi ba tháng thì là hao tổn. Song chẳng hề chi, để Thầy định-liệu.

Tuy vân, Thầy biết sức một mình con cũng đủ lập Tân-Luật, nhưng mà Thầy muốn có Hòa thượng đặng cho khỏi trành-tròn lại còn làm tay chơn Thầy để thâu phục Thích-đạo”.

Đức Chí-Tôn còn dạy thêm rằng:
- “Các con! Thầy đã lập Thánh-Thất, nơi ấy là nhà chung của các con, biết à?
- Thầy lại qui Tam-giáo lập Tân-Luật trong rằm tháng mười, có Đại-hội cả Tam-giáo nơi Thánh-Thất, các con hay à?
- Sự tế lễ sửa theo “Tam-Kỳ Phổ-Độ” cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à?
- Thầy nhập ba chi lại làm một, Thầy là Cha Chưởng-quản, hiểu à?
- Từ đây trong nước Nam duy có một Đạo chơn-thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là “Quốc-Đạo” hiểu à?
- Thầy phải buộc các con hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à!” (TNI/46)

b/ - Bàn thảo Tân-Luật:
* 2-11 Bính-Dần Lundi 6 Décembre 1926

(Lẽ ra phải nạp bản Tân-Luật vào ngày 2-11 Bính-Dần. Vì lý-do trễ nãi Ngài Thượng-Đầu-Sư cầu xin dừng lại một tuần và nhân dịp này Đức Chí-Tôn giải-thích thêm). Trung bạch Thầy xin cho đình lại qua ngày thứ bảy tới sẽ nạp luật cho Thầy phê-chuẩn.

Phải ở luôn luôn nơi Thánh-Thất đặng lập Luật sẵn. Nghe Thầy dạy, khởi đầu lập:
- Luật TU gọi là “Tịnh-thất-luật”
- Kế nữa, lập Luật trị gọi là “Đạo-pháp-luật”
- Ba là lập Luật đời gọi là “Thế-luật” các con hiểu à?

Sau khi soạn thảo Tân-Luật xong ngày 14 tháng 11 Bính-Dần (Samedi, 18 Décembre 1926)

Đức Lý Giáo-Tông dạy:
Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu nghe dạy:

Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng “buổi lập Luật phải ngưng sự phổ-độ lại đôi chút” lo cho xong “Tân-Luật” thì mới truyền-bá chơn-đạo rõ lý hơn.

Vậy ngày Đại-lễ Thánh-giáo giáng-sanh phải có mặt tại đây cho đủ và nạp Luật cho kịp ngày ấy. Làm lễ xong qua ngày kế thì chư Thánh mặc Đại-phục vào Điện bái rồi Hiền-hữu biểu sắp ghế vòng theo Đại-điện. Hiền-hữu và Ngọc-Lịch-Nguyệt lên tọa Bửu-vị, rồi theo chức-phận chư “Thánh” ngồi vòng hai bên như lúc Hiền-hữu còn tại “Thượng-Nghị-viện” đặng cải Luật đó vậy.
Hiền-hữu Chưởng-quản làm chủ Hội, mỗi vị “Thánh” đều đặng quyền cải lẽ, nghe à!

Phải giữ phép kẻ trước người sau, tùy phiên nhau cho có lễ: Phái Thái trước, phái Ngọc giữa, phái Thượng chót.

Phải viết thơ cho Tương và Trang nạp Luật cho kịp một lượt với Thơ, nghe à!
* Qua ngày 16-11 Bính-Dần (dl 20-12-1926)

Đức Chí-Tôn giáng dạy:
Chư Môn-đệ nghe!
Thầy đã nói muốn cho hoàn-toàn phải có Luật, mà hễ có Luật thì cần phải do theo đó mà hành Đạo mới khỏi điều sơ thất đặng. Nhiều đứa nhờ công-quả chút ít mà được Thầy trọng-dụng là có ý để cho chúng nó đặng vui lòng mà bước tới, dè đâu chẳng trọng sợ lịnh Thầy, lại lấy ý riêng mà làm cho có lời kích-bác trong Đạo. Nếu Thầy chẳng lấy Đức từ-bi mà dìu-dắt các con thì chư Thần, Thánh đã phạt mấy đứa ấy một cách nặng nề hơn, các con khá liệu mà hành Đạo”.

* Ngày 20-11 Bính-Dần (Vendredi 24-12-1926)
Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy thêm:
Trung, Hiền-hữu nhớ mời hội:
- Từ 6 giờ mơi chí 11 giờ, nghỉ.
- Từ 2 giờ tới 6 giờ, nghỉ.
- Tối từ 8 giờ tới 11 giờ, nghỉ.

Như chưa hoàn-toàn, ngày mai cũng phải vậy. Thầy dặn phải tuân y lời. Luật-lệ truyền lâu dài chư Đạo-hữu phải ráng cẩn-thận, nghe à!
Cũng trong ngày, có Đức Chí-Tôn giáng cơ giải thích:

“Các con ôi!
Nếu nói rằng Thầy đã nhiều cực nhọc từ ngày khai Đạo đến chừ, Đạo đặng phổ-thông mau chóng dường này thì đáng lẽ Thầy mừng cho các con lắm mới phải, sao Thầy lại buồn?

Các con ôi! Các con đã chịu lắm khổ-não nơi biển trần này từ mười ngàn năm rồi, đã ở dưới quyền Tà-quái áp chế, vì vậy mà Thầy phải phế hết Bạch-Ngọc-Kinh, Huỳnh-Kim-Khuyết giáng trần độ-rỗi các con, chớ chi Thầy đến mà làm giảm bớt sự khổ-não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào còn lập Tân-Luật ràng buộc các con thêm nữa, vì cớ mà Thầy buồn!

Thầy tỏ thật, các luật-lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí mà lập thành đây, nó có ảnh hưởng về Thiên-phong Phật-sắc của các con nên Thầy buộc mình cam chịu vậy. Chẳng luật-lệ thì là trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch-Ngọc-Kinh cho đặng.

Vậy các con gắng làm phận-sự cho hoàn toàn rồi có Thái-Bạch giáng cơ sửa Luật.

* Ngày 21-11 Bính-Dần (Samedi, 25-12-1926)
Nay, ngày chính thức bàn thảo Tân-Luật, nhưng buổi hội chư Thánh suốt ngày hôm đó không đem lại kết-quả nên Đức Lý giáng cơ chỉ vẽ dặn-dò:

“Thượng-Trung-Nhựt. Hiền-hữu hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết. Việc tán thành Tân-Luật nếu Chí-Tôn để cho Lão nội trong 2 giờ hoàn thành tất cả, ngặt một điều là nếu Lão lập Luật chẳng một ai trong hàng Đạo-hữu hành Đạo đặng. Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho chư Đạo hữu lập thành là chủ ý để phần nhơn-lực vào đó chút ít, rồi lấy huyền-diệu làm ra Thiên-lực, ấy là một hạnh Công-bình đó.

- Vậy Lão giao ba bộ Luật hiệp một cho Thái-Thơ-Thanh trước, nội trong một tuần-lễ phải hiệp thế nào cho ba bộ ba phái chung vô làm một.
- Qua tuần nữa tới Thượng-Tương-Thanh.
- Kế một tuần nữa tới Ngọc-Trang Thanh.
Nghĩa là trong ba tuần nữa phải lập thế nào cho rồi luật-lệ đem về Thánh-Thất đặng cải lại nữa.

* Ngày 22-11 Bính-Dần (Dimanche 26-12- 1926)
Đức Lý nhắc:
Trung, Hiền-hữu nhớ viết thơ cho chư Thánh, ngày cải Luật phải đủ mặt, bằng ai chẳng tuân mạng Lão trục xuất, nghe à!

* Ngày 12-12 Bính-Dần (Samedi 15-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy:
Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu cũng nên để tịnh tâm đặng lo cải Luật, chẳng nên ham vui quá nghe!

Thầy sẽ ngự trong lúc cải Luật. Lão giáng cơ trước khi mở hội. Vậy khi chư Thánh đủ mặt phải cầu cho Lão dạy việc, chừng Lão ngự Đại Điện thì tức cấp khai hội liền.

Hết thảy đều mặc đại-phục trong khi cải Luật chẳng nên thay Tiểu phục, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ngự xem, coi ra khiếm lễ vậy… nghe à! Tuân!

Ngày nay chẳng dạy văn. Lão để cho chư Đạo-hữu tịnh trí.

Tái cầu: Đức Chí-Tôn nhắc-nhở:
“Trước mắt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật phải cải Luật cho nghiêm-chỉnh, Thầy khuyên Thái-Bạch cho kẻ hầu săn-sóc các con”… đến đây là ngày cuối cùng về việc cải Luật (bàn thảo đã xong)

c/- Dâng Tân-Luật
* Ngày hôm sau 13-12 Bính-Dần (16-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông dạy cách dâng Tân-Luật như sau:
Lão khen chư Hiền-hữu. Đại hỉ! Đại hỉ!
Thượng-Tương-thanh! Coi Lão hành-sự mà bắt chước.
Mời Chưởng-Pháp phái Nho, chư Hiền hữu bình thân.
Đứng bài ban. Chưởng-Pháp, Đầu-Sư toạ vị Phối-Sư Tam-giáo tới trước.

Thái-Thơ-Thanh phải ôm bộ chú giải các Luật: Tân-Luật của chư Hiền-hữu cải đó nữa.
Thơ-Thanh ôm chí mày dâng cho Tương Thanh, rồi Tương-Thanh cũng phải làm như vậy mà trao cho Trang-Thanh phò.

Bái nhau.
Trang Thanh ôm Luật hiệp với nhị vị Hiền hữu đến dâng cho ba vị Đầu-Sư đồng đứng dậy bái nhau mà tiếp Luật một lượt, thế nào sáu bàn tay đều có trong mấy bộ Luật

Ngay giữa.
Cả ba tiếp dâng lên Chưởng-Pháp.
Hai vị Chưởng-Pháp cũng phải bái mà tiếp một lượt, đội dâng lên Đại-điện

Day vô.
Đưa lên chí trán nghe dạy:
Lão giao Luật này cho nhị vị Chưởng-Pháp xem-xét lại nữa trong một tháng phải rồi, mà giao lại cho Hộ-Pháp cầu Lão sửa Luật, phải làm một phòng thanh-tịnh mà giả Hiệp-Thiên-Đài, Thập-Nhị Thời-Quân phải có mặt; Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm phải có mặt khi cầu Lão.

Phải tái cầu nghe dạy:
Nhị vị Chưởng-Pháp đem Luật để ngay tượng Lão một đêm nay. Dương! Phải đội Hiệp Chưởng như Luật và đắp khậu như Luật (Yết-Ma)

Nương! Phải sắm Thiên-phục như Thơ Thanh vậy nghe!
Đem Luật để lên rồi xuống tọa vị.
Lên đầu…để xuống.
Chư Thiên-phong đồng lạy Thầy”.
Về điểm này sau Đức Hộ-Pháp có giải thích:

“Buổi ba vị Chánh-Phối-Sư dâng Luật, Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm phò-loan cho Đức Giáo-Tông sửa (13 tháng chạp năm Bính-Dần). Ngài có truyền dạy ba vị Đầu-Sư và Chưởng-Pháp phải ngự trên ngai; đoạn đòi ba vị Chánh-Phối-Sư vào hành lễ, rồi kêu Chánh-Phối-Sư Thượng Tương-Thanh mà dạy rằng “Hiền-Hữu coi Lão hành-sự đây mà bắt chước”.
- Ngài lại dạy ba vị Chánh-Phối-Sư mỗi người phải dâng Luật thế nào cho đủ sáu bàn tay dâng Luật ấy, chẳng nên cho hở, đặng dâng lại cho Đầu-Sư.
- Đầu-Sư cũng phải cho đủ sáu bàn tay mà dâng lên cho Chưởng-Pháp;
- Rồi Chưởng-Pháp cũng đủ sáu bàn tay mà dâng lên cho Ngài.

Khi ấy Ngài dạy phải đi ngay lên Đại-điện đưa qua khỏi đầu Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm. Ngài hạ Ngọc-Cơ xuống dưới, đặng đi ngang qua cho khỏi Ngài nữa (1) (Hay!) Chưởng-Pháp tiếp Luật rồi, lại đưa ngay qua khỏi đầu Khương-Thái-Công và Thánh Chúa Jésus nữa. Sau Hộ-Pháp có để lời than cùng Thầy về điều ấy, thì Thầy cười mà phán dạy rằng “Mắc Tiên-vị của Thái-Bạch còn ở dưới Thích-Ca, Khổng-Tử và Lão-Tử, bằng chẳng vậy thì bộ Luật cũng đi ngang qua đầu các Đấng ấy nữa, vì nó là Thiên-luật đó con! (2)

Bộ Tân-Luật để trước Tiên-vị của Đức Giáo-Tông một ngày một đêm cho Ngài xét đoán; bữa sau Ngài giáng cơ than rằng: “Thiên-điều mầu-nhiệm của Đạo còn thiếu sót lắm” Ngài cười rồi nói tiếp “những điều ấy chư Hiền-hữu biết đâu mà lập cho đặng”.

Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu-nhiệm bí mật ấy, thì chẳng thành Luật; nếu chẳng thành Luật, thế nào thành Đạo. Ngài cười rồi tiếp “Lão tâu cùng Đại-Từ-Phụ xin thêm vào Luật những điều bí-mật yếu-trọng.

Chú thích:
(1) Hay! ấy là lời khen của Đức Lý.
(2) cái giá-trị của Tân-Luật dường đó, mà cả Hội-Thánh coi rẻ-rúng chẳng kể, làm cho Lão phải từ ngôi Giáo-Tông, đặng lấy Thiên-điều khảo tội. Ôi thôi! Biết bao kẻ đoạ lạc Phong-đô, vì đó.

Ấy vậy chư Hiền-hữu cũng phải cầu-khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng này thì khởi nguyện, dặn các Thánh-Thất, các Đạo-hữu phải để lòng thành-khẩn; hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh-Luật, nghe à! (Cười!).

Hễ Đạo trọng thì tức nhiên chư Hiền-hữu trọng, vậy thì chư Hiền-hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời … Từ đây Lão hằng gìn-giữ cho chư Hiền-hữu hơn nữa, nếu thảng Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân-minh, là cố ý muốn giá-trị chư Hiền-hữu thêm cao trọng nữa.

Vậy Lão xin đừng để dạ phiền-hà nghe!
Ngài liền kêu hai vị Chưởng-Pháp lên lấy bộ Luật xuống đặng dâng qua cho Hiệp-Thiên Đài, lại dạy Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm xuống Cửu-Trùng-Đài đứng nơi vị mình. Hộ-Pháp thì bắt ấn Hộ-Pháp trấn trên bộ Luật, còn Thượng-Phẩm thì cầm Long-Tu-phiến che trên ấn ấy, rồi dạy hai vị Chưởng-Pháp như vầy “Ta kỳ cho một tháng phải nạp Luật”.

Hai vị Chưởng-Pháp lãnh kiểm-duợt Luật trong một tháng đem nạp hồi cho Lý Giáo-Tông; rồi Ngài mới cậy hai vị Đầu-Sư thay mặt cho Ngài, đệ lên Hiệp-Thiên-Đài dâng cho Hộ-Pháp cầu Thầy giáng xuống sửa lại. Nhờ Ngài và Hội-Thánh cầu-khẩn, Thầy đã giáng bút truyền các bí-pháp ấy cho Hộ-Pháp. (3)

Coi theo đây thì thấy rõ: Đức Giáo-Tông kêu Chánh-Phối-Sư Thượng-Tương-Thanh xem người hành-sự đây mà bắt chước, thì đủ chỉ rõ rằng: Ngài ban quyền-hành-sự trọn vẹn cho Chánh-Phối-Sư lại buộc cả ba đều để sáu bàn tay vào cho đủ, tức là buộc cả ba hiệp một mới đặng.

Đầu-Sư cũng vậy, mà Chưởng-Pháp cũng vậy, phải hiệp một mới phù-hạp câu Thánh-ngôn “Một thành ba mà ba cũng như một”.

Chú-thích:
(3) Mừng thay cho nhân-loại chút ít rồi. Hội-Thánh chơn truyền Tân-Pháp đã đạt đặng như phép “Giải-Oan”, phép “Khai Sanh-Môn, Ban Kim-Quan”…lại còn nhiều bí-pháp nữa mà Hộ-Pháp chưa có lịnh truyền và lại bị chúng-sanh và Hội-Thánh còn mờ-hồ không nạp dụng. Ngày nay chẳng biết các Đấng Thiêng-Liêng là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Bát-Quái-Đài đã thọ lịnh của Thầy mà hành-pháp vì thuộc về quyền-hành của các Đấng ấy, ngày nay mới tính sao? Trong các bí-pháp có cơ mầu-nhiệm đắc Đạo, bây giờ các Đấng ấy có cho hay là không? Thảm! (cười!) nếu Lão có phương chỉnh-đốn nền Đạo lại thì đặng, bằng chẳng vậy, thì không có một người đắc Pháp, Cửu-Trùng-Đài cũng đã yểm quyền Bát-Quái-Đài mà chớ!. Thật vậy đó chút” Ấy là cơ vô-vi: TINH KHÍ THẦN hiệp nhứt, chư Hiền-hữu có biết à! Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Thái là Thần, nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ

Sao lại giao cho Chánh-Phối-Sư chỉnh-đốn Tân-Luật, ngày sau có phải giao cho Chánh-Phối-Sư như vậy nữa chăng?
Trên kia đã nói: Chánh-Phối-Sư là người thay mặt cho cả nhơn-sanh giữa Hội-Thánh, ấy là người làm chủ nhơn-sanh trong nền Đạo (4), hễ gọi là chủ nhơn-sanh ấy là nhơn-sanh vậy.

Đức Lý dạy tiếp “Đạo đã thành, Đạo đã mạnh, cho đến đỗi trái càn-khôn này dở hổng lên khỏi ngất mấy từng, làm cho các Tôn-giáo đã lập thành trên mặt địa-cầu này phải kinh-khủng, sợ sệt. Cười!
Chư Hiền-hữu cầm trọn nhơn-loại vào tay, Lão hỏi có chi quí trọng mạnh-mẽ bằng chăng?

Chú thích:
(4) Đây cũng nên giải vì cớ nào kể từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở xuống thuộc về Thế, nghĩa là Đời và từ phẩm Đầu-Sư đổ lên thuộc về Thánh, nghĩa là Đạo, bên Hiệp-Thiên-Đài cũng có Đời và Đạo, mà Bát-Quái-Đài cũng phải có vậy, mới nhằm cơ hiệp một Đời cùng Đạo. Tức là trong Đạo có Đời, mà trong Đời cũng có Đạo.

* Ngày 14-12 Bính-Dần (17-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông giáng cơ dạy tiếp:

“Lão đương quyền là Giáo-Tông, ngặt nỗi lễ-chức chưa có đặng giao Luật lại. Vậy Lão cậy Nhị vị Hiền-hữu: Thượng-Trung-Nhựt và Ngọc Lịch-Nguyệt thế giùm chức ấy lên Đại-điện phò Luật đặng giao Hiệp-Thiên-Đài cho Hộ-Pháp (Thượng-Sanh vắng mặt) một ngày bỏ làm việc chẳng đặng sao há!”

Trong khi Đức Lý Giáo-Tông giao cho hai vị Chưởng-Pháp kiểm-duợt thì Bạch-Ngọc-Kinh cũng họp Đại-hội để cải Luật Tam-Kỳ Phổ-Độ mà Đức Lý Giáo-Tông có trách-nhiệm vấn đáp với các Đấng Thiêng-Liêng. Được biết sự mầu-nhiệm đó nhờ đàn cơ của Đức Quan-Âm như sau:

“Hà sự cầu cơ? (5) Bạch-Ngọc-Kinh đại-hội cải Luật Tam-Kỳ Phổ-Độ. Lý Đại-Tiên hữu trọng trách, trọng nhậm, vấn đáp chơn-lý Tam-kỳ cứu tận chúng-sanh, nhựt nhựt thường tại bất đắc hạ trần giáng cơ chỉ giáo. Chư Đạo-hữu vật khi mạng-lịnh chí tự nhựt tân niên Đại-Tiên tái hiệp. Kính lễ.

Giải thích:
(5) Có việc chi phải cầu cơ? Bạch-Ngọc-Kinh có Đại-hội cải Luật cho buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ. Đức Lý Đại-Tiên có trọng-trách lớn, nhiệm-vụ lớn, bận vấn đáp chơn-lý Tam-Kỳ lo cứu độ chúng-sanh, ngày ngày phải có mặt nên không thể giáng cơ để tiếp xúc với trần thế mà chỉ dạy được. Chư Đạo-hữu chớ khá khi lịnh mà xem thường. Đợi đến ngày đầu năm mới sẽ gặp lại.

d/ - Thành Tân-Luật:
* Ngày 8-1 Tân-Mão Đức Lý giáng cơ cho biết:

Đại hỉ! Đại hỉ!
Lão đã nói Đạo đã lập thành, vậy cây cờ chơn-chánh đã vững gốc đặng làm biểu-hiệu cho cả chúng-sanh dòm lấy đó mà đến nơi Bạch-Ngọc-Kinh, nghĩ mà mừng, mà hễ mừng thì lại càng thêm giận lẫn vào trong.

Thượng-Trung-Nhựt! Lão đã nói, mà Thầy cũng đã nói trước rằng: Khi thành Đạo, nghĩa là khi “Tân-Luật” phát hành thì trong hàng Môn-đệ may lắm còn lại nửa phần, trong đám Thiên-phong nhiều kẻ e còn bị trục-xuất thay! Thầy vì lòng Từ-bi can-gián Lão, bằng chẳng Lão đã dụng hình-phạt mà răn những kẻ giả dối ấy và nay là ngày Vía của Chí-Tôn, nhiều kẻ cầu Đạo không đáng dung-nạp, nhưng mà Từ-Bi biểu Lão ân-xá, nên toàn thâu không đuổi ai hết.

Ban phước cho cả chư Đạo-hữu, chư Đạo muội.
Chư Đạo-muội khá hội đủ mặt ngày nạp Luật đặng Lão ban “Thiên-phục”

D - Luận Đạo: Luận về Tân-Luật
1 - Đạo quí ở chữ “Hòa” tức là Âm Dương
Hòa-hợp:
Thể-pháp của Đại-Đạo đâu đâu cũng thấy sự hoà-hiệp một cách khít-khao, do vậy mà thể-pháp đã hiện hình bí-pháp làm chơn-truyền để phổ-thông nền chơn-đạo của Chí-Tôn trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ. Hòa là sự hỗn-hợp của âm dương, đến mức độ quân-bình nhau, gọi là âm dương tương-hiệp.

“Theo bí-pháp chơn-truyền của cơ sanh hoá phải có đủ âm-dương. Trong sanh-quang chúng ta có điện-quang (Positif và Négatif) cũng như vạn-vật có trống mái. Nền Tôn-giáo nào có đủ âm-dương thì mới vĩnh-cữu”.

Riêng về Pháp-Luật Đại-Đạo thì có:
* Tân-Luật thì do Đức Chí-Tôn dạy nhóm Hội-Thánh lập Luật. Tân-Luật được thành hình, tuy nhiên theo thời-gian cũng phải thay đổi cho phù-hạp với trình-độ tiến-hóa của nhơn-sanh, nên đó là cơ âm.

* Pháp-Chánh-Truyền thì do chính Đức Chí-Tôn truyền Chánh-pháp đời đời không thay đổi, nó sẽ bất di bất dịch với thời-gian, đó là cơ dương.
Âm dương đã hòa-hiệp để được lưu-truyền đến thất ức niên như Thầy đã dạy:

2 - Tân-Luật đã gồm trọn Tam-giáo Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt
Người tu theo Đạo Cao-Đài nếu tùng theo Cựu-luật thì trái hẳn với Thiên-điều của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Vì tùng Cựu-luật tức tùng Thiên điều, hễ tùng Thiên-điều thì khó mà lập-vị cho mình đặng.

Nay thầy đã quyết-định điều ấy nên Pháp-Chánh-Truyền dạy “Tân-Luật đã gồm trọn Tam-giáo mà ba Cựu-luật của Tam-giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là Tân-Luật”. Vậy một mà thành ba, mà ba cũng như một. Chẳng luật-lệ thì là trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch-Ngọc-Kinh cho đặng.
Tân-Luật có ảnh-hưởng đến Tiên phong Phật-sắc của người tu.

Bởi Tân-Luật đã thể hiện được Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt:
Cửu-Trùng-Đài thể hiện cơ vô-vi Tinh, Khí, Thần ấy. Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Thái là Thần. Nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ.

Từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở xuống thuộc về Thế là Đời, từ Đầu-Sư trở lên thuộc về Thánh nghĩa là Đạo.
Bên Hiệp-Thiên-Đài cũng có Đời và Đạo.

Mà Bát-Quái-Đài cũng phải vậy, tức là trong Đạo có Đời mà trong Đời cũng có Đạo. Nghĩa là trong âm có dương, trong dương có âm.
Con số 3 đã đứng vào vị-thế tối ư quan trọng trong Tân-Luật này.

3 - Các con số của Bát-quái
Trong “cái tinh-túy của Tân-Luật là Chí-Tôn định cho Ngũ-Giới-Cấm, Tứ-Đại Điều-Qui và trong ấy cốt-yếu bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của toàn thể con cái của Ngài. Đó là Thiên-luật của Đại-Đạo”. Như vậy đã gồm đủ các con số Tam (tam âm tam dương), con số tứ (tứ âm tứ dương), số ngũ, là ngũ trung để hoàn thành Bát-quái Cao-Đài, tức là Bát-quái Đồ-thiên đó vậy.

4 - Luật phản-phục
Khi lập Luật, Thầy dạy khởi đầu:
- Lập tu gọi là “Tịnh-thất-luật”.
- Kế nữa lập luật trị gọi là “Đạo-pháp-luật”.
- Ba là lập luật đời gọi là “Thế-luật”. Các con hiểu à? (18-12-1926)

Nhưng thực tế khi thành Luật:
* Thì “Đạo-pháp-luật” được lập trước, cả thảy có 8 chương, tổng cộng 32 điều.
* Kế đến là “Thế-luật” 24 điều.
* Sau cùng là “Tịnh-thất-luật” 8 điều. Cọng chung là 64 điều ứng với 64 quẻ Bát-quái biến-hóa (8x8=64).

Đó là Tân-Luật đã thể hiện theo hai chiều của chữ “vạn” tức là theo “cơ tấn-hóa” trước, để rồi trở về theo “cơ phục-nguyên” đều theo chu-kỳ của Bát-quái biến-hóa, mà Đức Chí-Tôn gọi là “phản tiền vi hậu”.

5 - Dâng Tân-Luật là “cơ định-vị” tức là con đường trở về với Đại-ngã
- 3 vị Chánh-Phối-Sư dâng luật thế nào cho đủ 6 bàn tay trên bộ luật ấy chẳng cho hở đặng dâng lại cho Đầu-Sư (số 6)
- 3 vị Đầu-Sư phải đủ 6 bàn tay trên bộ luật đặng dâng lại cho Chưởng-Pháp (số 6)
- 3 vị Chưởng-Pháp phải đủ 6 bàn tay trên bộ luật đặng dâng lên cho Đức Lý Giáo-Tông (số 6)
Xem thế thì mỗi phẩm cấp có 3 vị, mà 3 phẩm-cấp là 3x3=9 vị (con số 9)
Kế đến mỗi phẩm phải đủ 6 bàn tay, mà mỗi phẩm-cấp thì 3 vị cho nên bằng (6x3=18). Nếu lấy 1+8=9 ta sẽ có đến 3 con số 9 nữa, cọng chung là 4 con số 9.
4 lần 9 tức là 36 (4x9=36) ấy là thành số của Bát-quái Hư-vô, ứng hiệp với câu:
“Ba mươi sáu cõi Thiên-tào,
“Nhập trong Bát-quái mới vào Ngọc-Hư”
“Quê xưa trở, cõi đọa từ,
“Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.”

Tức là sau khi đã đến con số 9, là con số huyền-diệu nhiệm-mầu, chuyển biến đến mức độ tận thiện, tận mỹ, toàn tri, toàn năng ở trạng-thái tĩnh vận-hành suốt thông trời đất, rồi từ đó mới biến-hóa ở chu-kỳ kế tiếp.

“Bộ luật được đặt tại “nơi Tiên-vị của Đức Lý Giáo-Tông một ngày một đêm”. Số 1 mở ra cho chu-kỳ mới, cho nên sau cùng thì hai vị Chưởng-Pháp lên lấy bộ Luật xuống giao cho Hiệp-Thiên-Đài, có nghĩa là cái sự vận-hành không bao giờ ngừng dứt.

Tóm lại Tân-Luật đã thể hiện rõ nét của hai Bát-quái:
* Bát-quái Đồ-thiên.
* Bát-quái Hư-vô.
6 - Nội-dung bộ Tân-Luật
Toàn bộ Tân-Luật chỉ có ba vấn-đề:
- Đạo-pháp có 8 chương:
Chương I: Chức-sắc cai-trị trong Đạo có 8 điều.
Chương II: Về người giữ Đạo có 7 điều.
Chương III: Về việc lập họ có 5 điều.
Chương IV: Về Ngũ-giới-cấm có 1 điều.
Chương V: Về Tứ-đại-điều-qui có 1điều.
Chương VI ; Về giáo-huấn có 3 điều.
Chương VII: Về hình-phạt có 6 điều.
Chương VIII: Việc ban hành luật-pháp có 1 điều.

Tổng-cộng 32 điều.
- Thế-luật có 24 điều .
- Tịnh thất có 8 điều.

Như thế toàn bộ Tân-Luật có cả thảy 64 điều.
Việc này cho ta một kết-luận về con số Bát-quái đã thành hình:
* 3 vấn-đề lớn tượng-trưng lý tam-tài thật rõ nét.
* Về Đạo-pháp có 8 chương, đó là con số chỉ Bát-quái quẻ đơn. Nhưng khi biến thành quẻ kép thì bằng (8x8=64 quẻ kép); thế nên tổng cộng có 64 đề mục.

Đây là sự biến-hóa của Bát-quái đó vậy.(Xem chương VIII)

Trọng-yếu của Tân-Luật là người giữ Đạo phải biết “giữ Ngũ-Giới-Cấm và Tứ-Đại Điều-Qui”.

Nhất là về Thế-luật ở điều thứ ba là:
“Phải giữ Tam-cang Ngũ-thường là nguồn cội của Nhơn-đạo: Nam thì hiếu-đễ, trung-tín, lễ-nghĩa, liêm-sĩ. Nữ thì tùng phu, tùng phụ, tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh”.

“Trong Tân-Luật ấy Chí-Tôn định cho Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại điều-qui và trong ấy cốt yếu bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của toàn thể con cái của Ngài. Thật ra cái Thiên-luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm-não con cái của Ngài:

Đây là vấn-đề căn-bản của Nhơn-đạo nên trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển: Thầy dạy Nữ-phái biết trọng Tam-tùng Tứ-đức, Nam-phái Tam-cang Ngũ-thường. Hễ Nhơn-đạo thành thì là phù-hạp Thiên-đạo, nghe à! (TNI/ 101)

III - PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN

1 - Giai-đoạn thành hình Pháp-Chánh-Truyền
Ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (dl 19-11-1926) Đức Chí-Tôn dạy thiết Đại-lễ Khai-Đạo chính thức tại Từ-Lâm-Tự (Gò-Kén Tây-Ninh) đồng-thời Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền, phong vị cho Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng-Đài. Đức Chí-Tôn dạy nhóm Hội-Thánh lập Luật.

Vậy sau ba tháng Đại-hội, Đạo đã có Pháp, có Luật thì nghiễm-nhiên Đạo đã thành một nền Tôn-giáo danh gọi là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Lần Khai Đại-Đạo này “Đức Chí-Tôn chẳng giáng bằng xác thân mà lại dùng tánh đức lương-sanh lập quyền Hội-Thánh làm hình-thể hữu-vi cho Đức Chí-Tôn, thay thế và lập Vạn-linh đối phó cùng quyền Chí-linh, ấy là cơ-quan mầu-nhiệm để cứu vớt quần-sanh giải-thoát khỏi chốn sông mê bể khổ; kỳ Hạ-nguơn này dầu chúng-sanh có tàn bạo hung-ác thế nào cũng không tàn hại xác thân của Đức Chí-Tôn như các vì Giáo chủ buổi trước vậy.

Bởi quyền Vạn-linh có đủ nghị-lực tinh-thần lập khuôn viên Pháp-luật xây chuyển cơ Đạo và cơ Đời thuận theo lẽ tuần-huờn của Tạo-hóa”. (ĐHP 1-7 Mậu-Dần 1938)

“Lập Pháp-Chánh-Truyền Thầy có hội cùng Đức Lý Giáo-Tông được trọn quyền thay thế Đức Chí-Tôn, hễ cái gì Hộ-Pháp và Giáo-Tông hiệp lại lập ra trong cửa Đạo tức là lời dạy bảo của Đức Chí-Tôn, không có việc gì từ nhỏ chí lớn mà không có mạng lịnh của Chí-Tôn trong đó”.

2 - Pháp-Chánh-Truyền chú giải
“Quyền-hành và trách-nhiệm trọng-đại nên Đức Lý Giáo-Tông nôn-nóng lập thành Pháp-Chánh-Truyền chú-giải cho kịp Thiên-Thơ của Đức Chí-Tôn đã định.

Pháp-Chánh-Truyền chú-giải đó là phân quyền cho Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài cho khỏi giành quyền nhau mà thôi và đồng thời trao trọn quyền ấy cho Hộ-Pháp có đủ phương kềm chế nền Đạo của Đức Chí-Tôn.

Pháp-Chánh-Truyền là ở trong cuốn Thiên thơ mà ra. Còn chú-giải là phân quyền-hành. Ngài giao cho con cái Ngài gìn-giữ mà làm của báu không gì bằng, tức là Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển. Trong quyển Thiên-Thơ này ngày kia có sản-xuất nhiều cơ-quan khác trọng-yếu nữa, chớ chẳng phải một cơ-quan Phước-Thiện mà thôi.

Thầy đã dạy: Các con phải nhớ rằng toàn thế-giới càn-khôn chỉnh có hai quyền:
“Trên là quyền-hành Chí-Tôn của Thầy,
“Dưới là quyền-hành của sanh-chúng.

“Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi, thì Thầy cũng phải ban quyền-hành trọn vẹn của Thầy cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh, còn các con cả thảy đứng vào hàng sanh-chúng, dưới quyền-hành chuyển-thế của đời nghĩa là toàn nhơn-loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo-hóa vạn-linh vốn là con cái của Thầy, vậy thì vạn-linh cũng có thể đoạt vị vào vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng”…

Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
“Các Bạn Hiệp-Thiên-Đài! Các người cầm cân công-bình thiêng-liêng của Đạo mà Đức Chí-Tôn đã để lại nơi mặt thế này, hạnh-phúc hay đau khổ của toàn thể nhân-loại một ngày kia đều mơ vọng trên mặt cân của chư Hiền-hữu. Bần-Đạo xin nhắc lại lời yếu-thiết của Đức Chí-Tôn đã ký Hòa-ước với chúng ta là “Công-bình”, mà công-bình ấy Bần-Đạo đã gởi nơi Hiệp-Thiên Đài đó vậy”.

Hội-Thánh của Thầy lập ra đối-hàm cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Hội-Thánh chia ra làm ba phần hiệp cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Người cho hiệp cơ mầu-nhiệm chánh-trị của càn-khôn thế-giới thì mới ra lẽ Đạo đặng:
- Bát-Quái-Đài là Tòa ngự của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mà Thầy làm chủ.
- Cửu-Trùng-Đài là tòa ngự của chư Chức-sắc Thiên-phong đối hàm với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế mà Giáo-Tông chưởng-quản.
- Hiệp-Thiên-Đài là nơi chuyên về đạo-pháp, bảo-hộ luật đời và luật Đạo, như Ngọc-Hư-Cung nắm Thiên-điều tức là Ngọc-Hư-Cung tại thế mà Hộ-Pháp chưởng-quản.

Hiệp-Thiên-Đài là cửa Trời đó vậy. Hiệp là chung với, thiên là trời, tức là cửa vào đường Trời; cái thang bắc cho phàm đến cùng Trời.

Trong Hiệp-Thiên-Đài có Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh và Thập-Nhị Thời-Quân”. (ĐHP 14-2 Nhâm-Thìn 1928)

3 - Về quyền-hành của ba Đài
- Bát-Quái-Đài dưới quyền Đức Chí-Tôn, Ngài là Chúa của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng vạn-linh, chính ông chủ Bát-Quái-Đài là Đức Chí-Tôn.
- Cửu-Trùng-Đài là Giáo-Tông làm chủ Hội-Thánh.
- Hiệp-Thiên-Đài là quyền Hộ-Pháp làm chủ.

Ba ông chủ ấy, có hai ông này: Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài nếu riêng ra thì không có thế gì dâng sớ cho Bát-Quái-Đài, tức nhiên quyền Chí-Tôn ở nơi Bát-Quái-Đài. Hai đài Cửu-Trùng và Hiệp-Thiên hiệp nhứt là quyền Chí-Tôn tại thế này, không có một quyền cai-quản nào cải qua quyền Bát-quái được”. (ĐHP18-8-Kỷ-Sửu)
- “Bát-Quái-Đài là linh-hồn.
- “Cửu-Trùng-Đài là xác thịt.
- “Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần.

Hồn đặng tương-hiệp cùng xác phải nhờ chơn-thần. Chơn-thần lại là bán hữu-hình tiếp vô-vi mà hiệp cùng hình-thể, cũng như Đạo tiếp Thánh-Đức của các Đấng Thiêng-Liêng mà rưới chan cho nhơn-loại”.

Đức Hộ-Pháp nói:
“Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài là phổ-thông nền chơn-giáo, lo về mặt giáo-hóa, bảo-tồn nền văn-hiến tồn-tại.

Phước-Thiện là thay cho Hiệp-Thiên-Đài gánh vác nhiệm-vụ cứu khổ nên Hội-Thánh Phước-Thiện do nơi Qua cùng Đức Lý-Giáo-Tông đã đồng-ý tạo nên hình tướng. Ngài rất vui lòng. Tại sao vậy?

Nhiệm-vụ của Hộ-Pháp phải có Giáo-Tông, bởi Giáo-Tông Chí-Tôn định có quyền cai trị đường Đạo và đường Đời, mà hễ Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế”

Hiện tại:
“Đức Lý Giáo-Tông là Anh cả vô-vi, quyền Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm.

Ngài nói “Hễ Đạo trọng thì tức nhiên chư Hiền-hữu trọng, vậy thì chư Hiền-hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời… Từ đây Lão hằng giữ-gìn cho chư Hiền-hữu hơn nữa, nếu thảng Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh, là cố ý muốn giá trị chư Hiền-hữu thêm cao trọng nữa, vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà, nghe!”

“Lão đã nói: Đạo đã lập thành, vậy cây cờ chơn-chánh đã vững gốc đặng làm biểu-hiệu cho cả chúng-sanh dòm lấy đó mà đến nơi Bạch-Ngọc-Kinh. Nghĩ mà mừng, mà hễ mừng thì thêm giận lẫn vào trong.

“Thượng-Trung-Nhựt! Lão đã nói mà Thầy cũng đã nói trước rằng: Khi thành Đạo, nghĩa là khi Tân-Luật phát-hành thì trong hàng Môn-đệ may lắm còn lại nửa phần, trong đám Thiên phong nhiều kẻ e còn bị trục-xuất thay!”

4 - Trước tiên gọi là Tòa Đạo Hiệp-Thiên-Đài
“Y theo luật Hội-Thánh ngày 16 tháng giêng năm Mậu-Dần (dl 15-2-1935).

Chiếu y Pháp-Chánh-Truyền phân định và quyền-hành của Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài từ Hộ-Pháp, Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm tới Thập-Nhị Thời-Quân.

Chiếu y Thánh-giáo của Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn ngày 16 tháng 2 năm Ất-Hợi (dl 20-3-1935) phân định phẩm cấp và quyền-hành từ phẩm Tiếp-Dẫn Đạo-Nhơn và trở xuống đến Luật-Sự.

Chiếu y Đạo-luật Hội-Thánh năm Mậu Dần (dl 15-2-1935) về cơ-quan Tòa Đạo, phân định hình phạt và án tiết cho những người phạm luật-pháp của Đạo.

Nghĩ vì:

TÒA ĐẠO là một cơ-quan để bảo-thủ chơn-truyền y theo khuôn viên Đạo-pháp, không ai qua luật Đạo mà Hiệp-Thiên-Đài chẳng biết.

Lập Tòa Đạo để trị kẻ phàm, tức là dụng hình phạt phàm-trần đặng giảm bớt hình phạt thiêng-liêng. Vậy Tòa Đạo là một cơ-quan trọng yếu nắm cân công-bình gìn-giữ trật-tự trong hàng đồng Đạo.

Nghĩ vì hiện thời cần phải dẫn-giải cho rõ thêm về quyền-hành và phận-sự của Chức-sắc Tòa Đạo tại Tòa-Thánh và các địa-phương nên tổ chức và lập: NỘI LUẬT TÒA ĐẠO”.
Vậy Tòa Đạo là gì?

Đức Hộ-Pháp giảng:
“Từ thử đến giờ chúng ta thường quen gọi là Tòa Hiệp-Thiên-Đài hay là Tòa Tam-giáo, nên đã 23 năm Đạo mà chúng ta vẫn chưa biết chỗ dốt của mình.

Đức Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn buổi nọ giáng bút hỏi Bần-Đạo một câu bằng Pháp-văn “Expliquez Étymologiquement le mot Tòa?” (Vậy chớ theo ngữ-nguyên tiếng “Tòa” nghĩa là gì?).

Bần-Đạo trả lời:
- Thưa Ngài, kêu Tòa là nơi để định án, xử tội kẻ phạm luật-pháp; Ngài cười và nói:

- Trật! gọi là Tòa là khi nào nói tòa nhà hay tòa lâu-đài gì đó, chứ tiếng tòa không có định-nghĩa gì về phương-diện Pháp-chánh cả. Bần-Đạo thừa dịp nhờ Ngài dạy nữa, Ngài nói:
- Cái tiếng của Chí-Tôn đã đem đến đặt để nó khéo-léo hay-ho biết bao nhiêu, nghĩa-lý rất thâm diệu mà tại sao không dùng?

Đức Chí-Tôn đến lập Pháp-Chánh-Truyền giao cho Hiệp-Thiên-Đài gìn-giữ, trong đó có diệu-pháp của Chí-Tôn đến lập vị cho con cái của Người tại thế-gian này. Ngài mượn xác thịt của con cái Ngài tổng-hợp lại cho có trật-tự, có đẳng cấp, tức nhiên là lập Thánh-thể của Ngài, các phẩm-trật có liên-quan với các phần-tử tức nhiên Hội-Thánh tổng hợp lại là Thánh-thể của Ngài. Ngài lập Pháp-Chánh-Truyền cốt-yếu ban quyền-hành cho Thánh-thể của Ngài, mà hễ đạt quyền được tức nhiên về với Ngài được.

Ấy vậy Pháp-chánh Hiệp-Thiên-Đài là phương định vị, lập quyền đặng hiệp một con cái của Chí-Tôn cùng Chí-Tôn vậy.

Tới Hình Luật Tam-giáo
Từ thử Tam-giáo: Nho, Thích, Đạo. Luật Tam-giáo có hữu-hình, có luật hình, vì cứ nói án, nên nói là phạm luật-điều mà thôi. Luật hình ấy gồm cả Tôn-chỉ của Tam-giáo đem đặt tại thế này cho thiên-hạ thực-hành, nhưng lần lần càng xa khuôn luật. Ấy vậy có hai phần:
- Pháp-chánh Hiệp-Thiên-Đài.
- Luật hình Tam-giáo.

Tuy hai phần khác thể, nhưng cũng đều giao cho Hiệp-Thiên-Đài chưởng-quản hết. Nếu muốn gọi cho trúng thì gọi Pháp-chánh Hiệp-Thiên-Đài là đủ nghĩa.

Bần-Đạo giảng-nghĩa:
PHÁP-CHÁNH HIỆP-THIÊN-ĐÀI là gì?
“Cốt-yếu của Đức Chí-Tôn đến thế ban quyền-hành cho Chánh-thể của Ngài, Ngài buộc quyền thiêng-liêng kia hễ con cái của Ngài đắc phẩm hữu-vi ở dưới thế này được toàn vẹn thì cũng phải nhìn-nhận phẩm ấy ở cõi hư-linh kia. Bần-Đạo tưởng nếu không phải tay của Đức Chí-Tôn thì không ai có quyền buộc các Đấng cầm quyền chánh-trị của càn-khôn thế-giái là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật phải nghe theo như vậy bao giờ.

Ta cứ suy-nghĩ: một ông Cha thương con nói: Tao đến với con tao, tao định cho nó làm Tể tướng ở thế-gian này thì cả triều-chánh phải nhìn nó là Tể-tướng, chớ không phép cải, chỉ vâng mạng lịnh Tể-tướng của nó mà thôi. Thiết tưởng nếu không phải nhà Vua thì không ai biểu như vậy mà dân phục lịnh. Nếu không phải Chí-Tôn đến lập giáo thì không ai đến đây mà có quyền buộc Cửu-Thiên Khai-
Hóa nhìn-nhận Thánh-thể của Ngài được.
  Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét