Dịch Lý Cao Đài . Q 1 - 2 / 8 (Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy)


Giải: Bác-Nhã Ma-La-Phật là Phật độ vong-hồn qua khỏi biển khổ đặng đến Tây-phương, vì trước khi đến Tây-phương phải qua một cái biển khổ.
Biển tình: Tình là oan oan, oan oan là khổ. Biển tình là biển khổ.
Phồn-hoa: Phồn nghĩa là trong vòng, Hoa nghĩa là sắc dục. Phồn-hoa nghĩa là trong vòng sắc dục. Giấc phồn-hoa là giấc phàm.
B - Ba vị Tướng-soái của Đức Chí-Tôn
Đức Thượng-Sanh xác nhận:
“Lúc ban sơ, Đức Chí-Tôn dùng huyền diệu Cơ-bút thâu phục các Chức-sắc thượng-cấp Hiệp-Thiên-Đài, dùng những vị này trong việc phò-loan để lập thành: ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ.

“Trước thời-kỳ Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài được lịnh dùng Đại-Ngọc-Cơ trong việc truyền giáo thì chỉ là một giai-đoạn chơi giải trí của ba vị nói trên là các ông: Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công Tắc, Cao-Hoài-Sang. Sau được đắc phong là: Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh.

“Vốn là nhà thi-sĩ và chất-chứa nơi tâm nỗi căm hờn vì nước nhà bị đô-hộ, tương-lai của tổ-quốc, hoặc làm thi xướng họa chơi cho tiêu-khiển.

“Lúc sơ khởi thì cũng gặp nhiều khó-khăn, vì trong đêm đầu ba vị đốt nhang khấn vái, ngồi để tay trên bàn từ 9 giờ tối đến 2 giờ khuya mà không có kết-quả gì hết, cố tâm nhẫn-nại, ba vị ngồi thêm đêm thứ nhì (nhằm ngày 26-7-1925) thì đúng 12 giờ khuya có một vong-linh nhập bàn, gõ chữ ráp thành bài thi Đường-luật 8 câu. Đó là bài thi “Tự thuật” của Cụ Cao-Quỳnh-Tuân là thân sinh của Ông Cao-Quỳnh-Cư.

Sự cảm-động và ngạc-nhiên của ba ông.
Cách mấy đêm sau, vong-linh Cô Đoàn Ngọc-Quế nhập bàn cho bài thi “Tự thán” (cũng là bài Thác vì tình), thiệt là lời châu ngọc, điệu thi văn nghe qua ngậm-ngùi xúc-cảm.
(Đoàn-Ngọc-Quế là giả-danh của Cô Vương-Thị-Lễ, tức là Tiên-cô Thất-Nương Diêu-Trì-Cung).

Thấy sự hiển-linh và huyền-diệu trong sự tiếp-xúc với người cõi vô-hình, ba Ông tích-cực say-mê việc xây bàn, đêm nào cũng họp nhau ngồi cho tới ba hoặc bốn giờ sáng mới nghỉ.

Từ đó về sau thì các vị Tiên, Thánh, thường nhập bàn, khi thì cho thi-phú hoặc giải nghĩa thi văn, khi thì xác-luận về vận-mệnh nước nhà, đánh trúng chỗ yếu-điểm của tâm-hồn ba ông, khiến cho ba ông ngây-ngất trong niềm vui sướng.

Tiếp được bài thi nào hay thì khi dứt cuộc xây bàn, ba ông nán lại: hai ông rao đờn, một ông ngâm thi, rồi cùng nhau mượn chung rượu đầy vơi trong lúc tàn canh để gợi hứng niềm hoài cảm.

Cái đêm mà ba Ông ngậm-ngùi và xúc động hơn hết là đêm 10-11-1925 Đức Tả-quân Lê-Văn-Duyệt nhập bàn cho thi…

Nhờ chơi xây bàn mà ba ông CƯ, TẮC, SANG, học-hỏi đạo-lý, trau-giồi trí-thức cho tới ngày Đức AĂÂ chính là Đức Chí-Tôn dạy ba ông Vọng thiên-bàn ngoài sân, quì giữa trời mà cầu Đạo (nhằm ngày mùng 1 tháng 11 Ất-Sửu, dương-lịch 16-12-1925). Đó là ba vị Đệ-tử mà Đức Chí-Tôn thâu nhập-môn trước nhứt trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Toà-Thánh Tây-Ninh.

Sau đó, Đức Chí-Tôn thâu-phục chư vị Thời-quân Hiệp-Thiên-Đài, vị Đầu-Sư Thượng-Trung-Nhựt và các vị Đại-Thiên-phong Cửu-Trùng-Đài...

Do lịnh Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, ba vị Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, Hộ-Pháp, hiệp với chư vị: Bảo-Văn Pháp-Quân, Bảo-Pháp, Hiến-Pháp, Khai-Pháp, Tiếp-Pháp, chia nhau đi khắp các tỉnh Nam-phần để phò-loan thâu người cầu Đạo nhập-môn”
(ĐHP 22-12 Đinh-Mùi 1958)

Duyên thơ giữa các vị ngày một khắn-khít hơn, nhờ đó mà Diêu-Trì-Cung đến với ba Ông để xướng hoạ thi văn làm nhịp cầu nối liền Tiên tục. Trong số ấy phải kể đến ba vị Tiên-Nương có trách-nhiệm trực-tiếp là: Thất-Nương, Lục-Nương, Bát-Nương.

Riêng phần ở trần-giới thì đây là cơ hội tốt để các bậc lương-sanh lần-lượt đến để cứu vớt quần-sanh, thế nên về sau trong Hội-Thánh có đầy-đủ Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng-Đài.

Chính lúc xây bàn để cầu các Đấng vô-hình giáng điển linh, các bậc tiền-bối này được cơ-hội làm quen với các Đấng Thiêng-Liêng cũng là duyên khởi mà Chí-Tôn đã sắp đặt hầu mở đường xuất Thánh, cũng là cơ hội Đức Chí-Tôn đến trao cho một mối Đạo nhà như ngày nay.

Đức Chí-Tôn đến với giả danh là AĂÂ,

Thất-Nương Diêu-Trì-Cung VƯƠNG-THỊ LỄ đến với giả danh Đoàn-Ngọc-Quế, hẳn phải có lý-do:
1 - là thời-kỳ ẩn-danh của Đức Chí-Tôn, của thiêng-liêng.
2 - là thiêng-liêng đưa cái giả là cái bóng đến trước rồi cái hình là thật đến sau, tức nhiên thể-pháp có trước mới bày ra bí-pháp sau.
3 - Riêng Đức Chí-Tôn tạo sự thân-mật, gần-gũi để tình-cảm đến một cách tự-nhiên, không gượng ép.
Như vậy, nhìn về các con số thì:
* Đức Chí-Tôn là THẦN, có đủ 3 con số: AĂÂ (một mà ba).
* Diêu-trì-cung là KHÍ, có đủ 3 nhân-vật: Thất-Nương, Bát-Nương, Lục-Nương (ba mà một là cùng ở Diêu-Trì-Cung)
* Về hữu-hình là TINH, các Đấng gọi là “Tam vị Đạo-hữu” là ba Ông: Cư, Tắc, Sang.

Ba lần con số 3 (3x3) là 9 ấy là một con số huyền-diệu, nhiệm-mầu, huyền-diệu hơn hết là số đó, nó là cơ chuyển-biến đến mực độ tận-thiện, tận-mỹ, toàn năng, toàn tri. Thế nên trong cửa đạo có Cửu-Trùng-Đài hiệp với Cửu-Trùng-Thiên, người tu-hành phải nương vào đây đi theo con đường Cửu-Thiên Khai-Hóa để bước vào Cửu-Phẩm Thần-Tiên mà đạt vị nhờ khai thông Cửu khiếu.
Số 9 nó là (1+8) tức là cơ vận-hành trong trạng thái tĩnh được lý Thái-cực thúc-đẩy thêm cho nên năng-tri sáng-suốt.
Nó cũng là 3+6, 3 và 6 đều là hai lý nhiệm mầu và đều ở trong trạng-thái động.

Nó cũng có nghĩa là 3x3 hay ba bình phương là cấp bực tam ngôi biến-hóa vận-hành suốt thông trời đất.
Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt.
Phép toán-học thử đến 9 rồi trở về 0 (không) là vậy. Cùng-cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.

C - Đạo thành hình do ba người

1- Ba người đó là ai?
Chính là ba vị Tướng-soái của Thầy đã chọn lựa sẵn cho xuống trước, ngày nay Thầy đến lập nền chơn-giáo chỉ qui-tựu lại mà thôi, nên tất cả đều có đầy đủ để giao cho sứ-mạng xây cơ chuyển thế, khai đạo cứu đời.

Đức Hộ-Pháp có nói rằng: “Dùng lương sanh để cứu vớt quần-sanh”. Những ngày đầu, Đấng AĂÂ gọi ba vị này là “Tam vị Đạo-hữu”, một từ thân-mật là các ông:
- Cao-Quỳnh-Cư, sau đắc phong là THƯỢNG-PHẨM, tuổi Mậu-Tý (1888) (trái)
- Cao-Hoài-Sang, sau đắc phong là THƯỢNG-SANH, tuổi Tân-Sửu (1901) (phải)
- Phạm-Công-Tắc, sau đắc phong là HỘ-PHÁP, tuổi Canh-Dần (1890) (giữa)
Thầy đã ân-cần nhắc-nhở:
“CƯ, TẮC, SANG, ba con đã lãnh mạng lịnh lớn-lao vẹt đường tăm-tối trong buổi ban sơ. Thầy lại khiến ba đứa phải liên-hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Đạo cho đến cùng”.

Đức Chí-Tôn cũng nói rõ về phần yếu-trọng của ba người nữa:
“CƯ, TẮC, SANG, con ơi! Lập Đạo thành đặng chăng tại nơi ba con. Con đã nghe quyền-hành của yêu-quỉ Thầy cho lớn đến bực nào? Chẳng phải là cơ thử Thánh, Tiên, Phật mà thôi, lại còn là Công-Bình Thiêng-Liêng của Tạo hóa. Nếu hai đầu cân chẳng song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Tự nơi các con làm thế nào cho bên Thánh-Đức nặng hơn tà-mưu thì làm mới ra công-quả. Các con chớ ngại, ngày nay Đạo đã khai tức là Tà khởi. Vậy các con phải làm hết lòng, hết sức mà gìn-giữ lấy mình, đã chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn giữ-gìn cả Môn-đệ Thầy nữa.

“Nội nơi Nam-phương này, như có mặt cho Tà-thần yêu-quái sợ thì duy có ba con. Vậy ráng giữ-gìn cho thanh-khiết. Thầy nói thật cho các con hiểu trước rằng: Cả Môn-đệ Thầy đã lựa chọn, lọc-lừa, còn lại lối nửa phần. Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám-dỗ, đi bao nhiêu thì mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên-cơ phải vậy, thi nhiều đậu ít là lẽ hằng. Các con liệu phương thế mà nâng-đỡ đức-tin của Môn-đệ Thầy lên cao hằng ngày, ấy là công-quả đầu hết.”
(ĐCT Giáp-Dần 1926)

Bởi vì, trên tinh-thần một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát-triển tốt đẹp, thì Tôn-giáo ấy phải có đủ Tam-bửu: TINH, KHÍ, THẦN.
- Về Thần: thì khi lập Đạo Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh-hồn của Đạo-giáo.
- Về Khí: thì buổi phôi-thai chưa mấy tựu thành, nên Đức Chí-Tôn mượn hình-thể của Diêu Trì-Cung làm Khí.
- Về Tinh: thì hình-thể của Đạo Cao-Đài tức là ba Chi: Pháp, Đạo, Thế, tượng-trưng là: Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh (là ba ông Cư, Tắc, Sang)

Ấy vậy:
“Chúng ta xét thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn hạnh-phúc nhiều hơn các Tôn-giáo khác, nếu nhận quả-quyết thì được có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên-hạ rồi. Cái thiệt tướng của nền Chơn-giáo Đức Chí-Tôn đã hiện tượng do quyền-năng vô-đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó.”

Thử hỏi, các Tôn-giáo từ xưa thì sao?
- Đạo Phật: có 4 người theo Ngài, nhưng không phải bốn người ấy theo làm Môn-đệ, mà theo đặng coi Phật có đoạt Pháp đặng chăng?

Sau cùng chỉ có hai người trọng-yếu hơn hết, rồi đến ngày cuối-cùng còn có một người đoạt đặng Phật-giáo mà thôi.

- Đạo Tiên: Đức Lão-Tử có một người Môn-đệ và một đứa ở là Từ-Giáp biết Đạo của Ngài. Duy có ông Doãn-Hỉ theo Đức Lão-Tử, đoạt pháp, truyền-giáo mà Đạo Tiên còn tồn-tại đến ngày nay.

- Đạo Khổng-Phu-Tử tuy vẫn nói có Tam-thập-lục-Thánh, Thất-thập-nhị-Hiền, mà cả thảy Môn-đệ của Đức Khổng-Tử chưa chắc người nào đoạt đặng. Duy có một người là Thầy Sâm mà thôi. Bằng cớ là buổi chung-qui Ngài kêu Sâm mà nói: Đạo Ta chỉ có một ngươi biết mà thôi, “Sâm, ngô Đạo nhứt vi quán chi.”

- Đức Chúa Jésus có nửa người Môn-đệ thôi, bởi ông Pierre chối Chúa ba lần, đến khi ăn năn, khóc-lóc với Bà Maria mà xưng tội mình.
- Mahomet: Có một người Môn-đệ là phụ nữ mà Đạo Hồi đã thành vậy.

Chúng ta suy đoán thấy chỉ có thương-yêu: duy có một người thương hoặc nửa người thương mà các vị Giáo-chủ đã lập thành Tôn-giáo tại mặt điạ-cầu này.”

2 - Thử-thách về Đức-tin
Trong suốt thời-gian đầu, Đấng Đại-Tiên AĂÂ đến với ba ông: CƯ, TẮC, SANG bằng tình thân-thiết, dạy thi văn hoặc giải-thích những điều gì khó-khăn mà các vị này cầu hỏi; tuy nhiên các vị phải cam-kết với Ngài trong các điều-kiện mà Ngài muốn.

“Muốn cho Bần-Đạo đến thường, xin chư vị nạp mấy lời yêu-cầu của Bần-Đạo sau đây:
- Một là đừng kiếm biết Bần-Đạo là ai?
- Hai là đừng hỏi đến Quốc-sự,
- Ba là đừng hỏi đến Thiên-cơ.”

Quí vị xây bàn đều hứa giữ ba điều ấy.
Cho đến khoảng tháng 9 năm Ất-Sửu, Đấng AĂÂ giáng nói với ba ông như vầy:

“Tôi nói lộ Thiên-cơ, trên Ngọc-Hư bắt tội, xin Tam vị Đạo-hữu cầu trên Ngọc-Hư-Cung tha tội Tôi, nếu không lo cầu giùm thì tôi sẽ bị phạt; Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh rất lo lắng. Ba Ông vọng bàn hương-án cầu Diêu-Trì-Cung. Đức Thượng-Phẩm có làm một bài thi rồi đọc trước bàn hương-án như vầy:
THI
Vái-van xin quí Cửu-Thiên-Nương,
Tâu với Ngọc-Hư tỏ ngọn nguồn.
Vì nghĩa Ă.A mang trọng tội.
Nghĩ tình đồng Đạo để tình thương.
                                               (Mồng 3-9 Ất-sửu 1925)

3 - Ngày Vọng Thiên Cầu Đạo
Điều đáng ghi nhớ nhất là ngày 27-10 Ất Sửu, Đấng Cửu-Thiên Huyền-Nữ giáng mách bảo rằng: “Mùng một này, Tam vị Đạo-hữu Vọng thiên cầu Đạo.”

Bà thăng rồi ba ông họp nhau bàn giải, không hiểu “cầu Đạo” là gì mà Bà dạy, để cầu hỏi mấy Em. Ngày sau ba ông cầu Thất-Nương hỏi:
- Thất-nương dạy dùm cầu Đạo là gì?

Thất-Nương nói:
- Không phải phận-sự của Em, xin hỏi Ông AĂÂ.
Ngày sau nữa, có các Đấng giáng về, ba ông hỏi thì các Đấng cũng nói:
Không phải phận-sự của tôi, xin hỏi Ông AĂÂ.
Ngày 30-10 Ất-Sửu (dl 15-12-1925) Ông AĂÂ giáng dạy rằng:
“Ngày mùng 1 tháng 11 này ( dl 16-12-1925) Tam vị phải VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO.

Tắm gội cho tinh-khiết, ra quì giữa Trời cầm 9 cây nhang mà vái rằng:
“Ba Tôi là: Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công Tắc, Cao-Hoài-Sang. Vọng bái CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ, ban ân đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.”

Sớm mai ngày mùng một, ông Cao-Quỳnh Cư đi mượn một Đại Ngọc-Cơ của ông Tý ở ngang nhà (cũng ở đường Bourdais, Sài-gòn). Nhớ lời Ông AĂÂ dạy, ba ông quì ngoài sân, sắp đặt có một cái bàn nhỏ, quì chống tay trên bàn, cầm 9 cây nhang mà vái:

“Ba tôi là: Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công Tắc, Cao-Hoài-Sang. Vọng bái Cao-Đài Thượng-Đế ban ân đủ phúc lành cho Ba tôi cải tà qui chánh.”

Ba ông cứ tịnh tâm mặc niệm vái như lời Ông AĂÂ dạy, không nhớ tới cái vụ quì ngoài đường có kẻ qua người lại dập-dìu, lớp thì xe cộ họ đi chơi, đi coi hát về, họ dừng chân lại coi ba ông cúng vái ai mà quì ngoài sân cỏ như vậy.

Ai coi mặc ai, ba ông cứ quì đó cầu-khẩn van-vái cho tàn hết 9 cây nhang.
Ngày Vọng Thiên Cầu Đạo là sắp vô đề mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, các Đấng dìu-dắt ba ông lần lần, nghĩa là ba ông mới nhập trường Đạo.”

D - Luận Đạo:
Tinh Khí Thần hiệp nhứt

Nói một cách khác: ngày 1-11-Ất-Sửu, chính là ngày mà cái trứng tinh-thần của Đạo Cao-Đài được thành hình, tức là nền Đại-Đạo đã hiệp đủ ba Chi: Pháp, Đạo, Thế; cũng là hiệp đủ Tam-bửu: Tinh, Khí, Thần.

Hơn nữa, ba con số 1 đã nói lên sự đắc nhứt, rằng:
- Thiên đắc nhứt linh,
- Điạ đắc nhứt minh,
- Nhân đắc nhứt thành.

Đây cũng là phương tu của người Đạo Cao-Đài, mà Đức Phật-Mẫu đã ân-cần chỉ dạy như vầy (15-8 Nhâm-Ngọ dl 2-9-1942)

Diêu-Trì Kim-Mẫu,
“Mẹ vui được thấy các con biết lo cho chúng-sanh tức là lo cho mình vậy.

“Mình tu cho chúng-sanh, mình lập vị cho chúng-sanh tức là lập vị cho mình. Phải hiểu cho rõ, nếu chúng-sanh chưa ai đắc Đạo, thì ta phải cầu-nguyện cho người đắc Đạo trước ta.

“Nếu mình cứ mong cho cao phẩm-giá, tức là trái với Thiên-ý. Mình phải hằng ngày trau-giồi tánh đức, lo chung cho thiên-hạ ấy là phương-pháp tu tắt đó.

“Thường ngày công-phu mà mình chất chứa tánh tự kiêu thì cũng không mong đắc chánh-quả được, bất quá đắc một vị Địa-Tiên đó thôi. Vậy muốn cho hoàn-toàn thì ráng tập cho biết trừ các điều xấu-xa, tập thường ngày tầm chơn-lý, kiếm hiểu huyền-vi, răn mình hằng bữa, đó là đường chánh sáng-láng cứ lo bước tới.

“Đạo chia ra ba chi: Pháp, Đạo, Thế.
“Mình tu cho đúng theo luật, hành theo pháp, thì chúng-sanh nơi thế ca tụng công đức mình, trọng kính mình, ấy là mình ĐẮC THẾ.

“Hễ đắc thế thì phải tầm pháp đặng cứu chữa, dạy bảo theo pháp; nếu mình hành pháp hiển-linh, chúng-sanh ứng mộ, thì mình ĐẮC PHÁP.

“Nếu mình đắc pháp thì phải tầm Đạo vô vi, muốn tầm không phải dễ, mà dễ khó là do nơi mình; nếu đi được hai khoản, thì khoản sau này phải ráng, nếu đắc Đạo thì nhập cõi Niết-Bàn.”

Lại nữa:
“Theo chơn-pháp của ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ thì mọi cơ-cấu nơi cõi vô-hình đều có cơ-cấu hữu-hình đối tượng của Đạo nơi mặt thế. Ở cõi thiêng-liêng có Cửu-Thiên Khai-Hóa, thì trong cửa Đạo Cao-Đài có đối tượng hữu-vi là Cửu-Trùng-Đài.

“Còn ở vô-hình có cơ-cấu tạo ra cung Trời là Thập-Nhị Khai-Thiên tức là Thập-Nhị Thời-Thần thì ở cửa Đạo Cao-Đài có đối tượng hữu-vi là Thập-Nhị Thời-Quân.”
“Đối với luật thiên-nhiên của vũ-trụ, ta từng nghe nói “Thiên điạ tuần-hoàn chu nhi phục thuỷ.”
“Từ tạo thiên lập địa, càn-khôn phát khởi tới ngày nay biết mấy muôn vạn lần xuân qua hè lại, thu mãn, đông tàn, nay tới đời hạ nguơn mạt kiếp cũng gọi là cuối cùng.

“Phàm muôn việc đều có thủy, có chung, có khởi, có cùng, như một ngày một đêm 12 giờ; khởi ở Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi…Tới Hợi rồi phải khởi lại Tý…”

Nếu lấy khoa-học nhận xét thì sự ăn khớp nhau giữa Hà-đồ và địa-dư thì thấy rõ-ràng sự đúng nhau của trái đất bắt đầu từ lúc sơ khai.

Mới bắt đầu số 1, phát sinh ở hướng Bắc, tức là cái vi-dương (vi dương đây là Đạo). Bắt đầu có ở hướng Bắc cho nên trên quả địa-cầu lúc đó có đại-lục mà chỉ ở hướng Bắc hưởng thụ cái khí vi-dương đầu tiên của sao Bắc-đẩu. Thiên nhứt sanh thủy.

Rồi dần dần phát-triển qua hướng Nam, tức là số 1 tiến dần đến số 2; số 2 ở về hướng Nam thể trên, tức là đaị-lục của Bắc Á-châu (chi THẾ xuất-hiện).

Bấy giờ sang hướng Đông đến số 3. Số 3 tức là số của Thiếu-dương (đây là lúc thịnh hành của cơ Pháp) cho nên trong thời thái-cổ theo sự phát triển về thời gian, vì lẽ ấy mà thời đó ở Á-đông văn-minh trước Âu-tây, mà chính cái văn minh tinh-thần vô-cùng sáng-suốt thấu hiểu được trời đất.

Do lẽ ấy mới có câu:
- Thiên khai ư Tý
- Địa tịch ư Sửu.
- Nhơn sanh ư Dần.

Tức là Tý-hội khai thiên, qua Sửu-hội sanh địa-cầu và Dần-hội thì sanh nhơn-loại. Thiên, Địa, Nhơn gọi là Tam tài hay là Thiên-hoàng, Địa-hoàng, Nhân-hoàng.

Tại sao Đức Phật-Mẫu dạy phải cầm 9 cây nhang mà khấn-vái?
Bởi mỗi người là một tế-bào khởi thủy cho sự trường tồn của nền Đại-Đạo.

Mà tế bào tinh-trùng ở con người cũng như sinh vật có chỗ giống nhau, đều cấu-tạo bởi một dương điện-tử và 9 âm điện-tử. Do vậy mà các ông phải cầm 9 cây nhang mà cầu-nguyện làm biểu-tượng ấy. Đây là lúc làm nên cái trứng tinh-thần Đại-Đạo.

E - Sự thành hình trải qua ba thời-kỳ
1 - Thời-kỳ khởi thủy
a/ - Tam đầu chế Hiệp-Thiên-Đài
Nay Chí-Tôn thành lập Đại-Đạo có ba thời kỳ; quan-trọng nhứt là cơ khởi thủy.
Trong cửa Đạo ngày nay cũng vậy, chính ba vị Tướng-soái của Chí-Tôn đã có đủ yếu-tố để khởi-đoan cho mối Đạo Trời trong cái cơ-vi: “Thiên địa tuần-hoàn châu nhi phục thủy” đó; phải chăng tất cả đều có một sự sắp xếp tế-vi, nên mới nói “Đạo thành do ba người.”
- Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư, tuổi Mậu-Tý (số 1) nắm chi ĐẠO.
- Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang, tuổi Tân-Sửu (số 2) nắm chi THẾ.
- Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc, tuổi Canh Dần (số 3) nắm chi PHÁP.

Ba người đứng vào ba tuổi: Tý, Sửu, Dần.
Đây là ba người trong cơ khởi thủy của Hiệp-Thiên-Đài.

“Hiệp-Thiên-Đài là hình-trạng của Ngọc-Hư-Cung tại thế. Ấy là cửa mở cho các chơn-linh vào đặng đi đến Tam-Thập-Lục-Thiên, Cực-Lạc-Thế-Giới và Bạch-Ngọc-Kinh là nơi chúng ta hội-hiệp cùng Thầy hay là chỗ ải địa-đầu ngăn cản các chơn-linh chẳng cho xông phạm đến đường Tiên nẻo Phật.

“Lòng Từ-bi của Thầy cho có kẻ rước là Thượng-Sanh, người đưa là Thượng-Phẩm và người dẫn nẻo mở đường cứu độ là Hộ-Pháp, đặng đem cả con cái của Thầy về giao lại cho Thầy, kẻo hằng ngày trông đợi”.
Tức nhiên:
Như trên, khi sắp theo số âm dương, cơ ngẫu, thì ba vị Chức-sắc Đại-Thiên-phong của Hiệp-Thiên-Đài họp thành quẻ LY bởi số lẻ là dương, tượng trưng vạch liền , số chẵn là âm tượng-trưng vạch đứt  mà số 1 và 3 là dương, giữa là âm tạo thành quẻ LY là vậy.
Kết-luận: Tam đầu chế của Hiệp-Thiên Đài biểu tượng bằng quẻ LY
Ngoài ra Đức Hộ-Pháp còn là Chưởng-quản cả Hiệp-Thiên-Đài nữa, do vậy mà Quyền-hành của Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh là:

“Trong Hiệp-Thiên-Đài thì Hộ-Pháp thay quyền cho các Đấng Thiêng-Liêng mà gìn-giữ công-bình tạo-hóa, bảo-hộ nhơn-loại và vạn-vật lên cho tới địa-vị tận thiện tận mỹ; người thì tận thiện còn vật thì tận mỹ. Chẳng cần lấy sức mình mà lập, chỉ bảo-hộ cho sự tấn-hóa tự nhiên khỏi điều trở ngại, nếu nói có quyền bảo-hộ thì phải có luật-pháp, lấy luật-pháp mà kềm chế nhơn-sanh cũng như các Đấng trọn lành lấy Thiên-điều mà sửa trị Càn-Khôn Thế-Giới.

“Hộ-Pháp là thể các Đấng trọn lành, Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo đặng dìu-dắt các chơn-hồn lên tột phẩm-vị của mình, tức là nâng-đỡ binh-vực cả tín-đồ và Chức-sắc thiên-phong ngồi an địa-vị, cũng như chư Thần, Thánh điều-đình Càn-Khôn Thế-Giới cho an tịnh mà giúp sức cho vạn-loại sanh sanh hóa hóa.

“Thượng-Phẩm tiếp các chơn-hồn của Thượng-Sanh giao vào cửa Đạo. Thượng-Phẩm là người thể Đạo đối với hàng Thánh, ấy là người làm đầu các Thánh.

“Còn Thượng-Sanh về Thế độ, đem các chơn-hồn vào cửa Đạo, dầu nguyên-nhân hay là hóa-nhân cũng vậy, phải nhờ Người độ-rỗi. Thượng-Sanh đặng mạng lịnh chuyển thế, buộc Thượng-Sanh phải gần kẻ vô đạo đặng an-ủi, dạy dỗ, mà kể từ hạng vô-đạo trở xuống cho tới vật-chất thuộc về phàm, ấy vậy Thượng-Sanh là thể Đời, Người đứng đầu của phẩm phàm-tục”. (PCT)

Bởi giá trị tinh-thần của ba Ngài được mệnh danh là Tướng-soái của Chí-Tôn nên sở hành của các Ngài đã cống-hiến cho nền Đạo thật là to-tát.

Ngài Hiến-Pháp Trương-Hữu-Đức luận về tâm-lý của ba ông:
“Luận về tâm-lý, trong ba ông, mỗi người đều có một đặc-tính mà ta cần biểu-dương để xưng tụng công đức. Dầu muốn, dầu không, toàn thể Đạo Cao-Đài đều phải ca ngợi công khai Đạo của ba vị ấy:
- Ông thứ nhứt là Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư, nhờ đức tính cao-thượng và cương quyết nên hễ làm việc gì thì cố-gắng làm cho kỳ được. Bởi thế nên khi nhận chân mối đạo, thì ông nghe theo tiếng gọi thiêng-liêng mà phế đời hành Đạo, mặc dù lúc đó ông đang là một vị công-chức của chính-phủ Pháp. Công-nghiệp của ông đã ghi đậm trang sử Đạo. (Ông là người đầu công trong việc mở-mang ban đầu).

- Ông thứ nhì là Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc. Ông là người có tánh cao-thượng và hùng khí, lại thương đời mến Đạo nên khi nhận rõ mối Đạo cũng liền phế đời hành Đạo, ông cũng là công chức lúc ấy (Ông đã đóng góp trọn đời suốt 35 năm)

- Ông thứ ba là Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang cũng có tánh cao-thượng và yêu đời mến Đạo như hai ông kia, nhưng vì hoàn-cảnh còn phải ở lại với chức-vị của ông vì ông cũng là công-chức. Tuy nhiên ông cũng nghe theo tiếng gọi của thiêng-liêng mà hành-đạo trong lúc rảnh rang. Ông rất dày công phổ-độ lúc ban sơ”.

Ba ông đều đắc Thiên-phong trước hết và đắc lịnh chấp cơ truyền Đạo phổ-độ chúng-sanh. Hai ông Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm hiệp thành một cặp đồng-tử chấp cơ phong Thánh truyền giáo, lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật là Hiến-chương của nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ hiện giờ.

Chúng ta phải nhìn-nhận đầu công của hai ông này vào bậc nhất, vì trước hết và trên hết, Đức Chí-Tôn mượn tay Thần-lực của hai ông mà lập thành Đại-Đạo cho đến ngày nay.

“Chúng ta suy đoán chỉ có thương-yêu, duy có một người hay nửa người thương mà các vị Giáo-chủ đã lập thành Tôn-giáo tại mặt thế này."

Chính Đức Hộ-Pháp xác nhận:
“Chúng ta xét lại thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn hạnh-phúc hơn các nền Tôn-giáo khác, nếu nhận quả-quyết thì có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên-hạ rồi.

Cái thiệt tướng của nền Tôn-giáo Đức Chí-Tôn hiện tượng do quyền-năng vô đối của Ngài mà đoạt đặng, trong đó các vị thừa-hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó.

Bần-Đạo kiếu lỗi cùng con cái của Ngài không phải tự kiêu hay là tự đắc, chính tay Bần-Đạo có một phần khá lắm, vì cớ Bần-Đạo rủ chúng ta dùng phép hồi-quang phản chiếu đặng định tướng diện của mình, cốt-yếu là một phần tử trong nền Tôn-giáo. Hễ mình coi chơn tướng của mình, rồi tổng số các chơn tướng đó làm chơn tướng của Đạo. Bần-Đạo thấy Đạo Cao-Đài nên hình đặng tức là thành tướng thương-yêu.

Ta không có mơ vọng và không có lường gạt tâm-lý nhơn-sanh, trước mặt mỗi người đều thấy, hỏi do quyền-năng nào tạo thành quyền-lực ngày nay?

Quyền tạo ngày nay do Luật Thương-yêu mà thành tướng. Vậy mà nếu do Luật Thương-yêu thành tướng thì không có quyền-năng nào tàn phá nó đặng, nó có sợ chăng là sợ luật thù hận. May thay, cả lực-lượng thù hận cũng không xung-đột được bởi có bàn tay thiêng-liêng gạt thù hận ra khỏi rồi.

Nó nên hình bởi sự thương-yêu, trưởng thành trong sự thương-yêu bởi hình chất của thương-yêu. Hễ càng ngày càng lớn lên càng tráng-kiện, nó sẽ làm Chúa cả thù hận không hề xâm-lấn nó đặng.

Nói quả-quyết Bần-Đạo đã đánh tan thù hận ra, khi các đảng-phái dùng quyền-lực đặng chiếm ngôi vị của Chí-Tôn để tại mặt thế-gian này.

Bần-Đạo đã can-đảm dùng quyền của Bần-Đạo đánh ngã hết đặng bảo-trọng hình tướng thương-yêu của Đạo, Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều, Bần-Đạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo-tồn hình-thể của Chí-Tôn cho trọn thương-yêu.”
Đó là Tam đầu chế của HIỆP-THIÊN-ĐÀI vậy.

b/ - Tam đầu chế Cửu-Trùng-Đài
Về Cửu-Trùng-Đài cũng có Tam đầu chế như Hiệp-Thiên-Đài vậy.
Ba vị Đầu-Sư của ba phái là THÁI, THƯỢNG, NGỌC. Thay vì trong thời tịch-đạo Thanh Hương này thì Nam lấy chữ Thanh Nữ lấy chữ Hương đặt vào tên tộc của mỗi Chức-sắc, sẽ trở thành Thánh-danh trong Đại-Đạo.

Ví-dụ: nữ Lễ-Sanh Nguyễn-Thị-Lan chẳng hạn, Thánh-danh là Lễ-Sanh Hương-Lan; Còn Nam-phái thì chữ sắc phái đặt phiá trước, kế đến là tên tộc, sau cùng là chữ tịch-đạo, là Thanh.

Ví-dụ: Lễ-Sanh Nguyễn-Văn-An, đắc phong phái Thái, Thánh-danh sẽ là: Thái-An-Thanh.
Nhưng, chỉ riêng trong thời khởi khai Đại-Đạo thì Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài Nam-phái được một đặc-ân là ba vị Đầu-Sư có Thánh-danh mang chữ: Nhựt, Nguyệt, Tinh là Tam-bửu của trời:
- Thái Đầu-Sư Thái-Minh-TINH (Thiện-Tinh)
- Thượng Đầu-Sư Thượng-Trung-NHỰT
- Ngọc Đầu-Sư Ngọc-Lịch-NGUYỆT

Nhựt, Nguyệt, Tinh chính là Tam-bửu của Trời mà nay Đức Chí-Tôn đã đem đặt vào cơ-quan Cửu-Trùng-Đài của nền Đại-Đạo. Hội-Thánh Đại-Đạo có chia ra làm hai Đài hữu-hình:
- Cửu-Trùng-Đài lo về cơ-quan giáo-hóa nhơn-sanh.
- Hiệp-Thiên-Đài là cơ-quan bảo-tồn luật pháp Đạo.

Cơ phong Thánh Cửu-Trùng-Đài Nam-phái được thành lập trước, vào ngày 14 rạng ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (dl 19-11-1926). Tuy nhiên, với ba vị Đầu-Sư này được Thiên-phong vào các ngày như sau:
- Ông Lê-Văn-Trung, Thánh-danh Thượng-Trung-Nhựt, đắc phong ngày 15-3 Bính-Dần.
- Ông Lê-Văn-Lịch, Thánh-danh Ngọc-Lịch-Nguyệt, đắc phong ngày 15-3 Bính-Dần.
- Ông Thiện-Minh, Thánh-danh Thái-Minh-Tinh, đắc phong ngày 13-10 Bính-Dần.

Ngày ông Thiện-Minh được ân-phong, có lời dạy của Thầy:
“Thiện-Minh, con há! Mừng con,

“Con ôi! Khi Thầy giáng sanh lập Đạo Thánh, Thầy đổ máu mà rửa tội cho chúng-sanh, đến đỗi phải lấy thân làm của tế mà cầu-khẩn cho chúng-sanh. Hai ngàn năm chưa qua, giọt máu Thầy đã trôi hết!

“Nay con vì ma khảo phải đổ máu mà rửa tội cho toàn phái Thái, thì sự vinh-diệu con trước mắt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đã đặng so-sánh cùng Thầy rồi … Cười!

“Con phải lấy hiệu Thiên-ân là Thái-Minh-Tinh làm Đầu-Sư”

Nhưng Đạo là lý, mà lý của vũ-trụ vốn vô cùng. Nếu luận về Tam-bửu của Trời thì:
- TINH là sao có rất nhiều (thuộc âm) 
            - NHỰT là mặt trời thì có một ( dương)          
            - NGUYỆT là mặt trăng, có một (âm) 
            Như vậy Cửu-Trùng-Đài là quẻ KHẢM

(nếu kể tam-thiên-thế-giới và thất-thập-nhị-điạ là tinh-tú thì có đến 3.072 vì sao)

Do vậy, mà phái Thái phải có đến hai vị:
1 - Thái-Minh-Tinh
2 - Thái-Nương-Tinh
Ngày 12-12 Bính-Dần (15-01-1927)

Thầy giáng dạy rằng:
“Nương, Thầy dặn con, con chẳng hề nghe đến, Thầy muốn bỏ, song vì cựu vị nên chẳng đành. Từ đây phải lo Đạo nghe! Thầy phong cho con chức Thái-Đầu-Sư, phải hành-Đạo và hiệp sức phổ-độ phái Thái, Thái-Minh-Tinh bị Lý-Thái-Bạch cách chức”

Đức Lý dạy:
“Nương phải sắm Thiên-phục như Thơ Thanh vậy nghe!” (13-12 Bính-Dần).
Đức Thượng-Đế cũng xác nhận về ba vị Tướng-soái của Thầy bên cơ-quan Cửu-Trùng-Đài rằng:
“Thầy đến đây đặng cho hội-hiệp sum-vầy BA NGÔI cho đoàn-tụ đó, bớ mấy con! Nghĩa là Ngọc-Thanh, Thái-Thanh và Thượng-Thanh đã đủ mặt ngày nay rồi, thì phải lo thi-hành bổn-phận cho chóng.

“Bởi ngày giờ đã muộn, ráng mà làm bia cho đời sau noi dấu đến bảy chục muôn năm đó con! Chớ chẳng phải là cuộc nhỏ mọn đâu con, phải ráng mà đồng công cọng sự mới đặng, trong thì Thầy giúp sức, ngoài thì BA CON phụ lực mới thành-công.”

Như trước đã nói Hiệp-Thiên-Đài là quẻ LY
Còn đây Cửu-Trùng-Đài thuộc quẻ KHẢM Vì sao?
Bởi theo thứ-tự BA PHÁI là Thái, Thượng, Ngọc; tức nhiên:
- Phái Thái thuộc Phật,
- Phái Thượng thuộc Tiên.
- Phái Ngọc thuộc Thánh.

Trong Tam-Kỳ Phổ-Độ này thì:
* Phái Thái có hai vị, mang chữ TINH, số 2 thuộc âm.
* Phái Thượng có 1 vị, mang chữ NHỰT, số 1 thuộc dương.
* Phái Ngọc có một vị, mang chữ NGUYỆT, thuộc âm.
Như vậy, Cửu-Trùng-Đài thuộc quẻ Khảm (khảm vi thủy, thủy là nước).

Còn lại BÁT-QUÁI-ĐÀI là nơi thờ Đức Chí-Tôn và các đẳng Thần, Thánh, Tiên, Phật, thuần dương, thuộc quẻ CÀN (càn vi thiên, càn là trời vậy). Kết-luận:

* Bát-Quái-Đài, là quẻ Càn (càn vi Thiên).
* Hiệp-Thiên-Đài, là quẻ Ly (ly vi Hỏa).
* Cửu-Trùng-Đài, là quẻ Khảm (khảm vi Thủy).

c/ - Chiết Khảm điền Ly của Đạo Cao-Đài
Từ xưa đến giờ, người tu-hành chỉ mong TU LUYỆN: chiết Khảm điền Ly phản vị Càn; có nghĩa là căn-cứ trên quẻ, nếu lấy hào dương của Khảm đem thế vào hào âm ở giữa của quẻ Ly thành ra quẻ Càn. Như vậy, nay là cơ đại ân-xá của Chí-Tôn nên chính Thầy đã “chiết Khảm điền Ly” cho tất cả rồi, thế nên Thầy mới nói “Các con chỉ có TU mà đắc Đạo. Phải ngó đến hằng ức, thiên, vạn kẻ nhơn-sanh chưa đặng khỏi luân-hồi, để lòng từ-bi độ rỗi kẻo tội nghiệp.”

Mà tu thì làm sao?
“Người dưới thế này, muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo, phải có công-quả.

“Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường đạo-đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho con nghe. K…ôi! Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa-vị mình, thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc Đạo bao giờ.” (TN I/27)

Thầy chiết khảm điền ly bằng cách nào?
Theo thứ-tự trên đã cho thấy rõ: lẽ ra Đền Thánh được kiến-thiết, trong cùng là:
            - Bát-Quái-Đài, thuộc về Thần, quẻ Càn 
            - Hiệp-Thiên-Đài, thuộc về khí, quẻ Ly 
            - Cửu-Trùng-Đài, thuộc về Tinh, quẻ Khảm 

Nhưng, trên thực-tế thì các vị-trí đã thay đổi ở hai đài hữu-hình là:
            - Bát-Quái-Đài, hướng Đông, ở trong, quẻ Càn  
            - Kế đến là Cửu-Trùng-Đài, ở giữa, quẻ Khảm  
            - Ngoài là Hiệp-Thiên-Đài, hướng Tây quẻ Ly

Đây là phần Địa-hình đã tương-hiệp:
Ngài đã đặt quẻ Khảm lên quẻ Ly; đồng thời đặt quẻ Ly lên quẻ Khảm để thành quẻ Càn. Thế nên, người tu theo Đạo Cao-Đài ngày nay tu mà không cần luyện, chỉ Phụng-sự vạn-linh, mà phụng-sự vạn-linh tức là phụng-sự cho Chí-linh. Cúng Tứ-Thời là Luyện Tam-bửu vậy.

“Ngày nay Chí-Tôn đã định khai Đạo đặng thị-chứng cho các Tôn-giáo biết nhìn nhau trong đường hành-thiện, trừ tuyệt hại tranh-đấu thù hiềm, làm cho thế-giới đặng Hòa-bình, thoát cơ tự diệt.

“Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ HÒA mới toan thành lập. Chí-Tôn định lập thành Hội-Thánh đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép tạo-hóa cá-nhân mà gầy nên ảnh-tượng:
- Cửu-Trùng-Đài là thi-hài, ấy là Tinh.
- Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần, ấy là Khí.
- Bát-Quái-Đài là linh-hồn, ấy là Thần.
Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Đạo đặng”.

Lại nữa:
“Thần là khiếm-khuyết của cơ mầu-nhiệm từ ngày Đạo bị bế, lập “Tam-Kỳ Phổ-Độ” này duy Thầy cho “Thần” hiệp “Tinh Khí” đặng hiệp đủ “Tam-bửu” là cơ mầu-nhiệm “siêu phàm nhập Thánh.”

… “Phẩm-vị Thần, Thánh, Tiên, Phật từ ngày bị bế Đạo, thì luật-lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên-đình mỗi phen đánh tản “Thần” không cho hiệp cùng “Tinh Khí.”

“Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn-thần cho các con đắc Đạo. Con hiểu “Thần cư tại nhãn.” Bố trí cho chư đạo-hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu-nhiệm là tại đó. Thầy khuyên mỗi phen nói Đạo hằng nhớ đến danh Thầy.”

2 - Thời kỳ kiến tạo
Qua thời-kỳ kiến tạo để lập công, dành cho người biết dâng công đổi vị, thì bên Cửu-Trùng-Đài chính Đức Quyền Giáo-Tông về mặt hữu-hình đã góp vào một công-quả to lớn để dựng đức-tin làm nền tảng Đại-Đạo ngày nay cùng với hai vị: Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp bên Hiệp-Thiên-Đài. Với lời minh-chứng của Đức Hộ-Pháp như sau:

“Bần-Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn: Nam Nữ cũng vậy. Nếu toàn thể con cái của Ngài một đôi triệu chơn linh mà có đức-tin vững chắc như đức-tin của:
- Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư,
- Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,
- Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.

Nếu cả thảy đều có đức-tin vững-vàng dường ấy Bần-Đạo dám nói chắc rằng: Các người dời núi Bà xuống châu-thành Sài-gòn cũng đặng. Có thể nói: nền Đạo Cao-Đài này thiệt-hiện được như ngày nay là nhờ đức-tin của Thượng-Trung-Nhựt.

Đức Hộ-Pháp nói lý do:
“Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ còn lại có ba người. Thật ra hồi ban sơ chỉ có ba người. Ba người ấy thiên-hạ kêu là ba người lỳ; ba người ấy là:
- Đức Cao Thượng-Phẩm
- Đức Quyền Giáo-Tông
- Và Bần-Đạo đây (Hộ-Pháp)

“Chúng tôi nhứt tâm, nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn. Bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí-Tôn và tự nhiên quyền-năng thiêng-liêng giúp chúng tôi biết ĐẠO CAO-ĐÀI này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng-tộc và giống-nòi.”

Đó là tấm lòng hiếu thảo của Đức Hộ-Pháp thì như vậy, còn lại tinh-thần của Đức Thượng-Phẩm thì… Đức Hộ-Pháp nói tiếp:

“Bần-Đạo thú thật buổi nọ:
“Chỉ có ba Anh em, ôm sứ-mạng thiêng-liêng ấy nơi mình. Lãnh sứ-mạng khó-khăn thì tưởng đâu Đạo Cao-Đài thì cũng như Đạo Phật hay Minh-sư, Minh-đường. Đáo-để, cạo đầu vô chùa làm Thầy chùa tu là cùng, tưởng dễ-dàng lắm, kiếp sanh nơi thế, thời bấy giờ đã khổ-não tâm-hồn và xác thịt, lệ thuộc như thế. Ổng biểu tu, nào dè mở Đạo trong thời-gian ngắn-ngủi, không bao lâu thấy cả con cái của Ngài đến cùng Ngài cả muôn cả triệu, chừng đó mới biết sợ-sệt. Chính mình buổi nọ, Đức Quyền Giáo-Tông ra hậu-điện, Người hỏi Bần-Đạo: làm cái gì vậy?

“Thấy thiên-hạ vào cửa Đạo quá chừng, Đại-Từ-Phụ làm cái gì kỳ quá vậy? Chính mình Bần-Đạo cũng không biết.
- Biết đâu! Ông làm gì?

“Ông đến thâu tín-đồ nhiều quá ảnh than rằng: tới đâu hay tới đó, biết sao!
Kể từ đó bị khảo miết: Đức Cao Thượng-Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày giờ cuối cùng, nằm trên giường bịnh cho tới hơi thở cuối cùng không buổi nào không bị khảo, không buổi nào không bị nhục-nhã. Cái luật thiên-nhiên không có điều gì xin-xỏ, điều gì cũng phải mua chuộc.

“Bần-Đạo đã quyết rồi, xin để Bần-Đạo kết luận: Bởi mua chuộc với cái khảo-đảo, nhục-nhã của đời, để bảo-trọng danh-giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang-trọng vô đối.”

Sự-nghiệp vẻ-vang của Đức Thượng-Phẩm như vậy chính do Ngài biết giữ được chữ “nhẫn” chữ “hòa”, một là để tô-bồi thiên-vị, hai là nâng cao phẩm-giá chơn-linh cao trọng của Ngài.

“Đức Cao Thượng-Phẩm là chơn-linh Hớn-Chung-Ly: một vị Đại-Tiên trong Bát Tiên, làm sứ-mạng của Chí-Tôn đến tạo dựng nên Tôn-giáo tại thế này. Người cùng với Hộ-Pháp họp thành cặp cơ phong Thánh lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật để làm Hiến-chương cho nền Quốc Đạo.
“Chúng ta phải nhìn-nhận đầu công khai Đạo của Đức Cao Thượng-Phẩm, vì nếu thiếu bàn tay xây dựng của Người để chấp cơ cùng Hộ-Pháp thì:
- Đâu có Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ,
- Đâu có Chức-sắc Thiên-phong Nam Nữ,
- Đâu có Hội-Thánh và các cơ-quan trong Đạo,
- Đâu có Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật,
- Đâu có đại-nghiệp hiện giờ cho nhơn-sanh thừa hưởng.”

Đến khi khởi công xây dựng Thánh-Thất tức là nhà chung của Đạo (là Thánh-Thất tạm trước khi xây Đền-Thánh bây giờ) thì Đức Thượng-Phẩm là người đứng ra cùng góp công với nhân-sanh bứng gốc phá chồi, thật là Đấng đã khai sơn phá thạch cùng với Đức Hộ-Pháp tạo nên một ngôi thờ phượng khang-trang, một ngôi Tổ đình lưu lại cho nhơn-sanh một đức-tin tuyệt-đối. Nhưng đại-nghiệp ấy mới nửa chừng Người phải về thiêng-liêng làm nhiệm-vụ của Đức Chí-Tôn giao-phó, đành buông gánh Đại-Đạo cho Hộ-Pháp một tay lèo-lái, lại còn chịu lao-lý để gánh ách nạn cho dân-tộc. Với hai Đấng đầu công thật là công-trình vẹn-vẻ, vừa lo phần thể-pháp, vừa thực hiện bí-pháp của Đạo, hai Ngài đã thể hiện cơ âm dương tương-đắc vậy.

Ấy là hai Chức-sắc Đại Thiên-phong nơi cửa Hiệp-Thiên-Đài trong cơ kiến-tạo nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ:
- Một là Đức Hộ-Pháp, đầy lòng hiếu đạo cùng Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
- Hai là Đức Thượng-Phẩm đầy-đủ đức kiên-nhẫn với một đức-tin tuyệt-đối.

Còn với công-quả phi-thường của Đức Quyền Giáo-Tông, Đức Hộ-Pháp đã giải:
Thật sự hồi ban sơ chỉ có ba người (lập lại một lần nữa):
“Bần-Đạo nói không có gì! Đức Chí-Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách không ai tưởng-tượng được. Khi Ngài đến thì chỉ có Đức Thượng-Phẩm và Bần-Đạo mà thôi. Về sau Bần-Đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm mới đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt đặng Chí-Tôn chuyện vãng cùng Người. Đứng đầu trong trường chính-trị đã chịu ảnh-hưởng một tình thế bị trích-điểm cũng có, được tôn-sùng cũng có, được khen cũng có, bị chê cũng có. Buổi ấy bị họ ghen-ghét nên chê nhiều hơn khen. Chính mình Bần-Đạo lấy làm lạ tại sao Đức Chí-Tôn biểu Thượng-Phẩm đến nơi đó?

“Để cái dấu hỏi mơ hồ, chẳng dè một người đó lại phi-thường! Giờ phút này Bần-Đạo nói đến lấy làm lạ!
“Một là từ thử tới giờ Bần-Đạo chưa ngó thấy. Đến chuyện vãng cùng Ngài, Đức Chí-Tôn nói cái chi chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Bần-Đạo với Thượng-Phẩm chỉ là hai người dự thính không biết gì hết, mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với nhau mà thôi.
“Trong 24 giờ, một người đã là Thượng-Nghị-viện, một cái gia-nghiệp đủ vinh-hiển, đủ cao-trọng, đủ đương đầu với thiên-hạ.
“Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà thôi. Cho tới một cái lạ hơn hết là đương hút á-phiện, người phong-lưu như ai kia vậy bỏ một cái một, cả sự ăn chơi cũng thế.
“Đức Chí-Tôn kỳ hạn có 24 giờ mà thôi.
- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải trường trai.
- 24 giờ Anh Cả phải dâng cả sự-nghiệp cho thiên-hạ.
- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải từ bỏ chức Thượng-Nghị-viện, dâng mảnh thân phàm cho Đức Chí-Tôn làm ngọn cờ cứu-khổ.

“Một người, Bần-Đạo thấy ban sơ có một người là Thượng-Phẩm, rồi sau lại có người này nữa: Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt.

Ngồi nghĩ thầm cái đức-tin gì mà lạ-lùng như thế! Giờ phút này Bần-Đạo mới hiểu hai vị Đại-Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề Đức Chí-Tôn đã giao-phó một sứ-mạng nặng-nề, khó-khăn để đảm-nhiệm trách-vụ gánh vác tạo dựng nền chơn-giáo của Ngài như thế này.

“Nói thật ra,
“Thưa cùng chư Chức-sắc Thiên-phong Cửu-Trùng-Đài nam nữ! Cái ngôi của Ngài tạo dựng, cái ngôi Giáo-Tông-Đường của Ngài đã ngồi trên ấy, đầu tiên hết, cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất Việt-Nam này một cái báu-vật quí-giá vô cùng, từ thử tới giờ chưa hề có.

“Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo-Hoàng Saint Pière thế nào, thì Bần-Đạo có lẽ nói rằng và cũng có thể mơ-ước: cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”

Xem thế, thì người tu lập công bằng con đường Cửu-Phẩm Thần-Tiên theo gương của Đức Quyền Giáo-Tông cũng đoạt được ba hào dương của quẻ Càn, tức là đắc Đạo vậy (đó là chiết Khảm điền Ly phản vị Càn là thế).

Bởi giai-đoạn kiến-thiết có ba vị:

3 - Thời-kỳ định-vị
Nếu lập công bằng con đường Phước-Thiện (là cơ-quan của Hiệp-Thiên-Đài) thì hãy xem gương của Ngài Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa.

Đức Hộ-Pháp giải-thích rằng:
“Từ thử tới giờ nếu nói về kẻ đảm-nhiệm gánh vác Hiệp-Thiên-Đài thì Bần-Đạo quả-quyết cho Ba người thôi:
“Ban sơ có Cao Thượng-Phẩm, sau có KHAI-PHÁP và Bần-Đạo thôi”

Lý do tại sao? Ngài nói tiếp:
“Đức Chí-Tôn đã định sẵn đâu hồi nào, mà chính mình Đức Chí-Tôn lựa thật là xứng-đáng. Trong buổi lập Hiệp-Thiên-Đài Đức Chí-Tôn dạy: Con muốn ra gánh vác sự-nghiệp thiêng-liêng lập nên nền Đạo, trước hết con phải lập Pháp cho xong thì Đạo mới vững bền được.

“Buổi nọ, Bần-Đạo nguyện để trọn-vẹn Đức Chí-Tôn chọn lựa, chớ không phải phàm nhơn. Khi được lịnh Cơ-bút dạy đi tìm Pháp, thì chỉ dạy Bần-Đạo đến tỉnh Gò-Công mà tìm tên Trần-Duy-Nghĩa. Đức Chí-Tôn chỉ cho biết nơi tỉnh Gò-Công mà thôi. Khi tìm đến biết đâu, có phải hay chăng?!

“Bởi vì nơi tỉnh Gò-Công Bần-Đạo chưa từng đến và không làm bạn với một người nào nhưng mà cũng vâng lịnh để đi tìm. Khi vừa đến tỉnh thành Gò-Công, ngừng xe lại tìm hỏi thăm thì đã trúng ngay nhà ông Trần-Duy-Nghĩa và gặp Người đứng trước thềm nhà. Người nói: Tôi là Trần-Duy-Nghĩa đây!

Qua phút giây trò chuyện… Bần-Đạo đưa bài Thánh-giáo Đức Chí-Tôn dạy đi tìm Người thì Ngài nói rằng:

Tôi tưởng dòng-dõi của dân-tộc Việt-Nam trên 4.000 năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến lập QUỐC-ĐẠO thì chắc hẳn rằng đất nước Việt-Nam sẽ sống lại được mà lo cứu chữa Tổ-quốc và giống-nòi dân-tộc, Việt-Nam sẽ cổi ách lệ-thuộc giữa thời Pháp-thuộc đang bạo-hành”. (Đức-Hộ-Pháp thuyết ngày 12-8 Ất-Mùi 1950)

Ngài Khai-Pháp Chơn-Quân tuổi Tý (1888) là người có tuổi đứng đầu trong thập nhị địa chi, mà cũng đứng đầu của Thập-Nhị Thời-Quân, tức là con số 1, cũng biểu tượng bằng hào dương, nếu đặt vào giữa quẻ Ly (Hiệp-Thiên-Đài) sẽ biến ra quẻ Càn, như dưới đây:
Cơ định vị cũng đúng vào quẻ Càn.
Ba vị trên chính là Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài đó vậy.
Ngài Khai-Pháp là người đã thừa lịnh Đức Hộ-Pháp đến nhà tịnh nơi Trí-Giác-Cung Địa-Linh Động là nhà tịnh của Hiệp-Thiên-Đài khai PHÁP cho cơ Đạo nhằm lúc khởi công kiến-tạo vào năm Mậu-Tý (1948).

Người có được tấm lòng trung với Đạo và hiếu-nghĩa với Thầy là Hộ-Pháp, trong lúc bị đày nơi Hải-đảo Madagascar (Phi-châu), Ngài hết lòng lo-lắng và săn-sóc cho Đức Hộ-Pháp trọn nghĩa Thầy trò, dù cảnh tù đày mà tình-cảm vẫn khắn-khít. Người đứng đầu bên Cơ-quan Phước-Thiện cũng đủ cho nhơn-sanh cùng nhau “đi tìm Pháp”, là hãy hết lòng phụng-sự cho vạn-linh bằng con đường hành thiện cũng đạt Đạo vậy.

Đức Hộ-Pháp xác nhận:
“Chính mình Hộ-Pháp là người cầm đầu trong Hiệp-Thiên-Đài, trách-nhiệm đó nặng-nề làm sao đâu! Khi ấy chỉ có ba người Hiệp-Thiên-Đài lãnh phận-sự Thầy”. Đức Chí-Tôn nói:
“Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi ấy hết khổ”

Bởi “Cái khổ ách của nhơn-loại là cùng khắp thế-gian, nên Thánh-ý Thầy muốn giao cơ cứu khổ cho con phải làm thế nào nên ngọn cờ cứu-khổ, để giải-khổ cho nhơn-sanh cùng khắp mặt địa-cầu này”. (17-4 Ất-mùi 1955)

Nhìn chung thì lập công bằng con đường Cửu-Thiên Khai-Hóa như Đức Quyền Giáo-Tông hay bằng con đường Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng, là cơ-quan cứu khổ của Phước-Thiện cũng được hiệp nhứt với Trời, tức là hội-hiệp cùng Đức Chí-Tôn bởi hình ảnh các Ngài là đã tượng-trưng cho sự HIỆP TAM-BỬU tức nhiên hiệp TINH KHÍ THẦN đó vậy!
Tóm lại: Đạo Cao-Đài thành hình do ba người, nhưng phải trải qua ba giai-đoạn:

Do đâu mà các Ngài được sự lựa chọn như vậy?
- Đó là những bậc lương-sanh mà Đức Chí-Tôn đã chọn và cho xuống trước để đến ngày giờ này Ngài đến qui lại mà lo cứu vớt quần-sanh. Đó là nguyên-nhân.

“Những vai tuồng của Chí-Tôn sắp đặt trên sân-khấu Đạo, nếu so-sánh lại cũng chẳng khác chi những bậc nguyên-nhân lãnh phận-sự dìu đời từ xưa đến giờ mà thôi. Nguyên-nhân là các nguyên-linh Đức Chí-Tôn cho xuống trần để dìu dắt hóa-nhân đi lên đường tấn-hoá và cũng để học-hỏi về cơ tấn-hóa. Cũng có phần nguyên-nhân đến đặng mở cơ giáo-hóa song không có trong số một trăm ức nguyên-nhân của Chí-Tôn đã cho xuống thế từ buổi Thượng-nguơn.”

Đây là cơ NHÂN đã Hiệp Tam-bửu rồi vậy, chỉ còn mỗi cơ THIÊN mà thôi.
4 - Lý Dịch trong ba thời-kỳ
Nếu nhìn vào phần tổng-kết trên thì thấy có ba giai-đoạn chuyển-biến mà thành hình, lẽ ra đó là con số 9 (3x3=9), gọi là “Tam luân cửu chuyển” nhưng thật sự là con số 12. Vì thời khởi thủy có đến hai cơ-quan: Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài, đó là âm dương tương-hiệp (bởi Hiệp-Thiên-Đài quẻ Ly là dương, Cửu-Trùng-Đài quẻ Khảm là âm)

Tức nhiên con đường Thập-Nhị Khai-Thiên Đức Chí-Tôn đã mở ra cho nhơn-loại tu để về đến ngôi Trời, nên “số 12 là số riêng của Thầy”

Số 12 là số đặc-biệt, tức là (9+3=12). Số 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy ba ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay; mà Người nắm pháp ấy là Chủ-tể càn-khôn vũ-trụ. Nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.

Nếu cộng lại theo hàng ngang thì (1+2=3) tức là 3 ngôi đầu tiên (Phật, Pháp, Tăng) hay là Thiên, Địa, Nhân và cũng là TINH, KHÍ, THẦN.

Nếu tính theo vị-trí, thì 1 rồi đến 2 tức là lý Thái-cực (số 1) đứng trước luật âm dương (số 2) thì thấy rõ quyền-năng Chưởng-quản trong đó.

Vì thế nên Thầy nói “chi chi cũng có luật định, không một vật chi ngoài quyền sở-định của Tạo-hóa hết”. Nhưng luật công-bình có hai phần: một Âm, một Dương biến động, dù ngay trong luật-định cũng có. Ở đâu cũng có cái lý mâu thuẫn trong đó, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh. Hết vòng biến-đổi mới trở về trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 mới trở lại trạng-thái Hư-vô (là 0), cho nên người tu “đắc nhứt qui cơ” là thành Đạo, nghĩa là hiệp cùng lý Thái-cực để trở lại trạng-thái tĩnh-lặng nhiệm-mầu.

“Trong là lý Hư-vô, trong lý Hư-vô phát sanh một Thái-cực. Thái-cực biến-hóa ba ngôi, mỗi ngôi lại biến-hóa nữa thành ra Cửu chuyển.
- Như trên đã rõ 3 ngôi của THIÊN là Trời, Đức Thượng-Đế tá danh: AĂÂ (THẦN)
- Ba vị Tiên nơi Diêu-Trì-Cung là ĐỊA (KHÍ)
- Ba vị Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài là NHƠN (TINH)

Nhất là ba vị: Thượng-Phẩm, Giáo-Tông, Hộ-Pháp thuộc cơ kiến-tạo, phát-triển nên vai-trò rất quan-trọng mà cửa Đạo Cao-Đài đòi hỏi người tu phải đủ Tam-lập là: lập đức, lập công, lập ngôn. Hơn nữa các Ngài là Thiên-soái-mạng của Đức Chí-Tôn đã chọn lựa trước, tức nhiên “Ngài dùng lương-sanh để cứu vớt quần-sanh” trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ vậy.

Đức Hộ-Pháp kết-luận:
“Bần-Đạo nhấn mạnh một điều: ĐẠO CAO-ĐÀI này vốn là một Tôn-giáo để cứu-khổ cho nhơn-loại, Đạo Cao-Đài cốt-yếu không phải làm chủ thiên-hạ, mà cốt-yếu làm tôi-đòi tạo hạnh-phúc cho thiên-hạ, tạo cái hạnh-phúc chơn thật.

“Hôm nay, Ngài Khai-Pháp hưởng đặng nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống mà Ngài đã hiểu thấu chơn-lý ấy là thực-sự nên Bần-Đạo cùng Ngài, Đức Thượng-Phẩm và Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt đã có công-lao chung chịu khổ-hạnh cùng nhau, nhứt tâm nhứt đức quyết gồng-gánh một nền Tôn-giáo của Đức Chí-Tôn và bảo-vệ, nâng-đỡ, thiệt hiện hình tướng cho cơ-quan cứu khổ…

“Bần-Đạo lấy làm hân-hạnh, phúc hậu, vui hứng thấy Ngài đã đoạt Đạo, Đức Khai-Pháp Chơn-Quân đã đoạt Đạo tại thế đó vậy. Bần-Đạo làm chứng cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn điều ấy.”

Như vậy, Chỉ có 4 hào dương, tượng trưng 4 nhân-vật là: Hộ-Pháp, Khai-Pháp, Đức Thượng-Phẩm và Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt. Trong câu trên, Đức Hộ-Pháp nói: “Hiểu thấu chơn-lý ấy thực-sự nên Bần-Đạo cùng Ngài, Đức Thượng-Phẩm và Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt.”

Đây là cơ THIÊN, hiệp đủ Tam-tài rồi vậy.
Bốn hào dương này chính là bốn đức của Trời là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh; nơi người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí đó. (sẽ bàn sau).

Chính các Ngài cũng phải lập đức, lập công, lập ngôn để hoàn thành Tam lập trong con đường hành thiện như sau:

5 - Việc Tam-lập của ba vị Tướng-soái của Thầy
a/ - Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư
- Lập đức: Ngài là Chưởng-quản chi Đạo, đứng hàng Tiên-vị, phế đời hành Đạo trước nhất. Nguơn-linh là Hớn-Chung-Ly.
- Lập công: Ngài chấp-bút, phò-cơ tiếp điển thiêng-liêng trong cặp cơ phong Thánh để Chí-Tôn khai Đại-Đạo, lập Thiên-phong Chức-sắc, lập Hội-Thánh và các cơ-quan trong Đạo, lập Tân-Luật và Pháp-Chánh-Truyền làm nền tảng cho đức-tin của Đạo. Ngài là người ra công bứng gốc phá rừng để lập nên một Thánh-Thất hữu-hình, tạo một cơ-sở vật-chất ngày nay.

- Lập ngôn: Ngài lập ra bản Phổ-cáo chúng-sanh để thông-báo cho toàn tín-hữu Cao-Đài, giữ vững đức-tin trong buổi khuynh-nguy của một dân-tộc bị lệ-thuộc.

b/ - Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc:
- Lập đức: Người đứng đầu chi Pháp, là Chưởng-quản Hiệp-Thiên-Đài bảo thủ chơn truyền Đại-Đạo, vào hàng Phật-vị, trọn phế đời hành đạo 35 năm.

- Lập công: công-quả Ngài dâng-hiến cho Đấng Thượng-Đế 35 năm trường, từ lúc Ngài mới 35 tuổi; xây dựng Đền-Thánh, tạo Báo-Ân-Từ là hai ngôi Đền Điện nguy-nga đứng vào hàng kỳ quan thế-giới, đầy-đủ bí-pháp nhiệm-mầu, tất cả các dinh-thự từ nội-ô cho đến ngoại-ô của vùng Thánh-Địa, làm nơi cho nhơn-sanh sùng bái, qui tụ đức-tin của toàn cầu về mặt tín-ngưỡng, làm nổi bật nền văn-minh Đạo-giáo Đông-phương.

- Lập ngôn: Trong 10 năm thuyết Đạo có trên 500 bài cụ-thể, giảng-giải đủ các vấn-đề từ thể-pháp cho đến bí-pháp của Đạo, Ngài là Đấng Giáo-chủ hữu-hình thay quyền Chí-Tôn tại thế, làm chủ linh-hồn của nhân-loại trên quả địa-cầu này từ hôm nay cho đến bảy trăm ngàn năm tuổi Đạo.

c/ - Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt:
- Lập đức: Ngài đứng vào hàng nhứt Phật nơi Cửu-Trùng-Đài, là Anh Cả của toàn thể nhơn-sanh thay quyền Chí-Tôn thể thiên hành-hóa tức là giáo-hóa nhơn-sanh trên đường hành thiện. Với một đức-tin tuyệt-đối, Ngài đã nghe theo tiếng gọi thiêng-liêng phế đời hành Đạo, bỏ tất cả danh, lợi, quyền, mà quyền ấy đứng đầu cả nước, một cuộc đời vinh-sang phú quí.

- Lập công: Ngài hợp sức với Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp kiến-thiết các cơ-sở vật-chất cho nền Đại-Đạo được uy-nghiêm như ngày nay, là nhờ có bàn tay và khối óc tuyệt-vời ấy mới đủ sức chống đỡ Đạo-quyền giữa thời nguy-khốn của đời suốt tám năm tròn, tức là đã nắm trọn Bát-quái vào tay để đưa con thuyền Đạo đến bến vinh quang.

- Lập ngôn: Ngài đứng ra làm Tờ Khai Đạo trình lên Chánh-phủ Pháp bấy giờ là ông Le Fol, nói rằng “tuyên-bố cho Ông biết là chúng tôi sẽ truyền-bá cho toàn thể nhân-loại giáo-lý thiêng-liêng này.” Những lời dạy của Ngài làm yếu ngôn cho sanh-chúng học hỏi trong suốt diễn trình của đạo-pháp, tỏ thái-độ không khuất-phục.
Đó là ba tấm gương sáng chói của “ba người làm nên Đại-Đạo.”

Mỗi một giai-đoạn có ba người như vậy là thể hiện sự tròn đầy viên mãn. Nhưng thực-tế phải kể đến 5 người, để làm nên Ngũ-hành biến-hóa:
Nhìn vào hình vẽ, thấy đủ ba giai-đoạn:
1 - Cơ khởi thủy: Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, Hộ-Pháp (giữa) Cơ-quan Hiệp-Thiên-Đài.
2 - Cơ kiến-thiết: Thượng-Phẩm, Giáo-Tông, Hộ-Pháp (trái)
3 - Cơ định-vị: Thượng-Phẩm, Khai-Pháp, Hộ-Pháp (phải)

Như vậy mỗi người là một Thái-cực, tượng trưng tâm-điểm của vòng tròn hay là tâm của vũ-trụ. Năm điểm họp lại thành một vòng tròn lớn đó là lý Ngũ-hành thuộc Thổ, trong càn-khôn vũ-trụ gồm có Tam tài và nhị khí Âm Dương. Mà 3 cũng là một, bởi hình ảnh của tam-giác: 1 cũng là 3; thêm nhị khí Âm Dương, cọng lại thành 5.

Hơn nữa từ xưa tới giờ số 3 và 5 đã đóng một vai-trò quan-trọng:
- Tiên-giáo: Đức Thái-Thượng dạy Tam-bửu, Ngũ-hành, tu tâm luyện tánh, thủ cảm-ứng công-bình.
- Phật-giáo: Đức Thích-Ca dạy Tam-qui Ngũ-giới, minh tâm kiến tánh, thật-hành bác-ái, từ-bi.
- Nho-giáo: Đức Khổng-Thánh dạy Tam-cang Ngũ-thường, tồn tâm dưỡng tánh, giữ tròn hai chữ TRUNG, NGHĨA mà làm tiêu-chuẩn cho mọi hành-vi.

Nay, Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn đến khai Đạo cứu đời dùng Nho-Tông chuyển thế:
- Lập Tam-bửu ngũ-nguyện, là tinh-thần hiến-dâng và phụng-sự, tức là thể hiện hai chữ Nhân-Nghĩa
- Thực-hành Tam-qui ngũ-giới là phục lại tinh-thần đạo-đức, dựng lại mỹ tục thuần-phong, phát-huy tinh-thần văn-hóa 4.000 năm huy-hoàng, rực-rỡ; do đó Thầy đã sắp sẵn: Nghĩa, Lý, Tượng, Pháp, Nho, Y, Lý, Số đều nhất-quán, từ ngoại dung đến nội-dung. Từ thể-pháp hiện hình bí-pháp. Nay Đạo Cao-Đài đủ cả:
- Tu-hành giữ Tam-qui Ngũ-giới.
- Tôn-chỉ của Đạo Cao-Đài là qui Tam-giáo hiệp Ngũ-chi.
- Thường ngày giữ Tam-cang Ngũ-thường.
- Tứ thời nhựt tụng: Tam-bửu Ngũ-nguyện

Tất cả cũng không ngoài con số TAM và số NGŨ.
Bởi hai con số này nó có một tính cách rất quan-trọng. Lý-do dễ nhận thấy là tổng hợp hai số lại là 8 (3+5=8). Đó là hình ảnh của Bát-quái (xem về Bát-quái ở phần sau)

6 - Tại sao Đạo Cao-Đài thành hình chỉ có ba người?
“Bởi cái thiệt tướng của nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn đã hiện tượng do quyền-năng vô đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình nắn nên tướng của nó.”

Hiện nay các bậc tu-hành tốn không biết bao công-trình tìm pháp để tu tắt, hòng mong cho mau đắc Đạo. Nơi cửa Đạo Cao-Đài này Chí-Tôn đã khai Pháp cả rồi qua hình ảnh Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa đó. Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc là người nắm pháp Thiên-điều, thì Phạm chính là cửa Phật. Như vậy, người tu muốn đến nhanh trong cửa Phật thì hãy bấm “công-tắc” như một nút điện vậy, còn con đường để đi đến nơi là con đường TRUNG, NGHĨA (Lê-Văn-Trung, Trần-Duy-Nghĩa). Năm nguơn-linh cao-trọng ứng vào Ngũ-hành đó vậy.

Thầy dạy:
“Trong Thánh-ngôn đề trái địa-cầu là 68, mà nếu cả Cửu-Phẩm Thần-Tiên mỗi kiếp sanh đi có một phẩm, thì cả triệu năm cũng chưa đoạt đến địa-vị đặng.”

Đức Chí-Tôn nói tiếp:
“Các con, trong một kiếp sanh đã đoạt pháp là vì các con đi con đường tắt, đó là bí-pháp chơn-truyền của Đạo.”
Về giá-trị con số 3 cũng đã cho thấy rõ cái lý nhiệm-mầu ấy:
Số 3 là do 1 với 2 hỗn-hợp lại mà biến ra 3. 3 tức là cơ-quan hữu tướng cùng vô tướng hiện có ở càn-khôn vũ-trụ này.

Số 3 là cơ-sở của Tam thể: Phật, Pháp, Tăng, nên nó vừa có năng-lực huy-động mà cũng có năng-lực dung-hòa. Vật nào có số 3 là vật ấy thuộc bản thể cứng rắn, nhiều hành-động.

Số 3 là một con số thiêng-liêng mầu-nhiệm và nhiều huyền-bí nhất. Trong nền Đại-Đạo con số 3 đã tác-động mạnh-mẽ và chi-phối đến mọi vấn-đề.
Qua các hình ảnh như Tam-Kỳ, Tam-Giáo, Tam-Thánh, Tam-Trấn, Tam-Bửu…
Bởi, Cơ-quan quản-trị gồm có 3 ngôi là: Phật, Pháp, Tăng.
- Phật cầm quyền-năng của chơn-linh.
- Pháp cầm quyền-năng của khí-thể tức là cơ sản-xuất hữu-hình, cầm quyền sự sống của vạn loại, vì khí-thể là chất sanh vạn-vật.
- Tăng là cầm quyền-năng nuôi sống thể hài.

* Ngôi thứ nhất (Phật) lo về sự tiến-triển của chơn-linh, dạy-dỗ các chơn-linh cho cao thượng để hiệp về cơ qui nhứt.
* Ngôi thứ nhì (Pháp) lo về sự giáo-hóa chơn-thần, lo về cơ sản-xuất và nuôi-nấng vạn-linh.
* Ngôi ba (Tăng) lo về cơ cai-trị vật loại cùng là đùm bọc sự sống để đem trở lại cơ qui nhứt, làm thế nào cho điểm linh-quang đừng phải bị mờ-ám trong xác thể.

7 - Số 3 là tượng-trưng cho cơ HÒA
Pháp-Chánh-Truyền nhắc-nhở:
“Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ Hòa mới toan thành lập. Chí-Tôn định thành Hội-Thánh đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép tạo-hóa cá-nhân mà gầy nên ảnh-tượng:
* Cửu-Trùng-Đài là thi-hài, ấy là Tinh
* Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần, ấy là Khí
* Bát-Quái-Đài là linh-hồn, ấy là Thần.

“Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành đạo cho đặng.
“Nếu có một quyền-hành nào tại thế này mà làm cho thân-thể Chí-Tôn phải chia phui manh mún ra đặng thì là Đạo ta là giả Đạo, tất nó phải bị tiêu-diệt trong một lúc ngắn-ngủi chi đây. Còn như quả là Chí-Tôn vì thương-yêu con cái của Người, chính mình đến lập Đạo đăng giải-thoát cho chúng-sanh, thì những mưu-chước của tà-quyền ngăn cản bước Đạo của Thầy khó mong nghịch mạng với Chí-Tôn, ắt là không mong bền vững.
“Hại thay! cho những người vô phần toan phân phái chia phe, làm cho xác Chí-Tôn phải tan-tành rời-rã.

“Khổ thay! cho những kẻ không duyên chối Thánh-giáo nghịch chơn-truyền, làm cho chơn-thần của Chí-Tôn phải ô-uế đê-hèn muốn toan bỏ xác. Đau-đớn thay cho những người ấy! Thê thảm thay cho những kẻ ấy! Dám để tay vào mà làm hại Chí-Tôn; cái tội-tình ấy lớn-lao bao nã. Coi lại gương Juda bán Đức Chúa Jésus-Christ còn nhẹ, vì Juda ham ba chục nguơn bạc đặng nuôi Môn-đệ của Người, còn những kẻ này đây duy háo danh mà phản đạo.

Chí-Tôn đã đến thế, hạ mình đặng làm Thầy dạy-dỗ chúng ta, hằng trông mong giờ nào chúng ta biết hòa-hiệp nơi lòng Bác-ái từ-tâm của Người, là hiệp làm một cùng Người mới có đủ quyền-hành đặng tận-độ chúng-sanh qui hồi cựu vị; mà đã sáu năm chầy rồi, thân-thể hỡi còn rời rã ngất-ngơ, chơn-thần hỡi còn dật-dờ mê-muội, thì thế nào các Đấng Thiêng-Liêng hiệp một cùng đời cho đặng, hầu mong sửa cải Thiên-thơ, tụ hội các nguyên-nhân đem vào cửa Đạo”. (PCT)

CHƯƠNG 4

NHỮNG NHÀ LÃNH-ĐẠO

TÔN-GIÁO CAO-ĐÀI


Trong Hội-thánh có chia ra hai phần hữu-hình:
- Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hóa dưới quyền Giáo-Tông chưởng-quản.
- Hiệp-Thiên-Đài là cơ-quan bảo-thủ chơn truyền, dưới quyền Hộ-Pháp chưởng-quản.

“Cửu-Trùng-Đài là Đời, Hiệp-Thiên-Đài là Đạo, cho nên buộc Đời phải nương Đạo mà lập ra thiệt tướng, mới mong độ rỗi nhơn-sanh chuyển cơ tạo-hóa.

“Cái hệ-trọng là nếu không có Hiệp-Thiên-Đài thì không có Đạo. Trời đất qua chớ Đạo không qua, nhơn-loại tuyệt chớ Hiệp-Thiên-Đài không tuyệt.

“Hiệp-Thiên-Đài là tay vén màn bí-mật cho sự hữu-hình và vô-vi hiệp làm một tức là tay phàm làm cho Đạo và Đời tương-đắc vậy, vì cớ ấy mà Thầy giáng cơ buộc cả chư Môn-đệ Thầy chẳng khi nào đặng phép trái mạng lịnh của Thầy.”

Như vậy trong nền Đại-Đạo hiện thời dưới quyền của hai nhà lãnh-đạo là Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Khi nào Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế.

Phần I - GIÁO-TÔNG CHƯỞNG-QUẢN CỬU TRÙNG-ĐÀI
Trong cửa Đạo ngày nay thì ngôi-vị:
- “Giáo-Tông Đạo Cao-Đài do Đức Lý cầm quyền gìn-giữ Thánh-chất dung-hòa nửa Thánh nửa phàm.
- “Còn tạo ngôi-vị tại thế là Thượng-Trung-Nhựt đó. Ấy vậy, Thượng-Trung-Nhựt tạo ngôi-vị Giáo-Tông cho Đạo Cao-Đài như ông Thánh Pière tạo ngôi Thánh-Hoàng cho Phapha tại Rome vậy".

Đạo có GIÁO và TÔNG.
Giáo là những phương-tiện mượn để biểu thị một cách gián-tiếp.
Tông là chơn-lý nội tại.
Giáo là hình tượng kinh sách, chữ nghĩa, lời nói. Tông là tâm, là hình.

A - Giáo-Tông hữu-hình:
Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt
1 - Duyên khởi
Những ngày tiền khai Đại-Đạo (ngày 5 tháng 12 Ất Sửu dl 28-1-1926). Đức Lê-Văn-Trung được Đấng Thượng-Đế tá-danh là AĂÂ ban cho nhiều bài thi trong thời-kỳ còn xây bàn để xướng họa thi văn do ba ông: Cư, Tắc, Sang, tiếp điển. Sau quí Ngài đắc phong là Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh trong cơ-quan Hiệp-Thiên-Đài của nền Đại-Đạo.

Riêng Đức Lê-Văn-Trung lần-lượt được Thiên-phong vào phẩm Thượng Đầu-Sư, Thánh danh là Thượng-Trung-Nhựt (cùng với hai vị Đầu-Sư nữa là Thái-Nương-Tinh và Ngọc-Lịch Nguyệt)

Sau đó Ngài được nhận lãnh phẩm Quyền Giáo-Tông nữa, tức là đứng đầu cơ-quan Cửu-Trùng-Đài, là một trong hai cơ-quan hữu-hình, để giáo-hóa nhơn-sanh.
2 - Thượng-Đế thâu-phục ông Cựu Thượng Nghị-viện Lê-Văn-Trung
“Vào khoảng tháng tư nhuần năm Ất-Sửu (Juin 1925) trong Chợ-Gạo (Chợ-Lớn) thường đêm có thiết đàn thỉnh Tiên. Một hôm, có ông Hội-đồng thành-phố tên Nguyễn-Hữu-Đắc gặp ông Lê-Văn-Trung đương đi dạo mát, ông Đắc bèn rủ ông Trung lên Chợ-Lớn hầu đàn.

Biết chỗ rồi, từ đây mỗi lần bên chợ Gạo có cầu cơ thì ông Trung đều đến. Lần lần ông nhiễm thâm mùi Đạo, một ngày một tỉnh-ngộ, phế lần gia-đình thế sự, rồi trường trai giữ giới mà chuyên việc tu-hành. Sau khi độ được ông Trung rồi, chư Tiên liền dạy bế đàn Chợ-gạo, làm cho chư Nhu ngẩn-ngơ không hiểu cớ chi.

Mãi đến ngày mùng 5 tháng chạp năm Ất-Sửu, ở Sài-Gòn Đức Thượng-Đế giáng cơ dạy hai ông Cư, Tắc đem cơ vô nhà ông Trung ở tại Chợ Lớn (Quai Testard) cho Ngài dạy việc. Hai ông này lấy làm bợ-ngợ vì thuở nay chưa hề quen biết ông Trung, nhưng lịnh trên đã dạy dưới phải tuân theo.

Hỏi thăm tìm đến nhà ông Trung, ông Cư thuật rõ đầu đuôi thì ông Trung lòng rất hoan nghinh, lật-đật sắm-sửa thiết đàn. Thượng-Đế giáng cơ dạy Đạo và khuyên việc tu-hành. Ngài đã phân rằng Ngài đã sai Lý-Bạch dìu-dắt ông Trung nơi đàn Chợ-Gạo đã lâu rồi. Ngài lại dạy:

“TRUNG, nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng sủa của con mà suy lấy”

Thầy cho thi:
Một Trời, một đất, một nhà riêng.
Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền,
Cầm mối Thiên-thơ lo cứu chúng.
Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên.
                                                     (AĂÂ)

3 - Quyền-hành của Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt
Xét kỹ ra mới thấy quyền-hành Giáo-Tông quá ư quan-trọng. Nhất là khi Thầy dạy làm bảy cái Ngai cho Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, việc thực hiện Thầy giao cho ông Kiệt, ngày 12 tháng 8 năm Bính-Dần, như sau:
“Kiệt, con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh-thất, Thầy giao cho con phải săn-sóc mướn thợ làm bảy cái Ngai:
- Một cái trọng hơn cho Giáo-Tông.
- Ba cái cho ba vị Chưởng-Pháp.
- Ba cái cho ba vị Đầu-Sư.

Nhất là cái Ngai của Giáo-Tông phải làm cho kỹ-lưỡng, chạm trổ Tứ linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng,
Còn của Chưởng-Pháp chạm hai con Phụng.
Của Đầu-Sư chạm hai con Lân, nghe à!” (TNI/44)
Khi Hộ-Pháp có hỏi Thầy về sự sắp đặt bảy cái ngai.

Thầy dạy:
“Toà-Thánh day mặt ngay hướng Tây, tức là chánh cung Đoài, ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là cung Càn, bên tay mặt Thầy là cung Khôn, đáng lẽ phải để bảy cái Ngai của phái Nam bên tay trái Thầy tức cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn-đạo cho đủ Ngũ-chi cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là cung Đoài cho đủ số.
“Ấy vậy, cái Ngai của Đầu-Sư Nữ-phái phải để vào bên cung Khôn, tức là bên tay mặt Thầy.

Hộ-Pháp hỏi cái Ngai ấy ra sao? Thì Thầy dạy:
“Giống y như cái Ngai của Quan-Âm Bồ Tát, nghĩa là một cái Cẩm-đôn để trong vườn Trước-tử trên Nam-Hải, dưới chơn đạp hai bông sen nở nhụy”.

Lại nữa Thầy còn dạy:
“Trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ, Thầy giáng thế chọn đến:
- Nhứt Phật
- Tam Tiên.
- Tam-thập-lục Thánh,
- Thất-thập-nhị hiền,
- Tam-thiên đồ-đệ.

“Các con coi đó mà hiểu rằng: Các con có sự mà thiên-hạ từ tạo thế đến chừ, chưa hề có chăng”?
Giáo-Tông là người đứng đầu của những Chức-sắc vào hàng Thánh-thể Đức Chí-Tôn bên Cửu-Trùng-Đài: vào hàng Tiên-vị và Thánh-vị:

Các hàng phẩm từ Chưởng-Pháp đến Giáo-Hữu đều có đủ ba phái: Thái-Thanh, Thượng Thanh, Ngọc-Thanh, chia đều các con số trên, không được tăng thêm hay là giảm bớt. Con số này tính cho Chức-sắc Nam-phái mà thôi, còn Nữ-phái thì không có hạn định, nghĩa là con số bao nhiêu cũng được. Đó là những Chức-sắc vào hàng Thánh-thể của Chí-Tôn. Ông Mỹ-Ngọc tức Bảo-Văn-Pháp-Quân có lời thỉnh-giáo:
- Bạch Thầy về bảy cái ngai Nhơn-đạo, Chưởng-Pháp và Đầu-Sư ngồi đặng chăng?
- Thầy cười…Bảy ngai ấy, Thầy lập ra là để cho mỗi Chức-sắc lớn biết ngôi-vị của mình nơi Bửu-điện. Kế theo Thầy, Tam-Trấn cùng chư Tiên, Thánh, nhập về Tam-Kỳ Phổ-Độ mà thôi. Lúc hành lễ, nếu chúng nó ngồi đối diện với các Môn-đệ khác của Thầy mà khứng chịu sự thành kỉnh của nhơn-sanh đối với các phẩm-vị lớn cao kia thì mất vẻ thành-kính của chúng nó.

Chức-sắc đặng ngồi ngai riêng của mỗi đứa là lúc nào có Hội Tòa Tam-giáo phân-xử các đạo-hữu của chúng nó mà thôi.”

Đối với nền Đại-Đạo đã thể hiện rõ lý âm dương nên lúc nào cũng có hai phần vô-vi và hữu-hình tương-đắc cùng nhau, như:
- Đức Lý-Thái-Bạch cầm quyền Giáo-Tông vô-vi “gìn-giữ Thánh-chất dung-hòa nửa Thánh nửa phàm”.
- Còn tạo ngôi vị tại thế là Thượng-Trung-Nhựt đó. Người có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt con cái của Thầy trong đường Đạo và đường đời.

Thuở Đức Quyền Giáo-Tông còn sinh tiền Ngài có thuyết về phương-diện Chánh-Thể Đạo, có nói rõ quyền-hạn của Ngài rằng:
“Tệ-huynh có thọ lãnh chỉ rõ phương-diện chánh-thể của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ của Thầy trong cuối Hạ-nguơn chuyển thế đây. Xin chư Hiền hữu lưỡng phái ráng nhớ và lo phận-sự, đừng sai luật Đạo mà bị tội và mình tuân trọn luật Đạo của Thầy là món binh-khí diệt tà-quyền giả mị đó.

“Tệ-huynh xin nhắc lời tuyên-ngôn của Đại-Từ-Phụ nói buổi ban sơ. Thầy có nói: Thầy lập Đạo kỳ này là lập một cái trường công-quả, nếu các con đi ngoài trường công-quả ấy thì không trông mong gì về cùng Thầy đặng.

“Trường công-quả của Thầy có đôi bên:
- Một bên vô-hình là các Đấng Thiêng-Liêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần) cùng lập công-quả trong buổi chuyển thế này, các Đấng Thiêng-Liêng thường theo một bên chúng ta đặng ám-trợ chúng ta về phần vô-vi.

- Các việc hữu-hình tại thế là các việc phải có thi-hành như chúng ta giờ đây mới làm đặng, thì về phần chúng ta phải lo làm rồi có các Đấng Thiêng-Liêng ám-trợ.

“Thí-dụ như đi độ rỗi nhơn-sanh phải nói Đạo cho người nghe, như phải lập phương để giúp thế đang nguy-nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc-học, nhà thương, nhà dưỡng-lão cùng các nghề-nghiệp cho đạo-hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần đặng che thân ấm cật... thì chúng ta phải lo hết, rồi các Đấng Thiêng-Liêng ám-trợ cho thành-tựu.

“Nếu chúng ta làm biếng không làm công quả chi cho Đạo bên hữu-hình thì các Đấng Thiêng-Liêng theo mình không lập công-quả được thì tội trọng về phần mình chịu lấy.

“Từ hồi tạo thiên lập địa tới ngày nay, trong mỗi thời-kỳ khai Đạo không có thời-kỳ nào mà chính mình Thầy là chủ-tể Càn-Khôn Thế-Giới xuống mà lập ra, không có một Tôn-giáo nào đặng một vị Đại-Tiên là Đức Lý-Thái-Bạch lãnh làm Giáo-Tông như ngày nay.

“Tệ-huynh đây là lãnh về phần xác thay thế cho Ngài đặng lo làm các việc hữu-hình tại thế cho Ngài, rồi ở trong có Người ám-trợ.

“Tệ-huynh xin chỉ rõ quyền-hành lớn-lao của Đức Lý Đại-Tiên Thái-Bạch Kim-Tinh cho mấy em rõ:

B - Giáo-Tông vô-vi: Đức Lý Đại-Tiên
Ngài giáng cơ ban cho:
THI
Ánh Thái-cực biến sanh Thái-Bạch,
Hiện Kim-Tinh trọng trách Linh-Tiêu.
Quyền-năng vâng thuở Thiên-triều,
Càn-Khôn Thế-Giới dắt-dìu Tinh-quân.

Tinh-quân thọ sắc thuở Phong-thần,
Cho đến Đường-triều mới biến thân.
Thái-Bạch Kim-Tinh đương trị thế,
Trường-Canh Trích-Tử đến thăm trần.
Động-Đình thơ rượu đong muôn đấu,
Bồng-Đảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc-Hư nay xuống thế,
Tam-kỳ độ rỗi các nguyên-nhân.
                                               Đại-Tiên Lý-Thái-Bạch
Đức Lý, Ngài dạy rằng:
“Hễ Đạo trọng tức nhiên chư Hiền-hữu trọng, vậy thì chư Hiền-hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời.
“Từ đây Lão hằng gìn-giữ cho chư Hiền hữu hơn nữa. Nếu thoảng ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân-minh là cố ý muốn giá-trị chư Hiền-hữu thêm cao-trọng hơn nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền-hà nghe!”

Đức Hộ-Pháp có giải-nghĩa mấy câu thơ trên, Người nói như sau:
“Trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển có bốn câu thi của Ngài rất ngộ-nghĩnh:
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn,
Hạnh phùng Thiên-mạng Đạo khai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử?
Tử giả hà tồn chủ “Tịch Hương”

Cửu tử kim triêu đắc phục huờn là cảnh trần Ta chết đã lâu mà hôm nay Ta được phục sanh lại trong Thánh-thể của Đức Chí-Tôn.

Hạnh phùng Thiên-mạng Đạo khai nguơn là còn hạnh-phúc đặng Thiên-mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến? Bần-Đạo đã thuyết: Cuối hạ-nguơn Tam chuyển khởi Thượng-nguơn Tứ chuyển, Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ. Bần-Đạo dám chắc rằng Đấng nào khác hơn Ngài thì không thi-hành được. Ngài đến đặng mở Thượng-nguơn Tứ chuyển.

Thế trung kỵ tử hà tri tử? Thế-gian sợ chết mà không biết cái chết là gì! Chính Ngài hỏi rồi nói:

Tử giả hà tồn chủ tịch Huơng: Tịch Hương là tịch của Nữ-phái. Nữ-phái là nguồn sống của nhơn-loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ-phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế-gian này chi?

Bây giờ nói đến quyền-hành của Ngài, chính Ngài cầm bút viết bài thơ trên cũng được Đức Hộ-Pháp thuyết giải rành:
Ánh Thái-cực biến sanh Thái-Bạch là buổi Thái-cực vừa nổ hiện ra ánh-sáng Thái-cực chính là Ngài, duy Đức Chí-Tôn cầm pháp; xin cả thảy nhớ nghe! Khi Đức Chí-Tôn cầm pháp hiện ra hai lằn Hạo-nhiên-khí đụng lại với nhau nổ, tức nhiên trái khối lửa đó tạo càn-khôn vũ-trụ, ánh-sáng Thái-cực đó là Ngài.

Hiện Kim-Tinh trọng-trách Linh-Tiêu là các cung đẩu trên mặt địa-cầu này đều hưởng ánh-sáng ấy, mà chính ánh-sáng duy chủ và điều khiển là Ngài.
Quyền-năng vâng thuở Thiên-triều là quyền-năng vâng lịnh của Thiên-điều.
Càn-Khôn Thế-Giới dắt-dìu Tinh-quân là các cung đẩu trong Càn-Khôn Thế-Giới này, có Ngài duy chủ hết thảy.

Giải bài thơ kế tiếp:
Tinh-quân thọ sắc thuở phong-thần là Ngài đoạt ngôi vị cùng quyền-hành của Ngài có sắc phong thiệt hiện hồi đời Phong-Thần.
Cho đến Đường-triều mới biến thân là đến đời Đường Ngài mới biến thân.
Thái-Bạch Kim-Tinh đương trị thế là vì nguyên-linh ấy cầm quyền trị thế.
Trường-Canh Trích-Tử đến thăm trần
Động-đình thi rượu đong muôn đấu là nơi Động-đình, hỏi đến Ngài thì thiên-hạ đều biết danh Ngài.
Bồng-Đảo câu Tiên nắm một cần là nơi Bồng-đảo Ngài cầm Thiên-thai cho Khổng-giáo.
Vâng lịnh Ngọc-Hư nay xuống thế là buổi Đại-Đạo Tam-kỳ khai mở đây, Ngài thọ lịnh Ngọc-Hư đến trị Đạo.
Tam-kỳ độ-rỗi các nguyên-nhân là chín mươi hai ức nguyên-nhân thì Tam-kỳ này Ngài độ-rỗi.”
Quyền-hành của Ngài như thế, chính Thầy cũng đến nhắc-nhở:
“CƯ, con phải nhớ lời Thầy dặn rằng: Phải sợ Thái-Bạch cho lắm, khi Thầy giao quyền thưởng phạt cho Người. Chỉ sợ cho ba đứa con mà xin bớt tính nghiêm-khắc; song Thần, Thánh, Tiên, Phật kia mà Người còn chẳng vị, huống lựa là các con.”

Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt xác nhận rằng:
“Cái năng-lực của Đạo hôm nay được như thế là nhờ Đức Lý Đại-Tiên cầm quyền thiêng-liêng vô đối, nhờ người Anh Cả của ta là Đức Lý Giáo-Tông điều-khiển quyền-năng vô-hình của Ngài.”

* Đức Hộ-Pháp nói về Đức Lý Giáo-Tông
“Bần-Đạo quên nói cái tiên-tri của Ngài rất ngộ-nghĩnh, thời buổi ấy Ngài đến dạy, biểu Bần-Đạo nghe lời, nếu không nghe lời ngày kia cái tai hại ấy tiêu-diệt hay đạt Đạo thì Hiền-hữu gánh trách-nhiệm ấy nặng-nề trước. Bần-Đạo buổi nọ không hiểu gì cả, Bần-Đạo nói toàn Thánh-thể Đức Chí-Tôn cả triệu con người, cớ sao một mình Bần-Đạo gánh vác? Nói tiên-tri ấy là thời giờ Ngài giao quyền GIÁO-TÔNG này cho Bần-Đạo, Chưởng-quản luôn Cửu-Trùng-Đài, nếu không nghe thì Bần-Đạo gánh hết.

Nếu không nghe lời Ngài buổi nọ, thì gánh này giao lại cho ai? Nếu giờ phút này có muốn bỏ chớ không thể sống với Đạo. Bần-Đạo xin nói, thế-gian này cầm quyền cơ-quan Chánh-trị-đạo hay định-luật trước, dưới tám Đạo-Nghị-định lập nên Chánh-trị của nước như Ngài, Bần-Đạo chưa ngó thấy. Đức Lý ra tám Đạo-nghị-định mà Ngài lập trọn vẹn hết, chúng ta cũng nên tôn-sùng đáng kính, đáng sợ quá đỗi. Đấng cứu Đạo như thế Bần-Đạo đáng khen, kính Người cho đến tận thế.
Nếu nền Đạo Cao-Đài còn mãi mãi thì công-nghiệp của Đức Lý Giáo-Tông còn tồn-tại trong tâm-trí nhơn-sanh luôn luôn” (18-8 Kỷ-Sửu)

C - Luận về quyền-hành của Giáo-Tông

1- Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan quản-trị càn-khôn thế-giới
Những lời thuyết giảng trên đây về ngôi vị Giáo-Tông nếu vẽ bằng hình sẽ thấy rõ:
Vòng tròn tượng-trưng cho cơ-quan Cửu-Trùng-Đài.
Tâm 0 là ngôi-vị Giáo-Tông (giữa vòng tròn).
Thầy dạy: “Giáo-Tông là Anh Cả các con”.
Thầy mở Đạo kỳ này chọn; nhứt Phật, Tam Tiên đó là hàng Tiên-vị.
Tiên-vị là 1 Giáo-Tông, 3 Chưởng-Pháp, 3 Đầu-Sư.
Thế nên dưới quyền Giáo-Tông có hai con số 3: tượng tam Âm tam Dương.

Tam Âm Tam Dương là gì?

Như trên đã nói Tam Âm Tam Dương sẽ vẽ nên hình sao sáu cánh, tức là do hai hình tam-giác đều gát chồng lên nhau, đặt nghịch chiều mà thành ngôi sao sáu cánh. Họp bởi:
- 3 ngôi Chưởng-Pháp (là người của Hiệp-Thiên-Đài, tượng dương)
- 3 ngôi Đầu-Sư (Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, tượng trưng cơ âm)
Tức là trong âm có dương; âm dương tương hiệp, tương đắc, tương-hòa.
Mỗi phẩm có ba phái, trừ ngôi Giáo-Tông chỉ có 1 và Ngài mặc sắc phục trắng.
(Hình ảnh trên đây Ngài mặc phẩm-phục xanh là còn ở ngôi vị Thượng Đầu-Sư, là phẩm được thọ phong trước. Sau đó Ngài mới được ân-phong thêm một phẩm mới nữa là Quyền Giáo-Tông tức là Giáo-Tông chưa vào chánh vị. Giáo-Tông mặc phẩm-phục màu trắng.)

* Trên hình vẽ làm biểu-tượng:
Chữ A, tượng ngôi Thượng Chưởng-Pháp.
Chữ B, tượng ngôi Thái Chưởng-Pháp.
Chữ C, tượng ngôi Ngọc Chưởng-Pháp

Như vậy, ngôi Chưởng-Pháp thuộc về Đạo, nên đỉnh tam-giác quay lên trên.
Ba ngôi Đầu-Sư là Đời trong Đạo nên đỉnh tam-giác quay xuống phía dưới, do đó:
A’ là tượng cho ngôi Thượng Đầu-Sư.
B’ là tượng cho ngôi Thái Đầu-Sư.
C’ là tượng cho ngôi Ngọc Đầu-Sư.

Ba phái: Thái, Thượng, Ngọc tức là đại-diện cho Tam-giáo Phật, Tiên, Thánh.
- Chưởng-Pháp thế quyền cho Hộ-Pháp nơi Cửu-Trùng-Đài thuộc về Đạo.
- Đầu-Sư đặng quyền thay mặt cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp trước mặt nhơn-sanh thuộc về Đời trong Đạo.
Hai hình tam-giác này là tam-giác đều nội tiếp trong vòng tròn, gát chồng lên nhau, tượng trưng lý Âm Dương, Đạo Đời tương-hiệp.

* Tại sao lại đặt chữ Thượng trên đỉnh cao của tam-giác?
Bởi Đạo lúc nào cũng lấy trung, chánh làm điểm yếu-trọng, mà ba phái theo thứ tự thì (Thái chỉ về Phật, bên trái; Thượng chỉ về Tiên ở giữa; Ngọc chỉ về Thánh, bên phải).

Mỗi hình tam-giác được thành hình là do 1 sanh ba, 3 sanh vạn-vật, thuộc về cơ-quan chưởng-quản; do đó mà ngôi Giáo-Tông ở vào tâm của vòng tròn, mà vòng tròn chỉ càn-khôn vũ-trụ, cho nên Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan quản-trị càn-khôn vũ-trụ thuộc về trời là vậy.

Mỗi phẩm có 3 ngôi mà “pháp-luật Tam-giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một.” Vốn cũng đồng quyền, đồng đẳng nhau nên “Một thành ba, mà ba cũng như một.”
Số 3 là hình ảnh của tam-giác đều có ba cạnh bằng nhau và ba góc bằng nhau, bằng 60°. Tam-giác đều nội tiếp trong vòng tròn và đồng tâm với vòng tròn.

Ngôi Giáo-Tông ở vào vị-trí tâm của vòng tròn. Thầy qui-định:
“Giáo-Tông là Anh Cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.

“Nó đặng phép thông-công cùng Tam-Thập-Lục-Thiên, Tam-Thiên-Thế-Giái, Lục-Thập-Thất-Địa-Cầu và Thập-Điện-Diêm-Cung đặng cầu rỗi cho các con.” (PCT)

Do vậy mà hai tam-giác gát chồng lên nhau tạo thành ngôi sao sáu cánh là lý tam âm, tam dương điều-hòa vũ-trụ, thể dương tượng Trời; nên hình sao sáu cánh trên nội-tiếp trong vòng tròn ứng với “Một Trời” trong câu thơ mà Đức Chí-Tôn cho buổi ban đầu: “Một trời, một đất, một nhà riêng." (xem lại bài thơ trên)

Vậy Giáo-Tông là làm chủ con số 3, tức nhiên đứng đầu tam Tiên, là gồm 3 phẩm Chưởng-Pháp và 3 phẩm Đầu-Sư đó vậy.
Như trên, hình tam-giác có ba cạnh biểu tượng cơ dương, mà chính nó cũng có âm dương của nó nữa, vì thế nên mới có tam âm, tam dương.
Luật vũ-trụ khi nói đến Âm tất có Dương, hay nói khác đi ngoài ra có tứ âm tứ dương nữa.

Tứ âm tứ dương là gì?
Âm dương không lìa nhau, thế nên hình vuông là biểu tượng cơ Âm, cũng có tứ âm, tứ dương. Hai hình này nội tiếp trong vòng tròn tạo thành một hình có tám cạnh, Dịch gọi đó là Bát-quái.
Ngôi Giáo-Tông vẫn ngự trị ở giữa hình vuông là ý chỉ “Một đất” trong câu thơ trước đây “Một trời, một đất, một nhà riêng”.

* Tại sao lại có con số 4 này?
Bởi Pháp-Chánh-Truyền định phần Tiên-vị cho Cửu-Trùng-Đài là ngoài ngôi Giáo-Tông ra, còn lại thì mỗi phẩm có ba vị, là:
3 Chưởng-Pháp, 3 Đầu-Sư. Nhưng thực tế mỗi phẩm lại có 4 vị (tức là 4 Chưởng-Pháp, 4 Đầu-Sư) cho nên số 4 thuộc âm phải có mặt.

* Hiện tại đã có 4 Chưởng-Pháp:
- Thái Chưởng-Pháp Nguyễn-văn-Tường (1864-1939). Đó là Hòa-Thượng Như Nhãn, về sau bỏ Đạo.
- Thượng Chưởng-Pháp Nguyễn-văn-Tương (1897-1927).

- Ngọc Chưởng-Pháp có hai vị:
1 - Trần-văn-Thụ (1857-1927)
2 - Trần-Đạo-Quang (1870-1946)

* 4 Đầu-Sư:
- Thái Đầu-Sư có hai vị:
1 - Thái-Minh-Tinh (mất năm 1927) bị Đức Lý cách chức.
2 - Thái-Nương-Tinh (1870-1929)

- Thượng Đầu-Sư
3 - Thượng-Trung-Nhựt (1876-1934) thế danh Lê-Văn-Trung.

- Ngọc Đầu-Sư
4 - Ngọc-Lịch-Nguyệt (1890-1947) Thế danh Lê-Văn-Lịch.

Xem thế, con số 3 ở trên là con số thiên định, nhưng khi hành sự thì đây là sự biến dịch bởi con người, dù biến đổi thế nào cũng trong vòng luật định của Chí-Tôn mà thôi. Vì vậy hình vuông ứng với cơ âm.

Điều này cũng cho ta thấy rằng:
Trong hình ngôi sao, thực-tế là sáu cánh, nhưng có tâm ở giữa, cộng chung là 7 điểm.

Đồ hình có hai hình vuông họp lại tuy có 8 mà có 1 tâm, thành ra 9 điểm. Đây cũng trở lại số 7, số 9 tức là nằm trong lý “thất phản cửu hoàn” vậy.

Bởi Pháp-Chánh-Truyền dạy: “Giáo-Tông thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.”

Do vậy mà chữ “phần xác và phần hồn” đã ứng với hai hình ảnh âm dương trên đây. Đó là chính do quyền-hành của Giáo-Tông phải đảm trách “một nhà riêng” đó! Ứng với câu thơ trên.

Bát-quái thành hình.
Bây giờ hai hình tam-giác và hai hình vuông phối-hợp vào nhau sẽ thành hình 3, là một hình toàn diện, đó là Bát-quái Đồ-thiên, hay Trung-Thiên-Đồ, mà ngày nay chính Đức Chí-Tôn xử-dụng trong Cao-Đài Đại-Đạo, mà chỉ riêng Đạo Cao-Đài mới dùng Bát-quái này nên còn gọi là Bát-quái Cao-Đài. Người nắm Bát-quái này vào tay chính là Giáo-Tông vậy. Hình 3 này cũng ứng vào chữ “Một nhà riêng” trong câu thơ “Một Trời, Một đất, Một nhà riêng.”

Do vậy mà câu thơ trên đã nói lên đầy-đủ cho một Bát-quái thành hình.

Khi đã có một Bát-quái toàn diện như vậy, chúng ta có quyền đặt các quẻ vào các góc cạnh tương ứng ta sẽ được hình trên đây là do lời dạy của Thầy khi Thánh-ý Chí-Tôn dạy sắp 7 cái ngai:

Thầy dạy:
“Tòa-Thánh day mặt ngay hướng Tây là chánh cung Đoài ấy là Cung Đạo. Bên mặt Thầy là cung Khôn, bên trái Thầy là cung Càn. Đáng lẽ phải để bảy cái ngai của phái Nam bên trái Thầy là cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn-đạo cho đủ Ngũ-chi nên Thầy buộc phải để Cung Đạo là cung Đoài cho đủ số".

2 - Bát-quái Đồ-thiên hay Bát-quái Cao-Đài

Nhìn vào Bát-quái trên đây, tức nhiên các cung được xác-định qua trục đứng là Đông Tây, trục nằm là hướng Nam Bắc là hướng của Đền-Thánh Tây-Ninh hiện giờ:
Đoài chánh Tây ( hướng của Cung Đạo, ở chính giữa và là mặt tiền của Đền-Thánh)
Càn Tây Nam (từ trong Đền nhìn ra là bên tay trái của Thầy).
Khôn Tây Bắc (từ trong Đền nhìn ra là bên tay phải của Thầy)

Khi ba cung đã được định hướng rồi thì những cung còn lại của Bát-quái Đồ-thiên cứ theo thứ-tự của Bát-quái Hậu-thiên mà xếp các quẻ còn lại vào vị-trí.

* Thứ-tự Bát-quái Hậu-thiên là:
Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, vận hành theo chiều thuận với kim đồng-hồ.
Chỉ riêng Bát-quái Đồ-thiên đi nghịch với chiều kim đồng-hồ, gọi là nghịch chuyển.

Về số, lấy theo số của Bát-quái Hậu-thiên:
Nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly. Như vậy phương hướng của Bát-quái Đồ-thiên được định-vị là theo hướng Đền-Thánh hiện nay theo Thánh-ý của Thầy, 4 phương chánh là:
Đoài Chánh Tây
Chấn Chánh Đông
Ly Chánh Bắc
Khảm Chánh Nam

Phương hướng của Bát-quái Đồ-thiên đặt nghịch chuyển với Bát-quái Hậu-thiên và lật ngược lại, cho nên bấy giờ khác hẳn với Bát-quái Hậu-thiên là Ly ở Bắc, Khảm ở Nam.

* Tại sao Bát-quái Cao-Đài phải đặt nghịch chuyển với Bát-quái Hậu-thiên?
- Thứ nhứt là đường Đạo phải đi nghịch lại như vậy mới gọi là trở về nguồn, Thầy cũng dạy “Tu-hành vẫn trái với thế tục, mà trái với thế tục mới đặng gần ánh thiêng-liêng”.

- Thứ hai là chính Thầy đã “chiết Khảm điền Ly phản vị Càn” như trên đây chúng ta có bàn đến, vì trước đây Bát-quái Hậu-thiên là còn ở thời-kỳ bó-buộc nên Ly Nam, Khảm Bắc, buộc người tu phải gắng công-phu luyện tập riêng mỗi cá-nhân. Nay là thế-giới đại-đồng, lại nhằm cơ Đại-Ân-Xá của Chí-Tôn nên có sự rộng-rãi hơn.
Thầy đến chuyển đổi lại là: Khảm ở Nam, Ly ở Bắc.

Do đó vị-trí của các cung Bát-quái Đồ-thiên nằm vào các hướng sau đây:
Càn là hướng khởi ở Tây Nam (thay vì Tây Bắc của Bát-quái Hậu-thiên).
Càn Tây Nam, Tốn Đông Bắc
Khảm chánh Nam, Ly chánh Bắc
Cấn Đông Nam, Khôn Tây Bắc.
Chấn chánh Đông, Đoài chánh Tây
  Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét