Dịch Lý Cao Đài . Q 1 - 1 / 8 (Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy)


Dịch Lý Cao Đài
Phần Mở Đầu Dịch Lý Cao Đài đã được minh định qua hai yếu-tố quan trọng:
Kinh Dịch là bí-pháp cổ truyền của ĐẠO CAO-ĐÀI (Bài của Đức Hộ-Pháp)
Lý Dịch trong Đạo Cao Đài (Lời giảng của Đức Chí-Tôn)
Riêng chúng tôi nhận thấy được Đạo Cao-Đài là một kho DỊCH-LÝ vô cùng tận, xin được minh-giải bằng những môn khoa-học như hình học phẳng, toán học, vật-lý-học…
để khơi bày lý âm dương của Đạo học.Thế nào là Tam-tài, Tứ-tượng, Bát-quái, Ngũ-hành cùng sự biến-hóa của Dịch tác-dụng và chi-phối trên các phương-diện của lý Đạo trong các hình-thức: nghi lễ, văn-thi, cả đến Tân-Luật, Pháp-Chánh-Truyền. Tóm lại Đạo là Dịch hay Dịch là Đạo.

Để khẳng-định rằng Đạo Cao-Đài xử dụng đến bốn Bát-quái, tức nhiên ngoài hai Bát-quái của các tiền Thánh là Phục-Hi, Văn-Vương ra còn có:

1 - Tiên-thiên Bát-quái là bí-pháp của Thế-đạo
2 - Hậu-thiên Bát-quái là thể-pháp của Thế-đạo
(Thế Đạo)

3  - Bát-quái Đồ-thiên là thể-pháp của Thiên-đạo
4 - Bát-quái Hư-vô là bí-pháp của Thiên-đạo
(Thiên-đạo)

Xin được trình-bày tất cả những suy-nghĩ ra đây để được những bậc cao-minh chỉ giáo thêm cho những tâm-hồn chỉ biết HIẾN-DÂNG và PHỤNG-SỰ cho đạo-nghiệp của Đức Chí-Tôn và luôn trau-giồi học hỏi trong tinh-thần cầu tiến, làm sáng danh Đạo Trời. Những sự dẫn giải về Lý Đạo trong tập sách này là cốt tuỷ của Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển, Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp

Trân-trọng biết ơn những ý-kiến xây-dựng để được làm sáng danh nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Toà-Thánh Tây-Ninh. Một hoài-bão đã từng ấp-ủ 30 năm nay mới được thành hình.
Xin cám-ơn những tấm lòng vàng đã giúp hay cho chúng tôi trong bước khó-khăn ban đầu.
Tây-Thánh, mùa nở hoa tình-thương Đại-Đồng 1981-2006
Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy

1 - ĐỨC HỘ-PHÁP nói:
Kinh Dịch là bí-pháp cổ truyền của ĐẠO CAO-ĐÀI

“Ta thường nói: Đông Tây không bao giờ gặp nhau. Câu đó không thể áp dụng được trong giới triết học tuy có đến hàng trăm đường lối khác nhau, nhưng chung qui cũng gồm về một mối.

Lấy cái thực học Âu Mỹ để so sánh với thực-học Á-đông cân nhắc nhau thì phần nhiều cái học Á-đông bị lu mờ chỉ vì cách trình bày, luận-lý không rõ ràng, còn về phần tinh-thần thì bao trùm được khắp võ-trụ như: Thiên-văn, Địa-lý, Dịch-lý mà ông cha ta vẫn cho là những môn học khó-khăn, huyền-diệu. Vì những lẽ trên, ta thấy sự khó-khăn, khúc-chiết mà xếp đặt cái học-thuyết âý vào hàng Tâm-truyền hay Bí-truyền.

Nhưng nếu ta lấy cái học-thuyết hiện tại của Âu Mỹ hoà với DỊCH-LÝ để giải cho rõ, ta cảm thấy cái lý học Á-đông đã đến chỗ tuyệt-đối huy-hoàng.

Hiện tại biết bao nhà Bác-học Âu-Mỹ tận tụy tìm kíếm học-thuyết về Dịch-lý của Á-đông như:
• Bên Y-PHA-NHO ông HARILY có chân trong Hàn-Lâm-Viện.
• Bên ĐỨC có ông RICHARD WILIUM (Uy lê-hiền) sang Trung-Quốc 20 năm học Dịch về làm thành sách, được Vua Guillaume II ban cho là Bác học và còn nhiều nhà Hiền-triết Âu Mỹ khác đã khảo-cứu KINH DỊCH.

Phương Đông từ khi được làn sóng văn minh Âu-Mỹ tràn lan khắp nơi thì triết-học cổ xưa như mai một. Ngoài những quyển “CHU DỊCH ĐẠI TOÀN” hay “DỊCH KINH TẬP CHÚ” tối cổ xưa kia nhai đi nhai lại những chú giải của CHU-HI và TRÌNH-DI.. ta còn thấy mới đây bên NHỰT có ông KOBAYACHI ICHIRO (Tiểu-lâm Nhất lang) có làm một pho KINH DỊCH chú-giải đề là “DỊCH KINH ĐẠI GIẢNG TOẠ” bằng chữ Nhựt. Lại còn nhiều học-gia Nhật-bản phiên-dịch các sách vở TRUNG-HOA như TÔN-TỬ, QUẢN-TỬ, NHO-GIÁO và đặt vào hàng giáo-khoa.

Bần-Đạo cảm thấy một làn sóng mới trong thời đại nguyên-tử này có thể giúp chúng ta không những về khoa-học mà còn về lý-học nữa.
- Người Âu-tây còn quí DICH-HỌC là như vậy.
- Người Nhựt cũng biết quí DỊCH-LÝ như vậy.

Chúng ta dòng dõi con Rồng cháu Tiên trên một dãy đất ngàn năm văn-vật đã hấp thụ được hai cái văn-hóa Đông Tây không lẽ lại để cho cái triết-học Đông-phương một ngày càng tàn-tạ, thật là “túi mình có ngọc báu mà không biết lại ngửa tay đi xin người từng hột gạo.”

May sao, cũng là tiền duyên Bần-Đạo lại gặp tác-giả DỊCH KINH TÂN-KHẢO trong lúc nước biến gia vong, sự tồn vong của nước VIỆT NAM đang như trứng để đầu giàn. Bần-Đạo cảm thấy Kinh này là cả một triết-học Á-đông độc nhứt vô nhị, mà chính là những bí-pháp cổ-truyền của Đạo CAO-ĐÀI, một Đạo giáo VIỆT-NAM hoàn-toàn nảy sanh ở cái triết-lý hoàn-toàn Á-đông mà KINH này gồm hết những lý thuyết cao siêu mà ông NGUYỄN-MẠNH-BẢO đã nêu cao tinh-thần ĐẠI-ĐẠO.

Trong lúc nhân tình xáo trộn, đạo-lý suy đồi ai ai cũng nhìn về danh với lợi, một chân trời xa thẵm u ám. Sau một cơn ác-mộng ghê hồn, Bần-Đạo thấy giờ đã điểm phải phổ-thông nền ĐẠI-ĐẠO, gieo rắc cho khắp cả nhân-loại một nhân-chính êm-dịu để tồn-tại nhân-sinh.

Với một tấm lòng vàng quí báu ông NGUYỄN MẠNH BẢO đã khảo-cứu KINH này trong 20 năm công-phu mới xuất-bản ra đời để cùng đồng-bào và các đạo-hữu được một phần nào thấu-triệt được ĐẠI ĐẠO, thì “Đại-Đạo tri hành thiên hạ vi công” không còn lâu vậy.

Vì lẽ ấy Bần-Đạo giới-thiệu với tất cả đồng bào Việt-Nam cũng như tất cả dân-tộc hiểu biết và trân trọng hòa-bình quyển KINH này. Trong đó có tiềm tàng một cái gì thiêng-liêng của nhân-loại, của vũ-trụ. Bần-Đạo mong rằng KINH này sẽ phổ-biến trong khắp thế-giới của loài người.

Tiết lập xuân, tháng chạp năm Giáp Ngọ, tại Trí-Huệ-Cung Toà-Thánh Tây-Ninh.
HỘ-PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài: Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng-Đài
Kiêm THƯỢNG TÔN QUẢN THẾ.

2 - ĐỨC CHÍ-TÔN giảng
LÝ DỊCH TRONG ĐẠO CAO-ĐÀI
(Thánh-Ngôn Hiệp Tuyển II trang 62, Đức Chí-Tôn giáng dạy)

“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn-Khôn Thế-Giới thì Khí-Hư-Vô sanh có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-cực. Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi phân ra Tứ-tượng, Tứ-tượng biến Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn-Khôn Thế-Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà phân ra vạn-vật là: Vật-chất, thảo-mộc, côn-trùng, thú-cầm, gọi là chúng-sanh.

Các con đủ hiểu rằng:
Chi chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.

Cái sống của cả chúng sanh Thầy phân phát khắp Càn-Khôn Thế-Giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa.

Mỗi mạng sống đều hữu căn, hữu kiếp, dầu nguyên-sanh hay hóa-sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống đều chịu quả báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy.

Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy”.
Bởi thế nên Tôn-giáo Cao-Đài ngày nay đứng về hai phương-diện:
* Đạo có thể-pháp và bí-pháp của Đạo tức là Thiên-đạo.
* Đời có thể-pháp và bí-pháp của Đời tức là Thế-đạo.

Quan-trọng nhứt là bí-pháp, vì vậy nên khi Thầy giao cho ông Bính làm một trái Càn-Khôn, để làm biểu tượng tín-ngưỡng của Đạo Cao-Đài, Thầy có dạy rõ:
“Bính, Thầy giao cho con lo một trái Càn-Khôn; con hiểu nghĩa gì không? Cười!
“Một trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm ba thước, ba tấc, nghe con, lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu-nhiệm Tạo-hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời, cung Bắc-đẩu và tinh-tú vẽ lên Càn-Khôn ấy. Thầy kể Tam-Thập-Lục-Thiên, Tứ-Đại-Bộ-Châu ở không không trên không-khí; tức là không phải tinh-tú, còn lại Thất-Thập-Nhị-Địa và Tam-Thiên-Thế-Giới thì đều là Tinh tú. Tính lại ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ. Con giở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc-Đẩu con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc-Đẩu cho rõ-ràng. Trên vì sao Bắc-Đẩu vẽ con Mắt Thầy; hiểu chăng? Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai đúc trong một ngọn đèn cho nó thường sáng; ấy là lời cầu-nguyện rất quí-báu cho cả nhơn-loại Càn-Khôn Thế-Giới đó; nhưng mà làm chẳng kịp, thì con tùy tiện làm thế nào cho kịp kỳ Đại hội. Nghe à!
Còn chư Phật, chư Tiên, Thánh, Thần, đã lên cốt, thì để dài theo dưới, hiểu không con?” (TNI/45)
Đối với Trời đất thì bao-la, mà sự hiểu biết của người thì hữu hạn, do đó phải học, phải hỏi:
Đây là lời của Đức Hộ-Pháp cầu hỏi Thầy:
“Bần-Đạo xin nhắc lại ngày giờ khi mới khai đàn tại Cần-Thơ, có mấy vị Đồ Nho hầu đàn, xin bạch với Thầy như vầy:
“Bạch Thầy, xin Thầy từ-bi giải cho chúng con rõ hình-thức của càn-khôn vũ-trụ ra sao, mà các con thường nghe mấy vị Đồ Nho bàn cải với nhau, mỗi mỗi không in một lý. Người thì nói Trời lớn, người thì nói Phật lớn. Trong sách Tam-Tự kinh chú-giải thì Đức Thánh nói “Tam-Thập-Lục-Thiên” còn trong kinh Thầy thì nói “Thượng chưởng Tam-Thập-Lục-Thiên" nên phần nhiều bình luận phân phân bất nhứt. Các con không hiểu thế nào là đúng, xin Thầy từ-bi xá lỗi.”

Thầy giảng dạy:
“Các con có học rộng, nhưng cái rộng còn khuyết điểm muôn phần.
Nơi thế-giới hữu-hình hiện-tượng trước mặt mà còn chưa hiểu đặng, huống hồ gì thấu-đáo sự vô-hình. Vì huyền-diệu thiêng-liêng mà người không học Đạo dễ gì hiểu đặng. Những bậc Thánh trước Hiền xưa ra công tham-khảo, cùng đời mãn kiếp còn chưa vén nỗi cái màn bí-mật của Đấng Tạo-hoá đón ngăn, huống chi người thường-nhơn luận-bàn sao cho suốt lý.
“Kể từ khi Thầy sai Bàn-Cổ xuống thế mở mang điạ-cầu này, nhơn-loại thuở đó còn hình tượng thiêng-liêng, chưa biết mặc áo quần, còn ở nơi hang hố, chưa có nhà cửa, văn-tự.

“Từ đó về sau cách mấy muôn năm, đến đời Ngũ Đế, Phục-Hy, họ thường hết tâm theo “Quái điểu-tích” (tầm dấu chân chim, thú) chế ra Văn-tự để ghi nhớ. Từ đó về sau mới có lịch-sử. Nên lúc có văn-tự bất quá nghe truyền, nghe độ chừng rồi chép bướng, hỏi vậy lấy đâu làm bằng cớ? Ấy là nói sự tích ở thế-gian này mà còn chưa rõ, còn luận qua thế-giới khác như nhắm mắt mò kim nơi đáy biển hay bầy kiến tìm đường lên núi Tu-Di, thì đó là học thuyết của con người mài kiếm dưới bóng trăng, ếch nằm đáy giếng. Cũng có lắm người gọi mình là hay giỏi, dẫn người lạc bước sai đường; thân mình mù-quáng mà chưa hay, còn làm tài khôn dắt thêm kẻ tối đui thì làm sao khỏi lọt vào đám gai chông cùng sa hầm hố.

“Vậy trước khi chưa phân Trời đất, KHÍ-HƯ-VÔ bao-quát càn-khôn, sáng-soi đầy vũ-trụ. Đó là một cái Trung-Tâm-điểm tức là ĐẠO. Rồi Đạo ấy mới sanh ra Thái-cực. Hồng-mông sơ khởi, huyền huyền hạo hạo khối lại thành ngôi Thái-cực, rất đầm-ấm lưng-chừng trong đó toàn là một khối, đúng mấy muôn năm bùng nổ ra tiếng dường như thiên khuynh điạ khúc, thì đã có Thầy ngự trong ngôi THÁI-CỰC; rồi có một tầng ÂM và một tầng DƯƠNG gát chồng nhau thành hình chữ thập ló ra bốn cánh gọi là LƯỠNG-NGHI sanh ra TỨ TƯỢNG. Chữ thập mới dần dần quay lộn chạy lăn tròn như chong-chóng, lăn tủa ra muôn ngàn quả tinh-cầu thế-giới, chữ thập ấy dưới có bốn cánh bông kêu là TỨ ÂM, TỨ DƯƠNG tác thành Bát-quái là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Bát-quái mới biến-hóa vô cùng, phân định Ngũ-hành, càn-khôn muôn vật. Thái-cực sanh Lưỡng-nghi tức Tam-thiên-vị (ba ngôi Trời). Dưới ba ngôi ấy có Tam-Thập-Lục-Thiên (ba mươi ba từng trời) cộng với ba ngôi trên là ba mươi sáu từng trời, nên gọi là Tam-Thập-Lục-Thiên. Trong mỗi từng Thầy chia chơn-linh, có một vị Đại-La Thiên-Đế Chưởng-quản.

Chỗ Thầy ngự gọi là Bạch-Ngọc-Kinh, là kinh toàn ngọc trắng, rộng cao vòi-vọi, ngoài có Huỳnh-Kim Khuyết là cửa ngõ bằng vàng ròng cực kỳ mỹ-lệ.

Dưới ba mươi sáu từng Trời còn có một từng nữa là nhứt mạch đẳng tinh-vi gọi là cảnh Niết Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu-Thiên Khai-Hóa tức là chín phương Trời cộng với Niết-Bàn là mười, gọi là Thập phương Chư Phật. Gọi “chín phương Trời, mười phương Phật” là do đó.
Cõi Niết-Bàn là chư Phật ngự, Phật-Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan-Âm ngự nơi hướng Nam, mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng-hà sa-số Phật.

Còn Như-Lai là cảnh Phật chớ không phải danh Phật, nên trong kinh có câu “Bổn giác vị kim giác Như lai.” Bồ-Đề là chỗ Phật ngự, Phạm-môn là cửa Phật, Bĩ ngạn là đất Phật.

Huỳnh-Kim bố điạ là vàng ròng đầy đất. Còn chỗ Nam-Hải Ngạn thượng là Quan-Âm ngự, gần bờ biển nơi hướng Nam cảnh Phật, chớ không phải hướng Nam nơi cảnh phàm. Đó là còn ở Thượng tầng không-khí hay là VÔ-VI CHI-KHÍ.

Rồi kế đó là Đại Thiên thế-giái, kế là Thượng phương thế-giái là chỗ Đức Tây-Vương Mẫu ngự nơi Cung Diêu-Trì, gần đó có vườn Ngạn Uyển Bàn-Đào, Ngũ nhạc Bồng-lai Nhược-thủy.

Các Đấng Thiêng-Liêng Nam Nữ hằng-hà sa số lâu đài cung điện toàn bằng ngọc-ngà châu báu, hỗ-phách san-hô, Điện đài lãng phương trong cảnh Nhị châu chơn võ. Nơi linh-thiêng Tiêu-điện là chỗ Tiên nhóm hội, có Ngọc-Vệ Kim-nương, gia lê quả táo, toàn là Tiên-dược nhẹ-nhàng cũng như đơn kim để Hồ huỳnh-tương trường-sanh chi tửu, là rượu trường sanh dùng đặng sống không chết. Kế đó là Trung-phương Thế-giái cũng là nơi Cung điện của Thần-Tiên, Nhơn-Tiên, Quỉ-Tiên, các bậc quần Tiên.

Rồi tới Hạ-Tầng-Thế-giái, Tam-Thiên-Thế-Giái, Ba ngàn quả tinh-cầu phân làm Tứ-Đại-Bộ-Châu rồi nối theo Thất-Thập-Nhị-Điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68.

Từ hồi có địa-cầu này cho đến nay là mười hai muôn chín ngàn sáu trăm năm (129.600). Dưới các con, còn có bốn địa-cầu nữa. Còn U-Minh kêu bằng U-Minh-Giới chưa có loài người.

Thế-giới địa-cầu khác nhau là do không-khí nặng nhẹ khác nhau, tùy theo công-quả của mỗi tinh-cầu, cách nhau từ một cho đến mười muôn dặm, luôn luôn xây tròn giáp một vòng ba trăm sáu mươi ngày gọi là một năm.

Nơi địa-cầu cũng có sơn xuyên hà-hải như Thái-Bình-dương, Đại-Tây-dương, Bắc-hải, Hắc-hải, chỗ trắng, chỗ đen, chỗ xanh, chỗ đỏ; bề sâu có chỗ tới tám ngàn thước, có chỗ ba ngàn thước, có chỗ hai ngàn thước, không đều nhau.

Còn núi Tu-Di cao phỏng độ tám ngàn thước. Núi nhiều nên chỗ thấp, chỗ cao không đồng, phong-thủy mùa tiết nóng-nực không đồng, mùa nắng tại đây, chỗ khác lại mưa; xứ nóng-nực, xứ lạnh-lùng, ngày đêm trong cực-địa hai mươi bốn giờ, còn ở Bắc-Băng-dương sáu tháng tối, sáu tháng sáng, quanh năm nước đặc như giá, chỗ chua, chỗ mặn, chỗ ngọt, không đều.

Màu da mỗi người: nào là da trắng, da đen, da vàng, da đỏ. Nước thì lớn, cao đồ-sộ, nước thì lùn, thấp, nhỏ con; dân-số trên toàn cầu phỏng định hai ngàn ba trăm triệu, sanh sanh tử tử không ngừng.

Loài điểu thú, côn-trùng, cũng đều khác lạ, như chim đại-bàng rất lớn, lần lần nhỏ như chim cắc, chim sâu...Loài cá như cá ông, cá mập, cá xà, rồi nhỏ lần là cá bạc má, cá trắng.

Loài thú như tượng, voi, rồi tới những loài nhím như chuột, bọ... Tới loài cỏ cây, cầm thú, suốt đời ta còn chưa hiểu hết, lựa là đến việc cao siêu, nếu ta không học hỏi với các Đấng vô-hình thì ta phải chịu tối-tăm mù-mịt không mong gì đạt thấu huyền-vi mà siêu-phàm nhập Thánh, hễ ta học nhiều chừng nào, ta sẽ thấy dốt nhiều chừng ấy.”

Kết-luận của Đức Hộ-Pháp Giáo-chủ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ:
“Vậy chư Hiền-huynh, Hiền-Tỷ, phải gia tăng sưu-tầm cho hoạt-bát, nếu ỷ lại sự hiểu biết của mình gọi là đủ, thì dạ thảo bích châu dường muôn dặm, bóng xế chiều không ráng bước, ắt là phải trễ.
Có một ngày kia, Bần-Đạo hỏi Đức Nguyệt Tâm Chơn-Nhơn rằng: Phàm hễ làm Cha là Cha, còn Thầy là Thầy, chớ sao Đại-Từ-Phụ lại xưng là Thầy, rất nên khó hiểu.

Ngài trả lời như vầy:
Người cũng vốn CHA, THẦY luôn một,
Cả Chơn-linh, hài cốt tay Người.
Nuôi hình dùng vật tốt-tươi,
Tạo hồn lấy pháp tột vời Chí-linh.
Nơi Người vốn quang-minh cách-trí,
Tấn-hóa hồn phép quí không ngừng,
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn Người lại dành phần Phật, Tiên.
Luật Thương-yêu, quyền là Công-chánh.
Gần thiện-lương, xa lánh phàm tâm,
Làm cha nuôi-nấng ân-cần,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Thiên.

Với một tấm lòng vàng quí báu ông NGUYỄN MẠNH BẢO đã khảo-cứu KINH này trong 20 năm.
Chương I


PHẦN DẪN NHẬP
Lời nói đầu của soạn-giả
Thưa các Bạn đồng sanh, có một người Bạn hỏi tôi rằng: tại sao Chị lại chọn Tôn-giáo CAO-ĐÀI làm tín-ngưỡng?

Tôi đáp ngay:
- Tôi tìm Đạo cũng như tìm người yêu. Ngày xưa, Tôi chọn người yêu vì tôi cảm thấy rằng người ấy có đạo-đức, kiến-thức, tinh-thần cao-thượng… Trước mắt tôi là văn võ song toàn, đủ sức để bảo vệ tôi,
an-ủi tôi và chắc rằng sẽ được hài-hòa trong cuộc sống.

Sau năm năm chờ đợi, chúng tôi cưới nhau, với thời-gian này đủ cho chúng tôi hiểu biết nhau và làm nên mối tình NGUYÊN-THUỶ.

Tôi đến với Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này cũng vậy. Tuy rằng là một truyền-thống của gia đình. Ông Bà tôi đã nhập-môn vào Đạo Cao-Đài từ lúc Đạo mới khai năm Bính-Dần (1926). Nhưng khi trưởng thành, tôi cố-gắng tìm hiểu, học hỏi từ lời Thánh-ngôn, Thánh-giáo của Đức Thượng-Đế giáng cơ dạy Đạo. Lần đầu, tìm thấy một hiện tượng lạ, các bậc tiền-bối cũng thử thách xem chân giả thế nào.

Thiết nghĩ rằng người tu cần phải tìm hiểu cho thật sâu sắc rồi hãy tin, dầu dưới hình thức nào. Khi đã tin thì mới thật là Đức-tin phát xuất từ trong trái tim tín-ngưỡng, để đừng bao giờ hối tiếc vì sự lầm-lỡ hay phải nói lời hối-hận.

A - Bước Đạo cần tìm hiểu
1 - Thời tiền khai Đại-Đạo
Thuở ấy, ba vị CƯ, TẮC, SANG (sau đắc phong là Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh) tiếp điển, thông-công với các Đấng Thần-linh, có Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng cơ, nhưng chỉ xưng danh là AĂÂ. Rồi cũng có nhiều bậc Đại-Đức bên Phật-giáo hay các chính-khách đến thử bằng cách viết sẵn một bài thơ dấu trong túi áo đến hầu đàn, thầm khấn nguyện, nếu phải huyền-diệu thật thì mới hiểu được tâm-sự của các Ngài.
Vị Yết-Ma Luật có bài thơ như vầy:
Ấm-ức tâm-tư suốt mộng tràng,
Có đâu Tiên Phật xuống phàm-gian.
Văn hay chữ giỏi bày thi phú.
Họa được thơ đây mới NGỌC-HOÀNG.

Thừa lúc ấy, trong đàn nội có Đức Thượng-Đế giáng, Đức Ngài liền họa ngay:
Hãy tỉnh cho mau giấc mộng tràng.
Đời cùng Tiên Phật xuống phàm-gian,
Chẳng ai hay giỏi bày thi phú,
Chính thật TA đây Đấng Ngọc-Hoàng
                                                                                                          (AĂÂ)

            Kế đến, một vị chính-khách cũng làm một việc thử-thách tương-tự như vậy:
THI
Cao-Đài Tiên-Trưởng hỡi Ông ơi!
Linh-hiển sao không cứu giống-nòi?
Trăm họ điêu-linh thân cá chậu,
Muôn dân đồ-thán chịu chim lồng.
Coi mòi diệt chủng càng đau dạ,
Thấy cảnh vong bang bắt não lòng,
Ách nước nạn dân chừng thế ấy,
Ngồi mà tu-niệm có yên không?

            Đấng Thượng-Đế cũng giáng đàn hoạ lại ngay:

HỌA
Cơ trời khó tỏ hỡi con ơi!
Nghiệp quả trả vay của giống nòi.
Bởi mến mùi ngon cam cá chậu,
Vì ganh tiếng gáy chịu chim lồng,
Trời ban Đại-Đạo nên yên dạ,
Đất dậy phong-ba cứ vững lòng,
Gắng trả cho rồi căn-quả ấy,
Tu mà cứu thế dễ như không.

Bởi với tài-năng, thi phú, thì ba vị tiền khai Đại-Đạo là ba ông CƯ, TẮC, SANG, đã nổi danh trong giới thi-hữu lúc bấy giờ, nên mọi người ngờ rằng các vị đã dựng nên Thần, nên Thánh mà dối gạt người đời chăng? Làm gì có chuyện Thần, Tiên, Thánh, Phật đến với cõi trần đau khổ này! Xưa nay danh-từ Thượng-Đế là một từ trừu tượng, ngày nay Ngài đến thế mở Đạo thật sao? Lạ quá! Con người trong buổi này có khả-năng thông-công được với thế-giới vô-hình thật sao?

Tất cả mọi việc đều lạ-lùng, dưới mắt mọi người đời đều có quyền nghi-ngờ, càng nghi-ngờ càng đến được gần chân-lý hơn.

Thật sự, buổi ban đầu khi đọc qua lời kinh, cũng như các Thánh-ngôn, Thánh-giáo, thấy sao lời lẽ quá đơn-giản, không có gì gọi là bí-hiểm hết. Tôi cứ nghĩ lời kinh, lời Thánh là phải khúc chiết, điển-tích nhiều thì mới có giá-trị cao, nhưng lời Thầy dạy sao nghe ra đơn-giản quá thì có gì đâu để tìm hiểu, thậm chí bài giảng-văn ở nhà trường ngày xưa như: Cung-Oán Ngâm Khúc…biết bao nhiêu là điển-tích khó hiểu; còn lời trong Thánh-ngôn thì Thầy chỉ dạy bằng những lời thật giản-dị:
“Thầy khuyên các con nên nhớ hoài rằng: Thầy của các con là Ông Thầy Trời, nên biết một Ổng mà thôi thì đủ, nghe à!” (TNI/49)

Nhưng thực sự không phải chỉ đơn-giản như vậy mà thôi đâu, vì ngoài những lời dạy đó còn ẩn cái lý số thâm-diệu vô cùng, càng nghĩ càng thấu lý:

Trong đoạn trên có 3 câu, tức là con số 3, tượng là càn-khôn vũ-trụ định thể, là con số thiêng-liêng tạo đoan vạn-vật. Lẽ ra phải sắp xếp như thế này:
- Thầy khuyên các con nên nhớ hoài rằng (8 chữ)
- Thầy của các con là Ông Thầy Trời (8chữ)
- Nên biết một Ổng mà thôi thì đủ (8 chữ)

Nghe à! (2 chữ)
Số 3 là con số tròn đầy của lý Tam tài: Thiên, Điạ, Nhân. Mỗi câu có 8 chữ, ứng với Bát-quái:
- Đức Chí-Tôn làm chủ Bát-quái (8) (THIÊN)
- Đức Phật-Mẫu làm chủ Bát phẩm chơn-hồn (8) (ĐỊA)
- Người tu, gìn-giữ Bát chánh-đạo (8) (NHÂN)

Hai tiếng “Nghe à!” tượng cho âm dương nhị khí.
Tam tài hiệp với Âm dương thành ra Ngũ-hành.

Lại nữa 3x8= 24, con số 24 biểu-tượng 24 chiếc thuyền Bác-Nhã, tức là trí huệ, mà Đạo Cao-Đài đã nói rằng Đức Thượng-Đế đã cho 24 chiếc thuyền Bác-nhã chở 100 ức nguyên-nhân xuống trần để độ-rỗi sanh linh, mà họ còn mê đắm hơn chúng-sanh nhiều. Đã hai lần Thượng-Đế mở Đạo:
- lần đầu Phật Thích-Ca độ 6 ức nguyên-nhân.
- lần kế Đức Lão-Tử độ được 2 ức nguyên-nhân.
- Ngày giờ này còn lại 92 ức nguyên-nhân
[100 - ( 6+2) = 92]

Chính vì số 92 ức nguyên-nhân này còn chịu đắm trần mà Chí-Tôn phải mở Đạo kỳ ba để cứu-vớt.

Ngoài ra số 24 còn có ý-nghĩa khác nữa:
- Một ngày một đêm có 24 giờ.
- Là hình ảnh của 24 câu chuyện Hiếu được truyền tụng đến ngày nay.
- Trong thân-thể con người là 24 chiếc xương sườn để chở-che cho lồng ngực…

Như vậy một câu nói giản-dị ấy đã bao gồm cả cái triết-lý uyên-nguyên của càn-khôn, gồm đủ vũ-trụ-quan, nhân-sinh-quan… đủ chứng tỏ Thầy là Đấng “Thái-cực Thánh-Hoàng”. Ngài phân ra: Lưỡng-nghi, Tam tài, Tứ-tượng, Bát-quái, Ngũ-hành… ai dám bảo Đạo Cao-Đài không có triết-lý?

Thế nên từ xưa đến giờ người muốn cầu học Đạo thì tìm sách Đạo mà đọc. Còn người muốn truyền bá chân-lý Đạo thì viết sách là để phô bày những suynghĩ do cái sở học của mình đồng thời để trưng cầu ý-kiến với các bậc cao minh hầu được cùng nhau đàm Đạo mong được đến với chân-lý siêu-tuyệt của đạo mầu, mà hiện tại thì “Đạo Hư-vô, Sư Hư-vô”.

2 - Viết sách Đạo phải giản-dị, dễ hiểu
Thánh-nhân nói “Dị-giản nhi đắc Thiên lý” tất nhiên sự vật càng giản-dị càng được gần với thiên-lý, với trời đất.

Đây là trường-hợp nhiều người đọc đến Thánh-ngôn của Đạo Cao-Đài, hoặc kinh-kệ cúng kính hằng ngày thường nói rằng Đạo Cao-Đài không có triết-lý, cả đến vũ-trụ-quan, nhân-sinh-quan cũng không có. Việc tu-hành nghe ra quá ư tầm thường, e rằng tu theo Đạo Cao-Đài khó mong đắc Đạo nên tìm về với Phật vì nơi đây lý đạo thâm-diệu hơn, hoặc tìm về Tiên-Đạo để luyện pháp trường sanh

Đức Hộ-Pháp có nói về “Phương-Tu Đại-Đạo” rằng:
“Phương tu của Anh em bổn Đạo mình, nếu tùy theo Tôn-chỉ của Tam-giáo, thì phải làm thế nào cho gồm cả tinh-thần của ba đạo: Nho, Đạo, Thích mới phải; nhưng xét sự khó-khăn chẳng thế nào làm ba Đạo một lượt cho đặng hoàn-toàn.

Vậy chúng ta cứ lần lượt luyện tinh-thần rồi tập buộc mình hằng ngày sửa tánh tu thân, từ từ lần bước đến cho tận nẻo Đạo của Thầy đã khai ra quảng-đại, đẹp-đẽ, quang-minh, trước mắt chúng ta đó.

Tục-ngữ nói: TU HÀNH.
TU là trau-giồi lấy tinh-thần mình.
HÀNH là luyện-tập thân mình, phải biết tùng phục tinh-thần sai khiến mà làm Đạo.

Ấy vậy, phép tu chẳng phải luyện nội tinh-thần mình theo đạo-hạnh mà thôi, mà cái thân-thể mình đây phải tùy-tùng phù-hạp với đạo-tâm, thể đạo chơn-chánh bởi gương mình, hễ chúng sanh ngó Đạo nói mình, xem mình cho là Đạo mới phải.

Đạo chẳng phải nơi lời nói, mà lại nơi kết-quả sự thật mình làm; chẳng phải nói câu kệ, câu kinh, mà lại buộc hành-vi người giữ Đạo. Cái khó-khăn của Đạo chẳng ở nơi sự giảng dạy mà ở tại sự thành-thật. Cái hay của Đạo chẳng phải ở tại nơi yếu-lý mà ở nơi cuộc kết-quả sự giáo truyền.

Lạ chi, mình muốn nhủ người bắt rồng, cột phụng, nghĩ có khó chi tiếng biểu, song cốt-yếu là người người có phương bắt hay cột đặng cùng chăng?

Hễ muốn nói điều chi ra mà thế-gian làm không đặng thì đành cho là mị-mộng. Huống chi anh em đồng Đạo của mình ngày nay chẳng khác nào người đi đường trên nẻo lạ, tốt hơn nên khuyên-nhủ họ mỗi ngã khá ghi vôi, để dấu bước lần hồi khi khỏi lạc.

Trừ ra các kinh-điển Hán-văn hay là Pháp-văn cùng của các nước khác, xưa để lại, rõ hữu ích cho Đạo lược dịch ra, thì Tôi chẳng luận chi, chớ Tôi thấy phần nhiều sách vở của nhiều người Đạo-hữu viết ra chẳng dùng văn-từ lý-lẽ giản-dị, làm cho phần đông coi không hiểu thấu nên không bổ ích chi cho Đạo hết.

Rất đỗi là Thầy còn phải dùng tiếng nói dễ dàng, rẻ-rúng mà làm thi dạy Đạo thay! Nhờ vậy mà văn-từ của Thầy ai coi cũng hiểu. Tôi dám chắc rằng tuy vậy mặc dầu mà cái ngòi văn tuyệt bút rõ-ràng, hễ càng thấu tứ lại càng thâm-thúy nơi lòng.

Tôi nhớ có một phen kẻ nghịch Đạo để lời dèm pha biếm-nhẻ rằng văn-từ của Thầy xem rất thường tình. Tôi chấp-bút phân-phiền cùng Thầy. Thầy dạy rằng:

“Con ôi! Trong anh em của con phần dốt nhiều hơn phần hay chữ, đứa ám-muội đông hơn đứa thông minh, Thầy đến chăm-nom dạy-dỗ đứa ngu-dốt hơn là đứa hay giỏi; thà là đứa sáng khôn quá hiểu mà chê Thầy hơn là đứa dốt nghe Đạo Thầy không rõ lý. Thầy cười rồi tiếp nữa rằng:
- Thầy muốn Đạo của Thầy làm thế nào cho trẻ con nên ba tuổi cũng hiểu đặng, con nghĩ sao con? Lại cười nữa!
Tôi hiểu lòng nhơn-từ quá lẽ của Thầy cũng bắt tức cười theo”
(Phương Tu Đại-Đạo)

3 - Nhận-định của Đức Thượng-Sanh về việc viết sách Đạo Cao-Đài
Như đã biết rằng: Với Đức Hộ-Pháp thì dạy phải viết lời văn giản-dị, mục-đích dễ đọc, dễ hiểu. Nhận thấy văn từ của Đức Chí-Tôn quả thật có được sự giản-dị ấy, ta cần học hỏi; nhưng cái cao-siêu thì không thể nào lường được!

Vì Thầy cũng đã có nói trước: Đạo cao sâu, Đạo cao sâu. Nhưng mà cao chẳng cao, sâu chẳng sâu, bởi cái cao mà loài người thấy tới thì có thể bắn được (như chim trên trời), cũng như cái sâu mà người biết tới (như con cá trong lòng đại dương thì người cũng tìm cách câu lên được).

Thế mà cái việc cao sâu của đạo-mầu có khác, chỉ do ở nơi tâm của mỗi người, tùy theo sự thấy biết mà thôi, do câu:
“Đạo cao thâm, đạo cao thâm. Cao bất cao, thâm bất thâm. Cao khả xạ hề thâm khả điếu. Cao thâm vạn sự tại nhân tâm”

Riêng Đức Thượng-Sanh thì dạy: nên qui kết vào trọng-tâm của Cao-Đài Đại-Đạo, để xiển dương chơn-lý Chánh-truyền, Đức Ngài nói rằng:
“Khi Qua ở Sài-Gòn, nghe khách bàng quan trích-điểm về Giáo-lý Cao-Đài nhiều lắm. Bởi lẽ người trong Đạo chưa viết được một quyển sách đúng với Giáo-lý chơn-truyền; hầu hết các sách viết trước do hạn chế và lý-luận về nguồn gốc Đạo Tam-Kỳ nên họ chỉ viết cái mà họ biết được:
- Người gốc theo Đạo Phật, thì họ cho Đạo Cao-Đài là Phật-giáo chấn-hưng.
- Người gốc theo Đạo Khổng, thì họ cho Đạo mới là Nho-Tông chuyển-thế.
- Người gốc theo Đạo Lão, thì cho là Thiên khai Huỳnh-Đạo.
Thật ra là ĐẠO CAO-ĐÀI!
Muốn hiểu bổn-nguyên tư-tưởng phải lấy Thánh-ngôn, Kinh sách Kỳ ba Phổ-Độ mà giải thích.

Đạo Cao-Đài như một bức khảm xà-cừ:
- Nhìn thẳng thấy màu trắng,
- Nhìn nghiêng bên phải thấy màu xanh phơn phớt,
- Nhìn xuống phía dưới thấy màu vàng nhạt.

Các màu xanh, đỏ, chỉ là những cách thể hiện các giai-đoạn ban sơ của Đạo.
Thật sự ĐẠO CAO-ĐÀI là MÀU TRẮNG.
Phải hiểu Đạo Cao-Đài là tinh-hoa bổn nguyên triết-lý của chính nền Đạo mới này”
(Lời của Đức Thượng-Sanh)

4 - Luận về kinh Dịch
Người Cao-Đài khi luận về kinh Dịch thì nhận thấy rằng:
“Các quẻ trong KINH DỊCH chỉ là sự công-thức-hóa qui-luật biến-thiên đối với thế-giới hữu-hình của vạn-vật, có tính cách mô-phạm để từ đó chúng ta hiểu được sự biến-thiên của trời đất, của lý Đạo siêu mầu, để sống cho hợp lẽ, hầu tu dưỡng tính-tình đạo đức, trau giồi thân tâm an lạc, đó là Thiên-đạo.

Còn cái học Nhơn-đạo thì có nhơn-luân và nhơn-thân:
- Nhơn-luân tạo nên qui-củ, phép khuôn, phương-thức sống,
- Nhơn-thân là y-học, sống khỏe, sống mạnh, sống lâu.

Những qui-luật này có liên-hệ nhau chặt chẽ để TINH, KHÍ, THẦN, được hiệp nhứt”.
Do vậy, mà tất cả tinh-hoa của Đạo Cao-Đài đều xuất-phát từ Tân-Luật, Pháp-Chánh-Truyền, Lời thuyết-đạo của Đức Hộ-Pháp, cùng tất cả những yếu ngôn, chơn-chất-ngôn của các bậc tiền-bối trong cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để làm sáng danh Cao-Đài Toà-Thánh Tây-Ninh.

Ngoài ra những dẫn-chứng về lý DỊCH là trọng tâm của Dịch-Kinh Tân-Khảo, của Tác-giả Nguyễn-Mạnh-Bảo, một Tác-phẩm quen thuộc, nhiều công-phu biên-soạn mà Đức Hộ-Pháp đã để lời khen tặng rằng:

“Bần-Đạo cảm thấy Kinh này là cả một triết-lý Á-đông độc nhứt vô nhị, mà chính là những bí-pháp cổ-truyền của Đạo Cao-Đài, một Đạo-giáo Việt-Nam hoàn toàn nảy sanh ở cái triết-lý hoàn-toàn Á-đông, Kinh này đã gồm hết những lý-thuyết cao-siêu mà ông Nguyễn-Mạnh Bảo đã nêu cao tinh-thần Đại-Đạo”.

Đây là những bài học được đúc kết nhiều năm với hoài-bão muốn khoác áo Dịch-lý lên Giáo-lý Cao-Đài nên chúng tôi cố-gắng thực hiện bộ môn DỊCH LÝ CAO-ĐÀI, để làm giáo-án trình lên những tâm-hồn luôn luôn hướng về nền Đại-Đạo, lòng mong muốn thấy được lý Dịch siêu-mầu ẩn dưới những lời thật thân thương, thật đơn giản, mà suy ra chẳng giản-đơn chút nào.

Xin các Bậc cao-minh sẵn lòng chỉ giáo những chỗ còn khuyết-điểm, soạn-giả luôn đón nhận và học hỏi trong tinh-thần cầu tiến, để được Hiến-dâng và Phụng-sự cho Đạo-pháp.

BÁT-QUÁI BIẾN HÓA TOÀN ĐỒ

B - SỰ LIÊN-QUAN GIỮA DỊCH VÀ ĐẠO
1 - Duyên khởi
“ĐẠO DỊCH là một khoa triết-học uyên thâm, rất sâu-xa; là một lâu-đài tráng-lệ, huyền-bí cao-siêu, bao hàm cả một cõi vô biên, vô giới mà dân-tộc Á-châu được hưởng cái gia-tài quí-báu ấy…

Cái nguyên-nhân của Dịch-lý là do ở sự cảm tưởng cái căn-nguyên, cái mối đầu của vũ-trụ, là ở cái lý THÁI-CỰC.

Lý ấy chỉ có một ở trong vũ-trụ, do động tĩnh mà thành Âm Dương, rồi sinh ra vạn-vật; vạn-vật chung qui lại trở về Thái-cực; đó là cái lý cùng về mà lắm đường, một trí mà trăm mối lo “Đồng qui nhi thù đồ, nhứt trí nhi bách lự” mà Đức Khổng-Tử đã nói trong Hệ từ:
Cái lý ấy bên Lão-giáo gọi là ĐẠO
Bên Phật-giáo gọi là Chân-như

Danh-hiệu tuy khác nhau nhưng cùng một thể. Bởi cái lý giống nhau cho nên cái học-thuyết ấy đều theo một chủ-nghĩa “Thiên địa vạn-vật nhất thể” . Song, mỗi một học thuyết đi ra một đường là vì cách lập giáo và sự hành-đạo khác nhau.

Lão-giáo thì cho vạn-vật đều gốc ở Đạo, đời là một cuộc phù-vân, hơi đâu mà để trí lo-nghĩ, người ta chỉ nên cùng với Đạo mà vui chơi cùng Tạo-hóa, không cần chi đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, không thiết gì đến pháp-luật, chế độ, miễn là được thảnh-thơi vô-vi thì thôi.

Phật-giáo thì cho vạn-tượng do chơn như mà ra, sắc với không là một, sự sinh hóa là cái vọng-niệm chứ không phải là thực. Cái thực là chân như. Người ta phải tìm cái thực ấy mà quay trở về gốc cũ để ra thoát vòng sanh, tử; tức là đế đến Niết-Bàn, hết cả sự khổ-não.

Nho-giáo thì cho rằng sự biến-hóa ở trong vũ-trụ là do sự nhất động, nhất tịnh của Thái-cực mà sinh ra. Vạn-vật đã phát hiện ra là thực có, thì chi bằng cứ theo cái thực ấy mà hành động và sinh tồn; sự sinh-tồn của vạn-vật không ra ngoài được những điều Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí tức là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh của Tạo-hóa. Vậy nên người ta ai cũng phải theo những điều ấy mà vui trong cuộc sinh-hóa.

Thành thử cái gốc vốn là một, mà cái ngọn thì chia ra khác nhau. Bởi cái tư-tưởng khác nhau như thế cho nên Lão-giáo và Phật-giáo thì theo cái chủ-nghĩa tiêu-cực, thành ra cái Đạo xuất thế; Nho-giáo thì theo cái chủ-nghĩa tích-cực, thành ra cái Đạo nhập thế.

Vì có sự tương-đồng, tương-dị ấy mà ta có thể xét-đoán tường-tận được, tuy cái tương-dị về thể hành đạo của các Đạo có khác nhau, nhưng chung-qui cũng là một gốc, cái gốc đó tức là căn bản của muôn sự vật cho tất cả vũ-trụ bao-la mà ta gọi là Thiên-lý. Cái thiên-lý đó là cái tóm thâu của Trời, biểu-tượng trong KINH DỊCH vậy”.
(Lời phát-đoan của Nguyễn-Mạnh-Bảo)

Xem ra Dịch như một vải áo, còn Đạo như một cái áo cắt ra từ tấm vải ấy.
Do vậy mà lý Dịch luôn luôn hiển-hiện trong tinh-thần Đại-Đạo như bóng với hình. Vì vậy, người tu theo Đạo Cao-Đài là tu nhập thế; tức nhiên:
- Hằng ngày hành theo tinh-thần Nhân nghĩa; Phụng-sự cho chúng-sanh: theo Nho-đạo.
- Phương-pháp tu là luyện Tinh, Khí, Thần, là phép tu Tiên-đạo.
- Nhưng đắc vào hàng Phật-đạo (Bởi nếu đi theo Cửu-Trùng-Đài, đến tuyệt-phẩm là Giáo-Tông vào hàng Phật-vị; còn đi theo Hiệp-Thiên Đài đến tuyệt phẩm là Hộ-Pháp cũng vào hàng Phật-vị). Đó là tinh-thần qui Tam-giáo của Cao-Đài Đại-Đạo ngày nay là vậy.

2 - Đạo Cao-Đài là cơ-quan giải khổ cho nhân-loại

a/ - Đời là biển khổ
Cũng may, chính vào “cái thời Trung nguơn ấy mà nhơn-sanh mỗi ngày càng thêm nhiều xu-hướng về vật-chất nên Ơn Trên mới phái bốn vị Đại-Thánh nhân đến khai sáng cho nhơn tâm, đó là:
- Đức Thích-Ca Mâu-Ni mở Đạo Phật.
- Đức Lão-Tử mở Đạo Tiên.
- Đức Thánh Khổng-Phu-Tử mở Đạo Thánh.
(Thánh nơi Đông-phương gọi là Thánh ta)
- Sau cùng con một Đức Chúa Trời là Đức Chúa Jésus-Christ (Thánh nơi phương Tây gọi là Thánh Tây)

Nên cả hai vị Giáo-chủ này là Thánh-đạo.
Ngoài ra, còn có các bậc Hiền-nhơn dụng đạo đức để cảm-hóa nhơn-sanh bằng các lý lẽ: không tham danh, trục lợi; đem đạo-đức của Thánh Hiền mà phổ-độ nhơn-sanh; thế nên, bên phương Đông, Xuân Thu chiến-quốc trở lại êm dịu.

Bên phương Tây, thì Chúa Jésus-Christ dạy đời, khuyên chúng-sanh thức tỉnh trở về với Trời đặng sống, sống cái lẽ thanh-cao, liêm-khiết.

Nhắc đến đây, các bậc tiền-nhân chúng ta không sao ngăn được sự cảm-xúc nơi chơn tâm, thương Chúa vì nhơn-sanh mà phải chịu đóng đinh trên cây Thánh-giá, lấy máu đào rửa tội cho thế gian.

Từ ấy đến nay, chúng-sanh liên-tiếp bị thiên-tai, hồng thủy, đất sụp, núi lỡ, lầm than điêu-đứng; kiếp sống như cảnh lao tù, nhà đóng cửa ngoài lại còn rào kẽm gai, Quỉ-Vương lộng hành, sự tham danh trục lợi không dứt, cảnh tang thương, chiến-tranh kéo dài. Con người mãi chạy theo văn-minh vật-chất, chỉ số ít có tinh-thần đạo đức noi theo Trời Phật, còn phần đông là mê-tín dị-đoan, bày vẽ việc không đâu.

Hậu-quả này đưa đến kết-quả là con người sống hôm nay không biết đến ngày mai. Thế-giới tranh hùng, đi đến cảnh tàn-khốc, tiêu-tàn, ác-khí dậy trời, ngoài miệng thốt ra toàn lời đạo-đức, mà trong lòng chứa đầy ý-nghĩa hận thù.

Đau thương cho nhân-loại ngày càng đến cảnh diệt vong”.
Hỏi nhân-loại sống để làm gì mà phải chịu cái cảnh tang-thương đến thế này? Muốn chết, không chết được, muốn sống thì cũng chẳng ra hồn người sống!
Ôi, đau thương đến buốt cả lòng!

b/ - Đời là một sự biến dịch không ngừng
Đức Hộ-Pháp buột lời than cho nhơn-loại rằng:
“Ngày giờ nào nhơn-sanh cũng tìm phương an-ủi cho bớt thống-khổ, kiếm phương an-ủi; tìm cùng đáo-để như tìm gió theo mây, chạy đến gõ cửa Đức Khổng-Phu-Tử:
“Ông có thuốc gì an-ủi nỗi thống-khổ tâm-hồn của tôi không?”

Đức Khổng-Phu-Tử trả lời:
- Phương chuyển thế không cùng, dầu đoạt được bí-pháp lấy Trung-dung cũng chưa thỏa mãn.

Sang gõ cửa Phật Thích-Ca:
“Phật có thuốc gì chữa nỗi thống khổ tâm-hồn của tôi chăng?”

Phật đem chơn-lý trước mắt là Sanh, Lão, Bịnh, Tử, ấy là chơn-lý. Người mới tự xét: Tôi không muốn sanh mà ai sanh ra tôi chi, để tôi phải chịu khổ thế này?

Sống, tôi không muốn sống, vì sống là gốc sản xuất tứ khổ. Cái khổ ấy chẳng phải của tôi mà ai làm cho tôi khổ. Cũng không thỏa-mãn tâm-hồn. Tìm nơi Phật không thấy đặng gì!.

Đến gõ cửa Lão-Tử:
- Bạch Ngài, có món thuốc gì an-ủi tâm-hồn tôi không?
- Bảo, cứ giữ đạo-đức làm căn-bản, thóat mình ra khỏi thúc-phược thất tình, lên non phủi kiếp oan-khiên, tìm nơi tịch-mịch an-nhàn thân tự-toại. Nếu không thế ấy thì đừng mơ-mộng gì thoát khổ được.

Nghe lời, lên núi ở, mà ngặt nỗi hễ mỗi lần đem gạo lên ăn, thì khó nhọc trần-ai khổ nhộng. Đói, tuột xuống, thất chí nữa, thành phương an-ủi cũng ra ăn trớt.

Đến gõ cửa Thánh Jésus De Nazareth, hỏi:
- Đấng Cứu-Thế có phương thuốc nào trị thống khổ tâm-hồn tôi không?
- Trả lời: Nếu các Ngươi quả-quyết nhìn nhận làm con cái Đức Chúa-Trời, tức là Đức Chí-Tôn, làm như Người làm, mới mong an-ủi tâm-hồn được. Trong khuôn-khổ, phương-pháp làm con cái của Đức Chí-Tôn thì lắm kẻ nói được mà làm không được, cũng như tuồng hát viết hay mà không có kép tài đặng hát.

Cả thảy không chối, cũng có kẻ an-ủi được nhờ đức-tin vững-vàng, còn phần nhiều ngược dòng đi ngã khác, không ở trong lòng Chí-Tôn chút nào tất cả. Thất chí nữa, hết tìm ai!”

3 - Đạo Trời xuất hiện
Bây giờ Chí-Tôn làm phương nào trong thế-kỷ 20 này đặng an-ủi tâm-hồn nhơn-loại?
Nay, Đức Chí-Tôn Ngài đến cùng con cái của Ngài, quả-quyết rằng:
“Nếu các con của Ngài tức Thánh-thể của Ngài mà lập Đạo không thành, thì Ngài phải tái kiếp.
Trọng-hệ gì dữ vậy?

Ngài đến thế lập Đạo. Từ tạo thiên lập điạ, không cơ-quan nào rời khỏi tay Ngài. Ngự-Mã-Quân của Ngài sợ-sệt kinh-khủng, vì mỗi lần Ngài tái kiếp thì phải chịu mọi điều thống-khổ xác thịt lẫn tâm-hồn. Mỗi phen đến, đặc biệt Ngài muốn thế nào sự đau khổ của Ngài sẽ làm cơ-quan giải-thoát cho toàn thiên-hạ. Sợ Chí-Tôn phải khổ, nên Ngự-Mã-Quân tái kiếp lập Đạo thay thế cho Ngài. Tại sao vậy?

Nói thật, không ai có quyền-năng nào hơn Mẹ ru con, không ai có quyền-năng nào hơn Cha yêu-ái khi con đau-đớn. Đương khóc, Mẹ bồng thì liền nín, còn Cha hôn một cái hết thảm hết sầu.

Chí-Tôn sai các vị Giáo-chủ đại-diện Ngài đến lập Đạo do danh thể Ngài, vâng mạng lịnh nơi Ngài đến thay-thế giáo-hóa con cái của Ngài, chưa vị nào an-ủi được sự đau thảm cho trọn vẹn cái khổ của đời, khối đau thảm ấy từ buổi có loài người chất-chồng vô số kể.

Ngài đến bồng nhơn-loại vào tay ru rằng: “Khối đau khổ tâm-hồn của các con là tại các con đào-tạo chớ không phải của Thầy! Khổ là do quả kiếp mỗi đứa dục khổ cho nhau. Muốn giải khổ không gì khác hơn là:
- Đập đổ các đẳng cấp tâm-hồn,
- Thống nhất nhơn-loại,

- Nhìn nhau là anh em máu thịt, cùng một căn bổn cội nguồn hầu chia vui sớt nhọc, biết tôn ti nhau: kẻ trên không áp-chế người dưới, trí không hiếp ngu, hèn sang không biệt, mực thước tâm-hồn nhơn-loại phải đồng phẩm-giá, đồng quyền-năng.

Ngày giờ nào, nhơn-loại biết tôn-trọng nhau, dầu sang hèn, nhìn nhau là anh em cốt nhục, ngày ấy phương giải-khổ không khó. Các con nghe lời Thầy và làm y như lời Thầy thì khổ ấy tự tiêu-diệt. Nếu các con còn đau thảm thì đấm ngực nói: “Khổ này do các con tạo, không phải do Thầy định tội, đa nghe!”

Thầy đến chỉnh-đốn tâm-lý loài người: tránh tranh-đấu tiêu-diệt lẫn nhau thì không còn hỗn-loạn đối nhau, thì tức nhiên diệt khổ chớ có chi đâu lạ!
Cơ-quan giải khổ tâm-hồn của Ngài là đó”
(ĐHP 15-10-Đinh-Hợi 1947)

Ngày giờ này:
“Đức Chí-Tôn đến, đến đặng cứu con cái của Người. Người đã phải làm thế nào?

Chẳng có chi lạ: Người chỉ tăng cường đạo-đức làm giềng mối cho tâm-lý loài người đặng bảo-tồn sanh mạng cho cả nhơn-loại với phép duy tâm thì đời mới tồn-tại”

Thầy có dạy:
“Tùy theo phong-hoá của nhân-loại mà gầy Chánh-giáo, là vì khi trước: Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn-loại duy có hành-đạo nội tư-phương mình mà thôi.

“Còn nay thì nhơn-loại đã hiệp đồng, Càn-khôn dĩ tận thức thì lại bị phần nhiều Đạo ấy mà nhân-loại nghịch lẫn nhau; nên Thầy mới nhứt định QUI-NGUYÊN PHỤC-NHỨT. Lại nữa, trước Thầy giao Chánh-giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh-giáo mà làm ra phàm-giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân-loại phải sa vào nơi tội-lỗi, mạt kiếp chốn A-Tỳ.

“Thầy nhứt-định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh-giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập chánh-thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu-dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng-Đảo” (TNII/18)
Thử hỏi, thế nào là Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt ?

Tất nhiên thuở xưa nhân-loại chưa có phương tiện để qua lại giao tiếp nhau, nên không thông hiểu nhau mà sinh ra nạn kỳ thị đủ thứ.

Giờ này thì Càn-khôn dĩ tận thức có nghĩa là nhờ văn-minh vật-chất phát triển, nên có sự thông-đồng mà tất cả hiểu biết nhau, càng ngày càng cảm-thông nhau hơn.

4 - Mở Cơ-quan tận-độ chúng-sanh
Ngày nay “Đức Chí-Tôn sai Hộ-Pháp giáng thế. Tại sao Ngài không dùng Cơ-bút để truyền bí-pháp cho con cái của Ngài, Ngài chỉ giáng bút truyền cho Hộ-Pháp mà thôi?

Không có chi lạ, mở cơ-quan tận-độ chúng-sanh tức nhiên là lập một khoa thi sang Tam chuyển, tái phục thiêng-liêng-vị nơi cảnh vô-hình, mỗi chuyển tức nhiên mỗi khoa-mục của các đẳng chơn-hồn cần phải thi đặng đoạt vị, thăng hay đoạ.

Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn gọi là trường thi công-quả là vậy. Đức Chí-Tôn cho Hộ-Pháp và Thập-Nhị Thời-Quân đến cốt-yếu để mở cửa bí-pháp cho Vạn-linh đoạt vị.”

Đức Hộ-Pháp cũng nói về trách-vụ của Ngài:
“Bần-Đạo may duyên đựợc Đức Chí-Tôn chọn làm Ngự-Mã-Quân của Ngài để thay Ngài, lập nền Chánh-giáo, tức là nền Đạo Cao-Đài này để thay thế tất cả Tôn-giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn-giáo ấy ngày nay không phù-hợp với lương-tri, lương-năng của loài người nữa. Hay nói một cách khác là các nền Tôn-giáo ấy ngày nay đã bị bế.”

“Nhớ lại, từ khi Đức Chí-Tôn chọn Bần-Đạo làm Hộ-Pháp, dạy Bần-Đạo phò-loan và chấp-bút, đặc biệt hơn hết là chấp-bút; vì nhờ chấp-bút mà Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn dạy cách tham-thiền, khi biết tham thiền rồi mới nhập tịnh, nhưng nhập tịnh không phải dễ, chỉ sai một tí, sót một chút, là có thể hỏng cả cuộc đời; nhập tịnh mà không tới thì bị hôn-trầm là ngủ gục, còn nhập tịnh mà quá mức thì phải điên đi mà chớ!

Nhập tịnh mà đúng rồi, cần phải chờ các Đấng Thiêng-Liêng mở huệ-quang-khiếu nữa mới xuất hồn ra được, con đường mà chơn-thần xuất ra rồi về với Đức Chí-Tôn là Con-Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống đó vậy. Chính Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn mở Huệ-Quang-Khiếu nên mới được về hội-kiến với Đức Chí-Tôn và đã học hỏi được nơi Đức Chí-Tôn nhiều điều bí-yếu, bí trọng.”

Đức Ngài còn dặn-dò:
“Ấy vậy, con cái của Đức Chí-Tôn ráng nghe và ráng đi cúng đặng nghe, để nữa sau khỏi hối tiếc và oán-trách, nói sao Bần-Đạo không cho hay trước, không cho biết trước, để được nghe những điều bí-yếu trong nền Đạo Cao-Đài, những triết-lý cao-siêu mà chỉ có Đạo Cao-Đài mới có, tuy nhiên, âu cũng là một đặc ân của Đức Chí-Tôn dành cho Đạo Cao-Đài ngày nay, nên mới có mấy đứa nhỏ cố-gắng học được tốc-ký để ghi chép những lời thuyết-đạo của Bần-Đạo, vì những lời Thuyết-Đạo này không phải của Phạm-Công-Tắc mà của Hộ-Pháp, Hộ-Pháp thay lời Đức Chí-Tôn nói Đạo cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quí hay chăng là ở chỗ đó.” (TLHS/2)

5 - Tôn-giáo thất-kỳ-truyền
Đạo Cao-Đài hôm nay phải xuất hiện, theo như lời Đức Hộ-Pháp nói, chính là do:
“Tôn-giáo thất-kỳ-truyền: Nho, Thích, Đạo, hiện nay đã trở nên phàm-giáo, chư Đệ-tử trong ba nhà Đạo không giữ giới-luật qui điều, canh-cải chơn truyền, bày ra các điều giả cuộc làm cho Tam-giáo biến thành dị hợm.
- Đệ-tử nhà Đạo, chẳng tùng pháp-giáo của Đức Thái-Thượng Lão-Quân. Tuy ở trong nhà Đạo mà tức thị mê-tín dị-đoan.
- Đệ-tử nhà Thích không thuận theo lời giảng dạy của Đức Phật Thích-Ca, thì đệ-tử nhà Thích dị đoan mê-tín.
- Đệ-tử nhà Nho chẳng thực-hành điều mục của Đức Văn-Tuyên Khổng-Thánh, thì đệ-tử nhà Nho dị đoan bất chánh.

Tóm lại, hai chữ “Dị-đoan” nghĩa là đồ theo không trúng kiểu cái qui-giới thể-lệ chơn truyền của Tam-giáo.

Hồi tưởng lại việc đã qua trong các thời xưa, nhứt là thời cận đại và lấy kinh-nghiệm xét đoán, nhận thấy nơi nào hễ sôi-nổi phong-trào náo-loạn lôi cuốn con người vào lối diệt-vong thì cập theo đó sản-xuất một mối Đạo mới để cứu vớt sanh-linh khỏi nơi đồ thán.

Như trước kỷ-nguyên Thiên-Chúa Giáng sanh, nhơn-loại cơ hồ bỏ qua lời truyền của Đức Phật Thích-Ca, vạch rõ con đường Bát-chánh để làm phương giải khổ; quên hẳn lời dạy của Đức Khổng-Tử giữ Đạo nhân-luân, tạo nhân kết nghĩa để làm cửa điều-hòa xã hội và vì khinh thường huấn-ngôn của các Đấng ấy, nên cơ đời thuở nọ lâm cơn hỗn-độn thì Cơ-Đốc-giáo ra đời Cứu Thế. Chưa mãn hai ngàn (2.000) năm hoằng khai Công-giáo thì nhân-loại lần lần không quan tâm đến lời của Đấng Christ tiên-tri số-phận điêu linh của loài người trong khoảng đời mạt kiếp này.
Lời tiên-tri ứng-nghiệm về ĐẠO CAO-ĐÀI xuất hiện!”

Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
“Trước đây, cả toàn thiên-hạ nói rằng: Nòi giống Việt-Nam không có Đạo. Lạ-lùng thay! Chúng ta tự hỏi có thật vậy không?

Thật quả có chứ! Có nhiều Đạo quá mà thành ra không Đạo, mượn Đạo, xin Đạo của thiên-hạ mà thôi!

Ta thừa hiểu rằng: Nòi giống Việt-nam xuất hiện ở hoàng-địa Tàu, nên ta không ái-ngại nói Việt-Nam này là sắc dân Tàu vậy. Nòi giống Tàu nhìn quả thật là dân Tàu mà thôi. Đất địa Tổ quán ta không phải ở đây, ở Bắc-Tam-Tinh là Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, kể luôn Đông-Kinh (Tonkin) tức là Hà-Nội và Hải-Nam nữa, Tổ-quán ta thì thiệt là của ta đó vậy.

Bần-Đạo tìm hiểu Nho-phong ta đoạt đặng hay đã có trước, chúng ta thấy nòi giống Việt-thường này là con cháu nước Lỗ, mà Nho-Tông xuất-hiện cũng ở nước Lỗ, nói rằng giống Lỗ lập Đạo Nho, chắc hẳn là Nho-Tông của chúng ta vi chủ. Nói vi-chủ tức là của mình, nếu có Đạo Nho sẵn trước thì ta có Đạo Nho, Đạo Lão, Đạo Phật. Ba nền Tôn-giáo mà mặt điạ-cầu này cho là trọng-yếu, bất kỳ là sắc dân nào hay liệt quốc nào cũng đều nhìn-nhận là do trong xứ Á-đông này. Thêm nữa Thần-Đạo nguyên-do ở Phù-Tang, sắc dân vi-chủ tức Nhựt-Bổn đem truyền qua Trung-Huê rồi qua xứ ta. Ta chịu ảnh-hưởng quyền-lực Thần giáo từ đó. Nhờ có nó Nho-Tông phát-triển khác Chánh-giáo hơn, lại biết tín-ngưỡng một cách đặc biệt hơn Thần-giáo. Bằng cớ hiện hữu là ta đã thờ Thần trong các làng ngày nay đó vậy. Ngoài nữa tâm-lý tín ngưỡng của nòi giống, của Việt-Nam nhiệt-liệt và thật thà đối với bất kỳ Đạo-giáo nào.

Đến thế-kỷ 19 Đạo Thánh-giáo Gia-Tô đem đến nước ta truyền giáo mới thành một trường nhiệt-liệt đua tranh quyết chinh-phục hết thảy các Tôn-giáo khác.

Bần-Đạo tưởng ai có đọc tờ phúc-sự năm 1937 đều biết rõ. Bần-Đạo đã giảng rõ-ràng nguyên-do đó. Thành thử Việt-Nam có nhiều Đạo quá thành không Đạo!”

6 - Đạo xuất ư Đông
“Đạo là cơ mầu-nhiệm, mà cơ mầu-nhiệm ấy phải ra thế nào có thể hình như một con đường dẫn người ra khỏi chốn trầm-luân khổ hải, lại đặng phước siêu-phàm nhập Thánh.

Có nhiều Hội-giáo đã lập thành có trót trăm năm trước khi mở Đạo đặng dạy lần cho Vạn quốc rõ thấu chánh-truyền. Ngày nay Thầy mới đến lập một cái Cao-Đài nghĩa là Đền thờ cao hay là Đức-tin lớn tại thế này (La Haute Eglise ou la plus grande foi du monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn hạ nhỏ-nhít của hướng Á-đông là An-nam ta, đặng cho trọn lời tiên-tri “Đạo xuất ư Đông” và cho trùng Thánh-ý chìu lụy hạ mình của Thầy, lập thành Hội-Thánh làm hình-thể thiêng-liêng của Thầy, hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi-Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch-Ngọc đặng trổi hơi định tánh làm cho cả con cái của Thầy thức tỉnh nhìn Thầy mà trở về quê cũ”. (TNI/15)

Theo nguyên-lý của trời đất thì Đạo luôn luôn phát khởi từ phương Đông.
“Từ cổ chí kim, tạo thiên lập địa, Đạo đều phát khởi từ phương Đông, là các nước ở miền Á-đông (Asie) như các nền chơn-giáo trước kia: Nho , Đạo , Thích cũng đều phát khởi nơi miền Á-đông rồi lần lần truyền-bá qua phương Tây như:
- Đạo Phật thì khai tại Thiên-trước là Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật và Đức Thích-Ca Mâu-Ni khai Phật-giáo.
- Đại-Đạo là Đạo Tiên thì Lão-Tử khai tại Trung-Hoa.
- Sau nữa Khổng-Tử khai Đạo Thánh cũng tại Trung-Hoa là ở miền Á-đông.
- Sau lần lần Đạo trải khắp qua hướng Tây, nên Đức Chúa Jésus truyền Đạo Thánh tại hướng Tây. Kế đó Đạo mới roi truyền ra khắp năm châu.

Câu “Ánh thái-dương giọi trước phương Đông”. Ánh thái-dương là Đạo đó vậy. Nay đã đến hạ nguơn mạt kiếp, cuối cùng nên Đức Chí-Tôn mới chuyển Đạo nơi vùng Á-đông, đấy là nơi nguồn Đạo phát ra, lại khai nơi Nam-kỳ (một trong ba kỳ nơi cõi Á-đông). Vì cõi Đông-dương đây cũng về miền Đông của Á-châu nên ngày nay phải khởi khai nơi hướng Đông trước rồi mới truyền lần ra hướng Tây.

Như Đức Chúa Jésus khai Đạo bên Âu-châu, thì cũng khởi khai nơi miền Đông của Âu-châu, rồi mới loan truyền khắp cả Âu-châu, ấy là luật tự-nhiên từ cổ chí kim, hễ Đạo phát khai thì cứ bắt đầu từ phương Đông truyền ra.

Ngày nay là giáp một vòng nên khởi lại điểm ban đầu gọi là “Thiên địa tuần-hoàn châu nhi phục thủy” do đó nền Đại-Đạo phải khai tại Á-đông này nên Thầy mới mở Đạo nơi Đông-dương là cực Đông của Á-châu mà lại khai nơi xứ Nam-kỳ là xứ thuộc-địa, dân-tộc yếu hèn, kém cỏi, ấy là do nơi Thiên-cơ tiền định cả muôn năm, lại là thưởng cái lòng tín-ngưỡng của người Nam từ thử.

Tuy khai Đạo tại nước Nam mà cũng khởi từ Đông, do cái lý từ Bàn-cổ sơ khai: “Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, nhơn sanh ư Dần” . Do vậy mà Đạo khởi khai tại Tây-Ninh lần lần truyền ra Gia-Định, Biên-Hòa, Thủ-Dầu-Một, Chợ-Lớn là mấy hạt ở hướng Đông. Qua năm thứ nhì, thứ ba Đạo mới truyền ra mấy hạt hướng Tây”.

7 - Tất cả đều tùng nguyên-lý của vũ-trụ
“Cái nguyên-lý ấy có từ thuở chưa có càn-khôn vũ-trụ. Đạo-giáo có dạy: Hai lằn nguơn-khí đụng lại nổ ra khối lửa, khối lửa ấy là ngôi Thái-cực, chủ ngôi Thái-cực là Đức Chí-Tôn.

Khi trời sét nổ ta nghe gì? An-nam mình kêu là “ùm”. Vì cớ phép Phật sửa lại là “úm” (úm ma ni bát ri hồng). Câu ấy đọc có nghĩa là nắm cả quyền-năng vũ-trụ quản-suất trong tay. Tiếng nổ ta nghe nó ra sao? Khi nổ rồi còn nghe tiếng bay xa, nguyên-căn của tiếng nổ là tiếng trống, còn giọng ngân là tiếng chuông.

Ấy vậy, nguyên-căn của Đạo-giáo do bên Á-đông này có tiếng trống phát khởi trước nên chùa thường xử-dụng độc nhất tiếng trống; tiếng ngân ấy là sự ảnh-hưởng đạo-giáo, mới xuất hiện qua Âu-châu đều là ảnh-hưởng từ Phật-giáo, mà Phật-giáo xuất hiện nơi Á-đông. Vì vậy mà Đạo nơi phương Tây chỉ có tiếng chuông, còn các nền Tôn-giáo phụ thuộc đều không đúng theo nguyên tắc căn-bản.

Do nguyên-lý “Đạo xuất ư Đông” “Đế xuất hồ Chấn” mà ngày nay Đạo Cao-Đài qui-nguyên hiệp nhứt nên có đủ trống và chuông, ấy là thuần túy tinh-thần Á-đông để phát-huy đến cả Đại-Đồng Thế-Giới.

Lại nữa trên chữ nghĩa thì chữ ĐÔNG Thánh-nhân khi chế ra văn-tự cũng đã xác-định phương đông là phương mặt trời mọc; nghĩa là chữ cấu hợp bởi chữ mộc và bộ nhựt tức là mặt trời lên khỏi ngọn cây, vầng dương lên. Kinh đã nói rõ “Ánh thái-dương giọi trước phương Đông. Tổ-Sư Thái-Thượng Đức Ông”, là các tiền Thánh đã khai Đạo từ phương Đông là: Phật-Tổ Thích-Ca Như-Lai khai mở Phật-đạo. Đức Thái-Thượng Lão-Quân khai mở Tiên-giáo. Đức Thánh Khổng-Phu-Tử khai Thánh-giáo, tức là ba Tôn-giáo lớn đã làm chủ tinh-thần nhân-lọai đến ngày nay.
Tòa Thánh Tây Ninh

CHƯƠNG 2

LẦN DỞ TRANG SỬ ĐẠO

1 - Sự ra đời của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ

Đức Hộ-Pháp nói:
“Có nhiều người viết Đạo-sử và đã nói cho người ngoại-quốc hiểu Đạo. Trong ấy có nhiều điều không đúng sự thật, nhứt là trong các bài Cơ.

Đạo ban sơ thế nào?
Nhiều người đã nói đến, đã giảng lịch-sử Đạo, nhưng không đúng lịch-sử chút nào hết. Sự thật như thế này:

Trong năm Ất-Sửu: các Thầy, các Ông, từ hàng Thẩm-phán, Phủ, Huyện, muốn tìm một sự thật mà thiên-hạ đã làm đảo-lộn trong giới trí-thức đương thời là “Con người có thể thông-công cùng các Đấng Thiêng-Liêng vô-hình được” nhứt là thuyết này đã làm cho cả Âu-châu sôi-nổi, nhiều sách vở đã tung ra cả hoàn-cầu do các Hội Thần-linh-học và Thông-thiên-học đã khảo-cứu một cách rõ-rệt. “Loài người có thể sống với cảnh thiêng-liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy.” Cái triết-lý ấy làm cho nhiều người, nhứt là người học-thức muốn tìm-tàng thấu-đáo.

Nơi hạng học-thức ấy có một người cố tâm hơn hết là Đức Cao Thượng-Phẩm. Ban sơ chưa biết gì, chỉ làm theo phương-pháp bên Âu-châu hay bên Pháp là Xây-bàn.

Cái duyên ngộ Đạo của chúng tôi lúc đó chưa có quyền-năng thiêng-liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi muốn tìm hiểu huyền-vi bí-mật thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn đã tạo ra càn-khôn vũ-trụ. Sách vở để lại cũng nhiều, nhưng thật ra lý-thuyết ấy làm cho chúng tôi chưa quyết-định về tín-ngưỡng cách nào mà đức-tin đã có thật vậy.

Khi Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí-Tôn mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo Cao-Đài.

Tới chừng Ngài biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn bút đi các nơi thâu Môn-đệ. Trọng-yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông-đồ có sứ-mạng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này làm môi-giới độ Đạo sau này.

Đức Chí-Tôn biểu chúng tôi phò-loan đặng Ngài dùng quyền-năng thiêng-liêng kêu gọi mấy vị Tông-đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập-Nhị Thời-Quân hiển-hiện ra, trong số các vị Thời-quân ấy có Cao Tiếp-Đạo ở tại Kiêm-Biên chớ không phải ở Sài-Gòn.

Đi thâu Thập-Nhị Thời-Quân rồi, Đức Chí-Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một người thờ Ngài là ông Ngô-Văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu may sắc-phục Giáo-Tông cho Người, kỳ hạn trong mười ngày Người sẽ được lên làm Giáo-Tông. Trong thời-gian mười ngày, chỉ có mười ngày mà thôi! Chúng tôi không hiểu nguyên-cớ nào Ông Ngô-Văn-Chiêu không hưởng được điạ vị ấy.

Ông Ngô-Văn-Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ-sứ buổi nọ, ở tại Hà-Tiên, do nơi Cơ-bút, Đức Chí-Tôn đến với Ngài và thâu Ngài làm Môn-đệ đầu tiên hết, là Người được Đức Chí-Tôn xưng là “CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.”

Trong khi đó Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Đức Chí-Tôn chỉ nhà của Ông Ngô-Văn-Chiêu cho chúng tôi và nói:
- Ngô-Văn-Chiêu thờ Thầy lâu rồi, các con đến đó kết Bạn cùng nó, vì cớ cho nên chúng tôi mới đến Ông Ngô-Văn-Chiêu.

Một buổi nọ chúng tôi phò-loan học hỏi như thường ngày. Đức Chí-Tôn kêu chúng tôi và Đức Cao Thượng-Phẩm phải đi vô trong Chợ-Lớn, đến tại nhà của Đức Quyền Giáo-Tông của chúng ta bây giờ là Ông Lê-Văn-Trung. Buổi nọ Ông Lê-Văn-Trung đang làm Thượng-Nghị-Viện. Hội-đồng Thượng-Nghị-Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng-Thống đời Pháp-thuộc. Chức Nghị-Viện lớn lắm! Ông là người Nam làm đến bực đó thôi; mà nghe ra Ông là người quá sức đời, Tôi với Đức Cao Thượng-Phẩm không hạp chút nào! Nhứt định không làm điều đó được, nghe danh quá đời, chơi bời phóng túng không thể tả hết; buổi chúng tôi ôm Cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí-Tôn độ Ngài. Khi vô tới nhà, thú thật với Ngài rằng:
- Chúng tôi được lịnh của Đức Chí-Tôn dạy Đạo, Anh tính sao Anh tính!”

Ngộ quá chừng quá đỗi. Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi biết: lo sắp đặt bàn ghế, sửa-soạn buổi phò-loan; rồi thì chúng tôi tiếp rước Ông, độ Ông, bắt Ông Nhập-môn đủ hết; chúng tôi không hiểu Ông có tin nơi Đức Chí-Tôn hay không?

Có khi tưởng Ông không tin nơi Đức Chí-Tôn nữa chớ! Trong nhà Ông có nuôi một người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12, 13 tuổi gì đó. Hai Cha con kiếm đâu ra được một cây Cơ không biết. Vái Đức Chí-Tôn rồi cầu Cơ.

Khi phò-loan, thằng nhỏ kia cầm đến cây Cơ thì ngủ, ông thì thức, Cơ thì chạy hoài.

Đức Chí-Tôn dạy Ông nhiều lắm, không biết dạy những gì. Ông hỏi thì Đức Chí-Tôn trả lời, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Từ đó Ông mới tin nơi Đức Chí-Tôn.

Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo-Tông rồi mới xuất hiện ra Hội-Thánh. Nếu chúng tôi làm chứng thì chúng tôi có thể nói rằng: Do nơi Đức Quyền Giáo-Tông mới xuất hiện ra Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài đó vậy.

Ngôi vị của Ông Saint-Pière, Giáo-Hoàng của Thiên-Chúa-Giáo ở La-Mã như thế nào thì ngôi vị của Đức Quyền Giáo-Tông ngày nay cũng thế. Bởi vì chính mình Đức Chí-Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội-Thánh. Ngài đi đến đâu, Tôi và Đức Cao Thượng-Phẩm theo phò-loan để Đức Chí-Tôn thâu Môn-đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt giáo-hóa, chính do nơi Ngài cầu-khẩn Đức Chí-Tôn thâu Môn-đệ. Ngài luôn luôn đi các nơi để phổ-độ chúng-sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo. Đức Chí-Tôn sai hết chúng tôi, tức Thập-Nhị Thời-Quân đi phò-loan cùng hết, không chỗ nào không có Cơ-bút:

Người thì xuống miền Tây, người đi miền Trung, đi cùng hết. Thâu Môn-đệ xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây-Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng, không có một miếng đất cắm dùi làm sao mở Đạo?

Khi đó Đức Chí-Tôn thâu Ông Nguyễn-Ngọc-Thơ tức là Phối-Sư Thái-Thơ-Thanh làm Môn-đệ, Thái-Thơ-Thanh tức là bạn chí-thân, tức là chồng của Bà Lâm Hương-Thanh Nữ Đầu-Sư. Thành thử mỗi người đều có Thiên-mạng nơi mình mà không ai biết, chính Bà là người cầm đầu Nữ-phái đó vậy. Đức Chí-Tôn thâu rồi mới biểu hai vợ chồng Ông Thái-Thơ-Thanh vào mượn Chùa Từ-Lâm-Tự ở Gò-Kén đặng mở Đạo; Chùa Từ-Lâm Tự chưa xong gì hết, có Chánh điện, còn Đông-lang, Tây-lang thì chưa có, đằng này mấy Anh lớn họp nhau xuất tiền ra làm cho xong.

Đến ngày rằm tháng mười năm Bính-Dần thì mở Đạo, chúng tôi gởi Đơn lên Chánh-phủ Pháp xin mở Đạo công-khai, trong đơn có kể tên những người Môn-đệ đầu tiên.

Sau khi mở Đạo nơi Chùa Gò-Kén, tức là Chùa Từ-Lâm-Tự. Người cầu Đạo càng ngày càng đông. Người Pháp buổi nọ sợ chúng tôi làm loạn, nên xúi-giục Hoà-Thượng Giác-Hải đòi chùa ấy lại, đuổi chúng tôi đi cho hết mở Đạo; đồng thời người Pháp bắt đầu làm khó Đạo, hăm he các Chức-sắc, họ lập hồ-sơ đen để trừng-trị những người theo Đạo.

Riêng phần Bần-Đạo là Công-chức, khi vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến Chùa Gò-Kén mở Đạo, Bần-Đạo có xin phép nghỉ sáu tháng, đến chừng trở lại làm việc người ta không cho Bần-Đạo ở Nam-Việt nữa, đổi Bần-Đạo lên Kiêm Biên, tức Nam-Vang (xứ Cam-Bốt bây giờ).

Nơi đó Bần-Đạo vừa làm việc vừa lo mở Đạo, mục-đích là làm thế nào cho Đạo chóng thành-tựu. Riêng phần mấy Anh lớn trong hàng phủ, huyện, đã có chức phận làm quan triều Pháp bị người doạ nạt đủ điều. Nếu theo Đạo Cao-Đài người ta sẽ bắt bỏ tù, người ta còn hăm-he con cái Đức Chí-Tôn sẽ bị Chánh-quyền Pháp triệt-để bắt bớ nữa, vì cớ cho nên mấy Anh phải sợ, một cái sợ rất nên phi-lý. Nhưng người Pháp buổi nọ cầm quyền sanh-sát trong tay, hễ thuận thì còn, nghịch thì chết, không còn ai lạ gì việc đó nữa.

Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ chỉ còn lại có ba người. Ba người ấy thiên-hạ gọi là ba người lỳ. Ba người ấy là:
Đức Quyền Giáo-Tông,
Đức Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo đây.
Chúng tôi nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn, bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí-Tôn và tự-nhiên quyền-năng thiêng-liêng giúp chúng tôi biết Đạo Cao-Đài này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng tộc và giống-nòi, chúng tôi hiểu rõ-rệt như thế, nên ba Anh em chúng tôi nhứt định hy-sinh kiếp sống mình, hy-sinh cả hạnh-phúc để tạo cho nên tướng, nhứt quyết như thế nào, bất kể sống chết. Cả ba chúng tôi, nhứt định phải làm cho Đạo Cao-Đài thành, thành đặng cứu khổ, cứu chủng tộc chúng tôi. Sự quyết chí về tương-lai như thế, nên phải bỏ Chùa Gò-Kén, tức là chùa Từ-Lâm Tự, để về đây, về làng Long-Thành Tây-Ninh để lập nên Toà-Thánh bây giờ đây.

Trong lúc chinh-nghiêng như vậy, tiếc thay Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Cao Thượng-Phẩm phải về cảnh thiêng-liêng trước, còn lại có một mình Bần-Đạo, Bần-Đạo thấy rằng nạn nước nguy-vong, thân nô-lệ ra với hai bàn tay trắng, bắt gió nắn hình, muôn điều khổ-não, lập nghiệp Đạo cho thành, cho con cái Đức Chí-Tôn. Hôm nay Đạo là máu, là xương của con cái Chí-hiếu của Ngài dựng thành đó vậy.

Ba mươi năm khổ não, toàn con cái Đức Chí-Tôn lập nghiệp cho Đạo hôm nay đặng thành tựu. Ngó dĩ-vãng, ngó đương nhiên bây giờ xa cách như Trời với vực. Yếu buổi nọ, so-sánh mạnh hôm nay. Nhục buổi nọ so-sánh vinh-hiển hôm nay, giá-trị xa nhau thiên-lý.

Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn từ khi lập Đạo chịu khổ-hạnh truân-chuyên, chịu nhục-nhã, chịu mọi điều thống-khổ, thì hôm nay được vinh hiển như thế. Bây giờ Đạo nên hình là cả một khối tâm-đức vô biên của con cái Đức Chí-Tôn cho thành tướng.”
(ĐHP:13-10-Giáp-Ngọ 1954)
Nữ Đầu-Sư Lâm Hương-Thanh
- với Thiên phục Chánh-Phối-Sư
(Thế danh: Lâm-Ngọc-Thanh)

Đầu-Sư Thái-Thơ-Thanh
(Thế danh: Nguyễn-Ngọc-Thơ)

2 - Sự ngộ nhận danh-từ

ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ
CỦA NGƯỜI PHÁP

Nền Đại-Đạo đã phải chịu một phen khảo đảo nặng-nề là người Pháp lầm hiểu danh-từ: “Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ”

Với thời điểm khai Đạo là năm Ất-Sửu, qua năm Bính-Dần (khoảng năm 1925-1926). Việt-Nam đang thời-kỳ Pháp-thuộc nên mọi việc đều chịu sự kiểm-soát của ngoại-bang là người Pháp. Đạo Cao-Đài xuất hiện trong thời buổi khuynh-nguy đó.

Sau khi Ông Cao-Quỳnh-Cư (tức Thượng-Phẩm) có ra một “Phổ-Cáo Chúng-Sanh” để truyền-bá Đạo Cao-Đài, trên bìa Bản Phổ-cáo ấy có đề tựa: “Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.”

Lần đầu, Bản phổ-cáo ấy không có kèm theo chữ Hán, nhưng lần sau Ông Cư có ghi thêm mấy chữ Hán:
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ

Để tượng-trưng Tam-giáo qui-nguyên, ngoài bìa Bản Phổ-cáo có vẽ hình ba vị Giáo-chủ là Đức Thích-Ca, Đức Lão-Tử, Đức Khổng-Tử.

Bản Phổ-Cáo Chúng-Sanh in lần đầu được gởi ra Nha Tổng-Giám-đốc Mật-thám Hà-Nội để dịch ra Pháp-văn, nhưng người Thông-dịch-viên ngoài ấy lại dịch câu tựa: Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là một nền Đạo lớn mục-đích để cứu-vớt ba kỳ.

Lúc đó lại là lúc nhà cầm quyền Pháp để ý theo-dõi hành-vi của Đạo Cao-Đài rất gắt, nên Hà-nội gởi bài dịch-văn ấy vào Nam hỏi Ông Chánh-án Sở Mật-Thám Nadau: Có phải Đạo Cao-Đài làm Chánh-trị không để giải tán!

Nhằm lúc ấy, Ông Nadau tin dùng Đức (tức là Trương-Hữu-Đức, sau đắc phong là Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài), nên Ông mới hỏi bài dịch ấy có đúng không?

Đức trả lời: không đúng!
Vì nguyên-văn câu ấy có nghĩa là: Đại-Đạo mở lần thứ ba để độ-rỗi, chớ không phải cứu vớt ba kỳ (vì bấy giờ ba kỳ trong Liên-bang Pháp là Nam, Trung, Bắc của Việt-Nam đang bị Pháp đô hộ). Để trưng bằng-cớ cụ-thể, Đức đem tài-liệu về Bản Phổ-cáo trao cho Ông Nadau xem, vì ông Nadau cũng biết chữ Hán.

Ông liền gởi phúc-trình ra Hà-Nội giải thích rõ việc ấy. Nhờ đó mà Đạo khỏi bị giải-tán và người Đạo cũng đỡ khổ. Đó là một bằng chứng “Đức cứu Đạo”

Lúc nọ ông Đức được Chánh-Sở Mật Thám Nam-kỳ là ông Nadau mời đến để giao cho chức-vụ Thông-dịch-viên sở ấy. Trước khi nhận lời, Đức có cầu Cơ thỉnh-giáo cùng Đức Chí-Tôn, vì lúc bình-thường Đức không thích giúp việc cho Sở ấy, là sở không có cảm-tình đối với dân chúng. Đức Chí-Tôn lại dạy Đức nên qua đó giúp việc cho sở ấy vì sẽ có cơ-hội “cứu Đạo”.

Quả thật, đây là cơ-hội “Đức cứu Đạo” đã đến như lời Đức Chí-Tôn dạy.

3 - PHỔ-CÁO CHÚNG-SANH

ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ
(Năm Bính-Dần 1926)

“Ngày 7 Septembre 1926, nhằm ngày mùng một tháng 9 năm Bính-Dần, có Môn-đệ Thiên-phong của Đức Cao-Đài là Cựu Hội-Đồng Thượng-Nghị-viện Lê-Văn-Trung tự Thiên-ân là Thượng-Trung-Nhựt vâng lịnh Thánh-ngôn đến Khai Đạo nơi chánh-phủ. Trong Tờ Khai Đạo ấy có tên 247 chư Môn-đệ, phần nhiều là Chức-sắc, Viên quan và có Nữ-phái, nhiều người danh-dự.

Quan Nguyên-Soái Nam-kỳ hoan-nghinh và khen rằng vì chữ THIỆN mà khuyên dân, ấy là chủ-nghĩa cao-thượng.

Chúng tôi xin phô đôi lời thành-thật thô sơ, chư hoà-thượng, chư lão-thành, chư sơn, chư Chức-sắc trong Tam-giáo và chư Thiện-nam tín-nữ xin lưu-ý. Chầy kíp đây chúng tôi sẽ có dịp hiệp mặt mà luận Đạo kỹ thêm nữa”.

4 - KHAI ĐẠO NƠI CHÁNH-PHỦ

Đức Cao-Đài dạy vào ngày 16-8 Bính-Dần
(thứ Tư 22-9-1926)

“Các con xin Chánh-phủ Lang-sa đặng khai Đạo, thì cực chẳng bằng Thầy đã ép lòng mà chịu vậy cho tùng nơi Thiên-cơ. Thầy rất đau lòng mà phải chịu vậy chớ biết sao!”

Đàn cùng ngày, khi tái cầu Đức Cao-Đài dạy hai vị Đầu-Sư (Trung, Lịch) phải hội họp các Môn-đệ khác để lo Khai Đạo, phải dâng văn-bản lên để Đức Cao-Đài duyệt xét.

Đúng một tuần sau (ngày 23 tháng 8 năm Bính-Dần, Thứ Tư 29-9-1926).
Các Môn-đệ họp tại nhà ông Nguyễn-Văn-Tường (đường Galliénie, nay là Trần-Hưng-Đạo), trong một đêm mưa to gió lớn kéo dài khoảng 3 tiếng đồng-hồ, làm ngập đường sá, giao-thông bị bế tắc. Có lẽ nhờ điều-kiện thời tiết trợ giúp, cuộc họp mới không bị mật-thám Pháp quấy rầy.

Hai vị Thượng và Ngọc Đầu-Sư chịu trách nhiệm tổ-chức cuộc họp. Kết-quả cụ thể là mọi người đồng-ý ký tên vào TỜ KHAI ĐẠO do Ông Lê-Văn-Trung dự thảo bằng tiếng Pháp. Bản dự thảo sau đó được dâng lên Đức Cao-Đài duyệt, có chỉnh sửa vài chữ và được Ngài chấp-thuận.

TỜ KHAI ĐẠO
Sài-Gòn, ngày 7 Octobre 1926
Kính cùng Quan Thống-Đốc Nam-kỳ Sài Gòn,
Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho Quan lớn rõ:
Vốn từ trước tại cõi Đông Pháp có ba nền Tôn-giáo là: Thích-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo.

Tiên-nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Đạo ấy, lại nhờ do theo tôn-chỉ quí-báu của các Chưởng giáo truyền lại mới được an-cư lạc-nghiệp.

Trong sử còn ghi câu: “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di” nghĩa là con người thuở ấy an-nhàn cho đến đỗi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm.

Nhưng buồn thay cho đời Thái-bình phải mất vì mấy duyên-cớ sau nầy:
1 - Những người hành-đạo đều phân chia ra nhiều phe, nhiều phái mà kích-bác lẫn nhau, chớ Tôn-chỉ của Tam-giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Đấng Tạo-hóa.
2 - Lại canh-cải mối Chánh-truyền của các Đạo ấy làm cho thất chơn-truyền.
3 - Những dư-luận phản-đối nhau về Tôn-giáo, mà ta thấy hằng ngày cũng tại bã vinh-hoa và lòng tham-lam của nhân-loại mà ra, nên chi người An-nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.

Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người An-Nam, vì căn-bổn, vì Tôn-giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam-giáo lại làm một: Qui-Nguyên Phục-Nhứt, gọi là Đạo Cao-Đài hay là Đại-Đạo.

May-mắn thay cho chúng-sanh, thiên tùng nhơn nguyện, Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế hằng giáng đàn dạy Đạo và hiệp Tam-giáo lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tại cõi Nam này.

Tam-Kỳ Phổ-Độ nghĩa là Đại-ân-xá lần thứ ba, những lời của Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng Cơ dạy chúng tôi, đều cốt để truyền-bá Tôn-chỉ Tam-giáo.

Đạo Cao-Đài dạy cho biết:
1 - Luân-lý cao-thượng của Đức Khổng-Phu-Tử.
2 - Đạo-đức của Phật-giáo và Tiên-giáo là làm lành lánh dữ, thương-yêu nhơn-loại cư-xử thuận hoà mà lánh cuộc ly-loạn, giặc-giã.

Chúng tôi gởi theo đây cho Quan lớn nghiệm xét
* Một bổn sao lục Thánh-ngôn của Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.
* Một bổn phiên-dịch Thánh-kinh.

Chủ-ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn-loại được cộng hưởng cuộc Hoà-Bình như buổi trước. Được như vậy chúng-sanh sẽ thấy đặng thời-kỳ mới mẻ cực-kỳ hạnh-phúc không thể nào tả ra đặng.

Chúng tôi thay mặt cho nhiều người An Nam, mà đã nhìn-nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào Tờ Đạo-tịch ghim theo đây, đến khai cho Quan lớn biết rằng: Kể từ ngày nay chúng tôi đi phổ-thông Đại-Đạo khắp cả hoàn cầu.

Chúng tôi xin Quan lớn công-nhận TỜ KHAI ĐẠO của chúng tôi:

KÝ TÊN

1 - Bà Lâm-Ngọc-Thanh Nghiệp-chủ Vũng-Liêm
2 - Ông Lê-Văn-Trung Cựu Thượng-Nghị-Viên thọ Ngũ Đẳng Bửu-tinh (Chợ-Lớn)
3 - Lê-Văn Lịch Thầy tu làng Long-An, Chợ-Lớn
4 - Trần-Đạo-Quang Thầy tu, làng Hạnh-Thông Tây
5 - Nguyễn-Ngọc Tương Tri-phủ chủ Quận Cần Giuộc.
6 - Nguyễn-Ngọc-Thơ Nghiệp-chủ Sài-Gòn.
7 - Lê-Bá-Trang Đốc-phủ-sứ Chợ-Lớn.
8 - Vương-Quan-Kỳ Tri-phủ Sở Thuế thân Sài-Gòn
9 - Nguyễn-Văn-Kinh. Thầy tu, Bình-Lý-thôn Gia-Định.
10 - Ngô Tường-Vân Thông phán sở tạo tác Sài Gòn
11 - Nguyễn-Văn-Đạt Nghiệp-chủ Sài-Gòn
12 - Ngô-Văn-Kim, Điền-chủ, Đại-Hương-cả, Cần-giuộc.
13 - Đoàn-Văn-Bản Đốc-học trường Cầu-Kho
14 - Lê-Văn-Giảng Thơ-ký kế toán hãng Ippolito Sài-Gòn
15 - Huỳnh-Văn-Giỏi Thông-phán Sở Tân-đáo Sài-Gòn
16 - Nguyễn-Văn-Tường Thông-ngôn Sở Tuần cảnh SG
17 - Cao-Quỳnh-Cư Thơ-ký Sở Hoả-xa Sài-Gòn.
18 - Phạm-Công-Tắc Thơ-ký Sở Thương-chánh Sài-Gòn
19 - Cao-Hoài-Sang Thơ-ký Sở Hoả-xa Sài-Gòn.
20 - Nguyễn-Trung-Hậu Đốc-học Trường Tư-thục Đakao
21 - Trương-Hữu-Đức Thơ-ký Sở Hoả-xa Sài-Gòn
22 - Huỳnh-Trung-Tuất Nghiệp-chủ Chợ Đủi Sài-Gòn
23 - Nguyễn-Văn Chức Cai-tổng Chợ-Lớn.
24 - Lại-Văn-Hành Hương Cả Chợ-Lớn.
25 - Nguyễn-Văn-Trò Giáo-viên Sài-Gòn.
26 - Nguyễn-Văn-Hương Giáo-viên Đa-kao.
27 - Võ-Văn-Kỉnh Giáo-tập Cần-Giuộc.
28 - Phạm-Văn-Tỷ Giáo-Tập Cần-Giuộc.

Thật ra con số này là một con số đã được đặt định một cách hữu-lý.
Con số 28 này ứng với nhị thập bát tú. Nhị Thập bát tú tức là 28 vì sao trên trời nó có ảnh hưởng rất nhiều đến việc thịnh, suy, bĩ, thới của nhân-loại. Số sao này được chia ra làm bốn nhóm:
1 - Đông-phương có 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ.
2 - Bắc-phương có 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.
3 - Tây-phương có 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tuy (Chủy), Sâm.
4 - Nam-phương có 7 sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Lại nữa 4 nhóm là nói lên Tứ-tượng biến hóa, 7 là chu-kỳ vận-hành để suốt thông trời đất.

Như vậy thì sự có mặt của 28 vị này là vô tình hay cố ý? Chắc-chắn về phần hữu-vi thì vô tình, nhưng về phần vô-vi thì không vô tình được. Như vậy mỗi mỗi đều có bàn tay của Thượng-Đế xếp đặt tất cả. Nhưng ta đừng quá ỷ lại!

5 . LUẬN ĐẠO

LUẬN 6 CHỮ ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

Tinh-thần của Đại-Đạo là Dịch-lý luôn gắn liền với NHO, Y, LÝ, SỐ.

NHO là dạng-thức của chữ Nho, cũng là triết-lý của Nho-tông chuyển thế.
Y là dựa trên căn-bản của con người làm đối-tượng cho sự lý-luận. Đạo là mục-đích giải khổ cho con người trong kiếp sống hiện tại và giải-thoát cho kiếp thác ở ngày mai. Bởi nhân thân là một Tiểu-thiên-địa đối với trời đất là đại thiên-địa; xem ra như bóng với hình, cho nên người không bao giờ xa Đạo là vậy.

LÝ là theo trật-tự của thiên-lý lưu-hành; là biết thuận Thiên an mệnh.
SỐ là theo triết-lý các con số uyên-nguyên đi đúng theo nguyên-lý của trời đất.
Thử tìm hiểu về lý và số ngay trong danh hiệu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-độ này. Đức Hộ-Pháp có nói:
“Khi Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí-Tôn mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo Cao-Đài” và cũng nhờ dịch bản có kèm theo chữ Hán làm bằng chứng, nếu không thì do sự nhầm-lẫn của người Pháp, họ sẵn-sàng làm khó dễ, diệt Đạo ngay từ khi còn trong thời kỳ trứng nước.

Hình-thức chữ Hán: .

a/ - Nguyên-lý về Số tạo nên 2 quẻ Càn Khôn.
Bấy nhiêu yếu-tố đó đã cho thấy rằng danh-hiệu “Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” có 6 chữ; đứng về số-học thì số 6 là do 3+3 hay là 3x2.
Hoặc nói khác đi số 6 là do lý Thái-cực hiệp với cơ-quan an-vị này, tức nhiên do 1+5.
Cũng có nghĩa là Lưỡng-nghi hiệp cùng Tứ-tượng, là do 2+4; nghĩa là hai lý Âm dương đun đẩy nhau để biến sanh những cái đã sanh ra.

Trước nhất nó có nghĩa là 3+3 tức là 3 ngôi đầu tiên hỗn-hợp nhau để hóa thành 3 ngôi nhỏ nữa, cũng có nghĩa là 3x2 tức là 3 ngôi ở cấp thứ nhì do luật Âm Dương biến tướng với 3 ngôi đầu tiên. Quả thật, nhìn vào từ-ngữ thì 6 chữ “Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” là do 3 từ kép, mỗi từ có 2 chữ.

Con số 2 là con số Thiếu-âm, con số 3 là con số Thiếu-dương, tất cả đều là nằm trong số của Tứ-tượng.
Vì Thái-cực là một khối nguyên-thủy, khi phân tách ra thì thành hai, gọi là Lưỡng-nghi, tức là Âm Dương. Âm Dương được biến hóa thêm, mới thành hai mối quan-hệ nữa, gọi là Tứ-tượng, tức nhiên bốn hình tượng, đó là:
1 - Thái-dương
2 - Thiếu-âm
3- Thiếu-dương
4 - Thái-âm

Thiếu là trẻ, còn được xem như là tất cả sự năng-nổ, tràn đầy sức sống của tuổi thanh-niên.

Thế nên Đại-Đạo là một nền Đạo trẻ, bởi vừa thoát thai từ năm Bính-Dần (1926) nhưng triết-lý là gồm tinh-hoa của triết-lý ba nền Tôn-giáo lớn từ xưa đến giờ là Nho, Thích, Đạo hiệp lại, nên Thầy mới nói:
Từ trước nước Nam chẳng Đạo nhà,
Nay TA gầy dựng lập nên ra.
Ví dù ai hỏi sao bao nã?
Rằng trẻ roi sau biến hóa già.

Hai con số 3 này cũng gọi là tam âm, tam dương. Hãy tìm đến khởi thủy của số này:
* Tam âm là gì? Tức là ba hào âm xếp thành một quẻ có tên là quẻ Khôn
* Tam dương là gì? Tức là ba hào dương xếp thành một quẻ có tên là quẻ Càn
Hai quẻ Càn Khôn là hình ảnh cha mẹ, là cánh cửa để vào Đạo DỊCH vậy.
b/ - Về Y-Lý Tạo nên hai quẻ Càn Khôn:
Nếu lấy theo hình ảnh con người, thì tất cả con người trên thế-giới này đều có những cơ-quan giống nhau như:
Tại sao phải lấy hình ảnh của con người? Vì người là một sản-phẩm hoàn-hảo nhất của Thượng-Đế. Thánh-nhân do theo đó mà làm nên nét chẵn, lẻ; âm, dương để diễn-tả sự chuyển biến trong vũ-trụ này. Do vậy nét đứt  biểu thị bằng hào Âm, nét liền tượng hào Dương

Nét liền, nét đứt đều do từ lý tính của người.
Chính do Âm Dương này đã trở thành đầu mối của càn-khôn vũ-trụ mà Thánh-nhân đã làm nên bộ Kinh Dịch bất hủ.Với con số 7 là 7 khiếu (khiếu là lỗ) ở trên mặt, tức là 7 khiếu dương; nhờ dương-điển trên mặt nên tất cả con người dù xứ nóng hay xứ lạnh đều chịu được thời tiết mỗi nơi khác nhau, nếu khí âm lên đến đầu hay mặt, là bịnh. Con số bảy có liên-hệ đến thất tình và thất khiếu sanh-quang của con người nữa. Do các con số này đã làm nên các phương-trình Đạo-học, đã và đang áp-dụng trong thế-giới loài người.

Xưa Phật chỉ độ phần dương mà thôi, tức là độ hồn mà không độ xác, độ tử không độ sanh, độ Nam mà không độ Nữ, nên Phật-giáo chỉ làm tuần thất (nghĩa là 7x7=49 ngày)

Ngày nay, chính Đức Chí-Tôn mở Đại-Đạo, là cơ-quan tận-độ chúng-sanh, tức là thực hiện cả con số 9 (hình ảnh của toàn Cửu khiếu = 7 khiếu dương + 2 khiếu âm) tức nhiên kỳ ba này độ cả hồn lẫn xác, độ sanh và độ tử, độ cả Nam và Nữ, độ toàn cả nhân-loại trên Càn-Khôn Thế-Giới, không phân biệt giống dân nào; vì tất cả đều là con của Thượng-Đế.

Bởi thế, nên Thầy lập Cửu-Trùng-Đài là con đường vào Cửu-Trùng-Thiên, từng bước lên nấc thang tiến-hóa qua Cửu-Phẩm Thần-Tiên để đến nơi tuyệt-phẩm là Niết-Bàn, theo như Phật-giáo quan-niệm đó vậy.

Do đó mà nghi-thức cúng kính của Đại-Đạo là làm tuần cửu (9x9=81) nghĩa là siêu độ cho vong linh, bắt đầu từ ngày chết đếm đủ 9 ngày thì làm tuần một lần, mỗi lần cầu siêu-độ như vậy là đưa hồn lên một từng trời, 9 lần như vậy là đưa hồn người qua chín từng trời. Tinh-thần của Đại-Đạo là nhứt-quán từ nghi-thức, thờ phụng, cúng kính. thể-pháp của Đạo đã hiện hình bí-pháp đó.

Lại nữa Đức Thượng-Đế cũng đã chuẩn-bị cho Việt-Nam này có những điều-kiện để hoàn thành một Quốc-gia Thiên-định, đó là Thất-Sơn ở Châu-Đốc (con số 7) và Cửu-Long-giang (con số 9) tức là “Sơn tiền điểm long mạch”, những con số y như hình ảnh của con người vậy.

Con số 9 là bội-số của 3 ( 3x3=9)

Con số 3 là sự thành hình của vạn-vật định thể, cho nên khi thể hiện đủ 3 nét liền đó là quẻ Càn tượng trưng cho một hiện-tượng tròn đầy, cao cả, trong sáng, lớn mạnh: Là Cha, là Trời mênh-mông vô hạn.

Trong khi đó hiệp đủ 3 nét đứt, họp thành quẻ Khôn để chỉ một sự bao dung, đầm-ấm, yêu-ái như tình mẹ thương con. Thế nên, dưới mắt người Á-đông Càn là Cha, Khôn là Mẹ. Là hai cánh cửa để đi sâu vào Đạo Dịch là vậy.

Khi cha mẹ kết hợp lại thì tạo nên hình-thể thứ ba đó là sự thành-hình của người con. Một đứa con ra đời thì đầu quay xuống phía dưới, tức nhiên một hài-nhi mới ra đời, sẽ thấy trước nhứt:
BĨ là thời-kỳ bế-tàng, như một trẻ bé cần sự giúp đỡ của cha mẹ và mọi người mới sống được, suy ra là một việc mới khởi đầu, non nớt, yếu đuối.

Với nền Đại-Đạo lúc bấy giờ cũng là thời BĨ. Bởi đất nước Việt-Nam vừa trải qua hai lần lệ-thuộc của Tàu một ngàn năm, của Tây một trăm năm.

Về tinh-thần Việt-Nam thì nền luân-lý hầu như suy-đồi, văn-hóa chịu ảnh-hưởng của ngoại bang, dân Việt theo tín-ngưỡng thập tàng, cuốn theo chìu hướng dị-đoan mê-tín. Đây chính là thời Bĩ của dân-tộc Việt-Nam!

Ngay thời-điểm cực kỳ đen tối như vậy thì Đức Chí-Tôn đến, Ngài đến để xoay thành vận THÁI, tức là đem lại sự hanh-thông, sáng-sủa, huy-hoàng cho dân-tộc Việt, đồng thời để giải nguy cho nhân-loại đang lâm vào cảnh đau thương nhất, loạn-ly nhất như hiện tại đã thấy.

“Đức Chí-Tôn mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tức là Đạo Cao-Đài đặng mở một kỷ-nguyên mới, qui Tam-giáo hiệp Ngũ-chi, lập thành một nền Tôn-giáo Đại-Đồng cho hiệp với trình-độ tiến-hóa của nhơn-loại và của quả địa-cầu 68 của chúng ta, dọn đường cho Đức Di-Lạc ra đời”.

“Vì muốn độ 92 ức nguyên-nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa-đọa cõi hồng-trần. Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo không giáng trần bằng xác thân mà chỉ giáng bằng huyền-diệu Cơ-bút mới qui đặng cả Đại-Đồng Thế-Giới”.

Thái là gì? - Thái là hanh thông, nhìn vào quẻ Thái, tức nhiên là quẻ đảo ngược của quẻ Bĩ, là người đứng vững, vươn lên một cách mạnh-mẽ.
Trước tiên sẽ thấy:
Ngày nay, Đức Chí-Tôn đến để vãn-hồi quốc vận, Ngài đã cấy hột giống thương-yêu trên đất nước Việt-Nam này, đó là hột giống NGHĨA NHÂN để cứu cả toàn cầu sắp cơn tận diệt. Chính hai quẻ Càn Khôn là cánh cửa để đi vào Đạo Dịch, cho nên từ đây có sự biến chuyển, vận-hành dưới nhiều dạng thức.
Trên là hình ảnh của quẻ trong Bát-quái, từ đó sẽ biến hóa vô cùng, vô tận.

c/ - Hai quẻ Càn Khôn xếp thành chữ ĐIỀN

Như đã biết DỊCH là biến, cho nên sự biến hóa rất nhiều dạng khác nhau:
Quẻ Càn tượng trưng cho sự cứng, mạnh, lớn-lao, cao thượng; là hình ảnh Trời, Cha, Nam-phái, dưới dạng ba nét liền (dương).

Quẻ Khôn tượng-trưng cho sự mềm mại, bền-bĩ, dẻo-dai, bao dung, sức chịu khó, là Mẹ, dưới dạng ba nét đứt (âm).

Nếu hai quẻ đặt theo chiều thuận nghịch sẽ thành ra chữ ĐIỀN (điền là ruộng). Ở đây muốn chỉ cái tâm con người, đó là Tâm điền tức nhiên quẻ Càn có thể đặt theo chiều đứng tượng không-gian, là dương, còn quẻ Khôn là âm, đặt nằm ngang, tượng thời gian, hai quẻ đặt chồng lên nhau thành ra chữ điền là vậy. Tại sao phải là chữ Điền?

- Bởi vì nó có liên-quan mật-thiết đến Bát-quái sau này mà chúng ta sẽ bàn đến (đặc biệt là Bát-quái Hậu-thiên và Bát-quái Đồ-thiên)

d/ - Quẻ Càn Khôn xếp thành một hình
Như trước đây đã nói Dịch là biến-hóa không ngừng, cho nên lý tam âm, tam dương sẽ cho ta một phương thức mới:

Quẻ Càn có ba hào dương nếu lấy ba đoạn thẳng này xếp thành một hình tam-giác đều: có ba cạnh bằng nhau và ba góc bằng nhau, quẻ Khôn kết hợp bằng 3 nét đứt, nếu đặt ngược lại cũng có được một tam-giác đều nữa, đỉnh sẽ quay xuống dưới, hai hình tam-giác gát chồng lên nhau sẽ tạo thành ngôi sao sáu cánh.

Khi Đức Hộ-Pháp còn sanh tiền Ngài có làm một huy-hiệu hình ngôi sao như thế này, sơn nền vàng, giữa có ảnh bán diện của Đức Ngài, đầu đội mão trắng, mắt hướng về phiá hữu (nhìn đối diện), giữa ngôi sao là ba sọc đỏ. Đặc biệt là mỗi cánh sao có mang chữ danh-hiệu “Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” bằng chữ Hán như vầy:
- Chữ Đại (3 nét) đặt ở cánh bên mặt B’)
- Chữ Đạo (12 nét) đặt ở đỉnh, tức là đi nghịch chiều kim đồng-hồ (A)
- Chữ Tam (3 nét) đặt ở cánh trái, tức là đối xứng nhau qua chữ Đạo ở giữa (C’)
- Chữ Kỳ (12 nét),
- Chữ Phổ (12 nét),

- Chữ Độ (12nét ) tiếp tục xếp trên ba cánh còn lại (các đỉnh B, A’ và C) (Xem thêm về Đức Hộ-Pháp).

Ý-nghĩa:
Qua hình ảnh trên cho ta một nhận-xét về lý Dịch trong danh-hiệu này:
Các chữ xếp theo chiều nghịch với kim đồng-hồ; sự nghịch chuyển như vậy tức nhiên là trở về nguồn; chỉ con đường Đạo phải phản bổn huờn nguyên.

Hai con số 3 của chữ “Đại” và chữ “Tam” xác định lý tam âm, tam dương của hai hình tam-giác gát chồng lên nhau thành ngôi sao sáu cánh. Mỗi một hình tam-giác nói lên ý-nghĩa một sanh ba, ba sanh vạn-vật, tức nhiên:
- 3 nét dương của quẻ Càn tạo thành tam-giác đều, đỉnh quay lên.
- 3 nét âm của quẻ Khôn tạo thành tam-giác đều, đỉnh quay xuống dưới.

Ý-nghĩa 1 sanh ba, 3 sanh vạn-vật, thuộc về cơ-quan chưởng-quản. Hai tam-giác gát chồng lên nhau chỉ âm dương hiệp nhứt, đó là quyền Chí-linh đối phẩm với quyền Vạn-linh:
- Chí-linh là cơ qui nhứt (đỉnh A)
- Vạn-linh là cơ tấn-hóa (đỉnh A’)
4 chữ hàng trên: ĐPTN là “Đảng phái thống nhất” số 4 là tượng cho tứ âm, tứ dương.
5 chữ hàng dưới: GCPCT là “Giáo-chủ Phạm-Công-Tắc”. Số 5 tượng Ngũ-hành, ngôi giữa.

Thế nên, Chí-linh đầu nhọn quay lên, mà Vạn-linh đầu nhọn quay về phía dưới. Chí-linh và Vạn-linh vốn đồng quyền nhau. Đạo chủ-trương trời người đồng trị: Người trị xác, Trời trị hồn.

Màu vàng chỉ giống da vàng, Huỳnh-chủng, lý Ngũ-hành thuộc Thổ, nền Đại-Đạo phải có một triết-lý siêu-tuyệt để dẫn đạo tinh-thần của toàn nhân-loại trên mặt địa-cầu này, đó là “Thiên khai Huỳnh-Đạo Ngũ-chi Tam-giáo hội Long-Hoa” như Đức Chí-Tôn đã chọn:
“Một nước nhỏ-nhoi trong Vạn-quốc,
“Ngày sau làm Chủ mới là kỳ.”

Ba sọc đỏ: nhứt là biểu-hiện ba miền Nam, Trung, Bắc của Việt-Nam. Ứng hiệp với câu:
“Nam Bắc cùng rồi ra ngoại-quốc,
“Chủ-quyền Chơn-Đạo một mình Ta.”

Nền Chơn-đạo chính là tinh-thần Tam-giáo qui-nguyên Ngũ-chi phục-nhứt đó vậy!
Đức Hộ-Pháp có hình bán diện, nói lên ý nghĩa về quyền-hành của Ngài là Giáo-chủ nền Đại-Đạo về hữu-hình mà thôi. Còn Quyền Chí-Tôn là tối-thượng, cho nên chữ Đạo 12 nét đặt ở trên đỉnh của ngôi sao sáu cánh là chỉ ngôi Trời.

Ba chữ còn lại là: Kỳ (12nét), Phổ (12nét), Độ (12nét) cọng chung là 36 đó là:
“Ba mươi sáu cõi Thiên-tào,
“Nhập trong Bát-quái mới vào Ngọc-Hư.”

Lần-lượt rồi ta tìm đến các Bát-quái ấy để rõ lý hơn.
Trong cửa Đạo Cao-Đài, hình ảnh tam-giác đều được biểu-tượng bằng ba ngôi: Phật, Pháp, Tăng.

Phật tức là Đấng cầm quyền Chúa-tể càn-khôn vũ-trụ là Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế hay còn gọi là Đại-Từ-Phụ.

Pháp là ngôi của Đức Phật-Mẫu Diêu-Trì cầm quyền-năng tạo khí thể của toàn vạn-linh sanh-chúng là Mẹ của cả chúng-sanh.

Tăng là ngôi của Đấng đại-diện trong mỗi nguơn-hội. Nay là thời-kỳ của Đức Di-Lạc-Vương Chưởng-quản. Tam-kỳ còn gọi là “Tam-Thiết Long-Hoa Bạch-Vương Đại-Hội Di-Lạc Cổ-Phật Chưởng Giáo Thiên-Tôn”.
Ngôi Phật, Pháp không đổi. Ngôi Tăng thay đổi tùy mỗi thời-kỳ.

e/ - Đền-Thánh này chứa tất cả bí-pháp
Nay, Đức Chí-Tôn đến tạo Đạo Ngài dựng nên Toà-Thánh Cao-Đài hiện tại nơi miền Nam Việt-Nam này là ngôi của Đức Chí-Tôn ngự, tượng-trưng Bạch-Ngọc-Kinh tại thế.

“Cái quyền-năng vô cực vô thượng của Ngài do những pháp vô-vi mầu-nhiệm mà có nên gọi là bí-pháp. Đức Chí-Tôn cũng dùng bí-pháp mà lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để ứng nghiệm cái quyền-năng của Ngài nơi địa-cầu 68 này để bảo-tồn cơ sanh-hóa, vì Ngài là Chúa sự thương-yêu, mà vì thương-yêu mới có sanh sanh hóa hóa. Vậy nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ do bí-pháp lập thành.

“Đền-Thánh là nơi Thầy ngự tại thế cũng do bí-pháp mà biến tướng ra. Ấy vậy, Đền-Thánh này chứa tất cả bí-pháp của Đấng Chúa-tể càn-khôn vậy.

Đền-Thánh hoàn thành là cái triệu chứng “châu nhi phục thủy”. Từ đây đến vô cùng vạn-linh sanh-chúng sẽ hưởng được muôn điều hạnh-phúc của quyền-năng vô cực vô thượng của Đức Chí-Tôn ban cho tại thế này”.

Hơn thế nữa nguồn phát xuất Đạo-pháp của Cao-Đài cũng đều do Kinh Dịch mà ra. Chính Đức Hộ-Pháp đã xác-nhận điều ấy không thể lầm lẫn được. Duy chúng ta nên kiếm hiểu để hợp-lý hóa cho những lời Thầy nói mà thôi:

Đức Hộ-Pháp đã xác nhận:
“Bần-Đạo cảm thấy Kinh này là cả một triết-học Á-đông độc nhất vô nhị, mà chính là những bí-pháp cổ-truyền của Đạo Cao-Đài, một Đạo-giáo Việt-Nam hoàn-toàn nảy sanh ở cái triết lý hoàn-toàn Á-đông mà Kinh này đã gồm hết những lý-thuyết cao siêu đã nêu cao được tinh-thần Đại-Đạo…. Vì lẽ ấy Bần-Đạo giới-thiệu với tất cả đồng-bào Việt-Nam quyển Kinh này cũng như tất cả dân-tộc hiểu biết và tôn-trọng hòa-bình trên thế-giới. Trong đó nó tiềm-tàng một cái gì thiêng-liêng của nhân-loại, của vũ-trụ. Bần-Đạo mong rằng quyển Kinh này sẽ phổ-biến trong khắp thế-giới của loài người”.

Thế nên, nhất nhất mỗi việc chi trong cửa Đạo Cao-Đài cũng đều ẩn-tàng một bí-pháp, huyền-diệu, nhiệm-mầu mà Chí-Tôn đã bày ra tất cả không ngoài cái lý Dịch đã ẩn chứa khắp nơi.
Thầy nói: “Phải bày bửu-pháp chớ không đặng dấu nữa” (TNI/13).

Tuy nhiên muốn hoàn thành con đường đạt Đạo trước nhất phải thực hiện cho được lời dạy của Thầy, rồi tiếp tục mở các cánh cửa của Đạo Dịch để thư-thả bước vào tòa lâu đài nguy-nga tráng lệ, nơi đó Đức Chí-Tôn, Phật-Mẫu và các Đấng Thiêng-Liêng vẫn đang mong đợi từng giờ.

“Thầy đã dạy: Thầy chỉ một lòng mơ-ước cho các con biết thương-yêu nhau trong Thánh đức của Thầy, sự thương-yêu là chìa khóa mở cửa Tam-Thập-Lục-Thiên, Cực-Lạc Thế-Giới và Bạch-Ngọc-Kinh. Kẻ nào ghét sự thương-yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa luân-hồi”.

Có câu này nữa:
“Mọi sự khó-khăn Thầy gánh vác, chỉ cậy các con thương-yêu gắng công độ rỗi”. (TNII/42)
Và dưới đây là những người đến với Đạo trước tiên, Đức Chí-Tôn gọi là “Tam vị Đạo-hữu”.
Thượng-Phẩm
CAO-QUỲNH-CƯ

Hộ-Pháp
PHẠM-CÔNG-TẮC

Thượng-Sanh
CAO-HOÀI-SANG


CHƯƠNG 3

ĐÂY ĐẠO HÌNH THÀNH DO BA NGƯỜI

ĐẠO THÀNH DO BA NGƯỜI

A - Duyên khởi
Buổi ban sơ chỉ có ba Ông là bạn thân-thiết với nhau, là:
- Ông Cao-Quỳnh-Cư
- Ông Phạm-Công-Tắc
- Ông Cao-Hoài-Sang

hiệp với nhau chơi Xây bàn. Đây là một phương-pháp thông-công với các Đấng Vô-hình.

Đạo-Sử Xây Bàn của Bà Hương-Hiếu xác nhận rằng:
“Nhớ lại hồi hạ tuần tháng bảy năm Ất Sửu (1925) ba Ông thỉnh bàn ra (lúc này hơi in như say Đạo) ba Ông tính cầu Cô Đoàn-Ngọc-Quế về dạy thi văn, ba Ông để tay lên bàn thì bàn dở hổng lên có một Ông giáng, tôi hỏi tên gì?

Thật rất lạ-lùng xưng là AĂÂ, vì khi Ngài đến, Ngài gõ ba cái, chúng tôi theo cách tính xây bàn: hễ gõ một cái là A, gõ hai cái thì Ă, gõ ba cái thì Â. Đấng AĂÂ duy chỉ dạy Đạo và vấn nạn mà thôi. Khi xưng tên là AĂÂ, chúng tôi hỏi nữa thì Đấng AĂÂ không nói gì hết (sau Đức Ngài mới xưng danh là Đức Chí-Tôn).

Đức Cao Thượng-Phẩm có nói:
- “À, chịu tên Ông là AĂÂ rồi, vậy chớ Ông bao nhiêu tuổi? Ông viết mãi, không biết bao nhiêu tuổi mà nói; trăm rồi ngàn, rồi muôn, mà còn viết nữa, Đức Thượng-Phẩm nói sao Ông cả triệu tuổi vậy?

Chúng tôi thật không biết Ông AĂÂ là Đức Chí-Tôn chút nào hết, bây giờ hiểu lại, Ngài xưng là Tam, mà Tam là càn-khôn vũ-trụ định thể, ba chấm nói rõ là số 3, số thiêng-liêng tạo đoan vạn-vật là vậy.

Tới chừng Đức Chí-Tôn xuống Cơ-bút dạy Đức Cao Thượng-Phẩm cầu Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu đến cùng chúng tôi, chính mình Đức Chí-Tôn làm một lễ rước rất ngộ-nghĩnh.”

Bấy giờ là một tối thứ bảy, nhằm lối thượng tuần tháng 8 năm 1925, ba Ông đem bàn ra sân đốt nhang khấn-vái và mời các vị Tiên-Nương.

Hôm nay có Tiên-cô Đoàn-Ngọc-Quế giáng, đàm-luận một hồi, rồi ba Ông lại xin kết làm huynh-muội với Đấng Nữ-Tiên, Thất-Nương bằng lòng, bèn kỉnh:
            Ông Cao-Quỳnh-Cư làm Trưởng-ca  
            Ông Phạm-Công-Tắc làm Nhị-ca       
            Ông Cao-Hoài-Sang làm Tam-ca       
Nếu mỗi vị được biểu-tượng một vạch như vầy sẽ có được một quẻ CÀN (Nam, đó là nét dương, biểu thị bằng vạch liền  )

Còn Cô là Tứ muội (Nữ, tượng bằng một nét âm, vạch đứt  nếu đặt xổ xuống xuyên qua quẻ Càn thành ra chữ VƯƠNG Đây chính là tên thật của Thất-Nương VƯƠNG-THỊ LỄ còn cái tên Đoàn-Ngọc-Quế là một giả danh. Phải chăng Đấng Thượng-Đế đã sắp đặt cho Diêu-Trì-Cung đến để báo trước cho ba Ông biết rằng Thượng-Đế sắp giao cho mối Đạo nhà là một nền Vương-Đạo, lấy LỄ làm đầu, đồng thời dẫn-dắt cho ba Ông lần vào con đường đạo-đức. Bài thơ giao duyên của Thất-Nương có tựa đề “Thác vì tình” thể thất ngôn bát cú, như sau:
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc-các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền-đài.
Dưỡng sanh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn-dập tương-tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm-sự tỏ cùng ai?

Ba Ông hết lời khen “lời châu ngọc” của điệu thơ Tiên. Xong hoạ lại ngay.
* Bài hoạ của Ông Phạm-Công-Tắc:
Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai!
Trời xanh vội lấp Nữ-anh-tài.
Tình thâm một gánh còn dương-thế,
Oan nặng ngàn thu xuống dạ-đài.
Để thảm Xuân-đường như ác xế,
Gieo thương lữ-khách ngóng tin mai.
Hềm gì chưa rõ đầu đuôi thế,
Ngẩn bút hòa thi tủi phận ai!
                                                                                              (Nhị ca: Phạm-Công-Tắc)

* Bài hoạ của Ông Cao-Quỳnh-Cư:
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai?
Mộ người quốc-sắc đấng thiên-tài,
Nhìn văn độ phẩm hàng khuê-các.
Xót Bạn tri-âm cõi dạ-đài.
Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước,
Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai.
Cửu-tuyền hồn Quế xin linh chứng,
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai?
                                                                                  (Trưởng-ca: Cao-Quỳnh-Cư)

* Bài hoạ của Ông Cao-Hoài-Sang:
Nửa chừng Xuân gãy tủi thân ai?
Nông-nỗi nghĩ thôi tiếc bấy tài.
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách Chương-đài.
Những ngờ duyên thắm trao phòng Bích!
Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai.
Một dải đồng-tâm bao thuở nối,
Nửa chừng Xuân gãy tủi thân ai?
                                                                                              (Tam-ca: Cao-Hoài-Sang)

Ông Cư hỏi: Cô Đoàn-Ngọc-Quế khi còn tại thế, xứ ở đâu?
Đáp: Ở Chợ-lớn!
Hỏi: Cô học trường gì?
Đáp: Học trường Đầm.

Bữa sau, Ông Cư mời Ông Tắc và Ông Sang ra nhà Ông xây bàn đặng mời Cô Quế về làm thi, ba Ông cứ hỏi Cô Quế về những việc Thượng-giới, Cô cũng vui lòng trả lời cho hiểu việc thiên-cơ chút ít, nhờ Cô Quế dùng huyền diệu độ ba Ông và bố-trí cho ba Ông ham việc Thiên-cơ hơn trần-thế.

Ban ngày làm việc, ba ông trông cho mau tối để thỉnh bàn ra trước hàng ba, tắt đèn điện phía trước đặng cầu hỏi Đoàn-Ngọc-Quế về cõi trên, mỗi đêm mỗi cầu Cô về giải mấy bài thi. Khi thì Cô giáng, có bữa các Đấng giáng.”

Lại có đêm nọ, các ông vừa họp lại bàn, thì cô Vương-Thị-Lễ giáng cơ để trình-diện một vị Tiên mới đến, xin ra mắt quí ông. Các ông mừng rỡ, bèn mời tân-khách giáng vào; đoạn Tiên-Nương giáng-linh xưng rằng:

- Em là Hớn-Liên-Bạch, xin hiến một bài thi ra mắt mấy Anh; song, xin mấy Anh chớ nệ chi về văn-chương hay dở!

- Ông Cao-Hoài-Sang liền tiếp rằng: Tôi vừa nghe Cô Vương-Thị-Lễ nói thi-văn của Cô hay lắm; vậy tôi xin ra đề (ý của Ông Sang chưa tin cho mấy, e vì các ông bịa đặt mà giả-mạo gạt chăng).
Cô bằng lòng, Ông Cao-Hoài-Sang suy nghĩ ra đề-tài là “Tiễn-biệt tình lang”

THI
Chia gương căn-dặn buổi trường-đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẻ ngùi trông con ác xế.
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây án ngàn dâu khuất,
Đêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn-mỏn.
Xa xuôi ai thấu nỗi đinh-ninh.
                                                           (Hớn-Liên-Bạch)

Dứt bài thi, các Ông hết lời khen tặng: Văn thiệt là quán thế!
Cách đôi ba bữa sau, có ông Quí-Cao giáng, hoà nguyên vận bài thi của bà Bát-Nương Hớn-Liên-Bạch:
Ình-ình trống giục thảm Trường-đình,
Đau nỗi chia phôi một chữ tình,
Hồng-nhạn đưa tin trông vắng dạng.
Phụng lầu gác quyển đợi hòa thinh.
Vầng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.
Kẻ ở phương trời người góc bể,
Lòng thành nhắn gởi chữ khương-ninh.

Trong đàn hôm ấy, các Ông xin Cô tiếp một bài thi nữa lấy đề là “Hoài-Lang”. Cô chẳng suy-nghĩ chi, lời thơ tuôn như suối nguồn:
THI
Động đình nhớ buổi tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẻ cương.
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ.
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ Thần chạnh lúc vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhất trường.
Mượn vận lương-nhân xin nhắn-nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.
(Hớn-Liên-Bạch)

Ông Quí-Cao tên thật là HUỲNH-THIÊN-KIỀU, là một thi-sĩ. Nguyên trước đây là bạn với Ông Nguyễn-Trung-Hậu, hiệu là Thuần-Đức (sau đắc phong vào Hiệp-Thiên-Đài là phẩm Bảo-Pháp Chơn-Quân). Quí ông ban đầu định thử cầu các vị quá vãng để xem sự linh-ứng thế nào. Quả nhiên, các vị Thần Tiên giáng đàn và thi họa với nhau thật là tâm đắc và cứ tiếp diễn trong cảnh tình thơ Tiên tục. Sau đó, Ông Quí-Cao nhắc sơ đến tình cố hữu, làm một bài thi sau:
THI
Nhắn-nhủ mấy Anh một ít lời.
Làn mây hồn trẻ đã xa chơi.
Mẹ già nỗi hiếu chưa rồi Đạo.
Vợ yếu niềm duyên chẳng trọn đời.
Chạnh nhớ quê xưa lòng xót-xáy,
Buồn trông làng cũ mắt chơi-vơi.
Ai về gởi lại tình sông núi?
Kiếp khác Ơn sinh sẽ đắp bồi.
                                                           (Quí-Cao)

Ông Nguyễn-Trung-Hậu khi nghe được tin ấy bèn đến nhà Ông Cao-Quỳnh-Cư mà xin Ông xây bàn để thỉnh Ông Quí-Cao về chơi. Ông Cư, Tắc, Sang đem bàn ra, thắp nhang vái ông Quí-Cao rồi các Ông bắt đầu cuộc xây bàn tiếp điển, Ông Hậu sẵn-sàng bút viết để ghi chép, một lát sau thì có chơn-linh của Quí-Cao giáng cho bài thi tứ tuyệt:

THI
Âm dương tuy cách cũng chung trời,
Sanh tịch đời người có bấy thôi.
Chén rượu đồng tâm nghiêng-ngửa đổ.
Thương nhau nhắn-nhủ một đôi lời.

Ông Hậu vẫn còn nửa tin, nửa ngờ, Ông bèn nói rằng: Tôi sẵn có làm một bài thi đem theo đây, xin đọc cho Anh nghe và xin Anh họa lại chơi cho vui (Ấy cũng muốn thử về sự linh ứng). Bài thơ của Ông Hậu như vầy:
THI
Mấy năm vùng-vẫy cũng tay không,
Nào khác chiêm-bao một giấc nồng.
Cữ nắng tuần mưa dày-dạn mặt.
Mồi danh bã lợi ngẩn-ngơ lòng.
Ngày qua thỏn-mỏn xuân thu dập.
Gương rạng phui-pha cát bụi lồng.
Chừ gặp cố-nhân lời ướm hỏi,
Hỏi ra cho biết nẻo cùng thông.
                                               (Nguyễn-Trung-Hậu)
            Ông Quí-Cao bèn giáng hoạ ngay:
HỌA
Một tiếng U-minh gióng cửa Không,
Phồn-hoa giục tỉnh giấc đương nồng.
Ngồi thuyền Bác-Nhã qua tình biển.
Mượn nước nhành dương rưới lửa lòng.
Cuộc thế lạnh-lùng làn gió lọt.
Đường đời ngán-ngẫm bụi trần lồng,
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên Đạo,
Oan-trái phủi rồi phép Phật thông.
                                                           (Quí-cao)

Bấy giờ các vị mới cầu Đấng Tiên-Ông AĂÂ đến giải-nghĩa dùm hai câu thơ của Quí-Cao:
“Ngồi thuyền Bác-Nhã qua tình biển,
“Mượn nước nhành dương rưới lửa lòng”

   Home       [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  [ 8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét