Trong khi bị lưu đày, Đức Ngài ra ngồi trên bãi biển, tay cầm một que nhỏ và
tay kia khỏa cát cho bằng, thì liền có một Đấng giáng tâm để an ủi và báo tin
cho biết tình hình chuyển biến của thế giới và Việt-Nam, đồng-thời cũng có tiên
tri như bài thi của Linh Sơn Thần Nữ núi Bà Đen vâng lịnh Thất-Nương đến thăm Đức
Phạm Hộ-Pháp.
Trong thời gian đó các Đấng
có giáng Cơ thăm hỏi. Như vậy hình thức Cơ bút là một sự cảm ứng với huyền diệu
Thiêng-liêng, cho nên dù bất cứ nơi nao, miễn có tâm thành là tiếp nhận được,
nhưng việc này chỉ dành cho bậc Thiên mạng mới không ngại tà quái xung nhập.
Vai trò của Hộ-Pháp:
“Điều cần biết là khi đến
lập giáo, trước tiên Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh truyền tức Hiến-Pháp của Đại Đạo
Tam-Kỳ Phổ độ rồi mới tạo Hội-Thánh lưỡng đài, nhứt thiết đều do Cơ phong
Thánh.
Cơ phong Thánh của Hiệp-Thiên-Đài
do Đức Hộ-Pháp và Đức Cao Thượng-Phẩm phò loan là “Cơ Đạo Pháp” trong khi đó
cũng có nhiều cặp Cơ Phổ độ, dạy Đạo của chư vị Thập Nhị Thời quân.
Nhưng “Đức Hộ-Pháp là một
chơn linh siêu việt mới đủ năng lực xây dựng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, tạo tác
Tổ Đình đồ sộ với nhiều sự nghiệp bất hủ không còn ai phủ nhận được.
Việc cơ bút trong Đạo, Người
đáng kể là bậc Sư Tổ”
Tất cả công việc làm nào của
Ngài cũng đi vào qui tắc luật định, nên việc thọ khổ của Ngài cũng là một việc
hy sinh để phụng sự cho Chí-Tôn, tức là hy sinh để cứu giống nòi như Chúa chịu
thọ hình đóng đinh trên Thánh giá ngày xưa, vào thời tiền kiếp của Ngài là Chúa
Jésus Christ.
Con số 5 năm 2 tháng chính
là số Ngũ hành hợp với Âm Dương mà làm nên con số 7 (5+2=7) tức là 5 thể chất
là: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ và Nhị khí.
Số 7 có đủ tính chất như số
1 đầu, tức là số của các số. Vì số 1 không gì có thể tạo ra nó, thì số 7 cũng
không có một số nào ở trong thập tuần có thể sanh ra nó.
Chúng ta ngó thấy hành
tàng tạo-đoan trước mắt ta là sự điều-hòa trong thân thể và triết-lý đạo-giáo
ta biết rằng: nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh quang thiêng liêng kia đặng
tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh ở đây: nói gần hơn nữa nhứt
điểm tinh thần của Cha ta không hiệp với huyết bồn của Mẹ ta, thì tức nhiên
không có sự hiệp-hòa cả khuôn luật tạo đoan này.
Số 7 cũng chỉ vạn-vật hữu
tướng thành hình; trong thân người là thất khiếu ở trên đầu.
Thế nên mới có sự so-sánh
với Vua Văn Vương ngồi ngục Dữu-Lý 7 năm còn Ngài chịu nạn 5 năm 2 tháng cũng
đi vào con số 7 là vậy.
8 - Đức Chí-Tôn cho 7 bài thi nói về Đồ Thơ
Xem trong Thi văn dạy Đạo
đã ghi chép về sự quan yếu của Hà đồ và Lạc Thơ (nói chung là Đồ Thơ):
THI
1 - Người đâu biết đặng tấc lòng
mình,
Hoạ hỏi đến Trời mới biết linh.
Thiệt thiệt hư hư vì mắt thịt.
Thôi thì đợi chết biết tiền trình.
2 - Tiền trình Thầy dạy trước con tường,
Đợi hạ sang năm mới tuyển lương.
Năm bảy năm sau nên nghiệp lớn,
Đến chừng ấy khá Đạo lo-lường.
3 - Lo-lường cho rõ thấu Thiên cơ.
Biết đặng thì tua tính kịp giờ,
Khuyến thiện đã nhiều công cực nhọc.
Toan lo cho vẹn Đạo Đồ Thơ,
4 - Đồ Thơ oằn-oại gánh nghiêng vai,
Mặc khách làng văn nhọc chớ nài.
Nghiệp nước nỗi nhà còn bận bịu,
Thanh nhàn chưa phải buổi xem mai.
5 - Xem mai trông gặp trổ hai
lần,
Như Đức Khổng xưa muốn thấy Lân.
Hờn gió, giận mưa hoài trí tính,
Thâu niên chẳng đoái chút tinh thần.
6 - Tinh thần đầy xác mới tinh anh,
Đừng vướng nẻo Công với mối Danh.
Thường hứng gió Đông tua biết gió,
Đừng trương cánh nhạn chịu tan tành.
7 - Tan tành khó nỗi kết làm nguyên.
Như chỗ non cao muốn quá thuyền.
Mình biết phận mình an thú vị,
Chẳng phen bằng Phật cũng là Tiên.
Nhất
là hai câu thơ:
Đợi hạ sang năm mới tuyển lương.
Năm bảy năm sau nên nghiệp lớn.
Hai câu này cũng là đề tài
để đoán vận mệnh cho cơ Đạo cơ Đời một phen thật là sôi nổi, nhưng đã “Cơ” thì
nó là máy tạo huyền vi, đoán đúng khi nào sự việc được hiển lộ. Nhưng có điều
cho ta một niềm tin lớn là vào ngày 01 tháng giêng năm Mậu-Tý (dl. 10-02-1948)
Đức Hộ-Pháp nói rằng:
“Ngày hôm nay, giờ nầy
chúng ta vui một tí, năm Tý đến với chúng ta, nếu Bần Ðạo nhớ không lầm thì buổi
Chí Tôn hành pháp có cho Bần Ðạo biết rằng 3 con chuột hiệp lại là ngày thành Ðạo.
Năm nay đủ 3 con chuột rồi đó vậy. Ta chắc rằng năm nay Ðạo sẽ kết quả lời hứa
của Chí Tôn với con cái của Ngài, thành Ðạo tức thành Ðời nơi nước Việt Nam đó
vậy”.
Nếu tính từ ngày khởi khai
Đại-Đạo là:
Qua Mậu-Tý (1948) là điểm
thứ nhì. Nay là Mậu Tý là điểm thứ ba (2008) thì cũng đủ ba con chuột rồi vậy.
Lấy số thời gian 84 này
chia cho 12 tháng của một năm thì được con số 7 “Thất phản cửu hoàn” tượng 7
bài thi. Hơn nữa “ba con chuột trước” là 24 năm (2+4=) là 6 Âm.
Từ Mậu-Tý (1948-2008) là một
hoa giáp 60 năm lại là 6 là sáu Dương, bởi số 0 phía sau là đi vào Hư vô. Hai lần
6 cũng đủ 12, có phải là “năm bảy năm sau nên nghiệp lớn” không? (5+7=12) Số 0
trên cũng là tâm tức ứng với ngũ trung, chính là chữ “năm sau” đó vậy. Đem
1+2=3 là tam tài vẹn vẻ. Đoán vui tí mà!
9 - Giá trị số 7=3+4
Thất đầu xà” (là rắn bảy đầu)
Thất đầu xà đây là chỉ về 7 thứ tình của con người, mà khi làm người thì ai ai cũng có 7 thứ tình ấy, duy khác nhau là do
trình độ tiến hoá về tâm linh mỗi người thôi.
Số 7=3+4 chỉ về Người hoàn toàn là một Tứ
nguyên tố cùng một tam nguyên tố kết hợp. Nghĩa là 4 thể chất và 3 thể khí. Tức
nhiên là (3+4). Ba là tượng cho ba thể chất:
không khí, nước và đất và 4 thể chất là: Kim, Mộc, Thủy, Thổ.
Đạo là lý, cho nên học Đạo
thì phải suy lý, vì vậy nếu không am tường chơn lý, vô tình làm đầu đề cho sự mỉa-mai
Tôn-giáo và làm hoang-mang cho những tâm hồn nặng mang tinh thần khoa học rồi
không biết nghe ai !
Ngày nay Đạo Cao-Đài có giải
rõ: người có bảy thứ tình, mà tình cảm nếu không biết chế ngự thì nó hung hăng,
dữ tợn, nguy hiểm và độc hại không khác nào rắn độc; nhưng nếu rắn độc thì chỉ
có một đầu, còn người mà ác độc thì sự nguy-hiểm gấp đến bảy lần như vậy, vì thế
tượng trưng bằng “Thất đầu xà” (là rắn bảy đầu)
1/ - Diễn tả:
Hình ảnh thất đầu xà được
đặt ngay “Bán nguyệt Ngũ Lôi-đài” của Hiệp-Thiên-đài Tòa-Thánh Tây ninh. Nơi
đây, có hình tượng của ba vị Tướng-soái của Chí-Tôn là Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm,
Thượng-Sanh. Bảy đầu rắn quấn vào chiếc Cẩm đôn, mà thân tượng của các Ngài đứng
trên Cẩm đôn ấy.
Từ phía dưới cẩm đôn của Hộ-Pháp
ngóc lên ba đầu mang chữ: HỈ, ÁI, LẠC; bốn đầu còn lại cúi xuống, cái đuôi quấn
vào Ngai của Đức Thượng-Sanh, choàng cái mình qua quấn vào Ngai của Đức Thượng-Phẩm.
Bốn đầu còn lại mang chữ: AI, Ố, NỘ, DỤC.
Khi Hộ-Pháp ngồi trên Ngai
thì hai chân đạp lên hai đầu rắn có chữ “AI, NỘ” hai tay đè lên hai đầu rắn có
chữ “Ố, DỤC” ý-nghĩa là chế ngự Thất tình; khác với Phật giáo là chủ trương “diệt
Thất-tình”.
Còn “chữ KHÍ” đặt phía sau
lưng Hộ-Pháp tượng trưng “khí sanh quang” của vũ-trụ. Vạn vật nhờ khí sanh
quang mà sống, nếu dứt thì vạn-vật phải chịu hủy-hoại.
Đền-Thánh là nguồn cội của
Khí-Sanh-quang của vũ-trụ và vạn vật.
BẢY MỐI TÂM-LÝ (thất tình)
ấy tạo nên hình tướng loài người, lúc chưa phát ra gọi là TRUNG, phát ra đều và
trúng tiết gọi là HÒA .
- TRUNG là gốc lớn trong thiên-hạ,
- HÒA là con đường đạt Đạo trong thiên hạ.
Đạt được đến mực TRUNG HÒA thì thiên địa sẽ vận hành đúng ngôi vị của mình,
vạn vật sẽ được sanh hoá cũng như cái tình cảm của nó. Sự việc ấy diễn tả rõ đến
cái lẽ biến hóa từ gốc đến ngọn.
Thất tình đã tạo nên hình tướng của loài người. Chính
bảy mối tình ấy cũng là bảy mối dây oan-nghiệt.
- Hễ có HỈ mới có NỘ
- Hễ có LẠC mới có AI.
- Hễ có ÁI mới có Ố.
Duy có mối DỤC đứng chủ-trung
quyết định mà thôi. Nó có lập trường căn bản đặc sắc đủ quyền điều khiển; ấy là
hình tướng thiên nhiên của tạo-đoan, nên Chí Tôn nói có Âm ắt có Dương, có nóng
ắt có lạnh.
Nếu có Âm mà không có
Dương là mặt trời, thì bảy trái địa cầu và cả nhơn loại đều chết hết. Nếu có mặt
trời mà không có mặt trăng, là không Âm; thì cả vạn-vật và loài người không còn;
nghĩa là không có Âm Dương thì không có càn khôn vũ-trụ.
Bảy đầu rắn quấn ba Cẩm-đôn
của các Ngài (Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh) là tượng trưng cho TINH, KHÍ,
THẦN hiệp nhứt. Người tu cũng đến mục-đích là hiệp TAM-BỬU mà thôi. Như vậy tu
theo Đạo Cao-Đài là chế ngự thất tình, phải nêu cao ba Tình: Hỉ, Ái, Lạc và đè
xuống bốn tình còn lại là Dục, Ai, Ố, Nộ
Thế nên, Đức Hộ-Pháp nói:
“Vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thấm vào chân tánh”.
Chính cái tình DỤC nó khiến
ta làm nhiều điều tội lỗi cũng do ăn, uống, ở, mặc mà ra.
Hằng ngày sát hại bao
nhiêu sanh vật, ăn vào chất chứa trong bao tử khác nào một “nghĩa-địa” của loài
cầm thú, vì vậy nên mới gọi đây là “nhứt tỳ”. Khi xác thân này chết thì đem
chôn nơi đất “nhị tỳ” tức là nghĩa-địa thứ hai, hay là nghĩa-trang; là nơi chôn
xác con người đó vậy. Đã gọi là đất để chôn thây thì có còn chăng là những hồn
hoang phảng-phất gọi là “MA” hay là “quỉ”. Thử hỏi nếu ta ăn những thức ăn động
vật thì hằng ngày có phải ta sống với “ma” hay không? Chính tư-tưởng ta cũng bị
ảnh hưởng về sự nóng giận không ít, nhưng gần đây nhứt là nhiễm nhiều thứ dịch
bịnh do các thứ động-vật mà ra.
Cuộc đời này lắm bệnh mới
phát sanh, hỏi tại sao?
Câu “Bệnh tòng khẩu nhập,
hoạ tòng khẩu xuất” cũng không còn chuyện lạ nào nữa. Bệnh tật là do bởi ăn uống.
Hằng ngày người miền ngoài thường kêu lên bởi ăn thức ăn ngộ độc, khi mà món ăn
thông dụng không thể bỏ được. Giờ này bị độc phải bị bệnh như tiêu chảy cấp chẳng
hạn. Bệnh này tái diễn mãi, cũng bởi cứ ăn mãi thì nguy cơ khó tránh. Thầy đã
nói: Vì ăn cho phải bị đoạ, vì dâm cho phải bị đày là vậy
Với người Cao-Đài chắc
không quên lời thơ của Đức Hộ-Pháp đã cho trước khi Ngài nhập tịnh nơi Trí Huệ-Cung,
ngày 16-01 năm Tân-Mão (1951) như trên đã nói “Gắng tu cho kịp Hội-Long-Hoa”
(trang 324).
2/ - Nguyên căn sản xuất Thất tình:
Các Bạn có biết Phật Mẫu
là ai?
Ngài dùng bảy ngươn khí tạo
Chơn-thần ta, tức nhiên tạo phách ta. Nhà Phật gọi là thất phách. Kỳ thật khí
phách ấy làm Chơn-thần, tức là Nhị xác thân chúng ta; khi chúng ta bỏ xác trần,
xác Thiêng-liêng ấy vẫn còn tồn tại. Hình hài thay đổi đặng, văn-hóa của ta mỗi
kiếp mỗi tăng thêm, nhà Phật có nói: Nó có thể tấn tới hoặc trở lại hay đứng dừng
mà thôi.
Chơn-thần là đệ nhị xác
thân tạo hình bằng ngươn khí của bảy từng thiên. Bỏ Tạo Hóa-Thiên là từng thứ
chín, linh hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết định đến thế gian nầy làm việc gì,
kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách, Ðạo-Giáo nói là
7 cái thi hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây.
Bảy từng có liên quan lạ lùng với thất tình:
- Từng thứ 7, 6, 5 là ba
tình: Hỉ, Ái, Lạc.
- Từng thứ tư là Dục (muốn)
- Từng thứ ba là Ai (Buồn)
- Từng thứ nhì là Ố (ghét)
- Từng thứ nhứt là Nộ (giận)
Mỗi linh-hồn đều mơ ước tấn
tới mãi, tới đạt địa vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu ngày nào ta tận thiện, tận
mỹ và linh-hồn ta có thể đạt vị đặng thì Phật-Mẫu đủ quyền năng binh vực con
cái của Người nơi cõi Hư-linh vậy”.
Dầu cho về đạo-lý-học, ta
ngó thấy khởi đầu nếu cái nguơn-linh của Đức-Chí-Tôn không hòa-hợp với nguơn-âm
của Phật-Mẫu thì Thái-cực chưa ra tướng; Hễ Thái-cực chưa ra tuớng tức nhiên
càn-khôn vũ-trụ này không ra gì hết.
“Chúng ta ngó thấy hành
tàng tạo-đoan trước mắt ta là sự điều-hòa trong thân thể và triết-lý đạo-giáo
ta biết rằng: nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh quang thiêng liêng kia đặng
tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh ở đây: nói gần hơn nưã nhứt
điểm tinh-thần của Cha ta không hiệp với huyết bồn của Mẹ ta, thì tức nhiên
không có sự hiệp-hòa cả khuôn luật tạo đoan này.
“Dầu cả nhơn sanh hay
chúng ta cũng vậy, đều chịu ảnh hưởng của Thất tình.
Hình ảnh thật hiện con Thất
Ðầu Xà mà ta thấy là hình ảnh của người đó vậy, bảy mối tâm lý ấy tạo nên hình
tướng loài người, là do bảy mối tình”
Con người có bảy thứ tình
cảm, tuy nhiên chỉ có mỗi một tình DỤC là nguy hiểm hơn hết, cho nên mới nói là
Lục dục mà Thất tình; 6 cái tình dục là có thể: dục Hỉ, dục Ái, dục Lạc, dục
Ai, dục Ố, dục Nộ. Ba cái dục sau này gọi là Tam độc: tham, sân, si. Nhà Phật
nói ba con “ma lục tặc”chính là nó vậy.
Nếu người mà thường xuyên
biết kiểm-soát tư tưởng và hành-động của mình, không cho thất tình quấy động và
kềm chế được tánh nóng giận, tức là làm chủ được tình dục, đưa tư-tưởng hướng
thượng; nghĩa là dục lên hay nói rõ hơn là chỉ lấy sự thương-yêu, vui-vẻ, mừng
rỡ, làm phương châm cho cuộc sống hằng ngày, đồng thời diệt đi sự ghét-ganh, buồn,
giận…thì đương nhiên chuyển được cái tâm hướng thiện và hướng thượng.
3/ - Một biểu tượng của Thất tình:
Đức Shiva-Phật thổi ống
Tiêu bảy lỗ:
Trên bức tượng Tam Thế Phật
nơi đỉnh của Bát Quái-Đài Toà-Thánh: Đức Shiva-Phật mình trần quay về chánh Bắc,
đứng trên Thất-đầu-xà tức là Thần hủy diệt, ngó qua phía hữu, ấy là ngôi thứ
nhì tượng trưng phần Âm Dương, cơ sanh hoá cũng là cơ hủy diệt, ấy là ngôi Bảo
tồn.
Phật Shiva cũng như Hộ-Pháp
ngự trên Thất Đầu Xà để trừ bốn mầm độc trong bản thân nhơn loại, đó là Ai, Nộ,
Ố, Dục. Nhìn vào thực tại Đấng đó cũng là hiện thân của Hộ-Pháp, nhưng thổi ống
tiêu để thức tỉnh quần linh, hướng miệng ống tiêu để đưa sinh khí vào cung Chấn
chánh Đông tức là cung Pháp, nơi tụ nguơn Thần. Nếu những tư tưởng quấy ở con
người có dấy lên sẽ bị ngự trị phần Ai, Nộ, Ố, Dục của nhơn sanh, để giữ còn
cái nguơn Linh của Thượng Đế,
Ống tiêu có bảy lỗ tượng
cho Thất tình, nếu con người khéo tu biến thành Thất bửu cũng thể hiện cho Thất
khiếu sanh quang, nhưng đắc pháp rồi thần khí phục hồi mở được Cửu khiếu nhờ kết
tụ Tam-diệu sẽ chiếu ngần ánh Xá lợi. Nên Thích Lão định danh là Mâu Ni Bửu
Châu hoặc Thử Mễ Huyền Châu hay Cửu Khúc Minh Châu.
Diêu-Trì-Cung là nơi ngự của
Đức Phật-Mẫu, ngày nay Ngài đến tại mặt thế gian này đã tượng-trưng bên Ấn Độ:
Phật-Giáo Ấn-Độ gọi Ngài là Shiva-Phật, là cái hình ở trên Bát-Quái-Đài chúng
ta để trên nóc, thấy có “Tinh Nhũ” nơi ngực của Ngài đó.
Hồi buổi Chí-Tôn phân định,
phân tánh của Ngài, lấy Khí tức nhiên là Ngài dùng cái “Linh-Pháp” của Ngài biến
tướng ra Phật-Mẫu. Phật-Mẫu thuộc về Âm, Chí-Tôn thuộc về Dương, Âm-Dương hiệp
lại mới biến hóa Càn Khôn Vũ-Trụ, sanh ra vạn-vật.
Đức Shiva Phật, Ấn-Độ làm
một cái hình phân nửa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông. Bởi hồi đó con
người chưa phân rõ chắc-chắn Nam Nữ (Âm-Dương). Đức Shiva trong huyết-khí tức
nhiên là huyết, còn đào tạo Chơn-thần là do Đức Chí-Tôn.
Như trên đã nói người mà
không chuyển được ba thứ tình: Ai, Ố, Nộ thì sẽ biến thành Tam độc
4/
- Tam độc là gì? Tham Sân Si do đâu mà ra?
Tức nhiên là ba thứ tình cảm không tốt đó là
“Tham, Sân, Si”. Nguyên nhân sinh ra Tam độc này là do AI là buồn cho đời mình
thiếu thốn, nghèo khó, rồi không kềm giữ được lòng ham muốn, nên sinh lòng
“Tham”, muốn cướp của người khác, nhiều khi gây
tội lỗi như các vụ án giết người, cướp của chẳng hạn.
Khi có người nói đúng nhược
điểm rồi sinh giận (Nộ) Từ chỗ “Giận mất ngon” nên “Sân” hận đời rồi trả thù,
cũng nguy hiểm lắm vậy.
“Si” là đam mê, ham muốn
quá mức không kềm chế được, cũng do lòng ganh ghét, tỵ hiềm đủ thứ mà nên thế.
Như vậy ba thứ tình cảm này phải được điều chỉnh cho hay đẹp, chỉ có gia công
tu luyện, sửa đổi mới nên thôi.
Trong cửa Đạo Cao-Đài ngày
nay Đức Phật-Mẫu đến nhìn con cái của Người và cho biết quyền-uy tối thượng của
Người là tạo cả Chơn Thần, Thể phách chúng ta. Phật-Mẫu còn tạo ra tám phẩm cấp
chơn hồn nữa.
Màu sắc tượng trưng cho Phật-Mẫu
là màu vàng. Kinh xác nhận: “Phái Vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ”.
Con người thì có bảy tình
gọi là thất tình nhưng chỉ có Lục dục, mà ba tình cảm tốt đẹp được phát huy là
HỈ, ÁI, LẠC; còn ba tình cảm chưa tốt là AI, Ố, NỘ cần phải trau giồi, hướng
thượng, đó là phong cách của người TU. Vì vậy Dịch nói là “Săn được ba con cáo”
tức nhiên nếu không trau giồi ba tình cảm ấy thì nó sinh ra Tam độc là “Tham,
Sân, Si” thì mối hiểm nó cũng nguy như “Ba con cáo” gian ngoa này vậy.
Nhưng nay nhờ có bàn tay
Phật-Mẫu đến giáo hóa, khỏi phải bơ vơ, vì:
Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,
Từ nay mới hãn Ơn nhờ Mẫu
Nghi.
Đắc truyền khai mối Tam Kỳ,
Dưới tay cậy có Diêu-Trì Cửu
Nương…”
Chữ Phi 非 chính nghĩa của nó là không. Nếu xếp bảy thứ tình này
vào hai bên của chữ Phi thì bên trái có ba tình: Hỉ, Ái, Lạc, tượng phần Dương.
Bên tay phải có ba tình:
Ai, Ố, Nộ, tượng cho phần Âm.
Chữ Dục đứng ở giữa. Như vậy
thấy rõ nếu người tu là tự mình biết khai thông các đức tính tốt vì nó ở tận
thâm cung của đầu óc. Còn nếu thiếu tu tức nhiên hay giận, buồn, ganh ghét, vì
những tính này tận bên ngoài dễ xuất hiện. Thử nhìn bên ngoài xã hội, người
nóng nảy, la lối, thì nhiều, mà người điềm tĩnh thì ít. Vì sao?
Nếu người tu là biết cho
thất tình này dục lên, nên thành cao thượng; trái lại dục xuống thì thấp hèn là
vậy. Do vậy Đức Hộ-Pháp có lời khuyên: “Vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng
để nọc vui buồn thấm vào chân tánh”.
Có nghĩa là không thái quá
cũng đừng bất cập, với sự vui buồn thường tình, tức nhiên coi như trở về
không,có nghĩa là đã cân bằng nhau rồi,
vì vậy hình ảnh chữ Phi trên mới có nghĩa “Không” là vậy.
10 - Bảy bước đến thành công
Tiền nhân thường nói là “Bảy
bước đến thành công” hay là “Đi hia bảy dặm” là do ở lời của Phật nói.
Truyền thuyết rằng khi Phật
vừa sinh ra đời, Ngài bước tới bảy bước, mỗi bước đi của Ngài nở hoa sen, xong
một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói “Thiên thượng, thiên hạ duy Ngã độc tôn”,
câu nói này có nghĩa rằng con người vốn có đủ thất tình, nhưng phải biết hướng
thất tình thành thất bửu, bởi mỗi bước đi có nở hoa sen, tức là thất tình này
hoàn toàn được trong sáng như sen. Bấy giờ người mới xứng đáng vào ngôi Tam
tài, sánh cùng trời đất. Vì trên là trời, dưới là đất, giữa là người, chỉ có
con người duy nhứt mới được tham dự vào chuyện của trời đất mà thôi, chứ câu
này thường bị hiểu lầm. Lời trong triết, trong Phật thường rất sâu xa, “ý tại ngôn
ngoại” là vậy. Hơn nữa chữ Phật 佛 chính là nhơn và phất là người hoàn toàn.
Vì con người khi đã được đứng
vào hàng phẩm Tam tài là Thiên Địa Nhân rồi nên biết rằng tất cả đều có lý Âm
Dương của nó luôn hoà quyện vào nhau:
- Đạo Trời là do Âm Dương
kết tụ .
- Đạo người là Nhân Nghĩa.
- Đạo đất là Cương Nhu.
Nếu lấy quẻ Kiền làm biểu
tượng cho Tam tài, thì mỗi tài cũng đủ cả Âm Dương của nó.
Nhưng dù là trời, đất hay
là người đều chung chịu trong một quyền năng của Thượng-Đế cho nên khi hai quẻ
Kiền Khôn họp nhau dưới hình thức một ngôi sao sáu cánh tức là Tam Âm tam Dương
gát chồng lên nhau thì luôn có một cái tâm để định cho vòng tròn ngoại tiếp của
nó tức nhiên là có 7 điểm. Như vậy tâm 0 ở giữa đây là xác định cho điểm thứ bảy
là quyền năng của Đấng Thượng-Đế luôn chi phối mọi nơi, mọi chỗ để nhắc nhở cho
nhân loại biết rằng dù ai tài giỏi đến đâu cũng không qua luật của đất trời,
như câu chuyện xưng là Tề Thiên mà cũng không qua phép Phật là vậy. Những kẻ chống
trời sau cùng thì chịu hạn hán, lũ lụt thất mùa đói khổ thì mới kêu lên rằng
Thiên tai!. Khi nhận biết là Thiên tai thì đã muộn quá rồi! Đáng tiếc vậy!
Số 7 do 1+2+ (2+2)
Số 7 là số ngưng kết do
1+2+(2+2)
Tức là Thái-cực cộng Lưõng-nghi
và Tứ tượng.
Thái-cực là dương,Lưỡng-nghi
là cơ biến tướng, tứ tượng là cơ sanh-hóa. Nhưng cơ biến tướng và cơ sanh hóa
chạm nhau lại khắc nên số 7 trở thành số riêng biệt không có biến động; có
nghĩa là trong trạng-thái yên-tĩnh ngừng nghỉ. Nên nó cũng ám chỉ vào thể âm. Số
7 cũng chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình; trong thân người là thất khiếu ở trên
đầu. Số 7 ấy là 1+2+1+2+1 cũng là thành số của (2+2+2)+1 nên vô cực là vi-chủ.
11 - Đặc biệt là nghi thức cúng Đàn dâng Lễ Chí-Tôn
Đờn Bảy bài
Trong các thời Đại-đàn
dâng lễ Đức Chí Tôn có Đờn bảy bài, do Thánh-giáo Đức Chí-Tôn dạy về ý-nghĩa của
bảy bài đàn ấy, bởi trong các bài đàn này là thể hiện đủ tám món Nhạc khí của
dân-tộc Việt-Nam. Chỉ duy hiến lễ cho Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế mới có bảy
bài ấy là:
1 - Xàng xê là khi trời đất
mới sơ khai, chưa phân thanh trược, thuở còn hỗn độn.
2 - Ngũ Đối thượng hay là
bài Thượng, là khí thanh bay lên làm trời.
3 - Ngũ đối hạ hay là bài
Hạ, là lúc khí trược lắng xuống thành đất .
4 - Long đăng là mặt nhựt
chiếu sáng, sức nóng làm cho nước bốc lên thành mây.
5 - Long ngâm là lúc mây gặp
khí lạnh nên tụ lại thành mưa, từ trên trời rơi xuống.
6 - Vạn giá là muôn vật đã
định rồi, ấy là lúc nước hợp với đất biến sanh, khiến sản-sanh ra vạn-vật, gọi
chung là chúng-sanh.
7 - Tiểu khúc là những vật
nhỏ-nhít đều có định luật của nó, khi đất biến ra Ngũ-hành sanh ra kim-thạch,
thảo mộc, thú cầm đến loài người …
Đức Hộ-Pháp thỉnh giáo: Vì
sao phải đờn bảy bài ?
Đức Chí-Tôn dạy:
“Thầy thích nghe những bản
âý, vì nó có ý-nghĩa của sự Tạo thiên lập địa, là buổi mới có Trời đất. Còn Đảo
ngũ cung có ý-nghĩa là qui trở lại, tức là qui cổ: đó là Vạn thù qui nhất bổn”.
Đức Hộ-Pháp bạch tiếp:
Nếu lấy những bài đó hiến
lễ thì Thầy tư-vị dân tộc Việt-nam sao?
Đức Chí-Tôn phán dạy rằng:
“Trên thế-gian này chưa có
nền Âm-nhạc cổ nào để rước Thầy mà đủ ý-nghĩa như Âm-nhạc cổ của Việt-Nam; nên
Thầy chọn nó làm tiêu-biểu cho toàn cầu, cho nhân loại noi theo” (18-5-Bính-Dần
1.926)
Đức Hộ-Pháp giảng về Âm nhạc
có lời rằng:
“ĐẠO CAO ĐÀI là nền Đạo
qui pháp cả cái sống của Bát hồn mà dâng lễ trả cái sống. Khi mới phôi thai càn
khôn do nơi hai khối khí mà tạo thành, ngày nay lại dâng lễ trọng cho CHÍ-TÔN tức
là qui pháp cho khối sanh-khí ấy, tức là CHÍ-TÔN vui và duy nhứt mà thấy sự sống
trả lại cho Ngài.
Toàn đạo nên trọn tâm xét
hiểu nhiệm mầu đạo lý ấy mà lần lần đạt cho được chơn pháp của CHÍ-TÔN.
NHẠC là hưởng ứng của cả
khối sanh-quang của càn-khôn vạn-vật đồng thinh. Nơi Á-đông có câu “ Biều, thổ,
cách, mộc, thạch, kim, dữ tư, trước nãi bát âm” . Các vật vô năng mà nói đặng,
có trật-tự niêm luật hòa nhau là đạt ĐẠO, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là
âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến-lễ. (TĐII/80)
Chú thích
Bát âm là tám loại âm
thanh phát ra từ tám nhạc khí cổ ở Đông phương. (Bát: Tám, thứ tám. Âm: Tiếng,
âm thanh. Tám thứ âm thanh vang ra từ Nhạc)
Bát âm tương ứng với Bát
Quái, là:
1 - Biều 瓢 là cái bầu, tức là dùng quả bầu khô (Tiếng sên) tiếng sinh, kèn thuộc cung
Tốn.
2 - Thổ 土 (tiếng trống đất) Trống đất thuộc cung Khôn.
3 - Cách 革(tiếng trống da) Tiếng trống da thuộc cung Càn.
4 - Mộc 木 (Tiếng mõ gõ) Tiếng mõ cây thuộc cung Chấn.
5 - Thạch 石 (tiếng đá) Tiếng khánh thuộc cung Cấn.
6 - Kim 金 (tiếng chuông đồng) chuông thuộc cung Ðoài.
7 - Ty 絲 (tiếng dây đàn).Tiếng dây đàn thuộc cung Ly.
8 - Trúc (Trước) 竹 (tiếng ống sáo tre) Tiếng sáo tre thuộc cung Khảm. (dữ 與 nghĩa là và, với. Câu “dữ ty, trước”)
Bát âm là chỉ chung về âm
nhạc:
“NHẠC cũng là một việc cần
yếu, vì là phương làm cho đầm ấm tao nhã cốt để dìu dẫn giúp cho thành Lễ ra vẻ
long trọng, vì đã che lấp các việc xao động trong cơn hành Lễ, trên thì hiến
cái vẻ tiêu tao phù trầm cho các Đấng, dưới là làm cho chúng ta, vì nghe đặng
cái giọng tao nhã, nhặt khoan, hoặc có lúc vì tiếng nhạc trổi mà lòng ta vẫn
hân hoan mà quên bẵng cái mỏi mệt trong cơn hành Lễ hoặc có khoản vì cái thức
phù ba của giọng đờn mà làm cho ta yên tịnh, mới có thể thiền tâm vọng cầu các
Đấng cho thấu đáo.
Có câu phương ngôn của bậc
hiền triết miền Âu châu rằng: “La musique adoucit les moeurs” lại có nói Nếu muốn
biết sự tấn hóa của một sắc dân, sau sẽ trở nên thế nào, thì duy có xem trong
nét văn-chương và nghe giọng Nhạc của sắc dân ấy cũng đủ hiểu trước.
Huống chi Đấng Chí-Tôn ra
công khó nhọc khai sáng cho ta một nền Đại-Đạo như vầy, lại dìu dẫn ta từ bước,
mà ta lại chẳng để hết tâm chí chấn-chỉnh nghề Nhạc cho hoàn toàn hầu gìn giữ
đường tấn hóa cho nền Đạo sao?” (Tiếp Lễ Nhạc Quân Mỹ Ngọc)
12 - Bảy từng không gian:
Đây là giải về Không gian
và Thời gian:
Không gian là một khoảng
giới hạn vật chất hữu vi trong đó vạn vật đang sống, đang tiến triển như thế
nào.
Không gian là cái vòng chứa
đựng vạn vật trong đó. Như vậy có rất nhiều không gian khác nhau:
1 - Phàm thể không gian: tức
là cõi mà nhân loại đang sống và trông thấy đây.
2 - Thần trí không gian: là
cõi mà chúng ta sẽ thấy trong lúc ngủ, ở cảnh trí.
3 - Nhận chân không gian:
là cõi của linh hồn.
4 - Chân không không gian:
là cõi cao hơn nữa.
5 - Chơn như không gian.
6 - Thái hư không gian.
7 - Hư-vô không gian.
Đó tức là cơ hữu tướng của
càn khôn vũ-trụ.
Còn thời gian là cái thời
khắc chuyển biến của vạn vật tức là cái sự lâu mau để sinh hoá hay tiêu diệt
Càn khôn.
Thời gian là cái lệ định
cho vạn vật phải diễn tiến như thế nào trong một khuôn khổ đã sắp đặt trước cho
vạn vật. Ấy chẳng khác nào hai cái lý tương tiếp gát chồng lên nhau, Âm Dương hỗn
hợp, hữu hình và vô hình theo tiếng gọi của người đời thường vậy.
Không gian ấy là Dương, Thời
gian ấy là Âm
Bà Bát-Nương giải thích:
Trong không gian lẫn lộn
bóng thời gian để làm gì?
“Vậy thì cõi vô hình tức
là Không gian ấy là Đạo đó vậy. Trong Không gian có lẫn lộn thời gian tức nhiên
Thế nằm trong Đạo. Vậy thì Thế ở trong Đạo để làm gì? Có phải chăng là để cho
thời gian trau giồi mà mở cơ tấn hoá đó chăng?
Bây giờ nói về Đạo-pháp thì
thời gian nảy sanh từ Khí Lưỡng-nghi phân tách, tức là cơ tạo đoan phát diễn
hành tàng. Vậy thì Thời gian lẫn lộn trong không gian như bóng với hình..
Khí Ngũ hành là cơ Thế tạo
nên hữu vi sắc tướng lấy KIM MỘC THUỶ HOẢ THỔ mà tạo nên trường công quả cho
không gian.
Lẫn lộn thế nào?
Trong Thế có Đạo, trong Đạo
có Thế. Thời gian toả bóng ấy không gian, không gian tạo hình là Thời gian, tức
nhiên là Thế Đạo cùng Thiên Đạo đó.
Thiên Đạo phải do nơi Thế
Đạo làm hạ tầng cơ sở, còn Thế đạo phải nhờ Thiên đạo làm thượng tầng đoạt vị,
đôi đàng phải nương nhau. Vậy thì thời gian do không
gian chế ngự và Không gian do thời gian mà biến hoá.
Lẫn lộn rồi đến đâu?
Ấy là cơ siêu việt tấn hoá mà tạo nên Hư
vô thanh khí, tức là cơ tạo đoan tấn hoá đến chỗ tận thiện, tận mỹ vậy.” (Trích:
Luật Tam Thể của Đức Cao Thượng-Phẩm)
13 - Về Y-lý
Thiên lý là con đường đi của
từng sự vật, nên mới nói là gần Đạo: Biết được sự vật tức là ta thường nói biết
được cái số mệnh của sự vât, là bậc quang minh sáng láng đắc Đạo vậy. Bất cứ sự
vật gì xảy ra trong thế hệ đều theo những luật định của thiên nhiên ảnh hưởng bởi
những tinh tú, ví dụ như:
1 - Những thiên tượng và
sinh lý của đàn bà như kinh nguyệt thường từng tháng theo Âm-lịch là 28 ngày
(hay là 4 tuần lễ, mà mỗi tuần lễ là 7 ngày=28).
2 - Sự động của thai nghén
bắt đầu trong hạn từ 126 ngày (hay là 18 tuần lễ, mỗi tuần 7 ngày).
3 - Cái thời hạn mà người
ta gọi là thời có thể sống được là cái hạn độ 210 ngày ( là 30 tuần lễ, tuần 7
ngày)
4 - Thời hạn khai hoa nở
nhuỵ thì phải 280 ngày (hay là 40 tuần, mỗi tuần 7 ngày, hay là 10 tháng âm lịch
là 28 ngày, hay là 9 tháng theo dương lịch, 30 ngày mỗi tháng và 10 ngày).
Xem như vậy thì những thời
hạn nghiệm xét như trên là một dấu chấm, đánh dấu sự thành tựu từ đầu của sự
sinh dục có thể thành cái căn bản để tinh toán về Thiên văn-học mà phần nhiều,
nhiều nước dùng theo sự hành động trực hay gián tiếp của nó vậy.
(Các số còn lại đọc tiếp
Quyển Tổng luận :XV)
Dịch Tự Quái
Khi làm Dịch Thánh-nhân đã
khảo sát rất kỹ về ý nghĩa của từng sự việc có liên đới với nhau: cả về sự tiến
thoái, tồn vong, âm dương ngũ hành sinh khắc, theo vòng thuận nghịch rất là chặc
chẽ. Nghiên-cứu Dịch cần phải am tường về thứ-tự của các quẻ. Vì mỗi một chi tiết
về Dịch có một tầm quan trọng vô cùng. Thử tìm hiểu 64 quẻ ứng với 64 thời điểm
của Cao-Đài Đại-Đạo. Xưa nay các nhà nghiên-cứu về Dịch thì rất nhiều, như:
- Ông Nguyễn Mạnh Bảo được
Đức Hộ-Pháp để lời khen tặng, nhưng Ông chuyên về khoa học chỉ lấy thuyết
Nguyên-tử để dẫn chứng Dịch-học.
- Ông Phan-Bội-Châu thì chỉ
bàn về Chánh trị.
Còn rất nhiều nhà Dịch-học
như Ngô Tất Tố, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn-Duy-Cần… nhưng mỗi mỗi bàn về một vấn đề
khác nhau. Nay Soạn giả muốn xiển dương chơn lý chánh truyền của Cao-Đài Đại Đạo
nên mạo muội đem chơn lý của Đạo Cao-Đài ra dẫn giải, mong được góp nhặt những
ý kiến hay, nhưng chắc chắn sự khởi điểm bao giờ cũng còn nhiều thiếu sót và rất
cần nhiều ý-kiến bổ túc cho ngày được dồi-dào hơn.
Trong 64 quẻ đặt theo thứ
tự thì chia làm 2 Kinh:
- Thượng Kinh có 30 Quẻ,
mà Càn Khôn ở đầu hết, Khảm Ly là cuối của Thượng kinh tức nhiên là ở trung
gian của toàn bộ Kinh Dịch.
- Hạ kinh có 34 Quẻ mà
Hàm, Hằng ở đầu Hạ Kinh, Thuỷ Hoả Ký tế, Hoả Thuỷ Vị tế đặt cuối hạ Kinh.
1 - Thượng kinh có 30 quẻ:
Trước hết là ngôi Thái-cực
tức ngôi cao cả, tượng trưng ngôi của Đức CHÍ-TÔN Ngọc-Hoàng Thượng Đế là quẻ
KIỀN (quẻ 1) đồng thời có ngôi PHẬT-MẪU là Thái cực sanh Lưỡng nghi tượng quẻ
KHÔN (quẻ 2). Hai ngôi đã đủ, là Âm Dương hoà hợp mới biến sanh hằng hà.
Ngay buổi ấy Chí-Tôn đã định
“Khai Đạo muôn năm trước định giờ” nên khiến các bậc tiền bối trong cửa Đạo họp
nhau Xây bàn cầu Cơ thỉnh Tiên gọi là thú tiêu khiển giữa lúc vận nước đang chịu
lệ nô, muôn dân đồ thán. Các Ngài mang sẵn bầu nhiệt huyết muốn làm gì để cứu lấy
non sông và đồng bào, đúng vào ý muốn của Thượng-Đế nên thừa dịp nhờ Diêu-Trì-Cung
đem văn thơ giáng bút để dẫn dụ các Ngài vào con đường đạo-đức, hầu mở đường xuất
Thánh, ấy là lúc Thượng-Đế chuẩn-bị cho dân-tộc Việt-Nam một mối Đạo Nhà, đó là
Thời-kỳ Tiền khai Đại-Đạo. Vạn sự khởi đầu nan mà! Bao nhiêu truân khó buổi đầu
mấy ai tránh khỏi là thời TRUÂN (quẻ 3).
Đấng đầu công là Đức Hộ-Pháp,
một trong ba người Đệ-tử đầu tiên là ba ông Cư, Tắc, Sang. Sách nói “Ba người lập
thành Đại-Đạo”. Đó là thời Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ ứng với quẻ MÔNG (quẻ 4), vì Đạo
mới hình thành như một cây non nớt vừa nhú mầm trong đất thì phải chịu truân
khó đến bực nào! Ngày khai Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chính thức vào ngày 15-10 năm
Bính-Dần (dl 19-11-1926) Đức Chí-Tôn lập Pháp Chánh-Truyền và dạy các chư Thánh
hội nhau lập Tân Luật để phân quyền các Chức sắc cho khỏi tranh quyền nhau là
Pháp Luật Đại-Đạo, đó là thời NHU (quẻ 5) là một nhu-cầu thiết yếu.
Tuy nhiên bao giờ những
cái khẩn thiết nhứt thì nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi. Bấy giờ sự Thương yêu
bắt đầu rạn nứt vì có người nghĩ rằng sao người nhỏ lại được giao cho việc lớn,
mà người lớn chức ngoài đời đôi khi lãnh phần khiêm tốn hơn. Nhưng quên rằng
quyền Chí Tôn là tối thượng.Với người nhỏ mà cao ngôi ở Thiêng liêng vị. Trẻ tuổi
mới dùng lâu bền, vì đó mà bất đồng chánh kiến rồi sinh chia phe phân phái nhau
làm nên thời TỤNG (quẻ 6). Mười hai chi phái khởi từ đây, “gà cùng một mẹ bôi
mày đá nhau”. Tất cả những vị không tùng theo Hội Thánh Cao-Đài Toà-Thánh
Tây-ninh đều tự ý chia thành phe nhóm lấy tên này tên nọ lập riêng theo ý của
mình có tên là phái Bến tre, Minh chơn-lý, Minh chơn Đạo, Ban Chỉnh Đạo… Người
muốn vậy trời cũng cho toại nguyện để thử xem có bao nhiêu Ông Trời xuống thế?.
Mỗi mỗi đều tự phong Chức
tước cho nhau kẻ lên Đầu sư, người thì Hộ-Pháp, Giáo-Tông. Riêng nơi Toà Thánh
còn lại những bậc nghe theo tiếng gọi của Chí-Tôn lập thành Hội-Thánh Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ y như Pháp-chánh-Truyền mà Chí-Tôn đã ban cho ngay từ buổi đầu,
thời của quẻ SƯ (quẻ 7) Tượng Thánh-Thể Chí Tôn.
Khi hoàn thành Hội-Thánh Đại-Đạo
thì phải có trật tự đẳng cấp hẳn hoi. Các Chức sắc tu-hành được mang áo mão ra
vào Điện Thánh tức là Chí-Tôn ban cho Thiên Tước mà người mặc vào mình với một
Nhơn-tước cho cả hai cùng đồng giá trị đó là thời Quẻ TỶ (Quẻ 8). Tức nhiên làm
sao cho trọng giá Đời nêu cao giá Đạo, mà áo mão này chỉ là Đức Chí-Tôn cho mượn
khi nào thực sự hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng phú thác mới được đối phẩm
cùng Thiên tước. Đó là phẩm tước Thiên Đạo.
Sự phân quyền hạn đẳng cấp
này quan trọng là do Huyền-Diệu Cơ Bút của Các Đấng Thiêng-liêng giáng Cơ ban
cho,quí hay chăng là chỗ đó ấy là thời của Quẻ TIỂU SÚC (quẻ 9). Chính Cơ bút
là điều quan yếu để lập thành Đại Đạo tuy giản đơn mà sâu kín nhiệm mầu. Thầy đã
dạy đủ lễ nghi phép tắc, lập Tam Trấn Oai-Nghiêm thay quyền Tam giáo, Các nghi
thức về Hôn, tang, tế, sự, mỗi mỗi đều do Đức Chí-Tôn phân định đó là thời của
Quẻ LÝ (quẻ 10). Lý giả lễ dã. Lý là trật tự nghiêm minh không thể thiếu là
Nghi thức Đại-Đạo.
Sở dĩ nhân-loại ngày nay hạnh
hưởng phước duyên như vậy là vì nay là Cơ Đại Ân-Xá của Chí-Tôn, đó là một điều
hanh thông của thời Quẻ THÁI (Quẻ 11) vậy. Nhưng cái chu kỳ Thái Bĩ xoay vần,
nào ai tránh khỏi. Cũng như trời đang quang đãng bỗng đổ trận mưa giông, nước đổ
tràn đồng, làm cho mọi người chới với mất hết niềm tin, thời của BĨ (quẻ 12) vậy
ôi! Đó là học xong khoá trường cũng phải ra ứng thí chứ! Đậu tiếp tục thăng tiến,
rớt ở lại Điạ cầu 68 này nào ai biết được. Nếu không phải là quyền năng Thượng-Đế
Chúa cả càn khôn nắm số 12 là Thập nhị khai Thiên của thời Bĩ làm cho Đạo bế
như vậy thì không ai xoay chuyển nỗi cơ Trời để đưa nhân loại đến Đại-Đồng thế
giới để ứng vào quẻ ĐỒNG-NHÂN (quẻ 13) trong Thánh-ý của Người. Tinh thần Đại Đồng
ấy thực hiện được nhờ Đức Chí-Tôn đã dạy cho có đủ tinh thần cao sâu mà Đức Hộ-Pháp
mới lập ra Chính sách Hoà bình Chung Sống, ứng vào quẻ ĐẠI HỮU (quẻ 14).
Khi đã thống nhất được
tinh thần Tôn giáo thành một khối Đức tin, tức là nhân-loại biết nhìn nhau một
Đấng Cha lành, thì Ngài buộc Tam Thánh ký Đệ Tam Thiên Nhơn Hoà ước với Ngài.
Trong Tam Thánh thì Đức Nguyễn Bĩnh-Khiêm là bậc Sư phó Bạch-Vân Động xứng đáng
vào thời KHIÊM (quẻ 15) phải thực thi cho được hai điều Bác-ái, Công-Bình. Có
được vậy thì nhân loại mới vui sống trong cuộc đời an lạc mà từ xưa đến giờ hằng
mong ước đời Thánh đức, sống trong cảnh Tháng Thuấn, ngày Nghiêu, thì nay chính
là thời-kỳ của Đức Di Lạc Vương Bồ Tát là thời Đạo trị, Ngài đến mở Hội-Long
Hoa làm nên thời DỰ (quẻ 16).
Thời Tịch lạc muốn thể hiện
trong cõi đời này, trong chu-kỳ 700.000 năm của Đại-Đạo không thể hoàn toàn là
cơ hữu hình như Tam giáo trước đây, nên Đức Chí Tôn mới lập ra Tam Trấn thay
quyền Tam giáo, gọi là Tam Trấn Oai nghiêm của thời TUỲ (quẻ 17). Bởi tuỳ theo
trình độ của nhơn sanh mà tuỳ duyên hoá độ: nếu tu thì thành dữ thời đoạ. Đạo
khai Tà khởi, thế nên các Bậc tiền bối phải chịu Án-nạn-pháp, mà nhứt là Đức Hộ-Pháp
phải chịu thời gian trấn Thánh Phi châu, chịu nạn cho nhơn sanh trong thời Cổ
(quẻ 18) ấy cũng vì không phân biệt được hai lẽ Chánh tà nên Ngài đã lãnh nạn
cho dân tộc Việt Nam đồng thời Ngài đã nâng cao tinh thần của Hiệp Thiên-Đài mà
Ngài đang Chưởng-quản, ứng vào quẻ Lâm (quẻ 19) “Lâm giả đại dã”. Hiện
Toà-Thánh có hai Đài hữu hình là Hiệp-Thiên và Cửu Trùng, mà Cửu Trùng Đài là cơ
quan giáo hoá nhơn sanh, ứng vào quẻ Quan (Quán. Số 20). Nhưng Hộ-Pháp Chưởng
quản Nhị hữu hình đài, nên Ngài nắm pháp Thiên điều tức là quyền Chí Tôn tại thế,
ứng vào quẻ Phệ-hạp (Quẻ 21). “Hộ-Pháp là người nắm cơ mầu nhiệm của Đạo nắm luật
của Đời” nên Ngài nắm Bí pháp của Đạo ứng với quẻ Bí (quẻ 22). Cuộc đời vẫn
xoay vòng theo lẽ dinh hư tiêu trưởng, nay là lúc Đạo đi vào thời Khai ngươn
chuyển thế tức là thời kỳ thử thách của Chí Tôn để phân Thánh lọc phàm ứng vào
thời của Bác (quẻ 23).
Nhưng chẳng lẽ Bác hoài
như quẻ này 5 Âm đã lấn hết ra ngoài chỉ còn 1 Dương lơ lửng, nên khi qua thời
này Đại-Đạo phục hưng đó là quẻ Phục (số 24). Đúng lúc Đạo Cao-Đài ra đời là Đức
Chí-Tôn đã Qui Tam hiệp ngũ, nay chấn chỉnh lại tức là cơ qui hiệp đó là quẻ Vô
vọng (quẻ 25). Thử hỏi nơi qui hiệp là đâu? Tất nhiên là Tổ đình, là Toà Thánh.
Thầy cũng đã nói “Chi chi cũng tại Tây ninh mà thôi”. Vậy Toà-Thánh Tây ninh là
nơi chứa đầy Bí-pháp của Đại-Đạo, là quẻ Đại-súc (Quẻ số 26).
Nhưng trong cửa Đạo thì kẻ
rước là Thượng-Sanh, người đưa là Thượng Phẩm, trách nhiệm của chi Đạo vô cùng
trọng hệ đó là thời DI (quẻ 27). Chính nơi đây là đức tin của nhân loại, là lò
giáo hoá nhơn sanh được thành Tiên tác Phật mới mong trở về Con đường Thiêng
liêng Hằng sống, mà Phật-giáo gọi là Niết Bàn, ứng với quẻ Đại quá (quẻ số 28).
Nay là cơ tận độ toàn vạn linh sanh chúng nên Thầy mở ra Đạo Cao-Đài chỉ vì Tứ
khổ của nhân loại đến giờ này cũng chưa giải quyết được ấy là thời của Khảm (quẻ
29) là một sự hiểm nghèo chưa một ai trong cõi trần này tránh khỏi. Duy chỉ có
Đại-Đạo ra đời, ánh linh quang của Thượng-Đế soi sáng dưới “Con Mắt Trời” tức
là Thiên Nhãn Thầy làm biểu hiệu của nền Đạo này ấy là quẻ Ly (quẻ 30) “Ly vi mục”
là thế.
Đến đây là xong phần Thượng
kinh 30 quẻ đầu. Cuối cùng của phần này là hai quẻ Khảm Ly
Diệu dụng của hai quẻ Khảm
Ly:
Nghĩ kỹ mới thấy chỗ ý-tứ
thâm-diệu của Thánh nhân khi đặt Ly ở giữa 64 quẻ, nguyên do có thâm ý lắm, bởi
vì hai quẻ Khảm Ly là cái tâm của Trời đất.
Nguyên về Dịch-lý chỉ có
nhất Âm nhất Dương phối nhau mà làm nên vạn-vật với muôn hình ngàn vẻ trong vũ
trụ này. Càn Khôn giao phối không có gì khác hơn là Thuỷ Hoả, mà Thuỷ Hoả là
trung tâm điểm của Càn Khôn, là cái dụng của Càn Khôn. Thuỷ Hoả làm nên cuộc
sanh tử của vạn-vật mà con người đứng phẩm tối linh. Không có Thuỷ Hoả thì
không có vật gì được sanh tồn trong vũ-trụ này. Khi Càn Khôn giao phối nhau
thì:
- Khôn cướp được điểm chơn
dương của Càn biến thành Khảm.
- Càn đoạt được điểm chơn
âm của Khôn mà thành ra Ly.
Vì thế mà Khảm Ly trở
thành trung tâm điểm của trời đất, theo về phương-vị thời Khảm ở phương chính Bắc
làm chủ giờ Tý, Ly ở phương chính Nam, làm chủ giờ Ngọ.
Khảm Ly là cái tâm của trời
đất hay là cái gốc của tạo-hóa.Quẻ Khảm có cái Dương của mặt trời ở giữa thu được
ánh sáng mà thành mặt trăng.
Quẻ Ly có cái Âm ở trong
làm đẹp cõi đất bao hàm sự sáng thành mặt Nhựt.Thế nên:
Khảm là Thủy, cơ bản của
nó là lạnh, là hàn.
Ly là Hỏa, cái gốc của nó
là nóng, là nhiệt.
Khảm là mặt trăng, là nguồn
ánh sáng trong đêm.
Ly là mặt trời là nguồn
ánh sáng phát ra ban ngày.
Cái dụng của Thủy, Hỏa, nhựt,
nguyệt là cái vận hành của nóng lạnh, ngày đêm, đó là sự nhiệm-mầu của tạo-hóa,
muôn sự vật từ đó mà đem lại nguồn sống cho muôn loài. Sao trên trời là tượng của
quẻ Ly.
Ly là hơi nước (Đoài) kết
lại thành mưa tuyết, rồi tan ra nước (Khảm). Khí nóng ở nội tâm quả đất làm
rung động (Chấn). Lớp vỏ quả đất có ngày do sự nứt nẻ mà phun ra ngoài thành Hỏa
Diệm-sơn. Nét chắp ở trên quẻ Chấn đổi thành nét liền chỉ lửa đỏ ra ngoài hay ở
giữa lớp vỏ trong ngoài đều có lửa.
Trong đồ Tiên Thiên Kiền ở
phương Nam. Kiền là lửa ngọn có màu xanh, trắng, vàng tùy theo nhiệt-độ cao thấp.
Ly là lửa than hồng màu đỏ. Lửa ngọn tắt còn lưu lại đống than hồng nên Kiền
thành Ly ở về phương Nam.
Dịch là một bộ sách đủ cả
Thiên-Đạo và Thế Đạo:
* Thiên Đạo thuộc về phần
Hình nhi thượng.
* Thế Đạo hay Nhân-sự là
thuộc phần Hình-nhi hạ
Hình nhi thượng gọi bằng Đạo
đủ cả hết ở trong 8 quẻ đơn.Hình nhi hạ gọi bằng Khí, khí 器 là dụng, là đồ dùng, cần yếu nhất là đồ dùng để ăn uống.
2 - Về phần Hình nhi hạ Dịch nói rằng:
Có trời đất rồi mới có vạn-vật.
Có vạn-vật rồi mới có trai gái. Có trai gái rồi sau mới có vợ chồng, có vợ chồng
rồi mới có cha con, có cha con rồi mới có vua tôi. Có vua tôi rồi mới có trên dưới.
Có trên dưới rồi mới phân lễ nghĩa. Đạo vợ chồng không thể không lâu bền được.
Nay một người Tín-đồ trung kiên của Cao-Đài đến với Đạo như tìm người yêu, thế
nên Đạo Hàm (Quẻ 31) mở đầu quyển Hạ Kinh, đấy là người biết tìm đến mà Nhập
môn cầu Đạo làm Môn đệ của Đấng Chí-Tôn. Điều trọng yếu là phải biết giữ Đạo
cho bền tức nhiên Hằng (quẻ 32) là người Đạo phải hành Tam Lập. Có như thế mới
về được với Đức Chí Tôn trong buổi Chuyển thế này. Tu trong buổi này không những
tụng kinh gõ mõ mà còn phải Phụng sự cho vạn linh nữa.
Vật không thể ở một nơi
lâu được, cũng như người tu mà bị cường quyền bức hiếp, buộc phải có được sự bảo
vệ là Cơ quan Bảo-Sanh Nhơn-Nghĩa Đại-Đồng là Quân Đội Cao-Đài được thành hình,
nhưng thời gian thụ được đức đó chính là thời Độn (Số 33) Độn là lui, chỉ một
thời gian ngắn rồi cũng giải tán. Nhưng nhờ nương nơi Việt Nam Thánh Địa là
vùng đất Thiêng mà Đức Chí-Tôn đã chọn làm chiếc nôi tình thương để bảo bọc người
tu được sống yên lành mà kệ kinh sớm tối nên đây là cuộc Đại Tráng (số 34) tức
là sự mạnh-mẽ. Đã có sự cứng mạnh tất phải tiến lên trong tinh thần của người
Phước Thiện – Phạm Môn để giúp đỡ người tu, tức là thời Tấn (số 35). Nếu tiến mãi
mà không biết dừng ắt bị thương tổn ấy là cuộc Minh-Di (số 36) là lúc phải nghĩ
đến những người đã một thời gian hy sinh cho Đạo nghiệp, giờ này yếu tha già
thãi phải được cho vào Hội-Thánh Hàm phong mà lo báo bổ ơn xưa. Những người này
dù không làm việc trực tiếp như ngày cũ, nhưng là người gương mẫu, nhắc nhở
cháu con giữ tròn Đạo nghĩa là quẻ Gia nhân (số 37) tức là trở về với Quốc-Đạo
Nam phong. Gia đạo ắt cũng có lúc trái lòng nên thụ được đức ấy thì đến cuộc
Khuê (38) Khuê là trái lìa hoặc hỗ trợ nên có Tam Hội Lập Quyền để giải quyết
những sự bất trắc trong Đạo. Dù là trái tất phải khó khăn nên thụ được đức ấy sẽ
đến thời Kiển (39) Kiển là nạn khó vì nam nữ không sống chung trong những lúc
tu hành nên Đức Hộ-Pháp phải lập ra nhà Tịnh riêng cho Nam Nữ nên đó là Tam
Cung Cửu Viện đồng thời phân biệt về Hành chánh nữa .Dù khó đến đâu cũng giải
quyết được. Giải là quẻ (40) Dịch nói “Giải giả hoãn dã” giải là chậm, từ từ, ấy
là cách giải khổ về phần xác và giải thoát cho phần hồn, đó là Giải pháp cứu thế
của Đạo Cao-Đài.
Rồi tiếp theo là Tổn (41)
là một sự mất mát thiệt thòi như người Mẹ tạo ra người con đã tổn bấy nhiêu công,
lớn lên rồi con cái ít khi làm theo lời khuyên của cha mẹ cũng lại là sự mất
mát nữa, ấy là tinh thần của Phật Mẫu Diêu-Trì phải đến dẫn độ. Trong rủi cũng
có điều may là Chí-Tôn đến mở Đạo là một ơn ích, là đến quẻ Ích (42) tức nhiên
đời người muốn sống hữu ích chỉ còn mỗi việc Tu hành mà thôi. Việc tu-hành là một
quyết định. Quyết (43) hay Quải tức nhiên con người tu không những kinh kệ mà
phải học lý Đạo để triển khai kho tàng văn hoá của Đại-Đạo: Ấy là Văn hoá tương
lai lập Đại Đồng vậy. Khi quyết được tất có Cấu (44) hợp được với lòng từ bi
tha thiết của Đức Chí-Tôn là áp dụng Nho Tông chuyển thế. Sau đó gặp-gỡ mà tụ hội
tức nhiên đến Tụy (45) là khi Nhơn Đạo thành tức nhiên Thiên Đạo rành là ngày
đoàn tụ với mẹ Diêu-Trì trong ngày Hội-Yến Diêu Trì-Cung. Tụy để theo chiều hướng
cao hơn tức nhiên là Thăng (46) là trở về với Niết bàn, về với Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng
Thượng-Đế. Nhưng cái gì cũng có biến đổi, nếu không biết dừng thì nó quay ngược
lại, trèo cao té nặng ắt Khổn (47) chính là lúc Đạo khai Tà khởi, nên biết bao
kẻ đã chịu luân hồi sanh tử.
Bấy giờ trung gian lọt vào
giữa hai quẻ Tỉnh và Đỉnh là quẻ Cách.
TỈNH là đồ cung cấp cho
người ta về việc UỐNG.
ĐỈNH là đồ cung cấp cho
người ta về việc ĂN.
Vì thế mà hai quẻ cặp liền
nhau. Thánh-nhân muốn cho người ta biết ở phần lưỡng gian có Đạo mới sanh KHí.
Có Khí mới chở được Đạo.
TỈNH, ĐỈNH chẳng qua mướn
hai giống Khí để hình dung Đạo-lý thuộc về nhân sự. Nhưng mà nhơn sự thường tất
phải thay đổi, nên trung gian quẻ Tỉnh, quẻ Đỉnh đặt vào quẻ Cách đó là ý tứ sắp
đặt có công phu.
Nếu Đạo Cao-Đài ngày nay dưới
cái nhìn NHÂN NGHĨA đặt vào quẻ Tỉnh (số 48) thì điều Nhân-Nghĩa được thực thi ở
mọi từng lớp, mọi Tôn-giáo, mọi giới. Đối với người đã nằm xuống, hy-sinh cho Đạo
pháp làm vẻ vang cho nền Đại-Đạo được thờ nơi Báo-Ân-Từ, người hy-sinh cho Quốc
tổ thì có Báo-Quốc-từ thiên thu phụng tự. Cho nên tuy Cách (49) mà lòng không
cách. Đỉnh (50) muốn cho khắn-khít nhau, hoà đồng tư-tưởng, Tôn giáo, Tín-ngưỡng
lại thì Thượng Đế mới dựng nên mối Đạo Trời: Đóng Địa ngục mở từng Thiên. Người
mình hay nói “nhất của nhì con” thế nên phải nghĩ đến con trai trưởng là Chấn
(51) Chấn có nghĩa là động, đó là hình ảnh của hai vị Đầu sư: Đức Quyền
Giáo-Tông và Bà Lâm Hương Thanh, được tạc tượng trước lầu chuông và lầu trống của
Đền Thánh, đón rước người Đạo từ muôn phương trở về nguồn cội. Nhưng vật không
thể động đến cùng nên khi thụ được đức ấy đến là dừng ở Cấn (52) như bị núi chắn
trước mặt, nên người tu là tự làm sáng cho mình bằng phương pháp Tu chơn tức là
con đường thứ ba Đại-Đạo là tìm đường về với cõi Hằng sinh. Làm sao phải thoát
từ từ ấy là Tiệm (53) là tiềm ẩn, là một tinh thần Phụng sự cao của người
Cao-Đài ngày nay như một gái về nhà chồng là cái chót của cuộc đời con gái nên
là Qui-muội (54) đó là chỉ Tam giáo thất kỳ truyền được có nơi về ấy là một quyết
định lớn trong đời nên thụ đức ấy đến cuộc Phong (55) là lớn, là thịnh, thì
trong các Tôn giáo từ trước đến giờ không tôn giáo nào qua Phật giáo. Ngày nay
Đạo Cao-Đài các Chức sắc phải đi xa để làm nhiệm-vụ là đến cuộc Lữ (56) như một
Chức-sắc hành Đạo ở địa phương là cách Phổ-Độ chúng sanh. Ấy là lúc Người vào
khuôn viên đạo-đức “tri hành hiệp nhứt” là thời Tốn (57) Tốn là vào, là xiển
dương Văn minh tinh thần cho nhân loại. để sau được đẹp lòng mới đến Đoài (58)
tượng trưng cho người con gái út của Thượng-Đế, chính là Phật Quan Âm tới trong
ngươn hội này đỡ đầu cho Nữ phái. Rồi cũng phải theo dòng thời gian mà làm hoán
cải tà tâm của nhân sanh ấy là thời Hoán (59) nay Đức Chí-Tôn cho làm Thuyền
Bác Nhã để đưa người qua bến Giác, nghĩa là mỗi người tự biết tiết giảm hạn chế
những thói quen không tốt ấy là cuộc Tiết (60) là sự tiết giảm, hạn chế từ
trong lòng mỗi người đó là Ngũ giới cấm, Tứ đại điều qui. Bởi lòng người đã đặt
hết niềm tin tưởng với Người đàn Anh có đủ uy-tín là đến Trung-phu (61) là Đức
Tin mà Hộ-Pháp nói “Đức tin là kho chí bửu ngoài ra là của bỏ là đồ vô giá”. vậy.
Vật thì có lớn nhỏ, nhưng vật trước mắt còn phân biệt cái nhỏ, chí ư vật vô hình
thì khó mà phân biệt được nên đến cuộc Tiểu-quá (62) là một vật nhỏ không còn
gì nhỏ hơn nó nữa, đó là Nguyên tử cứu người như Đức Hộ-Pháp đã nói. Trong cuộc
đời mãi là một vòng tròn không đầu mối, Dịch gọi là “như hoàn vô đoan”, nên khi
vừa giáp một vòng rồi tức nhiên Ký-Tế (63) là Âm Dương tương hiệp là cảnh Thiên
thai kiến diện. Người khó nhứt là sửa cái tâm, nếu không tu hành chính chắn thì
phải chịu cuốn theo một chu-kỳ mới nữa là Vị tế (64) tức nhiên con đường Luân hồi
sanh tử mãi còn tiếp diễn không bao giờ dứt, như con người cứ luân chuyển trong
định mệnh. Thật là nếu chúng ta không biết quay về với Chân, Thiện, Mỹ, có khác
nào:
Cái vòng danh lợi cong cong,
Kẻ hòng ra khỏi người mong chen vào.
Tìm ra được cái bổn-nguyên,
đặt cái tâm mình ở Hư-vô, dưỡng tâm ở một khí, tuy rằng có Lưỡng-nghi, Tứ Tượng,
Bát quái, 64 quẻ nhưng cả thảy đều vận dụng tại chỗ căn bổn là HƯ-VÔ, chẳng hề
sanh ra bao giờ, muôn hình đều không, duy có một chữ KHÔNG mà thôi.
Trong một Khí Hư-vô thì
làm sao kiết hung gia cho mình, hối lẫn gần bên mình được? Cách sanh quẻ và sắp
quẻ của Phục-Hi rất hay. Ngày nay:
“Chí-Tôn đến đặng hiệp con
cái lại một nhà của Ngài, trong Thánh-ngôn Ngài còn quả-quyết đó. Ngài đến tạo
ra Tân-Thế-giới làm cho nhơn-loại Đại-Đồng. Nếu sự tìm-tàng sắp xếp không đặng
kết liễu thì Chí-Tôn sẽ thất hứa với con cái của Ngài mà chớ! Nhưng quả quyết rằng
Ngài không bao giờ thất hứa, vì đã được 99 điều rồi Ngài đã thật hành vẹn hứa,
không lẽ còn một điều nữa Ngài làm không đặng” (TĐ HP)
Kỹ-niệm lần Sinh-nhựt thứ 66
vào ngày 3 tháng 5 năm Mậu-Tý (Dl 6-6-2008)
(Hoàn thành quyển II)
Sáu mươi sáu tuổi ngự lưng voi
Nặng nợ non sông quyết trổ mòi.
Quảy gánh ĐỒ THƠ bình giặc loạn,
Phổ
truyền DỊCH-LÝ rít hơi còi
Huơi gươm Thần huệ hoà sanh
chúng,
Mài bút Thi văn cũng múa roi.
Cảm nghĩa đồng bào, đồng Đạo khắp…
Ngưỡng ân Thượng Đế tặng vàng thoi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét